Nốt bi thương cùng sống biển
* Thẩm Dực ngôi thứ nhất
* Sau khi vụ án của Nguyễn Phương Phương
--- --- ---
Tôi đạp xe, chậm rãi đi về phía bờ biển đã xa cách từ lâu.
Bắc Giang - cái tên nghe qua dường như gợi đến những cơn gió sông phương bắc lạnh lẽo, run rẩy. Nhưng thật ra, nơi này lại mang đậm phong tình phương Nam. Nơi đất liền gặp biển, mặt nước xanh lam dưới ánh nắng như rắc vàng, từng vệt sáng loang loáng biến đổi không ngừng, phản chiếu vẻ huyễn hoặc lấp lánh.
Trong lịch sử, đã có biết bao nghệ sĩ dùng bút vẽ để phác họa đại dương trong lòng mình. Có người thấy nó tự do như cánh hải âu trắng khẽ chạm vào mặt biển bao la. Có người lại nhìn thấy sự giam cầm, như bị chìm xuống tầng sâu hun hút, ngạt thở trong nỗi sợ hãi vô hình.
Nếu là tôi của mười năm trước, khi đứng trước một vùng biển xanh thẳm thế này, ngòi bút chắc hẳn sẽ rơi xuống theo hướng của vế sau - một ý cảnh trầm nặng, ngột ngạt. Dù sao, những lần chạm mặt biển thuở ấy của tôi cũng chẳng có gì đẹp đẽ để mà lưu giữ.
Nhưng nếu đổi thành hiện tại, tình thế đã khác rất nhiều.
Vẽ tranh, chung quy vẫn là dựa vào khoảnh khắc bùng nổ của xúc cảm và linh cảm. Tình cảm càng dồi dào, nét vẽ càng sống động, tác phẩm lại càng đặc biệt.
Ví như vừa rồi, tôi đã bất ngờ cảm nhận được một luồng kích thích đâm thẳng vào tim.
Nguyễn Phương Phương buông xuôi, vặn bật chiếc bật lửa. Tia lửa nhỏ bé như cánh chim rực cháy từ tay cô ta rơi xuống, muốn châm ngòi cho một biển lửa tội ác. Nếu khi ấy Đỗ Thành chỉ muộn một giây thôi, thì tôi, anh ấy, và tất cả những người ở đây đều sẽ bị nhốt trong lò luyện quái thú, cháy rực trong tuyệt vọng méo mó, cuối cùng chẳng còn gì ngoài tro tàn bay đi.
Vì vậy, khi tỉnh táo nghĩ lại, việc Đỗ Thành trút lên tôi cơn giận ngút trời, cũng không phải điều không thể hiểu. Tôi không hề thật sự vô tội hay đáng thương như cái vẻ ngoài mình cố tỏ ra.
Tóm lại, thời gian là một môn học vấn sâu xa đến khó lường, rất ít người có thể giải được. Nó có thể biến một kẻ tự do như nghệ sĩ thành một công chức khuôn phép. Nó cũng có thể làm cho sự hằn học của Đỗ Thành dành cho tôi lắng xuống, kết thành lớp vỏ sò cứng cáp bao quanh, để che chở viên ngọc trai yếu ớt bên trong, mặc cho gió mưa ngoài kia ra sức vùi dập.
Thế là tôi chợt nảy ra ý muốn vẽ một bức tranh. Tiếc rằng không mang theo màu nước bên mình, đành phải phác họa bằng trí tưởng tượng tái nhợt:
[Ở đầu kia của con đường ven biển, núi lửa rực đỏ phun trào dữ dội. Trên mặt biển, mưa gió cuồn cuộn, sấm chớp rạch ngang bầu trời. Một người đứng lặng bên bờ, đối diện với ngọn sóng ngập trời đang tràn đến. Nhưng kỳ lạ thay, tất cả dường như bị một bức tường vô hình chặn lại, không sao chạm được đến thân thể anh ta.
Từ đỉnh núi, những tảng nham thạch nóng rực nứt toác rơi xuống, tàn nhẫn và tuyệt tình nện xuống mặt biển, bắn tung vô số đóa thủy hoa và khuấy động những vòng xoáy khổng lồ.
Vòng xoáy ấy gào thét không ngừng, giống như một vết thương không thể nào khép miệng.
Người đứng bên bờ chính là tôi, còn Đỗ Thành thì như đang giương nanh múa vuốt giữa biển cả, kiên định chặn tôi khỏi tội ác đang tràn tới. Khí thế dữ dội ấy là cách duy nhất anh bảo vệ tôi, tuyệt đối và không khoan nhượng.
Khi vòng xoáy đánh trúng, lòng bàn tay anh bị bỏng - vết thương do Nguyễn Phương Phương để lại. Nhưng đó cũng là dấu sẹo mà anh đã mang theo suốt mười mấy năm, lưu lại từ những tội lỗi và đổ vỡ không thể xóa nhòa. Và đồng thời, anh không nhận ra rằng phần đau ấy... cũng chính là tôi.
Tôi là vết thương cháy bỏng, âm ỉ lưu giữ trong lòng Đỗ Thành.]
Có một câu nổi tiếng rằng con người rất dễ dàng yêu anh hùng của mình.
Tôi, trong những lần sống sót nhờ Đỗ Thành cứu, từng cảm nhận adrenaline bùng nổ dưới da, khiến tôi nhận ra sinh mệnh mình cuối cùng thuộc về bóng lưng cao lớn của anh. Khi anh ấy đứng trước mặt, chắn trọn tầm mắt tôi, không phải như con ếch ngồi dưới đáy giếng tự lừa dối mình, mà là hùng vĩ như ngọn núi vững chắc, đáng tin cậy.
Đôi khi, tôi vẫn cảm thấy một chút ủy khuất, lẩn khuất trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy.
Rất nhiều lần, sau những tai ương thoát chết, tôi run rẩy khi nhìn anh ấy. Mỗi lỗ chân lông trên cơ thể tôi dường như đều khao khát, đòi hỏi hơi ấm từ người ấy, mong được ôm ấp.
Trong khoảng trống băng lãnh nơi nội tâm, nơi tôi không thể chiếm trọn cảm giác an toàn, tôi lại tiến về phía ngực anh. Nhón chân lên, áp mặt vào cằm thô ráp của anh, vòng tay ôm lấy eo, đầu tôi tựa vào xương quai xanh và cằm anh. Tôi hít vào hương khô ráo trên người anh, cảm nhận toàn bộ năng lượng tỏa ra, từng cơn nhiệt lượng lan khắp người tôi.
Tình yêu là Medusa phun ra nọc độc nguy hiểm, mê hoặc đến mức đỏ lưỡi rắn, tôi biết mình từ lâu đã không còn thuốc chữa cho việc yêu anh. Là Napoleon đổ bộ Waterloo, cũng là mùa hè duy nhất trong đời, vượt qua kiếp này chỉ một lần.
Vừa khi anh ấy mắng tôi, tôi đứng phía sau, lo sợ và áy náy như thủy triều dâng, chỉ muốn xông tới ôm anh, nói rằng tôi ổn, tôi ở đây, an toàn ngay trước mắt anh. Tôi tưởng tượng cảnh anh ấy tức giận, nắm lấy gáy tôi yếu ớt, ngón tay thô ráp lướt qua tai tôi, chống tôi vào cửa xe, để tôi cảm nhận trọn mùi thuốc súng trên môi và lưỡi anh.
Tôi muốn kéo anh lại, thở dốc mà hỏi: "Đỗ Thành... Đỗ Thành, anh... có yêu tôi không? Nếu không yêu, sao vẫn muốn liều mình cứu tôi? Chỉ vì... tôi là đồng đội của anh, hay là...?"
Nhưng tôi không thể hỏi. Và tôi biết, Đỗ Thành cũng sẽ không bao giờ trả lời theo cách đó.
Lòng tôi như khăn lau bị vắt kiệt, từng giọt yêu thương thầm kín dành cho anh rơi xuống mà chẳng cách nào giữ lại được.
Vì thế, tôi quyết định chạy trối chết, lao thẳng ra mảnh bờ biển này.
Những phức tạp trong tâm tư dần được gió biển ướt át vuốt ve, xoa dịu từng chút một. Tôi đẩy xe đạp thẳng, rồi cưỡi dọc theo con đường ven biển hướng về phân cục.
Quả thật, sinh vật kiểu anh ấy, thật khó mà thỏa mãn được.
Khi tôi trở lại phân cục, nơi đây đang bận rộn với việc kết án, khung cảnh nhốn nháo, người người tấp nập đi lại.
Khi tôi vòng qua hành lang, Lý Hàm thò đầu ra từ màn hình phía sau, ánh mắt lóe lên tinh nghịch, gọi nhỏ: "Êy, Thẩm lão sư!"
Tôi tiến lại gần, đặt ly cà phê vừa mua trên bàn cô ấy, tựa vào bàn văn phòng bên cạnh, hỏi nhỏ xem cô ấy thế nào.
Tiểu cô nương lập tức nở nụ cười rạng rỡ, bưng lấy ly cà phê và nói: "Thành đội dặn, sau khi anh trở về cứ trực tiếp đến phòng làm việc chờ anh ấy, đừng chạy lung tung."
Tôi bất đắc dĩ gật đầu, liếc nhìn phòng thẩm vấn, nhẹ giọng hỏi: "Anh ấy... còn đang thẩm vấn Nguyễn Phương Phương sao?
Lý Hàm lập tức gật đầu như gà con mổ thóc, rồi liếc nhìn Tưởng Phong như đang dò xét, sau đó tranh thủ thời gian cúi xuống, vui vẻ nhấp một ngụm cà phê giữa bộn bề công việc.
Đẩy cửa phòng vẽ, tôi kéo một chiếc ghế ngồi xuống trước bức tường treo đầy tranh. Từ trong túi vải, tôi lấy ra bức chân dung Nguyễn Phương Phương, toát ra một sắc thái đen tối gần như tuyệt đối. Chỉ cần đoán sơ qua, tôi cũng thấy hầu như chắc chắn: nàng là kiểu nhân cách phản xã hội trời sinh, mặt mũi như thiên sứ thuần khiết nhưng bên trong lại chứa một sức mạnh Satan của Địa Ngục.
Tôi giơ bức tranh lên, nheo mắt cân nhắc xem treo ở đâu mới hợp, nhưng ánh mắt không thể rời khỏi trung tâm: tông hỏa hồng trong bức chân dung, lại giống như hút mắt Đỗ Thành vào bên trong.
Cảnh tượng kỳ lạ ấy khiến tôi bất giác hé miệng, khẽ cười một cái.
Không phải thứ sắc thái huyền ảo mỹ lệ, mà là nóng bỏng, có thể chạm tay vào, cảm nhận và yêu thích. Khi tôi vừa bắt đầu sắp đặt nhân tính đồ phổ, Đỗ Thành tiến tới, nhíu mày nhưng thận trọng hỏi: "Thẩm Dực, cậu tô hồng cho tôi như vậy, có ý tứ gì sao?"
Tôi biết anh ấy vốn nhạy cảm với màu sắc, khó có gì thoát khỏi sự chú ý của anh, nhất là khi màu nào cũng có thể đóng vai trò quyết định trong vụ án Tiểu Bằng. Vì vậy tôi nhẹ nhàng đáp, lễ độ: "Cái này tượng trưng cho anh là thiện lương và chính trực."
Anh ấy gãi đầu, lùi hai bước, cười hỏi: "Trong lòng cậu, hình tượng của tôi cao thượng đến vậy sao?
Rồi anh ấy không nhịn được, tiến lại gần, thực lòng khen tôi: bức họa này vẽ thật giống anh.
Tôi chỉ cười, từ chối góp thêm ý kiến.
Kỳ thật, bức họa này tôi cố ý để anh ấy nhìn thấy, hi vọng từ đó, dù nhiều hay ít, anh ấy cũng nhận ra phần nào tình cảm đầy ắp trong lòng tôi. Chỉ tiếc, nó hóa ra giống như ném mị nhãn vào mắt kẻ mù—đàn gảy tai trâu.
~Cốc~Cốc~ Hai tiếng trong trẻo của tiếng gõ cửa kéo tôi ra khỏi dòng hồi ức.
Tôi hơi giật mình, quay lại, và gặp Đỗ Thành đang tựa sát bên cửa, hơi cau mày, mắt chăm chú nhìn tôi, dường như đã để ý từ lâu mà tôi không hay biết.
Nói không nhưng cơ thể lại thành thật, chỉ sợ rằng đây là căn bệnh chung của nam nhân ở tuổi này.
Tôi ngồi trên ghế phụ, vụng trộm liếc nhìn Đỗ Thành bên cạnh. Anh ấy dường như đang tập trung lái xe, nhưng lại thoáng chút do dự, bờ môi mím chặt rồi buông ra, dáng vẻ vừa căng thẳng vừa xoắn xuýt.
Nhớ lại lúc vừa nãy, trong phòng làm việc, sắc mặt anh khó coi nhưng lại nửa nửa bối rối, nửa nửa kiên quyết nói muốn đưa tôi về nhà, bộ dáng vừa phẫn nộ vừa nhún nhường khiến tôi nhịn không được mà muốn cười.
Ngoại trừ bàn về vụ án, Đỗ Thành gần như không nói chuyện trong suốt hành trình. Xe im ắng, tôi có thể nghe thấy từng nhịp thở liên tiếp của hai chúng tôi. Không khí vừa ấm áp vừa bình yên. Chiếc xe lắc lư nhẹ, khiến tôi hơi mơ màng muốn nhắm mắt.
Trong trạng thái mơ màng ấy, tôi cảm giác Đỗ Thành liếc tôi một cái.
Rồi anh tằng hắng một tiếng. Tôi chống tay phải lên thành xe, ngồi thẳng, mắt buồn ngủ nhập nhèm nhìn lấy anh ấy một cái.
Đỗ Thành vụng trộm liếc tôi một cái. Tôi cũng do dự nhìn anh lâu quá, ngay lập tức như bị bỏng, lùi ánh mắt về phía trước, nhìn thẳng đuôi xe.
Như để xoa dịu sự ngượng ngùng, bàn tay anh vuốt nhẹ lên tay lái, mở miệng hỏi: "Cậu... điện thoại vừa mua sao?
"Chưa có." Tôi thành thật đáp. "Lúc đầu định tan tầm sẽ đi mua, nhưng anh nói muốn đưa tôi về nhà, coi như xong."
Anh ấy dường như khó tin: "Cậu muốn mua điện thoại... mà không nói cho tôi sao?
"Tôi cho rằng anh có chuyện quan trọng muốn giải thích, không dám làm phiền."
Đỗ Thành trêu chọc, nhíu mày: "Không dám làm phiền tôi? Cậu lá gan thật nhỏ nhắn đó, nhưng tôi yên tâm."
Anh ấy dừng một chút, giọng trầm hơn: "Đúng là có chuyện muốn nói cùng cậu, nhưng... không phải bây giờ."
Anh ấy đánh tay lái, chiếc xe quay một vòng ngoặt 180 độ, rồi lao nhanh về phía khu thương mại.
"Đi thôi, trước dẫn cậu đi mua điện thoại di động."
"Loại tình huống này, trong cục có thanh toán sao? " Tôi cố ý trêu anh ấy.
Đỗ Thành hừ một tiếng: "Thế nào? Là muốn điện thoại của cậu báo tai nạn lao động hay mua bảo hiểm? Làm cảnh sát mà cũng không có nhiều chỗ tốt như vậy đâu."
Nói xong, anh cười thêm một câu: "Trong cục không thanh toán đâu, kêu một tiếng "Thành đội", liền chi trả cho cậu."
Tôi hơi khó hiểu trước cách "tận tình" này của anh ấy, nhưng cũng thấy tiện nghi, không chút khách khí, gọn gàng đáp lại: "Thành đội."
Tựa như không nhận ra, tôi bị cuốn theo tốc độ nhanh chóng, khiến Đỗ Thành trong nháy mắt cũng hơi lúng túng, lời nói lộn xộn, thiếu nhận định rõ ràng.
Tôi kéo dây an toàn, xích mình sát lại anh hơn, cười hỏi: "Thành đội, có lời gì... không thể nói bây giờ sao?"
Anh ấy dò xét tôi một giây, rồi đưa tay nhấn tôi trở lại chỗ ngồi, giọng vừa ác vừa hung: "Ngủ đi."
Lúc tan việc đã muộn, nhưng Đỗ Thành vẫn dẫn tôi đi mua điện thoại, rồi kéo tôi đi ăn bữa khuya. Khi về đến nhà, đồng hồ đã chỉ gần mười hai giờ đêm, tôi gần như kiệt sức sau một ngày dài bị "tra tấn" bởi tốc độ và sự chăm sóc tận tình của anh ấy.
Đỗ Thành dừng xe lại bên đường, anh vàng ấm áp từ đèn đường xuyên qua cửa kính, tràn vào, sáng nhưng không chói mắt.
"Vậy, tối nay cảm ơn anh." Tôi cười, mở cửa bước xuống xe.
"Chờ một chút!" Đỗ Thành nói, giọng có phần hoảng hốt.
Tôi hơi sửng sốt, đứng bên ngoài, quay lại nhìn anh.
Anh ấy hơi do dự liếc tôi, ngón tay gõ nhẹ lên vô lăng, rồi thở ra chậm rãi. Một giây sau, anh mở cửa ghế lái, bước ra, chậm rãi tiến đến trước mặt tôi.
Ánh sáng chiếu quanh anh, khiến tôi như bị bao phủ trong bóng tối rộng lớn của anh ấy, ánh mắt anh qua hàng mi thấp thoáng một vẻ ám ánh, kín đáo mà sâu sắc.
Tôi hơi hoang mang, nhìn thẳng vào anh.
Anh liếc đồng hồ, hơi vụng về sờ mũi một cái, rồi nói, hơi lúng túng: "Cậu chờ một chút."
Tôi cảm thấy buồn cười, nhưng vẫn nhẹ gật đầu. Với Đỗ Thành, tôi luôn có kiên nhẫn tuyệt đối.
Hai phút trôi qua, anh ấy liên tục nhìn đồng hồ. Cuối cùng, khi sự kiên nhẫn dường như cạn kiệt, anh lùi lại hai bước, lấy từ ghế sau một hộp quà màu đen tinh xảo, phía trên điểm một dải lụa trắng đơn giản.
Dưới ánh sáng dịu dàng, anh đưa hộp cho tôi, mỉm cười: "Thẩm Dực, sinh nhật vui vẻ."
Chớp mắt sau, điện thoại trong tay tôi rung lên liên tục, tin nhắn chúc mừng từ các đồng nghiệp tràn vào, chen nhau vọt tới. Tôi liếc xuống, nhận ra đồng hồ đã điểm 0:00 - một khoảnh khắc vừa trọn vẹn vừa ấm áp.
Lúc này tôi mới chợt nhận ra, hóa ra ngay cả bản thân mình cũng thường quên mất những ngày quan trọng, nhưng sẽ có người trân trọng ghi nhớ, khắc sâu vào lịch và cả trong tim.
Tôi nhận hộp quà, không chút ghen tị, mở ra ngay trước mặt Đỗ Thành.
Bên trong là một bản bút ký trông giản dị, nhưng ở góc phải được khắc tên bằng kim loại tinh xảo, kèm theo cách đặt trong phong bì mềm mại, rõ ràng giá trị không hề thấp. Tôi dùng ngón tay vuốt ve ký tên trên bản bút ký, lòng dậy niềm xúc động nhẹ nhàng.
Đỗ Thành hơi ngượng, mở lời: "Đây là... tôi bắt chước chữ ký của cậu, nhờ nhân viên cửa hàng khắc ấn. Khi đó tôi hơi khẩn trương, không biết viết có giống hay không."
Tôi giương mắt nhìn anh, gần như có thể tưởng tượng ra cảnh anh ấy đứng trước quầy, cẩn thận miêu tả từng nét chữ, vừa ngượng vừa chăm chú.
Đỗ Thành có vẻ hơi ngượng ngùng, nhưng ánh mắt lại không hề chớp, cứ nhìn tôi chằm chằm, như một con chó to đang chờ được khen ngợi.
"Giống, thật sự rất giống." Tôi chân thành tán dương, khẽ mỉm cười. "Đỗ Thành... lần này... thật sự cám ơn anh."
Nghe vậy, anh ấy bỗng trầm xuống, cúi đầu, không biết đang nghĩ gì. Khoảng lặng kéo dài – hay có lẽ chỉ một thoáng thôi – rồi anh nhẹ hít một hơi, ngẩng lên. Ánh mắt anh ấy mệt mỏi đến nỗi như vỡ ra từng sợi, nhưng lại pha thêm một nét dịu dàng hiếm thấy.
"Thẩm Dực..." giọng anh thấp và khàn, "nếu có thể, tôi hi vọng em đừng bao giờ phải nói cám ơn tôi."
Ánh sáng đèn đường phác một đường viền vàng nhạt quanh vai anh, khiến anh trở nên nhu hòa đến lạ.
"Dạo này tôi vẫn hay nghĩ," Đỗ Thành dừng lại một chút, "nếu như em không gặp tôi, có phải cuộc sống của em sẽ tốt hơn không?... Em là thiên tài, không nên bị trói chân ở cái Bắc Giang nhỏ bé này. Tôi luôn cảm thấy, chính tôi đã ích kỷ. Tôi sợ mất em, nhưng lại giữ em trong một cái lồng do chính mình dựng lên..."
Nói xong, anh tránh mắt tôi, như thể trong đáy mắt anh ấy có một vùng tối mà tôi chưa từng thấy.
"Nếu không có tôi thì chắc em đã sớm trở thành một danh họa của thế giới rồi phải không? Nếu không phải vì tôi, liệu em có thể sống tự do, an nhiên trước bao ánh mắt tôn sùng, không phải mỗi ngày phiêu bạc trong vùng xám xịt của xã hội, mang theo nỗi sợ, thậm chí đối mặt cả hiểm nguy tới tính mạng?
Tôi im lặng, chỉ lặng lẽ nhìn anh.
"Nhiều năm như vậy, tôi biết mình có lúc nên buông người đi. Tôi so sánh những gì em được và những gì ngươi mất, đã quá nhiều rồi. Nếu em còn muốn làm cảnh sát hình sự, em có thể về cục thành phố, thậm chí tiến lên cao hơn. Thẩm Dực, ở đâu em cũng là bảo vật, nhưng cuối cùng... em sẽ không lựa chọn bỏ rơi... tôi."
Lời vừa dứt, không khí như lắng xuống. Tôi nghe từng chữ như nặng thêm trong lồng ngực anh, nghe sự mệt mỏi và ân hận ẩn sau từng âm tiết. Tôi muốn nói rất nhiều thứ, muốn bảo anh rằng tài năng của tôi không cần biện minh, muốn hét lên rằng tôi không muốn anh hy sinh cho tôi, muốn bảo anh rằng tôi không hề cảm thấy bị giam cầm — nhưng tất cả lại ứ nghẹn nơi cổ họng.
Cuối cùng tôi chỉ mỉm cười, đưa tay chạm nhẹ lên mu bàn tay anh, giọng khẽ như gió: "Đỗ Thành, anh đừng nghĩ lung tung. Tôi không phải đồ vật để trao đổi bằng ân huệ hay ân oán. Nếu tôi trở thành gì đó lớn lao hơn — thì đó là vì tôi đã sống, đã vẽ, chứ không phải vì anh đã buông ra hay níu giữ."
Tay anh bỗng siết nhẹ lại, mắt lộ ra một chút vỡ vụn và an ủi cùng lúc. Trong khoảnh khắc ấy, chúng tôi không cần lời giải thích lớn lao — chỉ có một sự thừa nhận lặng lẽ: mỗi người đều mang theo vết thương, và mỗi người đều chọn ở lại theo cách riêng của mình.
"Tôi cảm thấy em là chân dung sư duy nhất của phân cục Bắc Giang, với chúng tôi là cực kỳ hữu dụng. Lúc đầu tôi cho rằng chỉ vì nguyên nhân ấy mới khiến tôi không muốn em rời đi..." Anh khựng lại, như tìm một khe thở, rồi cúi đầu, giọng thấp hẳn xuống: "Nhưng hôm nay, tôi mới nhận ra còn có một lý do tôi chính mình cũng chưa từng phát giác. Một lý do rất ích kỷ. Em là át chủ bài duy nhất của tôi. Em cũng là trấn bảo độc nhất vô nhị của tôi."
Từng chữ Đỗ Thành nói ra như bị gió đêm kéo dài, vừa thô ráp vừa chân thật, như mùi khói súng ám trong áo khoác anh.
Gió đêm luồn qua kẽ áo, xoa dịu căng thẳng trên vai hai chúng tôi, nhưng đồng thời cũng như dồn thêm can đảm vào giọng nói của anh. Anh tiến gần thêm một bước, bóng anh đổ dài lên nền đất, đôi mắt như đốt thẳng vào tôi.
"Hôm nay nghe Lý Hàm nói Nguyễn Phương Phương bọn họ mua khí hydro, tôi liền đoán ra xác suất em cũng sẽ dính vào. Lúc ấy..." Anh siết chặt cổ tay trái tôi, ngón tay lạnh buốt như chứa lửa. "Lúc ấy, tôi cái gì cũng không để ý, chỉ muốn xông đến tìm em. Tôi không cách nào bình tĩnh mà bố trí nhiệm vụ, không thể tập trung lái xe, tim như bị đặt trên lửa nướng, nôn nóng đến toàn thân đều đau."
Tôi nhìn anh, hơi thở hai chúng tôi hòa lẫn trong bóng tối. Giây phút đó, mọi lời cảm ơn hay phản biện đều tan thành khói trong ngực, chỉ còn lại một cảm giác vừa xót xa vừa ấm áp — hóa ra anh cũng đang loạn như tôi.
"Tôi không dám nghĩ đến cảnh các em ở đó như thế nào, càng không dám nghĩ ngươi đã bị bọn chúng làm gì. Trong đầu tôi chỉ có một ý niệm - nhanh hơn, phải nhanh hơn nữa. Thậm chí trong giây phút ấy, tôi còn tự giễu mình, cảm thấy tôi đã đánh mất hết tố chất cơ bản của một đội trưởng hình sự. Tôi biết mình cần phải tỉnh táo, nhưng tôi làm không được..."
Ngón tay anh siết chặt hơn, vòng quanh cổ tay tôi, để lại một vệt đau âm ỉ nhưng run rẩy.
"Trên đường quay về, tôi cứ nghĩ mãi... vì sao tôi lại như thế này? Nếu người gặp chuyện là Tưởng Phong, hay là bất kỳ ai khác, liệu tôi có như thế không?" Anh khựng lại, mắt nhìn xuống như muốn né tránh, rồi tiếp, giọng thấp trầm: "Càng nghĩ, tôi càng nhận ra thứ mà bấy lâu nay tôi luôn cố tình không để ý, hoặc cố tình giả vờ không thấy. Hôm nay... tôi không muốn lừa mình nữa."
Tôi biết anh muốn nói điều gì. Nỗi sợ hãi mơ hồ, mềm yếu mà bén nhọn, bỗng dâng lên trong lồng ngực tôi.
"Tôi sẽ lo cho em. Sẽ liều lĩnh lao đến cứu em. Sẽ phát điên đi tìm ngươi khi không thấy em..." Anh ngẩng đầu, mắt như có lửa: "Không phải chỉ vì em là đồng nghiệp, không phải chỉ vì em là chiến hữu, hay là người tôi dùng tim phổi để kết giao... mà còn vì..."
Anh ngừng lại, hơi thở gấp gáp. Khoảnh khắc ấy, giữa chúng tôi như có một đường ranh mỏng manh, chỉ cần một bước nữa thôi, tất cả những gì bị kìm nén sẽ ào ạt tuôn tràn.
"Thẩm Dực... tôi yêu em."
Anh nói xong. Một câu ngắn gọn, thẳng thắn, không cần bất kỳ phông nền hào nhoáng nào, cũng chẳng có lời thề non hẹn biển. Chỉ có một kiểu "Đỗ Thành" rất đặc trưng, nóng bỏng, trực tiếp, mãnh liệt đến mức khiến người ta không kịp phòng bị.
Tôi đột nhiên thấy mũi mình cay cay, như một đứa trẻ từ nhỏ chưa từng được nếm kẹo ngọt, đến một ngày bỗng nhiên bị nhét vào tay đầy cả túi kẹo mềm, no nê, ngọt ngào, nhưng lại không tin nổi, lóng ngóng không biết nên cất giữ thế nào.
Tôi né tránh ánh mắt anh, trong lòng xoay vòng tìm lời đáp, nhưng đầu óc lại nặng nề như bị dội đầy nước, rối loạn như cỗ máy gỉ sét không sao vận hành nổi.
Trong viện bảo tàng hay phòng triển lãm, thường thấy cảnh tượng như thế này: có người đứng thật lâu trước một bức tranh, trong mắt chứa đầy ngưỡng mộ và xúc động; nhưng cũng có kẻ chỉ đi ngang qua, thờ ơ như cưỡi ngựa xem hoa.
Khoảnh khắc này, tôi đột nhiên không biết mình thuộc về loại người nào - dừng lại run rẩy để cảm nhận, hay sẽ vô tình bỏ lỡ một thứ vốn chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong đời.
Đa số người bên cạnh tôi, hẳn đều thuộc kiểu thứ nhất - đi ngang qua, nhìn lướt, rồi quên.
Còn Đỗ Thành, không nghi ngờ gì, lại thuộc kiểu thứ hai.
Anh không phân biệt được những tầng sắc thái hay cấp độ phối màu, không hiểu sự khác biệt giữa nét bút này với nét bút kia, càng không biết trong hội họa có khái niệm "khởi, thừa, chuyển, hợp" tinh tế ra sao.
Van Gogh từng vẽ "Hoa Hướng Dương" – gam màu rực rỡ và cảm xúc nồng đậm ấy phơi bày niềm nhiệt thành với sự sống, ca ngợi sức mạnh của nó, để rồi người xem bị rung động tận sâu tâm can bởi thứ ánh sáng ngang tàng mà mềm dẻo.
Ông cũng từng vẽ một bức tên "Đôi Giày". Ban đầu chẳng ai chú ý. Nhưng khi triết gia Heidegger dừng lại trước nó, ông chỉ thốt một câu: "Khi vẽ bức này, Van Gogh hẳn đã được buông lỏng và mãn nguyện."
Người ta kinh ngạc trước góc nhìn ấy, thán phục sự cảm thấu đặc biệt khiến triết gia và nghệ sĩ như đang xuyên qua thời gian mà đối thoại tâm linh.
Tôi, dĩ nhiên, không phải Van Gogh.
Nhưng, Đỗ Thành, anh là Heidegger duy nhất của tôi.
Nếu tôi vẽ một bức tranh u tối, sắc lam quỷ dị, đưa cho mọi người xem, Tưởng Phong có lẽ sẽ hỏi: "Thẩm lão sư, cậu vẽ cái gì vậy?"
Phương Khải Nghị có thể sẽ tán thưởng: "Không tệ, mang lại cho người ta một cảm giác xung kích rất mạnh."
Còn Đỗ Thành, anh nhất định sẽ nói thẳng: "Thẩm Dực, tâm tình cậu không tốt sao?"
Sartre từng cho rằng chủ nghĩa hiện sinh không phải sự cô lập cá nhân, mà là một hình thức nhân đạo chủ nghĩa. Nó khiến con người phải đối diện với diện mạo chân thật của chính mình, gánh lấy toàn bộ trách nhiệm cho sự tồn tại, và chỉ trong hành động thực tiễn, mới thu hoạch được cảm giác tồn tại chân thực.
Thế nên, có lẽ một người vĩnh viễn cũng không thể hoàn toàn trở thành "chính mình".
Nhiều người nói việc tôi làm cảnh sát là lãng phí tài hoa. Họ chưa từng hỏi tôi vì sao lại chọn con đường này, càng không chịu chấp nhận lựa chọn ấy, chỉ khăng khăng khuyên nhủ, bởi vì trong mắt họ, tôi đáng ra phải trở thành một nghệ sĩ được lịch sử ghi tên.
Chỉ có Đỗ Thành, trong thế giới mà ngay cả chủ nghĩa hiện sinh cũng khó lòng thực hiện trọn vẹn, anh lại đủ sức dẹp yên mọi tiếng nghị luận, chỉ mong tôi được là Thẩm Dực, được làm chính mình.
Nietzsche từng nói: "Kẻ chấn động nhân gian, tất phải chịu đựng cô tịch im lặng; kẻ thắp sáng như lửa điện, tất phải lưu lạc như mây trời phiêu bạt."
Nhưng Đỗ Thành thì không cần phải im lặng, cũng chẳng cần phiêu bạt. Chỉ cần anh đứng đó thôi, đã là vạn thủy thiên sơn trong mắt tôi.
Tôi ngẩng đầu lên, thấy Đỗ Thành vẫn còn thấp thỏm chờ đợi câu trả lời.
Cánh cửa ghế phụ vẫn mở, ánh sáng đường phố hắt vào. Tôi khẽ khép lại chiếc hộp quà, đặt nó lên ghế bên cạnh, nơi vẫn còn vương chút hơi ấm.
Tôi lùi lại một bước, không vội đưa ra hồi đáp. Gió đêm khẽ lay vạt áo, mang đến cảm giác vừa mát lạnh vừa dịu dàng. Tôi mở rộng vòng tay, như thể chờ đợi một điều đã khao khát từ rất lâu.
Mỉm cười nhìn thẳng vào mắt anh, tôi chậm rãi hỏi:
"Đỗ Thành... có thể cho tôi một cái ôm không?"
End.
----------------------------------------------------------
Nie,
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com