CHƯƠNG TÁM
Hôm ấy là một ngày u ám, ảm đạm, bầu trời xám xịt lạnh lùng đến phát khóc lên được. Tôi đến thăm trại Giabitri của gia đình Kunsa. Những đám mây xám xịt bay là là trên các sình than bùn. Một cảnh vật đơn điệu như trại lính trải ra trước mắt tôi. Trên cánh đồng bằng phẳng một màu nâu xỉn đó đây có những vệt xam xám di động: ấy là đàn cừu đang được một mục đồng chăn dắt. Tôi men theo bờ Bãi thụt khổng lồ, mắt đã mỏi mà chẳng biết nhìn đâu cho đỡ nhức nhối. Bỗng có vật gì đen đen nằm trên cỏ. Tôi bước lại gần. Đó là một cây thập ác bằng đá rất to, dài đến ba mét, bị đỗ đã từ lâu, bởi vì hố chôn nó hầu như đầy đất, và cỏ mọc um tùm. Những hàng chữ khắc trên thập ác đã nhòa hết nét:
“Nơi đây, kẻ tôi tớ nhà chúa, tên gọi Rôman, đã đột ngột lìa đời. Hỡi lũ du khách tha hương, xin hãy cầu nguyện cho vong linh Rôman, ngõ hầu sẽ có kẻ khác cầu nguyện cho linh hồn các người, bởi vì những lời nguyện cầu của các người thực đẹp lòng chúa.”
Tôi đứng hồi lâu cạnh cây thập ác. Vậy ra, đây chính là nơi cụ cố Rôman đã thác!...
- Lạy pan nhân đức, - bỗng tôi nghe có tiếng gọi sau lưng.
Tôi quay lại. Một người đàn bà, áo xống rách bươm kỳ quái, đang chìa tay xin. Mụ còn trẻ, khá xinh đẹp, nhưng bộ mặt da bọc xương, vàng ệch trông chết khiếp được, khiến tôi cũng phải vội cụp mắt xuống. Trên tay mụ bế một đứa trẻ.
Tôi bố thí cho mụ.
- Lạy pan thí cho chút bánh thừa. Con đói, sợ đi không đến nơi. Thằng Jaxik chết mất thôi...
- Cháu bé làm sao thế?
- Con không biết ạ, - mụ trả lời không thành tiếng.
Trong túi còn cái kẹo, tôi liền đưa cho người đàn bà, nhưng đứa trẻ hoàn toàn thờ ơ với kẹo.
- Ta biết làm gì cho chị bây giờ được?
Lúc ấy, có một nông dân đi xe quệt qua. Tôi gọi anh r a lại, cho một rúp và bảo chở người đàn bà đến Rừng Tùng Đầm Lầy để người ta cho mụ ăn uống và nghỉ ngơi đôi chút.
- Cầu chúa ban phước lành cho pan nhân đức – người đàn bà lẩm bẩm qua nước mắt. – Không đâu cho mẹ con tôi miếng ăn. Xin chúa hãy trừng phạt những kẻ đuổi dân đen, cướp đất.
- Ai xua đuổi các người?
- Thưa, pan ạ.
- Pan nào?
- Thưa, pan Antôxơ ạ. Người gầy gầy ạ...
- Ông ta họ gì? Làng chị ở đâu?
- Con không biết họ ông ta, còn như làng thì gần đây, sau cánh rừng kia ạ. Chúng con cũng có chút ít tiền. Năm đồng bạc. Nhưng ông vẫn đuổi đi.
- Thế chồng chị đâu?
- Bị giết rồi ạ.
- Ai giết?
- Chúng con kêu khóc, không muốn rời đi. Bố Jazep nó cũng kêu. Thế rồi các ông ấy bắn. Đến đêm thì đội săn hiện về bắt những người kêu la to mồm nhất đem đi nhận chìm dưới sình lầy. Họ chết mất xác cả... Không ai dám kêu nữa.
Tôi vội xếp sắp cho họ lên xe, đoạn tiếp tục đi đường mình, lòng nặng trĩu. Trời đất hỡi, tăm tối quá chừng! U mê quá chừng! Biết bao giờ mới lay chuyển nổi trái núi này đây? Trong bữa tiệc ở nhà Đubôtôpkơ chúng tôi đã đánh chén một khối lượng thực phẩm có lẽ dư để cứu bốn chục đứa bé như Jaxik khỏi chết đói. Người ta không cho những người đang đói khát bánh mì, người ta lại còn đem bánh mì của họ vỗ béo bọn lính để chúng bắn vào họ chỉ vì họ đói. Quả là một sự anh minh của Nhà nước! Vậy mà những kẻ bất hạnh kia vẫn câm lặng! Ôi nhân dân tôi, Người bị trừng phạt bởi tội lỗi gì vậy? Cớ sao người cứ trăn trở hoài trên mảnh đất quê hương của chính Người tựa chiếc lá thu lìa cạnh vậy? Ông Adam đầu tiên trong bộ tộc chúng tôi đã ăn phải trái táo cấm nào vậy?
Một thiểu số thì no say phè phỡn, trong khi đa số lại chết đói ngay dưới cửa sổ của thiểu số nó. Đây kia, cây thập ác đổ trên huyệt mộ của một trong những kẻ phát khùng vì quá dửng mở. Lại cũng ngay kia một đứa trẻ đang lả đi chết dần vì đói khát. Đã hàng bao thế kỷ cứ tồn tại như vậy cái ranh giới ngăn đôi thiểu số này với đa số nọ, và đây – kết cục lôgich: sự thú vật hóa, sự hắc ám trong toàn quốc gia, sự khiếp nhược ngu đần, đói khát, điên loạn. Cả xứ ở Bêlôruxia là một đồng hoang chết chóc, với tiếng gió hú rền rĩ...
Không đâu, cố Rôman! Các lữ khách tha hương sẽ không cầu nguyện cho người đâu! Mọi người sẽ phỉ nhổ vào cây thập ác đổ trên mộ người. Và xin chúa ban cho tôi sức mạnh đặng cứu giúp người nữ thừa tự cuối cùng của dòng họ người – một người con gái vô tội hoàn toàn trước chân lý kahức nghiệt của lịch sử Bêlôruxia, người mẹ ghẻ chung của tất cả chúng ta.
Không lẽ nhân dân tôi u mê, chết ỳ đến thế ư?
.... Tôi phải len lỏi đến bốn mươi phút qua một cánh rừng nhỏ, cây cối thấp và ẩm ướt phía sau Bãi thụt Khổng lồ mới ra đến con đường mòn nhỏ hẹp, cây cỏ mọc um tùm. Hai bên đường là những hàng cây hoàn diệp liễu đã bắt đầu rụng lá. Giữa cả mảng hoàn diệp đỏ ối nổi bật lên những cây bạch dương vàng rực và những cây sồi hầu như vẫn xanh tươi. Con đường mòn chạy xuống khe suối róc rách, nước nâu thẫm như nước chè đặt. Hai bờ suối phủ một thảm rêu xanh rì, đó đây những thân cây đổ cũng xanh rì rêu phong, bắc ngang nối liền hai bờ. Vài ba thân cây đã bị tróc rêu, chứng tỏ có chân người qua lại vượt suối.
Xung quanh vắng vẻ, hoang vu...
Bên kia khe suối, rừng trở nên rậm rạp. Con đường mòn biến mất giữa cây cối rậm rịt, len lõi giữa những bụi đũm hương, tầm ma, mâm sôi, cỏ dại. Những dây hoa bia, lá hình ngọn lửa, leo lên các thân cây, cuốn lấy cành cây, rủ từng chùm lá lửa xanh là là trên đường mòn, luôn chạm vào đầu tôi. Lát sau, đã thấy những dấu hiện đầu tiên cho biết quanh đó có người ở: những bụi tử đinh hương um tùm, vài vạt đất vuông vắn được chăm bón và những bụi ngưu bàng cao lớn – bạn láng giềng muôn thủa của con người. Những bụi tử đinh hương mỗi lúc một rậm rạp hơn, khiến tôi phải len lỏi mãi mới ra đến một bãi trống. Ở đó, tôi thấy một ngôi nhà giữa lùm cây, nền đá cao, bậc thềm xây gạch, cột tròn bằng gỗ sơn màu trắng hẳn là từ thời tằng tổ. Ngôi nhà đổ nghiêng hẳn về một bên như một chiến binh trọng thương sắp gục ngã. Các khung cửa xiêu vẹo, ván lát đã bong nham nhở, kính lâu ngày đã ngả màu. Trên thềm cửa chính, giữa các khe bậc lát gạch, ngoi lên vài gốc ngưu bàng, vạn thọ, và cả một cây diệp liễu to tướng gần như che khuất cửa ra vào. Trên lối vào cửa hậu, một vũng nước lầy lớn, vài viên gạch bắc tạm để đi qua. Mái nhà xanh rì, dầy cộm một lớp rêu mượt mà. Tôi ghé nhìn qua cửa sổ xám xịt: trong nhà còn ảm đạm, hoang dã hơn thế nữa. Tóm lại, y hệt một “ngôi nhà cột chân gà” (*). Chỉ còn thiếu mụ yêu tinh Jaga nằm trên một hòn gạch thứ chín mà rằng: “Phù! Đâu đây thoảng mùi thịt người!”
(*) “Ngôi nhà cột chân gà”, “Mụ yêu tinh Jaga” – chi tiết và nhân vật phổ biến trong cổ tích Nga (N.D).
Nhưng chỉ lát sau, mụ hiện ra thật. Qua ô cửa sổ, một bộ mặt khô héo đàn bà đang nhìn tôi – bộ mặt nhăn nhúm trông như một cái đầu lâu bị da khô vàng ệch, tóc bạc trắng, xõa tận vai. Tiếp theo, một cánh tay như cẳng gà thò ra, chìa một ngón nhăn nheo ngoắc gọi tôi.
Tôi đứng giữa sân, vẫn chưa hiểu ra cử chỉ nọ dành cho ai.
Cánh cửa hé mở, một cái đầu thò qua khe.
- Xin mời pan Grigôrơ nhân đức vào đây, - cái đầu thốt lên lời. - Ở đây họ đang giết hại những kẻ bất hạnh.
Thú thực, sau lời thông báo ấy, tôi chẳng thích thú bước vào nhà cho lắm, nhưng bà lão đã ngồi bệt xuống bậc thềm, với chìa bàn tay qua vũng nước cho tôi nắm lấy.
- Tôi đợi ngài đã lâu, thưa vị cứu tinh dũng cảm của tôi. Số là tên nô bộc của tôi – tên Rưgôrơ ấy mà, hắn té ra là một thằng chuyên bóp cổ như lão Râu xanh. Ngài nhớ chứ, chúng ta đã từng cùng nhau đọc truyện Yêu tinh Râu xanh mà. Lão ta là một trang hiệp sỹ mới tao nhã làm sao! Tôi sẽ tha thứ cho Rưgôrơ hết nếu như hắn cũng giết người một cách tao nhã như vậy, nhưng hắn chỉ là một thằng nô bộ, biết làm sao được?
Tôi đi theo mụ. Ở gian ngoài, một chiếc áo lông bán thân vứt ngay dưới sàn, cạnh bộ yên ngựa, trên tường có treo một chiếc roi ngựa và vài tấm da cáo sần sùi. Ngoài ra, còn có một chiếc ghế đẩu ba chân, chân dung một người đàn ông, bẩn thỉu và đã rách nát. Trong phòng ngổn ngang bề bộn tưởng như bốn trăm năm trước, hậu cứ của chiến trận Grunvanđơ (*) đặt tại nơi đây và từ bấy đến nay chưa hề quét bụi, lau rửa. Một cái bàn xiêu vẹo, mấy chiếc ghế trông như những phế binh cụt chân, thoi thóp. Cái tủ kê sát tường, đứng nghiêng ngửa chỉ rình đổ xuống kẻ nào dám táo gan bước lại gần. Một bức tược Vonte lăn lóc dưới sàn, cạnh cửa ra vào. Ông Vonte trông hao hao giống nữ chủ nhân ngôi nhà. Ông ta giương cặp mắt ẩn dưới miếng giẻ quấn quanh đầu thay cho vòng nguyệt quế, nhí nhảnh nhìn tôi. Trong góc kê một chiếc gương đứng, khung bám đầy một thứ gì như phân chim. Mặt gương thì nửa trên phủ một lớp bụi dầy, nửa dưới lại được lau chùi sạch bóng. Mảnh bát đĩa vỡ, cùi bánh mì, xương cá vứt bừa bãi khắp phòng. Toàn cảnh gian phòng trông như tổ một con chim bói cá, đáy tổ trải một lớp vảy cá. Bản thân nữ chủ gian phòng trông tựa một con chim bói cá – một loài chim kỳ lạ, ưa cuộc sống đơn độc.
(*) Trận Grunvanđơ (1410) – liên quân Ba Lan, Lít-va, Nga, Ukrana và Bêlôruxia dưới quyền thống soái của vua Ba Lan đánh tan đạo quân hiệp sĩ xâm lược gồm các hiệp sĩ Đức, Pháp, Anh v.v... – (N.D).
Mụ quay lại phía tôi. Lần này tôi mới nhìn rõ mặt mụ: cái mũi khoằm xuống tận cằm, hai hàng răng bàn cuốc.
- Thưa hiệp sĩ, sao ngài không lau sạch bụi ở nửa gương trên? Tôi muốn ngắm thử toàn thân mình. Để thấy trọn vẹn vẻ mỹ miều.
Tôi còn đang lưỡng lự chưa biết thực hiện lời yêu cầu ấy ra sao thì mụ đã bỗng bộc bạch:
- Ngài giống phu quân tôi lúc sinh thời lắm. Ồ! Đó là một con người tuyệt hảo! Ông được lên thẳng thiên đường khi đang còn sống – người đầu tiên sau nhà tiên tri Ilia được vinh dự ấy đấy. Còn lão Rôman thì phải xuống địa ngục. Ấy, trăm sự đều ở cái đội săn của Quốc vương Xtác – ác thần của cả lãnh địa Janốpxki đây. Từ ngày chồng tôi chết, tôi không dọn dẹp nhà cửa nữa để để tang ông ấy. Đẹp đấy chứ thưa ngài? Lại lãng mạn nữa!
Mụ cười duyên và bắt đầu liếc tình theo đúng những luật ngầm vẫn thịnh hành trong các trường nữ học quý tộc: “Đưa mắt liếc người cùng đối thoại, sau đó liếc sang bên, đầu hơi nghiêng, rồi lại liếc người, tiếp theo ngước mắt nhìn góc trần, cuối cùng cụp mắt xuống”
Thực là một trò giễu nhại mọi tình cảm chân thành của con người. Khác nào một con khỉ cái bỗng ngoác mồm hát nguyên tác tiếng Anh bài ca của Ôphêlia (*).
(*) Ôphêlia – nhân vật trong bi kịch “Hamlét” của Sêchxpia, người yêu của hoàng tử Hamlét (N.D).
- Ở đây tuyệt đẹp. Nhưng thực khủng khiếp! Ôi, khủng khiếp lắm!
Bỗng mụ lùi xa tôi, lăn ra sàn rúc đầu vào đống giẻ rách bẩn thỉu.
- Cút! Cút ngay khỏi đây! Ngươi là Quốc vương Xtác!
Mụ giãy giụa, la hét. Tôi nghĩ mà khiếp sợ cho số phận rất có thể đang rình rập mọi người dân trong lãnh địa nếu như nối khiếp sợ bí ẩn sẽ tiếp tục sải đôi cánh đen ngòm trên mảnh đất này.
Tôi đang đứng lưỡng lự thì một bàn tay ai đặt lên vai tôi và một giọng đàn ông thô lỗ gặng hỏi:
- Ngài đến đây làm gì? Ngài không thấy là bà ta hơi ngớ ngẩn à?
Gã mugik (*) ra nhà ngoài mang vào một bức chân dung thủng lỗ chỗ và đặt lên bàn. Bức chân dung vẽ một người đàn ông đứng tuổi mặc áo đuôi tôm, cổ đeo huân chương “Thánh Vlađimir”.
(*) Mugik: Nam nông nô, nông dân Nga.
Sau đó anh ta lôi mụ đàn bà ra khỏi đống giẻ, đặt ngồi trước chân dung.
- Thưa pani Kunsa, ngài đây không phải là Quốc vương Xtác đâu. Ngài đây là nguyên soái đến xem mặt giai nhân bản địa đấy. Còn như Quốc vương Xtác thì đây, trong ảnh này cơ, ông ta đã chết từ lâu rồi, không thể giết ai được nữa.
Mụ đàn bà nhìn bức chân dung, lặng thinh. Gã mugik lấy trong túi ra một miếng bánh mì đen như cục đất. Mụ đàn bà nhăn răng cười hoan hỉ. Mụ bấu từng mẩu bánh bỏ vào mồm, mắt vẫn trân trân nhìn bức chân dung.
- Quốc vương Xtác. Ông nó nhà tôi. Sao lại quay mặt đi như thế, ông?!
Lúc mục cào cấu bức chân dung, lúc mụ mừng rỡ thì thào nói gì đó với nó, và miệng vẫn nhai bánh. Tôi được rảnh ngồi dò xét người đàn ông lạ mặt. Anh ta trạc ba mươi tuổi, mặc bộ quần áo nông dân, chân đi giầy bện bằng da thường thấy ở vùng Pôlexia. Vóc người cao, cân đối, ngực nở nang, lưng hơi gù, cổ cháy nắng. Bộ ria dài làm cho gương mặt có vẻ nghiêm nghị, khắc khổ. Ấn tượng ấy lại càng đậm hơ do hai nếp nhăn giữa hai đầu lông màu và cặp mắt sắc xảo cách xa nhau. Cái mũ maghiêka đội xụp xuống tận mắt. Toàn bộ hình dáng của anh ta gợi một cảm giác khoáng đạt của rừng xanh.
- Chắc anh là Rưgôrơ, người gác cổng của bà Kunsa?
- Phải, - anh ta đáp, giọng mỉa mai. – Còn ông hẳn là vị tân khách của pani Janốpxkaia. Tôi có được nghe nói đến một chú chim mới như vậy. Hót hay lắm.
- Anh thường đối xử với bà ta như vậy à? – Tôi hất hàm về phía mụ đàn bà vẫn đang chăm chú nhổ nước bọt vào bức chân dung.
- Thường xuyên như vậy. Bà ta như thế đã hai năm nay rồi.
- Sao anh không đưa bà ta đến huyện lỵ điều trị?
- Thương chứ sao? Hồi còn khỏe mạnh thì khách khứa đầy nhà, bây giờ thì chẳng một thằng chó nào... sliăcta mà! Các pan phụ mẫu đều thế đấy, đồ...
- Chắc anh vất vả lắm nhỉ?
- Vất gì, tôi đi săn thì Zôxia trông nom bà ấy. Với lại, bà ấy không hay giở quẻ đâu. Cũng chẳng đòi hỏi gì. Chỉ ăn nhiều bánh mì thôi, ngoài ra, chẳng thiết gì sất.
Anh ta rút trong túi ra một quả táo đưa cho mụ.
- Bà cầm lấy này.
- Ta không ăn đâu, - mụ vừa nhỏm nhẻm nhai bánh vừa đáp. – Thứ gì cũng có thuộc độc cả. Chỉ bánh mì là sạch sẽ thôi, của chúa ban mà.
- Ngài thấy đấy, - Rưgôrơ cau có nói. – Mỗi ngày bọn tôi ép phải ăn nóng một lần. Đôi khi bà ấy còn cắn cả tay tôi: bón cho ăn thế là bà ta ngoạm liền... Trước đây bà ta là một bà chủ không đến nỗi tồi tệ đâu. Mà có tồi tệ đi nữa thì ai nỡ bỏ mặc một linh hồn thuộc nhà chúa.
Anh ta bỗng nhoẻn một nụ cười hồn nhiên như con nít lại pha vẻ ăn năn hỗi lỗi làm tôi phải ngạc nhiên.
- Thế do đầu bà ta bị như vậy?
- Do hốt hoảng sau cái chết của Rôman. Tất cả bọn họ đều nơm nớp chờ đợi, xin nói thực tình, cũng đáng đời một số lớn trong bọn họ. Vì cái tội hành hạ dân đen chúng tôi.
- Thế còn Janốpxkaia?
- Ai nghĩ như vậy về Janốpxkaia thì phải tội. Tiểu thư tốt bụng lắm. Tình cảnh cũng đáng thương nữa.
Rốt cuộc, tôi đánh bạo, bởi vì hiểu ra rằng: người như anh ta không thể phản bội.
- Anh Rưgôrơ này, tôi đến đây muốn hỏi đôi điều.
- Thì cậu cứ hỏi, - Rưgôrơ đáp, chuyển sang gọi tôi là “cậu”, một điều tôi rất hài lòng.
- Tôi quyết khám phá cái vụ đội săn của Quốc vương Xtác đấy. Anh biết không, tôi chưa tận mắt thấy ma quỷ bao giờ, muốn tự sờ tận tay xem sao.
- Ma với chả quỷ... – anh ta cười khẩy. – Ma cái quái gì mà ngựa của chúng lại để lại trên đường những đống phân rất thật. Nhưng cơ mà pan quý mến, khám phá để làm gì vậy? Vì cái lý do gì vậy?
Tôi không bằng lòng cách xưng hô như vậy.
- Anh đừng gọi tôi là “pan” nữa. Tôi cũng “pan” như anh thôi mà. Còn lý do thì... Vì hiếu kỳ, có thế thôi. Với lại cũng thương cô chủ và nhiều người khác nữa.
- Phải. Chuyện cô chủ của cậu, tôi cũng từng nghe, - Rưgôrơ liếc nhìn tôi, mỉm cười cau có. – Bọn tôi hiểu những chuyện như vậy lắm chứ. Cũng như thể Zôxia đối với tôi ấy mà. Sao cậu không bảo là vì căm tức bọn chúng, muốn rửa mối hận nữa? Số là tôi có biết chuyện cậu vắt chân lên cổ mà chạy trốn cái đội săn ấy ở cạnh sông.
Tôi kinh ngạc:
- Sao anh biết?
- Mỗi người đều có hai con mắt, và mọi người đều để lại dấu vết trên mặt đất. Hôm ấy, cậu đã chạy trốn như một người khôn ngoan. Khổ một nỗi là lần nào tôi cũng mất hút dấu vết của chúng. Bao giờ cũng vậy, dấu chân ngựa bắt đầu và kết thúc đều ở trên đường cái.
Tôi kể lại cho anh ta nghe mọi sự từ đầu chí cuối, Rưgôrơ ngồi ngay như tượng, hai bàn tay to, thô ráp đặt trên đầu gối.
- Tôi đã chăm chú nghe hết, - anh nói giản dị khi tôi vừa dứt lời. – Tôi ưng cậu đấy. Cậu cũng xuất thân từ đám mugik chăng? Tôi cho rằng nếu không phải là từ đám mugik ra thì cũng nằm gần kề với mugik. Chính tôi từ lâu cũng đã có ý vặt lông cái bọn ma quỷ ấy, hiềm một nỗi chưa có người hiệp lực. Nếu cậu không nói chơi, thì ta cùng làm. Nhưng cơ mà, theo tôi, cậu chỉ vừa mới nảy ra ý nhờ cậy tôi thôi. Sao bỗng dưng lại thế? Vậy trước đây cậu muốn gì?
- Tại sao thì tôi cũng chẳng biết nữa. Mọi người đều nói tốt về anh: khi tiểu thư Janốpxkaia trở nên côi cút hoàn toàn, anh đã tỏ ra rất thương xót cô. Tiểu thư Nađêia có kể với tôi là anh đã định chuyển sang làm người gác cổng cho lâu đài Rừng Tùng Đầm Lầy, nhưng rồi không hiểu sao lại thôi. Với lại, tôi rất thích khi thấy anh là một người độc lập, biết thương người điên dại. Thực ra, mới đầu tôi chỉ định đến hỏi xem tại sao đúng vào đêm Rôman chết, cô bé Nađêia đã ở chơi nhà Kunsa quá muộn.
- Tại sao cô bé ở chơi quá muộn thì tôi cũng không rõ. Hôm ấy, đám tiểu thư các trại ấp quanh đây tụ tập ở nhà bà chủ tôi. Vui lắm. Còn như tại sao cả Janốpxkaia cũng được mời đến thì tôi cũng không rõ nốt, bởi vì đã mấy năm cô bé không lui tới đây. Giờ thì bà này, anh thấy đấy, bà ấy chẳng nói rõ được đâu.
- Sao lại không nói rõ được? – bà già bỗng mỉm cười hầu như tỉnh táo. – Tôi nói được chứ. Tôi không mất trí đâu, làm ra thế này tiện lợi và đỡ nguy hiểm cho tôi hơn, có vậy thôi. Còn như việc mời con bé Nađêia tội nghiệp, ấy là yêu cầu của Garabuôcđa. Cả con cháu gái của ông ta cũng đến chơi nhà tôi hôm ấy. Với một hiệp sĩ như ngài, thưa pan đại nguyên soái, già này xin kể hết. Phải, phải, chính Garabuôcđa đã khuyên chúng tôi mời con bé đến nhà. Nơi chúng tôi đây, mọi người đều tốt bụng mà. Các ký phiếu của chúng tôi đã về tay pan Đubôtôpkơ ráo, nhưng ông ta đã không kiện đòi khấu phạt ký phiếu. Ông bảo: để làm tin, khiến bà con phải năng lui tới nhà tôi nốc rượu, giờ thì tôi có thể bắt ép chư vị cũng phải uống... Phải, tất cả đều mời Nađêia. Cả Garabuôcđa, cả đại nguyên soái Kamenxki, cả Đubôtôpkơ, cả Rôman, cả Quốc vương Xtác nữa! Đây, cái lão này. Ôi, khốn nạn cháu tôi, Nađêia ơi là Nađêia! Làn tóc tơ vàng của cháu rồi đến chôn vùi cạnh xương khô của cha cháu mất thôi!
Những lời than khóc ấy về một người còn đang sống sờ sờ khiến tôi phải rùng mình.
- Cậu đã thấy chưa? Chẳng biết thêm được là bao, - Rưgôrơ nói, mặt cau có. – Ta ra ngoài một lát.
Khi chúng tôi đã ra khỏi nhà và tiếng than khóc của bà lão đã im bặt, Rưgôrơ nói với tôi:
- Thôi được, ta sẽ cùng sục sạo. Tôi cũng ngứa ngáy muốn được nhìn tận mắt cái trò quỷ quái này. Tôi sẽ sục sạo dưới đất và trong đám dân thường, còn cậu thì lục lọi trong giấy tờ và dò xét đám sliăcta. Biết đâu, ta sẽ tìm ra.
Bỗng cặp mắt anh ta trở nên dữ tợn, đôi lông mày đen như than nhíu lại trên sống mũi.
- Chuyện đàn bà, ma với chả quỷ. Phải bóp cổ ráo bọn chúng nó, chẳng có chỉ một vài đứa sống sót thôi là anh em ta lại khốn khổ. Biết làm sao được... – Đoạn, anh đột ngột kết luận: - Thì cũng như tôi đây, dẫu tiếc rẻ cái thú phóng khoáng nơi rừng xanh, nhưng đôi khi vẫn cứ nghĩ đến Zôxia. Cô ả cũng sống ở đây. Chưa chừng, tôi sẽ lấy cô ta. Cô ta làm bếp. Nhưng cũng có thể, tôi sẽ sống suốt đời độc thân, giữa rừng. Tôi tin cậu chính là vì bản thân tôi cũng đôi lúc nổi cơn điên lên vì cặp mắt ma quái của một con đàn bà (Tôi ko nghĩ như vậy, song thấy không cần tranh luận với con gấu ấy). Có điều, xin anh bạn nhớ kỹ cho. Nếu như anh đến xúi bẩy tôi, rồi bản rẻ - chốn này lắm kẻ lăm le thịt Rưgôrơ đấy – thì xin báo trước: anh sẽ không sống nổi ở đời đâu, Rưgôrơ chẳng hề biết sợ ai, ngược lại, mọi người đều sợ Rưgôrơ. Rưgôrơ lại nhiều bạn bè: nếu không, chẳng sống nổi nơi đây. Với lại, tay này bắn rất cừ. Tóm lại, tôi sẽ giết chết – xin nhớ cho kỹ đấy!
Tôi nhìn anh ý trách móc. Rưgôrơ nhìn thẳng vào mắt tôi, đoạn cười phá lên và kết luận bằng một giọng khác hẳn.
- Nói chung, tôi đợi cậu đến đã từ lâu. Không hiểu sao, tôi cứ nghĩ là cậu sẽ không để yên chuyện này, mà đã bắt tay vào khám phá nó thì không thể qua mặt thằng Rưgôrơ này. Thôi được, ta sẽ giúp nhau một phen.
Hai chúng tôi chia tay nhau ở cửa rừng, cạnh Bãi thụt Khổng lồ, sau khi đã hẹn sẽ gặp lại. Tôi đi thẳng xuyên qua khu vườn, trở về lâu đài.
Tôi về đến Rừng Tùng Đầm Lầy thì bóng tối nhá nhem bao phủ khắp khu vườn. Người đàn bà có đứa con nhỏ ngủ yên trong một phòng ở tầng dưới. Nhưng nữ chủ nhân vẫn chưa có nhà. Tôi đợi nàng chừng một tiếng. Đến khi trời tốt mịt, tôi không chịu nổi nữa, bổ đi tìm. Tôi vừa đi được một đoạn rặng cây u ám thì trông thấy một bóng trắng đang hốt hoảng tiến lại phía tôi.
- Tiểu thư Nađêia!
- Ô, ngài đấy à? Lạy chúa! Tôi lo quá. Ngài đi lối tắt à?
Nàng bỗng bối rối, cụp vội mắt xuống. Khi chúng tôi đã về gần đến lâu đài, tôi nói nhỏ với nàng:
- Tiểu thư Nađêia! Tôi xin tiểu thư từ nay không ra khỏi nhà khi trời đã tối. Tiểu thư hứa với tôi nhé!
Tôi phải van nài mãi, nàng mới hứa như vậy.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com