Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

{ 43.2 } THƯƠNG LANG BẠCH LỘC (HẠ)

Ngày hôm sau, Triệu Mẫn lại bị họ hàng gọi đi uống trà sáng và bàn bạc về nơi chôn cất Lý Sát Hãn, Chu Chỉ Nhược thì vẫn một mình dạo quanh doanh trại. Thời điểm này, nhóm phụ nữ còn đang nấu trà trong lều, chưa ra ngoài làm việc, mà những nô lệ vất vả nhất thì đã sớm lùa cừu rời khỏi doanh.

Chu Chỉ Nhược đưa mắt nhìn quanh, lần này, thứ thu hút sự chú ý của nàng là một nhóm nam tử đang tập cưỡi ngựa bắn cung ở khoảng đất trống phía đông. Nhìn thấy đứa trẻ mới chừng ba tuổi bị trói trên lưng ngựa con để huấn luyện đã khiến nàng kinh ngạc vô cùng, còn những cậu bé lớn hơn một chút đã thành thạo chế ngự con ngựa, sai khiến nó dễ như bỡn, vừa phi vừa giương cung mà vẫn bắn trúng hồng tâm, điều này dấy lên trong nàng một mối đe dọa rõ rệt.

Chu Chỉ Nhược đứng lặng một lúc, trái tim cứ cuộn trào oán hận. Suy cho cùng, những mũi tên kia vừa có thể giết thú rừng khi săn bắn, cũng vừa có thể thuận lợi cắm vào đầu người khi giao chiến. Nàng thầm nghĩ: Thật là một truyền thống đáng sợ. Còn người Hán chúng ta thì sao? Ngay cả nơi môn phái giang hồ chuyên luyện võ như Nga Mi, những đứa trẻ tầm tuổi này, ví dụ như Trí Minh, cả ngày vẫn còn mơ màng, cố lắm mới biết chút kiếm pháp nhưng đến gà còn không dám giết, huống chi là trẻ con thường dân. Khó trách trăm năm trước chúng ta bị người Mông Cổ đánh cho nước mất nhà tan...

Lúc này, một cậu bé chân khập khiễng phụ trách nhặt tên tiến lại gần, trên tay còn ôm một bó tên lớn, nói - "Ngươi cẩn thận một chút, đừng đứng quá gần. Người Mông Cổ mỗi ngày đều phải luyện tập những thứ này, nam thì sáng sớm đã luyện, nữ thì xong việc nhà cũng phải luyện, có lạ lẫm gì đâu mà xem".

Chu Chỉ Nhược chợt bừng tỉnh, rồi tự an ủi: Hây, nhà Nguyên sắp suy vong, ta còn lo lắng mấy bộ tộc nhỏ bé này làm gì. Nàng trở gót toan đi, xong sực nhớ cậu bé mới vừa nói tiếng Hán, liền mừng rỡ khôn xiết, hỏi - "Ngươi là người Hán sao?".

"Cha ta là thợ thủ công người Hán, mẹ ta là người Nãi Man" - Cậu bé trả lời.

"Ngươi tên gì, sao lại chỉ có một mình ngươi ở đây nhặt tên?" - Chu Chỉ Nhược hỏi.

"Ta tên Lý Đông" - Cậu dõng dạc báo tên, bổ sung - "Đừng hiểu lầm, ta không phải nô lệ, ta vì luyện tập bị ngã ngựa gãy chân, không cưỡi ngựa được nên mới giúp mọi người nhặt tên. Cha ta nói ta còn may mắn chán, mỗi năm có không ít nam nhi Mông Cổ bị đào thải vì ngựa kém. Ừm, họ đối xử với gia đình làm thủ công bọn ta rất tốt, họ luôn thiếu người biết chế tác mà".

"Vậy chắc ngươi cũng biết nói tiếng Mông Cổ?" - Nàng lại hỏi.

Lý Đông đáp - "Tất nhiên rồi, từ nhỏ ta đã sống ở đây".

Chu Chỉ Nhược suy suy nghĩ nghĩ, sau một thoáng do dự liền lấy ra chiếc vòng bạc mua ở Phong Lăng Độ, Lý Đông vừa thấy đã rất thích, nhìn chằm chặp không rời mắt.

"Muốn không? Ta có thể tặng cho ngươi, nhưng ngươi phải dạy ta tiếng Mông Cổ" - Nàng nói.

Lý Đông dứt khoát đồng ý - "Một lời đã định. Mỗi sáng ta đều ở đây, buổi chiều thi thoảng sẽ giúp việc ở lò rèn, ngươi rảnh thì cứ đến tìm ta".

Thoạt đầu, nàng vốn tính học với Triệu Mẫn, nhưng do đối phương thích lấy chuyện này ra trêu chọc mình, vì vậy nghĩ lén tìm người ngoài học sẽ tốt hơn, đỡ bị Triệu Mẫn pha trò, sau này có cơ hội còn có thể cho đối phương một phen kinh ngạc, hoặc là kinh hãi.

Vậy nên, mấy tháng sau đó, Chu Chỉ Nhược và Triệu Mẫn cũng coi như hưởng thụ an nhàn, họ đi khắp nơi cưỡi ngựa săn bắn, Triệu Mẫn thường xuyên mang thú săn về trước mộ cha, nói là muốn dâng lên cho ông. Khi nàng lẩm bẩm một mình tại mộ phần, thần sắc hệt như đang khoe khoang, cần được khen ngợi, mà rốt cuộc chẳng nhận được hồi đáp nào, làm nàng chạnh lòng. Hễ Triệu Mẫn bị mẹ lôi đi dự tiệc gia đình, Chu Chỉ Nhược liền gọi Lý Đông ra, sực nhớ câu gì thì bảo cậu lặp lại bằng tiếng Mông Cổ từng câu từng chữ mấy lần. Thêm nữa, những khi rỗi rãi, nàng còn học theo các ngạch cát [1] lớn tuổi hiền từ se len, chập sợi, thêu thảm.

[1] Trong tiếng Mông Cổ nghĩa là những bà mẹ.

"Ta học mấy thứ này làm gì?" - Đôi khi Chu Chỉ Nhược bỗng giật mình bừng tỉnh, quẳng cuộn len đi, không thể chấp nhận nổi việc mình đã hoàn toàn biến thành hiền thê của quận chúa Mông Cổ, cần cù và đảm đang, còn vui đến quên cả lối về.

Dù vậy, nàng vẫn nhớ như in chuyện bái tế sư phụ. Một đêm tháng chín, hai người tìm một bãi cát khô để đốt kinh Phật chép tay , Triệu Mẫn tự biết cái chết của Diệt Tuyệt sư thái có liên quan tới mình, vì áy náy với Chu Chỉ Nhược, nàng cũng chép mấy bản để đốt. Tuy nhiên, ngay khi Triệu Mẫn vừa ném kinh vào đống lửa, không trung đột nhiên nổi lên một trận gió lạnh, thổi tắt ngọn lửa.

Triệu Mẫn đâm ra hơi hoảng, cõi lòng sùng sục những dự cảm bất tường, vội vàng xin lỗi Chu Chỉ Nhược. Thần sắc Chu Chỉ Nhược cũng trở nên nặng nề, song không nói gì, chỉ lặng lẽ thắp lại lửa, mà ánh mắt ấy như ngọn lửa le lói trong gió, mờ mịt khó dò.

Một lúc sau lửa lại tắt, nàng lại nhóm, rồi lại tắt. Nàng không biết mệt mỏi lặp đi lặp lại quá trình nhóm lửa, mãi cho đến khi kinh cháy hết, nàng bái lạy tro tàn, cuối cùng mới lên tiếng - "Sư phụ sao lại không chấp nhận lòng hiếu thảo của ta? Đêm nay chỉ là gió quá lớn".




Tháng chín qua đi, tiết trời bắt đầu chuyển lạnh, đó là thời điểm di chuyển đến nông trường mùa đông khô ráo hơn, nơi có lượng tuyết ít hơn nhiều, gia súc vẫn có thể dùng móng guốc bới lớp tuyết mỏng tìm cỏ ăn.

Phụ nữ đánh xe chở lều đi trước, đàn ông thì ở phía sau lùa gia súc. Triệu Mẫn là quý tộc nên không cần làm gì cả, nhưng gió tuyết quá lớn, nàng không thể quá tùy hứng, chỉ đành ngoan ngoãn đi theo đầu đoàn. Mỗi ngày trời vừa sáng đã xuất phát, tối thì nghỉ trong lều tạm bợ, chen chúc với một đống họ hàng nên không sao ngon giấc, cộng thêm bị gió lạnh thổi suốt dọc đường, thân thể rã rời ghê gớm.

May mắn thay, Đa Nhĩ Cát đã tới bãi chăn mùa đông trước họ một bước, vừa thấy đoàn của chị gái đến, ông ta lập tức xếp việc giết mổ mùa đông, mở tiệc ngay tối đấy, còn mang ra cả rượu mạnh được vận chuyển từ tận Trung Nguyên.

Thấy ai nấy đều ăn uống no say, Đa Nhĩ Cát cũng phấn khích hẳn, thuận miệng đề nghị với đứa cháu gái Triệu Mẫn đã nhiều năm không gặp - "Mẫn Mẫn, lần này về rồi thì đừng đi nữa. Cậu sẽ tìm cho con một na nhan có ngựa, có bò, có nô bộc làm hôn phu, tốt hơn nhiều so với mấy kẻ ở Đại Đô đã đánh mất khí phách thảo nguyên từ lâu".

Triệu Mẫn vô thức liếc nhìn Chu Chỉ Nhược bên cạnh do bị nàng kéo theo cùng dự tiệc. Thấy sắc mặt người nọ không đổi, liền thở phào một hơi, thầm mừng vì đối phương không rành ngôn ngữ.

Triệu Mẫn cười lạnh một tiếng, đáp - "Cậu quả là vì các nữ nhân trong tộc mà lao tâm khổ tứ".

Đa Nhĩ Cát vốn cục mịch, đâu hiểu ý châm chọc, cứ cười vang ha hả - "Con đừng khách sáo, Sát Hãn không còn nữa, lại không có anh em nào còn sống, con nói xem cậu không lo chuyện này cho con thì để ai lo?".

"Cũng phải, e rằng trên đời này giờ chẳng còn mấy ai có bản lĩnh sánh được với cậu của con. Cậu đã kết thông gia với các na nhan hùng mạnh, đến cả những người dân trong rừng trước kia không phục tùng cũng quy phục" - Nàng thốt lời bóng gió - "Còn có tâm hơn nhiều so với vị khả hãn chỉ biết an nhàn trong hoàng cung".

Bang Trạch Nhĩ lén đập tay nàng dưới gầm bàn, Đa Nhĩ Cát lại dường như không để ý, cười mà rằng - "Mẫn Mẫn mang một nửa dòng máu của gia tộc chúng ta, cũng không phải là người ngoài, chỉ là chẳng biết vị cô nương người Hán bên cạnh con...".

Chu Chỉ Nhược chả hé nửa lời, chỉ cúi đầu ăn, vì vậy Triệu Mẫn lên tiếng - "Nàng không phải người ngoài, là tỷ muội thân thiết với con, cũng không hiểu tiếng của chúng ta, cậu cứ nói thẳng".

Đa Nhĩ Cát thoáng yên tâm, liền đi thẳng vào vấn đề - "Nếu một vị khả hãn không còn năng lực cung cấp bất kỳ tài phú nào, trái lại chỉ biết ngồi mát ăn bát vàng, thế thì những kẻ theo ông ta có quyền rời đi, các bộ tộc trên thảo nguyên chúng ta xưa nay đều coi thường những kẻ chỉ biết khoác lác và khoe mẽ".

"Ý cậu là muốn thảo nguyên trở lại thời kỳ bộ lạc có vô số khả hãn sao?".

Đa Nhĩ Cát chỉ tiếp tục nói - "Đám người ở Đại Đô đó đã làm mất hết mặt mũi người Mông Cổ, kể cả đại ca của con, Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, không một ai xứng được gọi là anh hùng hảo hán. Nghe nói con đã từ mặt Khố Khố rồi, quả là sáng suốt. Hãn quốc của Đà Lôi có thể sụp đổ, nhưng người Mông Cổ chúng ta thì không thể, ta chính là muốn khôi phục lại thời kỳ vinh quang của Thành Cát Tư Hãn, dẫn dắt các dũng sĩ vượt qua Qua Bích, cướp đoạt từng tấc đất mà chúng ta đi qua, giết chết từng đám dân dư thừa, để những trận chiến mang về cho thảo nguyên nguồn tiền tài và lương thực vô tận".

Mặc dầu sớm liệu được bảy tám phần, nhưng khi nghe tận tai lời ông ấy nói, Triệu Mẫn vẫn không kìm được động tác hít sâu luồng khí lạnh, nàng cau mày hỏi - "Cậu, cậu có nhiều đàn gia súc như vậy, lẽ nào cuộc sống chưa đủ sung túc sao? Người Mông Cổ chúng ta tại sao cứ phải đánh trận mãi thế? Như cha con cả đời đánh trận không được ngơi nghỉ, cuối cùng còn chết trong tay kẻ tiểu nhân, kết cục rất bi thảm, cuộc sống an nhàn tự tại như cậu là thứ mà ông ấy cả đời có cầu cũng không được".

"Con chỉ nghe cha con nói bừa! Nếu không có chiến tranh, cả đời này cha con ngóc đầu lên nổi sao? Tại sao không đánh trận? Đối với dân tộc thảo nguyên chúng ta, đó chưa bao giờ là một chuyện xấu. Viễn chinh rất mệt mỏi sao? Chúng ta vốn quanh năm suốt tháng đều đang di chuyển. Đánh trận chết nhiều người thì đã sao? Nếu xuân vào lúc đàn gia súc yếu nhất mà gặp phải hai trận bão tuyết, vậy người chết đói năm đó còn nhiều hơn người chết trận. Con ở Đại Đô lâu quá rồi, nên mới hèn nhát như đám trong thành, sự thật là nam nhân chúng ta trước khi biết đi đã biết cưỡi ngựa, từ nhỏ tham gia săn bắn đã biết nghe theo mệnh lệnh quân sự. Nữ nhân của chúng ta có thể đánh xe chở lương thảo, vừa làm việc vừa sinh con, đến lúc quan trọng cũng có thể trở thành chiến sĩ. Mỗi người trên thảo nguyên sinh ra đã thích hợp đánh trận, cũng phải đánh trận, bởi vì một đồng cỏ có thể chứa số lượng đàn gia súc chỉ có bấy nhiêu, còn phải luôn chống chọi với thời tiết khắc nghiệt, muốn nuôi sống nhiều người trong bộ tộc hơn thì buộc phải dựa vào cướp bóc. Mà nếu không có chiến tranh đối ngoại, những kẻ có bản lĩnh mạnh mẽ này sẽ trở thành ác ôn, xoay lưỡi đao về phía người mình, hỗn chiến triền miên, như thời kỳ đen tối trước khi có Thành Cát Tư Hãn vậy".

Triệu Mẫn nhất thời á khẩu. Đa Nhĩ Cát uống cạn bát rượu, đoạn trầm giọng mà rằng - "Mẫn Mẫn, con chớ trách ta bất trung với khả hãn và quá nhẫn tâm với người nhà, ta cũng bất đắc dĩ. Nơi này sớm muộn gì cũng sẽ loạn, ta chỉ là đi trước người khác một bước, tránh sau này gia tộc chúng ta bị ức hiếp".

"Sớm muộn là thế nào?" - Triệu Mẫn hỏi - "Sao lại thành sớm muộn? Thảo nguyên bây giờ không phải vẫn ổn sao?".

Đa Nhĩ Cát kiên nhẫn giải thích - "Trung Nguyên nổi loạn liên miên, Đại Đô lại gặp nạn đói, mấy năm nay khả hãn trưng thu quá nhiều gia súc từ chúng ta, đồng cỏ và đàn gia súc đều không kịp hồi phục, nếu không đi cướp lương thực để bổ sung, chẳng mấy năm nữa mọi người đều tiêu đời. Cũng vì bình định phản loạn, thảo nguyên tổng động viên, ai nấy đều sẵn sàng chờ khả hãn điều động, mà kẻ tòng quân thì không thể nộp thuế, các na nhan cả năm gần như không thu được gì, còn phải bỏ tiền túi ra nuôi người, đâu ai chịu nổi cuộc sống này lâu dài. Chúng ta đã bí lối cùng đường, chỉ còn cách ra ngoài cướp đoạt thôi".

Triệu Mẫn buồn bực, chỉ nốc rượu mà không đáp, các cô con gái của Đa Nhĩ Cát vốn còn ríu rít ăn thịt thì cũng im bặt, mấy đứa nhỏ nhất thậm chí còn cúi đầu thút thít.

"Khóc cái gì mà khóc! Các ngươi là con gái của ta thì phải trở thành cánh tay đắc lực của ta, trở thành đôi mắt của ta. Sinh mệnh ngắn ngủi, nhưng danh tiếng là vĩnh cửu, tất cả các ngươi đều phải noi theo A Lạt Hải Biệt Cát, con gái của Thành Cát Tư Hãn, dùng hôn nhân để xây dựng cơ đồ cho cha mình" - Tiếp theo, ông ta gọi nhạc công đến, bắt mọi người phải tươi cười trở lại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com