Chương 10: Thay đổi nhân dạng
Sherlock chỉ tỉnh dậy khi mặt trời đã lên cao. Ngay cả khi ấy, cậu cũng phải mất một lúc mới hoàn hồn. Mình mẩy lạnh buốt và đau ê ẩm, cậu chậm rãi nâng đầu lên, đưa tay vuốt tóc, rồi nhìn xuôi theo bộ quần áo tồi tàn xuống đến đôi ủng và nhìn ra cửa cái cũi chó.
Hai con mắt đang quan sát cậu! Cậu cố gắng nhỏm dậy và đụng đầu vào nóc cũi.
- Sherlock!
Irene.
- Cậu thành công rồi à? Cậu đến đây được sao? Đến nhà tớ? – Cô bé hỏi chuyện như thể đang nhìn vào một con ma.
Nhưng chính con ma mới là đứa sợ hãi hơn.
- L... àm sao cậu biết tớ ở đây? – Cậu hỏi, giọng run rẩy. – Có ai ở nhà không? – Đôi mắt cậu liếc nhanh qua cửa cũi, dò xét khoảng sân sau và ngước lên nhìn cửa sổ các tầng.
- Không. Bố tớ đã đi rồi. Nhà tớ không có người làm. Bố tớ không tin tưởng họ. Bố con tớ làm phần lớn việc nhà. Bố thuê một người giúp việc đa năng đến làm vài giờ mỗi ngày. Cô ấy đã đến và đã về rồi. Còn cô gia sư của tớ hôm nay nghỉ. Lúc nhìn ra ngoài này tớ trông thấy một chiếc ủng lòi ra. – Irene ngừng lời, mắt nhìn Sherlock chăm chú. – Tớ đã giúp cậu vượt ngục!
- Trong một thoáng tưởng như cô sắp đứng dậy và bỏ chạy. – Cậu đã hứa với tớ một chuyện. Cậu đã cam đoan cậu là... - cô bé đỏ mặt và lại ngập ngừng - ... người tốt. - Rồi cô cảm thấy thoải mái hơn. – Tớ không nghĩ mọi chuyện lại suôn sẻ thế này. Ý tớ là...
- Tớ là người tốt. – Sherlock nói, chăm chú nhìn Irene. – Tớ xin cam đoan. Tớ không phải là tội phạm.
- Nhưng cậu không thể ở đây được, phải không?
- Có thể được, nếu cậu giúp tớ.
- Ơ... cậu sẽ cần thức ăn... và quần áo khô.
Như bình thường thì Sherlock sẽ rất thất vọng về trang phục của mình. Nhưng lần này thì chúng không còn quan trọng nữa.
- Chúng ta cần phải biết điều gì đã thực sự xảy ra với người phụ nữ đó.
- Chúng ta? Tức là cậu và... tớ á?
- Nếu không thì tớ sẽ gặp rắc rối to... và Mohammad sẽ bị treo cổ. Anh ấy chỉ còn chưa đầy hai tuần.
Cô bé suy nghĩ trong một giây rồi nói:
- Vào nhà thôi.
***
Sherlock bắt gặp con chó ngay sau cánh cửa hậu.
Cậu chàng John Stuart Mill độc nhất vô nhị.
Nó là một con corgi* nhỏ tròn lẳn, lông hai màu nâu và trắng, đã qua tuổi trưởng thành, với những cái chân ngắn mập mạp, cặp tai vểnh tức cười và lớp lông dày ở phần ức cũng như giữa hai bộ phận thính giác đáng kinh ngạc kia. Rõ ràng nó cũng có một vấn đề về đường ruột. Đúng lúc Sherlock Holmes bước vào nhà, từ phía cuối cơ thể mập ú của con thú chậm chạp và ù lì ấy phát ra một tiếng xì rất mất vệ sinh. Đầu kia của cơ thể nó níu chặt lấy ống quần cậu bé và cương quyết không nhả ra.
(*: Một loại chó chăn gia súc có nguồn gốc ở xứ Wales)
- J.S.Mill có tính bảo vệ rất cao. – Irene đỏ mặt nói, kéo con chó ra khỏi cậu bé. – Tớ sẽ đưa nó xuống nhà dưới. Nó chỉ được phép ở trong nhà nếu cư xử tốt... Cách đây ít lâu nó đã cương quyết không chịu ngủ ngoài sân.
Ngôi nhà ấm cúng với nội thất toàn gỗ. Những tấm thảm to nhiều màu sắc được trải dài trên sàn nhà, bốn vách tường treo đầy tranh quý và đồ nội thất của Pháp được bày kín trong những căn phòng. Cô bé dẫn Sherock bước lên cầu thang, băng qua phòng khách tầng một, lên đến tầng hai, dẫn cậu đi dọc theo hành lang, ngang qua phòng ngủ của bố để về phòng ngủ của cô. Irene ra khỏi cửa phòng và đóng cửa lại. Nhón chân đi ra xa, cô nói vọng lại, bả Sherlock cởi quần áo và bỏ ra ngoài hành lang. Cậu làm theo, và một phút sau có tiếng chân cô khẽ khàng quay lại để gom mớ quần áo.
- Cậu cứ ở trong đó nhé. – Irene nói gần như ra lệnh, giọng có vẻ căng thẳng. Cô đang ở trong nhà một mình với một thằng con trai. – Tớ sẽ giặt sạch và là khô chỗ quần áo này trong vòng hai tiếng đồng hồ. Trên giá rửa mặt có khăn tắm đấy.
Cậu nghe thấy tiếng cô bé xuống mấy tầng lầu và khu vực gần cầu thang, nơi làm việc của hầu phòng và thợ giặt. Irene Doyle đúng là khác thường.
Vậy là cậu ở lại trong phòng cô. Nó gần như là thiên đường vậy. Cậu đang ở nơi cách xa cái lỗ địa ngục Southwartk, nơi có căn nhà của gia đình cậu. Sherlock đổ ít nước từ trong một cái bình sứ vào chiếc chậu rửa mặt của cô, cầm lấy bánh xà phòng cạnh đấy và bắt đầu kì cọ. Cậu nhẹ cả người vì cuối cùng cũng được sạch sẽ. Nhìn vào gương, cậu chải mái tóc thẳng đen nhánh của mình vào nếp rồi quan sát chung quanh. Mọi thứ đều tươi sáng và có mùi dễ chịu. Mấy tấm ảnh đặt ở bàn phấn và treo trên các bức tường khiến cho nó nom như là phòng triển lãm. Nhiều nhân vật nổi tiếng xuất hiện trong các bức ảnh. Cậu nhận ra Adelina Charlie, giọng ca vĩ đại, người được mệnh danh là "rượu Champagne Charlie" số một không hai, rồi Leotard, "anh chàng đu bay quả cảm", và nhiều người khác nữa. Chiếc giường phủ vải đỏ xếp nếp của cô chất đầy thú nhồi cát. Sách vở nằm chật cứng trên các kệ. Cầm lấy vài quyển, cậu ngồi xuống sàn nhà. Có Dickens, đương nhiên rồi, Thackeray, Wilke Collins, Austen, và Poe*, cùng với một vài quyển rất dày về lịch sự viễn đông và các vấn đề xã hội của Anh quốc, hầu hết gồm ba tập. Trong nhà giam cậu chẳng có sách báo hay giấy tờ. Đã một tuần nay cậu chưa đọc một chữ nào. Cậu gần như nghiện đọc: cậu khát khao nó như những kẻ tuyệt vọng ở động phù dung Limehouse trong khu East End cần thuốc phiện vậy. Đôi mắt cậu hau háu nhìn các tập sách. Nhưng sách thiếu chi mới chính là thứ làm cậu mê mẩn. Cậu ngồi đó lật sách đọc hồi lâu, bật cười với những quyển sách có hình nổi nhảy ra. Ngỡ như chỉ trong thoáng chốc có tiếng gõ cửa vang lên và một cánh tay khẳng khiu luồn vào như một con rắn, thả bộ quần áo đã giặt sạch của cậu xuống nền nhà.
(*: Tên các nhà văn nổi tiếng của Anh và Mỹ)
- Cậu mặc quần áo vào đi. – Cô bé nói.
Cậu nghe thấy tiếng chân đi xa dần ngoài hành lang rồi bước xuống cầu thang.
Một lúc sau, hai đứa ngồi vào chiếc bàn ăn lung linh ở tầng trệt, Sherlock trong bộ cánh màu đen đã cũ sờn nhưng sạch sẽ, còn Irene thì trong một chiếc váy hoàn hảo khác và khoác thêm chiếc tạp dề bên ngoài. Trước mặt cậu là một bàn đầy thức ăn – bánh xốp, trà, cá muối hun khói, nước cam, xúc xích và trứng, những thứ mà cậu hiếm khi được dùng. Một con chim sơn ca màu vàng bị nhốt vào trong chiếc lồng vàng treo trên trần gần như ngay bên trên vai của hai đứa. Nó chuyển từ cái thanh ngang của mình xuống một ô vuông cỏ xanh nhỏ rồi ngược lại, rộn rã đập cánh như thể muốn tìm đường thoát ra ngoài. Nó không kêu tiếng nào. Sherlock cũng im lặng, ăn ngốn ngấu như người sắp chết đói. Cậu chỉ mở miệng nói sau khi đã ăn miếng cuối cùng. Giọng cậu run lên vì xúc động:
- Tớ cần phải biết bố mẹ tớ thế nào và bắn tin cho họ... là tớ còn sống.
Nhưng cậu biết một chuyến viếng thăm sẽ là hành động khinh suất, gần như không thể thực hiện.
- Trước hết tớ phải đi gặp Giáo chủ. – Cậu nói thêm.
- Ai cơ?
- Đó là một thằng bụi đời. Cầm đầu của một băng nhóm. Nó ghét tớ. Nhưng tớ có cảm giác bây giờ nó sẽ giúp tớ, chỉ cho tớ cách để sống sót và những việc cần làm. Tớ có thông tin để trao đổi, tớ sẽ nói cho Giáo chủ biết về nhà giam phố Bow, về cách thức để...
Sherlock bật dậy, lao ra cửa.
- Khoan! – Irene kêu lên.
Cậu quay lại.
- Có hai điều: cậu không thể đi ra ngoài giữa thanh niên bạch nhật, bọn họ đang lùng tìm cậu, và khi nào cậu đi, tớ sẽ đi với cậu.
Vế đầu tiên của cô bé hoàn toàn hợp lí. Cậu thấy mình thật ngu ngốc vì đã vội vã như thế. Nhưng vế thứ hai khiến cậu ngã ngửa. Dĩ nhiên, cậu hi vọng sẽ được cô giúp sức: cho cậu thức ăn và nơi ẩn náu, không tố cáo cậu với cảnh sát. Nhưng đi cùng cậu đến gặp bọn Bụi đời? Cậu không cần biết mức độ khác thường của cô cao đến thế nào, nhưng cậu không có ý định đưa cô đi cùng.
- Cậu có lí. – cậu xuôi xị - ở cả hai điểm.
Ông Doyle dự kiến vắng nhà cả ngày, nên Sherlock có thể lưu lại trong nhà thêm một lúc nữa. Cậu biết là hai đứa ở cùng nhau thế này là không phải, nhưng đâu còn lựa chọn nào khác. Hai đứa ngồi xuống trò chuyện, đồng thời cảnh giác với bất kì tiếng động nào ở ngoài cửa.
- Bố tớ là người khá giả, nhưng không như phần lớn những người có tiền khác. – Cô bé tự hào khoe với Sherlock trong lúc chỉ cậu dọn dẹp bàn ăn và phụ cô mang chén đĩa xuống bếp.
Andrew Doyle hóa ra là hậu duệ theo nền giáo dục Oxford của một gia đình theo chủ nghĩa tự do, điều đó cho phép ông đứng đầu một tổ chức không chỉ cưu mang người nghèo, mà còn cố công thuyết phục chính phủ giúp đỡ họ. Ông sẵn sàng rời khỏi căn nhà tiện nghi để xắn tay góp sức trong các bệnh viện, nhà lao và thậm chí trên đường phố. Ông là một nhà "tư tưởng mới" của thập niên 1860. Ngày nào ông cũng ra đi từ sáng sớm đến tối mịt mờ, cố gắng dùng sức mình thay đổi thế giới.
- Hồi xưa không phải lúc nào bố cũng như thế. – Cô nghẹn ngào bước lên một vài bậc thang và quay mặt đi. Khi cả hai lên đến tầng trệt, cô mới tiếp tục- ... khi bà mất... vào cái ngày tớ chào đời... ông bắt đầu vùi đầu vào công việc bên ngoài để quên đi – Giọng nói cô đã bình tĩnh trở lại. – Ông đi khắp nơi. Ông bảo tớ là đã nhìn thấy cảnh cơ cực không thể tưởng tượng nổi, kinh khủng hơn là nỗi đau khổ của ông nhiều lần.
Hai đứa trẻ quay về bàn ăn.
- Tớ là người con duy nhất của bố. Ông muốn tớ khi trưởng thành phải biết chăm sóc người khác, thay đổi cuộc sống của họ, dù tớ là con gái hay con trai. Ông dạy dỗ tớ chẳng kém gì cô gia sư. Nhưng cậu đừng nói lại với cô ấy nhé. Cô ấy là người được tuyển chọn rất kĩ và không ở cùng với bố con tớ, chỉ dạy tớ những thứ mà một đứa con gái cần biết. Bố tớ cho tớ đọc tất cả những thứ mà những đứa con gái khác không được phép đọc. Cậu có thể hỏi tớ những vấn đề về chính trị đấy! Tớ biết nấu ăn và may vá cũng không đến nỗi nào. Bố bảo tớ lẽ ra nên đi bỏ phiếu. Tớ được phép ở nhà một mình và làm những thứ tớ muốn.
Giọng cô bé dịu xuống.
- Ở đây khá yên tĩnh. Bố con tớ không có nhiều khách khứa. Bố nói tớ cần phải được bảo vệ trước... Những chỗ đi chơi của tớ là trại tế bần và bếp ăn từ thiện, sách vở là bạn bè duy nhất của tớ.
Sherlock cảm thấy một chút buồn bã trong giọng điệu của cô. Con chim sơn ca đập cánh khiến cô ngước lên nhìn cái lồng.
- Bố con tớ đã mua con Blondin từ một người bán chim ở bờ nam sông. Con chim tội nghiệp bị gãy cánh. Tớ muốn thả nó đi, nhưng bố bảo nó sẽ chết trước khi rời Luân Đôn mất.
Nỗi buồn của cô bé không kéo dài lâu. Tình thế tuyệt vọng của cậu bé dường như gắn liền với mọi điều mà cô và bố cô tin tưởng, nên chẳng bao lâu sau cô đã nài ép cậu kể thêm về vụ án mạng.
Có một tiếng động vang lên ngoài cửa trước. Hai đứa ngồi sững người, Sherlock chuẩn bị sẵn sàng để chạy trốn. Yên lặng. Có lẽ đó chỉ là một viên đá cuội hay một mảnh kim loại của bộ yên cương bị bánh của một cỗ xe chạy ngang hất văng đi. Irene quay lại nhìn Sherlock, lúc này cô chỉ muốn nghe thêm về vụ rắc rối của cậu trước khi bố quay về.
Cậu đã dự tính không nói với cô các chi tiết quan trọng, nhưng thấy cô quá háo hức, nên cậu không thể giữ kín được nữa. Cậu cần phải chia sẻ chúng với ai đó, và cô bé đang càng lúc trở nên đáng tin trong mắt cậu.
- Có những chi tiết về vụ án tớ không thể nói ra ở trong nhà giam. – Cậu mở lời.
Cậu thuật lại toàn bộ câu chuyện của Mohammad, chỉ ra các thông tin mà cậu cho là có ích: lũ quạ, con mắt, giả thiết của cảnh sát, mọi thứ. Nhưng khi nói ra thì tất cả có vẻ không thực sự hữu ích cho lắm. Thật ra cậu có gì nào? Chỉ có vài con quạ lắm chuyện ở hiện trường vụ án... và một con mắt thủy tinh. Chúng có nghĩa lí gì nếu đem so sánh với các chứng cứ mà cảnh sát đã thu thập được để chống lại bị cáo? Cảnh sát đã tìm thấy hung khí giấu dưới áo khoác của Mohammad. Họ đã thấy những bước chân lấm máu đi từ hiện trường về tiệm thịt. Và trên hết, Sherlock không có bằng chứng tuyệt đối rằng anh chàng người Ả rập kia là vô tội – cậu nghĩ tới nét mặt giận dữ của Adalji ở trong nhà giam đêm qua.
Có vẻ như Irene tin vào tất cả những gì cậu nói, và điều đó chỉ làm mọi chuyện tệ hơn với cô. Nếu cô nghĩ cả cậu và Mohammad đều có tội thì cô chỉ việc tỏ lòng khoan dung và thuyết phục cậu ra đầu thú. Đằng này vì cô cho rằng cậu vô tội và bị mắc kẹt trong một cái bẫy mà cậu không thể tự mình thoát ra được, nên cô gần như bắt buộc phải giúp cậu.
Irene chỉ làm cậu thất vọng ở một điểm. Cậu muốn biết báo chí nói gì về vụ án, nhưng hóa ra nhà Doyle chỉ đọc mỗi tờ Thời báo Luân Đôn tẻ nhạt. Họ không hứng thú với Tin tức thế giới, Tin nhanh họa báo, và đương nhiên là Cảnh sát nhật báo. Tờ báo "lá cải" của Sherlock đã không đưa ra danh tính của nạn nhân trong những ngày đầu tiên, và với một sự quan tâm rất hạn chế, tờ Thời báo chỉ đăng tải rất ít về vụ giết người: kiểu câu khách giật gân ấy quá rẻ tiền đối với họ. Irene không thể nhớ ra tên của người phụ nữ xấu số hay thậm chí là nghề nghiệp của chị ta.
Cậu quay trở lại cái cũi chó trước khi ông Andrew Doyle về nhà. John Stuart Mill có thể ở lại trong nhà ngày hôm nay, và Irene sẽ cố gắng giữ kín chỗ ẩn nấp của cậu trong một thời gian. May sao người giúp việc thường cho con chó ăn ở trong nhà. Một miếng vải được cô treo lên trước cũi chó, phủ xuống gần sát đất, để chắn tầm nhìn từ các cửa sổ.
Sherlock nằm thức cho đến khi ánh đèn trong nhà tắt hết. Cậu đợi thêm khoảng một tiếng nữa rồi ngồi dậy. Ngay cả khi thực sự muốn Irene đến gặp cậu, cậu cũng không thể đánh liều chui vào nhà để ra hiệu cho cô. Cậu rời khỏi sân, bước dọc theo lối đi.
Cô đang đứng bên kia đường, tựa vào dãy hàng rào bằng sắt đầu mạ vàng bao quanh bảo tàng.
- Tớ đến rồi đây. – Cô nói dứt khoát.
Cũng gây ngạc nhiên không kém sự xuất hiện của cô trong đêm tối là bộ trang phục cô đang mặc. Có vẻ như cô đang vận quần dài.
- Của bố tớ đấy. – Cô nói cộc lốc, không buồn nhìn xuống cái quần. – Nó bị co rút lại sau mấy lần giặt, và bố cứ tưởng tớ đã bỏ nó đi rồi.
Cạp quần được siết chặt vào vòng eo của cô nhờ thứ trông giống như lưng dây áo choàng tắm. Trang phục của cô tuyền một màu đen. Cô thật thông minh. Nhưng từ phần cổ trở lên cô rạng rỡ như một thiên thần: mái tóc vàng kia trông như một luồng sáng tỏa ra chung quanh cô trong đêm tối.
- Chúng ta đi chứ?
Biết đâu đây là một bước ngoặt không đến nỗi tồi của định mệnh, Sherlock nghĩ bụng, Cảnh sát chỉ tìm kiếm thằng bé cao gầy... đi một mình.
Hai đứa tìm kiếm hồi lâu mà vẫn không thấy tăm hơi toán Bụi đời. Irene di chuyển như một bóng ma bên cạnh cậu trong lúc cả hai dấn sâu vào màn đêm Luân Đôn. Cô kinh hoàng trước những cảnh tượng ghê tợn chung quanh mình. Nhưng cô vẫn đi sát cậu và không hề nhắc đến nỗi sợ của mình. Sherlock dè chừng mọi bóng người. Đêm nay, cậu vừa là người đi săn, vừa là kẻ bị săn đuổi.
Trên một con phố tối tăm trong khu Westminster, hai đứa nghe thấy một tiếng kêu:
- Này tụi kia!
Nó vang lên từ phía sau. Irene quay lại và nhìn hấy một cảnh sát đang chạy tới. Cả hai cứng người. Toán cảnh sát chạy ngang qua chỗ hai đứa, đuổi theo hai tên lính say khướt ồn ào đang lảo đảo ở đằng trước và khuất vào một góc phố. Sherlock thở phào nhẹ nhõm.
Không bao lâu sau, hai đứa bắt gặp một thằng Bụi đời – một thằng oắt con đi một mình trên phố Wild gần ngõ Drury. Đó là một trong những thằng nhỏ tuổi nhất trong băng nhóm. Thằng nhóc đang hối hả đi về phía đông. Cả băng có lẽ đang ở trong tình trạng báo động và rời ổ đêm nay sau cuộc chạm trán nho nhỏ với cảnh sát chưa đầy hai mươi tư giờ trước.
Sherlock đẩy Irene vào sát tường mỗi khi thằng Bụi đời cảm thấy bị theo dõi và ngoái đầu lại quan sát. Hai đứa bám theo lộ trình ngoằn ngoèo của nó đến tận Lincoln's Inn Fields, quảng trường rộng nhất Luân Đôn. Các ngài thủ tướng từng ở trong những ngôi nhà to lớn nằm quanh đó. Nhưng vào đêm hôm khuya khoắt, bên trong các hàng rào song sắt và lẩn khuất giữa các bóng cây rậm rạp, đám trộm cướp có thể tìm thấy chốn cư ngụ lí tưởng. Sherlock nhận thấy đám Bụi đời đang ngồi thu lu trên bãi cỏ ở góc đường bắc. Giáo chủ đang đứng trước bọn chúng, tay giơ lên cao một cái khóa sắt, nói với cả bọn:
- Phá khóa, - Thằng bé nói bằng giọng uyển chuyển – trước tiên ta cần hai vật nhọn. – Nó đưa ra một vài cái kim gài nón của phụ nữ, một trong số đó được khéo léo uốn cong ở đầu. – Tra chúng vào trong lỗ khóa. – Giáo chủ dùng một tay để làm minh họa, tựa như một ảo thuật gia. – Dùng dụng cụ đặc biệt này để thăm dò bên trong, đẩy từng lẫy khóa ra ngoài nòng khóa để làm trống nòng khóa, sau đó từng cái sẽ rơi trở lại vào đúng vị trí. Đây tuần túy là hình học. – Giáo chủ dùng cái cặp được bẻ cong một đầu để lần mò trong lỗ khóa. Một nụ cười nở trên môi nó. Nó xoay cái kim còn lại... và ổ khóa mở bung ra.
- Tèn ten! – Thằng bé kêu lên, nhưng ngay lập tức nhíu mày. Nó có thể cảm thấy sự hiện diện của người lạ.
- Tụi mày bị theo dõi rồi! – Giáo chủ quát với đám lâu la.
Rồi nó bình tĩnh lại và quay về phía hai bóng người vừa xuất hiện.
- Holmes công tử, theo như tôi thấy.
Nhưng Giáo chủ không lao bổ vào Sherlock.
Cậu chưa bao giờ nhìn thấy biểu hiện như thế trên gương mặt của thằng bé du đãng. Những nét mặt u ám của nó dường như sáng lên, phản chiếu hào quang tỏa ra từ Irene Doyle. Nó hơi mất bình tĩnh trong một thoáng. Thật khó tin là nó có thể bị như vậy. Thằng bé nuốt khan một cái, và Sherlock có thể nhìn thấy cục yếu hầu của nó nhô lên rồi hạ xuống.
- Thưa cô... - Giáo chủ thốt lên, nhấc chiếc mũ đội lệch trên đầu xuống – Qúy cô... mà chúng tôi có vinh hạnh được...
- Đây là Irene...
- Yên nào, Holmes!
- Tôi là Irene Doyle. – Cô bé đáp, cảm thấy bối rối vì thằng bé du đãng và cả cảnh tượng xung quanh nữa, nhưng vẫn cố mỉm cười.
- Xin có lời chào mừng, tiểu thư Doyle. Tôi được mọi người gọi là Giáo chủ, và đây là các cộng sự của tôi. – Thằng bé chỉ đám đàn em và rít qua kĩ răng. – Đứng dậy chào tiểu thư đi nào, lũ ngu!
Cả bọn bật dậy.
- Tại sao cậu đem cô ấy đến đây, hả Holmes? – Giáo chủ hỏi với giọng ngon ngọt, mắt vẫn không rời Irene.
- Cô ấy đã giúp tôi chạy trốn.
Giáo chủ tươi cười.
- Thường thì cô ấy không làm những việc như thế. Cha của Irene là một người đàn ông đáng kính trọng, luôn tin tưởng vào việc giúp đỡ những người kém may mắn, không phán xét, mà chỉ giúp họ.
- Nghe có vẻ như ông ấy là người tốt thưa tiểu thư.
Irene chụp ngay lấy cơ hội:
- Cậu Holmes đây đang cần sự giúp đỡ của anh.
Giáo chủ liếc xéo Holmes trong một thoáng rồi lại nhìn Irene.
- Tôi từng khá hơn thế này, thưa tiểu thư, và một ngày nào đó tôi sẽ lại được như xưa. Tôi rất sẵn lòng phục vụ tiểu thư.
Sherlock chẳng cần đợi mời thêm.
Bọn trẻ chui vào trong khu vực tăm tối nhất của quảng trường Fields và khom người ngồi xuống. Đầu tiên, Holmes nói với Giáo chủ các thông tin mà cậu biết: kích thước bên trong nhà giam phố Bow, thói quen của các cai tù, và cách thức mà cậu đã dùng để trốn thoát. Rồi cậu quay trở lại với vụ án mạng. Cậu tiết lộ mọi điều đã biết, kể cả chuyện mình đã tìm thấy con mắt thủy tinh như thế nào.
Giáo chủ chỉ gật đầu rồi nhắm mắt lại. Một lúc sau, nó mở mắt ra và bắt đầu tập trung.
- Có nhiều điều lắm. Tôi cho rằng có lẽ tôi đã nắm được một số chi tiết về tội ác này. Tôi sẽ không đưa cho cậu đâu. Điều cậu có thể làm là tự mình tìm ra chúng. Đầu tiên, cậu cần phải che giấu tung tích. Cậu cần phải cải trang. Tôi đề nghị cắt thật ngắn mái tóc của cậu, bỏ bộ đồ đang mặc đi. Chúng tôi sẽ tìm vài món trang phục khác cho và bôi vài vệt bồ hóng lên mặt. – Nó biết Sherlock vốn thích chăm chút cho bề ngoài của mình nên sẽ không thích thú gì chuyện này. – Từ giờ trở đi, cậu sẽ hành động vào ban đêm. Và cậu cần con mắt đó. Cậu phải đi lấy nó, dù có nguy hiểm đến đâu chăng nữa. Sau đó, cậu phải tìm ra cái bóp. Khi tìm ra cái bóp, cậu sẽ có được câu trả lời.
Thái độ hào hiệp của Giáo chủ thật đáng ngạc nhiên. Sherlock đã tưởng thằng bé du đãng sẽ nhận thấy tình thế này cũng hay ho nên quyết định can thiệp vào để xem mọi việc sẽ như thế nào (biết đâu kết cuộc là cái chết của thằng bé lai Do Thái), và đề nghị một thứ lặt vặt nào đó để đổi lấy thông tin về nhà giam phố Bow. Sherlock cũng tự hỏi liệu rốt cục Giáo chủ có xem cậu như một đứa đồng đảng, và ra tay cứu giúp "em út" hay không. Thằng bé thủ lĩnh chắc đã biết thừa quy luật của đường phố: ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Nhưng sự quan tâm của nó nằm ngoài những gì Sherlock tưởng tượng. Cậu tự hỏi tại sao. Câu trả lời đến ngay lập tức.
- Hãy đưa tiểu thư Doyle theo khi cậu quay lại cùng với những gì cậu tìm thấy. – Giáo chủ mỉm cười quay sang Irene. Khuôn mặt thằng bé rắn đanh lại khi nó liếc nhìn Sherlock. – Chỉ cần báo cáo cho tôi, rõ chưa? Đừng mong nhận thêm sự trợ giúp nào khác. Hiện giờ tôi không thể làm gì hơn để giúp cậu được. Nhóm Bụi đời và tôi... đây không phải là việc của chúng tôi. – Thằng bé quay sang một bên. – Va li đâu.
Thằng Crew tóc vàng câm như hến, đứa nắm rõ kho tàng của băng nhóm nhất, tiến lại một chiếc xe kéo gần đó. Trên xe chất hàng đống hợp căn phồng, hòm xiểng và những thứ khác – nơi tàng trữ đồ ăn cắp. Thằng nhóc lục lọi trong mớ đồ và lôi ra một món. Giáo chủ gật đầu với Sherlock rồi kê một chiếc ghế gỗ.
- Lại đây nào, cậu Holmes. Chúng ta đã sẵn sàng để cải trang cho cậu. Cậu có thể giữ cái quần dài. Những gã cớm chỉ quan sát từ phần eo trở lên, và chủ yếu là khuôn mặt.
Sherlock ngồi vào ghế. Trong bộ áo choàng quân phục thùng thình từng có màu đỏ thắm, thằng Crew mở vali và lôi ra một sơ mi màu tối, một áo khoác màu đen to sụ, và một chiếc khoăn quàng to màu xanh. Nó lại lục lọi trong đó và lấy ra một chiếc mũ màu xanh giống như kiểu thủy thủ hay đội. Giáo chủ gật đầu lần nữa, và Crew cởi áo choàng của Sherlock, tháo cà vạt rồi ra hiệu cho cậu cởi chiếc sơ mi vải lanh. Irene quay mặt đi. Đống quần áo cũ của cậu bị nhét vào chiếc xe kéo trong lúc các món mới được ném vào lòng cậu. Sherlock mặc chúng vào, rồi cột chiếc khăn quanh cổ. Cậu thấy phát tởm với những món trang phục bẩn thỉu này.
- Ngồi xuống! – Giáo chủ mỉm cười nói, thích chí trước sự khó chịu của cậu bé. Nó ấn Sherlock ngồi xuống ghế trở lại. – Bây giờ cậu cần được tút lại chút ít.
Grimsby bước tới, rút một cây kéo gỉ nhoèn từ trong túi áo khoác ra. Thằng nhóc nhăn mặt ngắm nghía đầu tóc khách hàng của mình và bắt đầu cắt xoèn xoẹt. Những lọn tóc đen rơi lả tả xuống đất. Sự biến đổi xảy ra chỉ trong vài phút. Mái tóc vốn luôn hoàn hảo của Sherlock bây giờ chỉ còn là một lớp tóc lởm chởm dày vài centimét, nom như vừa bị ai đó dùng tay nhổ bừa bãi. Nhưng hiệu quả cải trang thật tuyệt vời. Sherlock có thể cảm thấy điều đó. Cậu hiểu mình phải trở thành bất cứ ai và bất cứ cái gì cần thiết.
- Một điều cuối cùng, nhưng không thể thiếu. – Giáo chủ nói.
Một thành viên khác trong nhóm đang cầm trong tay một cái bao tải. Thằng bé ốm nhách có đôi tai trông như quai của tách uống trà, khuôn mặt lem luốc và chân đi đất này là đứa dơ dáy nhất trong đám Bụi đời. Nó thò tay vào trong bao tải, móc ra một mẩu than, vứt cái bao vào lòng Sherlock rồi nâng mặt cậu lên. Nó bắt đầu vạch ra những đường màu đen quanh mắt Sherlock.
Khi thằng Bụi đời lem luốc đầy bồ hóng lui lại, Irene nín thở. Ngồi trước mặt cô bé lúc này là một đứa trẻ lang thang đích thực.
Giáo chủ có vẻ hài lòng với kết quả sáng tạo của mình.
- Cải trang là một công cụ vô giá trong khi hành nghề. Nó chỉ có lợi cho cậu mà thôi. Theo thông tin tôi nắm được thì mẹ cậu là một cô giáo dạy hát. Chắc hẳn trong máu cậu cũng có một chút năng khiếu diễn xuất. Hãy vận dụng nó. Hãy điều chỉnh con người của cậu và cử chỉ thái độ của cậu cho phù hợp với bộ trang phục này.
Thằng bé quay sang nhìn chòng chọc vào Irene, tuồng như muốn gây ấn tượng với cô, rồi bước lùi lại. Nhóm Bụi đời bắt đầu lui vào trong bóng đêm. Cuộc hội họp của bọn trẻ đã kết thúc. Rồi thằng thủ lĩnh cũng biến mất, mặc dù giọng nói kì quái của nó vẫn còn lởn vởn đâu đây giữa bóng đêm mịt mùng.
"Cậu đang tìm một kẻ thủ ác không ngờ".
Sherlock không nói gì trong lúc cùng Irene quay trở về phố Montague. Cậu thậm chí cũng chẳng buồn cảnh giác để ý xem có bị theo dõi hay không. Theo những gì cậu thấy, nỗi sợ hãi của cô bé đã bị sự kinh ngạc lấn át hoàn toàn. Cứ như thể Irene đã cùng với Sherlock Holmes bước vào một thế giới kì lạ để rồi quay trở ra với một người khác vậy. Cô bé muốn trò chuyện về bộ dạng mới của cậu, cũng như về Giáo chủ cũng như những lời dặn dò của nó, tất cả những chuyện đó. Nhưng tâm trí cậu cứ để ở đâu đâu.
Một kẻ thú ác bất ngờ?
Kẻ đó có thể là bất kì ai: đàn ông, phụ nữ, hay trẻ con – kể cả Adalji. Nhưng về con mắt thì thằng nhóc thủ lĩnh đường phố đã hoàn toàn đúng. Sherlock cần phải lấy lại nó.
Chỉ có một cách duy nhất để làm điều đó. Cảnh sát đang lùng kiếm cậu. Bọn họ biết tất cả về bố mẹ cậu, cũng như nơi ăn chốn ở của họ. Nếu bị bắt, cậu có thể sẽ bị treo cổ. Nhưng bằng cách nào đó... cậu phải quay về nhà. Cậu không thể nói chuyện với bố mẹ được. Cậu cần phải đột nhập vào nhà rồi lại chuồn đi như một tên trộm.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com