CHƯƠNG BỐN
Các điền chủ vùng Bãi thụt Khổng Lồ hẳn không ưa đi dự những vũ hội lớn. Tôi nghĩ như vậy bởi vì lễ thành niên của người thừa tự duy nhất một gia sản dòng họ lớn đâu có phải là việc xảy ra luôn luôn ở cái xó hoe hút này, vậy mà hai ngày sau chỉ có không được bốn chục người tụ hội ở trang ấp Rừng Tùng Đầm Lầy. Tôi cũng được mời tới dự, tuy nhiên tôi nhận lời một cách miễn cưỡng: tôi vốn dĩ không ưa giới sliăcta tỉnh lẻ, vả lại phần công việc của tôi, mấy ngày vừa qua hầu như chẳng làm được gì. Không ghi chép được gì mới và điều chủ yếu là chẳng nhích lên được bước nào trong việc khám phá những bí ẩn của cái hang ổ ma quỷ này. Trên sơ đồ thiết kế từ thế kỷ XVII không hề có một lỗ nghe nào, vậy mà tiếng chân bước và tiếng rên rỉ đêm nào cũng vang lên, đều đặn đến phát ghen lên được.
Tôi điên đầu suy nghĩ về những trò ma quỷ đó nhưng không nghĩ ra được biện pháp gì.
Vậy là, có thể lần đầu tiên trong hai chục năm nay, tòa lâu đài mới đón tiếp khách khứa. Người ta đốt những đèn đĩa lớn trên cổng vào, cởi bỏ bao bọc đèn chùm, người gác cổng ăn vận lễ phục đón khách, thêm ba nữ hầu bàn nữa được tuyển từ các trại quanh vùng. Tòa lâu đài trông giống như một bà già bôi son trát phấn chuẩn bị đi dự vũ hội một lần dối già, ôn lại những kỷ niệm thời xuân sắc để rồi bước xuống mồ.
Không biết có nên tả lại cuộc hội ngộ ấy của giới sliăcta hay không nhỉ? Ôi lạy chúa tôi, những cỗ xe mới thảm hại làm sao! Cũ kỹ, da bọc đã nhăm nhúm, sờn tróc, không lò xo, bánh cao đến hai mét. Những cỗ xe nào cần thiết cũng có người hầu đứng bám sau thùng xe, tay chân đen thui đất cát. Nhưng con ngựa mới thiểu não làm sao. Ngựa Rôtxinăng mà đứng cạnh thì ta phải tưởng Rôtxinănglà tuấn mã Butxêphan: còm nhom, môi dưới trễ xuống, răng như cóc gặm. Cương đai hầu như toàn bằng dây thừng, ấy thế nhưng đôi chỗ lại lấp lánh những khóa mạ vàng, hẳn là được lắp sang dây từ những bộ yên cương của “thời buổi hoàng kim”.
“Bớ bà con đồng bào! Thiên hạ đảo điên rồi hay sao thế này? Xưa một pan đi xe sáu ngựa, mà nay những sáu pan cưỡi một ngựa kia!”. Toàn bộ quá trình phá sản của tầng lớp sliăcta bó gọn trong một câu châm biếm ấy của dân chúng.
Becman – Gatxêvich đứng sau lưng tôi và luôn luôn bình phẩm chua cay về quan khách đang lục tục tề tựu.
- Xin ngài chiêm ngưỡng con lừa kia. Chắc hẳn nó từng được một quốc vương triềuXắc ngự giá: quả là một tuấn mã công huân...Còn bà mệnh phụ kia nữa, ngài có thấy bà ta ăn mặc sang trọng không kia: cứ như đi dự lễ thánh Antôniô ấy...A...xin ngài lưu ý cho đám Zigan kia.
Anh ta gọi là Zigan một đám người quả thật kỳ lạ. Một chiếc xe bò bình thường lọc cọc tiến đến cổng trên xe lố nhố một đám người kỳ lạ nhất mà tôi được chiêm ngưỡng từ trước đến nay. Có cả tôn ông lẫn quý bà khoảng chín mười người ăn mặc sặc sỡ nhưng nghèo nàn. Họ ngồi chen chúc trên xe như một đám Zigan. Cả đến cái mùng cũng giăng trên bốn cọc y hệt dân Zigan chỉ thiếu có con chó chạy quẩn dưới gầm xe. Đám người đó là dòng họ Grukêvisep đã sa sút, lang thang từ vũ hộ này đến vũ hội khác ăn chực nằm chờ. Nhà Grukêvisep có họ xa với Janôpxki. Và là hậu thế của “lãnh chúa đỏ rực” cơ đấy! Lạy chúa tôi, người trừng phạt ghê gớm quá chừng!!!
Khách đến tiếp theo là một mệnh phụ đứng tuổi vận một chiếc áo váy vải láng sang trọng kiểu cổ xưa, đã hơi sờn, tùy tùng bà ta là một chàng thanh niên gày như que củi, có bộ mặt xu nịnh. Que củi âu yếm đỡ khuỷu tay mệnh phụ.
Bà ta sức thứ nước hoa rẻ tiền mùi hắc đến nỗi bà ta vừa mới bước vào phòng, Becman liền bắt đầu hắt hơi...các quan khách khác cũng khá ly thú. Những bộ mặt nhàu nát hoặc quá nhẵn nhụi những cặp mắt hau háu, những cặp mắt mệt mỏi, những cặp mắt van lơn, những cặp mắt “dài dại”. Một trang công tử có cặp mắt lồi thô lố của con kỳ nhông sống tận đáy đầm lầy.
Tôi đứng khuất sau cửa quan sát phần nghi thức đón tiếp ấy. Tiếng nói không vọng đến chỗ tôi đứng bởi vì một dàn nhạc gồm tám vị phế binh công huân trong chiến trận Pôntava (*) đã đang thổi kèn đồng ồm ồm. Tôi thấy những bộ mặt bóng nhẫy đang nở những nụ cười phong nhã, thấy những cặp môi dướn tới hôn bàn tay nữ chủ chìa ra. Khi họ cúi xuống hôn, ánh sáng rọi từ trên xuống nên mũi họ trông dài đến kỳ lạ, miệng lại sâu hoắm.
(*)Trận Pôntava xảy ra năm 1709, quân Nga do Piôt Đạ đế thân chinh đốc chiến, đánh bại cả quân của quốc vương Thụy Điển (N.D).
Họ cúi chào, nói năng, tát cả đều không một âm thanh, sau đó, môi nở một nụ cười, họ nhẹ nhàng lướt sang bên người chỗ cho đợt khách mới lướt tới. Tất cả diễn ra như trong một cơn ác mộng.
Họ hôn tay mà nhăn răng ra như những hồn ma vừa mới rời huyệt mộ tôi có cảm tưởng là họ hút máu của nàng, rồi câm lặng lướt đi tiếp. Còn nàng trinh bạch trong chiếc áo trắng mở rộng cổ, nàng chỉ đôi lần hơi đỏ lựng lên mỗi khi một tên Đông Gioăng tân thời mặc chiếc quần bó sát người, cúi hôn tay nàng quá nồng nhiệt. Tôi có cả giác là những chiếc hôn ấy để lại trên này nàng những vết bẩn thỉu, nhớp nhúa.
Chỉ đến lúc này tôi mới hiểu rằng thực ra nàn rất cô đơn, cô đơn chẳng những trong tòa lâu đài của nàng, mà ngay cả giữa bọn nửa người nửa ngợm kia.
“Cảnh này giống đâu nhỉ? – Tôi thầm nghĩ – À, nàng Tachiana của Puskin giữa bầy ma quỷ trong túp lều. Tội nghiệp, chúng quây chặt nàng như quây con nai vàng trong cuộc săn”.
Ở đây không có lấy một cặp mắt trong sạch, nhưng cái dòng họ thì mới kêu làm sao! Tưởng đâu như tôi đang ngồi ở kho lưu trữ mà đọc các văn kiện cổ xưa của một tòa án hòa giải ở Pinxkơ.
- Pan Xôva Matpheevich Xtakhôpxki cùng các cậu ấm – tên gia nhân dõng dạc thông báo.
- Panhi Agata Iuriepna Phalenđưsơ –Xôbôlexa cùng phu quân và thân hữu của gia đình.
- Pan Inakup Bacbara Garabuôcđa.
- Panni Anna Avramôvich Bôxiatxkaia cùng quý nương.
Becman vẫn đứng sau lưng tôi mà ném ra những lời bình phẩm.
Lần đầu tiên trong mấy ngày qua tôi thấy thích anh ta, trong những lối bình phẩm của anh ta có biết bao sự căm tức, mắt anh ta nảy lửa đón tiếp mỗi vị khách mời, đặc biệt là bọn thanh niên.
Nhưng bỗng trong khóe mắt anh ta vụt thoáng qua một ánh rất khó hiểu khiến tôi bất giác cùng nhìn về một phía với anh ta và...mắt tôi phải trợn ngược lên bởi vì tôi đã thấy một cảnh tượng đến kỳ cục: một người như đang lăn xuống theo các bậc thang dẫn vào phòng, đúng là đang lăn xuống, không thể nói khác được. Ấy là một người cao đến hai mét, đại loại cao như tôi, song có đến ba Anđrêi Bêlôretxki chui vào bộ áo quần ông ta vẫn cũng vừa. Một cái bụng to tướng đùi như đôi giò lợn, bộ ngực rộng ghê gớm, bàn tay tựa cái xẻng. Tôi ít khi gặp những người khổng lồ như vậy. Nhưng điều đáng ngạc nhiên nhất không phải cái đó. Người đón vận một bộ đồ giờ đây chỉ có thể tìm thấy trong viện bảo tàng: đôi ủng đỏ chói đế cao, đóng móng sắt, quần bằng da mỏng bó sát người. Chiếc áo giupna màu mận chín pha vàng chỉ chực nứt chỉ ở ngực và bụng. Ngoài cùng, người khổng lồ mặc một chiếc Iruga, loại áo khoác dài cổ xưa của người Bêlôruxia. Chiếc Iruga vận thoải mái, buông những nếp gấp thẳng đẹp toàn bộ lấp lánh những đường thêu xanh, vàng, đen. Một chiếc khăn thổ sặc sỡ thắt đai cao gần như tận nách.
Trên hết, gặp một cái đầu nhỏ một cách kỳ lạ so với một thân hình như vậy, hai má phồng lên dường như ông ta sắp cười tít, bộ ria sẫm màu (vì sợi bạc hơn) quặp xuống tận ngực. Diện mạo người khổng lồ hoàn toàn hiềnlành, nếu không kể cây roi bện ngắn có gắn dây bạc ở đầu mà ông ta để treo lủng lẳng trên cánh tay trái. Tóm lại, một con gấu tỉnh lẻ, vui tính và nát rượu, thoáng trông đủ biết.
Mới bước đến ngưỡng cửa, ông ta đã hô hố, một giọng trầm vui vẻ và âm vang, khiến tôi cũng bất giác mỉm cười. Ông ta lách đi đến đâu mọi người giãn ra đến đấy, đáp lại ông ta bằng những nụ cười chỉ có thể xuất hiện trên những bộ mặt ỉu xìu – bộ mặt của những con người thuộc giai tầng đang thoái hóa. Rõ ràng là ông ta được mọi người yêu quý.
“Cuối cùng, dẫu sao cũng được một đại biểu của thời oanh liệt xa xưa – tôi tự nghĩ. – Không phải một quái thai, một kẻ mất trí sẵn sàng lập chiến công, cũng lại sẵn sàng phạm tội ác. Đây là một người khổng lồ đôn hậu và giản dị. Và ông ta nói tiếng Bêlôruxia mới hay, mới giầu hình ảnh làm sao!”
Xin các bạn chớ vội ngạc nhiên về ý cuối cùng. Mặc dù trong giới sliăcta tiểu chủ hồi ấy dùng tiếng Bêlôruxia, giới sliăcta mà tôn ông nọ là thành viên thường không biết tiếng mẹ đẻ thực sự: trong số quan khách chỉ độ mười người nói được ngôn ngữ của Macxinkêvich và Karatưnxki, tất cả số còn lại đều dùng một thứ tiếng pha trộn cả Balan, Nga, và Bêlôruxia....
Vậy mà vị khách mới đến nói năng như là một nông thôn thực thụ. Những tiếng sắc bén, những câu bông đùa, thành ngữ, tục ngữ tới tấp tuôn ra từ cửa miệng ông ta suốt đoạn đường đi chỉ có từ cửa lên đến phòng khách trên gác. Xin thú thực, mới thoạt nhìn ông khách đã gây được cảm tình ở tôi chính vì lẽ đó. Ông ta nổi bật hẳn lên khiến tôi không chú ý ngay đến người đi cùng với ông, mặc dù anh ta cũng đáng được lưu ý. Xin các bạn hãy hình dung một thanh niên cao lớn, vóc dáng cân đối, ăn mặc đúng thời trang – một điều hiếm có ở cái xó heo hút này. Trông anh ta sẽ đẹp trai nếu như nước da không quá nhợt nhạt, má không quá hóp và nếu như cặp môi mím chặt không bộc lộ một vẻ hằn học khó hiểu. Đáng chú ý hơn cả trên bộ mặt cau có mà vẫn đẹp là cặp mắt đen to ươn ướt nhưng thiếu thần sắc, gần như không hồn, trông mà ớn lạnh.
Vị khách khổng lồ bước đến bên tên gia nhân hơn thong manh, lại nặng tai, lắc mạnh vai hắn.
Thì ra tên gia nhân gà gật ngủ đứng, tuy nhiên hắn lập tức tỉnh như sáo. Nhận ra mặt hai vị khách mới, hắn cười nhăn nhở, hét váng nhà:
- Pan phụ mẫu đại tôn kính Grưn Đubôtôpkơ cùng pan Alêxi Vôrôna!
- Grưn tôi xin kính chào chư pan cùng panni, giọng Đubôtôpkơ oang oang – Cớ sao chư vị trông buồn thiu như chuột sa bẫy vậy? Không sao, chúng tôi xin tức khắc mua vui cho quý vị. Này bạn Vôrôna có thấy không: cả một bầy pan tiểu thư xinh đẹp. Tiếc thay ta quá vội ra đời. Ôi nghiêng nước nghiêng thành!
Ông ta đi xuyên qua đám khách khứa (Vôrôna đứng lại cạnh một tiểu thư nào đó) và tiến lại gần Nađêia Janôpxki. Cặp mắt ông nheo lại, long lanh cười.
- Grưn tôi xin có lời mừng nữ chúa! – Ông hôn vào trán Nađêia đánh “chụt” như một phát súng, đoạn lui ra một bước - Ồ, cháu gái tôi lớn lên trông gọn ghẽ, thanh tú, xinh đẹp làm sao! Cả xứ Bêlôruxia này đến phải phủ phục dưới chân cháu tôi mất thôi. Chú thề cho quỷ Luxiphe ở thế giới bên kia cứ là đem lưng chú ra mà chuyên chở hắc ín nếu như thằng chú già nua tội lỗi này nói sai: Chỉ một tháng nữa là chú sẽ được rót rượu ngang vào chiếc hài xinh xinh của cháu mà tu trong tiệc cưới cháu đấy. Nhưng này, sao đôi mắt xinh xinh buồn rười rượi thế? Không sao, chú sẽ làm cho cháu phải vin ngay tức khắc.
Ông ta quay ngoắt nửa vòng, duyên dáng như một chú gấu to
- Nào Antôn, linh hồn đen tối đâu rồi! Griska đâu! Pêtơruxơ đâu! Ôn dịch lôi cổ chúng bay đi hết rồi hay sao?
-Antôn, Griska, Pêtơruxơ nhất loạt xuất hiện, lưng còng xuống dưới những bọc to tướng nặng nề.
- Nào, cái quân chậm chân tay, hay mồm mép này, đặt mau xuống dưới chân nữ chủ. Mở ngay ra! Ơ cái thằng, tay mày mọc đằng lưng hả? Quà mừng của cháu đây.
-Một tấm thảm lông to tướng trải ra trên sàn ngay dưới chân Nađeia
-Chú tặng cháu, của cụ nội chú cơ đấy nhưng chưa dùng lần nào cả. Cháu bảo đem trải sang buồng ngủ ấy. Buồng cháu gió lùa, mà chân cả họ Janôpxki nhà cháu vốn dĩ yếu chịu rét. Dẫu sao, cháu thật dại dột khi hai năm trước không đồng ý sang ở với chú, mặc dù chú đã cố nài nỉ. Nhưng thôi giờ thì đã quá muộn rồi, cháu đã lớn khôn. Và chú cũng thở phào được rồi. Cho quỷ tha ma bắt cái nợ bảo trợ này đi.
- Xin chú thứ lỗi cho cháu – Nađêia nhỏ nhẹ nàng cảm động về sự quan tâm của ông chú bảo trợ - Chú biết rồ iđấy, cháu không muốn rời nơi cha cháu từng ở...
- Thôi thôi mà – Đubôtôpkơ vụng về an ủi – Đừng nhắc lại nữa. Chú cũng cố tình không đến thăm cháu đâu, sợ cháu buồn. Chú với cha cháu là chỗ thân bằng cố hữu. Bọn chú, dĩ nhiên, một lũ người trần mắt thịt, phàm ăn, phàm uống, rượu chè bét nhè, nhưng không sao cháu ạ: chúa thấu hiểu lòng người. Mà chúa đã thấu hiểu thì ông bạn Rôman của ta, dẫu bình sinh lui tới nhà thờ nhiều hơn tửu quán, giờ đây cũng đang được nghe các đấng thiên thần múa hát trên thiên đường đang ngồi ngắm nhìn người vợ trẻ bất hạnh của ông cũng tức là chị họ của ta. Thượng đế chẳng phải kẻ ngu đần. Điều quan trọng là cái lương tâm, chứ còn cái lỗ mồm nó cứ ngoác ra làm cho cốc rượu cứ lăm le chui lọt vào – điều đó chẳng hệ trọng gì. Giờthì song thân đang ngự trên thiên đàng cúi nhìn đứa con gái yêu dấu, và hẳn mẹ cháu chẳng hề nuối tiếc đã phải đổi mạng để sinh ra cháu đâu: cháu tôi xin đẹp như một nàng công chúa ấy. Sắp lấy chồng đến nơi rồi, từ cánh tay bảo trợ của chú chuyển sang vòng tay âu yếm mà dũng mãnh của chồng. Lấy chồng thôi chứ, cô nàng?
- Trước cháu không thiết, giờ thì cũng chẳng biết nữa – Nađêia bất ngờ đáp...
- Thế đấy... Đubôtôpkơ bỗng nghiêm nét mặt. – Miễn sao được người tốt bụng. Cháu chớ vội vàng. Đây tặng cháu cái này nữa. Một bộ xiêm y xưa cũ, chính hiệu xiêm y chớ không phải thứ đồ giả ngày nay. Lát nữa, trước khi đi bắt đầu vũ hội, cháu đi thay áo, mặc bộ xiêm vào. Chứ mặc cái của nợ thời trang này làm gì.
- Chưa chắc bộ xiêm y đã hợp, chỉ làm hỏng dáng người thôi – một sliăctich phu nhân xen vào, giọng xu nịnh.
- Xin quý bà im đi cho. Tôi biết việc tôi làm, Đubôtôpkơ làu bàu. – Còn đây nữa, cháu Nađêia tặng phẩm cuối cùng. Chú cứ suy đi nghĩ lại mãi không biết có nên tặng món quà này không. Nhưng chú không có thói quen dùng chạc đồ người. Cái này vốn là của cháu. Trong số chân dung treo tường nhà cháu kia còn thiếu một bức. Hàng ngũ tổ tiên không được phép đứt đoạn. Điều đó hẳn cháu phải hiểu bởi vì cháu thuộc một dòng họ cổ xưa nhất tỉnh nhà.
- Trên sàn, sau khi lột bỏ tấm vải trắng bao phủ hiện ra một bức chân dung rất cổ, nét vẽ khác lạ, có lẽ, của một họa sỹ Ý – một phong cách hầu như không gặp trong nghệ thuật vẽ chân dung Bêlôruxia đầu thế kỷ XVII. Không có bước tường phẳng lì sau lưng, không có cả gia huy thường treo trên bức tường ấy. Ngược lại có một ô cửa sổ lớn mở ra cảnh đầm lầy buổi chiều tà, bầu trời ảm đạm và một người đàn ông ngồi xây lưng lại cảnh vật ấy. Ánh sáng xanh xam xám rọi xuống gương mặt xương xương xuống những ngón tay đan chặt vào nhau, xuống y phục đen tuyền pha những đường nét màu vàng.
Gương mặt người đàn ông ấy còn sống động hơn gương mặt nhiều kẻ đang sống sờ sờ. Một gương mặt kỳ lạ, tàn nhẫn và ảm đạm khiến nhìn vào người ta thấy sợ. Hốc mắt thâm quầng, và có cảm tưởng như mạch máu nơi mi mắt vẫn đang phập phồng. Khuôn mặt hoàn toàn giống khuôn mặt Nađêia, nhưng nếu như tất cả các đường nét cô gái đều xinh xắn dễ thương thì ở người trong chân dung trông gớm ghiếc kinh khủng. Vừa thông minh, vừa điên dại, vừa phản phúc cùng một lúc bộc lộ trên bộ mặt ngao ngán ấy. Vừa độc đoán đến ngoan cố, vừa sùng đạo đến cuồng tín, vừa nhẫn tâm đến hung bạo. Tôi né tránh sang bên-cặp mắt mở to như rọi thấu tâm can người đời, lập tức liếc theo và lại nhìn chòng chọc vào mặt tôi.
Có tiếng ai thở dài.
- Cụ tổ Rôman đấy – Đubôtôpkơ thì thào. Tuy nhiên tôi cũng đã tự đoán ra đó là ai, bởi khi đọc truyền thuyết tôi đã hình dung ông ta y như vậy. Tôi đoán ra ngay kẻ đã gây ra oán thù truyền kiếp đối với dòng họ còn do gương mặt nữ chủ nhân bỗng tái đi, và người nàng hơi lảo đảo.
Không hiểu cảnh câm lặng đó sẽ kết thúc ra sao. Song ngay lúc ấy, một người lẳng lặng huých vào ngực tôi một cái rất bất lịch sự, khiến tôi bất giác né tránh sang bên. Thì ra pan Vôrôna đang lách qua đám người và định bước lại bên Nađêia nên đã đẩy tôi sang bên. Y bình thản bước tiếp, không xin lỗi, thậm chí không buồn quay lại nhìn tôi, như thế tôi là một vật vô tri vô giác.
Tôi vốn xuất thân từ tầng lớp tri thức bình dân, nhờ công lai bản thân từ đời này qua đời khác mà được tấn phong tước hiệu quý tộc. Là những học giả, kỹ sư, chúng tôi vẫn chỉ là hàng thứ dân dưới con mắt của tên sliăctich ngạo mạn-y hãnh diện vì tổ tiên y từng làm trưởng đàn chó săn của một lãnh chúa sát nhân giàu sang. Tôi đã từng nhiều phen buộc phải bảo vệ danh dự của mình trước những tên sliăctich như vậy, cho nên lúc này dòng máu “thứ dân” trong tôi sôi lên.
- Này pan – tôi to tiếng –ngài cho rằng hích phải người rồi không xin lỗi là phẩm giá cao thượng của một bậc quý tộc chăng?
Y quay phắt lại:
- Ngài nói với tôi?
- Với ngài – tôi bình tĩnh đáp – Một sliăctich chân chính cũng phải là một bậc quân tử
Y bước lại gần tôi, giương mắt tò mò xem xét. Đoạn nói:
- Hử, ai định lên giọng dạy sliăctich phép lịch sự vậy?
- Không biết – tôi đáp, bình thản nhưng giọng mỉa mai. – Chí ít thì không phải ngài. Một thày tu dốt nát không nên đi dạy tiếng La tinh cho người khác bởi lẽ kết quả sẽ thảm hại
- Nhìn qua vai y, tôi thấy gương mặt của Nađêia. Tôi mừng thầm là cuộc cãi cọ của chúng tôi đã khiến nàng không chú ý đến bức chân dung nữa. Máu lại dồn lên mặt nàng, trong khóe mắt thoáng qua một vẻ lo lắng, sợ hãi.
- Ngài nên lựa lời cho cẩn thận – Vôrôna rít qua kẽ răng
- Tại sao phải lựa? Và cái chính là với ai? Một người có giáo dục tất biết rằng chỉ nên lịch sự với những người lịch sự, còn như giữa đám lỗ mãng thì lịch sự nhất sẽ là ăn miếng chả, trả miếng nem.
Rõ ràng tên Vôrôna này không quen bị phản đối. Tôi từng gặp những con ngỗng nghênh ngang như thế này rồi. Vôrôna thoáng ngỡ ngàng, nhưng ném nhanh một ánh mắt về phía nữ chủ nhân y quay lại phía tôi. Cặp mắt y long lên một cách căm tức đen tối.
- Ngài biết đang tiếp chuyện ai không?
- Ai vậy? Đấng thượng đế chắc?
Tôi nhận ra nữ chủ nhân đã xuất hiện bộ mặt tò mò của Đubôtôpkơ. Vôrôna bắt đầu phát khùng
- Ngài đang tiếp chuyện tôi – một người có thói quen bẹo tai những hạng thứ dân hãnh tiến.
- Vậy ra ngài chưa hề nghĩ tới chuyện có đôi kẻ thứ dân hãnh tiến cũng biết bẹo tai ư? Xin ngài chớ tiến gần hơn, bằng không, xin cảnh cáo trước, ngài sẽ được nếm thử những đòn mà chưa từng một vị sliăctich nào được nếm đâu
- Một kiểu tay đấm chân đá của lũ tiện dân! – Y phát khùng
- Biết làm thế nào được? – tôi lạnh lùng đáp lại – Tôi từng gặp đôi kẻ quý tộc mà người ta không sao tác động nổi với những biện pháp khác. Họ xuất thân không phải hạng thứ dân, tổ tiên họ từng là những giám mã trưởng, khuyển ưng trưởng, nhân ngãi trưởng của các bà chúa đất góa bụa.
- Tôi kịp tóm ngay cổ tay y và xiết mạnh trong những ngón tay tôi rắn chắc như gọng kìm.
- Này...
- À, mày! - Y rít lên
- Hai ngài, xin hai ngài bình tĩnh lại! – Nađêia thốt lên lo lắng. Pan Bêlôretxki, không nên, không nên thế! Pan Vôrôna, ngài phải biết xấu hổ chứ!
Gương mặt nàng đầy vẻ van lơn.
Có lẽ Đubôtôpkơ cũng thấy là đã đến lúc phải can thiệp. Ông ta bước lại đứng xen vào giữa hai chúng tôi và đặt bàn tay hộ pháp lên vai Vôrôna. Mặt ông ta đỏ bừng.
- Quân chó đẻ! – ông ta quát, - thế mà cũng gọi là người Bêlôruxia, là cư dân trong lãnh địa dòng họ Janốpxki, là sliăctich à?! Ai lại lăng nhục thượng khách như vậy bao giờ! Thật nhục cho mái đầu bạc của ta. Anh không có mắt sao? Anh cà khịa với ai vậy? Ngài đây đâu phải là hạng hiệp sỹ hề với trái tim gà mái, đâu phải hạng gà nhép, mà đường đường là một trang nam nhi. Ngài vặt râu anh dễ như bỡn. Hẳn ngài là quý tộc, thưa ngài?
- Vâng, tôi là quý tộc.
- Đấy, anh thấy chưa, pan đây là một người quý tộc. Nếu anh cần thù tiếp ngài thì hai bạn nhất định sẽ mau tìm được tiếng nói chung. Ngài đây quả là một sliăctich, một sliăctich chân chính, làm bạn với các bậc tổ tiên ta cũng xứng muôn phần đâu phải hạng vắt mũi không sạch ngày nay. Anh xin lỗi nữ chủ nhân đi, nghe không?
Vôrôna bỗng thay đổi hẳn thái độ. Y lúng búng gì đó rồi cùng Đubôtôpkơ lảng đi nơi khác. Tôi đứng lại với nữ chủ nhân.
- Trời, pan Anđrêi, tôi lo cho ngài quá. Ngài là một người nhân hậu, dính dáng với anh ta làm gì.
Tôi ngẩng đầu lên. Đubôtôpkơ đứng từ xa, tò mò hết nhìn tôi lại nhìn Nađêia.
- Thưa tiểu thư Nađêia, - tôi nói, giọng trìu mến lạ thường ngay cả đối với bản thân tôi. – Tôi vô cùng hàm ơn tiểu thư. Tiểu thư là một con người nhân hậu và chân thành. Tôi sẽ ghi lòng tạc dạ sự quan tâm của tiểu thư đối với tôi. Còn như sự cố vừa rồi, xin tiểu thư hiểu cho, lòng tự trọng đó là thứ duy nhất mà tôi có, tôi không thể cho phép một ai dẫm đạp lên nó.
- Đúng vậy, - nàng cụp mắt xuống. – Ngài quả không như bọn họ. Không ít kẻ trong số người thế gia vọng tộcn ày gặp sự cố như vậy có lẽ đã cắn răng chịu nhục. Chắc hẳn sliăctich chân chính ở đây chỉ có một mình ngài, còn bọn họ chỉ làm ra vẻ thôi... Có điều, xin ngài nhớ cho là tôi rất lo ngại cho ngài. Anh ta là một con người nguy hiểm, có một lai lịch bất hảo.
- Tôi có biết, - tôi nói đùa. – Anh ta là “bò rừng” sở tại chứ gì, một sự pha trộn anh chàng Nôzđriôp (*) với...
(*) Nhân vật trong tiểu thuyết “Những linh hồn chết” của nhà văn Nga vĩ đại N. Gôgôn (N.D.)
- Xin ngài chớ đùa. Anh ta là một kẻ hay gây gổ, đã lừng danh khắp vùng này. Bảy mạng người bị giết trong các cuộc đấu súng thì cả bảy đều chết bởi tay anh ta. Và có lẽ việc tôi luôn đứng cạnh ngài thế này sẽ lôi thôi cho ngài đấy. Ngài biết ý tôi chứ ạ?
Tôi đâu có thích con búp bê với đôi mắt mở to buồn rười rượi ấy, tôi hoàn toàn chẳng quan tâm những mối quan hệ của nàng với Vôrôna, anh ta đang thầm yêu trộm nhớ hay là người tình bị bỏ rơi thì cũng mặc, song phải lấy lòng tốt đáp lại lòng tốt. Nàng thật đáng yêu với sự quan tâm của nàng đối với tôi, bởi vậy tôi nâng tay nàng lên hôn.
- Xin cảm ơn nữ chủ nhân.
Nàng không rút tay về, những ngón tay xanh xao trong suốt khẽ run lên dưới môi tôi. Tóm lại, tất cả đều y như trong một cuốn tiểu thuyết đa sầu đa cảm v à khí rẻ tiền viết về sinh hoạt ở giới thượng lưu.
Dàn nhạc của mấy bác phế binh chơi điệu vanxơ “Mixiôn”, và lập tức ảo giác về giới thượng lưu biến mất. Dàn nhạc ấy thì phải mũ áo ấy, mũ áo ấy thì phải điệu nhảy ấy... Toàn những điệu đã hết thời: “Sacôn”, “Pađêđê” thậm chí cả “Thiên nga”, một vũ khúc kiểu cách của Bêlôruxia, bắc chước “Mênuêt”. Cũng may là tôi biết nhảy tất cả các điệu đó vì vốn dĩ yêu thích các điệu múa dân gian và các vũ khúc cổ.
- Xin cho phép tôi mời tiểu thư đi một điệu vanxơ.
Nàng do dự giây lát, ngước làn mi rầu rĩ, rụt rè nhìn tôi.
- Có một thời tôi cũng đã được dạy nhảy điệu này. Chắc tôi quên hết rồi. Thế nhưng...
Và nàng đặt bàn tay lên vai tôi, rụt rè và vụng về. Thoạt tiên, tôi thầm lo hai chúng tôi sẽ thành trò cười cho thiên hạ, nhưng chỉ lát sau đã hoàn toàn yên tâm. Tôi chưa bao giờ gặp một sự nhẹ nhàng thanh thoát trong bước nhảy như ở cô gái ấy. Dường như nàng không nhảy mà bay trên không, dường như tôi bế nàng lướt đi là là trên sàn. Đâu đó giữa điệu nhảy tôi chợt nhận ra gương mặt nàng, trước đó còn tư lự và nghi hoặc, bỗng trở nên giản dị và rất đáng yêu. Đôi mắt long lanh, làn môi dưới hơi trễ ra một chút.
Sau đó chúng tôi còn nhảy với nhau nữa. Nàng hoạt bát hẳn lên, má ửng hồng, gương mặt nàng rạng rỡ, tươi trẻ, say sưa và hân hoan khiến tôi cảm thấy ấm áp trong lòng.
“Em đây, - dường như lòng nàng cất tiếng qua đôi mắt mở to, đen láy long lanh, - đây mới chính là em. Anh tưởng em không tồn tại, vậy mà em đây, em đây. Dẫu chỉ một chiều ngắn ngủi này, em hiện ra trước mắt anh, làm anh phải ngạc nhiên. Anh cho em không sinh khí, nhợt nhạt, thiếu máu như thể một nhành thược dược mọc dưới hầm sâu, nhưng chính anh đã đem em ra ánh sáng, em vô cùng biết ơn anh, anh nhân hậu quá. Anh thấy chưa, trong nhành hoa em cũng đã xuất hiện màu xanh sinh sôi, và chẳng bao lâu nữa, nếu như vầng mặt trời sẽ rọi những tia nắng ấm , em sẽ cho đời thấy bông hoa đỏ thắm diệu kỳ của em. Có điều, không nên, đừng nên nhốt em trở lại dưới hầm tối.”
Tôi cũng say mê niềm hân hoan, với cảm giác chứa chan hạnh phúc được sống trọn vẹn, đang long lanh trong khóe mắt nàng. Có lẽ, mắt tôi cũng long lanh. Tôi chỉ lơ mơ, loáng thoáng nhìn thấy những cảnh cùng người xung quanh.
Nhưng rồi bỗng nhiên con sóc lại vụt biến vào hốc cây, niềm hân hoan biến khỏi đôi mắt nàng, nỗi khiếp nhược cố hữu lại ẩn náu sau làn mi: Thì ra Vôrôna đang chỉ bảo cho hai gia nhân treo lên khoảng tường phía trên lò sưởi bức chân dung của cụ tổ Rôman.
Nhạc im bặt. Đubôtôpkơ, mặt đỏ gay và rất vui, tiến lại gần chúng tôi.
- Cháu Nađêia, tuyệt thế giai nhân của chú ơi. Đưa bàn tay xinh xinh cho thằng già này nào.
Ông ta quỳ một gót và vừa tươi cười vừa hôn tay nàng.
Nhưng phút sau, ông ta đã nói bằng một giọng khác hẳn.
- Trong lãnh địa dòng họ Janốpxki có một quy tắc như sau: phải tuyên đọc bá cáo bảo trợ ngay tức khắc, đúng vào phút người được bảo trợ tròn mười tám tuổi.
Ông ta rút trong túi ra một chiếc đồng hồ cổ to tướng, thân hình củ hành nạm bạc, nghiêm nét mặt, trịnh trọng tuyên bố.
- Đúng bảy giờ. Chúng tôi đi tuyên đọc bá cáo bảo trợ. Tham dự có tôi và theo sự ủy nhiêm có các pan Vôva-Xtakhôpxki và pan Alexi Vôrôna, thay mặt cho người bảo trợ thứ hai là pan Kôlôtêsu Kôzlôpxki sống ở tận ngoài tỉnh, hôm nay không đến được vì đang lâm bệnh. Cần chứng giám của một người ngoài. Nên... Cặp mắt Đubôtôpkơ nhìn tôi dò hỏi, - nên, ngài chăng? Ngài còn trẻ, đời còn dài, sau này ngài có thể làm chứng cho là mọi việc đều đã được tiến hành một cách sòng phẳng, theo đúng lệ xưa và lương tri con người. Pani Janốpxkaia mời đi với chúng tôi.
Cuộc nghị luận của chúng tôi diễn ra chóng vánh. Đầu tiên người ta tuyên đọc bản kiểm kê động sản và bất động sản mà người cha đã để lại. Hóa ra, chủ yếu đó là tòa lâu đâì và khu vườn, những bảo vật gia tộc phải gìn giữ bất di bất dịch, không suy chuyển “đặng lưu tồn muôn thủa vinh quang cùng niềm hãnh diện của gia tộc.”
“Niềm hãnh diện mới báu chứ! – Tôi thầm nghĩ. – Hãnh diện được chết đói trong tòa lâu đài sang trọng”.
Đubôtôpkơ chứng minh rằng bất động sản đã được gìn giữ nguyên vẹn.
Tiếp theo, văn bản đã làm sáng tỏ rằng người con trưởng và là người thừa tự duy nhất là Pani Nađêia Janốpxkaia.
Sau đó, người ta chuyển sang phần lợi tức, Đubôtôpkơ thông báo rằng một số vốn nhỏ mà ông Rôman Janốpxki đã ký gửi vào hai nhà ngân hàng lấy tám phần trăm lợi tức nhưng không có quyền động chạm đến vốn cơ bản, hiện giờ đem lại hai trăm rưởi đến một trăm bảy rúp mỗi tháng. Lợi tức này, nhờ những nỗ lực của người bảo trợ đã tăng lên, ngoài ra đã bổ sung được vào vốn cơ bản hai trăm tám mươi lăm rúp – một món khi cần thiết có thể lấy ra làm của hồi môn cho nữ chủ.
Mọi người đều lắc đầu. Lợi tức quá ư nhỏ nhoi, đặc biệt nếu như tính đến việc phải bảo tồn tùa nhà cho xứng đáng.
- Vậy thì lấy gì trả công cho gia nhân? – tôi hỏi.
- Trong chúc thư, họ được dành một phần gia sản thừa tự bởi vì họ cũng là một bộ phận của gia sản.
- Tôi muốn phiền pan Đubôtôpkơ giải thích cho chúng tôi được rõ sự thể phần đất cho cấy thuê thuộc trang ấp Rừng Tùng Đầm Lầy hiện thời ra sao? – ông Xôva Xtakhôpxki hỏi. Ông ta người nhỏ bé, gày gò, hai đầu gối nhọn hoắt, có cảm tưởng chúng sắp đâm toạc chiếc quần màu sáng của ông. Hẳn là ông ta thường va chạm với Đubôtôpkơ, nên bây giờ nêu ra cho địch thủ một câu hỏi hiểm hóc. Nhưng pan Đubôtôpkơ không hề lúng túng. Ông ta lôi trong túi ra đôi mục kỉnh gọng bạc to tướng, chiếc khăn tay mà ông trải ngay trên đầu gối, rồi đến chiếc chìa khóa, cuối cùng – một mẩu giấy con. Không cần giương mục kỉnh, ông ta đọc luôn:
- Cụ tổ pan Janốpxki có mười nghìn mẫu ruộng, đất màu mỡ, không kể rừng. Pani Janốpxkaia, hẳn là ngài đã biết, thưa pan Xôva Xtakhôpxki tôn kính, chỉ có năm chục mẫu ruộng đất cằn cỗi. Pani còn có một khu vườn, không cho hoa lợi được một chinh, và một khu rừng mà trên thực tế cũng là gia tộc sản, bởi vì đó là khu rừng cấm. Xin nói thẳng là chúng tôi có thể không tuân thủ lệ cũ, thế nhưng, thứ nhất là phu đốn gỗ không thể nào vào tới rừng được vì xung quanh đều là sình lầy. Và thứ hai là, làm như vậy liệu có khôn ngoan không? Pani Janốpxkaia còn có thể có con. Chúng sẽ làm gì với năm chục mẫu đất nghèo xác kia? Như vậy gia tộc sẽ hoàn toàn suy tàn. Đương nhiên, pani Janốpxkaia giờ đây đã trưởng thành, có thể tự...
- Cháu đồng ý với chú, - Nađêia nói, mặt đỏ bừng đến phát khóc. – Cứ để cho khu rừng già sống yên. Cháu lấy làm mừng là chỉ có thể vào đó qua những con đường mòn, mà cũng chỉ vào thời tiết nắng ráo mới đi được. Chặt khu rừng ấy đi thật đáng tiếc. Rừng già hoang sơ là vườn nhà chúa mà.
- Ngoài ra, - pan bảo trợ nói tiếp, - pani Janốpxkaia còn có quyền sở hữu đối với toàn bộ lãnh địa Janốpxki, song đây toàn là đầm lầy, sình than bùn và bãi hoang, không một thứ cây gì đó có thể mọc nổi trừ lau lách. Tự bao đời nay, không có ai sống được trên đất ấy. Vậy là, chúng ta chỉ kể năm chục mẫu cho cấy rẽ. Ruộng không được chăm bón, nên chỉ trồng được mỗi giống đại mạch, thu hoạch ba bốn chục pút (*) một mẫu. Giá đại mạch là 50 côpêk (*) một pút, tức là một mẫu đêm lại thu nhập mười rúp mỗi năm, vị chi toàn bộ ruộng đất đem lại 500 rúp một năm. Tất cả chỉ có vậy. Món tiền hoa lợi ấy không bao giờ bị giao trả chậm trễ, pan Xtakhôpxki có thể kiểm tra lại.
(*) 1 pút = 16,3kg (N.D.)
(*) Tiền xu Nga (N.D.)
Tôi lắc đầu. Nữ chủ nhân một trang ấp lớn mỗi háng chỉ thu nhập có hơn hai trăm rúp. Một viên nha lại hạng trung cũng đã được lĩnh mỗi tháng 125 rúp. Đương nhiên, pani Janốpxkaia có nơi ở, có thức ăn, thế nhưng rõ ràng là túng thiếu, một sự túng bấn cùng quẫn. Tôi, một anh chàng vô gia sản, học giả và nhà báo, tác giả bốn cuốn sách, hàng tháng còn có bốn trăm rúp. Nhưng tôi đâu có phải đổ tiền vào cái Bãi thụt Khổng lồ là tòa lâu đài, là quà cáp cho những người hầu hạ, và cả một khu vườn đòi hỏi phải chăm sóc cho tạm coi được. So với nàng, tôi quả là một trọc phú.
Tôi thấy thương nàng, một đứa con nít phải đặt lên vai một gánh nặng quá sức.
- Pani quá nghèo đấy, - Đubôtôpkơ buồn rầu nhận xét. – Sau khi trừ bỏ mọi chi phí cần thiết đi, pani chỉ còn lại ít xu dính túi mà thôi.
Và ông ta ném một ánh mắt đầy ý nghĩa về phía tôi. Tuy nhiên, tôi cho rằng bộ mặt tôi lúc ấy chẳng bộc lộ gì cả. Mà quả thực, bấy nhiêu điều phỏng có liên quan gì đến tôi?
Người ta trao lại các giấy tờ cho nữ chủ mới. Đubôtôpkơ hứa sẽ đích thân chỉ thị cho Bécman, hôn vào trán Janốpxkaia, rồi bước ra. Chúng tôi cũng lục tục trở lại phòng khách. Mọi người nhảy múa đã mệt, nên Đubôtôpkơ lại pha trò, gây nên những trận cười vui ròn rã.
Tôi không biết nhảy một điệu vũ địa phương, thì ngay lập tức Vôrôna cuốn nàng vào vòng nhảy. Lát sau, nàng biến đi đâu mất. Tôi đang đứng xem mọi người nhảy bỗng cảm thấy có ai chăm chú nhìn mình. Đứng cách tôi không xa lắm có một thanh niên người xương xương, khỏe mạnh, mái tóc sáng, gương mặt cởi mở dễ mến, ăn mặc giản dị nhưng cẩn thận gọn gàng.
Tôi không để ý anh ta từ đâu tới, song mới thoáng nhìn tôi đã có cảm tình ngay, đã ưa ngay cả vẻ khổ hạnh trong khóe miệng rộng mà đẹp, trong cặp mắt nâu thông minh. Tôi mỉm cười với anh, và anh dường như chỉ chờ có thế, liền sải những bước dài tiến lại gần, chìa tay cho tôi bắt:
- Anh tha lỗi cho tôi cái tội đường đột nhé. Tôi là Anđrêi Xvetilôvich. Từ lâu tôi đã mong muốn được làm quen với anh. Tôi nguyên là sinh viên Đại học tổng hợp Kiép, bị đuổi học vì tham gia biểu tình của sinh viên.
Tôi cũng tự giới thiệu. Anh cười, để lộ hàm răng trắng đều – một nụ cười rất tươi và hiền hậu. Khiến gương mặt anh đẹp hẳn lên.
- Tôi có nghe danh, đã từng đọc các công trình của anh. Nói thế này, anh đừng cho là tôi khen lấy lòng nhé, vì tôi vốn không ưa thích cái lối xã giao ấy, nhưng quả thực tôi rất có cảm tình với anh sau khi đọc các công trình ấy. Anh đang làm một việc hữu ích, cần thiết, anh lại ý thức rất rõ nhiệm vụ của mình. Ấy là tôi xét theo những lời đề tựa của anh.
Hai chúng tôi lập tức bị thu hút vào câu chuyện và lui dần về phía cửa sổ ở một góc gian phòng. Tôi hỏi sao anh lại rơi vào cái nơi khỉ ho cò gáy này. Anh cười:
- Tôi có họ xa với Nađêia Janốpxkaia. Xa lắm. Thực ra, gốc gác Janốpxki giờ đây chỉ còn có Nađêia và tôi, theo đằng họ mẹ. Hình như cũng có giọt máu nào đó của những lãnh chúa Đâyna chảy trong huyết quản của Garabuôcđa, thế nhưng việc ông ta cũng như Gritkêvisép có họ hàng với Janốpxki thì có lẽ không một chuyên gia uyên thâm nào về phả học có thể chứng minh nổi. Đó chẳng qua chỉ là truyền thuyết gia tộc. Nữ chủ Janốpxkaia, ngày nay chỉ còn có một người độc nhất.
Gương mặt anh bỗng dịu xuống, trở nên tư lự.
- Nói chung, - tất cả cái trò đại gia tộc chỉ là những điều đại ngu xuẩn: cả những lãnh chúa cùng những vụ kiện tụng lôi thôi về gia tộc sản. Tôi mà có phép thần thông thì tôi đã tháo cho chảy bỏ sạch dòng máu lãnh chúa trong huyết quản mình. Nó chỉ gây nên những dằn vặt của lương tâm mà thôi. Tôi cảm thấy hình như Nađêia cũng cùng một tâm tư như tôi.
- Thế mà người ta nói với tôi rằng tiểu thư Nađêia là người duy nhất còn lại trong dòng họ Janốpxki.
- Thì cũng đúng như vậy. Tôi là một người họ xa, rất xa, hơn nữa mọi người lại cho là tôi đã chết rồi. Tôi không lui tới Rừng Tùng Đầm Lầy đã dăm năm, nay tôi hai mươi ba. Cha tôi tống khứ tôi khỏi nơi đây bởi vì hồi mười tám tuổi tôi chết mê chết mệt vì mối tình với một cô bé mới mười ba. Cái đó thực ra cũng chẳng sao. Chỉ việc chờ hai năm là ổn cả, nhưng cha tôi tin vào ma lực của lời nguyền muôn thuở.
- Thế sao, cuộc đi đầy chữa anh khỏi bệnh ái tình chứ? – tôi hỏi.
- Chẳng ăn thua gì. Trái lại, chỉ cần hai lần gặp lại cũng đủ để tôi cảm thấy sự si mê ban đầu đã thành tình yêu thực sự.
- Thế tiểu thư Nađêia nghĩ sao?
Anh đỏ mặt đến nỗi mắt đã long lanh đẫm lệ.
- Ồ!... Anh đoán đúng đấy! Tôi van anh giữ kín cho! Bởi vì tôi chưa rõ nàng sẽ nhìn nhận chuyện này ra sao. Vả lại, điều đó đâu có quan trọng gì... Xin anh hãy tin lời tôi. Chẳng quan trọng gì đối với phía tôi. Được nhìn thấy nàng – như vậy tôi đã sung sướng rồi, dẫu nàng có thờ ơ với tôi thì cũng vậy. Tôi vẫn thấy hạnh phúc được sống trên mảnh đất này, bởi vì nàng cũng sống nơi đây. Nàng là một con người phi thường. Xung quanh toàn một lũ ngợm bẩn thỉu, đê tiện, một sự nô lệ luồn cúi công khai, vậy mà nàng vẫn trong trắng, vẫn nhân hậu.
Tôi mỉm cười bởi bỗng trào dâng trong lòng tôi một mối thiện cảm đặc biệt đối với chàng thanh niên có gương mặt đẹp và trong sáng. Anh lại tưởng tôi cười nhạo.
- Đấy, cả anh cũng lại chế nhạo tôi, y như người cha đã quá cố của tôi, y như chú Đubôtôpkơ...
- Tôi hoàn toàn không có ý cười anh đâu! Ngược lại, tôi lấy làm vui mừng được nghe những lời anh vừa mới nói. Anh là một con người trong sáng, tốt bụng. Nhưng có lẽ không nên kể chuyện này với một ai cả. Anh vừa mới nhắc đến ông Đubôtôpkơ...
- Tôi rất cảm ơn anh đã có những lời tốt đẹp về tôi. Nhưng chẳng lẽ anh lại có ý nghĩ là tôi có thể kể những điều vừa rồi với một người nào khác nữa ư? Anh thì anh đã tự đoán ra rồi. Cả chú Đubôtôpkơ nữa cũng vậy, không hiểu do đâu.
- Còn may cho anh là Đubôtôpkơ chứ không phải là Alêxi Vôrôna đoán ra, - tôi nói. – Chứ không thì mọi sự có thể kết thúc không hay cho một trong hai bạn. Đubôtôpkơ thì không sao. Ông ta là người bảo trợ, tất nhiên mong muốn tiểu thư Nađêia kiếm được tấm chồng xứng đáng. Với lại, ông ta là người tốt bụng, sẽ chẳng để hở cho ai biết chuyện đâu, cũng như tôi thôi. Tuy nhiên, nói chung anh nên giữ kín chuyện này.
- Đúng vậy, - anh ta đồng ý, vẻ hối hận. – Thế mà tôi không hề nghĩ ra, một sơ hở, thậm chí rất nhỏ, cũng có thể làm hại Nađêia. Anh nhận xét đúng lắm! Đubôtôpkơ là một người rất tốt, rất chân thành! Đúng là một pan võ biền, giản dị, hơi cổ lỗ nữa! Và cái chính là chân thành, vui vẻ! Ông yêu quý mọi người, không bao giờ gây trở ngại cho ai cả. Anh thấy ngôn ngữ ông thế nào? Lần đầu mới nghe tôi cứ có cảm giác như có một bàn tay ấm áp vuốt ve trái tim mình.
Cặp mắt anh lại long lanh ngấn lệ, anh yêu quý Đubôtôpkơ biết chừng nào. Tôi đồng tình với anh về nhiều điều.
- Giờ, anh biết hết mọi chuyện rồi, ngoài ra sẽ không một ai được biết nữa. Tôi sẽ không để tổn thương đến thanh danh của nàng. Tóm lại, tôi sẽ cấm hoàn toàn. Anh nhảy với nàng – tôi thấy vui. Nàng trò chuyện với ai đó – tôi cũng thấy mừng. Tôi chỉ mong cốt sao cho nàng hạnh phúc. Tuy thế, có một điều tôi thành thực mà nói với anh, - giọng Anđrêi bỗng đanh lại, mặt sắt lại như gương mặt của Đavít niên thiếu khi quyết sống mái với Gôliap. – Nếu như từ nơi nghìn trùng cách trở tôi cảm thấy có kẻ định hại nàng thì tôi sẽ bay về ngay và dẫu kẻ đó có là Thượng đế, tôi cũng sẽ nện vỡ sọ hắn, tôi sẽ cắn xé hắn, sẽ đánh nhau với hắn đến hơi thở cuối cùng để rồi được lết đến dưới chân nàng mà chết. Xin anh cứ tin chắc như vậy. Dù ở xa đến đâu, tôi vẫn luôn luôn bên nàng.
Ngắm nhìn gương mặt anh, tôi hiểu ra tại sao những kẻ cầm quyền lại run sợ trước những chàng trai thanh tú, trong trắng và ngay thẳng như vậy. Ở họ, đưng nhiên, đôi mắt còn rộng mở, nụ cười còn ngây thơ, cánh tay còn non nớt, cái cổ cao kiêu hãnh mịn trắng như cẩm thạch, dường như sinh ra chính là để bọn đao phủ thử búa rìu, nhưng họ, những chàng trai ấy còn có sự quyết liệt không hề biết khoan nhượng, còn có lương tri nhất quán đến cùng, trong cả những điều nhỏ nhặt nhất, họ không thèm đếm xỉa đến ưu thế trội hẳn của thế lực hung bạo, họ trung thành đến cuồng tín đối với chân lý. Trong cuộc đời, họ như những đứa con nít ngây dại, cả tin cho đến lúc bạc đầu, trong cuộc phụng sự chân lý, họ thường xui xẻo, nên trở thành chua chát, nhưng vẫn trung thành đến phút chót, sáng suốt và kiên định, bất khuất. Bọn ti tiện sợ những người như vậy ngay cả khi họ chưa bắt đầu hành động, bởi thế, theo bản năng vốn có của giống đê hèn, chúng luôn luôn tầm nã họ. Giống hèn mạt cảm thấy rằng họ là mối nguy hiểm lớn nhất đe dọa sự tồn tại của chúng.
Tôi hiểu ra rằng nếu trao khẩu súng lục vào tay một người như anh, anh ta vẫn nở nụ cười chân thành, hé hàm răng trắng muốt kia mà tiến đến bên tên bạo chúa, găm vào người hắn một phát đạn, rồi sau đó bình thản bảo tử thần: “Đến bắt ta đi!”. Anh sẽ bất khuất trước mọi cực hình và nếu như không chết gục trong tù vì nỗi khao khát tự do, thì sẽ bình thản bước lên đoạn đầu đài.
Chàng trai ấy ngay tức khắc chinh phục được lòng tin của tôi, nên hai bàn tay chúng tôi gặp nhau, xiết chặt. Tôi mỉm cười với anh như với một người bạn thân thiết và hỏi:
- Anh bị đuổi học về chuyện gì vậy?
- À... một chuyện vặt. Mọi sự bắt nguồn từ việc chúng tôi định tổ chức kỷ niệm Sepsenkô (*). Họ dọa sẽ đưa cảnh sát đến đàn áp. – Anh đỏ mặt, bẽn lẽn. – Thế là chúng tôi nổi loạn. Tôi hết toáng lên là nếu họ dám cả gan đưa cảnh sát vào dưới mái trường thiêng liêng của chúng tôi, thì chúng tôi quyết lấy máu rửa sạch vết nhơ ấy và phát đạn đầu tiên sẽ dành cho kẻ nào dám ra cái lệnh như vậy. Thế là náo động cả lên, và tôi bị tóm lôi đi. Ở sở cảnh sát, khi họ hỏi thành phần dân tộc, tôi đáp: “Cứ viết – người Ukraina”.
(*) Tarat Sepsenkô (1814-1861) – nhà thơ vĩ đại, nhà cách mạng dân chủ Ukraina, xuất thân nông nô, từng bị chính phủ Nga hoàng bắt giam và lưu đày nhiều năm.
- Câu trả lời thật hay.
- Tôi biết trả lời như vậy rất thiếu thận trọng đối với những người đang đấu tranh.
- Không, câu trả lời rất hay cả cho họ nữa. Một câu trả lời như vậy bằng cả mười phát súng. Nó có nghĩa là tất cả đều chống kẻ thù chung. Làm gì có sự khác biệt giữa người Bêlôruxia và người Ukraina, nếu như roi vọt giáng xuống lưng cả hai.
Chúng tôi lặng thinh nhìn đám người nhảy múa. Bỗng Xvetilôvich nhăn mặt.
- Nhảy với múa suốt. Có mà quỷ sứ biết như vậy là ra làm sao. Uốn éo như một lũ thằn lằn thời tiền đại hồng thủy. Nhìn nghiêng thì mặt mũi y như mõm loài súc sinh cả. Trí não chỉ bằng cái móng tay, mà quai hàm thì y như của loài khủng long, chứa cả bảy trăm răng. Áo xống lê thê như đuôi ấy. Mặt mũi một lũ quái thai cả... Dân tộc ta thật vô phúc, anh Bêlôrétxki ạ.
- Vì sao?
- Chúng ta chưa hề có những tư tưởng gia độc tôn bao giờ.
- Biết đâu, như vậy chả hơn.
- Dẫu sao, chúng ta cũng là một dân tộc phiểu bạt. Suốt bảy thế kỷ buôn bán tổ quốc. Đầu tiên bán cho Litva, sau đó, khi dân ta vừa mới kịp đồng hóa nó, lại bán cho Ba Lan, rồi cả tứ xứ mười phương. Thực vô liêm sỉ, vô lương tâm!
Vài quan khách đang nhảy múa quay lại nhìn chúng tôi.
- Anh thấy không, họ đã bắt đầu lườm nguýt đấy. Hễ thấy có tâm hồn ai khắc khoải rên la là họ khó chịu rồi. Tất cả bọn họ ở đây một giuộc cả. Họ chà đạp kẻ yếu hèn, từ bỏ lương tri, bán con gái cho những lão già lọm khọm giàu có. Anh có thấy cái ông Xôva Xtakhôpxki kia không? Đến ngựa tôi, tôi cũng không thể nhốt chung một chuồng với ông ta được, vì tôi lo cho cái đức của con ngựa. Kia là bà Khôbaleva, một Mêxalina tỉnh lẻ. Còn lão kia, họ Axanôvich, đã đưa một cô gái nông nô xuống mồ. Giờ đây thì lão không còn cái quyền ấy (*), nhưng cái trò dâm loạn thì lão vẫn tiếp tục. Ôi Bêlôruxia đáng thương! Một dân tộc hiền lành, dễ dãi, rộng lượng và mơ mộng, vậy mà vận mệnh nằm trong tay một bọn vô lại. Chừng nào nhân dân còn ngu dốt, cái cơ sự ấy sẽ còn tồn tại. Đem những đứa con ưu tú của mình, những thi sĩ ưu tú của mình bán cho người, con đẻ của mình, thì đem đặt tên kẻ khác, như thể mình thừa thãi lắm rồi. Trao các anh hùng của mình cho giặc phanh thây, để rồi chính mình lại ngồi trong cũi với bát nước lã, rau cháo cầm hơi mà giương mắt ếch. Tôi xin mãi mãi tôn sùng ai đạp đổ được cái ách sliăcta mục nát đang đè lên đầu lên cổ nhân dân, tống khứ cả một lũ hãnh tiến ngu xuẩn kiêu căng, cả một bọn bồi bút đã bán rẻ cả lương tâm lẫn ngòi bút, làm cho nhân dân trở thành chủ nhân vận mệnh của chính mình! Tôi xin trao cho người đó tất cả máu nóng đang chảy trong tôi.
(*) Chế độ nông nô ở đế quốc Nga hoàng bị bãi bỏ từ năm 1861. (N.D.)
Có lẽ, cái giác quan của tôi trở nên nhạy bén hơn chăng? Vì tôi luôn luôn cảm thấy có ánh mắt trên lưng mình. Xvetilôvich vừa dứt lời, tôi quay phắt lại và... sửng sốt. Nađêia đứng ngay cạnh, đang chăm chú nghe. Nhưng đó không phải là nàng nữa, đó là ước mơ, là nữ thần rừng xanh, là nàng tiên cổ tích. Nàng mặc bộ xiêm y trung cổ - một bộ áo váy may tốn ít ra cũng ngót năm chục thước gấm vùng Oócsa, choàng lên trên bộ xiêm y ấy là một chiếc áo váy khác, trắng toát, tà màu thanh thiên ánh bạc, xẻ nhiều đường ở thân và tay. Eo lưng thắt chặt một dây lưng mỏng manh vàng chói, buông thả hai bông tua rua gần chấm đất. Vai khoác một manh áo bướm mỏng bằng vải tabin óng ánh bạc. Mái tóc bao trong lưới nhỏ, đầu đội một mũ miện cổ trông hơi giống một con tàu xinh xinh dệt bằng chỉ bạc. Từ hai mỏm đầu và đuôi con tàu xinh xinh ấy buông rủ xuống một tấm voan trắng trong suốt.
Đó là công chúa thiên nga, nữ chúa lâu đài hổ phách, tóm lại, có mà quỷ biét được là ai nữa, nhưng dứt khoát không phải là chú vịt con xấu xí mới đây nữa. Tôi thấy pan Đubôtôpkơ tròn xoe mắt, miệng há ra: Rõ ràng ngay cả ông ta cũng không ngờ ấn tượng lại mạnh đến thế. Một tiếng vĩ cầm rít lên. Rồi tất cả im bặt.
Bộ xiêm y khá bất tiện, thông thường nó gò bó đối ovứi người đàn bà không mặc quen, làm cho trở nên vụng về và nặng nề, vậy mà cô gái này mặc bộ xiêm y trông tựa một nữ hoàng, dường như cô ta mặc nó suốt đời: đầu cất cao kiêu hãnh, nàng bước đi trang trọng, yêu kiều. Dưới tấm voan, đôi mắt như vừa bừng tỉnh trước sắc đẹp của bản thân, mở to long lanh một nụ cười tinh quái và kiêu hãnh.
Pan Đubôtôpkơ thốt lên một tiếng “Ồ!” kinh ngạc và bước nhanh lại phía Nađêia. Với một vẻ đau đớn khó hiểu trong khóe mắt, ông ta ôm gọn gương mặt Nađêia vào lòng bàn tay, hôn lên trán nàng, miệng lẩm bẩm: “Một nhan sắc thế này mà buộc phải...”
Nhưng rồi ông lại tươi cười:
- Một nữ hoàng! Tuyệt thế giai nhân! Cúi trình chư vị thánh nhân tuẫn tiết: chư vị đã không uổng công mong đợi. Đây, nữ chúa Janốpxkaia. Janốpxkaia đến tận chân răng kẽ tóc!!! Ta xin hôn gót son của con.
Và con gấu khổng lồ ấy vừa e hèm vừa phủ phục xuống sàn, khẽ chạm môi vào mũi hài xinh xắn. Đoạn đứng dậy cười phá lên ha hả:
- Này con, với món của quý nhường này thì liệu mà ngồi im thít như chuột nhắt, kẻo người ta cướp mất đấy.
Bỗng ông nháy mắt:
- Hay là dối già một cái nhỉ? Cháu còn nhớ hồi nhỏ cháu nhảy với ta thế nào không? Cháu tặng con gấu già này một điệu nhảy nhé? Xong, ta có chết cũng vui lòng.
Nữ hoàng áo trắng đưa tay cho ông dắt.
- Nào, các trang tuấn tú! – Đubôtôpkơ hét to bảo dàn nhạc phế binh. – Bắt đầu điệu “Ngọn gió nhỏ” của ta đi, độ hai vòng, sau đó chuyển sang điệu mazuôcka nhé!
Ông quay lại nói thầm với tôi:
- Các điệu nhảy của ta đều hay cả, nhưng bốc lửa như điệu mazuôcka Ba lNa thì không có một điệu nào. Có lẽ chỉ điaạ “Cô Liavôntikha” là có thể so tài hơn thua, nhưng phải có vài cặp mới nhảy được. Khốn nỗi mấy mụ chết yểu với mấy thằng còm cõi kia nhảy sao nổi. Phải có đôi chân vũ nữ ba lê như chân ta đây mới chơi được.
Ông lại cười ha hả. Còn tôi, tôi nhìn cặp giò lợn của ông mà phát hoảng: “Ông ta làm hỏng điệu vũ hay này mất thôi!”
Trong khi đó các quan khách đã giãn ra nhường chỗ. Tôi nghe những tiếng xì xào:
- Chính ông... Chính ông ta sẽ nhảy đấy!
Tôi không rời cái đám diễn trò hề ấy chỉ vì muốn được xem một điệu múa cổ mà đã nhiều lần tôi được nghe nói đến và người ta bảo tám chục năm trước đây rất phổ biến.
Thân hình đồ sộ của pan Đubôtôpkơ thẳng ngay ra, ông “hừ” một tiếng, nhón hai ngón tay cầm lấy bàn tay trái trắng muốt của Nađêia.
Những nốt nhạc đầu tiên của điệu nhảy “Ngọn gió nhỏ” vừa mới nổi lên, ông giận gót giày và lướt đi ba bước một, lần lượt chân phải, rồi chân trái. Cái thân hình đồ sộ ấy di chuyển bỗng nhẹ nhàng, mới đầu cứ ba bước lại khẽ dận gót, sau đó chỉ lướt đi trên đầu ngón chân. Và bên cạnh là nàng, tựa như một con chim thần tiên, bay lượn trong không trung, óng ánh sắc vàng, trắng, thanh thiên, thấp thoáng tấm van trong suốt.
Rồi đôi bạn nhảy ấy quay tròn lại lướt đi, lúc tiến lại gần nhau, lúc tách ra xa, lúc đan chéo nhau.
Không, đây đâu phải một trò hề tầm thường, cũng như có bao giờ thành trò hề vũ khúc của một diễn viên về già, đã nặng nề, song từng có thời là một nghệ sĩ vĩ đại. Đây quả là một “ngọn gió nhỏ”, mạnh dần lên thành vũ bão, chỉ còn thấy tấm voan quay tròn trên không và những cặp chân loáng thoáng dưới sàn. Rồi bỗng các nhạc công cùng tấu lên điệu mazuôcka. Thực ra, đó không phải là mazuôcka, mà là một biến dạng cổ xưa của nó ở địa phương đây, bao gồm cả một số động tác của điệu “Ngọn gió nhỏ”.
Nhạc với mới chuyển làn, con người khổng lồ đã vút lên trước, hai gót giày nện rền vang, rồi thân hình đồ sộ bắt đầu nhịp nhàng bay lên không, hai chân đập đập vào nhau. Còn nàng... nàng vẫn lướt đi ngay cạnh, nhẹ nhàng, tươi cười và trang trọng.
Đó quả là một điều kỳ diệu thực sự: hai con người mặc xiêm áo cổ xưa đang dựng lại trước mặt chúng tôi một cảnh thần thoại.
Múa trọn một vòng, pan Đubôtôpkơ dắt Nađêia đến trước mặt tôi. Mặt ông đỏ dừ như tôm luộc.
- Con bé nó làm tôi đứt hơi rồi... “Chú cứ như trai tân ấy thôi. Tra-ai tân mấy chả trai tân! Thôi xin đủ: thân tôi ngựa già, mỏi gối chồn chân rồi. Chẳng mấy chốc nữa mà đi hầu rượu cụ tổ Abram. Xin nhường các bạn trẻ: các bạn cứ việc sống, cứ việc ca hát, cứ việc nhảy múa. Nhảy đi, anh bạn trẻ.
Các vũ khúc lại bắt đầu. Xvetilôvich không thích nhảy. Vôrôna còn đang giận dỗi, không lại gần, cho nên tôi đành phải nhảy với Nađêia cho đến tận bữa ăn tối. Nàng nhảy thật tuyệt! Tôi bất giác ngắm nhìn gương mặt ngây thơ bỗng chốc trở nên sinh động và tinh quái dễ thương. Hai chúng tôi nhảy không biết chán, chúng tôi lướt nhanh trên sàn, những bức tường gian phòng quay tròn, không còn có thể nhận ra thứ gì trên đó nữa. Chắc hẳn nàng cũng có những cảm giác tương tự như tôi, mà cảm xúc của tôi lúc ấy thì chỉ có thể so sánh với những giấc mơ ngày niên thiếu: bạn mơ thấy mình đang nhảy múa và một niềm hạnh phúc vô bờ tràn ngập trong lòng bạn. Tôi chỉ nhìn thấy gương mặt ửng hồng của nàng, hơi ngả về phía sau, mái tóc khẽ lắc lư theo phách nhạc
Rồi chúng tôi đi ăn tối. Tôi dắt tay nàng đưa vào phòng ăn. Khi đi qua một góc phòng, tôi thấy hình như có tiếng xì xào. Tôi liếc nhìn về phía đó, vào xó tối, bắt gặp ánh mắt những ai đó – vài ba mệnh phụ thì phải. Bước đi tiếp, tôi còn kịp nghe một giọng khàn khàn hằn học:
- Cô ả như vui chơi gỡ gạc trước giờ tận số ấy. Tội chồng tội chất, trời không dung, đất không tha, thế mà còn nhảy với múa được... Thật là một dòng họ đáng nguyền rủa... Cứ chờ đấy, đội săn sắp hiện về rồi... Gớm chưa, cái con vô liêm sỉ, cả một buổi chiều cứ bám riết lấy cái tên lạ mặt vô đạo. Vớ được nhân ngãi rồi mà... Được lắm, thề có chúa chứng giám: Quốc vương Xtác sẽ hiện về bắt cả cho mà xem. Những đêm thu tối trời lại bắt đầu rồi.
Những lời đê tiện, nghe ớn lạnh con tim ấy khiến tôi cảm thấy lo lắng. Thực vậy, tôi rồi sẽ rời nơi đây, vậy mà rất có thể, tôi làm cho cô gái này không thể lấy chồng được. Tôi cặp kè với nàng cả một dạ hội để làm gì cơ chứ! Tôi đang làm gì vậy? Tôi hoàn toàn không yêu nàng và sẽ chẳng bao giờ yêu vì tôi hiểu rất rõ trái tim mình. Tôi quyết định dứt khoát sẽ không nhảy với nàng nữa, cũng không ngồi cạnh bàn. Tóm lại là phải rời khỏi nơi đây. Xin đủ cái trò du dương này với các pan sliăctich, mau sớm quay về với những người bình dân, với công việc. Tôi mời nàng ngồi, mình thì chỉ đứng cạnh, hy vọng sẽ tóm được anh chàng Xvetilôvich và đặt ngồi cạnh nàng. Tuy nhiên, mọi hy vọng của tôi tan ngay thành mây khói, Xvetilôvich bước vào phòng là ngồi ngay xuống cuối bàn. Còn Đubôtôpkơ thì ngồi xuống cạnh bên phải nữ chủ nhân và lầu bầu bảo tôi:
- Sao lại đứng thế? Ngồi xuống đi!
Tôi vừa ngồi xuống, ông ta nói tiếp:
- Độ trăm năm trước đây có lẽ anh phải trở thành một sliăctich tuyệt vời đấy. Cánh tay vững chắc, cặp mắt cứng cỏi. Lại điển trai nữa. Có điều ta tò mò rất muốn biết anh bạn có phải là một người nghiêm túc không? Hay cùng một giuộc vô tích sự cả?
Tôi đành phải ngồi cạnh nữ chủ nhân, săn sóc nàng, động chạm vào tay nàng, thậm chí đôi lần đầu gối tôi chạm đầu gối nàng. Tôi thấy vui vui, đồng thời cũng rất bực mình với pan Đubôtôpkơ. Ông ta ngồi cau có như quỷ dữ, nhìn tôi chằm chằm dò xét. Có lẽ xét nét tôi xem có xứng với vai trò phu quân của tiểu thư do ngài đỡ đầu chăng?
Một lát sau mọi người đều trở nên hoạt bát. Ăn đã nhiều, uống lại càng nhiều. Các bộ mặt đã đỏ gay, những lời bông đùa phun ra như mưa.
Đubôtôpkơ ăn nhiều, uống vô hồi, pha trò liên tục khiến các quan khách cứ ôm bụng mà cười.
Nỗi bực bội của tôi cũng dần dần tan biến. Thậm chí, tôi thầm cảm ơn Đubôtôpkơ là ông đã giữ tôi lại.
Ăn xong, lại nhảy múa đến tận năm giờ sáng khách khứa mới ra về. Pan Đubôtôpkơ là một trong những người ra về cuối cùng. Đi ngang qua chỗ chúng tôi, ông tiến lại gần và nói giọng khàn khàn:
- Anh bạn trẻ này. Ta mời anh ngày kia đến dự một bữa tiệc nhỏ giữa những kẻ tu mi nam tử. Cả con nữa, thế nào? Hay là con cũng đến ngồi chơi với con gái ta chăng?
- Thưa chú thôi ạ, cảm ớn chú. Cháu ngồi nhà thôi. Người khổng lồ thở dài:
- Con tự hủy hoại thân mình đấy. Thôi được. – Quay về phía tôi, ông nói tiếp: - Ta sẽ chờ anh. Đừng quên đấy. Nhà ta không có những của ngoại lai này. Chắc là anh sẽ hài lòng.
Hai chúng tôi chào nhau. Tôi cũng chia tay thân mật với Xvetilôvich.
Những bước chân đi xa dần, tòa nhà trở lại vắng vẻ, lặng lẽ và hoang vu, rất có thể sẽ hoang vu trong mười tám năm tới. Gia nhân đi tắt nến. Nữ chủ nhân biến mất. Bước vào phòng khách, tôi thấy nàng đang đứng cạnh lò lửa rừng rực, vẫn mặc nguyên bộ xiêm y cổ tích. Bóng tối lại bao trùm khắp xó xỉnh trong gian phòng tưởng như còn vang vọng tiếng nhạc, tiếng nói cười. Tòa nhà lại tiếp tục cuộc sống thường ngày, câm lặng và tối tăm ảm đạm.
Tôi bước lại gần hơn và bỗng nhận thấy gương mặt nàng tái nhợt, những dấu vết cuối cùng của ánh hân hoan đã tắt ngấm. Gió đang hú từng hồi trong ống khói.
- Vắng lặng quá, thưa ngài Bêlôrétxki, - nàng nói. – Từ lâu, tôi đã quên mất sự huyên náo vui vẻ rồi. Ta đi một điệu vanxơ nữa nhé, trước khi vĩnh viễn...
Giọng nàng đứt quãng... Tôi đặt tay lên eo lưng nàng, và hai chúng tôi cùng lắng nghe theo âm nhạc còn đang ngân vang trong lòng chúng tôi, lướt đi trên sàn. Tiếng chân chúng tôi bước vang vọng dưới trần nhà âm u. Không hiểu sao tôi thấy rờn rợn như thể mình đang dự một lễ an táng ai. Nhưng còn nàng, nàng đang sống lại không khí buổi dạ hội. Eo lưng nàng nhỏ nhắn và mềm mại, khẽ đung đưa dưới bàn tay tôi, chiếc khăn voan bay phấp phới, xiêm y rực rỡ lên mỗi khi hai chúng tôi lọt vào vùng ánh lửa lò sưởi, rồi lại chuyển sang màu xanh khi chúng tôi lượn ra xa. Bộ xiêm y cổ xưa ấy, tấm voan mỏng manh đôi lúc khẽ chạm vào mặt tôi ấy, cái eo lưng thon thả ấy dưới tay tôi cùng đôi mắt tư lự cụp hai hàng mi ấy, có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên được.
Bỗng nàng khẽ gục đầu vào vai tôi trong giây lát.
- Thôi. Tôi xin chịu. Đủ lắm rồi. Thế là hết. Xin cám ơn ngài về tất cả mọi điều.
Tôi cúi nhìn nàng và bắt gặp đôi mắt long lanh những giọt lệ không ứa ra được.
Nàng về phòng riêng. Tôi còn đứng rõi theo mãi thân hình nhỏ bé trong bộ xiêm y cổ xưa đi xa dần về cuối phòng rồi tan biến trong bóng tối, dưới ánh mắt của các bậc tổ tiên trên tường.
Đêm ấy tôi quen không tắt ngọn nến để trên chiếc bàn con kê cạnh cửa sổ. Nằm trên chiếc giường rộng thênh thang như một thảm cỏ và mơ màng đi vào giấc ngủ thì tiếng chân bước ngoài hành lang làm tôi bừng tỉnh. Biết có nhìn ra sẽ lại chẳng thấy ai, tôi vẫn nằm yên. Lát sau, tiếng chân im bặt. Tôi lại đã thiu thiu ngủ thì bỗng nhiên choàng dậy.
Qua khung cửa sổ, một bộ mặt người đang nhìn tôi.
Đó là một người rất nhỏ bé (tôi thấy toàn bộ người hắn từ thắt lưng trở lên), mặc một chiếc áo Kaptan cổ rộng. Đó quả là một con người, song mặc dù vậy, trông diện mạo của hắn vẫn có nét gì đó không người chút nào. Đầu hắn dẹt hai bên thái dương, do đó dài đuỗn ra kỳ quặc, những món tóc dài lơ thơ rủ xuống mặt mũi. Nhưng kỳ quặc nhất chính là khuôn mặt Người Lùn. Da mặt hắn xanh lẹt y như màu áo, mồm rộng, không có môi, mũi nhỏ, mắt cóc. Tôi thầm so sánh hắn với một con khỉ, nhưng có lẽ diện mạo hắn giống cóc thì đúng hơn. Cặp mắt thô lố, đen ngòm, nhìn tôi vẻ hằn học đần độn. Sau đó, xuất hiện cánh tay dài ngoẵng, cũng màu xanh lẹt. Bỗng hắn rên lên một tiếng khàn khàn. Chính tiếng rên ấy khiến tôi sực tỉnh cơn bàng hoàng ngây dại. Tôi nhảy bổ lại bên cửa sổ, nhưng vừa chạm đến khung kính thì không còn thấy Người Lùn ở đấy nữa. Hắn đã biến mất.
Tôi mở toang cửa sổ, khí lạnh tràn vào phòng. Thò hẳn đầu ra, tôi ngó nhìn tứ phía – không một bóng người. Dường như hắn tan biến thành hơi. Hắn không thể nhảy xuống đất được vì chỗ tường này cao không phải hai mà những ba tầng (tòa nhà xây trên sườn đồi). Cửa sổ bên phải, bên trái đều đóng chặt, gờ tường nhỏ hẹp đến nỗi chuột nhắt cũng khó chạy qua. Tôi đóng cửa lại, nằm suy nghĩ và lần đầu tiên thấy nghi ngờ không hiểu đầu óc mình còn minh mẫn nữa không.
Nó là cái gì nhỉ? Tôi không tin vào chúa, cũng chẳng tin có ma quỷ, song sinh vật vừa mới rồi không thể là một con người bằng xương bằng thịt được. Hắn xuốt hiện từ đâu ra, rồi biến đi đâu mất? Hắn tồn tại ở đâu? Trong tòa lâu đài này có những gì đó không lương thiện, bí ẩn. Nhưng cái gì nhỉ? Chẳng lẽ lại là những hồn ma thật sao? Nhưng toàn bộ qua trình giáo dục của tôi phản đối kết luận ấy. Hay là tôi say rượu? Không, tối qua, tôi hầu như không uống. Vậy thì ở đâu ra những tiếng chân bước lại đang nghe rõ mồn một ngoài hành lang kia? Lúc tôi nhìn thấy bộ mặt con quái vật ấy ở cửa sổ thì có tiếng chân bước không nhỉ?
Trí tò mò của tôi đã lên đến cực điểm. Không, tôi sẽ không rời khỏi đây vào ngày mai như đã định, tôi phải khám phá cho ra ngọn ngành. Người con gái đêm qua đã ban tặng tôi một kỷ niệm đẹp nữa, chắc đến phải phát điên vì khiếp sợ, ở đây đang diễn ra những điều trái với quy luật tự nhiên, vậy mà tôi lại bỏ đi. Nhưng ai sẽ giúp tôi trong việc tìm kiếm này? Ai? Tôi chợt chợt nhớ đến những lời của Xvetilôvich: “Tôi sẽ lết đến dưới chân nàng mà chết”. Đúng rồi, tôi sẽ phải gặp anh ta. Chúng tôi sẽ tóm cổ con quái vật ghê tởm này, bằng không – từ nay tôi sẽ tin là có những hồn ma xanh lẹt cùng những thiên thần của chúa trời.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com