Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

THÀNH HÓA THẬP TỨ NIÊN- CHƯƠNG 85

Sau khi được người kể chuyện thêm mắm dặm muối, truyền kỳ phá án trong án của vị ngự sử nhà Đường nhanh chóng trở nên nổi tiếng, chẳng mấy chốc đã lan truyền khắp nơi. Dẫu thời nay đường sá còn chưa tiện lợi, nhưng dân gian lại mê mẩn mấy chuyện ly kỳ như vậy, chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, thậm chí vùng Giang Nam xa xôi cũng nghe phong phanh đôi phần, nghe đâu còn được soạn thành khúc nhạc để ca hát ở lầu xanh tửu quán.

Từ khi Đường Phạm vào phủ Thuận Thiên làm quan, xử qua không biết bao nhiêu vụ án, có vụ phức tạp như vụ án phủ Võ An hầu, nguy hiểm như vụ cổ quan Lạc Hà, nhưng chẳng mấy ai hay biết. Phải đến khi vụ án ở huyện Hương Hà được phanh phui, danh tiếng “phá án như thần” của y mới thực sự vang dội khắp thiên hạ.

Suy cho cùng là vì những vụ án trước đây cách đời thường quá xa, có ly kỳ rùng rợn đến đâu thì người ta cũng chỉ nghe cho vui tai. Như chuyện hai con thú trấn mộ mà Đường Phạm và đồng bọn gặp trong mộ Công hầu, hiếm thấy ở đời, kể ra cũng chẳng ai tin là thật, lại nghĩ là chuyện bịa để lòe người, nên không ai mặn mà.

Nhưng vụ án ở huyện Hương Hà thì lại khác hẳn. Án tình tuy kịch tính, song lại gần gũi với đời sống, người nghe không chỉ xuýt xoa thán phục mà còn dễ đồng cảm. Ai cũng thương xót cho cảnh ngộ của Hồ lão gia, tiếc cho số phận của Hồ thị.

Nhờ vậy mà những người cùng tham gia phá án như huyện lệnh Ung, Tùy Châu… cũng được thơm lây, danh tiếng nổi như cồn.

Chuyện truyền miệng đến mức Đường Phạm bị đồn là “Bao Công tái thế”, còn Tùy Châu thì bị gọi là “Trương Long”, “Triệu Hổ” bên cạnh Bao Công – khiến người trong cuộc nghe mà dở khóc dở cười.

Nhưng đó là chuyện sau này.
Như Đường Phạm từng nói với huyện lệnh Ung, với dân thường mà nói, thiện ác thị phi vốn đơn giản. Dù Hồ thị có giết người, nhưng là vì báo thù cho cha, từ lòng hiếu thảo mà ra, cũng đủ khiến người ta cảm động.

Mà dù hiện tại chưa có chứng cứ cho thấy Ngụy Sách trực tiếp hãm hại Hồ Hàn Âm, nhưng ít nhất cũng chứng minh được Hồ lão nhân bị oan uổng. Thế là đủ để thiên hạ bắt đầu tưởng tượng Ngụy Sách đóng vai phản diện trong vở kịch này thế nào.

Hắn rất có thể chính là hung thủ giết thê tử, lại còn hãm hại nghĩa phụ để chiếm đoạt gia sản nhà họ Hồ. Tuy đã hai mươi năm trôi qua, nhưng nay Hồ Hàn Âm được rửa oan, chứng tỏ thế đạo tuy chưa hẳn công bằng, nhưng công lý cuối cùng vẫn đến, tuy chậm mà chắc.

Sau khi Đường Phạm trở lại kinh thành, vụ án quả nhiên được huyện lệnh Ung và phủ doãn Thuận Thiên dâng sớ báo cáo từng cấp một, khiến triều đình cũng phải động lòng. Dân gian lại xôn xao bàn tán không dứt, ngay cả các đại thần trong triều cũng không ngồi yên.

Nhiều người tuy không dám đắc tội với Vạn An, nhưng lại rất thích hóng mấy chuyện giật gân kiểu này, lập tức có không ít ngôn quan dâng sớ: người thì bênh vực Hồ thị, chửi Ngụy Sách là loài cầm thú đội lốt người, kẻ lại như vị tri phủ Đại Danh năm xưa, cho rằng Ngụy Sách là kẻ sĩ, không thể nào giết vợ hại cha, hắn cũng là kẻ vô tội bị hại, chẳng khác gì Hồ Hàn Âm.

Sự việc ầm ĩ đến mức kinh động cả hoàng đế. Thành Hóa đế nghe kể cũng mê tít vụ án này. Vì Đường Phạm là người trực tiếp điều tra, ngài liền triệu y vào cung hỏi chuyện.

Đường Phạm không quên lời hứa với huyện lệnh Ung, lập tức dâng lời khen ngợi, rồi kể rành rọt từ đầu chí cuối. Với tài ăn nói của y, chuyện tầm thường cũng kể thành ly kỳ, huống hồ vụ này lại đầy biến hóa bất ngờ, y kể đến đâu là hấp dẫn đến đó.

Hoàng đế nghe mê mẩn như trẻ con nghe kể chuyện đêm khuya, có lẽ còn chăm chú hơn cả lúc xem tấu chương, đến cuối mới thở phào, đập bàn cái bốp: “Tên Ngụy Sách kia chắc chắn là hung thủ giết vợ! Nếu không, sao nhà họ Hồ vừa tan nát, hắn liền giàu sụ, lại còn bỏ đường khoa cử để chuyển sang buôn bán? Rõ ràng là muốn che giấu nguồn gốc tài sản bất minh!”

Đường Phạm thưa: “Bệ hạ anh minh, thần cũng có cùng suy đoán. Nhưng chỉ bằng suy đoán này, vẫn chưa thể kết tội hắn. Năm tháng đã lâu, xác Trương thị sớm đã mục rữa, dù có thần thám cỡ nào cũng không tìm ra chứng cứ, mà Hồ lão gia cũng chết rồi, trừ phi chính Ngụy Sách thú nhận, bằng không chẳng ai dám bảo hắn là hung thủ.”

Thành Hóa đế bức xúc: “Thế chẳng phải để gian thần nhởn nhơ, người tốt lại uổng mạng sao!”

Ngài từng làm không ít chuyện hồ đồ, nhưng nghe vụ này thì cũng thấy bất bình thay người ta.

Đường Phạm dở khóc dở cười, liếc mắt nhìn Tùy Châu.

Tùy Châu hiểu ý, liền nói: “Bệ hạ, năm xưa Hồ Hàn Âm bị oan chính vì tri phủ Đại Danh xét án hồ đồ, không có chứng cứ mà đã tùy tiện kết tội. Nay người đời lấy đó làm bài học, càng phải cẩn trọng sáng suốt, để dân tâm phục khẩu phục, không thể vì phẫn nộ mà làm như vị quan hồ đồ kia, kết tội Ngụy Sách khi chưa rõ trắng đen.”

Đường Phạm tiếp lời: “Hiện tại dư luận xôn xao, ai cũng vì Hồ thị mà bất bình, giục huyện lệnh Hương Hà mau xử Ngụy Sách. Nhưng huyện lệnh Ung vẫn vững vàng giữ nguyên tắc, quả là hiếm thấy.”

Thành Hóa đế bật cười: “Trẫm mới than thở đôi câu, các ngươi đã giảng đạo lý một tràng dài, Đường Phạm, ngày nào cũng phải ở cạnh Quảng Xuyên mặt lạnh vô vị, ngươi không bị hắn làm cho buồn chết à?”

Đường Phạm nghe ra ý thân mật của y với Tùy Châu, cũng cười theo: “Quảng Xuyên ngoài lạnh trong nóng, bản lĩnh cao cường, thần được cùng huynh ấy làm việc, mỗi ngày đều có bất ngờ, sao mà buồn chán cho được?”

Thành Hóa đế gật đầu hài lòng: “Trong đám thân thích của trẫm, chỉ có Quảng Xuyên là giỏi giang, khiến trẫm nở mày nở mặt! Nói chứ, ngươi giỏi phá án như vậy, trẫm lại điều ngươi sang Đô sát viện chứ không để ngươi về Hình bộ tiếp tục phá án, ngươi có thấy bất mãn không?”

Đường Phạm thưa: “Thần được thăng chức đều nhờ ơn bệ hạ, cảm kích còn chưa hết, nào dám bất mãn? Huống hồ thần lần trước cũng có sai sót, bệ hạ xử trí thế nào, thần tâm phục khẩu phục.”

Thành Hóa đế vốn không muốn thấy kẻ mà Hoài Ân và Tùy Châu đều ra mặt bảo vệ lại là kẻ vong ân bội nghĩa, nghe vậy liền càng hài lòng: “Đô sát viện tuy không giống Hình bộ, không trực tiếp trông coi ngục lớn thiên hạ, nhưng việc giám sát trăm quan, biện minh oan khuất, cũng là trách nhiệm của ngươi. Hãy làm như khi ở vụ án Hương Hà, đừng phân biệt thiện ác lẫn lộn, phải cẩn thận tỉ mỉ, sáng suốt công minh!”

Đường Phạm đáp: “Thần ghi nhớ lời dạy của bệ hạ, xin tận trung tận lực, hết lòng vì nước!”

Thực ra, sau khi Đường Phạm được thăng làm Tả Thiêm Đô Ngự Sử, đã có người lập tức dâng sớ hặc tội, nói y từng phạm lỗi, không xứng đảm đương chức vụ, ý là chức ngự sử quyền hành lớn, vậy mà bản thân Đường Phạm còn từng làm sai, thì lấy tư cách gì làm gương cho quan viên khắp triều?

Bất luận kẻ dâng sớ vì lý do gì, điểm này cho thấy có người không muốn thấy Đường Phạm trở lại quan trường. Nhưng ngay sau đó, vụ án huyện Hương Hà vang đến tận kinh thành, màn minh oan cho Hồ Hàn Âm của Đường Phạm thực sự quá xuất sắc, khiến đám người kia muốn cãi cũng cãi không lại, đành ngậm miệng làm thinh. Đồng thời cũng giúp hoàng đế Thành Hóa, người đã đích thân đề bạt y nở mày nở mặt.

Hiện tại, bệ hạ đã có cảm tình thì “thương ai thương cả đường đi lối về”, với Đường Phạm cũng không có điều gì bất mãn nữa.

Vụ án từng khiến triều đình chấn động ấy, kỳ thực vẫn chưa hoàn toàn khép lại.
Dù hoàng đế đích thân hỏi đến, nhưng tri phủ Đại Danh năm xưa đã qua đời, chuyện Ngụy Sách giết vợ, vu hãm nghĩa phụ cũng chẳng có chứng cứ rõ ràng, còn Hồ thị giết tiểu nhi nhà họ Ngụy thì lại chẳng thể tính là báo thù cho cha, trái lại còn có phần giết nhầm người vô tội. Chỉ vì hoàng đế thương cảm nàng hiếu nghĩa nên miễn tội chết, xử lưu đày ba ngàn dặm, cho phép người nhà đi theo chăm sóc.

Nhưng Hồ thị thấy cha mình đã được minh oan, tâm tình cũng đã trọn. Phu quân bà sớm đã qua đời, hài tử nay đã thành gia lập nghiệp, bà chẳng còn vướng bận trần thế, thế là tuyệt thực bảy ngày mà qua đời.

Về phần Ngụy Sách, tuy không bị định tội, nhưng trong mắt thiên hạ, hắn sớm đã là tên tội đồ giết vợ đoạt sản. Nhà họ Ngụy ở huyện Hương Hà đi đâu cũng bị người ta nhìn bằng nửa con mắt, ngay cả Ngụy thị, nhi nữ hắn, cũng chịu không nổi, quay về nhà mẹ đẻ làm um một trận, ép cha nói ra sự thật.

Không bao lâu sau, quan Ti học Bắc Trực Lệ đến huyện Hương Hà tuần tra, lấy cớ Ngụy Sách hành thương, làm nhục nho phong, liền tước bỏ danh vị tú tài, hạ lệnh cho hắn đóng cửa hối lỗi.

Huyện lệnh Ung cũng nhiều lần đích thân đến thăm dò, nhưng ngoài vụ án năm xưa, không tìm ra chứng cứ nào để kết tội thêm. Người như Ngụy Sách, thâm trầm kín kẽ, tâm tư sâu như biển, quả thật khiến người ta không khỏi thán phục. Huyện lệnh Ung chỉ đành trông mong vào “lòng trời cảm hóa”, mong hắn sẽ tự giác thú tội.

Nhưng Ngụy Sách đương nhiên chẳng dại mà khai, không có chứng cứ, đến hoàng đế cũng không thể tùy tiện bắt người, hắn càng không đời nào tự chui đầu vào rọ. Có điều, từ sau cái đêm bị đồn “gặp ma”, hắn ốm liệt giường, bệnh tình ngày một nặng, thân thể dần suy kiệt.

Ngoài miệng người thì đồn rằng hắn làm điều trái lương tâm, bị quả báo; cũng có kẻ nói oan hồn Hồ thị không tan, hóa thành lệ quỷ về đòi mạng.
Nói tóm lại, đến mùa thu đông năm ấy, Ngụy Sách thật sự “ngủm củ tỏi”.

Nghe đồn, trước khi tắt thở, hắn liên tục hướng về góc giường không người mà hét to: “Đừng lại đây! Đừng lại đây…!”

Còn chân tướng là gì, cũng không còn quan trọng nữa, với Đường Phạm, tất cả đã là chuyện bên lề.

Sau khi trở về kinh thành, y bắt đầu bận rộn sắp xếp chỗ ở cho tỷ tỷ và tiểu điệt nhi.

Tùy Châu đã giúp mua một căn nhà hai dãy, tuy không sánh bằng phủ Tùy gia, nhưng cũng là nhà cao cửa rộng. Qua cổng là sân trước có hai dãy phòng cho người hầu, sân trồng không ít cây cảnh, không hề sơ sài. Qua cửa thứ hai là nội viện, giữa là sảnh chính, hai bên có thư phòng và phòng ngủ, sân trong đặt bồn cảnh, sạch sẽ mà thanh nhã.

Đường Phạm nghe theo lời Tùy Châu, vẫn tiếp tục sống cùng hắn, còn tỷ tỷ Đường Du cùng tiểu hài tử và A Đông thì dọn vào căn nhà mới, Đường Du từ khi gặp A Đông, cảm thương thân thế nàng, lại quý cái tính hoạt bát đáng yêu, tỷ muội hai người cực kỳ tâm đầu ý hợp.

Chỉ khổ cho Hạ Trừng nhỏ hơn A Đông ba tuổi, nhưng lại phải gọi nàng là tiểu y (dì nhỏ), lúc đầu méo mặt không quen.

Đường Du dùng số tiền nhà họ Hạ gửi, mở một tiệm bán son phấn ở kinh thành. Từ nhỏ nàng đã thích mày mò các loại hương phấn, từng tự chế theo phương thuốc trong sách cổ. Sau khi lấy chồng thì gác lại, nay sống lại đam mê, cuộc sống ngập tràn sức sống.

Vì là nữ nhi, không tiện trực tiếp ra mặt bàn chuyện làm ăn, Đường Phạm liền cho Tiền Tam nhi làm quản sự trong tiệm. Gã tuy vô học vô hành, nhưng từ nhỏ theo sư phụ lăn lộn giang hồ, giỏi giao tiếp, miệng mồm lanh lợi, bán hàng không thua ai. Tiệm son phấn giao vào tay gã, đúng là hợp vai.

Mỗi tội son phấn là đồ nữ nhân, nên cũng có khi tiểu thư nhà quan quyền đích thân đến thử chọn, khi đó Đường Du mới ra mặt. Nàng vốn xuất thân khuê các, mang khí chất tiểu thư Giang Nam, cử chỉ tao nhã, rất khác các bà chủ tiệm bình thường.

Chưa nói đến tài nghệ, chỉ riêng nhan sắc và phong thái thanh lịch của nàng, cũng đủ làm “biển hiệu sống”, nên tuy tiệm chưa kịp sinh lời, nhưng vận hành tốt thì sớm muộn gì cũng “ra biển lớn”.

Mấy tháng sau, Đường Phạm nhận được tin từ nhà họ Hạ. Nghe nói sau khi Đường Du và hài tử rời đi, Hạ Lâm cũng chán nản một thời gian, nhưng rồi chẳng biết trúng tà gì, lại đột nhiên đoạn tuyệt với bằng hữu cũ, ngày đêm ôm sách đọc, có vẻ như muốn cải tà quy chính.

Đường Phạm kể lại chuyện này với Đường Du, nhưng nàng chỉ lắc đầu cười nhạt: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Nếu người hối cải dễ vậy, đời đã chẳng lắm bi kịch.”

Nói thì nói vậy, nhưng từ ngày rời khỏi nhà họ Hạ, dọn lên kinh thành, tỷ tỷ y bận bịu tối ngày mà gương mặt lại nhiều thêm nét tươi vui. Thấy nàng buông được quá khứ, sống thoải mái, Đường Phạm cũng mừng thay, chẳng nhắc đến Hạ Lâm thêm nữa.

Còn ở Đô sát viện, tình hình lại khác hẳn với lúc Đường Phạm mới tới Hình bộ.

Giờ đây, tuy là người mới, nhưng Đường Phạm cũng coi như là “nửa bậc quan to”, chức Tả Thiêm Đô Ngự Sử cũng có oai phong, dưới tay còn kha khá quan viên cấp thấp hơn.

Kẻ thấp hơn thì không dám ức hiếp, người cao hơn thì cũng chẳng rỗi hơi gây chuyện.

Hơn nữa, Đường Phạm không phải loại người ngây ngô không hiểu chuyện, năm xưa bị ghét ở Hình bộ là vì chiếm mất ghế của người ta, còn chức Tả Thiêm này thì chẳng đụng chạm ai, không ai bảo y “cướp chỗ”.

Điều quan trọng hơn nữa là, cả Đô sát viện hiện tại, chức cao hơn y cũng chỉ có mỗi Tả Đô Ngự Sử Thường Trí Viễn, và Hữu Phó Đô Ngự Sử Lữ Thiệu Quân, hai chức Hữu Đô và Tả Phó thì còn bỏ trống.

Quan ít việc nhiều, bọn họ còn cầu có thêm người chia sẻ công việc, lấy đâu ra thì giờ mà tranh đấu dìm nhau?

Cho nên trong viện, trên dưới hòa khí vui vẻ, ai cũng khách sáo nhã nhặn, Đường Phạm dần lấy lại “nhân duyên” như hồi còn ở Thuận Thiên phủ, người ngoài nhìn vào còn tưởng vào nhầm cửa, tưởng đây là Lễ bộ ấm cúng, chứ nào phải Đô sát viện nổi tiếng “ai cũng dám hặc”?

Tuy nhiên, trong cái “đầm rồng ao hổ” yên ả này, vẫn tồn tại một luồng gió kỳ lạ.

Gần đây trong viện rộ lên một trào lưu rất quái đản, đó là cả đám ngự sử đồng loạt lấy “đánh đổ Tam Phụ đại nhân Lưu Cát” làm mục tiêu cao nhất của sự nghiệp.

Đúng, y không nghe nhầm- Lưu Cát, vị đại thần danh tiếng lẫy lừng, học vấn uyên thâm, ba lần đỗ trạng nguyên, hiện tại đang giữ chức Tả Thị Lang Hình Bộ, phò tá bên cạnh hoàng thượng, được khen là trung thần trụ cột của triều đình, lại trở thành mục tiêu "săn lùng" của các ngự sử.

Lúc đầu, Đường Phạm cứ tưởng mình nghe nhầm, ai đời lại có chuyện lạ như vậy? Nhưng càng tìm hiểu kỹ, hóa ra đúng là thế thật.

Chỉ cần ai trong đám ngự sử có thể viết được một bản sớ vạch ra tội danh nào đó của Lưu Cát, cho dù chẳng đủ chứng cứ, chỉ cần câu chữ sắc bén, lý lẽ nghe lọt tai, thì y như rằng sẽ được đồng liêu khen là "có gan có đảm", "dám đánh kẻ mạnh", "ngự sử chuẩn mực"!

Vì sao lại vậy?
Rất đơn giản, Lưu Cát quá cứng, quá thẳng, cũng quá nổi tiếng. Trong triều, nhiều kẻ ghen ăn tức ở với ông ta, nhưng không ai đủ trình độ hay can đảm đối đầu trực tiếp, thế là... đẩy đám ngự sử ra làm pháo hôi.

Mà đám ngự sử này, chẳng biết là quá rảnh hay quá hăng, cứ xem việc tìm sơ hở của Lưu Cát như một dạng tu luyện, ai bắn trúng một tên thì “tiếng tăm vang xa”, ai làm ông ta cau mày thì “vinh dự ba đời”!

Đường Phạm nghe mà cười không nổi, cảm thấy tình hình này... vừa buồn cười vừa đáng lo.

Trong lòng thầm nghĩ: “Nếu cái gọi là chính đạo, chính khí, lại biến thành phong trào thi đua ‘tìm người để hặc’, thì triều đình này cũng thật lắm trò lố bịch.”

Dẫu vậy, y vẫn giữ thái độ trung dung, không hùa theo, cũng chẳng phê phán ai, chỉ âm thầm quan sát bởi Đường Phạm hiểu rất rõ, ở chốn quan trường, có những thứ, nếu không đủ sức thay đổi thì đừng dại động vào.

Lưu Cát là các lão trong nội các, học sĩ Văn Uyên Các, trong nội các xếp thứ ba, phía trước có Thủ phụ Vạn An và Thứ phụ Lưu Thự.

Vậy chẳng lẽ Lưu các lão đã làm chuyện gì tày đình, khiến người người oán hận, ai nấy đều muốn "bắn hạ" ông ta?
Chuyện này, phải nói từ chức trách của Đô sát viện mà ra.

Nói đơn giản, Đô sát viện chính là tai mắt của thiên tử, chuyên để giám sát trăm quan. Hễ thấy ai làm gì trái pháp luật, trái đạo lý, ngự sử có thể lập tức dâng sớ đàn hặc.

Thế nhưng ngự sử cũng là người, mà người thì khó tránh khỏi tư tâm, bè phái, tính toán thiệt hơn. Có người thì ngó trước nhìn sau, có người thì đánh kẻ yếu, né kẻ mạnh, giang hồ mà, ở đâu có người, ở đó có đấu đá.

Mà mấy vị các lão trong nội các hiện nay thì sao?
Thủ phụ Vạn An, ôm chặt đùi Vạn quý phi, một thời không ai lay chuyển nổi. Lại thêm tính tình thù dai nhớ lâu, ai đắc tội với ông ta thì sớm muộn cũng ăn trái đắng.

Như Đường Phạm chẳng hạn, lần trước vì liên lụy khiến Lương Thị lang bị đẩy đi Nam Kinh, chắc chắn Vạn An đã ghi sổ nợ, chờ ngày tính sổ. Ai mà dám đàn hặc hắn chứ? Chưa kịp hạ được hắn đã bị hắn hạ trước rồi.

Cho nên dần dà, quan viên trong triều đều hiểu ra, Vạn An là thứ không thể động vào, biết điều thì tránh xa, kẻ nào dại dột gây sự thì chỉ có tự rước họa vào thân.

Lưu Thự – Thứ phụ, tính tình thanh cao, không bè phái, đắc tội với không ít người, nhưng cũng khó mà động vào. Vì sao? Vì ông ta là thầy dạy của Hoàng thượng, người duy nhất trong triều mà hoàng đế kính trọng gọi là “Đông Lưu tiên sinh”, không xưng tên. Thân phận ấy đã quá đặc biệt rồi, đàn hặc mấy lần mà chẳng ai hạ được, mà ông thanh liêm, không có điểm yếu, có đánh cũng chả có gì vui, đánh không trúng, còn mang họa.

Thế là các ngự sử quay sang Lưu Cát – vị các lão xếp thứ ba, không thân Vạn An, chẳng gần Lưu Thự, lực lượng riêng thì không yếu, nhưng lại đang ở thế lửng lơ, vừa có tiếng để đánh, vừa có cơ hội để hạ, đúng là đối tượng đàn hặc lý tưởng.
Hơn nữa, Lưu Cát còn nổi danh với ngoại hiệu “Lưu Bông Gòn – trăm đàn hặc không đổ”.

Sao lại gọi thế?
Vì ông ta mặt dày hơn tường thành. Người khác bị đàn hặc, cho dù oan hay không, cũng biết điều tự xin từ chức, ít ra cũng đóng vai người quân tử, thể hiện rằng mình không tham quyền cố vị. Dù đó chỉ là luật ngầm, nhưng ai ai cũng ngầm hiểu mà tuân theo.

Còn Lưu Bông Gòn thì sao?
Người ta đàn hặc cứ việc đàn hặc, ông ta không nghe, không thấy, không đi, vẫn ngồi yên như tượng gỗ, trưng ra dáng vẻ: “Gió thổi mưa sa mặc ngươi, ta vẫn trơ trơ như núi Thái Sơn.”

Khiến kẻ đàn hặc ngứa răng không chịu được, mắng thầm: “Lão già này sao mặt dày đến thế, đúng là bông gòn đâm không thủng!”

Ngay cả Vạn An cũng không thích Lưu Cát. Nếu Lưu Cát biết điều mà nộp đơn từ chức, Vạn An đã sớm mượn gió bẻ măng, thuận tay tiễn ông ta về vườn rồi. Nhưng tiếc là Lưu Bông Gòn lại không theo luật giang hồ, mặc kệ ông ta có bao nhiêu sớ đàn hặc dồn dập, cứ mặt dày ngồi lỳ không đi, khiến Vạn An cũng bó tay.

Mà Hoàng thượng thì xưa nay không thích quản chuyện đấu đá trong triều, miễn là không ảnh hưởng đại cục. Thế là... Lưu Cát cứ thế tồn tại mãi như một “con trâu bất tử” trong nội các, mặc kệ búa rìu dư luận.

Làm ngự sử, chí hướng cả đời chính là lưu danh sử xanh, mà đối tượng công kích càng khó nhằn, nếu đánh đổ được thì càng vẻ vang, càng oanh liệt.

Thế nên trên bảng “đàn hặc” của Đô sát viện, Lưu Cát không nghi ngờ gì nữa, vững vàng ngôi đầu, mấy năm liền không ai soán nổi. Mọi người đều dốc toàn lực, quyết chí hạ cho bằng được “Lưu Bông Gòn”, dần dà tạo thành một phong trào có tên là: “Đàn Lưu như đàn bông, càng đánh càng vui, càng hụt càng hăng.”

Ai tham gia đàn hặc Lưu Cát, không những không bị cười nhạo, ngược lại còn được coi là hào kiệt giữa chốn quan trường, vinh dự đầy mình.

Thậm chí đến mức, nhà Lưu Cát có gì chuyện cỏn con, như con mèo nhà ông ta đẻ mấy lứa, hay hôm qua ông ăn mặn hơi nhiều, cũng bị mấy tay ngự sử mũi thính như chó săn lôi ra đàn hặc cho được.

Là một trong những “mũi chó” đó, Đường Phạm lại không tán thành cái trào lưu này. Nhưng cũng khó trách, y chỉ là Tả thiêm đô ngự sử, giữa chức danh còn cái chữ “thiêm” chen ngang, khác biệt ấy… như phó giám đốc với giám đốc vậy, nói ra cũng hết hơi thở rồi.

Huống hồ, dù có là đô ngự sử thật, cũng không thể ra lệnh cấm người ta đàn hặc ai, bởi đàn hặc chính là thiên chức của ngự sử, không ai được quyền can thiệp, kể cả sếp.

Đường Phạm đương nhiên không đi can thiệp việc người, cũng không rỗi hơi làm thầy đạo đức. Mà công việc ở Đô sát viện vốn cũng không nhiều như ở Hình bộ, nơi ngày nào cũng có đại án từ các tỉnh đệ trình lên. Rảnh rỗi, y liền tiếp tục việc còn dang dở trước kia, bổ khuyết những chỗ thiếu sót trong Đại Minh luật.

Đúng lúc ấy, Đô sát viện lại đón thêm một nhân vật mới, trực tiếp lấp đầy chiếc ghế trống của Hữu đô ngự sử.
Mà người đó không ai xa lạ, chính là lão tiên sinh Khâu Tuấn, sư phụ của Đường Phạm.

Khâu tiên sinh trước kia vì dâng sớ đụng chạm đến Uông Trực, khiến Hoàng thượng không vui, bị đá xuống Nam Kinh, từ đó không còn được phục chức. Đường Phạm và đồng môn Phan Bân dẫu muốn giúp, nhưng chức còn nhỏ, lời nói không trọng, cũng lực bất tòng tâm.

Dù vậy, Khâu lão tiên sinh vốn đào tạo đầy rẫy nhân tài, ở Kinh thành tuy chỉ có Đường Phạm và Phan Bân là đệ tử nhập thất, nhưng năm xưa ông làm chủ khảo khoa thi Hội năm Thành Hóa thứ mười một, các tú tài đỗ đạt năm ấy đều gọi ông là Tọa sư, không thân như đệ tử nhập thất nhưng vẫn cùng một chi một mạch, nghĩa thầy trò sâu nặng.

Lần này, người lên tiếng giúp Khâu tiên sinh chính là Hoài Ân, mà lý do cũng thú vị không kém: vì vị Trạng nguyên khoa ấy, Vương Áo, chính là một trong các thầy hiện tại của Thái tử. Trong một lần giảng học, Vương Áo tình cờ nhắc đến Khâu tiên sinh, cảm thán thầy mình thanh liêm chính trực, nhưng lại không được dung nạp nơi quan trường, khiến Thái tử động lòng, muốn giúp thầy hồi kinh.

Thái tử tất nhiên không tiện ra mặt, bèn tìm đến Hoài Ân, nhờ hắn dâng lời với Hoàng thượng. Nhờ lời Hoài Ân, Khâu lão tiên sinh mới được triệu về kinh, mà lại được bổ nhiệm trực tiếp làm Hữu đô ngự sử, trở thành thượng cấp trên đầu Đường Phạm.

Thầy trở về, Đường Phạm và Phan Bân đương nhiên mừng rỡ. Ngay hôm Khâu tiên sinh vào kinh, họ cùng với Vương Áo, Tạ Thiên và các môn sinh cũ đã đích thân ra tận mười dặm ngoài thành nghênh đón, thầy trò tương ngộ sau thời gian dài, hàn huyên đầy xúc động, lập tức mời thầy về tửu lâu rửa bụi tiếp giá.

Không giống Đường đại nhân, khi được bổ nhiệm còn ở huyện Hương Hà lề mề cả nửa tháng mới chịu lên kinh, Khâu lão tiên sinh thì trung nghĩa tận tâm, hôm trước vừa ăn mừng tới khuya, hôm sau đã đi báo danh tại Lại bộ, rồi trực tiếp đến Đô sát viện nhận chức, không chậm trễ nửa bước.

Đường Phạm tuy là người có nguyên tắc, nhưng tính tình nhìn chung linh hoạt, biết co biết duỗi, gặp chuyện không thể cưỡng lại, y sẽ chọn lùi một bước mà tiến ba bước.

Còn Khâu tiên sinh thì khác hẳn, tuổi đã cao mà vẫn giữ khí cốt hừng hực, thẳng thắn, cứng rắn như sắt, vừa đến Đô sát viện mấy hôm đã nhìn ra cái phong khí kỳ quặc ở đây: ngự sử không chịu lo việc chính, suốt ngày chỉ chăm chăm bới lông tìm vết Lưu Cát.

Trong mắt Khâu Tuấn, triều đình Đại Minh hiện nay tệ nạn trăm bề, nhiều việc gấp gáp và nghiêm trọng hơn nhiều so với chuyện đàn hặc mỗi mình Lưu Cát, ví như vấn đề hoàng trang (ruộng tư của hoàng thất), ví như Tây Xưởng (cơ quan mật vụ tàn bạo), không thì chí ít cũng còn có Vạn An, sao lại cứ chăm chăm đánh mãi một Lưu Cát, còn những chuyện khác thì coi như không tồn tại nữa?

Khâu lão tiên sinh vốn tính cách quyết đoán như gió bão, lập tức dâng tấu lên Hoàng thượng, liệt kê ba đại tệ nạn đang tồn tại trong triều, đồng thời chửi mắng cả Đô sát viện một trận, trách họ không lo việc chính, ngày ngày chỉ mưu toan tư lợi, dùng công quyền vào việc tư, làm hoen ố thanh danh mà Thái Tổ Hoàng đế đã giao phó.

Ai mà vui nổi khi bị ông mắng như vậy?
Đặc biệt là lời mắng ấy không né tránh ai, đến cả đại lão trong viện – Tả đô ngự sử Thường Trí Viễn – cũng bị điểm tên, khiến Đô sát viện một thời gà bay chó sủa, náo loạn không yên.

Nói một cách công bằng, Đường Phạm rất đồng tình với quan điểm của thầy, bởi những vấn đề mà Khâu tiên sinh nêu ra đúng là tồn tại thật sự, không thể chối cãi. Có điều, Khâu tiên sinh tính tình quá nóng, muốn một hơi nuốt trôi cả con voi, không thể tránh khỏi đắc tội khắp nơi.

Nhưng hành động ấy dù có hại cho bản thân, cũng không đồng nghĩa với sai.
Trong thời đại như hiện nay, chính là vì thiếu những người dám nói thẳng như Khâu Tuấn, mới khiến quan trường thối rữa như cá ươn lâu ngày. Đường Phạm tuy biết thời thế, hiểu tiến thoái, nhưng điều ấy không ngăn được y kính phục tận đáy lòng với thầy mình.

Đúng lúc ấy, tiểu đệ của Vạn quý phi, Vạn Thông – người vừa mới được phục chức làm Chỉ huy sứ Cẩm y vệ – nhân dịp mừng thọ năm mươi tuổi, liền mở tiệc lớn, phát thiệp khắp kinh thành, những quan viên từ ngũ phẩm trở lên đều được mời, đương nhiên bao gồm cả Khâu Tuấn, Đường Phạm và những người khác.

Tác giả có lời muốn nói:

Báo trước một chút nhé ~
Tiệc thọ sắp tới sẽ cực kỳ náo nhiệt, và sau đó sẽ bước vào vụ án tiếp theo, nơi ta sẽ “vui mừng gặp lại công công Uông đại nhân ngàn dặm xa xôi” ~

Khi viết đến đồng chí “Lưu Bông Gòn”, thật sự nhịn không được mà cười…
Ông này chẳng phải người tốt gì, nhưng lại có nét… rất buồn cười.

Cái biệt danh “Lưu Bông Gòn” cũng là thật đấy, vì mặt ông ta đúng là… dày như chăn bông mùa đông, haha →_→

Tiểu kịch trường:

Đường Du: Mao Mao, tỷ tính mở một cái tiệm, em thấy nên buôn bán cái gì thì tốt?

Đường Phạm: Bánh bao? Há cảo? Chả cuốn? Hoành thánh? À đúng rồi, hoành thánh ở tiệm đầu thành phía Bắc ăn ngon cực!

Đường Du: … (im lặng nhìn tiểu đệ)

Tùy Châu: Nếu tỷ tỷ mở tiệm bán đồ ăn thật, thì sau này đệ đây lấy gì để thể hiện sự quan trọng của mình đây?

Đường Du: Ừm, thôi được rồi, vì hạnh phúc trăm năm của đệ đệ, vậy ta vẫn nên bán phấn son và mỹ phẩm thì hơn…

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com