Chương 11: Ăn trộm nhà mình
Đêm hôm sau, khi Sherlock thức dậy, cậu đã sẵn sàng để đi ăn trộm chính trong nhà mình. Cả ngày Irene lo ăn lo uống cho cậu, đồng thời xua người giúp việc và cô gia sư tránh xa các cửa sổ ở mặt hậu của ngôi nhà. Cậu tưởng sẽ gặp lại cô trong vài phút nữa, nhưng khi ra đến ngoài đường, Sherlock chẳng thấy Irene đâu. Cô hiểu cậu phải làm chuyện này một mình.
Kéo sụp chiếc mũ xuống trán, Sherlock lên đường nhằm hướng nam thẳng tiến. Đôi mắt bôi than đen hé nhìn qua vành mũ. Trên đường đi, cậu thử thay đổi điệu bộ. Bây giờ cậu đã là dân đường phố. Giáo chủ đã nói đúng về mẹ cậu. Vốn đam mê sân khấu nhạc kịch, bà rất thích trò chuyện về nghệ thuật nhập vai.
"Con cần phải hóa thân vào nhân vật khi trình diễn. Khán giả phải tin rằng con là một người khác."
Cảnh sát cần phải bị thuyết phục rằng Sherlock là một đứa lang thang. Cậu đi chậm rãi hơn, với những bước ngắn hơn, giống như hình dung về một người không biết phải đi về đâu.
Đã hơn một tuần trôi qua kể từ lần sau cùng cậu đến quảng trường Trafalgar. Cậu cực kì mong muốn được thong dong dạo bước dọc theo phố Oxford để đến quảng trường, nhưng những ngày ấy đã qua rồi. Nếu các cảnh sát nắm được thói quen của cậu, chắc chắn họ biết những địa điểm cậu thường lui tới. Bọn họ vẫn thường sử dụng các thám tử mặc thường phục. Cậu đi thẳng đến dòng sông rồi băng qua cầu Waterloo thay vì cây cầu Blackfriars như bình thường. Chẳng bao lâu sau cậu đã về đến khu Southwark.
Sherlock chọn những con phố nhỏ, cảnh giác băng qua các xóm ổ chuột, sẵn sàng đánh nhau vì sinh mạng của mình ở trong khu Xưởng Đúc tiền kế cận. Nhưng đêm nay là một đêm mùa xuân lạnh lẽo khác thường, cơn mưa bụi hòa trong làn sương mù thật khó chịu khiến cho ít có cư dân nào bén mảng ra ngoài. Tim Sherlock đập mạnh khi cậu về đến con phố gần nhà. Cậu đứng trong bóng tối, nép vào cửa ngôi nhà. Có vẻ như cậu không bị theo dõi.
Nhưng lúc này có hai người đang từ phía xa đi lại gần cậu. Thoạt tiên cơn mưa khiến cậu nhìn không tỏ, nhưng chẳng mấy chốc Sherlock nhận ra đó là hai thằng nhóc ăn vận phong phanh trong chiếc áo sơ mi và quần dài cùng với cái mũ đã ướt sũng. Cậu quan sát chúng, rồi nấp vào sau một đống củi mục bên vệ đường trước khi bị hai thằng kia để ý. Sherlock tự hỏi hai đứa đó làm trò gì ngoài đường vào giờ này. Chúng nhìn quanh quất, dò xét các ngóc ngách như thể đang tìm kiếm thứ gì đó.
- Tao bảo này, cảnh sát đang treo giá nó năm bảng Anh đấy. – Một thằng lên tiếng.
Sherlock vẫn coi khinh thằng Crippen này. Nó là con trai của một người hốt rác, và vẫn hay chế nhạo về nguồn gốc của cậu. Thằng nhóc đần động còn lại là con của một thương lái đường sông. Nó chỉ là một đứa a dua.
- Trời đất ơi, năm bảng! – Nó thốt lên – Vì nó tao sẵn sàng nhảy vào lửa, chứ đừng nói tới chuyện bắt thằng Sherlock Holmes.
Hai thằng đang ở rất gần. Sherlock sờ thấy một hòn sỏi dưới chân. Cậu nhặt nó lên và ném qua phía bên kia đường. Lập tức hai thằng kia băng qua đường để dò xét. Sherlock đứng dậy, nhanh nhẹn vòng qua góc đường để vào phố nhà mình và lánh xa hai đứa kia.
Cửa hiệu tồi tàn của ông già làm nón đã xuất hiện trước mắt. Cậu nhìn lên và thấy tầng lầu bên trên – giường ngủ của bố mẹ cậu nằm ở đó, về phía mặt tiền. Mẹ ơi... bố ơi. Một giọt nước mắt lăn tròn trên má cậu. Sherlock gạt phắt nó đi và lao vào con hẻm phía sau lưng ngôi nhà. Cho đến lúc này, cậu có thể khẳng định không hề có dấu hiệu của người theo dõi nào, dù là cảnh sát hay thường dân. Có lẽ cảnh sát không nghĩ cậu lại bất cẩn như thế này.
Sherlock trườn qua bức tường đổ như một con rắn. Cậu nhẹ nhàng đặt bước chân đầu tiên lên cái cầu thang ọp ẹp. Thêm một bước chân nữa, cậu bắt đầu trèo lên, với một nhịp độ thận trọng nhưng quả quyết. Cậu đi chậm rãi hết mức có thể. Liệu cửa nhà có bị khóa hay không? Vụ bắt bớ cậu có khiến bố mẹ cậu giờ đây sợ thế giới bên ngoài nhiều hơn trước hay không? Cậu thò tay vào tìm cái then cửa. Nó đang mở.
Có lẽ cậu nên thử vận may: đánh thức bố mẹ và trò chuyện với hai người, trấn an họ rằng cậu vẫn ổn. Cảnh sát sẽ không bao giờ quay lại và...
Một ý nghĩ chợt xẹt qua đầu Sherlock. Có khi nào ở bên trong đang có một thám tử ngồi đợi cậu sẵn không nhỉ? Nếu như bọn họ cử một cảnh sát ngồi gác trong đó thì sao? Nhưng khi đã ở trên chiếu nghỉ này, cậu tự thuyết phục bản thân là trong nhà không có người lạ.
Cậu rón rén mở cửa và khom người xuống sàn nhà.
Mọi thứ đều yên ắng.
Cậu có thể ngửi thấy mùi lửa tàn, mùi thức ăn của mẹ, mùi quần áo, và mùi chiếc tẩu thuốc của bố.
Nếu như trong nhà có một cảnh sát rình sẵn thì có lẽ Sherlock cũng sẽ ngửi thấy. Cậu đánh hơi như một con chó săn nhà nòi, căng tai nghe ngóng. Cậu nghe thấy có người đang nằm ngủ. Nghe như là hai người, chỉ hai thôi – tiếng ngáy của ông Wilber và tiếng thở nhẹ nhàng của bà Rose – nhưng cậu không dám chắc. Trong nhà tối như bưng.
Sherlock muốn đi sang buồng ngủ nhỏ trước, đã gặp qua bố mẹ, chắc đang cuồn mình trong chăn ấm giữa đêm hôm lạnh giá. Cậu muốn chui vào giữa hai người trên chiếc giường nhỏ và quên hết mọi thứ ma quỷ trên đời, để thì thào với bố mẹ, cho họ biết...
"Cậu cần con mắt đó", Giáo chủ đã nói như vậy. "Cậu cần phải đi lấy nó, dù có nguy hiểm đến thế nào đi nữa." Thằng thủ lĩnh băng Bụi đời nói đúng. Phi vụ này là nhằm lẻn vào nhà rồi rút ra ngoài càng nhanh chóng càng tốt, không để cho cảnh sát và kể cả bố mẹ cậu hay biết. Bố mẹ cậu biết càng ít thì mọi người sẽ càng đỡ phần nguy hiểm.
Sherlock trườn sấp bụng trên sàn nhà, chốc chốc lại ngừng. Giường ngủ của cậu đặt ở phía cuối căn phòng chính này. Nó có chức năng như một nhà bếp, phòng khách, phòng ăn... và phòng ngủ của cậu. Sẽ không mất nhiều thời gian đâu. Cậu thầm cầu khẩn sao cho mẹ mình chưa tìm thấy con mắt. Có thể bà đã vứt nó đi cùng với chậu nước bẩn. Hay tệ hơn nữa là cảnh sát đã phát hiện ra con mắt.
Cậu cạm phải một chân giường ở gần vách tường.
Cậu đang ở đúng chỗ. Con mắt bị bỏ lại gần ở phía đầu nằm của cậu, tức là ngay bên trên chỗ cậu hiện thời. Những ngón tay Sherlock dọc theo chân giường, tìm đén cái gối cũ mèm, rồi luồn vào bên dưới tấm nệm nhồi rơm xẹp lép.
Nó đây rồi.
Con mắt đã ở trong tay cậu. Sherlock nhanh chóng lôi nó ra ngoài.
Nhưng có ai đó đang trở mình.
Trên cái gối của cậu.
Cậu sững người và lập tức hiểu ra người đó là ai. Không cần đến một cái mũi thính như chó săn... đó là mùi thơm của bà... mùi bia thoang thoảng. Bà Rose đang nằm trên giường của con trai mình.
Nắm chặt con mắt trong tay, Sherlock lách vào bên dưới gầm giường. Cậu nghe thấy tiếng mẹ ngồi dậy. Đôi chân trần của bà đặt xuống nền nhà ngay trước mặt cậu.
- Sherlock hả? – Bà cất tiếng, rồi nghe ngóng động tĩnh một lúc lâu. Bà thở dài. – Mình thật ngớ ngẩn.
Lần này thì Sherlock không thể kìm mình được nữa. Nước mắt trào ra, lăn trên má cậu rồi rơi lã chã xuống nền nhà.
- Mình ngớ ngẩn quá... nó đã đi rồi mà.
Bà Rose nằm xuống giường trở lại.
Sherlock nằm yên trong khoảng một tiếng đồng hồ, lắng nghe tiếng mẹ mình sụt sịt, rồi hỉ mũi và trở mình. Cuối cùng, có vẻ như bà cũng đã nguôi ngoai và ngủ thiếp đi. Cậu đếm đến năm trăm trước khi lách mình ra khỏi gầm giường. Đã đến lúc ra ngoài. Nhưng cậu không thể ngăn mình quỳ dậy và nhìn mẹ. Quả là bà đang ngủ, tạ ơn Chúa. Nhãn cầu của bà không còn chuyển động bên dưới mí mắt. Bà không còn mộng mị nữa.
Cậu quỳ gối trước mặt mẹ mình một lúc lâu, giương mắt quan sát. Bà đang ở gần quá đỗi. Cậu có thể vươn đến hôn lên má bà.
Nhưng không. Cậu không thể làm thế.
Sherlock quay người, bò bốn chân qua phòng như một con chuột. Rồi cậu nhận thấy một điều gì đó. Trong đêm tối, cậu có thể phân biệt được quyển sổ của bố đặt trên chiếc bàn nhỏ. Ông Wilber vẫn hay dùng nó để theo dõi các đàn chim của ông ở Cung Pha lê. Cây bút của ông đang nằm ngay cạnh đó.
Sherlock nhặt chiếc bút chì lên... và nắn nót vẽ hình một con quạ lên bàn.
Vài giây sau cậu đã ở ngoài cửa và xuống thang. Chẳng mất nhiều thời gian, cậu đã rời khỏi khu nhà mình, lao đi trên những con phố lộng gió, chạy băng qua cầu Waterloo, rồi lần ngược lên phía bắc để về đường Montague, chỗ cái cũi chó của mình. Điều duy nhất khiến cậu dừng lại trên đường là một tờ Nhật báo mà cậu lôi ra từ trong thùng rác.
Nhưng vụ án có vẻ như đã không còn được đăng tải trên báo chí Luân Đôn nữa. Người ta đã có nạn nhân, thủ phạm, và việc khởi tố là chắc chắn. Họ không cần phải tốn giấy mực cho vụ hành quyết sắp đến nữa.
***
Tại phố Montague cậu gặp phải một sự chào đón không mấy nồng nhiệt của John Stuart Mill. Con chó đang nằm ngáy o o trong cũi, bốn chân chổng lên trời, bốc mùi còn thối hơn cả sông Thames. Nó đã quyết ngủ bên ngoài và rõ ràng Irene không thể nào thuyết phục nó đổi ý. Sherlock thở dài rồi chui vào nằm bên cạnh con vật mập ù, chẳng còn lối ngủ nào khác ngoài ôm con chó hôi hám vào trong lòng. Cả hai chỉ vừa lọt vào trong cũi, nên cậu buộc phải uốn cong đôi chân dài tựa như những sợi rong biển quấn quanh lũ lươn của Ratfinch mà cậu từng thấy. Một chân của cậu nằm lọt ra khỏi cửa. J.S.Mill cũng chẳng phải là người bạn đồng sàng lịch sự cho lắm. Những tiếng động kinh tởm phát ra từ nó liên tục cả đêm. Sherlock kinh hoảng tột độ. Việc cậu phải mang trên mình mớ giẻ rách này chưa đủ hay sao, mà bây giờ cậu còn phải ngủ với con chó hay xì hơi này chứ?
Khi Irene đánh thức cậu dậy sáng hôm sau, Sherlock vẫn còn đang ôm cứng con chó. Con mắt nằm trong túi áo của cậu, trong khi bàn tay cậu túm chặt lấy nó từ bên ngoài. J.S.Mill nhanh chóng ngủ lại. Irene đưa Sherlock vào trong nhà. Cậu muốn đi tắm, nhưng biết thừa là mình không nên làm thế. Cậu phải tiếp tục cải trang. Hôm nay là ngày Irene có buổi học, nhưng hãy còn sớm. Cô có thời gian trò chuyện trước khi người gia sư tới. Bố cô đã rời nhà được hơn một tiếng đồng hồ.
Irene thấy phấn khích hẳn lên. Sherlock thực sự có con mắt thủy tinh. Cô có thể trông thấy nó cộm lên đằng sau lần vải áo. Và cô cũng có thể khẳng định là trong đầu cậu đã hình thành một kế hoạch: trong đôi mắt cậu rõ ràng đang có sự tính toán.
Hai đứa trẻ lại ngồi vào bàn ăn, với ngọn đèn chùm trên đầu, bộ chân nến bằng bạc đặt trên mặt bàn đánh véc-ni phủ vải ren, cùng chú chim sơn ca Blondin trong chiếc lồng gần đấy. Hai đứa phải đào sâu cuộc điều tra hơn nữa, trong lúc vẫn để mắt trông chừng cửa trước.
- Bố tớ bảo nguyên tắc hàng đầu trong mọi việc là lô-gíc. - Sherlock mở lời. Cậu rón rén ngồi xuống, lo ngại rằng bộ trang phục đang mặc có thể làm bẩn chiếc ghế kiểu Pháp đẹp đẽ. - Vũ khí chống lại số mệnh đã định của tớ và Mohammad, chính là sự động não.
Irene suýt nữa bật cười khi nhận ra sự lúng túng do không được sạch sẽ, và lối nói chuyện như ông cụ non của cậu. Năng lực quan sát của Sherlock không bao gồm sự nhạy bén trước phản ứng của phái nữ, nên cậu cứ thế nói tiếp không ngừng lại:
- Trước tiên - cậu nhấn mạnh - chúng ta cần có thêm bằng chứng. Chúng ta cần suy luận ra nó trước khi hành động. Tìm kiếm nó là một chuyện bắt buộc, nhưng ta phải đi tìm một cách có suy nghĩ. Sau đó, nếu ta có thêm các manh mối hoặc biết được nhiều hơn về những manh mối hiện có, ta có thể bắt đầu xây dựng nên một giả thiết. Cuối cùng, ta sẽ phải bảo vệ giả thiết đó trước mọi mối nghi ngờ.
Irene chồm người tới trước:
- Chúng ta cần phải loại bỏ những thứ không thể nào đã xảy ra và xem xét những thứ có nhiều khả năng xảy ra nhất.
Sherlock mỉm cười. Cậu chưa bao giờ gặp một cô gái như thế này. Những cô gái mà cậu biết kém tinh tế hơn nhiều và hay có khuynh hướng cười vào mũi cậu. Irene thì đi vào trọng tâm vấn đề ngay lập tức. Sự thích thú của cô trước những điều mà cậu quan tâm là hiển nhiên. Cậu kìm nụ cười của mình lại trước khi nó trở nên quá rõ. Irene cụp mắt xuống và đưa tay chỉnh sợi ruy băng cột sau đầu.
Sherlock cho rằng cậu cần làm cô bất ngờ bằng một thứ gì đó... để gây ấn tượng.
- Và, - cậu ung dung nói - Mohammad không thể nào làm chuyện này. Xuất phát điểm của chúng ta là từ đó.
Tuyên bố của Sherlock gây được hiệu quả như mong muốn.
- Nhưng tại sao anh ta lại không thể làm chuyện đó?
- Bởi vì tớ sẽ có tội nếu anh ta đã giết người... và vì lũ quạ nữa.
- Tớ không hiểu.
- Anh ấy phải vô tội thì tớ mới vô tội được. Nếu Mohammad giết người phụ nữ kia và cái bóp tiền không được tìm thấy, thì cảnh sát sẽ đưa luôn tớ vào vụ án này. Đó là cách mà họ nhìn nhận sự việc theo cách mù quáng: vụ này chỉ là một tội ác đường phố vì tiền. Tớ hoàn toàn phù hợp với chân dung kẻ phạm tội, nhưng quan trọng là bọn họ đã trông thấy Mohammad nói gì đó với tớ ở phía bên ngoài tòa án Bailey, chỉ với tớ thôi, trong khi có cả một đám đông hàng trăm người đứng đó. Trong đầu họ, anh ta và tớ là cùng hội cùng thuyền. Bọn đầu đường xó chợ... - cậu cất cao giọng giận dữ - thứ tiện dân như Mohammad và Sherlock Holmes, là những kẻ đã giết cô gái.
Irene bắt đầu vươn tay qua bàn định chạm vào cậu, nhưng ngừng lại và chỉnh sửa cái chân nến.
- Nhưng nếu Mohammad không giết người - cậu nói tiếp - thì khó có khả năng tớ bị quy tội. Chúng ta cần phải chứng minh có kẻ nào khác đã làm chuyện này. Rồi ta phải tìm cho ra kẻ đó.
- Vậy còn lũ quạ? Chúng thì có liên quan gì với sự vô tội của Mohammad chứ?
- Về điểm này thì cậu kiên nhẫn một chút. Tớ sẽ giải thích sau khi có thêm bằng chứng.
Cô biết không nên thúc ép cậu nên chuyển sang chủ đề khác.
- Chẳng phải dẫu sao cái bóp vẫn là chìa khóa ư? Liệu ta có nên tìm kiếm nó trước tiên hay không?
- Chính xác. - Sherlock lại mỉm cười. - Nhưng tớ có cảm giác là chúng ta sẽ không thể tìm ra nó, hay ít nhất là cũng chưa thể tìm được chừng nào còn chưa có lời giải trong tay.
- Vậy, kế hoạch của ta là gì? - Irene hỏi.
- Ta bắt đầu với ba việc: đầu tiên, ta phải quay lại hiện trường vụ án và xem xét toàn bộ khu vực đó.
Irene nhướn mày.
- Thứ hai, ta cần tiến hành hỏi han dân cư trong khu vực. Tớ nghĩ cảnh sát chưa hề làm việc đó vì họ tin chắc đã bắt được thủ phạm. Và thứ ba là... - cậu ngừng lại một chút - cậu có kính lúp không?
Kính lúp là món đồ ưa thích của Sherlock Holmes. Bố cậu có một chiếc, và ông đã chỉ bảo cho cậu những công năng tuyệt vời của nó. Quả thật, cậu được biết đến như một viên điều tra nhí của phố Bow kể từ ngày cậu tìm ra con chó của ông hàng thịt nhờ chiếc kính ấy. Không hiểu làm thế nào con chó đã tự nhốt mình vào trong một căn phòng phụ nhỏ xíu ít khi được ngó ngàng tới trong tiệm bán nón. Ngày hôm sau Sherlock phát hiện ra một sợi lông khác thường màu trắng dính trên một chiếc nón, bèn chạy lên lầu tìm chiếc kính, và lần theo các sợi lông chó gần như vô hình để đến được căn phòng.
Tối hôm đó gia đình Holmes có một bữa ăn ngày chủ nhật thịnh soạn nhất từ trước đến giờ với món thịt trên bàn.
Phòng làm việc của ông Doyle nằm ngay trên đầu bọn trẻ, tại tầng hai, gần phòng khách. Chỉ trong một phút Irene đã quay lại với chiếc kính lúp. Trong khi cô đi lấy kính, Sherlock lôi con mắt thủy tinh từ trong túi ra và đặt nó lên bàn. Irene thở dồn dập trong lúc ngồi xuống. Trước mắt cô bé là manh mối mà cô đã được nghe nhắc đến nhiều lần. Nó khiến cô rùng mình. Cô có thể nhìn thấy những đốm máu trên bề mặt trắng bóng của nó. Irene đưa kính lúp cho Sherlock.
- Thứ ba là, chúng ta cần phải xem xét cái này. - Cậu bắt đầu xoay con mắt thủy tinh, quan sát từng chấm máu một. Đây là cơ hội quan sát kĩ càng đầu tiên của cậu. - Nếu con mắt này có thể nhìn thấy... nó sẽ cứu mạng tớ.
- Màu sắc ngộ thật. - Irene nhận xét.
- Thế à? Sherlock đáp, rồi đặt con mắt xuống bàn. Trong lúc hấp tấp tìm kiếm các chi tiết, cậu đã bỏ qua một thứ dễ thấy nhất. Mống mắt có màu nâu, nhưng mép trên của nó có một vệt to màu tím nổi bật đi từ ngoài vào đến khoảng một phần năm hình tròn.
- Cậu nói đúng. – Sherlock săm soi con mắt.
- Con mắt kia của khổ chủ cũng phải như thế này. – Irene nhẹ nhàng nói.
- Vậy là có ba điểm mấu chốt về manh mối của chúng ta. - Sherlock nhận xét. – Nó được tìm thấy gần nơi xảy ra tội ác, dính máu, và có mống mắt màu nâu với một vệt tím.
Cậu lại dùng kính lúp quan sát lần nữa, xoay xoay con mắt để tìm bất cứ thứ gì khác thường. Cậu kiểm tra toàn bộ bề mặt còn lại, rồi quay trở lại chỗ cũ... Nó có hai vết khắc.
- Những chữ cái. – Sherlock reo lên.
- Cái gì? – Irene không nhìn rõ nên cô dịch sát vào gần cậu hơn.
Sherlock đưa kính lúp di chuyển ra xa rồi lại gần, cố gắng lấy nét các vết khắc.
- Có hai chữ cái ở mặt sau của con mắt.
Irene chờ đợi.
- L... E.
Sherlock đặt thấu kính xuống, hỏi:
- Cậu nghĩ nó là chữ gì?
- Tên viết tắt của người sở hữu.
- Tớ không nghĩ vậy.
- Hay của nhà sản xuất?
- Ở Luân Đôn này có ai làm mắt giả nhỉ? – Sherlock đã biết câu trả lời.
- Những người thổi thủy tinh? Nhà cung cấp thiết bị y khoa?
- Hoặc là người nào đó làm cả hai việc ấy. – Cậu đáp – Chúng ta cần một quyển danh bạ của thành phố. Ở thư viện Guildhall có một quyển. Trong đó có liệt kê mọi thể loại ngành nghề kinh tế của Luân Đôn.
Nhưng Irene không nghĩ chỉ cần có thế.
- Ngay cả khi chúng ta khám phá ra người đã làm con mắt giả - cô lập luận – thì chúng ta cũng chưa giải quyết được vấn đề, đúng không?
Nom Sherlock như thể đang tập trung vào một thứ gì đó ở rất xa xôi. Cậu đan hai tay vào nhau.
- Bố tớ luôn nói là nếu cậu nghĩ đến giải pháp trước tiên khi gặp phải một vấn đề khoa học, thì cậu đang làm ngược. Chúng ta cần các sự kiện, Irene ạ. Một khi đã thu thập các manh mối và có được một đường dây mà chúng ta có thể lần theo, lúc đấy ta mới có thể tìm kiếm giải pháp. Những chữ cái trên con mắt này giống như các miếng ghép thuộc về bức tranh ghép hình của chúng ta.
Cô Stamford có thể xuất hiện ở cửa trước bất kì lúc nào, nên hai đứa nhất trí gặp lại nhau vào buổi chiều. Irene cứ tưởng địa điểm gặp nhau là ở trong nhà, nên cô bé nín thở khi nghe thấy cậu định ấn hẹn... giữa ban ngày ban mặt, vào tầm giờ uống trà.
- Cậu hãy đi tới khu East End, khu phố nghèo của Whitechapel. Hãy dẫn ai đó đi cùng, một người không thắc mắc lô thôi. Đừng đưa cô giáo của cậu đi nhé. Cậu cứ đi thoải mái, không cần lén lút. Tớ sẽ gặp cậu... chỉ cần đi đến gần hiện trường vụ án.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com