Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 9

Thiên Tôn nói - nhà ngươi tính mở viện điều dưỡng trên sương xám chắc?

******

81.

Tháng Bảy, năm thứ 689 của Kỷ Thứ Tư.

Đêm khuya, trong biệt phủ của gia tộc Abraham ở Backlund, trên đài thiên văn.

Một thanh niên nhà Abraham đang đứng chắp tay trước cánh cửa khép hờ, vừa lặng lẽ đợi vị tổ tiên sắp trở về, vừa len lén ngước mắt nhìn vị khách quý ghé thăm giữa đêm - trong con ngươi lam sẫm của chàng ánh lên tò mò không giấu nổi.

Vị khách ấy khoác một tấm áo choàng đen có mũ trùm, trên áo dùng chỉ vàng thêu lấy huy hiệu của gia tộc Zaratul, khuôn mặt ẩn sâu trong bóng tối, không thể thấy rõ dung mạo, chỉ có thể thấy qua giọng nói khàn đục và đôi mắt đen thẳm nhuốm dấu vết năm tháng mà phán đoán rằng vị công tước này đã có tuổi. Tuy vậy, với chút hiểu biết của chàng Abraham trẻ tuổi về thế giới phi phàm, và sau vài lần tiếp xúc với những thành viên nhà Zaratul, chàng hiểu rõ - với một Người Không Mặt đã đạt tới danh sách một thì diện mạo sớm đã là thứ vô nghĩa rồi.

Giới quý tộc của Đế quốc Trunsoest thì thầm vô số lời đồn về bốn vị công tước ở những con đường liền kề nhau, có chuyện nghe đã đủ khiến người ta rợn tóc gáy. Ví như, chàng Abraham từng nghe rằng tổ tiên mình từng mở một "sòng bạc" bí mật, lấy năng lực giữ bí mật làm bảo chứng cho đám con bạc, đặt cược xem liệu trong vòng 50 năm tới, Công tước Jacob có bị công tước Amon làm thịt thành món nhậu trên bàn ăn không, và chừng nào thì Công tước Zaratul sẽ bị vị công tước đáng sợ của địch quốc bắt sống, rồi nhai sống luôn.

Theo như hiểu biết của chàng, chuyện này... đúng là kiểu việc tổ tiên nhà mình có thể làm thật. Nhưng nếu tin đồn ấy có thật, thì chắc chắn nó sẽ không truyền đến tai chàng, trừ khi tổ tiên cũng muốn kéo chàng vào đặt cược một ván.

Trong hàng loạt lời đồn ấy, điều duy nhất mà Abraham trẻ có thể khẳng định là: cả gia tộc Amon lẫn một phần dòng họ Jacob đều cực kỳ yêu thích kính một mắt bằng pha lê mài tinh xảo - có lẽ đó là đặc trưng di truyền của dòng họ Kẻ Trộm, giống như nhà Abraham thì lại say mê đá quý vậy.

Còn một điều nữa, là tổ tiên nhà chàng và vị tổ tiên nhà Zaratul quả thực có giao tình không tầm thường. Mỗi lần tiên tổ nhà Abraham sắp trở về từ tinh không, vị công tước Zaratul này đều biết trước thời khắc ấy qua bói toán, và đến sớm nửa giờ để chờ đợi.

Cuộc gặp giữa hai người luôn được xếp trước tất cả những buổi họp gia tộc, mọi việc dù trọng yếu đến đâu cũng phải để ngày mai hẵng nói. Thậm chí, khi có thành viên cấp cao khác của nhà Abraham trở về từ sao trời, vị công tước Zaratul này cũng thường đến viếng trước.

Các trưởng lão trong tộc đều né tránh bàn luận về điều đó, nhưng chính sự lảng tránh ấy lại khiến đám người học việc hiếu kỳ càng thêm háo hức muốn khám phá.

Giữa lúc chàng Abraham trẻ đang mặc sức suy đoán, chàng bỗng nhận ra - các vì sao trên đỉnh đầu chớp lóa kỳ lạ mấy lần. Vô số điểm sáng vốn khiến người ta mơ màng chìm đắm, trong mắt chàng giờ lại mất hết vẻ lãng mạn, thay vào đó là thứ gì đó lạnh lẽo... và khủng khiếp.

Kỳ quặc thật...

Chàng Abraham dụi mắt, đầu óc chợt trống rỗng - ý niệm ấy nhanh chóng tan biến. Chòm sao Núi Lửa vẫn kiêu ngạo nơi đỉnh trời đêm mùa hạ, ánh sao và cách sắp xếp của chúng hoàn toàn khớp với kiến thức chiêm tinh.

Chàng ngáp một cái, thầm nhủ - chắc mình chỉ là mình buồn ngủ quá thôi.

Dưới tấm áo choàng, năm ngón tay phải đeo găng đen của Zaratul lặng lẽ khép lại, rồi lại thả ra, như thể chưa từng có gì xảy ra.

82.

Trước mắt Ngài, một cánh cổng làm từ lớp lớp ánh sao bỗng hiện ra. Ánh sáng theo đó tràn đến, không hề chói lọi, thậm chí còn chẳng rực rỡ bằng những ngọn đèn muôn sắc của Backlund trong đêm, nhưng lại mang trong mình sắc độ mà không một loại màu sắc nào trên thế gian có thể họa lại. Nếu phải tìm thứ gì để ví von, thì có lẽ đó chính là sắc lam gợn sóng trong mắt của Chìa Khóa Tinh Tú.

Cánh cửa được mở ra ngay trước lan can cẩm thạch chạm trổ tinh xảo của đài thiên văn. Từ phía sau cánh cửa ấy, nguồn gốc của toàn bộ vinh quang nhà Abraham bước ra, như vẫn còn mang theo lượng nhiệt cuối cùng của một ngôi sao vừa tàn lụi. Zaratul nhận ra trâm ngọc nơi vạt áo Bethel Abraham đã thay đổi một lần nữa - từ sắc lam biển cả sang ánh đỏ thẫm như máu bồ câu, với những đường nét và kiểu dáng trở nên giản lược hơn đôi chút. Hẳn đó là món đồ Bethel tự tay mài giũa giữa tinh không, bằng thiên thạch và bằng kỹ nghệ phi phàm được khắc lại trong trí nhớ.

Cả hai không đến phòng khách mà nhà Abraham thường dùng, mà chỉ ngồi xuống trên mấy tấm đệm và bàn nhỏ vừa bày tạm. Họ pha một ấm hồng trà. Bethel vẫy tay cho hậu bối lui ra, rồi thản nhiên nhấp một ngụm trà vẫn còn tỏa hơi nóng nghi ngút. Zaratul cũng nhẹ nhàng nhấp môi theo.

"Nhìn động tĩnh lúc quay lại, chắc Ngài lại phải khiêu vũ vài vòng qua mặt các vị khách đến từ ngoài màn chắn nhỉ?"

Vừa nói, Zaratul vừa đưa bàn tay phải đeo găng đen ra khỏi lớp áo choàng, thành thục dùng vật phong ấn ấy Trộm Cắp đi ô nhiễm trên người vị Cửa Của Muôn Vạn Cánh Cửa. Chiếc găng này vốn mang đặc tính của Đạo Sư Lừa Gạt thuộc dòng dõi Zoroast. Sau khi có được nó qua một cuộc giao dịch, Zaratul lại nhờ một thợ thủ công phi phàm cấp cao rèn lại, hòa vào đó đặc tính của đường Mặt Trời cấp độ cao, để nó có thể tự thanh lọc, tránh bị hủy sau mỗi lần hấp thụ ô nhiễm.

Bethel cũng không cưỡng ép đè nén ô nhiễm trên thân nữa. Đôi mắt xanh thẳm lộng lẫy của Ngài giờ đây đã nhiễm chút sắc máu, như thể biển máu nhuộm trên vầng trăng đỏ. Ấy vậy mà thần sắc ông vẫn ung dung, thậm chí còn có tâm trạng đùa cợt đáp lời Zaratul:

"Đúng thế. Tuy những vị khách đó luôn thô lỗ, nhưng là chủ nhà, chẳng phải chúng ta vẫn nên tỏ lòng hiếu khách sao?"

"Quả là tấm lòng hiếu khách cảm động lòng người."Zaratul mỉa mai. "Đến mức sẵn sàng tự dọn mình lên bàn để khoản đãi khách quý."

Mỗi lần Bethel trở về từ tinh không đều chọn gặp Zaratul trước tiên. Tất nhiên không phải vì tình bạn của họ sâu sắc keo sơn - mà bởi, với Bethel, Zaratul trước hết là một tầng thanh lọc, hay đúng hơn, là tuyến phòng thủ, sau đó mới là một kẻ đáng để trò chuyện. Thời còn dưới trướng Solomon, cả hai chỉ đơn giản chào hỏi xã giao, chưa từng thân thiết. Nhưng kể từ lần đầu Solomon ngã xuống, mâu thuẫn giữa Zaratul với Đứa Con Của Chúa lộ ra, buộc Zaratul phải tìm chỗ dựa khác. Trùng hợp thay, Bethel cũng chẳng mong Merlin Hermes tiến thêm bước nào về phía ngai Thần - thế là hai kẻ cùng mục đích bèn bắt tay.

Còn lý do vì sao chọn Zaratul làm phòng tuyến, thì đơn giản: Bethel chẳng thể tin được bất cứ Vua Thiên Thần hay vị Thần nào khác, còn các thiên sứ hậu bối trong chính gia tộc Abraham thì ngoài chuyện địa vị không đủ, họ cũng đã bị tinh không ăn mòn sâu sắc. So ra, một Đại Thiên Thần có cấp bậc và kinh nghiệm dày dặn, lại đang cần đến mình, là sự lựa chọn hoàn hảo nhất.

"Tình hình dưới mặt đất dạo này thế nào rồi?"

"Vẫn như cũ thôi." Zaratul nhún vai. "Thương hội của Roselle dạo này mở rộng sang tận Backlund. Hắn phát hiện giới quý tộc thượng lưu của Đế quốc đang mê mẩn mốt đeo kính một mắt, thế là lập tức mở một tiệm chuyên bán kính đơn ngay trên đại lộ sầm uất nhất Backlund, quảng cáo rằng từng chiếc đều được thợ thủ công mài giũa bằng tay. Gia tộc Amon và Jacob liền đặt cả đống hàng, kéo theo mấy kẻ chẳng biết đầu đuôi gì cũng hùa theo. Kết quả là Roselle phen này hốt bạc đầy rương. Giờ trên phố đâu đâu cũng thấy người đeo kính một mắt. Tội nghiệp lão Jacob, sợ đến mức chẳng dám ra khỏi nhà - giờ lão chẳng còn phân biệt nổi trong đám người ấy ai là Amon, ai là Jacob nữa. Cũng may là Zoroast sớm cuốn gói rời đi, phần lớn tộc nhân của ngài lại đầu quân cho Solomon. Chứ nếu còn ở Backlund, chắc giờ náo nhiệt đến loạn."

"Roselle đúng là thú vị."Bethel bật cười. "Bệ hạ vẫn chưa ban hành luật cấm đeo kính một mắt à? Ngài ấy ghét nhất là mấy thứ bất đối xứng kia mà. Thật chẳng hiểu sao Amon có thể tung tăng sống khỏe ngay dưới mắt Ngài ấy đến giờ."

"Nghe nói là có vài quỷ hút máu cũng bắt đầu đeo thứ đó. Từ khi trở thành công dân hợp pháp, bọn họ ngày càng thích phô trương sự 'cao quý' và 'khác biệt'. Họ cho rằng món này toát lên phong vị riêng - mà vì nể mặt Hoàng hậu, Bệ hạ cũng đành nhắm mắt bỏ qua."

"Hoàng hậu đúng là quá bao dung với thuộc hạ của mình." Bethel nhướn mày. "Nếu có người nhà Abraham nào tự nguyện đeo cái thứ đó, ta sẽ khai trừ họ khỏi tộc và lưu đày ra tinh không."

"Nhưng ta thực sự nghe nói có mấy người nhà Abraham thích món ấy lắm cơ." Zaratul liệt kê vài cái tên. "Esther, Hamelin, Lior..."

Im lặng chốc lát, Bethel bình thản đáp: "Ngày mai ta sẽ đập hết kính của mấy thằng nhóc đó, rồi ra lệnh cho Hội Trưởng Lão cấm tuyệt mọi thành viên đeo thứ này."

"...Còn ai nữa không?"

"Hết rồi." Trong giọng Zaratul dường như lẫn một tia cười. "Ít nhất theo ta biết là vậy. Suy cho cùng, họ vẫn chuộng đá quý hơn."

"Được." Bethel lễ độ đáp, đồng thời quyết định sau sẽ âm thầm tự mình bói lại một quẻ.

"Roselle quả thật có đầu óc." Một lát sau, Bethel nói tiếp. "Bảo sao Merlin Hermes lại chịu nâng đỡ hắn thành một Kẻ Hoàn Mỹ. Mấy trăm năm nay, hắn và gia tộc đã bày ra không ít phát minh mới. Chỉ vài thế kỷ ngắn ngủi mà thế giới này đã biến đổi đến mức tôi chẳng còn nhận ra nữa. Đôi khi ta tự hỏi, nếu có ngày ta ở lại tinh không lâu hơn, lúc quay về e rằng sẽ nghĩ mình đáp xuống nhầm hành tinh mất."

"Điều đó chưa chắc đã là xấu." Zaratul khẽ ngẩng đầu, nhìn lên vầng trăng đỏ nhạt giữa trời đêm. "Ít nhất, các mỏ neo của chúng ta ngày càng nhiều."

"Phải." Bethel rót thêm trà, lấp đầy tách đã cạn. "Dù Bệ hạ chẳng ban cho ta được bao nhiêu mỏ neo, nhưng có còn hơn không."

"Hôm nay ta xin cáo từ trước." Sau khi thanh tẩy ô nhiễm và kiểm tra qua một lượt bằng bói toán, Zaratul đứng dậy nói. "Lần tới khi Ngài rời khỏi mặt đất, nhớ ghé qua chỗ ta để ước một điều. Dù vận may đó chẳng giúp được Ngài bao nhiêu trước hiểm nguy nơi tinh không, có điều thêm chút lợi thế vẫn hơn không."

Bethel hờ hững vẫy tay: "Đi thong thả."

"Dù biết Ngài chẳng muốn nghe nhưng ta vẫn phải nhắc vài câu." Trước khi rời đi, Zaratul vẫn không quên lảm nhảm. "Tinh không là chốn... Ngài nên tránh đi thì hơn. Đám Ngoại Thần ấy--"

Bethel xoa tai, phẩy tay mở ra một cánh cổng hư ảo. Cánh cổng ấy lập tức tỏa ra lực hút không thể cưỡng, "nuốt" trọn Zaratul cùng với tất cả những lời khuyên lặp đi lặp lại của ông, rồi quẳng cả người lẫn tiếng nói ấy thẳng về phủ nhà Zaratul.

Bethel thở phào, thong thả nhấp thêm một ngụm trà. Giờ thì tai Ngài đã được yên tĩnh hẳn.

-------------------

Đế quốc Solomon thứ hai, tòa Thánh Simon.

Trong một dinh thự trực thuộc Công tước Hermes, một cô gái trẻ mặc váy màu vàng kem vội vã băng qua vọng gác và khu vườn trồng đầy trà cùng táo gỗ, rồi nhấn chuông điện ở cổng chính.

Chẳng bao lâu sau, cánh cổng mở ra từ bên trong. Một người đàn ông trung niên với khuôn mặt bình thường, ăn mặc theo lối người hầu, đứng ở cửa. Ông nhìn vạt áo còn vương chút bụi đường và khuôn mặt lấm tấm mệt nhọc của Bernadette, khẽ ngừng một thoáng rồi gật đầu chào.

"Lâu rồi không gặp, Bernadette," con rối đó cất lời. "Ngài ấy đang ở trong thư phòng. Ngoài trời nắng gắt, vào trước đi đã."

Từ cầu thang gỗ xoắn ốc phía trong phòng khách vang lên những bước chân thong thả, một người đàn ông trẻ tuổi mặc lễ phục đen bất đối xứng, dáng người vừa phải, khuôn mặt mang những nét tinh linh cổ đại đặc trưng, xuất hiện trước mặt họ. Con rối cúi người, rồi lặng lẽ lui xuống.

Klein chỉ vào chiếc ghế sô-pha mềm mại bên ô cửa sổ đầy nắng, còn mình cũng chọn một chỗ ngồi khác.

"Ngồi đi."

Bernadette lấy ra một hộp quà tinh xảo, đưa tới trước mặt chú:

"Đặc sản phương Nam, cháu mang đến để biếu chú."

"Cảm ơn." Klein nhận lấy, không mở ra mà đặt lên bàn trà.

"Chú nghe cha cháu nói, những năm qua cháu vẫn lang bạt khắp nơi."

Klein rót cho cô một ly trà ngọt ướp lạnh, loại mà Bernadette từng rất thích khi còn nhỏ, rồi tự mình rót thêm một ly hồng trà.

Các loại trà trong nhà Ngài đều được pha sẵn - chỉ cần một nguyện ước nhỏ là chúng có thể giữ mãi hương vị và nhiệt độ thích hợp, vừa tiện cho bản thân vừa không tốn công khi có khách.

Âm thanh nước trà rót vào tách sứ vang lên khe khẽ. Klein đặt ấm xuống, mỉm cười:

"Chú rất vui vì cháu đến thăm sớm như vậy. Mấy năm qua bên ngoài thế nào? Học hỏi được nhiều điều chứ?"

"Tất cả đều tốt ạ." Bernadette đáp, giọng điềm tĩnh. "Cháu đã thấy được nhiều thứ, và cũng suy nghĩ được rất nhiều."

"Thế thì tốt." Klein khẽ cười. "Chú vẫn nhớ khi cháu nói muốn ra ngoài phiêu lưu, cha cháu khóc đến mức mắt mũi tèm lem. Sau đó ông ấy còn quay sang mắng Bonova một trận, suýt nữa đuổi thằng bé ra khỏi nhà - thế mà Bonnova ra ngoài cũng chỉ trốn vào khách sạn làm búp bê như thường, nên cha cháu lại phải gọi về. Đến giờ thằng bé chắc vẫn chẳng hiểu vì sao cha cháu lại làm thế."

Bernadette mím môi, rồi cũng khẽ cười.

Cô không uống ly trà đá ngọt Klein rót, mà tự lấy một tách sứ nhỏ, rót cho mình một ly cà phê cao nguyên.

"Lâu rồi cháu không uống mấy thứ nước ngọt đó đâu, chú ạ," cô nói. "Những năm ở ngoài, cháu quen uống cà phê rồi."

"Phải rồi, cô bé Bernadette ngày nào giờ đã lớn cả rồi." Klein cười nhẹ. "Cha cháu toàn tìm chú uống rượu, vừa uống vừa khóc, vừa hoài niệm đủ chuyện. Ông ấy nhớ cháu lắm đấy. Chú còn tưởng cháu sẽ ghé thăm ông ấy trước chứ."

Bernadette hơi do dự một lát rồi nói:

"Nói thật với chú... Lần này cháu đến là muốn bàn với chú một việc."

Klein không tỏ vẻ ngạc nhiên.

"Liên quan đến vài nghị án của đế quốc, phải không?"

"Vâng." Bernadette biết mọi điều mình định nói đều chẳng thể giấu được người chú này - rất có thể cha đỡ đầu của cô đã bói ra ý định của cô từ trước. Nhưng cô vẫn tin mình có thể thuyết phục được chú.

Chú Klein luôn là người chính trực và nhân hậu - nếu chú biết tình cảnh thật sự của những nô lệ ở tầng đáy Đế quốc, nhất định sẽ không thể làm ngơ.

"Những tư liệu cháu sưu tầm được, không cần đưa chú xem đâu." Klein cụp mắt nói. "Chú đều biết cả rồi."

"Nhưng... nhưng mà..."

"Cháu muốn hỏi vì sao chú không ngăn Solomon ban hành những sắc lệnh ấy, đúng chứ?" Klein khẽ bật cười.

"Bernadette thân yêu, vấn đề không phải là cháu có thể thuyết phục được chú hay không, mà là cháu có thể thuyết phục được Solomon hay không."

"Thử nghĩ xem, Bernadette. Cầm lấy những gì cháu chuẩn bị cho Solomon, rồi nói cho chú biết - cháu định thay đổi ý chỉ của Ngài bằng cách nào?"

Bernadette lặng lẽ mở một tập tài liệu khác, ánh mắt sáng kiên định: "Đây là số liệu tăng trưởng dân số hai mươi năm sau cải cách của Đế quốc Trunsoest. Bệ hạ hẳn sẽ không muốn thấy số lượng mỏ neo bị tụt lại phía sau. Nếu chúng ta có thể tham khảo cách làm của Đế quốc Trunsoest, tiến hành cải cách tương tự--"

"Và rồi Solomon sẽ động đến miếng bánh của giới quý tộc." Klein nói điềm tĩnh. "Cháu nghĩ Trunsoest thật sự vui vẻ cải cách sao? Nếu không phải để đối kháng với trật tự còn sót lại của Solomon, làm sao Ngài ta có thể ngoan ngoãn nghe theo Đêm Đen như thế được?

Dưới trướng Solomon, hơn một nửa số thiên thần đã phản bội hắn trong cuộc phản loạn, còn phần khác thì ngã xuống. Trong khi đó, thế lực của Chúa Sáng Thế Chân Thật gần như không hề hấn gì. Nếu Solomon lại động chạm đến lợi ích của đám quý tộc dưới tay mình, thì Ngài sẽ thật sự trở thành một vị Chân Thần trơ trọi."

"Nhưng chú và cha cháu chính là hai trong số những quý tộc cao quý nhất cả Đế quốc!" Bernadette bùng nổ, giọng chứa đầy xúc động. "Bao năm nay cháu vẫn luôn tự hỏi... cuộc cách mạng công nghiệp mà cha cháu thúc đẩy rốt cuộc mang lại điều gì cho thế giới này? Ông ấy chế tạo người máy sắt và pháo binh, mà những thứ vũ khí có sức hủy diệt mạnh hơn ấy chỉ khiến những kẻ đã có quyền lực càng thêm tham lam; ông ấy khai thác năng lượng mới, vô số nô lệ trong hầm than đã chết mòn, chết đói, chết bệnh, thậm chí bị đánh chết. Cha cháu là Người Khai Sáng Văn Minh tài năng nhất, là ánh sáng trong bóng tối, nhưng vì sao chỉ có một nhúm người được ánh sáng ấy chiếu đến, còn phần còn lại thì bị thiêu rụi làm nhiên liệu?"

Klein bình thản nhìn cô, đôi mắt sâu thẳm không ánh sáng phản chiếu một chút thương xót mơ hồ. Chỉ vài giây sau khi thốt ra những lời đã giấu kín bao lâu, Bernadette đã hối hận. Cô hiểu rõ, nhiều việc ngay cả thần linh cũng bất lực.

Người cha và cha đỡ đầu của cô từng mang hy vọng và ánh sáng đến cho gần mười triệu linh hồn trong Vùng Đất Bị Thần Ruồng Bỏ. Họ chưa từng như đám quý tộc sa đọa kia, áp bức người khác để mua vui. Lẽ nào cha cô muốn nhìn thấy công sức tâm huyết của mình bị lợi dụng, trở thành công cụ nô dịch con người? Lẽ nào khi từng bước biến ý tưởng thành hiện thực, họ đã không hy vọng sẽ soi sáng được thế giới đen tối này sao?

"Xin lỗi, chú." Bernadette cúi đầu, giọng run run. "Cháu chỉ... chỉ không hiểu được thôi."

"Solomon cần chiến tranh, Bernadette." Klein nói chậm rãi. "Ngài ấy khao khát một cuộc trả thù thỏa mãn - đồng thời cần vô số Kẻ Phi Phàm nổi lên để bồi dưỡng quý tộc mới, thay thế những kẻ phản bội, cân bằng thế lực của Chúa Sáng Thế Chân Thật. Ngài cần cơ man những Kẻ Phi Phàm ấy mang quân đi chinh phục, mở mang bờ cõi.

Để kích thích binh sĩ, cách tốt nhất là cho họ đủ lợi ích, biến họ từ người thành sói, xé thịt kẻ thù để phục vụ Ngài. Chiến tranh cần sự ủng hộ của quý tộc, cần vũ khí, và có vũ khí thì phải có nô lệ. Với Solomon, hệ thống mà Trunsoest xây dựng ngoài việc tăng số lượng mỏ neo thì chẳng còn tác dụng gì. Nhưng xét về số lượng Chân Thần và Kẻ Phi Phàm cấp cao trong đế quốc, số mỏ neo hiện có là đủ."

"Vả lại," Klein tiếp, "với niềm kiêu hãnh của Bệ hạ, Ngài tuyệt đối không cho phép bắt chước kẻ phản nghịch. Hơn nữa, vai trò của Hoàng Đế Đen khác hẳn với Thẩm Phán. Dù có dùng bao nhiêu quy tắc bất đối xứng để trung hòa, Hoàng Đế Đen vẫn mãi là bóng tối dưới trật tự, tượng trưng cho những mặt méo mó, lợi dụng khe hở trong trật tự."

"Thêm nữa, chú nghĩ cháu tốt nhất là cháu không hy vọng Đấng Sáng Thế Chân Thật sẽ ủng hộ chúng ta trong việc này." Klein nhẹ nhàng lắc đầu. "Ngài có thể không để tâm nếu đôi khi chú làm vài việc vượt ranh giới, nhưng Ngài cũng sẽ không hoàn toàn đồng ý với mọi kế hoạch của chú. Chỉ xét về số lượng Chân Thần, chúng ta thua xa Đế quốc Trunsoest.

Ưu thế lớn nhất của chúng ta là giữa chúng ta không có mâu thuẫn liên quan đến lợi ích cốt lõi. Nếu chúng ta xảy ra xích mích với Bệ hạ, thần linh trong Đế quốc Trunsoest chắc chắn sẽ tận dụng cơ hội. Điều đó là điều cả hai bên đều không muốn thấy."

Tim Bernadette dần dần cảm thấy lạnh lẽo.

"...Vậy nghĩa là, chú không muốn cháu tiếp tục sao?"

"Không." Klein giọng trầm, "Chú muốn cháu thực hiện theo ý của mình. Chú chỉ muốn nói cho cháu biết, khả năng thành công của việc này thấp đến mức nào."

"Cho chú biết, Bernadette, sau khi nghe những gì chú vừa nói, cháu vẫn sẵn sàng nỗ lực vì ước muốn của mình chứ?"

"...Dĩ nhiên." Chỉ chần chừ vài khoảnh khắc, Bernadette đã đưa ra quyết định.

"Vậy thì tốt. Chú sẽ ủng hộ cháu, chú và cha cháu sẽ luôn đứng sau lưng cháu." Klein nói. "Vị thế của cháu thật khéo. Ý kiến của cháu vừa không khiến Solomon thật sự tức giận, vừa buộc Ngài phải cân nhắc tiếng nói của cháu. Hơn nữa, cha cháu và chú luôn là hậu thuẫn cho cháu, kể cả thất bại, cháu cũng sẽ không chịu hậu quả nghiêm trọng. Solomon sẽ coi đây là một lần thử thách nữa từ chúng ta. Hãy cứ làm đi, nếu việc không khả thi, hãy kịp rút lui." 

Khi nhận được triệu kiến từ Hoàng Đế Đen, Klein không phải hoàn toàn bất ngờ, thậm chí anh đã chuẩn bị sẵn tâm lý bị truy vấn một trận. Kể từ khi Bernadette bước vào triều đình, cô thiên thần trẻ tuổi này đã không ngừng cố gắng thúc đẩy các dự luật và chính sách mới. Hành động của cô tất nhiên gặp phải sức phản đối cực lớn và dẫn đến không ít lời bàn tán. Hoàng Đế Đen chưa từng rõ ràng bày tỏ thái độ, nhưng Klein hiểu rõ quan điểm của Ngài, những cản trở Bernadette gặp phải đã nói lên tất cả.

Tuy nhiên, lúc này Hoàng Đế Đen ngồi trên ngai cao, nhắc đến thiên thần trẻ tuổi dám chống lại Ngài, giọng điệu không lộ cảm xúc, lời nói cũng không mang tính trách mắng, thậm chí còn có phần khen ngợi. Ngài dùng giọng điệu như người bề trên nói:

"Ngươi có một học trò tốt."

"Ngài đã quá lờirồi, Bệ hạ." Klein vẻ điềm tĩnh đáp, "Cô bé còn trẻ, kinh nghiệm chưa đủ, tính tình lại hơi liều lĩnh. Cha của cháu luôn chiều chuộng, dạy dỗ cháu theo cách quá ngây thơ."

"Trẻ, dũng cảm, không màng hậu quả," Solomon cười nhẹ, "Đối với một thiên thần, những phẩm chất này đã là hiếm có, chẳng trách Roselle lại thiên vị con bé như vậy. Nếu ta có một cô con gái như vậy, chắc cũng sẽ quý trọng hết mực."

"Tiếc thay, những đứa con mà tôi yêu quý nhất, hầu hết đã ra đi trong cuộc phản bội bẩn thỉu ấy." Giọng Hoàng Đế Đen đột ngột lạnh đi, hiện rõ thù hận và sắc bén không che giấu.

"Mất mát đau lòng." Klein gật đầu, "Phản bội là tội không thể tha thứ."

"Ngươi cũng nghĩ như vậy sao, Merlin?" Hoàng Đế Đen cười khẩy, "Tất nhiên, ta biết ngươi khó lòng quên được hận thù trong lòng, dù ngươi đã thực hiện được một phần báo thù... tất nhiên, ta cũng vậy. Alista Tudor và Trunsoest, những thiên thần trung thành nhất từng dưới trướng ta, ta đã nâng chúng lên, ban cho chúng sức mạnh và vinh dự mà hầu hết con cháu ta không có được, nhưng nhìn xem chúng đáp trả ta ra sao! Phản bội!" Solomon phá lên cười, cung điện vang lên tiếng cười cuồng nộ, lạnh lùng, hoàn toàn không hề có niềm vui. Trật tự vô hình bị xoắn, sụp đổ theo âm thanh của Hoàng Đế Đen, các vệ binh đứng ngoài cổng ngay lập tức chết thảm. Chỉ có tòa cung điện đồ sộ, u tối, phi đối xứng, vì là một phần của Thần quốc Hoàng Đế Đen, nên không bị phá hủy bởi thần lực của Ngài.

Klein bình tĩnh, như tảng đá giữa sóng gió, những luồng thần lực xoắn vặn khi tiếp cận cơ thể anh lập tức tan biến. Trong Thần Quốc của Hoàng Đế Đen, dường như chỉ có anh là người duy nhất không bị tác động.

"Ngươi còn nhớ Delphina không? Đứa con gái bé nhỏ mà ta yêu nhất, hoạt bát, xinh đẹp, thông minh, dũng cảm - con bé từng là báu vật trong lòng bàn tay ta, nhưng đã chết trong hỗn loạn do Sáu Vị Thần và hai kẻ phản bội gây nên." Hoàng Đế Đen lẩm bẩm.

Nghe thấy cái tên ấy, mí mắt phải của anh giật giật - giờ anh đã hiểu Hoàng Đế Đen đang tính toán điều gì. Phải nói rằng, dù Hoàng Đế Đen có thể không thực sự thể hiện sự si mê con cái như lời nói, nhưng về khoản thao tác cảm tình của Ngài thì chẳng sai sót lấy một ly. Delphina Solomon - cái tên từng thoang thoảng trong tai anh suốt mấy trăm năm của thời đế quốc Đệ Nhất, và họ đã một lần suýt đạt được mục đích. Anh đã đánh đu đánh võng để né tránh suốt gần ba trăm năm, cuối cùng vì sức ép mới miễn cưỡng đồng ý "giao du" với công chúa, và như đã đoán, chẳng nảy sinh tia lửa nào. Roselle đến giờ vẫn hay than rằng, nếu anh mà "giao du" với cô công chúa ấy thêm vài thập kỷ nữa, biết đâu Bernadette và Bonova đã có thêm một người mẹ đỡ đầu thật sự.

Anh thì lại cảm thấy mấy chục năm làm quen cũng không phải dài; xét tuổi thọ của sinh vật thần thoại vốn đo bằng nghìn năm, quy đổi ra thời gian con người chỉ chừng hai, ba năm mà thôi.

Nhưng Delphina lại chết ngay thời đó.

"Hãy chọn một trong những đứa con gái của ta đi, Klein." Lần này Hoàng Đế Đen không gọi anh bằng cái bí danh ai cũng biết. Ngài cười khẽ, khuôn mặt lạnh lùng như vẽ: "Ngươi chọn ai, người đó sẽ nhận lấy phần đặc tính Công Tước Hỗn Loạn cuối cùng từ ta. Đứa con của người đó sẽ trở thành Quan Chấp Chính của đế quốc, giống như Quan Chấp Chính Tử Vong của Đế quốc Balam, thay ta đảm nhiệm phần nào quyền hành cai trị."

"Tóm lại, Ngài muốn làm bố cậu." Roselle kết luận một cách tinh tế.

"Không biết nói gì hay hơn thì có thể tặng miệng cho người cần." Anh nhăn mặt, giọng đầy u ám.

"Có vẻ như Ngài thật sự bị vụ ám sát trước đó làm cho tổn thương nặng nề, chỉ còn cách hạ thấp yêu cầu, tìm cách buộc chặt mình với các người." Roselle "hé" một tiếng, tỏ vẻ hả hê: "Tình hình gần đây chẳng yên ổn chút nào, Hoàng Đế Đen với Đế quốc Trunsoest sớm muộn gì cũng va chạm, khó trách Ngài lại để mắt tới cậu - nói thật, nếu không có một Thần Chết như kền kền rình mồi, họ đã đấu nhau lâu rồi."

"Rồi sao nữa?" Roselle hứng thú hỏi tiếp. "Rồi cậu trả lời thế nào?"

Anh liếc Roselle một cái: "Tôi nói, Ngài công tước Roselle Gustav, rất có tiềm năng, có khả năng cao sẽ trở thành Chân Thần, để làm phu quân của một công chúa nào đó thì Ngài ấy còn phù hợp hơn tôi. Tôi vẫn một lòng với công chúa Delphina đã mất, xin Hoàng Đế đừng bắt tôi thay lòng đổi dạ."

"Cũng không hẳn là không thể..." Roselle tỏ vẻ lúng túng: "Nhưng tìm mẹ kế sẽ ảnh hưởng đến tâm lý bọn trẻ, Bernadette và Bonova chắc chắn sẽ tổn thương... Nhắc mới nhớ, chuyện đồn đại trong giới quý tộc Saint Millon có thật sao? Cậu thật sự yêu con gái của Solomon đến mức chết mê chết mệt, nhất định phải cưới nàng?"

Klein "hừ" một tiếng: "Anh nghĩ sao? Chuyện hoang đường cỡ này có tin được không? Ngay cả nếu là anh sinh ra một đứa trẻ, một đứa trẻ thiên thần chưa cả học nói đã học thao túng dây linh thể, vừa sinh ra đã là quân cờ trong tay cha và ông ngoại, sống chỉ để phục vụ mục đích chính trị của người khác. Anh có sẵn sàng để con mình chịu một số phận như vậy không?"

Roselle ngay lập tức hiểu vì sao Klein bất chấp ở thế hạ phong cũng phải tránh rắc rối này, nhưng nhanh chóng nhận ra, rắc rối giờ dường như đã bị anh đẩy sang mình, lập tức nổi giận: "Này, vậy là cậu phản bội bạn bè thế à? Anh em thân ai nấy lo hả?"

"Yên tâm, tôi đâu có thật sự bán mất trinh tiết quý giá của anh đâu." Klein nhếch mép, giọng mỉa mai: "Đoạn vừa rồi tất nhiên là bịa, nghĩ mà xem, tôi có thể ăn nói bậy bạ cỡ nào trước mặt Hoàng Đế Đen chứ? Ngài ấy thật sự muốn dùng một cuộc hôn nhân chính trị để củng cố địa vị, nhưng chưa đến mức cấp bách như vậy."

Hiện tại, "Roselle" thực sự chỉ là một robot sống, đầu óc chứa đầy bánh răng giả, nối với thân thể thật của Roselle. "Klein" cũng không phải là Klein thật, mà là hình chiếu lịch sử của một con rối - họ đang ở một vùng biển bị che giấu, nơi có một hòn đảo nguyên thủy bị Mẫu Thần Đọa Lạc ô nhiễm. Vào cuối Kỷ Thứ Ba, thảm họa lớn khiến quyền năng bảo vệ rào chắn của Thần Mặt Trời sụp đổ, sức hút từ tinh không tràn vào thực tại, và hòn đảo nguyên thủy này là một trong những nơi bị ô nhiễm. Họ đến đây để kiểm tra tình trạng các niêm ấn mà Klein đã để lại, đảm bảo sức mạnh của Mẫu Thần Đọa Lạc không lan ra thêm. Vì an toàn, họ không muốn để toàn bộ thân thể xuất hiện, chỉ sử dụng một phần ý thức và quyền hành, luôn sẵn sàng cắt đứt liên lạc khi cần.

"Mọi thứ đều bình thường." Klein búng tay một cái, "Nhưng để chắc chắn, tốt hơn là chúng ta nên gia cố thêm."

Không gian trên đảo lại bị cưỡng ép chia cắt thành vô số mảnh, rồi thời - không trên đảo bị xáo trộn một cách hỗn loạn, tạo nên một môi trường đầy Ghép Nối và Sai Lầm. Bất kỳ sinh vật nào rơi vào trong đó đều sẽ mắc kẹt như trong dải Mobius, mãi mãi đi vòng quanh mà không thể thoát ra. Ngay sau đó, những luồng ánh sáng không rực rỡ, không trong trẻo, không màu sắc, như được tạo thành từ vô số hình ảo lóe lên, bao quanh đảo như một chiếc vòm kính tròn, che phủ cả phần dưới mặt nước. Dù đôi khi có ô nhiễm tràn ra nhưng chỉ cần chạm vào lớp rào chắn này sẽ bị phân giải thành cấu trúc vi phân cơ bản nhất.

Dù đã nắm trong tay Tính Duy Nhất, nhưng để vận dụng được hết quyền năng của Kẻ Hoàn Mỹ đối với Roselle vẫn còn khá khó khăn. May mà trong môi trường thời - không lộn xộn này, quá trình tự phân giải của lớp rào chắn được ghép nối từ lúc bắt đầu đến kết thúc, nhờ đó mà nó có thể duy trì lâu dài.

Ngay sau đó, bóng tối vô tận, sấm chớp và hoàng hôn bao phủ khu vực, nhiều luồng thần lực liên tục hoành hành và va chạm, tạo ra vô số cảnh tượng hủy diệt lộng lẫy.

"Một chút ô nhiễm từ Thần Chết và tàn tích Thần Chiến." Klein nhún vai, "Đúng là lấy độc trị độc, vừa vặn nhỉ?"

"Nguy hiểm quá." Roselle lắc đầu, "Để lại chút cho cái vị ở mặt trăng đi."

Câu nói quen thuộc khiến hai đồng tộc cũ đồng loạt phá lên cười. Sau khi cười xong, Klein mới nói: "Ngài ấy có khả năng săn mồi hơn cả gấu trúc, chẳng cần mấy thứ này đâu."

Roselle nhướng mày. Con rối này gần như sao chép hoàn hảo Roselle thật, thậm chí tinh tế đến mức thể hiện những cử chỉ cảm xúc nhỏ nhặt. Hình chiếu lịch sử của Klein nhìn về phía đảo xa, lắc đầu: "Quay lại bàn sau vậy."

"Bịch!" Một tiếng vang, hình chiếu lịch sử của con rối biến mất ngay lập tức. Roselle cũng không có ý định rời đi, chỉ vẫy tay, những luồng ánh sáng không màu không dạng lóe lên, phân giải con rối thành vô số hạt, rồi cắt đứt mọi liên kết.

-----------------

"Công tước Bethel Abraham," Zaratul nói, "Ta khẩn thiết khuyên Ngài ngừng ngay việc tiếp tục tiến vào tinh không. Ô nhiễm trong cơ thể Ngài đã nghiêm trọng đến mức không thể cứu vãn rồi."

"Ồ? Nghiêm trọng đến mức nào cơ?" Bethel hỏi, giọng đầy hứng thú.

Zaratul đảo mắt: "Bệnh đã vào giai đoạn cuối."

"Thế là hết thuốc chữa à?" Bethel thở dài tiếc nuối, "Thật đáng tiếc, ta còn chưa kịp đánh một trận với người bạn cũ của chúng ta nữa."

"...Nghe Ngài nói thế, có vẻ rất tự tin nhỉ?"

"Tất nhiên." Bethel Abraham cười vui vẻ. "Dưới ba phần thắng."

"Nụ cười của Ngài khiến ta bất an đấy," Zaratul nói, "Giờ nghĩ lại, việc ủng hộ Ngài năm xưa có lẽ là quyết định sai lầm nhất đời ta. Rõ ràng là Ngài tiếp xúc với đám sinh vật ngoài tinh không quá lâu đến mức bị chúng làm hỏng cả đầu óc rồi."

"Roselle từng nói, 'Cuộc đời là một cuộc phiêu lưu vĩ đại.'" Bethel đáp nhẹ nhàng, "Tất nhiên, cái chết cũng thế."

Zaratul lại thầm rủa con chó đạo văn trơ trẽn kia một lần nữa trong lòng, rồi thở dài - Bethel Abraham quả thật là một lữ khách sinh ra để đi, dùng chính mạng sống mình để định nghĩa trọn vẹn ý nghĩa của hai chữ "lãng mạn" - đến chết.

"Khi Ngài mang cả sinh mệnh ra mạo hiểm giữa tinh không," Zaratul nói, giọng chậm rãi hơn, "Ngài có từng nghĩ đến người thân, đến gia tộc, đến hành tinh nhỏ bé này - nơi đang bị vô số ánh mắt dòm ngó hay chưa? Nếu Tính Duy Nhất và đặc tính phi phàm của Ngài rơi vào tay một Ngoại Thần nào đó, thì Quỷ Bí Chi Chủ sẽ không thể ra đời, phong ấn ở đại lục phí Tây sẽ vĩnh viễn không được tháo gỡ, nhân loại trên Trái Đất chỉ còn cách chờ chết – và trong đó có cả hậu duệ của Ngài.

Tệ hơn nữa, nếu Ngài bị Ngoại Thần ô nhiễm hoàn toàn, rồi thực sự trở thành Quỷ Bí Chi Chủ dưới sự hậu thuẫn của chúng, thì cho dù Đấng Sáng Tạo có tái sinh cũng không thể cứu vãn nổi.

Ngài luôn nói mình có chỗ dựa, nhưng ngoài một vị Ngoại Thần ở nơi xa chẳng biết mấy vạn năm ánh sáng, tôi chưa từng thấy chỗ dựa ấy xuất hiện để cứu lấy mạng sống của chính Ngài."

"Ngài đang trách móc ta sao, công tước Zaratul?" Bethel thong thả nói, giọng đều đều mà ẩn chứa ý trêu chọc. "Ngài đến đây để lên án ta, chẳng qua là vì sợ mất mạng thôi. Nếu Ngài thực sự coi sự an nguy của hành tinh này là trách nhiệm của bản thân, như Ngài vẫn nói, thì bây giờ Ngài nên lập tức tự sát, để đứa con của Chúa lấy đi đặc tính phi phàm của Ngài."

"Ngài đang ngụy biện đấy, công tước Bethel." Zaratul bất lực đáp, "Ngài thừa biết việc đặc tính nằm trong tay tôi và việc nó rơi vào tay Ngoại Thần là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Hơn nữa, cuộc cạnh tranh để trở thành Quỷ Bí Chi Chủ còn lâu mới thời điểm đó. Nếu có một ngày hành tinh này thật sự cần ta hiến dâng sinh mạng và toàn bộ đặc tính phi phàm, tôi sẽ không chút do dự mà làm vậy."

"Dù lời Ngài có thật hay không, thì ta cứ tạm tin là thật đi." Bethel nói, khóe môi nhếch nhẹ. "Nhưng riêng điểm cuối cùng ta không nói dối - ta thực sự có biện pháp bảo đảm Tính Duy Nhất của con đường Cửa không rơi vào tay Ngoại Thần. Còn về việc biện pháp ấy là gì... thì không tiện để người ngoài biết."

"Hy vọng mọi chuyện đúng như Ngài nói." Zaratul thở dài.

"Ngài cứ thử tưởng tượng xem," Bethel cười khẽ, "Một ngày nào đó, từ ngoài tấm màn chắn sẽ bay vút tới một Tính Duy Nhất của con đường Cửa cùng ba Chìa Khóa Tinh Tú, rơi xuống đất như một cơn mưa sao băng. Hai anh em nhà kia lập tức lần theo quy luật tụ họp của đặc tính phi phàm mà chạy đến, tranh giành nhau vì mảnh Tính Duy Nhất ấy. Còn Ngài thì nhân cơ hội đó lén nhặt một Chìa Khóa Tinh Tú về làm thành vật phong ấn, ghi lại khoảnh khắc lịch sử ấy giúp ta. Thật lòng mà nói, ta muốn xem hai người đó đánh nhau từ lâu rồi."

"Ta thật sự không thể hiểu nổi kiểu hài hước của Ngài." Zaratul nói, giọng lộ vẻ mệt mỏi. "Nhưng dù sao, Ngài vẫn phải dừng việc tiến vào tinh không lại. Dù Ngài có chuẩn bị bao nhiêu biện pháp phục sinh đi nữa, ta cũng không muốn lần tới gặp lại chỉ còn thấy Ngài dưới dạng đặc tính phi phàm."

"Yên tâm đi, ta đã dừng việc đó từ lâu rồi. Nói thật, cái giọng điệu răn dạy của Ngài nghe chẳng khác gì một bà già thần kinh - chỉ cần nghe chút gió thổi cỏ lay là sợ phát điên." Bethel nói, tỏ rõ sự bực mình.

"À?" Ánh mắt Zaratul hơi động, khóe miệng khẽ nhếch. "Vậy thì đúng là... mặt trăng mọc từ hướng tây rồi."

"Ngài không biết, không có nghĩa là chuyện đó sẽ không xảy ra - theo ta thấy, có quá nhiều thứ Ngài không biết."

"Vậy thì ta khỏi phải lo cái chuyện đó nữa." Zaratul nói trước khi rời đi, "Cũng tránh được việc bị một lão già sống biết bao nhiêu năm nghi ngờ rằng ta là bà ngoại thất lạc nhiều năm của mình."

Bethel vung tay rộng mở, mở cửa tiễn Zaratul đi. Zaratul thản nhiên quay về nhà, không để lộ bất kỳ dấu hiệu khác thường nào. Ngày hôm sau, dưới sự cho phép của bản thể, ngài bước lên Nguyên Bảo, tiến hành một lần bói toán trên lớp sương xám, xác nhận rằng những lời Bethel nói hoàn toàn không có một chút dối trá.

Klein tiến hành bói mộng, nhìn thấy cảnh tượng xảy ra tại dinh thự gia tộc Abraham đêm hôm trước:

Người vốn đang giải quyết công việc gia tộc trong thư phòng, Bethel Abraham bỗng đứng dậy mà không hề báo trước, đóng sổ ghi chép lại, đôi mắt xanh biếc vốn luôn tỏa sáng như sao trời giờ đây trống rỗng vô hồn. Một quản gia già bước vào thư phòng gia chủ, mang đến sổ sách tháng này để Công tước xem và ký duyệt. Bethel không nhìn các con số trên sổ, chỉ thuận tay ký tên mình, quản gia nhận thấy nét chữ của chủ nhân có phần cẩu thả hơn bình thường.

Khi quản gia rời đi, "Bethel" mở một cánh cửa dẫn tới bầu trời sao, phía ngoài cửa thoáng hiện ánh đỏ quái dị, u ám, mang sắc hồng giống ánh trăng.

"Bethel" không hề nhận ra, quản gia già đã phục vụ gia tộc Abraham gần bốn mươi năm, vốn không có bất kỳ năng lực phi phàm nào, đang đứng ngoài cánh cửa hé mở, đôi mắt lúc này sâu thẳm tựa như Zaratul.

Klein dừng bói toán trước khi tầm nhìn của Mẫu Thần Đọa Lạc trong hình chiếu trùng khớp với góc nhìn của Ngài.

Năm 703 của Kỷ Thứ Tư, Hoàng Đế Đen và Thẩm Phán cuối cùng cũng không thể kìm nén mối thù sâu nặng bấy lâu nay. Với khát vọng nắm giữ quyền hạn của những con đường liền kề, họ đã khơi mào một cuộc chiến kéo dài khắp lục địa Bắc.

Tại cột mốc quan trọng đủ để ghi vào sử sách trong cuộc chiến này, Cánh Cửa Của Muôn Vạn Cánh Cửa rơi vào chiếc lưới tinh vi do kẻ thù của Ngài dệt nên.

"Cảnh tượng này thật khiến người ta hoài niệm." Bethel nói, "Phong thủy luân chuyển, lần trước khi chúng ta cùng rơi vào Linh giới, Đêm Đen còn đứng về phía ta - đó là khoảnh khắc ta ở gần với vị trí Quỷ Bí Chi Chủ nhất trong đời mình. Nhìn vào quãng thời gian trăm năm ta làm việc cùng nhau, xin hãy cho ta một phút giây tưởng niệm."

"Xin mời." Klein khoan dung đáp, "Ngài thấy đấy, ít nhất bây giờ Ngài đã thực hiện được một trong những mong ước của mình. Chúng ta đã đường đường chính chính có một trận giao chiến mãn nhãn, không một kẻ thừa thãi nào can thiệp, hoàn toàn công bằng. Kết quả cũng như Ngài dự đoán, tỷ lệ thắng không vượt quá ba phần mười."

Bethel có trí nhớ cực tốt. Chỉ dừng lại một lát, Ngài đã chấp nhận thực tế: "Xem ra ta thật sự nên cảm ơn Ngài. Ít nhất Ngài để ta chết trên chiến trường, chứ không phải chết một cách mơ hồ trong một lần ám sát. Mạo muội hỏi một câu, Zaratul trở thành con rối của Ngài từ khi nào vậy?"

"Ngay sau khi Solomon vừa ngã xuống."

"Quả nhiên là thế." Bethel thở dài, "Ván này ta thua một cách tâm phục khẩu phục."

Dưới lớp phong ấn kép của Bí Mật và Nguyên Bảo, cho dù là Cửa Của Muôn Vạn Cánh Cửa cũng khó lòng thoát được - mặc dù được xem là giỏi nhất trong việc phong ấn và thoát thân, nhưng quyền khống chế của chủ nhân Nguyên Bảo đối với con đường Cửa lại không hề kém cạnh ông, nếu có chênh lệch thì cũng đã bị triệt tiêu quá nửa.

Kẻ đứng trong màn đêm vẫn chưa ra tay. Bị thương nặng, Bethel mở mắt nhìn ánh sáng ban ngày bừng lên - ánh sáng mang theo sức mạnh tẩy rửa mọi ô nhiễm và sức nóng khủng khiếp nuốt chửng lấy ông, mà vẻ mặt ông vẫn bình thản. Cả đời ông theo đuổi thứ ánh sao băng giá mà rực rỡ kia, giờ đây cũng tự nhiên chấp nhận kết cục hóa tro bụi dưới hào quang của sao trời vĩnh hằng.

88.

Bethel bừng tỉnh trong đại điện sương xám mịt mờ, ngẩng đầu thấy một ngôi sao đỏ thẫm treo trên vòm trời cao.

Ngài mất đúng một giây để xác định xem mình đang ở đâu, và một giây nữa để nhận ra người bên cạnh là ai. Bethel vô cùng chắc chắn rằng mình chưa từng bố trí bất cứ phương thức phục sinh nào.

Con đường Cửa vốn không có sở trường về phục sinh, hơn nữa đứa trẻ mang họ Abraham đều là những đứa con mà ông yêu quý. Chúng có thể chết do chiến tranh, do bệnh tật, do đoản mệnh, hay do bất cứ tai ương nào mà định mệnh giáng xuống - nhưng Bethel không bao giờ cho phép chúng chết vì lòng ích kỷ của chính ông

Huống chi, dáng vẻ nửa người nửa quỷ của Chúa Sáng Thế Chân Thật từng khiến ông thấy ghê tởm tột cùng - nghĩ đến việc Đấng Sáng Tạo trong Kỷ Quang Huy từng là ánh sáng rực rỡ đến thế, ông thề sẽ không để bản thân sa vào cảnh nửa sống nửa chết, treo lơ lửng giữa nhân gian.

Nếu sự phục sinh này không đến từ sự sắp đặt của chính ông, vậy thì chắc chắn là do kẻ khác ra tay.

Bethel trừng mắt nhìn thủ phạm chính bên cạnh, sắc mặt đầy bất mãn. Dù việc được bước chân lên Nguyên Bảo - nơi ngoài đối thủ cũ của mình thì chưa có ai trong Cẩu tam Gia từng đặt chân tới - đáng ra phải khiến ông thấy vinh dự, nhưng đến đây với tư cách chủ nhân và đến đây với thân phận tù nhân rõ ràng là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.

Huống hồ, ông là một thiên sứ thuộc con đường Cửa mà vẫn có thể bị đưa lên Nguyên Bảo... Điều này chẳng phải ngầm nói rằng trong mắt đối thủ cũ của ông, căn bản ông không đáng để đề phòng sao?

Bethel cảm nhận tình trạng và vị cách hiện tại của mình - tốt thôi, ba phần đặc tính Chìa Khóa Tinh Tú và một phần Tính Duy Nhất đã mất sạch, chỉ còn lại một phần đặc tính Pháp Sư Lữ Hành. Có vẻ như giờ đây, quả thật ông không còn đủ tư cách để khiến chủ nhân Nguyên Bảo cảnh giác nữa.

"Ê, tôi khổ sở lắm mới nhặt hết được từng ấy con trùng ngôi sao của Ngài rồi ghép lại đấy, Ngài không cảm ơn nổi một câu à?" Kẻ gây chuyện - Klein - nhìn ông với vẻ vô tội, bộ dạng như không hiểu mình đã làm gì sai.

Đương nhiên, điều Klein làm không chỉ đơn giản là nhặt từng mảnh Bethel và ráp lại. Thực tế, anh lấy cảm hứng từ Pallez - vào đúng khoảnh khắc Bethel hấp hối, Klein đánh cắp cả ý thức bản ngã, thể tinh thần lẫn thể tinh linh của ông, đặt vào trong một con rối đã được chuẩn bị sẵn.

Sau đó, anh dùng quyền năng Sai Lầm để thúc đẩy quá trình tách rời đặc tính phi phàm của xác Bethel, rồi dùng quyền năng Kỳ Tích khiến một phần trùng ngôi sao vẫn giữ được đặc tính phi phàm dưới danh sách một.

Ngay tiếp đó, Klein đánh cắp dấu ấn tinh thần mà Bethel lưu lại trong Tính Duy Nhất và Chìa Khóa Tinh Tú, gói gọn chúng cùng ý thức bản ngã đang lưu trong con rối, rồi nhét tất cả vào đám trùng ngôi sao nửa sống nửa chết kia-

...và cứ thế, Bethel bị ép sống lại.

Lý do anh phải giết Bethel một lần rồi mới phục sinh thay vì trực tiếp tách đặc tính phi phàm ra, là vì đối với một Vua Thiên Thần đã nắm giữ Tính Duy Nhất, việc cưỡng ép lấy đi đặc tính phi phàm là vô cùng khó khăn - nếu không có sự phối hợp tuyệt đối thì gần như không thể thực hiện. Mà theo hiểu biết của anh về Bethel, Ngài thà chết chứ còn lâu mới chịu phối hợp.

Ngoài ra, anh cũng hy vọng có thể dùng cái chết để gột rửa sự ô nhiễm trên người Bethel, ít nhất là loại bỏ phần lớn nó.

Giờ nhìn lại, hy vọng có thể rửa sạch hoàn toàn ô nhiễm sâu từ Cựu Nhật bằng một cái chết là điều không thực tế, nhưng ít nhất việc tạm thời áp chế là hoàn toàn khả thi. Anh đã để lại phong ấn trên người Bethel, ngăn ngừa ô nhiễm từ Mẫu Thần quay trở lại, hơn nữa nguồn khí của Nguyên Bảo cũng có thể cắt đứt mối liên hệ giữa ô nhiễm của Bethel với Mẫu Thần Đọa Lạc. Còn "mặt trời" được chiếu rọi từ tầng sương xám - bắt nguồn từ Chúa Sáng Thế Chân Thật - cũng đủ sức chống lại và từ từ thanh tẩy sự ô nhiễm của Mẫu Thần Đọa Lạc.

Về phần lý do Klein nương tay, thậm chí còn mang Bethel đến Nguyên Bảo, thì anh chưa định nói với Ngài Cửa. Điều đó liên quan đến những kế hoạch tiếp theo của anh.

"Tôi còn tưởng Ngài sẽ giúp Chúa Sáng Thế Chân Thật và Solomon, không ngờ Ngài lại tình nguyện ở đây làm mấy việc vô vị để giết thời gian. Đây là điều kiện mà Ngài đồng ý với Đêm Đen sao? Đổi lại Ngài sẽ không ra tay trong Thần Chiến à? Haaa, xem ra lòng trung thành của quý ngài Merlin cũng chẳng khác gì bọn phản đồ chúng ta - không đáng mấy đồng vàng."

"Ngài đoán đúng rồi." Klein đáp bằng giọng nhẹ nhàng, "Giờ thì Solomon sẽ ngã xuống một lần nữa, chỉ cách thời điểm Ngài ngã xuống không bao lâu."

"Tôi nghĩ Ngài sẽ không bỏ mặc Chúa Sáng Thế Chân Thật, đúng chứ? Dù sao thì, Ngài vẫn là vị Chân Thần mạnh nhất thế gian hiện nay. Mặc dù đã hoàn toàn hóa điên, nhưng ít ra Ngài vẫn còn giá trị lợi dụng - đặc biệt là khi trong tay Ngài đang nắm giữ Phiến Đá Báng Bổ." Bethel mỉa mai, không chút nương lời.

"Tôi đã nối tầng sương mù lịch sử trong vùng xám, trong đó có rất nhiều cảnh tượng từ quá khứ đã mất - bao gồm cả thế giới trước Kỷ Thứ Nhất. Rất nhiều thứ đáng để ngắm nhìn." Klein thản nhiên nói, "Nếu Ngài cảm thấy chán khi ở trên sương xám, thì cứ vào sương mù lịch sử mà xem. Những thứ trong đó cũng chẳng thua gì những thứ Ngài từng thấy ngoài tinh không.

Những lịch sử đã mất đó đã dấy lên chút tò mò cho Bethel, nhưng gương mặt Ngài vẫn lạnh lùng: "Ngài thật sự không sợ tôi nhân lúc Ngài vắng mặt mà cướp lấy Nguyên Bảo sao?"

"Nếu Ngài là một thiên sứ thuộc con đường Kẻ Trộm thì tôi quả thực sẽ phải đau đầu." Klein điềm đạm đáp. "Nhưng Ngài thuộc đường Cửa, cùng lắm chỉ có thể mở một cánh cửa trên Nguyên Bảo mà trốn đi, mà xác suất thành công cũng chẳng đáng để kỳ vọng. Hơn nữa, Nguyên Bảo lại có sức hấp dẫn quá lớn đối với Ngài nên tôi nghĩ Ngài sẽ chẳng dễ dàng rời khỏi đây đâu."

"Nếu tôi thực sự cướp được thì sao?" Bethel không bỏ cuộc, hỏi vặn lại: "Khi Đêm Đen giết chết Flegrea, chẳng phải cũng chỉ ở danh sách hai thôi sao?"

Klein mỉm cười nhẹ: "Vậy chúng ta cứ chờ xem."

Khi ngai vàng đen kịt từ rơi xuống từ trên trời cao, vô số thiên thạch xé toang bầu trời, đổ xuống đầu các vị thần như sự trừng phạt của Chúa. Cảnh tượng ấy tựa như trong kinh Cựu Ước khi Thiên Chúa giáng cơn thịnh nộ xuống hai tòa thành đầy tội lỗi: lưu huỳnh và lửa từ trời rơi xuống đất, đến lúc mặt trời mọc, lửa đã san phẳng mọi thứ trên bình địa. Người vợ phàm trần chỉ kịp ngoảnh đầu nhìn lại một cái đã hóa thành một cột muối.

Và ngọn lửa đó thực sự đến từ cơn giận dữ và trừng phạt của Chúa, từ Tư Tế Đỏ vẫn còn đang say giấc. Phần Tính Duy Nhất bị tách ra khỏi thân thể Medici cùng với đặc tính phi phàm của Kẻ Chinh Phạt đã được Vua Thiên Thần của con đường Thợ Thủ Công rèn thành một thanh kiếm nặng. Roselle tự đùa rằng đó là vật phong ấn 0-01, vì xét về cả vật liệu lẫn kỹ nghệ, trên đời khó có vật phong ấn nào đẳng cấp hơn nó. Trước trận chiến đó, Klein đã giao thanh kiếm cùng Phiến Đá Báng Bổ thứ nhất cho Đấng Sáng Thế Chân Thật - đó là một trong những lý do khiến anh dám để Chúa Sáng Thế Chân Thật và Roselle trực tiếp đối mặt với Thẩm Phán và bốn vị thần (trừ Đêm Đen) của Ngũ Thần.

Thanh kiếm lửa kia mang theo ánh đỏ hung tợn bị Chúa Sáng Thế Chân Thật cầm trong tay, nhưng lại ngoan ngoãn như một con chiên non. Thanh đao dài hàng chục mét bổ xuống không trung, cắt ngang mặt đất, để lại một rãnh sâu đang bùng cháy. Trong bóng tối tựa như bật lên một tiếng cười khẩy, hai dấu ấn phù chú bừng sáng, Chúa Sáng Thế Chân Thật và Roselle lần lượt rời khỏi chiến trường.

Trên biển vàng rực rỡ, cánh cổng lấp lánh ánh sao đột nhiên mở to rồi ngay lập tức đóng lại, biến mất không dấu tích.

Sau khi Solomon ngã xuống, cục diện lục địa Bắc một lần nữa chao đảo. Đế quốc Trunsoest đã sáp nhập phần lãnh thổ của Solomon trong vài năm, nhưng không thể ngay lập tức thu phục hết các lực lượng tàn dư của đế quốc khổng lồ đó. Một nhánh dòng họ Solomon ra khơi, họ đã sinh ra muôn vàn giai thoại về những kho báu trong truyền thuyết khiến các thủy thủ tương lai phát điên; nhánh hậu duệ khác thì lựa chọn dựa vào các lực lượng đồng minh còn sót lại của tổ tiên, cùng với gia tộc Medici dưới sự dẫn dắt của Vua Thiên Thần Ouroboros, tập hợp lại tàn dư các tín đồ của Đấng Sáng Thế Chân Thật, tái lập giáo hội và chờ đợi ngày Chủ nhân trở về.

Cùng lúc ấy, trong Vùng Đất Bị Thần Bỏ Rơi - nơi biệt lập với thế gian, Klein nhìn chằm chằm Chúa Sáng Thế Chân Thật mang theo Phiến Đá Báng Bổ thật sự bước vào thánh điện của Ngài, rồi đóng cánh cổng của Thần Quốc lại. Dù ánh nhìn bình thản nhưng ngón tay anh không biết đã ghim sâu vào lòng bàn tay từ lúc nào.

"Cậu đã nghĩ kỹ chưa?" Roselle hỏi. "Nếu để Chúa Sáng Thế Chân Thật lấy được Phiến Đá Báng Bổ, thực sự nắm được Biển Hỗn Độn, có thể Ngài thật sự sẽ chẳng bao giờ quay trở lại được nữa."

Klein ngẩng mặt lên, nhắm mắt lại, thở ra một hơi thật sâu rồi mở mắt ra, như đã quyết. Anh nói: "Vậy thì đừng trở lại nữa."

Roselle nhìn vào đôi mắt đen như mực của người bạn cũ, cảm thấy tim mình bất chợt co thắt. Hắn không hiểu điều gì đã khiến bạn mình nhẹ nhàng phá tan đi khát vọng mà anh đã theo đuổi suốt nửa đời người.

"Tôi không tài nào tìm thấy những phương thức phục sinh khác mà Ngài để lại; có lẽ chỉ có Adam còn dấu vết, nhưng tôi không thể để Ngài tiếp tục quẫn trí như vậy... Còn những phương án dự phòng khác mà Ngài từng để lại, có thể vốn không tồn tại, hoặc đã bị hủy trong đại nạn đó."

"Lớp chắn vỡ nát ngày một nhanh hơn, tôi cần một vị Cựu Nhật mới, một tân Chủ Nhân Của Cõi Sao Vô Tận, để nắm lấy quyền điều khiển rào chắn." Klein nuốt một ngụm nước bọt, như đang cố nuốt trọn nỗi đắng cay trong lòng. "Tôi không còn lựa chọn nào khác. Bão Táp và Trí Tuệ là kẻ thù của tôi;,một khi Adam thành Thần cũng sẽ khiến ý chí của Tối Sơ hồi sinh trong thể Ngài... Chúng ta đều biết thứ tự tối ưu để trở thành Trụ Cột là gì: sau khi tiếp nhận Tính Duy Nhất của một chuỗi danh sách thành Thần, trước hết phải tiếp nhận Nguyên Chất, rồi mới đến các Tính Duy Nhất khác... Tính Duy Nhất của Mặt Trời chưa thực sự được Chân Tạo tiếp nhận hoàn toàn; Ngài chỉ nắm giữ Mặt Trời theo kiểu chăn dắt nhưng thực tế vẫn là lựa chọn ưu tiên nhất. Ngài có điên rồ hay không không quan trọng, miễn là Ngài có thể duy trì được sự ổn định ban đầu là đủ."

"Thôi thì cứ vậy đi."

Anh xoa xoa huyệt thái dương, trong mắt ánh lên nỗi mệt mỏi sâu thẳm, nhưng vẫn cố gắng đứng thẳng người. Anh thậm chí còn khẽ bật cười:

"Dù sao, Đấng Sáng Thế Chân Thật cũng là một phần của Ngài mà, phải không? Ít nhất thì... Ngài vẫn chưa hoàn toàn chết hẳn."

"Đừng cười nữa." Roselle nói, "Cậu cười khó coi thật đấy."

90.

Sự trở lại bước đầu của Thần, ở lục địa phía Đông, là một sự kiện khiến lòng người phấn chấn. Dù Ngài chỉ tạm thời hiển lộ qua nhiều lần thần tích rồi lại rơi vào giấc ngủ dài, chừng đó cũng đủ khiến dân chúng hân hoan.

Cùng lúc đó, dưới sự đồng thuận của Chúa Sáng Thế Chân Thật, thần thoại ở lục địa Đông bắt đầu trải qua một quá trình thay đổi chậm rãi mà sâu sắc - dưới sự trợ giúp kín đáo, những mô tả về Đấng Sáng Tạo ban đầu dần bị xóa bỏ, thay vào đó là hình ảnh Mặt Trời trỗi dậy từ trong Hỗn Độn.

Trong số ít những ghi chép còn sót lại về Đấng Tạo Hóa đầu tiên, người ta kể rằng ngay khoảnh khắc thế giới được sinh ra, Ngài đã hòa vào vạn vật. Từ sức mạnh Ngài để lại, Thần Mặt Trời được sinh ra - vị Thần mang đến sự sống mới cho nhân loại, kế thừa quyền năng Sáng Tạo của Đấng Tạo Hóa ban sơ, và vì thế cũng được xưng là Chúa Sáng Tạo.

Sau khi thực sự dung nạp Biển Hỗn Độn, Chúa Sáng Thế Chân Thật không vội trở lại lục địa phương Bắc, mà trước tiên thanh tẩy ô uế của Vùng Đất Bị Thần Ruồng Bỏ, để cư dân nơi ấy lại được thấy Mặt Trời mọc lên.

Giờ đây Ngài đã trở thành một nửa Cựu Nhật, tuy chưa khôi phục được toàn bộ địa vị thời đỉnh cao, nhưng đã đủ mạnh để tẩy rửa phần lớn ô nhiễm trong vùng đất ấy.

Đáng nói là, vì Roselle nhận ra việc tự mình phục dựng lại từng công trình khoa học tinh hoa một của nền văn minh Cựu Nhật là quá sức, nên hắn và Klein đã quyết định xây dựng một hệ thống khoa học và giáo dục hoàn toàn mới, để con người của thời đại này tự mình khám phá, học hỏi và vận dụng khoa học.

Ban đầu, do những vấn đề lịch sử tích tụ lâu dài, công việc này gặp vô vàn trở ngại. Nhưng khi đến cả Thần cũng bắt đầu khuyến khích con dân của mình noi theo bước chân của "Ngọn đèn văn minh - Ánh sáng đen từ loài người", cùng nhau khám phá khoa học để tạo phúc cho đồng loại, thì công cuộc ấy bỗng chốc bừng lên như lửa.

Họ kết hợp chương trình tiểu học - trung học cơ sở - trung học phổ thông của Trung Quốc với môn kiến thức nhập môn thần bí học của lục địa phía Đông, triển khai chín năm nghĩa vụ giáo dục, khuyến khích cha mẹ cho con em hoàn tất giáo trình nghĩa vụ rồi mới chọn con đường ma dược.

Roselle thậm chí còn chu đáo mang đến cho học sinh phiên bản mới của năm năm thi đại học - ba năm luyện tập, đáng mừng thay, đáng chúc mừng ghê.

Khi công cuộc kiến thiết ở lục địa phía Đông đang diễn ra sôi nổi, Dạ Hoàng cơ bản cũng đã ổn định vùng lãnh thổ được mở rộng nhanh chóng, đối đầu từ xa với Đế quốc Balam phương Nam.

Tuy giữa Thẩm Phán và Kẻ Không Ngủ không có tranh chấp về con đường, nhưng sự hậu thuẫn lớn nhất vị Dạ Hoàng nhận được lại đến từ Đêm Đen, mà Đêm Đen và Chiến Thần trong liên minh Ngũ Thần lại là kẻ thù không đội trời chung với Thần Chết.

Tuy nhiên, với thân phận là kẻ đã dung nạp một phần Nguyên Chất, Thần Chết rõ ràng mạnh hơn bất kỳ vị Thần nào trong Đế quốc Trunsoest, hơn nữa còn có khả năng liên thủ với Ma Nữ Nguyên Sơ - điều khiến cả Đêm Tối lẫn Chiến Thần đều không muốn làm kẻ đi đầu trong cuộc chiến này.

Và lúc này, vị Thẩm Phán từng giết chết chủ nhân để đăng Thần dưới sự hậu thuẫn của chư thần, cuối cùng cũng phải trả giá cho món quà mà số mệnh đã ban cho Ngài.

Tiếng bước chân đều đặn của Klein vang lên trên nền đá lát của hoàng cung: "cạch... cạch...". Anh đi qua những đại sảnh lộng lẫy dát vàng, băng qua những cung điện đối xứng hoàn mỹ, cuối cùng dừng lại trước ngai vàng của Dạ Hoàng.

Klein ngẩng đầu, ánh mắt mang theo chút hứng thú nhìn lên người ngồi trên cao kia.

Trong ký ức của anh, Trunsoest là một kẻ cứng nhắc đến mức buồn cười - tính tình nghiêm khắc, tựa một kẻ mang tư tưởng phong kiến bảo thủ trong sách giáo khoa văn học cũ mà học sinh thời xưa vẫn phải học để rồi phê phán. Điều đó khiến y trở nên lạc lõng giữa đám thần linh chẳng hề biết đến đạo đức kia.

Là một Luật Sư, y hùng biện sắc bén, nhưng kết hợp cùng những tiêu chuẩn đạo đức khắt khe và kỳ quái của mình, tất cả lại khiến y mang vẻ thần kinh quái dị - theo lời Medici, "chọc thì vui ra trò".

Klein nhớ lại buổi yến tiệc hỗn loạn, nơi y từng cùng anh co rúc trong góc nhỏ, sợ hãi đến mức gần như muốn tự móc mắt ra - cảnh tượng ấy, dường như vẫn còn diễn ra hôm qua.

Còn bây giờ, Dạ Hoàng trên ngai kia khép hờ đôi mắt, khí độ thâm trầm, uy nghiêm như núi cao vực sâu - nhưng lại kém xa so với Trunsoest ngày xưa, kẻ cổ hủ mà sống động biết bao.

"Đức ngài Trunsoest, đã lâu không gặp - dù giờ đây có lẽ ngài thích ta gọi Ngài là Bệ hạ hơn nhỉ."

Klein khẽ mỉm cười, giọng mang theo vẻ trêu chọc.

"Sao nào, cảm giác trở thành một hoàng đế Chân Thần có dễ chịu không? Mọi thứ giờ đã theo ý Ngài, được đội vương miện, nhưng phát hiện ra bản thân rốt cuộc chỉ là con rối trong lòng bàn tay chư thần... Ngài nghĩ sao? Nếu sớm biết có ngày này, Ngài có còn cắn lấy cái mồi câu có móc ngược đó nữa không?"

Với bất kỳ một quân vương hay thần linh nào, lời ấy đều là phạm thượng. Thế nhưng Dạ Hoàng không hề tỏ ra phẫn nộ. Một lúc lâu sau, Ngài chậm rãi nói:

"Sự sụp đổ của Solomon là xu thế tất yếu. Nếu không có ta và Tudor, thì cũng sẽ có Augustus và Castiya."

"Tất nhiên, tất nhiên."

Klein gật đầu. "Ta không đến để tính sổ. Dù sao ta và Solomon cũng chẳng bao là thân tình. Với ta, đế quốc mang họ Solomon hay họ Trunsoest đều chẳng khác gì nhau. Ta đến chỉ để giao dịch với Ngài. Nếu mọi việc thuận lợi, ta có thể giúp Ngài nuốt trọn mồi câu ấy... rồi nhè cái móc ra."

"Merlin Hermes chưa bao giờ làm ăn lỗ vốn."

Dạ Hoàng đáp khẽ, "Ngài giúp ta nắm lấy mồi câu của chư thần... hẳn là đã chuẩn bị sẵn cho ta một cái móc khác rồi."

Klein bật cười:

"Thông minh. Quả đúng là vậy. Nhưng ngay cả khi không có ta, tự Ngài chẳng lẽ sẽ không cắn lấy mồi câu ấy sao? Nếu không vì sao Quốc Gia Thất Tự lại bắt đầu nổi loạn?"

"Có vẻ nguồn tin của Ngài thật phong phú."

"Ta còn bói ra được một chuyện thú vị nữa - vật phong ấn Đèn Thần Ước Nguyện từng thuộc về cha ta, giờ lại đang nằm trong tay Ngài. Điều đó khiến ta càng tin tưởng hơn vào kết quả của mình. Ta cần tiến hành một thí nghiệm... hoặc nói đúng hơn, một phép thử.

Ngài hẳn cũng biết, hiện tại Tính Duy Nhất của Ngài Cửa đã rơi vào tay ta. Thần Chết sở dĩ có thể vận dụng Dòng Sông Vĩnh Ám, chẳng phải vì ở Kỷ Thứ Hai, Gregrace đã mở ra một nhánh của dòng sông đó sao? Giờ ta có thể giúp Ngài đạt được điều tương tự."

"Tất nhiên, thế gian này chẳng bao giờ có chiếc bánh nào miễn phí cả. Ta cần Ngài làm vật thí nghiệm cho ta. Còn về sau Ngài có chết hay hóa điên, ta không thể dự đoán - ha ha, ta là người làm ăn minh bạch, không thích mập mờ khi giao dịch."

Dạ Hoàng tựa cằm lên tay, im lặng thật lâu. Cuối cùng, Ngài nói: "Ta đã tìm ra tung tích cuối cùng của đặc tính Người Khai Sáng Văn Minh."

"Rất tốt." Klein mỉm cười nói, "Ngài vẫn luôn là một người thông minh."

"À đúng rồi, Bệ hạ Dạ Hoàng, nghe nói hoàng hậu của Ngài đã mang thai. Xin cho phép ta gửi lời chúc mừng muộn màng này - chỉ là, cho phép ta hỏi thêm một câu cuối cùng: Ngài nóng lòng muốn thoát khỏi sự khống chế của chư thần như vậy, là hoàn toàn do ý chí của chính Ngài, hay thật sự là vì vị Nữ Thần Sắc Đẹp kia? Ta chẳng hề có ý mạo phạm, chỉ đơn giản là thấy hiếu kỳ mà thôi."

Lần này, sự im lặng của Dạ Hoàng kéo dài lâu hơn rất nhiều.

"Chúng ta đều chỉ là những quân cờ trên bàn cờ của chư thần." Giọng nói của Dạ Hoàng trầm thấp. "Ta là thế, Auernia dĩ nhiên cũng vậy."

"Ta hiểu rồi." Klein khẽ gật đầu.

Tình yêu của sinh linh thần thoại sao. Klein hơi thở dài trong lòng.

*PS:

- Về Bethel:

Nhiều người cho rằng Bethel vẫn luôn bị giam cầm giữa tinh không, nhưng mô tả thật sự trong nguyên tác lại là "lạc lối giữa Đêm Đen và Phong Bạo". Điều này có vẻ đúng hơn nếu so ra Bethel bị Đêm Đen và Bão Táp liên thủ phong ấn.

Đã như vậy, khi hai vị Thần này chiếm thế thượng phong, họ không thể nào đày Bethel vào tinh không - thứ nhất, họ không có quyền năng ấy; thứ hai, làm vậy chẳng khác nào tự tay dâng chìa khóa của màn chắn cho Mẫu Thần Đọa Lạc.

Theo suy đoán của tôi, nơi thật sự giam cầm Bethel là một không gian bí mật do Đêm Đen tạo ra, nơi tràn ngập quyền năng của Đêm Đen và Bão Táp. Chỉ đến khi trăng tròn, khi sức mạnh của Mẫu Thần Đọa Lạc trở nên mạnh nhất, nhân cách bị ô nhiễm của Bethel mới có thể giao tiếp với thế giới bên ngoài.

Từ giả thuyết ấy, tôi đoán rằng nghi lễ thành thần của con đường Cửa thực ra không liên quan đến tinh không, mà là "bị giam trong sức mạnh cấp Thần, rồi mở cửa phá vỡ phong ấn ấy".

Bethel hiểu rõ rằng một khi mình quay về chỗ cũ để thành Thần, thì thứ bị Mẫu Thần Đọa Lạc ô nhiễm sẽ không chỉ là một Vua Thiên Thần, mà là một Cửa thật sự. Khi Cửa bị Mẫu Thần kiểm soát, nó chắc chắn sẽ mở tung màn chắn từ bên trong, đưa ô nhiễm của Ngoại Thần ùa vào thực tại.

Đó cũng là lý do Amon phải lấy Phiến Đá Báng Bổ để vá lỗ hổng, bởi từ một góc độ nào đó, màn chắn cũng là một loại phong ấn, và con đường Cửa đương nhiên là con đường có thể xuyên qua phong ấn. Câu Amon nói: "chẳng lẽ ngươi muốn mang ô nhiễm trở về thực tại" không phải ám chỉ rằng Bethel sẽ biến thành một nguồn bệnh khiến ô nhiễm lây lan, mà là, khi trở thành Cửa bị Mẫu Thần thao túng, ông sẽ chủ động mở màn chắn, dẫn ô nhiễm của Ngoại Thần đến thế giới này.

Tham khảo Thần Bị Trói từng bị Mẫu Thụ ô nhiễm - mặc dù một bên là Mẫu Thần, một bên là Mẫu Thụ - nhưng nếu Amon thật sự ở ngay trong tầm ảnh hưởng của Mẫu Thần, thì chỉ với hơn một nghìn năm, đủ để bà ta sinh cả một ổ rồi.

Còn về sự trở lại của Chúa Sáng Thế Chân Thật... xin cứ yên tâm, kết cục chắc chắn Ngài sẽ trở về. Dù hiện giờ Klein thà nhượng bộ, chấp nhận để "Chúa Sáng Thế Giả" tạm thời thay thế, nhưng hãy tin rằng, chuyện của người Nga sẽ có, và kịch luân lý gia đình cũng sẽ có *chắp tay cầu nguyện*

Theo lời của lão Mực, Trunsoest và Auernia ban đầu chỉ là một cuộc hôn nhân chính trị, nhưng về sau, giữa họ dần nảy sinh một thứ tình cảm giống như tình yêu. Có lẽ là sự đồng cảm của hai kẻ tham vọng, có lẽ là niềm thương hại giữa những con cờ cùng số phận, hoặc chỉ là hai kẻ điên cô độc tìm đến nhau để sưởi ấm.

Trong cách hiểu riêng của tôi, Trunsoest dám mạo hiểm dung nạp Quốc Gia Thất Tự một phần cũng vì Auernia và đứa con của họ - đó là một canh bạc. Nếu y không thể lật bàn trong ván cờ này thì kết cục chắc chắn sẽ giống như Tudor, trở thành con tốt thí trong trò chơi của chư thần.

Còn về người vợ và đứa con ấy, e rằng số phận của họ khó có thể tốt đẹp hơn.

- Về Hồng Bạch của Chúa:

"Tại sao chúng ta lại bắt đầu đi theo Chúa?" Medici nhướn mày. "Câu hỏi này là sao đây?"

"Để tiêu hóa ma dược của Học Giả Cổ Đại." Klein đáp lại rất nghiêm túc. "Trừ Herabergen ra, lý do Ngài ấy theo Cha là điều ai cũng biết, còn những người khác thì nói năng mập mờ, ta chỉ tò mò một chút thôi mà."

"Không có lý do." Medici đáp qua loa. "Những ngày đầu ta chỉ biết đánh nhau khắp nơi, khiêu chiến với Người Khổng Lồ, vật lộn với Ma Lang. Sau này ta gặp được Chúa, rồi quyết định đi theo Ngài, thế thôi."

Klein tỏ vẻ không hài lòng với câu trả lời đó, vì màn sương lịch sử chẳng được hé mở thêm là bao. Mặc dù một vài trải nghiệm thời kỳ đầu của Medici khớp với những gì cậu biết, nhưng lý do thực sự khiến gã đi theo Chúa Sáng Thế vẫn chẳng rõ ràng hơn chút nào. Dù Klein cố gắng gợi chuyện thế nào, Medici cũng chẳng buồn đáp lại, chỉ bảo cậu đi tìm rắn lớn.

Ouroboros là kẻ đầu tiên đi theo Chúa Sáng Thế, sớm hơn tất cả những người khác. Ngài vốn là một quái vật bẩm sinh, may mắn nuốt trọn một đặc tính Bán Thần mà không chết. Tin tốt là đặc tính đó thuộc về con đường Vận Mệnh; tin xấu là trước khi nuốt nó, y chỉ là một sinh vật tầm thường, và trong thời đại chưa có Phiến Đá Báng Bổ hay khái niệm về con đường và vai diễn, y hiển nhiên rơi vào điên loạn.

Theo lời Ouroboros, việc anh đi theo bước chân của Chúa là do "tiếng gọi của số mệnh". Dưới sự dẫn dắt của Ngài, anh dần ổn định lại, rồi bước từng bước trở thành một Vua Thiên Thần. Còn về phần còn lại, Ouroboros vẫn không chịu tiết lộ cho Klein biết.

"Aucuses và Leodero cũng giống ta," Ouroboros nói, "Chúng ta đi theo Ngài vì tin rằng Ngài sẽ mang lại ánh sáng cho thế giới. Còn về Medici, ta không rõ gã nghĩ gì trong lòng."

Lời kể của Aucuses và Leodero khớp với Ouroboros, chỉ khác ở thái độ.

Aucuses tường tận kể lại quá trình từ khi còn là một phàm nhân yếu đuối cho đến khi gặp Chúa Sáng Thế, bị ánh sáng của Ngài chinh phục và quyết định trở thành "mặt trời" mang ánh sáng đến cho nhân loại.

Còn Leodero thì chỉ trả lời qua loa, rồi không kiên nhẫn mà ném Klein ra khỏi cửa.

Thời gian trôi qua, nhiều năm sau, Klein nhớ lại câu hỏi năm xưa, nhưng đã không còn hứng thú truy hỏi nữa. Anh lại hỏi Medici và Ouroboros một chuyện khác:

"Các Ngài có bao giờ hối hận không? Ý tôi là, hối hận vì đã đi theo Ngài ấy."

Medici nhướng mày, vẻ mặt đầy ngạc nhiên, dường như hoàn toàn không hiểu nổi vì sao Klein lại nói ra một câu ngớ ngẩn như thế. Và gã đáp:

"Nhóc đang nói cái quái gì vậy?"

"Không phải sao?" Klein nhún vai. "Nếu hai người sớm rời bỏ Ngài ấy, có lẽ giờ đã thành Thần rồi. Ồ, Ouroboros thì không tính, vì con đường của Ngài phụ thuộc vào số mệnh, ở đâu cũng thế thôi. Nhưng còn Ngài thì sao, Medici? Ngài chỉ còn thiếu hai đặc tính phi phàm và một nghi lễ thăng cấp thành Thần thôi mà. Nhìn sang ả ma nữ bên kia - trong Kỷ Thứ Ba, ai mà biết đến cái tên Cheek? Ấy thế mà chỉ mất hơn trăm năm, cô ta đã thành Thần. Nếu Ngài sớm tự lập, có khi bây giờ đã là Tư Tế Đỏ thật rồi. Giờ Ngài ấy chẳng giúp được gì cho các Ngài, thậm chí còn trở thành gánh nặng - tại sao vẫn phải trung thành đến thế? Hay là cảm thấy lên Thần dễ quá nên phải tự làm khó mình?"

"Đừng dùng tiêu chuẩn nông cạn của nhóc để đánh giá lòng trung thành của kẻ khác." Medici lạnh giọng. "Lần sau còn dám nói vậy, ta sẽ đập gãy hết răng của nhóc."

Klein hừ khẽ, nhưng cũng không dám chọc giận thêm.

Tuy nhiên, trong một lần khác, khi chỉ có anh và Ouroboros, Klein lại nói:

"Đi đi, Ouroboros. Tại sao Ngài không đi? Nhìn Ngài xem, ở bên cạnh Ngài ấy quá lâu, tích lũy quá nhiều điên loạn rồi. Ngài còn bảo tôi đánh cắp thời kỳ thơ ấu và trưởng thành của Ngài - đó là cưỡng ép, Ngài sẽ tự hủy diệt mình đấy biết không?"

Ouroboros dường như chẳng nghe thấy gì, vẫn cố chấp cầu nguyện.

"Ngài ấy sẽ không trách Ngài đâu, tôi đảm bảo. Cứ tiếp tục thế này, làm sao mà Ngài tiến xa hơn được? Dù có cả Tính Duy Nhất và đặc tính Rắn Thủy Ngân trước mặt, nghi lễ cũng sẵn sàng, e là vừa thăng cấp xong, 'bùm' một cái, Ngài sẽ nổ tung mất."

"Hơn nữa... kỳ vọng của Ngài ấy với Ngài đâu chỉ dừng ở Bánh Xe Vận Mệnh? Ngài không muốn tiến xa hơn sao? Không muốn trở thành một Cựu Nhật thật sự sao? Dù Ngài không muốn, chẳng lẽ ngài định phụ lòng kỳ vọng của Ngài ấy sao?"

Giọng nói của Klein vang lên trong đầu Ouroboros, xoáy sâu như một lời thôi miên. Có lẽ thằng nhóc đã dùng đến năng lực siêu phàm nào đó - vì sao Ouroboros lại nhìn thấy hình bóng Chúa năm xưa? Mọi thứ đều như tái hiện lại quang cảnh hàng ngàn năm trước.

Anh ngẩng đầu lên, giống hệt như lần đầu tiên nhìn thấy Đấng Sáng Tạo. Khi đó, thân thể anh đầy vết thương do những sinh vật vô danh cắn xé, đầu óc tràn ngập điên loạn. Vị Thần vừa trồi lên từ Biển Hỗn Độn cúi xuống, nhìn anh một lát rồi phán:

"Một con rắn nhỏ thuộc con đường Vận Mệnh à? Trông xinh phết nhỉ."

Ouroboros không hiểu từ "xinh" là gì. Mãi về sau, khi chung sống với nhân loại, y mới biết diện mạo của mình quả thật được xem là "đẹp". Nhưng khi ấy, y vẫn chỉ là một đứa trẻ lang thang, mặt mũi lấm lem, chưa có tên gọi.

Còn vị Thần Mặt Trời Cổ Đại kia, bản tính vốn chẳng nghiêm túc, càng chẳng bận tâm đến mấy điều đó.

Ánh sáng thuần khiết bừng lên - đó là sức mạnh mà Ouroboros chưa từng thấy, thứ sức mạnh xa lạ và trong trẻo.

Luồng sáng ấy thanh tẩy mọi nguyền rủa bám trên người anh. Ouroboros ngây người nhìn vòng hào quang rực rỡ sau đầu vị Thần kia. Theo bản năng của con đường Vận Mệnh, anh yêu thích những vòng tròn - đặc biệt là khi nó tỏa sáng, quay quanh một tâm điểm bất tận, như một bánh xe luân hồi vô tận.

"Đẹp thì có đẹp," Thần Mặt Trời khẳng định, "chỉ là trông chẳng thông minh lắm."

Ngài nói bằng thứ ngôn ngữ khổng lồ còn ngượng nghịu, hẳn mới học được không lâu. Ngài quay người định rời đi, nhưng không ngờ con rắn nhỏ ấy lại lẽo đẽo theo sau. Ngài đi đến đâu, nó theo đến đó; Ngài dừng, nó cũng dừng.

"Này, rắn nhỏ, ngươi muốn đi theo ta à?" Thần Mặt Trời bật cười, "Thế thì ta đặt tên cho ngươi nhé - gọi là Ouroboros đi."

"Ouroboros có nghĩa là rắn nuốt đuôi. Cái tên khá hợp với con đường của ngươi đấy. Nếu đạt đến danh sách một, danh hiệu của ngươi sẽ là Rắn Thủy Ngân."

"Này, rắn nhỏ, nói gì đi chứ. Ngươi biết nói mà, phải không?"

Con rắn vừa nhận được "tên" dừng lại một lát, chắp vá từ ngữ rồi hỏi:

"Tên... là gì?"

Thần Mặt Trời: "..."

"Danh sách là gì? Còn cái đó... cái sau lưng Ngài, cái tròn tròn sáng sáng ấy..."

Ouroboros muốn tìm từ để diễn tả vầng sáng sau đầu vị Thần, nhưng vốn từ vựng của y quá nghèo nàn.

"Mặt trời." Thần Mặt Trời Cổ Đại nói.

"Mặt trời là gì?" Ouroboros học được một từ mới, tò mò hỏi tiếp.

Trước mắt y lại hiện lên luồng sáng trắng rực rỡ ấy - tựa như quả cầu lửa khổng lồ giữa trưa. Người thanh niên có mái tóc đen ánh kim nâng cao quả cầu ánh sáng vàng rực trong tay, hòa cùng ánh sáng trên trời.

Ngài chỉ tay lên cao, rồi chỉ vào chính mình, nói:

"Đó chính là Mặt Trời."

Ánh sáng chói lòa khiến Ouroboros bật khóc ra máu.

Thiên thần Vận Mệnh đưa tay che mắt, đóng chặt linh thị của mình.

Trong cơn choáng váng, y thấy vị Thần trẻ tuổi từng thắp sáng cả một kỷ nguyên đang mỉm cười kiêu hãnh - rồi rơi xuống, rơi mãi, từ trời cao xuống biển sâu, hóa thành linh hồn tà ác nhất của địa ngục, một hình hài méo mó đến cả ác linh cũng chẳng dám nhìn.

Đứa con nhỏ nhất của vị Thần ấy đang gọi bên tai y, giọng run rẩy:

"Ouroboros? Ouroboros!"

Ouroboros chớp mắt, quay lại hiện thực.

"Người đi đi." Anh khẽ nói, giọng yếu ớt, đứt quãng.

Từ dấu ấn của ma dược, những tiếng gào rú điên loạn vang vọng trong đầu.

"Người đi đi. Số mệnh của người... không ở đây. Đi đi."

Klein hiểu, đó là lời từ chối và tiễn biệt nghiêm khắc nhất mà một Thiên thần Vận Mệnh có thể nói ra.

Số mệnh của người không ở đây...

Ouroboros nắm chặt tay, như muốn giữ lại điều gì đó.

Còn số mệnh của ta... là ở đây. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com