CHƯƠNG 8: Vậy nghĩa là đây không phải quần áo thường ngày sao?
CHƯƠNG 8: Vậy là đó không có nghĩa là quần áo thường ngày sao?
Người dịch: Hắc Sa
"Ồ! Hôm nay cà rốt cũng trông ngon quá trời!"
Và tôi lại tiếp tục bận rộn với việc làm nông. Tuần này, trọng tâm là hành tây, cà rốt, ngô và khoai tây.
Mỗi ngày tôi thu hoạch một lượng nhất định, rồi giao cho bác nông dân mà tôi đã nhờ chuyển rau đến quán của Couge.
"Mong là thật nhiều khách được thưởng thức những loại rau củ tươi ngon này."
Còn về chuyện ai sẽ làm bơ cho Couge thì bất ngờ lại được giải quyết rất dễ dàng.
Các bạn còn nhớ ông chú lần trước xin tôi ít nước cho con ngựa hôm nọ chứ? Ông ấy tên là Genett, hóa ra vốn là người chăn nuôi bò sữa - và cũng là chỗ quen biết cũ của bố Couge.
Ngày trước, khi bố Couge còn khỏe, ông thường mua thịt bò và sữa từ nhà Genett để phục vụ cho nhà hàng. Nhưng từ khi Couge tiếp quản, lượng khách giảm sút, không còn đủ tiền nhập nguyên liệu nữa, thế là mối làm ăn ấy cũng dừng lại.
Lần này, khi Couge đến học cách làm bơ, anh ấy lại tình cờ gặp lại Genett. Và ông nói rằng mình muốn giúp đỡ.
Ông đã quen biết Couge từ khi anh còn bé và luôn âm thầm lo lắng cho anh.
Trong mắt tôi, Couge giống như một người mẫu đẹp trai. Nhưng với Genett, anh vẫn chỉ là cậu bé ngày nào. Ông liên tục xoa đầu Couge, khiến anh đỏ mặt ngượng ngùng. Thật lòng mà nói, cảnh đó đáng yêu vô cùng.
Phần khó nhất trong việc làm bơ - khuấy trộn - đã được giải quyết nhờ sáng kiến của Couge. Anh đề nghị đổ sữa vào một thùng gỗ rồi buộc lên người Brian, để nó lăn lóc theo nhịp chạy của ngựa. Nhờ vậy, chúng tôi có thể làm ra một lượng bơ lớn trong một lần.
Số bơ dư không dùng trong nhà hàng sẽ được mang bán ngoài chợ. Dần dà, người dân sẽ biết đến bơ, và chẳng mấy chốc, chuyện dùng bơ trong bữa ăn hằng ngày sẽ trở thành điều bình thường.
"Heeey, Shinobuuu!"
"Ồ, Genett-san!"
Ngày nào ông cũng đến đúng giờ như thế. Đến cả Pochi - từng gầm gừ với người lạ - giờ cũng vẫy đuôi chạy ra chào ông.
"Đây là rau hôm nay. À, tiện thì ông có thể mua giúp cháu ít bánh mì trên đường về không ạ?"
"Được thôi. Loại thường ngày chứ?"
"Dạ vâng, loại đó đấy ạ!"
Theo thỏa thuận, Genett nhận một khoản hoa hồng nhỏ từ mỗi lần giao rau cho quán của Couge. Ngoài ra, tôi còn nhờ ông mua thêm bánh mì, muối và vài món nhu yếu phẩm khác trên đường về.
Nhờ vậy, tôi không còn phải tốn cả tiếng đồng hồ để tự đi ra thị trấn nữa.
"Có vẻ quán của Couge làm ăn khấm khá đấy," Genett nhận xét. "Ban đầu ta còn hoài nghi, nhưng cháu đúng là nghĩ ra cách hay. Ta chưa từng nghe có quán ăn nào mà thực đơn chỉ có đúng một món cả."
Tôi cười toe: "Hehe, đỉnh quá còn gì!"
Thực đơn chỉ có duy nhất một món: "Đặc Biệt Của Bếp Trưởng" Chỉ phục vụ sáu mươi suất mỗi ngày, hết là đóng cửa.
Khi Couge gặp khó khăn với quán ăn, cả ba chúng tôi - Couge, Norn và tôi - đã cùng nhau ngồi lại bàn bạc tìm cách.
"Nếu chỉ có một mình anh lo quán thì không thể làm quá nhiều món được. Khâu chuẩn bị thôi cũng đủ ngốn hết thời gian rồi", tôi phân tích.
"Vậy thì bỏ bớt vài món là được mà?" Norn gợi ý.
"Như thế thì đúng là nhẹ việc, nhưng khách có chán không khi ngày nào cũng chỉ ăn mấy món ấy?" Couge băn khoăn.
"Cũng đúng..." tôi gật gù.
Hơn nữa, giá nguyên liệu còn thay đổi theo thị trường. Có những ngày, chỉ riêng một món ăn thôi đã không bù nổi chi phí - thậm chí còn lỗ.
Ở thế giới cũ, tôi thường nghe tin tức nói về những vụ mùa thất bát khiến giá cả leo thang, người dân buộc phải thắt lưng buộc bụng.
Nếu thực đơn có nhiều món, khi giá nguyên liệu tăng thì món này có thể bù cho món kia. Nhưng lỡ đâu tất cả đều lỗ thì sao? Đó mới là vấn đề thực sự.
Khi ấy, chẳng ai trong chúng tôi nghĩ ra giải pháp nào khả thi, thế là đành đi ăn trưa trước đã.
Món súp cà chua đã trở thành món ăn "truyền thống" của bọn tôi. Thường thì tôi sẽ cho thêm bắp cải, nhưng đợt rồi tôi đã thu hoạch hết và vừa mới gieo lại.
Lần này, tôi thay bằng hành tây.
"Ơ, hôm nay không có bắp cải à?" Norn hỏi.
"Ừ, hết mất rồi", tôi đáp. "Nhưng đừng lo, nấu với hành tây thì vẫn ngon lắm."
"Hành tây cũng tuyệt mà", Couge gật gù tán thành.
Chợt tôi nhớ ra một chuyện.
"Ở thế giới của tớ có một quán cà phê, trong thực đơn có món gọi là 'Salad Đặc Biệt Của Bếp Trưởng.' Nguyên liệu thay đổi tùy hôm - lúc thì bắp cải, khi thì rau diếp, thỉnh thoảng lại có bắp ngọt. Ngoài ra họ còn có món đặc biệt trong ngày, chỉ khi khách ghé quán mới biết đó là món gì."
Kiểu như hỏi: "Hôm nay có gì trong thực đơn vậy?" Cái bất ngờ đó lại khiến người ta háo hức.
Đôi mắt Couge sáng lên. "Ý tưởng hay đấy."
Tôi chớp mắt. "Hả?"
"Thực đơn thay đổi hằng ngày," anh vừa gặm dưa chuột muối vừa nói
"Làm vậy thì khách sẽ không thấy ngán."
Norn tiếp lời: "Mà nếu chỉ bán duy nhất món đặc biệt hằng ngày thì sẽ không có lãng phí thức ăn. Cứ mua nguyên liệu nào rẻ nhất hôm đó rồi xoay quanh nó thôi."
Đúng là Norn - thậm chí còn nghĩ đến chuyện giảm thất thoát thực phẩm, điều mà tôi chưa bao giờ để ý tới.
"Nhưng nếu đổi món mỗi ngày, chắc nhanh hết ý tưởng lắm," Couge cân nhắc. "Hay là đổi theo tuần thì tốt hơn?"
"Vậy thì nên giới hạn số suất," Norn đề xuất. "Làm ít trước, nếu ổn thì dần tăng lên."
Hai người cứ thế hào hứng tung hứng ý tưởng, còn tôi chỉ ngồi đó, cười mỉm.
Trong đầu tôi đã vẽ ra một viễn cảnh: Norn bỏ việc để phụ giúp ở quán, hai người họ ngồi cạnh nhau như bây giờ, cùng nhau bàn bạc với ánh mắt sáng ngời. Chỉ tưởng tượng thôi tôi cũng thấy hạnh phúc rồi.
"Vậy thì quyết định vậy nhé! Chúng ta sẽ làm Đặc Biệt Của Bếp Trưởng!" tôi tuyên bố.
Giới hạn sáu mươi suất hóa ra lại thành cú hích lớn. Giống như ở thế giới cũ của tôi, người ta khó cưỡng lại bất cứ thứ gì gắn nhãn "giới hạn."
Tin đồn lan ra rằng món ăn sẽ thay đổi hằng tuần và hết là thôi, thế là khách ùn ùn kéo đến. Thậm chí còn có cả hàng dài xếp trước cửa.
Nhà hàng mở cửa ngay trước buổi trưa và chỉ hoạt động khoảng hai đến ba tiếng, cho đến khi hết nguyên liệu. Thời gian còn lại, Couge dùng để thử nghiệm công thức mới - hoặc ở bên Norn.
Và món Đặc Biệt Của Tuần lần này chính là... hamburger steak mọng nước!"
Couge nhờ tôi dạy thêm vài món ăn từ thế giới của mình, và món đầu tiên tôi chọn chính là hamburger steak. Ở đây, người ta chỉ quen xắt thịt rồi đem nướng, thế nên món này vừa lạ lẫm vừa tạo cơn sốt ngay lập tức.
Món ăn kèm là cà rốt rim ngọt, khoai tây chiên giòn, thêm súp bắp nóng hổi để bữa ăn tròn vị.
...Chỉ nghĩ đến thôi mà bụng đã réo lên rồi.
Tôi vẫy tay chào Genett-san khi ông mang thịt, bơ và rau đi đến nhà hàng của Couge. Bất chợt có một lực kéo nơi cánh tay, khiến tôi cúi xuống - Pochi đang ngước lên nhìn, ánh mắt như muốn nói rõ rành rành: Còn phần của em đâu?
"Pochi, ăn sáng nhé? Khoai tây hấp với bơ thì sao? Em cũng thích bơ mà, đúng không?"
"Gâu!"
Đúng y lúc, chẳng sai một nhịp, khiến tôi bật cười.
Đã ba tháng kể từ ngày tôi đặt chân đến thế giới này. Lại đến lúc dốc hết sức làm việc ngoài đồng thôi!
"Anh cũng thấy mình trưởng thành hơn rồi đấy." Tôi lẩm bẩm, giơ tay lên gồng thử. So với ngày mới đến, da đã rám nắng, cơ bắp cũng nổi rõ hơn mỗi lần siết tay. Việc gánh nước hay khiêng rau giờ chẳng còn nặng nhọc như trước. Có lẽ tôi thật sự đã mạnh mẽ hơn?
"Với đà này, biết đâu mình còn cao thêm nữa."
Tôi vẫn chưa bỏ hy vọng. Ăn rau củ khổng lồ và uống sữa của Hanako với Hanayo ba lần mỗi ngày, chẳng lẽ lại không giúp tôi cao lên? ...Nhưng tiếc là những vạch khắc trên cột ngoài cửa vẫn y nguyên. Thứ duy nhất thay đổi chỉ là rãnh ngày một sâu thêm.
Pochi thì tưởng tôi đang chơi trò gì đó. Nó cào vào cột bằng móng, mảnh gỗ bay tung tóe. Tôi bắt đầu lo một ngày nào đó nó sẽ húc đổ cả cây cột mất.
"Chỉ cao thêm một chút nữa thôi mà, được không? Bị nhầm với đứa mười tuổi thì hơi..."
Tôi chắp tay vái vái, như cầu nguyện: Hỡi các tế bào, hãy tiến hóa đi nào! Hãy để tôi mọc vọt lên như măng non!
"Ơ, đằng kia có chuyện gì thế nhỉ?"
Sau khi khắc thêm một vạch mới, tôi bước ra ngoài. Nhìn dọc theo con đường thẳng tắp dẫn ra khỏi thị trấn, tôi thấy một đoàn dài thứ gì đó đang tiến lại gần.
Một đoàn mooc nối đuôi nhau kín cả con đường.
Chẳng lẽ sắp có lễ hội?
Cảnh tượng ấy bất giác gợi tôi nhớ đến Lễ hội Nebuta ở Aomori* mà tôi từng thấy trong một chương trình du lịch, khiến lòng nao nao chờ đợi.
*Lễ hội Nebuta ở Aomori là một trong những lễ hội mùa hè nổi tiếng nhất ở Nhật Bản, được tổ chức hằng năm vào đầu tháng 8 tại thành phố Aomori, vùng Tohoku.
Dẫn đầu đoàn rước là những người khoác kín mình trong bộ giáp toàn thân. Thứ tôi chỉ từng thấy trong phim thôi - gọi là gì nhỉ, giáp sắt thời trung cổ thì phải?
Cả cơ thể họ bọc cứng trong kim loại, chẳng khác gì mấy hiệp sĩ trong trò chơi nào đó cưỡi ngựa... à không, cưỡi slime.
Mặt trời chói chang, nắng gắt như muốn nói: "Nóng đi, cháy đi!" Bị nhốt trong bộ giáp thế kia thì chắc khác nào bỏ vào lò quay chậm.
Thật lòng mà nói, chắc họ hát Oyoge! Taiyaki-kun* cũng ra chất não nề lắm.
*Oyoge! Taiyaki-kun tạm dịch là Bơi đi nào! Chú bánh cá nướng. Đây là một bài hát thiếu nhi Nhật Bản cực kỳ nổi tiếng, ra mắt năm 1975.
https://youtu.be/Dq2xiLxAiIs
Đoàn rước vui như lễ hội ấy tiến lại gần, rồi bất ngờ dừng ngay trước cửa nhà tô - chỉ cách đúng ba bước.
"..."
"..."
Hả? Sao lại dừng ở đây?
Mấy hiệp sĩ bọc giáp cứ đứng im phăng phắc, ánh mắt dán thẳng phía trước.
"..."
"..."
Chẳng lẽ họ đang chờ tôi ném cho ít tiền cúng như kiểu lễ hội? Bình thường mấy dịp đó sẽ có trẻ con ôm thùng quyên góp mà.
"..."
"..."
Vẫn im re. Chẳng ai nhúc nhích, chẳng ai mở miệng. Không biết phải làm gì, tôi cũng đứng cứng đơ tại chỗ.
Rồi đúng khoảnh khắc ấy, cả hai bên đồng thanh:
"Ngươi vì sao chưa quỳ xuống?"
"Anh không nóng sao?"
Chúng tôi nói cùng lúc y như thể có kịch bản.
"Quỳ xuống á?" tôi lặp lại ngây ngô.
"Đương nhiên là nóng", ngời đó đáp tỉnh bơ.
Lại trùng nhịp nữa rồi!
Khoan,"quỳ xuống"? Từ này nghe quen lắm... À, nhớ rồi! Trên thiệp cưới của anh họ có in: Xin vui lòng đến trong trang phục giản dị. Hồi đó tôi còn nghĩ, lỡ ai mặc quần jean áo thun đến thật thì chắc chỉ có nước độn thổ mất mặt.
Không để ý đến chuỗi suy nghĩ vẩn vơ của tôi, hiệp sĩ chậm rãi giải thích:
"Quỳ xuống nghĩa là quỳ gối, cúi thấp đầu, chống hai tay xuống đất."
Cứ thế, cả hai liên tục nói đè lên nhau, tình huống lố bịch đến mức tôi không nhịn được, bật cười khúc khích, rồi phá lên thành tiếng.
Cuối cùng, người đàn ông trong bộ giáp xoay chiếc mũ sắt về phía tôi. Tôi nhận ra có một khe hẹp ngang tầm mắt-liệu nhìn kiểu gì qua đó được nhỉ?
"Firks-sama sẽ đi ngang qua đây ngay thôi", ngời đàn ông trang nghiêm tuyên bố. "Ngài là bậc tôn quý, vì vậy ngươi phải quỳ xuống và dâng lời cảm tạ."
Giữa những tiếng cười khúc khích, tôi chỉ nghe loáng thoáng: thì ra cả đoàn rước này là để tôn vinh một nhân vật quan trọng nào đó.
"Người mà ngươi phải dâng lời cảm tạ," hửm? Nghe thế lại khiến tôi nhớ đến vị sư thường ghé nhà bà ngoại.
Ông ấy mặc áo choàng vàng thêu hoa văn tinh xảo, đến tụng kinh mỗi dịp Obon hay ngày giỗ. Mỗi lần như thế, bà ngoại sẽ lấy chiếc đệm ngồi êm nhất trong nhà, đặt ngay trước bàn thờ. Hồi còn bé, tôi lúc nào cũng ganh tị -chỉ có sư mới được ngồi, còn tôi thì không.
Bà chắp tay cung kính, cúi đầu cảm tạ.
Vậy thì Firks-sama kia cũng là... một nhà sư chăng?
"À... ngài ấy là sư sao?" tôi hỏi.
"Cái gì cơ?"
À, xem ra đoán sai mất rồi.
Thật khó hiểu. Có lúc hai bên ăn khớp y như nghĩ cùng một sóng, có lúc lại chẳng hiểu nổi nhau. Người đàn ông trong giáp thở dài khe khẽ, rồi tiến lại gần.
Anh ta cao lừng lững. Có lẽ bộ giáp khiến anh trông còn to lớn hơn, toát ra khí thế khiến tôi theo phản xạ lùi lại.
"Grrrr... gâu! Gâu!"
Đúng lúc đó, Pochi từ trong chuồng ươm cây - mà tôi tạm dùng làm chỗ phơi thảo dược - phi ra như cơn lốc, đứng chắn ngay trước mặt tôi.
Đã lâu rồi nó mới lộ rõ bản năng thú dữ: nhe răng, gầm gừ uy hiếp kẻ lạ. Tôi hoảng hồn, sợ hiệp sĩ nổi giận, vội vàng nhào tới ôm lấy Pochi.
"Pochi! Này, đừng gầm nữa! Đừng có nhe răng ra như thế chứ!"
Người hiệp sĩ khựng lại, một chân còn lơ lửng giữa không trung. Rồi từ từ, rất từ tốn, anh hạ chân xuống, lùi về vị trí ban đầu.
Pochi thông minh, chỉ cần không ai vượt qua ranh giới lãnh thổ, nó sẽ không tấn công. Nhưng nó vẫn cảnh giác, tai dựng thẳng, đuôi vểnh cao, dõi chặt từng cử động của hiệp sĩ.
"Xin lỗi! Pochi là chó giữ nhà của tôi, nên chỉ đang cố bảo vệ chủ thôi. Nó sẽ không gầm gừ nữa đâu, xin ngài đừng giận!"
Tôi vừa ra sức xoa lưng Pochi để dỗ dành, vừa cúi rối rít xin lỗi.
Bởi vì... mãi sau tôi mới để ý: bên hông người hiệp sĩ ấy có treo một thanh kiếm.
Đây không phải đoàn rước lễ hội hóa trang. Đám hiệp sĩ này hẳn là thị vệ của một nhân vật cực kỳ quan trọng. Tôi thật ngốc, giờ mới nhận ra.
"Không, là ta sơ suất. Một khi có người lạ xâm nhập, chó giữ nhà sẽ không bao giờ thôi cảnh giác. Ta không giận."
Aaa, đúng là người rộng lượng! Thật may mắn làm sao!
Trong đầu tôi cứ nghĩ, lỡ đâu anh ta lại cư xử như mấy samurai thời Edo, viện cớ được "chém người" rồi rút kiếm ra thì biết làm thế nào...
Tôi đã quên mất. Mọi người quanh tôi đối xử quá tốt, đến nỗi khiến tôi lơ là, quên rằng mình đang ở một thế giới hoàn toàn khác nơi mình từng lớn lên.
Có nhiều điều tôi vẫn chưa rõ: cái gì nên làm, cái gì không nên.
Giống như ở thế giới cũ, chuyện giơ tay gọi taxi ở Nhật thì bình thường, nhưng có quốc gia lại xem cử chỉ đó là xúc phạm. Vì vậy, trong sách hướng dẫn cho người mới nhập cư vào thế giới này cũng ghi rõ: phải học tập phong tục và cẩn thận, kẻo vô tình lỡ lời hay lỡ động tác nào đó lại thành bất kính.
...Nghĩ vậy mà lòng nhẹ hẳn. Chân tôi nhũn ra, cơ thể như đổ hết sức nặng lên Pochi.
Pochi đối với tôi chẳng khác gì người thân trong gia đình. Tôi cần phải hiểu rõ thế giới này hơn, để nó không còn phải nhe răng gầm gừ thay tôi nữa.
Tôi áp má lên bộ lông mềm của Pochi, thì bất chợt, cỗ xe ngựa đi giữa đoàn rước đã vượt qua mấy con mooc, tiến thẳng đến gần. Nó dừng lại ngay phía sau người hiệp sĩ.
Chiếc xe sang trọng ấy đúng là vượt xa cái xe gỗ ọp ẹp của tôi.
"Có chuyện gì vậy? Đã xảy ra điều gì sao?"
Từ trong xe vọng ra giọng đàn ông hơi cao, nghe như vẫn còn trẻ. Hiệp sĩ lập tức đứng thẳng, giơ tay chào trang nghiêm.
Hẳn đây chính là vị quý nhân mà anh ta nhắc đến.
Ngài ta có giận vì tôi làm gián đoạn đoàn rước không?
Cảm giác căng thẳng quay trở lại. Tôi bật dậy, rời khỏi chỗ dựa vào Pochi, cố gắng đứng thẳng tắp, ngẩng đầu nhìn lên cỗ xe sang trọng trước mặt.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com