CHƯƠNG 3
Bóng lưng đó, bờ vai đó, mái tóc húi cua đó, chắc chắn Hoàng là người biết rõ nhất. Chính là Thương, anh chàng mang áo số 9 trên lưng mà cậu vô tình gặp ngày hôm qua.
Trên người anh là chiếc ba lỗ trắng, ôm trọn từng phần da thịt, để lộ ra đôi bắp tay cuồn cuộn cơ màu bánh mật ôm chặt lấy chân trái. Hắn tì thái dương vào đầu gối, mắt nhìn xa xăm phía chân trời như đang chờ đợi ai đó. Chợt Hoàng thấy trong đôi mắt ấy lại từ từ lấp lánh hơn, từng chút từng chút. Rồi thứ lấp lánh đó cứ như những viên ngọc trai, lăn nhẹ từ khoé mắt trượt dài xuống cằm, rơi lã tả trên chiếc quần jean bạc màu.
Hoàng nghĩ bụng anh ta đang thất tình, hoặc là bị cô gái nào đó cắm cho cặp sừng, hoặc là bị đối phương từ chối tình cảm. Khó mà nghĩ ra được lý do nào khác để một cậu thanh niên trai tráng, to như con gấu lại khóc như vậy. Trong vô thức mà bật cười lên thành tiếng, cũng may là anh không nghe thấy, viễn cảnh bị ăn đập diễn ra ngay trước mắt cậu, tim như muốn nhào ra ngoài.
Thương quay hẳn mặt vào đầu gối, gục đầu xuống, siết càng chặt đôi tay, càng nấc lên từng cơn nghẹn ngào như muốn tuông trào uất ức bị dồn nén bấy lâu. Đôi vai cứ rung lên từng cơn, trông như đứa trẻ bị lấy mất đồ chơi, tủi thân mà oà khóc.
Hoà trong tiếng sóng biển đang ồ ạt ngoài kia là tiếng thút thít yếu ớt của cậu trai trẻ. Không gào thét, không trách cứ, chỉ có tiếng thanh quản đang cố kiềm lại cảm xúc, thỉnh thoảng phát ra thứ âm thanh be bé như tiếng kêu của chó con bị trách mắng.
Hoàng có chút không đành lòng, định tiến đến an ủi nhưng nhận ra bản thân và đối phương chẳng quen biết gì. Đến cả tên họ của nhau còn không có tí thông tin, phần vì cũng sợ động đến lòng tự trọng của một người đàn ông. Cậu chỉ lặng lẽ quan sát từng hành động, cử chỉ của anh, quên cả việc hai đứa bạn mình đang đuổi bắt nhau, hú hét dưới bờ cắt.
Đôi lúc đưa máy lên chụp khoảng trời rộng lớn, chốc lát cậu lại quay sang nhìn anh, không biết cậu nhìn vì tò mò hay vì cơ thể đẹp như tạc tượng đó. Khi những ánh dương cuối cùng đã lặng xuống biển nghỉ ngơi, bỏ lại không gian xung quanh một màu xanh lạnh buốt, bóng tối dần bao trùm lên mọi thứ. Khi đó Thương mới ngẩn mặt dậy, nước mắt nước mũi thi nhau đổ, tèm lem khắp mặt, Hoàng lấy hết can đảm, bước thật chậm lại gần anh.
Cậu dúi vào tay anh vài tờ khăn giấy, lắp ba lắp bắp khó khăn lắm mới thành câu:
- "A...anh cầm lấy đ...đi, e...m nghĩ anh s...sẽ cần".
Dứt câu Hoàng quay người chạy đi sau khi nghe Bội Châu giục về nhà, anh chỉ kịp thấy bóng lưng gầy guộc, lon ton xa dần.
Đến mặt của nhau con chưa được nhìn thấy, chỉ có câu nói bằng cái giọng run run của Hoàng là còn đọng lại trong tâm trí Thương, anh cũng muốn nói câu cảm ơn nhưng cậu đã khuất bóng từ lúc nào rồi.
Ngồi giữa biển trời mênh mông đó, chỉ có biển, gió và anh. Anh bầu bạn với từng cơn sóng dạt vào bờ, với gió rít bên tai và lũ tôm cá dưới dòng nước kia. Có những chuyện anh không thể tâm sự với người khác, giấu thật kín trong đáy lòng, đến cuối cùng cũng chỉ biết tỏ bày bằng nước mắt.
Trăng cũng đang lên, Thương vội vã về nhà trên con xe đạp gỉ sét lốm đốm, lồng xe còn bị móp méo đến biến dạng, yên xe bị tróc da vài chỗ. Đường về nhà anh không có đèn, phải dựa hoàn toàn vào trực giác và ánh sáng mờ mờ từ chiếc đèn pin cũ kĩ kẹp chặt trên tay lái. Con đường đất hẹp độ cở nửa thước, vừa khó đi lại ít nhà dân, hai bên toàn là cây cỏ um tùm, lác đác được vài căn nhà đếm trên đầu ngón tay.
Vừa đi Thương vừa lẩm nhẩm mấy câu hát ru mà hồi bé được nghe để đỡ phần nào cảm giác trống trải. Chốc đó đã về đến nhà. Gọi cho sang miệng thì là nhà, còn thô ra mà nói là một cái chồi bằng lá dừa nước. Trước sân có một con chó mực bị xích bằng sợi sắt xích vào cột nhà. Thấy Thương nó mừng lắm, ăng ẳng mấy tiếng như chào hỏi rồi ngửa bụng ra chờ được vuốt ve. Anh cũng đáp lại bằng vài cái gãi bụng, vỗ đầu.
Vừa ngay vào cửa là cái ván gỗ to tướng được giăng tấm màn trắng chỗ lành chỗ thủng, nằm trong đó là bà cụ tóc đã bạc trắng, đang lăn lộn vì cơn đau nhức ở lưng và đầu gối. Cạnh bên bà là ông cụ với cái trán láng o vì hói, phía sau đầu cũng trắng tinh. Cụ đeo kính lão, ngồi cạnh bên vợ, đặt chân bà lên đùi mình, kiên nhẫn xoa bóp từng chỗ bà than đau. Trên mặt cả hai đều lấm tấm đồi mồi, nếp nhăn không thể đếm hết. Trán, đuôi mắt, rãnh cười, tay chân,... đâu đâu cũng là dấu vết của thời gian.
Đó là ông bà nội của Thương - hai người thân máu mủ còn lại của anh. Phía sau tấm ván là cái ban thờ nhỏ nhỏ, trên đó là hai tấm ảnh thờ, một nam một nữ. Anh thắp nhang lên lư hương, nhẩm đi nhẩm lại câu nói như một thói quen được lặp đi lặp lại hàng trăm vạn lần:
- "Nam mô a di đà phật, cha mẹ về phù hộ cho con với ông bà dồi dào sức khoẻ"
Họ là cha mẹ anh, vốn gia đình nhỏ của anh có năm người nhưng vì biến cố mà cướp đi cả hai khỏi đời anh. Cha anh là dân lao động, thường đánh cá theo thời vụ, khi nào thiếu người thì họ gọi cha anh, mỗi lượt đi biển hàng tháng trời đó là số tiền lương rất hậu hĩnh, đủ để cho cả nhà vài tháng no bụng. Với cơ thể cường tráng đó, ông thường nhận việc bốc vác ngoài cảng, việc nhọc mà tiền cũng chẳng cao, nhưng vì gia đình ông lại nổ lực gấp đôi người khác để nhà có miếng ăn. Lấy được vợ, ông thương yêu hết mực, sợ bà buồn nên ngày nào đi làm về cũng mua vài món quà nho nhỏ cho vợ. Hôm nào được ít thì cái cặp tóc, cái lược, cái gương. Được nhiều thì bồi bổ bằng con gà nướng, con cá lóc trui,...
Ông thật sự là một người cha vĩ đại, có thể nuôi dạy tốt cho con mình nhưng biển cả lại lấy đi sinh mạng đầy ý chí đó. Thương chỉ nghe người lớn kể lại rằng con tàu ông đi gặp sóng dữ, lại còn bị mất phương hướng nên không qua khỏi, cũng may là tìm được xác ông. Khi đó Thương chỉ mới 1 tuổi, còn đang tập gọi hai tiếng "cha mẹ". Tròn một năm sau, vì căn bệnh trầm cảm và quá thương nhớ chồng, mẹ anh đã ru anh ngủ thật sâu, chờ cơ hội lẻn ra khỏi nhà và trầm mình xuống dòng nước lạnh lẽo kia. Rạng sáng hôm sau mới có người phát hiện rồi hô hào cho láng giềng.
Cứ như vậy, anh lớn lên trong tình yêu thương của ông bà nội, vì cha anh là con một, dòng họ bên mẹ lại trọng nam khinh nữ, tư tưởng con gái là bát nước đổ đi, đã gả đi là cắt đứt quan hệ với bọn họ.
Quần áo anh mặc là hàng xóm cho, giày anh đi cũng là mua cũ của người ta, chiếc xe cà tàn dựng trước sân là của hồi môn của mẹ, không biết đã phải sửa đi sửa lại bao nhiêu lần rồi. Sau giờ học cứ có thời gian là anh lại đi làm thêm khắp nơi, từ bốc vác trong xưởng gạo, tưới vườn dưa hấu, bưng phở, rửa chén thuê, miễn được trả tiền anh đều chẳng ngại khó.
Anh đã sống như vậy suốt 17 năm cuộc đời, hôm nay là ngày đầu tiên anh không đi làm. Biết bao nỗi tủi thân bị khoá chặt trong lòng, bất chợt nay lại tuông trào như ngọn núi lửa. Cũng sắp đến ngày giỗ của cha mẹ, gương mặt họ trong kí ức của anh dần mờ đi theo từng năm, chỉ vỏn vẹn hai tấm ảnh thờ là rõ ràng nhất.
Hai ông bà cụ thấy tâm trạng đứa cháu hôm nay có vẻ khác thường, cũng phần nào đoán được lý do, chỉ nhắc nhở nhẹ cậu ăn cơm cho no rồi đi ngủ. Dưới bếp là 2 quả trứng luộc với đĩa rau muống xào mà hai ông bà chừa phần, anh biết họ ăn rất ít, lúc nào cũng để phần anh nhiều nhất, sợ anh không đủ sức ăn học. Anh nhanh chóng lùa từng đũa lớn, tắm rửa sạch sẽ, lên xoa bóp, đấm lưng cho ông bà nội. Tuy gia đình không đủ thành viên nhưng anh vẫn cảm nhận cha mẹ luôn luôn bên cạnh mình.
Về phía Hoàng, về đến nhà cậu chỉ kịp ăn rồi chạy ào lên phòng, đánh một giấc thật đã đời vì dù sao cả ngày đạp xe cũng tiêu tốn quá nhiều năng lượng. Nằm mơ màng nhớ lại cảnh đưa khăn giấy lúc chiều, không út thì nhiều cậu cũng thấy kì lạ với hình ảnh đó, một thanh niên lực lưỡng lại thút thít ngồi khóc như đứa con nít. Cậu cũng tự thấy bản thân lúc đó hành động thật không giống bình thường, nhưng chắc vì có ấn tượng với "anh chàng số 9" đó nên thấy cũng có chút "may mắn". Sau đó là chìm vào giấc ngủ sâu thật sâu.
-CÒN TIẾP-
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com