GianThieu
Giàn Thiêu
Võ Thị Hảo
Chương thứ :1 "
An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà pha......!</EM>
x x x
Đinh mùi (1). Tháng chạp. Ngày Ât Dậu. Giờ dần.
Thần Tông (2) hoàng đế gà gật trên kiu vàng. Đôi chân ngắn cũn ủ trong cặp hài mũi cong như mũi thuyền rồng, hai bên lườn hài gắn những hạt minh châu ánh biếc. Tua vàng buông rủ đung đưa theo nhịp rập rình của những bờ vai lực lưỡng mười sáu phu kiệu.
Hoàng đế ngái ngủ. Mười hai tuổi, đang là Thái tử Dương Hoán, tiên đế Nhân Tông băng hà, ngài được lập lên ngôi giữa lập loè đèn nến trước linh cữu. Dù đã được đem vào cung nuôi dạy từ lúc còn là một đứa bé lên hai, nhưng Dương Hoán còn bỡ ngỡ với hết thảy các phép tắc của một vị hoàng đế, lại càng chưa quen với những chuyến đi xa phải dậy sớm với những nghi thức nặng nề thế này. Ngài uể oải ngáp.
Âm ì như sóng biển bao phủ quanh thân mình ngài ngự, trong tấm chăn hồng nhạt phớt vàng của vầng dương đang bắt đầu ló rạng, tiếng tụng kinh gõ mõ của năm mươi sáu nhà sư đi thành hàng đôi quanh kiệu vàng càng như ru vị hoàng đế nhỏ vào giấc ngủ êm đềm.
Giai điệu âm u mịt mùng của li kinh cầu hồn vẫn đều đều quyện lấy kiệu vàng và đoàn tuỳ tùng dài như vô tận. Kính cẩn nâng quyển kinh bằng lá bối, vị thượng toạ áo vàng mình gầy guộc tiên phong đạo cốt dẫn đầu đoàn. Tiếp gót , bốn đại sư phơ phất phướn trên tay. Các tăng quan và một chuỗi nhà sư khác theo sau. Tay không ngơi lần tràng hạt, miệng họ ê a cất lên những câu kinh như gió thoảng không bao giờ dứt.
...An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà pha... (3)
Sương sớm tan. Con đường nhuộm màu áo vàng cong lên lượn xuống uốn theo những sườn đồi, dần dà hiện rõ mồn một. Dân chúng trong vùng nô nức đổ ra xem, bất giác đồng thanh " Mô Phật ! ", lòng dậy lên niềm sùng kính với đức từ bi.
Tại các cổng chùa ven đường cái quan, sư trụ trì hối hả giục chú tiểu mang hương án phẩm vật ra dâng đấng tân vương và các thượng tọa đạo cao đức trọng. Chốc chốc, đoàn xa giá khựng lại vì có sư trụ trì một chùa nào đó ra dâng vật phẩm. Nhân Tông hoàng đế lúc sinh thời thường ban thưởng hậu cho những kẻ đem dâng những phẩm vật lạ báo điềm lành của đất nước. Thiên hạ biết vậy, nên sinh thói đua tranh tìm kiếm vật hiếm quí để ra mắt tân vương.
Dương Hoán Thần Tông hoàng đế tỉnh ngủ hẳn, mắt sáng rỡ khi thấy sư trụ trì chùa Phụng Từ quì trước kiệu vàng, cúi đầu hai tay nâng mâm son dâng lên một con rùa nhỏ màu hoàng yến, có đôi mắt to màu vàng sậm, trên ức rùa vân sừng nổi lên hình hai chữ " Thiện đế " rõ như tay người viết bằng mực nho đen nhánh.
Dương Hoán ngước nhìn Trung thừa Mâu Du Đô ang đứng chầu hầu liền bên, dò hỏi . Mâu Du Đô nhìn rõ dấu tay người viết rất khéo trên mai con rùa nhưng lặng im giây lát, chỉ nói : " Muôn tâu ! Thiện đế nghĩa là một bậc đế vương nhân hậu khoan dung ! ". Nhà sư đảo nhanh mắt, nhìn quan Trung thừa vẻ hàm ơn rồi khúm núm : " Muôn tâu hoàng đế, trong mỗi mắt của con rùa quý này có tới sáu con ngươi. Đó là điềm triệu cực lành, báo trước sự thịnh vượng của đại triều dưới sự chăn dân đức tân hoàng đế..." .
Thần Tông chưa hiểu hết những lời của sư chùa Phụng Từ, nhưng lòng mừng khôn xiết, ghé sát vào mắt chú rùa, cố tìm cho ra sáu con ngươi nhưng nhìn mãi cũng chỉ thấy có hai con, trong khi các cận thần đều bảo là trông thấy quả thực có sáu con ngươi, liền bảo thị vệ ặt rùa vào hộp vàng, trọng thưởng cho nhà sư. Đoàn xa giá lại tiếp tục nhuộm sặc sỡ con đường lên Na Ngạn (4).
Trên cao, những vì sao cuối cùng tắt hẳn. Tiếng chuông chùa Phổ Thiên đổ dài từng hồi, lanh lảnh ngân nga, đệm nền cho giọng kinh cầu hồn. Aỏ não những cánh quạ bay là là trên mấy đụn rơm nhả khói bếp nhà nông phu. Thoảng mùi cháy khét pha vị ngọt sắt của khoai vùi quá lửa trong tro nóng.
x x x
.... Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con mau lên thuyền Bát nhã
Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con sớm vượt qua bể khổ
Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con sớm lên cõi Niết Bàn
Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con mau đến nhà vô vi...</EM>
Những câu kinh " Đại bi sám pháp " da diết phả vào tiếng chuông. Buổi sáng không sương mù. Những vì sao vừa tắt thì muôn tia nắng vàng ngọt sắt như lưỡi đòng thép xuyên xuống dòng người lầm bụi.
Đằng sau chuỗi người được che phủ trong cờ xí quạt tàn võng lọng rc vàng đường lên Na Ngạn là mười hai cộ gỗ. Mười hai thớt trâu đực sừng dài cong như nửa vành trăng, lớp lông dọc sống lưng dựng cao và cứng xoắn như đám rễ tre gộc qua lửa ì ạch kéo dẫy cộ ngật ngưỡng những phiến gỗ thông lớn phả mùi thơm ngát. Ngất ngưởng trước đống gỗ thông trên chiếc cộ dẫn đầu được kéo bởi cặp trâu trắng bốn chân lừng lững như chân voi là một vị quan trong bộ trang phục áo tơi nón lá mục đồng tay cầm roi bằng nhánh hoa lau có tết tua ngũ sắc luôn tay quật vun vút lên lưng trâu. Dãi trâu rỏ thành dòng ướt mặt đường đồi đất đỏ. Những vệt cỏ chó đẻ hai bên đường bết bụi cong rũ.
Để có được mười hai cộ gỗ thông này, quan Thái bảo khu mật sứ Lý Trác đã đích thân giao cho tri phủ Lạng Giang sai hai trăm tiều phu cơm đùm cơm nắm lên núi kén chọn từng gốc thông gìa ngoài trăm tuổi. Những gốc thông mà lưỡi rựa thép chém vào ứa ra dòng nhựa vàng quánh trong như hổ phách. Khi mang được gỗ về thì những phiến gỗ thông đã nhuộm máu của ba mươi tư kẻ tiều phu xấu số. Để ngăn cản oan hồn của những người tiều phu oán hận về đòi mạng, gây bất an cho bản triều, quan Thái bảo đã theo cung cách dân gian, buộc một dải khăn sô dài lê thê ngang sừng cặp trâu kéo chiếc cộ thứ ba.
Đám rước khổng lồ nặng nhọc chuyển đi. Khi ting chuông chùa vừa dứt, giàn nhạc cung đình réo rắt tấu khúc bi ai. Não nuột tiếng kèn, tiếng thanh la não bạt chen giọng thương khóc Đức Nhân Tông hoàng đế mới băng hà.
x x x
Dân chúng đổ ra hai bên đường ngóng xem đám rước mỗi lúc mỗi đông. Những người đàn ông gầy guộc đóng khố cởi trần tóc búi tay cầm roi tre đang cố sức giữ cho đám trẻ khỏi túa ra đường len lén hé mắt trộm ngắm mặt rồng dưới mu bàn tay cáu bẩn che mặt. Đám dân đen tội nghiệp chỉ kịp thấy trôi qua mắt họ một gương mặt trắng xanh nhỏ nhắn với đôi mắt xếch sáng rực, ngưỡng thiên và cặp chân đung đưa tung tẩy như chân trẻ con đang vầy nước. Chiếc mũ miện nặng nề nạm ngọc bích nổi bật trên những tua vàng tua bạc
buông rủ làm cặp lông mày trĩu xuống. Sức nặng của vương miện dường như quá sức chịu đựng của sợi cổ mảnh khảnh.
Đi sau kiệu rồng chừng nửa dặm, một chiếc xe khổng lồ sơn son thiếp vàng khảm những đoá mẫu đơn màu đen tang tóc. Chiếc xe chầm chậm như nhẹ trôi trong không trung, được kéo bởi những bước chân đều đặn của một trăm hai mươi nữ nô lệ người Chân Lạp . Hai bầu vú trần đen sạm trĩu nặng. Từ đầu vú run rẩy rỏ xuống những giọt m hôi đặc quánh dưới ánh mặt trời. Những nữ nô lệ này tuổi chỉ vừa đôi tám, tóc vấn cao hình tháp quấn những chuỗi hoa đại trắng, ngang lưng vấn xoắn váy màu vàng lơ lửng đến bụng chân. Cổ chân rám nắng quấn những chuỗi vòng vỏ ốc nhiều màu. Tiếng vỏ ốc va nhau lách cách như nhạc đệm theo mỗi bước đi. Mồ hôi loáng ướt lưng trn. Ngực tì ngực lên những chiếc ách bằng gỗ lim đen nhẫy. Giàn nữ nô lệ đi như một dẫy người câm không vui không buồn.
Trên xe, lồng lộng giữa trời là bốn mươi chín cô gái cài vàng dát ngọc áo tía xiêm hồng đầu chít khăn ngang. Những cung nữ của Hoàng đế Lý Nhân Tông vừa băng hà. Họ đang trên đường tới đảo Âm Hồn, lên giàn thiêu. Khi ngọn lửa giàn thiêu bốc lên, họ là những kẻ tôi đòi cưỡi khói để kíp kíp tới Niết bàn hầu hạ đức tiên đế. Những người kế nghiệp có dạ trung quân không thể để đức vua phải chịu cảnh phòng không gối chiếc quá lâu nơi Niết Bàn.
Thần Tông hoàng đế đã tỉnh ngủ hẳn. Ngài lệnh cho kiệu rồng dừng lại, đợi cho chiếc xe chở các cung nữ sắp bị thiêu diễu qua trước mặt. Vẻ đẹp rực rỡ của các nô lệ kéo xe cùng các cung nữ khin Thần Tông ngẩn người. Đức vua sực tỉnh, khi nghe tiếng của Thái bảo Khu mật sứ Lý Trác lệnh cho quan thủ lễ:
- Lũ đao phủ đã tề tựu đủ chưa?
Quan thủ lễ khúm núm:
- Dạ bẩm ! Đã đủ .
- Liệu đây có phải là một lũ thỏ đế tái mặt run tay khi thấy lũ cung nữ bước vào lửa giàn thiêu?
Quan thủ lễ khúm núm :
- Bẩm, không đời nào, thưa quan Thái bảo ! Bốn mươi chín tay đao thành thục nhất mỗi tay từng hành quyết không dưới năm mươi tử tù. Lại từng được đích mục sở thị giàn chôn sống thị nữ trong đám táng ỷ Lan Linh nhân Hoàng thái hậu.
- Cẩn thận. Có bề gì, hãy trông chừng cái đầu của ngươi đó!
Quan thủ lễ ngập ngừng, đưa mắt cầu cứu Thần Tông:
- Dạ! Kẻ bất tài này không dám sơ suất...Nhưng bẩm...còn có điều không thể không nói ra!
Thái bảo Lý Trác trừng mắt:
- Công việc đang cấp cấp. Giờ đưa các cung nữ dâng lên đức tiên hoàng đã điểm. Sao không đi ngay lo việc, còn đứng đó huyên thuyên lắm lời?
Mặt viên thủ lễ biến sắc, nhưng vẫn cố nán lại, quỳ rạp xuống:
- Muôn tâu bệ hạ ! Bẩm quan Thái bảo. Xin cho kẻ hèn này tâu xin một lời trước khi đi làm phận sự, không dám trễ nải!
Lý Trác lại trừng mắt. Nhưng Thần Tông đã dịu nét mặt:
- Quan Thái bảo! Đừng doạ nạt người ta quá. Nhà ngươi cứ nói!
Lý Trác hậm hực im lặng. Thủ lễ tâu:
- Muôn tâu! Từ Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái hậu (5), noi theo các phép tắc đời Tần Thuỷ Hoàng phương bắc, mà trăng trối trước khi chết rằng, nhất thiết phải chôn sống ba người hầu gái để đi theo hầu hạ Thái hậu. Vì thế, mùa thu tháng bẩy ngày hai mươi nhăm, Hội Tường Đại Khánh năm thứ tám (6), ba cung nữ đã bị chôn sống theo lễ hoả táng của Thái hậu trên đảo Âm Hồn này. Từ đó đến nay, ngày nào cũng vậy, vào chính ngọ, dân trong vùng cứ ngửi thấy mùi thịt người cháy và tiếng kêu khóc nghn ngào của đàn bà vọng lên từ dưới đất...
Thần Tông rùng mình so vai. Lý Trác mắt đã nảy lửa, chằm chằm nhìn vào cái cổ đang phập phồng lên xuống của quan thủ lễ.
Làm như không biết đến cử chỉ của quan Thái bảo, viên thủ lễ cố nói gấp gáp :
- Muôn tâu ! Vì thế, thiên hạ có lời đồn, vì có việc chôn sống ba cung nữ mà đức tiên hoàng cũng phần nào bị tổn thọ...
Lý Trác đp tay, thét:
- Loạn ngôn ! Đức Tiên đế ta thọ sáu mươi ba tuổi, ở ngôi năm mươi sáu năm. Xưa nay chưa từng có vị hoàng đế nào được phúc lộc thọ dồi dào như vậy!
- Dạ bẩm ! Quan Thái bảo dy thế thật thông thái như thần. Nhưng năm Long Chương Thiên Tự thứ nhất (7), ngày hai mươi lăm tháng giêng, tiên hoàng hạ sinh, tuổi Ngọ, ngay ngày hôm sau đã được lập làm Hoàng thái tử. Lúc đó, Nguyên phi ỷ Lan đã cho vời quan chiêm tinh, thái bốc vào triều, lập lá số, gieo quẻ bói cỏ thi và mai rùa. Tất cả các quan chiêm tinh, thái bốc đều quì tâu lên rằng đức tiên hoàng thọ ít nhất là bảy mươi ba tuổi !
Thần Tông lại rùng mình lần nữa, càng chăm chăm nghe quan thủ lễ tâu bày.
Viên thủ lễ tiếp lời:
- Bởi thế, hạ thần này, dẫu ngu tối, nhưng cũng mạo muội xin được tâu với hoàng thượng và quan Thái bảo... Phải tính đến cái phúc cái hoạ sau này
Chương thứ :2 "
Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.
Chương thứ :3 "
Khi gương mặt trắng bệch của Từ Vinh dựng ngược lên từ mặt sông, ập vào mặt Diên Thành hầu khiến ông ta cất tiếng rú hoảng loạn, Từ Vinh phu nhân đang mê man bất tỉnh trên giường bỗng bật dậy. Bà vươn cánh tay trái ra khoảng không, cặp mắt hoang dại dõi phía cửa chính, gọi thảm thiết : " Từ công !...Từ công...!". Vẫn vươn tay, bà đi thẳng ra cửa, mắt vẫn hướng xa xăm.
Đám ngưòi hầu sợ mất vía mà không dám gọi. Từ Vinh phu nhân lùi lũi đi. Cho đến khi trán vập vào cánh cổng gỗ lim, máu chảy loang mặt, bà quay nhìn ngơ ngác như sực tỉnh cơn mơ. Bất chợt, bà trở vào nhà, đĩnh đạc vấn tóc, đòi gia nhân đưa cơm nước tới. Bà lặng lẽ ăn một mạch hết ba bát canh sâm. Rửa tay bằng nước thơm, bà đứng dậy mở tủ chọn bộ xiêm áo đẹp nhất đã mặc trong ngày cưới, vận vào người. Đánh phấn thoa son xong, cẩn thận cất chiếc tráp khảm trai vào tủ, ngắm mình giây lâu trong mặt gương đồng, khẽ bật lên một tiếng cười sắc lạnh, bà thoăn thoắt đi lại trong mấy gian nhà rộng, như chưa hề hôn mê bất tỉnh ba ngày trên giưng.
Từ Lộ không biết mình đã về đến nhà bằng cách nào. Toàn thân tê dại, bê bết bùn đất, mắt nhợt ra vì nhọc mệt, chất chứa uất hận. Chàng đi vào nhà nửa mê nửa tỉnh. Mãi đến lúc chạm mặt cô hầu gái của Từ phu nhân đang rối rít chạy ra, Từ mới sực nhớ rằng mẹ chàng còn đang hôn mê trên giường. Trong lòng chàng nhói lên nỗi xót xa ân hận rằng mình vô tình, bất hiếu, đã không chầu chực bên gối mẹ trong cơn nguy kịch. Từ hoảng hốt chạy tới vén bức trướng che giường mẹ. Giừơng trống không. Mẹ đã có mệnh hệ gì rồi ư? Hay bà đã bị bắt đi bởi quỷ kế của Diên Thành hầu ?
Từ cuống cuồng cất tiếng gọi mẹ. Tiếng gọi tuyệt vọng của chàng vang lên, đập vào những bức tường hoang lạnh, dội lại. Chàng hối hả chạy trong ngôi nhà hun hút sâu, tìm khắp cả ngoài sảnh và mấy gian từ đường, cả dưới những khóm trúc, vẫn không thấy.
Kiệt sức, tuyệt vọng, Từ ngã ngồi xuống nền nhà, hai tay ôm mặt, bng nghe tiếng gọi lanh lảnh "Từ con...". Giật mình ngẩng mặt lên, thì thấy một ngươì đàn bà gầy guộc, gương mặt quý phái hốc hác, vận bộ xiêm áo ngày cưới may bằng vóc màu hồng có đính kim tuyến, dáng đi như lướt trong cảnh tranh tối tranh sáng đang tiến về phía chàng. Theo sau bà, đám gia nhân rối rít lo lắng. Từ thất kinh khi nhìn thấy gương mặt của mẹ dưới vành khăn cưới. Đau khổ quá, m đã phát điên rồi chăng? Chàng rợn cả tóc gáy, không rõ mơ hay thực. Mẹ chàng cũng đã đi theo cha và oan hồn của bà đang hiện về kia ?
Từ Lộ đang ngơ ngác thì mẹ chàng nhoẻn cười nói tiếp:
-...Từ ...con !...Cha con đang đứng bên cửa điện thứ ba của Diêm vương .Ông đợi ngày mẹ con ta trả được oán này. Hồn oan ức đói rét ở ngoài cửa điện. Đêm ngày chầu chực...
Từ nức nở:
- Vâng, thưa mẹ, cha con chết oan bởi Đại Điên và Diên Thành hầu...
Mẹ chàng giơ một ngón tay lên trời:
- Ta biết. Hồn cha con về dẫn ta đi. Ta vừa trôi trên sông cùng với cha con. Nước sông Tô lạnh lắm. Đêm nay cha con không ngủ .
Từ chắp hai tay:
- Con xin mẹ! Mời mẹ vào nằm nghỉ . Đã có con lo chu toàn mọi việc.
Phu nhân vẫn tiếp tc :
- Cha con đêm nay mắt không nhắm, chồn chân mỏi gối chầu bên cửa điện Diêm vương. Mỗi canh giờ lại nghe một trăm hai mươi ba lần tiếng kêu rú của những người bị tra tấn dưới A tỳ ngục. Ngắm bảy lần rừng đao, bảy lần rừng kiếm ánh lạnh như rắn mà đau cả ruột gan. Nhìn thấy mười tám cái vạc đồng nấu người mà như chịu dầu sôi rót vào ngực...
Từ quỳ xuống, đưa hai tay đỡ mẹ:
- Mẹ !...Xin mẹ hãy tỉnh lại. Con đau ruột lắm rồi!
Mắt phu nhân vẫn hướng vào khoảng không. Những ngọn lửa cuồng dại nhảy nhót trong mắt bà:
- Kìa là cha con đang đếm, mắt sắp vuột ra khỏi mí. Này địa ngục Hàn băng. Này địa ngục Hắc ám. Địa ngục Kiếm luân. Địa ngục Tiêu nhiệt. Địa ngục Hoả xa. Địa ngục Phí sì. Địa ngục Lạm thang. ..Kìa địa ngục Hôi hà. Địa ngục Kim lâm. Địa ngục Thiết sàng. Kìa Đồng Trụ, này Thiết luân, Thiết quật, Thiết hoàn, Tiêm Thạch, ẩm đồng... Cha con đợi ngày những kẻ giết cha con bị đày vào đó tám trăm năm...
Bà bất chợt quay phắt lại, đổ vào người Từ Lộ, những ngón tay bấu chặt vai con, hổn hển:
- Đến khi oan khuất được minh bạch thì mới lên cõi Phật. Nếu khng, phải xuống địa ngục làm mồi cho ngạ quỷ...
Hai bàn tay gầy mảnh của Từ Vinh phu nhân nghiến vào vai đau nhói. Sức mạnh mù quáng nào đó đã nhập vào tay bà. Từ đau đến chảy cả nước mắt, c sức gỡ tay mẹ:
- Mẹ! Con lo việc trả thù cho cha. Xin hãy bình tâm lại!
Phu nhân bỗng ghé sát mặt cậu con trai, đăm đăm nhìn xói vào mắt, rồi phá lên cười, vồ lấy vạt áo cưới, lau lên mặt T :
- Con trai ta! Con trai của ta và Từ công.
Từ van vỉ:
- Mẹ! Cha đã mất rồi. Con chỉ còn có mẹ. Xin mẹ bình tâm, giữ gìn ngọc thể, con mới được phận nhờ...
Phu nhân oà khóc. Nước mắt bà rơi từng giọt nóng bỏng xuống vai Từ Lộ:
- Từ Lộ con! Người ta đi đầy đường kia! Người ta không đi xem đèn. Mà xem thi thể cha con trôi ngược trên sông. Ông lìa bỏ mẹ, đi rồi! Mẹ giữ lại không được. Hồn ông còn bận chầu chực bên cửa địa ngục. Người ta đi xem cha con chết. Nhưng mẹ không đi xem. Mẹ mặc áo cưới. Mẹ đứng ra đây cho
cha con tỏ, để ông biết dù âm dương cách trở, ta và cha con vẫn sắt son. Ta sẽ làm lại đám cưới cùng ông trước cửa điện Diêm vương.
Từ vén tay áo lau nước mắt cho mẹ:
- Được rồi, được rồi, mẹ! Cha con dù mất đi, vong hồn của người vẫn không xa lìa chúng ta...
Mặt Từ Vinh phu nhân tươi lên. Đã thấy có chút sinh khí:
- Vong hồn cha con phải được an ủi... Từ Lộ ! Thân mệnh của ta và con không phải của riêng chúng ta, mà của cha con.. Nay thân xác ở lại mà nửa hồn ta đã đi cùng cha con...!
Từ Lộ lại quỳ sụp xuống :
- Xin mẹ bình tâm. Giữ gìn ngọc thể. Thân này từ nay có sống trên đời cũng chỉ là để trả thù cha và đền bồi ơn sinh thành của mẹ mà thôi. Ngay ngày mai con sẽ tìm diệt Diên Thành hầu và Đại Điên....
Từ Vinh phu nhân đau đớn nhìn lướt từ đầu xuống chân con trai.
Bà giơ một bàn tay trắng muốt nổi đầy gân xanh tím, mười móng tay dài cong vút mấy ngày không được chải chuốt đã trở nên khô xc, nghiêm sắc mặt :
- Cạn nghĩ rồi. Nước còn có minh quân, còn có triều chính. Đức hoàng đế chí tôn đã đặt ra chín bậc phẩm quan tước. U tối ở chỗ này nhưng sáng láng ở chỗ khác. Lại còn đn trời soi tỏ ở trên.
- Thưa mẹ, đèn trời không phải lúc nào cũng sáng. Nếu sáng, những kẻ như Diên Thành hầu đã không còn có ở trên đời này.
Giọng Từ phu nhân bỗng dưng sang sảng:
- Bình thường con quen đọc sách, chơi cờ, thổi sáo, sức vóc học trò sao địch nổi thủ đoạn của lũ ác tặc. Để tỏ nỗi oan cho cha, trừng trị lũ mặt người dạ thú, không gì bằng mẹ con ta kiện lên Đô hộ phủ ngục tụng, nhờ quan Đô hộ tra xét rõ sự việc, buộc kẻ gieo ác phải bị trừng trị dưới lưỡi gươm công lý của đức hoàng đế. Như vậy mới giải được tận gốc nỗi oán thù này...
Từ Lộ ngập ngừng :
- Thưa mẹ, Diên Thành hầu thế lực chất ngất trùm thiên hạ....
- Con thật hồ đồ..! Đức hoàng đế là bậc minh quân. Người từng phá Tống bình Chiêm, định ra thi thư l nhạc, mở Quốc tử giám...Cớ chi một chuyện này người lại có thể không tra xét tỏ tường ?...! " Thựơng bất chính hạ tắc loạn ". Hẳn Đức hoàng đế chí tôn hiêủ hơn ai hết !
Nghe mẹ nói, Từ Lộ chợt cất được gánh nặng.
Phải rồi, nước Nam ta từ thời Âu Lạc, qua ngàn năm Bắc thuộc, trải nhiều đời vua phải chịu hẩm hiu trong tước Giao Chỉ Quận vương mà các Hoàng đế Trung Hoa gia n. Nay đương kim hoàng thượng lập nhiều võ công hiển hách. Nam, bắt vua Chiêm Chế Củ, thu phục Chiêm Thành, mở mang bờ cõi. Bắc, đem mười vạn quân phá Tống khiến triều đình bắc phương phải khiếp hãi, cắn răng ngậm nhục mà tấn phong Người tước Nam Bình Vương. Việc nông tang trong nước lựa bề sửa sang, dạy dân đắp đê Cơ Xá giữ cho đất kinh thành khỏi nạn ngập lụt. Bề trí đạo dùng lối khuyến dụ, mở khoa thi năm Â't Mão chọn kẻ hiền tài đặt lên ngôi vị chăn dân. Năm Bính thìn xuống chiếu cầu lời nói thẳng, chọn người vào Quốc tử Giám. Năm Bính dần chọn người vào Hàn lâm viện, khởi sự Nho học để giáo hoá chúng dân. Năm Kỷ tỵ định quan chế, chia phẩm bậc ngăn nắp, dẫu rằng mô phỏng theo lối triều đình nhà
Tng, nhưng có công lớn trong việc khai hoá văn hiến nước nhà. Lại biết dùng những bậc siêu quần như Thái sư Lý Đạo Thành, Thái uý Lý Thường Kiệt...làm rỡ ràng nghiệp nước. Một nhà vô đạo như Diên Thành hầu nay còn được dung dưỡng chẳng qua là bởi đức hoàng thượng chưa tường tận, chưa rảnh tay cứu xét, trừng trị kẻ ác mà thôi...
Từ Lộ vội vào thư phòng của cha, lấy nghiên mực ngọc thạch có khắc sâu hai chữ " Quần sư " để lại từ thời ông nội chàng, một vị túc nho uyên bác, từng có hàng trăm học trò đến quỳ gối trước ngưỡng cửa thỉnh giáo. Chàng vén tay áo cầm cây bút lông " Cảo di ". Và cái chết oan khuất đau đớn của cha chàng trào ra theo ngọn bút, phủ kín tấm lụa bạch.
Khi treo lên miếng lụa lên trước gió ợi ráo mực, Từ Lộ giật mình. Trước ánh sáng nhập nhoạng buổi chiều , trông nghiêng nét mực hăng hăng đỏ như màu máu khô.
</DIV>
*
* *
</DIV>
Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh ra công đường.
Ngài vừa nhậm chức thay người tiền nhiệm tên là Phụ Quốc, người Aí châu, vừa bị biếm. Phụ Quốc vốn xuất thân con nhà nghèo, thuở thiếu thời làm nghề chài lưới trên sông Mã, từng dũng mãnh bắt được kẻ cướp cá ở chợ giao nộp nhà chức trách. Lớn lên sung quân, nổi tiếng gan dạ. Đóng khố cởi trần bôi nhựa cây vào người, cầm đục lặn xuống sông đục thủng thuyn giặc. Lập võ công hiển hách trong cuộc chiến phá Tống trên sông Như Nguyệt, Phụ Quốc được vua yêu vì. Đến khi ông ta bị thương hỏng một mắt, không thể tham gia chiến trận, vua bèn cất nhắc vào chức Đô hộ phủ ngục tụng, mong ông ta lấy cái dũng khí trong chiến trận ngày trước, đem vào việc minh định rõ những vụ oan án, ngõ hầu yên dân.
Ngày đầu tiên nhậm chức, trông thấy công đường với chiếc án thư sơn son thiếp vàng sáng chói, hàng đống giấy tờ sách vở chất ngất, quân lính cầm giáo đứng canh hàng lối nghiêm ngặt, Phụ Quốc hoảng sợ, quỳ xuống lạy như tế sao :
- Tâu bệ hạ, con vốn người ít chữ, chỉ quen nghề chài lưới trên sông. Hỏi khúc sông nào có cá thì con biết, chứ hỏi ở đâu có oan án thì con làm sao biết? Nay bệ hạ muốn thưởng công con, xin người cứ cho cấm hẳn một khúc sông cho con, kẻ khác không được chài lưới ở đoạn sông đó, thế là may phúc cho con lắm!
Vua nghe, cả cười, mà rằng:
- Cái thằng Phụ Quốc này mới thật thà làm sao! Ta yêu chính cái ngây ngô của nhà ngươi đó. Cứ vững dạ làm Đô hộ phủ ngục tụng . Chuyên tra xét các án đã c bọn tay chân giúp rập. Lũ mọt sách đó học hành bao nhiêu năm là để cho ngươi sai phái đó. Ta cần một kẻ thật thà dũng mãnh như ngươi, để bọn cường hào ác bá, bọn quý tộc trong triều không thể cậy quyền cậy thế lo lót làm loạn phép nước. Phép nước đã loạn, ta làm sao giữ được sự nghiệp của tiên đế?
Phụ Quốc càng hoảng sợ:
- Tâu hoàng thượng, con chỉ mê thích những khúc sông lắm cá. Thường nhật, nhìn qua màu nước sông hồ cũng có thể nói ngay nơi nào nông nơi nào sâu, lắm cá ngão hay cá chép. Nay hoàng thượng buộc con phải kề cận bọn mọt sách, hai bên vốn chẳng ưa nhau, chẳng qua chỉ làm cho con thêm khó xử trước chúng mà thôi.
Vua càng cả cười, càng lúc càng tỏ ra vui thích:
- Ngươi nên nhớ, khi ngươi là kẻ bề trên, lệnh của ngươi là tối thượng. Kẻ nào bất tuân thượng mệnh, nhẹ thì roi gậy, nặng có thể chém đầu, cứ theo hình luật mà giữ phép nước. Đã thế, làm gì có kẻ mọt sách nào dám lấy vài bồ chữ mà giỡn cợt ngươi. Ta cất nhắc ngươi không phải chỉ do yêu vì ngươi. Đã có hai tên quan tiền nhiệm trước ngươi bị biếm truất làm thứ dân do nhận vàng của một gã phú hào để chuyển từ án giết người sang tha bổng rồi đổ tội cho kẻ khác. Than ôi! Trị nước khó thay. Ta có vô số những chiến binh dũng mãnh, sẵn sàng xông pha nơi mũi tên hòn đạn, đứng trước hiểm họa da ngựa bọc thây chẳng từ nan. Vậy mà tìm được một kẻ làm chức Đô hộ phủ ngục tụng sao khó đến vậy!
Thế là Phụ Quốc nhậm chức Đô hộ phủ ngục tụng. Những ngày đầu, ông ta buồn chán, thờng trốn ra bờ sông Cái, ngắm những ngư dân buông chèo thả lưới trên sông cho đỡ nhớ nghề, lắm khi nước mắt chảy ròng ròng trên má. Bọn thư lại thường phải đi tìm, lựa lời khuyên giải.
Được ba tháng, Phụ Quốc không ra sông nữa, dần quen công việc, quen với chiếc án thư sơn son thiếp vàng và biết sai bảo lính tráng, kẻ hầu người hạ. Tại chức được hai năm, Phụ Quốc có thêm ba trăm mu ruộng tốt. Được bốn năm, ông ta thay ngôi nhà đang ở bằng một biệt lâu lộng lẫy, có hào nước cắm chông bao quanh, có quân lính cung nỏ tua tủa đứng gác . Lối dẫn vào biệt lâu là một chiếc cu ghép bằng đá hoa cương màu đỏ. Trong nhà, tầng trên nuôi con hát, tầng hầm nhốt những kẻ tội đồ.
Trong đám lính canh có đứa nhẹ miệng kể rằng, ban ngày, trước cửa công đường của quan Đô hộ phủ nườm nượp người nghèo hèn áo vá đến kêu oan. Kêu thì có kêu nhưng oan thì không thấy giải được. Quan Đô hộ chưa nghe tâu bày đã quát tháo. Có kẻ yếu bóng vía sợ vỡ mật mà chết. Kẻ nào khôn ngoan hơn muốn mau được xét đơn, phải ngầm đút lót cho lũ thư lại. Những kẻ có máu mặt thì không đến ban ngày. Đêm đêm, ngựa xe nườm nượp đến viếng thăm biệt lâu. Chủ nhà ngồi xổm, mười ngón chân như móng chân con gà đang đậu trên cành, quặp lấy mép chiếc đệm da cáo trên chiếc kỷ cẩn vàng trong nhà, nghe tiếng chân bước trên cầu đá mà định lễ đón khách .
Khách, trước khi đến, đã tìm biết tường tận sở thích của chủ. Trong nhiều món lễ vật, nhất thiết phải có con gà chọi thiện chiến. Một đôi gà chọi thiện chiến có thể ân giảm được một năm tù cho người thân của khách. Trong ba năm Phụ Quốc làm Đô hộ phủ ngục tụng, giá gà chọi trong kinh thành tăng vọt. Ông ta kén tới mười kẻ thạo việc chuyên chăm sóc và luyện gà chọi sao cho mỗi trận chọi nhau là một cuộc huyết chiến. Khách đến nhờ cậy thường lấy cớ muốn đến xem chọi gà, ở lại với gia chủ, lặng lẽ đặt vào chiếc đĩa vàng của ông ta một hạt trân châu hoặc một vài thoi vàng. Hôm nào gà chọi hay, chủ cao hứng bày tiệc thết khách, cho con hát múa may uốn lượn làm trò vui. Khách cao hứng, có thể chọn con hát mà ngủ lại, miễn là biết điều lặng lẽ để thêm lễ vật vào chiếc đĩa vàng. Nhưng hôm nào gà chọi dở, Phụ Quốc tức gin
gầm thét, hồng hộc lao xuống tầng hầm nhốt những kẻ bị tội, trở ngược cán giáo đánh đến nát lưng cho hả giận. Đôi khi, xác những kẻ xấu số được ngầm đưa ra quẳng xuống sông Cái vào lúc nửa đêm để phi tang.
Việc Phụ Quốc c nhà nuôi con hát, chuồng lớn nuôi gà chọi, tự tiện giết người , cả thiên hạ đồn thổi, nhiều quan lại trong triều biết, trong lòng tức giận nhưng biết vua yêu vì Phụ Quốn nên không dám tố giác. Phụ Quốc thả sức ăn chơi, giàu có ức vạn, mỗi khi tra xét một vụ oan án thì lại gieo tiếp những oan án khác. Nếu không vì một kẻ thuộc hạ, vốn được Phụ Quốc giao trông coi hầm nhốt người, do b chủ phạt đánh đòn mà chạy ra tố cáo với Thái sư Lý Đạo Thành, Phụ Quốc sẽ vẫn còn được yên lành. Lý Đạo Thành nghe, thất kinh mà nói" Ta đã đoan chắc rằng gã đánh cá này không đảm đương nổi. Nhưng lại đổ đốn đến mức này ư?". Lý Đạo Thành cải trang đi dò biết thực hư, rồi cấp cấp vào triều tâu vua:
- Bệ hạ ! Đánh trận có thể chỉ cần dũng mãnh. Nhưng việc tra xét án đồ, định danh tội trạng thì phải là những kẻ có học, có liêm có chính. Viên tướng lập công trong trận mạc năm xưa, bây giờ tối tăm mặt mũi với uy quyền, đã trở thành yêu quái. Nếu bệ hạ không mau mau ra tay trừng phạt, e rằng nghiệp lớn của nhà Lý ta sẽ bị lung lay vì những kẻ càn rỡ như Phụ Quốc...
Vua cau mày, tỏ vẻ không thích, nhưng biết nghe lời phải của Thái sư. Sáng hôm sau liền dẫn một đoàn tuỳ tùng đến biệt lâu tra xét, thấy cái lầu nuôi con hát và dãy chuồng chạm trổ bằng g lim nhốt tới vài trăm con gà chọi thì đùng đùng nổi giận, cho đập phá biệt lâu, thả hết gà chọi, thích chữ trên mặt các con hát rồi trả về các lầu xanh. Phụ Quốc bị biếm truất đi làm lính canh áp giải những kẻ tội đồ bị đày lên châu Quảng Uyên .
Cái hoạ bất ngờ của người tiền nhiệm lại khiến Trần Dĩnh được thăng trật trước niên hạn, được chuyển về nội kinh. Vốn dòng dõi thi thư nho nhã, Trần Dĩnh đã đọc nhiều sách, tốn nhiều bút mực viết những áng hùng văn nhiệt huyết bàn luận về cái đức và hành xử cuả một bậc chính nhân quân tử. Khi đương chức tại hạt Hải Dương, ông từng thẳng tay trừng trị nhiều kẻ cường hào ác bá cậy quyền cậy thế ức hiếp dân lành. Nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, Trần Dĩnh được bệ rồng biết đến và được vời về kinh nhậm chức Đô hộ phủ ngục tụng vừa khuyết. Trần Dĩnh nghĩ rằng đó là một cách đấng chí tôn tưởng thưởng cho sự trung chính của ông. Khi được vua vời vào triều để ban chức, Trần Dĩnh vô cùng phấn chấn, ngửa mặt lên trời xanh :
- Thân này xin được trọn đời làm khuyển mã, mong lấy gan óc lầy đất để trả lại sự công bằng cho đám lê dân.
Nghỉ ngơi vài ngày, thu xếp chỗ cư ngụ cho tư gia, Trần Dĩnh ra công đường.
Trên chiếc án thư, một chồng đơn chất ngất phủ bụi, cao ngang mày đang náu mình chờ ngài tự bao giờ. Ngài cau trán. Chẳng lẽ ở chốn gần mặt trời mà cũng có nhiều nỗi uẩn khúc oan khiên thế này ? Ngài lướt đôi mắt sắc sảo ra ngoài cửa quan. Một dẫy người đứng ngồi lổm ngổm, đa phần là quần nâu áo cộc tím tái trong tiết trời ẩm lạnh và cn mưa phùn lay phay của độ lập xuân. Chỉ còn thấy cặp mắt quầng thâm tụt vào trong hốc mắt trên những gương mặt xanh xao má hóp đang khắc khoải nhìn vào chốn công đường.
Quan Đô hộ phủ ngục tụng vươn người nhìn cho rõ hơn. Đứng đầu đám thứ dân kia lại là một thư sinh. Gương mặt tuấn tú của chàng trai khuất một
phần dưới chic khăn ngang. Sợi dây chuối thắt ngang lưng áo sô gai. Tay chàng đỡ một người đàn bà. Nhưng kỳ lạ là người đàn bà này đầu đội khăn tang mà mình lại mặc áo cưới. Là kẻ điên hay người tỉnh ?
Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh lật từng tờ đơn theo thứ tự từ trên xuống dưới, soi tên từng nguyên đơn. Ngài thở dài. Lại vẫn giống như ở hạt Hải Dương, chín phần mười số đơn là kiện cáo chuyện cường hào ác bá quan lại cậy quyền ỷ thế chiếm ruộng cướp trâu cưỡng đoạt con gái nhà lành.
Trong vô số những lá đơn, ngài để ý đến một xấp mười hai lá đơn của cựu Tăng đ án Từ Vinh khiếu tố lên đấng cửu trùng về việc Diên Thành hầu cưỡng chiếm hơn hai trăm mẫu đất của nhà chùa và dân vỡ hoang phía bắc hồ Dâm Đàm, cận kề ngay cửa ngõ kinh thành. Ngài chú ý thy ở góc mười hai lá đơn đó đều có dấu khuyên của cựu Đô hộ phủ ngục tụng Phụ Quốc với chữ đề " Hồi</I> ! ". Quan tân Đô hộ phủ ngục tụng sửng sốt quay hỏi người thư lại đứng hầu bên bàn :
- Nhà ngươi có tường tận vụ này không ?
Viên thư lại ý tứ :
- Dạ bẩm...Xin thượng quan tha tội..Chẳng lẽ ngài không hay biết g về chuyện cái thây dựng đứng ba ngày đêm trước cửa lầu Diên Thành hầu ?
- A...ta có nghe . Tăng đô án Từ Vinh là thầy ta. Thầy ta chết tức tưởi ...Nhưng có liên quan gì đến việc này ?
Trần Dnh đặt bàn tay lên chồng đơn tố giác mang tên cựu Tăng đô án Từ vinh. Ngài như cảm thấy những nét chữ cứng cỏi của người đã khuất xôn xao nhồn nhột dưới bàn tay.
- Thưa...Người đã chết thì dẫu có minh oan cũng chỉ để cho giun dế dưới mồ nghe tiếng. Xin ngài cẩn trọng. Vợ con cựu Tăng đô án Từ Vinh đang đội đơn đứng chờ ngoài kia đã ba ngày nay.
Trần Dĩnh giật nảy người :
- Đu ? Tại sao nhà ngươi không nói trước. Mau cho mời vào !
Viên thư lại thong thả bước đến trước mặt Từ Lộ và Từ Vinh phu nhân, khoát tay ra dấu mời vào.
Từ Lộ dìu mẹ vào công đường, chắp tay thi lễ trước mặt tân quan Đô hộ phủ ngục tụng.
Trần Dĩnh lật đật đứng dậy, bước tới đỡ Từ Vinh phu nhân:
- Hạ quan từ hạt khác được thánh thượng gia ân cho chuyển về kinh thành nên không hay biết phu nhân và công tử hạ cố tới công đường. Xin thứ cho hạ quan tội thất lễ ! Hạ quan xưa là học trò của cố quan Tăng đô án vừa sớm xa chơi nơi cực lạc. Nghĩa thầy trò thiêng liêng bền chặt, hạ quan không bao giờ quên...
Trần Dĩnh đưa tay áo thụng gạt nước mắt.
Từ Lộ nhìn quanh. Chàng không ngờ có ngày mình lại phải bước tới chốn này. Chồng đơn cao chất ngất trên chiếc án thư lầm lì giữa công đường và những lính hầu câm lặng mặt sắt lại cùng những đồ nghi vệ sáng choang đủ sức làm khiếp vía bất kỳ kẻ nào không may mắn đã đặt chân đến đây.
Từ Lộ nhớ, tại phủ Tăng đô án của cha chàng trước đây, có lần vãn việc, hai cha con từng ngồi trò chuyện. Lúc cao hứng, cha còn bảo chàng tấu lên vài điệu sáo. Nghe tiếng sáo của chàng, có lần ông nói : " Được. Nhưng tiếc
rằng thanh âm chưa tròn đầy. Còn chút uỷ mị. Phần âm quá dầy mà phần dương lại mỏng. Con ta còn cần gắng sức. Xưa nay phàm con người ta yêu thích điều gì thì lượng mạnh yếu, mỏng dầy của điều đó cũng thường vận vào số phận của kẻ đa đoan...".
Chàng nhớ, lúc đó, khi lời cha vừa dứt, một cơn gió nửa nóng nửa lạnh bỗng từ đâu thổi tới, mang mùi hăng tanh của dòng nước tù đọng khiến chàng rùng mình. Chàng hỏi:
- Thưa cha! Gần đây, cha có điều gì không vui chăng?
Cha chàng cố nở một nụ cười, mép ông hằn những vết nhăn chua chát:
- Con ta quả là tinh mắt. Trong những ngày này , ta thấy buồn nản r rời!
Từ ngạc nhiên:
- Vì sao, thưa cha? Cha làm Tăng đô án, cai quản ngàn vạn tăng ni. Đức vua sùng Phật. Cả nước cũng sùng đạo. Cha được trọng vọng, phúc lộc vua ban đủ chi dùng dồi dào...
Cha chàng ngắt lời:
- Con nói phải. Ta làm Tăng đô án. Kể ra thì đắc thời. Mấy chục năm nay, các đế vương triều Lý ai cũng dốc lòng thờ Phật. đức Thái tổ xưa, mới lên ngôi hai năm đã cho dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, trùng tu chùa quán ở các lộ , riêng ở kinh sư đã độ cho làm tăng tới cả ngàn người. Tới thời vua Thái tông, Thánh tông và đương kim hoàng thượng ta, chùa quán càng được xây đắp bồi bổ nhiều khôn xiết.
Mắt sáng rực, Từ hớn hở tiếp lời:
- Vâng, thưa cha, sử sách ghi lại, từ thời đức Thái tổ mới lập nghiệp, đã có tới gần nửa dân đi làm sư sãi...
Từ Vinh xua tay, lắc đầu chán ngán:
- Phải. Đám dân chúng khoẻ mạnh còn lại không làm sư thì đi lính. Bao nhiêu tiền của sức dân đều được vét sạch để xây chùa quán, nuôi sư sãi, nuôi quân và chế tác khí giới đánh giặc . Ngay trong đám tăng đạo cũng có nhiều kẻ đục nước béo cò, lời dụng thời thế, tín ngưỡng của dân mà tranh thủ trục lợi," miệng Nam mô bụng bồ dao găm", lại chia bè phái, dùng tà đạo để ám hại lẫn nhau. Ta thấy nhục nhã vì không trừ diệt được tính tham ác ngay trong đám tăng lữ mà ta cai quản. Đã thế, mỗi lần bê bát cơm lên ăn, ta như nghe thấy tiếng nói vẳng lên từ đáy bát: " Chúng tôi đói! Chúng tôi đói!". Sao có thể không đắng miệng!
Từ đăm đăm nhìn cha. Từ lúc mới sinh ra, được cha mẹ nâng niu chiều chuộng, mọi thứ đều có sẵn, chàng không bao giờ biết đến nỗi khổ sở của đám lê dân ngoaì kia và bầu tâm sự của cha.
Cha chàng lại nói:
- Càng ngày, ta càng thấy mình như kẻ sống thừa. Biết tất cả mà chẳng làm được gì cho thiên hạ. Chỉ một việc phải trái rõ như ban ngày mà viết đến mười hai lá đơn, gửi lên Đô hộ phủ ngục tụng và đức vua, những mong giúp vua phân định kẻ có tội, ngõ hầu yên dân, vỗ về xã tắc. Nào ngờ, những lá đơn rút từ máu huyết của ta lại gửi vào tay một kẻ chuyên lấy việc vét máu mỡ của dân làm trò tiêu khiển...
Cha bước ra khép cửa, buông mành. Gáy ông trĩu xuống dưới búi tóc đốm bạc ...
Ngồi trước công đường, mà giờ đây trước mắt Từ Lộ như đang đung đưa búi tóc bạc xơ xác vì buồn nản của cha. Nhìn mẹ, người đàn bà quý phái chỉ mới ba ngày sau khi cha mất đã rộc rạc hẳn đi, chỉ còn da bọc xương, cũng phải đội đơn quỳ trước công đường, trước mặt một đứa học trò cũ của chồng, Từ Lộ càng bội phần xót xa. Cái phận tôi đòi đội đơn thưa kiện này trước đây không dành cho mẹ con chàng.
Trần Dĩnh quát lính hầu pha trà nước mới, ân cần hỏi han sức khoẻ và gia cảnh mẹ con Từ Vinh phu nhân. Nhưng Từ Vinh phu nhân hầu như không nghe thấy gì. Đôi mắt bà nhìn về phía quan Đô hộ phủ ngụ tụng vừa sắc nhọn như ánh kim ánh thép, vừa xa vời, mờ ảo như có sương có khói. Giọng nói cũng nh vẳng lên từ một cõi sâu thẳm xa xôi nào :
- Thưa thượng quan ...Thượng quan mới chuyển về ngồi tại phủ này, nhưng chắc người cũng đã nghe biết nỗi oan khuất của gia đình chúng tôi. Mẹ con tôi ợi trước cửa ngài đã ba ngày nay...
*
* *</DIV>
Trần Dĩnh chong đèn ngồi trước án thư tới tận canh ba. Ngài đọc đi đọc lại mười hai lá đơn của Từ Vinh để lại trước đây và lá đơn mới viết ướt đẫm nước mắt mà mẹ con Từ Vinh phu nhân vừa đệ lên cách đây nửa tuần trăng. Cả hơn chục ngày nay, ngài đã cho sai nhân đi tra xét ngọn ngành mọi việc liên quan đến những điều được ghi rõ trong mười ba lá đơn.
Lúc này, cái chết oan nghiệt của Từ Vinh đã hiện lên rành rõ trước mặt ngài giữa những dòng chữ. Và tất cả đều gắn với một cái tên Diên Thành hầu. Quan Đô hộ phủ ngục tụng tự hỏi mình có nên tâu lên đấng cửu trùng về những tội ác của cha con Diên Thành hầu? Mười hai lá đơn của Từ Vinh đã bị người tiền nhiệm ách lại dưới bốn chân lầm bụi của án thư này. Không rõ trước đây Phụ Quốc đã đệ lên đức hoàng thượng chưa? Diên Thành hầu lại là hoàng thân, nếu ta tâu trình vạch tội, không biết hoàng thượng có muốn nghe? Nếu có nghe, không chắc ta đã thoát những ngón đòn hiểm của Diên Thành hầu. Cái chết của Từ Vinh là một tấm gương tày liếp. Diên Thành hầu giết Từ Vinh mà vẫn vô can, bởi ông ta mượn tay pháp sư Đại Điên.
Ba đêm liền, Trần Dĩnh băn khoăn tự hỏi. Nhìn thấy vợ và năm đứa con, ngài xót xa nghĩ, nếu ta có mệnh hệ gì, vợ con ta sống ra sao ? Làm vợ , làm con của một ông quan thanh liêm đã là khổ, nếu làm vợ goá con côi của một ông quan dám vuốt râu hùm, dám đụng đến thanh danh của hong tộc, lại càng nguy nan. Trứng chọi đá. Liệu ta có nên đẩy vợ con vào cái khổ nạn đó?
Nhưng đức hoàng thượng đưa ta từ hạt Hải Dương về đây, bổ ta giữ chức này, là bởi người biết ta xa nay luôn giữ được lòng trung thành ngay thẳng. Ta không thể phụ lòng người. Diên Thành hầu là hoàng thân quyền thế, Nhưng Đức hoàng thượng là bậc minh quân ân đức đã trùm thiên hạ.
Bây giờ, bit đâu với cái chết oan khốc của chính Tăng đô án Từ Vinh, lại là dịp những tấu thư này như một ánh chớp xé rách cái màn đen đặc sệt bao trùm, vượt qua tầng tầng phủ đệ mà lay động tới đấng cửu trùng ?
Trong lòng Trần Dĩnh bỗng ngùn ngụt cháy ngọn lửa chính trực. Hàng vạn dân đen con đỏ đang ngày đêm mòn con mắt trông đợi ngọn bút của ngài. Nếu phá được vụ án Diên Thành hầu, kỷ cương trong nước sẽ được lập lại. Những kẻ quan lại chuyên ức hiếp dân lành, toan dùng một bàn tay che khuất mặt trời sẽ lấy đó làm sự răn đe mà chùn tay. Rường mối quốc gia nhờ sự công bằng minh định thì mới được vững chãi. Trần Dĩnh như thấy trước mắt vong linh của người thầy đang ngậm oan đứng đỏ mắt chầu chực bên cổng địa ngục. Rưng rưng muốn khóc, lòng đầy cảm khái vì đất nước, Trần Dĩnh cả quyết với tay lên giá bút.
Trống điểm canh ba vừa dứt thì tờ tấu của quan Đô hộ phủ ngục tụng cũng vừa ro mực. Ngài tự tay cuộn tờ tấu lại, cẩn trọng cho vào ống quyển chờ sáng sớm mai sẽ giao cho thư lại chuyển lên Tam pháp ty để đệ trình đức vua Nhân tông. Trong lòng ngài nhẹ nhõm, khoan khoái, tưởng như cất được gánh nặng đè trĩu trên vai từ bấy lâu. Ngài tự hài lòng với mình, phóng bút viết một đại tự lớn , sai gia nhân lồng khung bạc, treo lên giữa công đường. Nét chữ đẹp như rồng bay phượng múa. Đó là chữ " tâm</I>".
*
* *
</DIV>
Giờ mão .
Quan đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh chưa tỉnh giấc thì đã có gia nhân vào bẩm có người của phủ Diên Thành hầu đang chờ trước cửa. Trần Dĩnh ngạc nhiên, hơi khó chịu, nghĩ " Bắt đầu rồi đây !". Diên Thành Hầu cho người đến sớm thế này làm gì nhỉ ? Hẳn rằng ông ta sẽ dùng uy lực doạ dẫm ? Lời nói của Diên Thành hầu là lời sấm lời sét giữa triều đình. Ông ta không những quyền cao tước lớn, mà còn là nội thân với đức đương kim hoàng thượng. Trần Dĩnh hơi lo, nhưng nghĩ lại, trước những cuộc duyệt quân ra trận, tại các hội thề, trước công đường, bao giờ đức vua cũng nêu cao năm đại tự : " Quân pháp bất vị thân". Hẳn rằng sau khi đọc biểu tấu của Đô hộ phủ ngục tụng, hoàng thượng sẽ có phán xét. Nghĩ thế, Đô hộ phủ Trần Dĩnh thong dong búi tóc sửa khăn rồi lệnh cho gia nhân mở cưả mời khách vào.
Khách là một người trạc tuổi trung niên, quần là áo lượt khăn nhiễu tím, thoạt nhìn cũng biết ngay là thuộc loại người chạy việc trong các phủ đệ lớn ở kinh thành. Khách mang theo hai lực sĩ mặc nhung phục,mặt mũi xấc xược, trên đầu mỗi người trĩu nặng một mâm đồng phủ nhiễu đỏ. Khách thong dong bước một, cười nửa miệng tiến đến trước mặt Trần Dĩnh. Ghé tai nói nhỏ :
- Quan Đô hộ phủ mới ến chưa tường mọi tục lệ của đất kinh thành. Diên Thành hầu chủ nhân sai tôi đến truyền lại với ngài đôi điều...
Trần Dĩnh không giấu nổi tức giận :
- Ta dù lạ nước lạ cái nhưng luật lệ triều chính thì ở nơi nào cũng vậy... Điều này, chí ít thì ta cũng đã được vỡ lòng trước khi dám chìa tay nhận ấn tín vua ban..
Không biến đổi sắc mặt, khách cười nhạt :
- Kẻ này dám dám đoan chắc với quan Đô hộ phủ rằng chỉ một tuần trăng nữa ngài sẽ lại nói khác...
- Khác cái gì ?- Trần Dĩnh dằn giọng.
- Sẽ khác !
Không mềm giọng, khách quay lại bảo hai lực sĩ:
- Bay đâu...Đặt lễ !
Hai lực sĩ nhất loạt đặt mâm lên án thư giữa nhà. Khách đủng đỉnh chỉ dùng hai ngón tay dài màu ngà voi xương xẩu gẩy nhẹ mảnh lụa điều phủ trên mâm. Trần Dĩnh giật mình, mắt nổ đom đóm. Vô số thoi vàng chói lọi bất ngờ hiện ra như phù phép. Cả đời ông chưa bao giờ trông thấy nhiều vàng đến như vậy. Những thoi vàng mượt óng, ngon lành, nằm hiền hoà như vô can trên mâm đồng. Năm gian nhà ngói, ba gian nhà ngang. Vài mươi mẫu ruộng. Tất cả tài sản của ông không chắc bằng một phần mười số vàng đang để trn mâm kia.
Khách dạng rộng hai chân, cứ đứng sừng sững ngắm quan tân Đô hộ phủ. Rồi nhìn tận mặt, nhếch mép cười nói :
- Có khi nào quan Đô hộ phủ tự hỏi, nhờ đâu mà đấng Cửu trùng biết tới ngài. Nhờ đâu mà ngài từ hạt Hải Dương xa xôi hẻo lánh lại bỗng được về ngồi tại phủ Đô hộ cao rộng nhường này giữa đất kinh k ? Diên Thành hầu chủ nhân tôi còn mong được che chở cho quan ngài về sau. Hoạn lộ còn dài...! Chỉ lưu ý ngài một điều : Ngài được tiếng là thanh liêm, thường ra tay cứu giúp lê dân. Nhưng, xin hãy ngẫm cho kỹ. Dân đen chỉ là cây cỏ. Khi gặp mưa to gió lớn, cây cỏ thấp lùn không bao giờ làm được chỗ tựa cho một bậc quân tử. Ngài là cây lớn. Cây đừng tưởng lớn mà không có ngày đứt rễ. Cy muốn sống, phải dựa vào tường chắn gió. Vậy, Diên Thành hầu chủ nhân tôi chính là bức tường ấy đấy...
Không chào, khách khoát cửa tay áo lụa bước nhanh ra ngoài.
Quan Đô hộ phủ giận dữ gọi với theo. Nhưng khách cứ rảo bước không ngoái lại. Trần Dĩnh nổi trận lôi đình chỉ tay vào mặt hai gã lực sĩ vẫn còn đang đứng đó :
- Mang ngay vàng này đi cho khuất mắt ta !
Hai gã lực sĩ không thèm ngước nhìn Trần Dĩnh, mặt càng lầm lì. Gã bên tả bước lên một bước, tay nhặt chiếc khăn lụa đỏ vừa đậy trên mâm vàng. Chỉ thấy giải khăn bay loang loáng hoa cả mắt. Trong tay gã, chiếc khăn đã biến thành một giải thòng lọng. Gã lại khinh khỉnh đặt sợi thòng lọng lụa đỏ lên mâm vàng. Trước khi bước qua bậc cửa, gã còn quay lại cười khẩy, lướt ánh mắt sắc như lưỡi đao qua khuôn mặt đỏ phừng và đôi bàn tay run rẩy của quan Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh.
*
* *
</DIV>
Mười ngày sau.
Trát của phủ Đô hộ ngục tụng về nhà Từ Lộ vào chạng vạng tối.
Mẹ con Từ Lộ đang ngồi trước mâm cơm. Trên bàn thờ Từ Vinh những chân hương đang cháy đỏ. Bát cơm quả trứng đặt chênh vênh trên đôi đũa tre cắm chéo. Món quà muôn thuở cho người đã khuất hắt lên ánh sáng mờ đục lạnh lẽo khiến cho ngôi nhà càng thêm âm u tang tóc.
Từ Vinh phu nhân hồi hộp nhận tờ trát từ tay người lính phủ. Vừa đọc được những dòng đầu tiên, phu nhân lẩy bẩy quay nhìn lên bàn thờ chồng. Một khắc lặng lẽ trôi qua. Đột nhiên phu nhân nấc nhẹ lên một tiếng từ trong đáy cùng của cổ họng ri toàn thân bà đổ vật xuống trước bàn thờ chồng.
Từ Lộ hoảng hốt một tay đỡ lưng mẹ một tay nhặt tờ trát. Những dòng chữ lạnh lùng tàn nhẫn cũng làm chàng sa sẩm mặt mày không kém. Quan Đô hộ phủ ngục tụng xuống trát rằng đã tra xét đơn của mẹ con chàng. Mẹ con chàng bị khép vào tội vu cáo cho nhà Diên thành hầu. Tội nặng đáng phải nghiêm trị. Nhưng vì xét công lao của Tăng đô án Từ Vinh đã khuất bóng nên vợ con được miễn hình ngục. Chỉ bị cách xuống làm thứ dân và bị tịch biên gia sản .
Từ Lộ ngước nhìn . Những tia nắng vàng vọt cuối cùng của hoàng hôn dọi vào bàn thờ thanh một đám đỏ như máu, khẽ run rẩy rồi lụi tắt. Chuông thu không thong thả nhểu từng giọt buốt lạnh vào thinh không. Ngoài ngõ quan quân và chức dịch lăm lăm roi vọt giáo mác đi lại rậm rịch như đàn voi ngựa. Đằng sau những chiếc xe quây cót lớn chờ tịch biên gia sản nhà chàng, ngất nghểu bóng áo tía diêm dúa và nụ cười đắc ý của Lý Câu trên chiếc song mã mỹ miều đã đạp nát chiếc đèn lồng " Mỹ nhân" trên cầu Tây Dương trong đêm Nguyên tiêu.
Trên tay Từ Lộ, mẹ chàng trút hơi thở cuối cùng.</DIV><!-- / message --><!-- sig -->
Chương thứ :4 "
Không mưa. Không mây. Giao trì yến.
Từng cánh bích đào rụng lạng hoàng kim điện
Rèm châu nửa cuốn hương trời</I></DIV>
</I></DIV>
</DIV>
Khúc nhạc nổi tiếng thường được tấu lên trong cung của Hoàng đế nhà Tống rộn ràng ngân trên những còn đường đất l chỗ vết chân trâu bên bờ sông Nhuệ. Tiếng kèn, tiếng tỳ bà, tiếng ngũ huyền cầm, tiếng đàn tranh réo rắt pha lẫn tiếng sênh rộn ràng làm náo động cả một vùng. Trên con đường dẫn vào làng Nha Thượng bên bờ sống Nhuệ nước sông in bóng một đoàn người xiêm áo sặc sỡ rồng rắn kéo nhau đi làm đỏ cả một khúc sông. Dẫn đầu đoàn người là ông mai bà mối áo vóc hồng miệng bỏm bẻm nhai trầu mắt lúng liếng như người trong cơn say. Tay ông mai bà mối nâng một giải lụa hồng bay phất phơ trong gió xuân. Mười hai cô gái thanh tân môi hồng đào răng đen nhức áo tứ thân cổ viền trắng uyển chuyển đội trên đầu mười hai cỗ quả sơn son thiếp vàng. Những mái tóc buộc túm cao trên đỉnh đu cài trâm sừng trạm bạc hình chim phượng khiến đuôi tóc xoè ra như những đuôi công. Họ bước đi như múa trong tiếng nhạc thảy ra từ ngón tay của mười hai nhạc công trong giáo phường đang mải miết búng trên đàn sáo. Gío rung rặng ổi ven sông Nhuệ rắc những cành hoa trắng muốt của mùa xuân trên vai trên tóc đoàn người.
Công tử Lý Câu xuống ngựa. Hai tiểu đồng để tóc trái đào cúi khom lưng nhấc vạt áo thụng xanh chùng quết đất để lộ dáng hài mũi cong có đính những hạt minh châu màu hồng. Một tiểu đồng áo đỏ đang đứng đằng sau vội bước lên phía trước, hấp tấp quỳ dâng trưc mặt công tử một bộ điếu bát khảm vàng với chiếc điếu là đoạn trúc ngà cong vút. Một tay tựa vai tiểu đồng một tay Lý Câu xoè ra vít ống điếu. Tiểu đồng tra thuốc lào vào nõ điếu rồi quay mặt che người chắn gió thận trọng kéo bùi nhùi châm lửa. Lửa từ chiếc đóm vừa bén vào dúm thuốc lào vàng rộm, Lý Câu ghé miệng ngậm lấy ống điếu rồi chúm môi như trẻ con mút vú mẹ. Tiếng rít qua nõ điếu tanh tách vang giòn. Lý Câu khoan khoái vươn cổ ngửa mặt lên trời. Từng cụm khói màu trắng nối nhau phun ra khỏi miệng công tử. Một chén ngọc nước chè mạn đã được tiểu đồng rót sẵn trên tay tiểu đồng để công tử chiêu cho ngọt giọng.
Xong đâu đấy, công tử oai nghiêm phất tay áo rộng. Đàn sáo lại vang lừng. Đoàn người sặc sỡ nối nhau nhịp nhàng chuyển bước. Trao dây cương cho tên lính hộ vệ, Lý Câu xênh xang nhập vào đoàn người, đi cùng ông bà mai mối. Theo sau Lý Câu có bốn tiểu đồng khác lặc lè khiêng một thúng tiền đồng. Kèm bên thúng tiền là một bà già tóc bạc da hồng, mặt mũi phúc hậu, môi ăn trầu cắn chỉ, cứ hai mươi mốt bước lại sục tay vào vốc một nắm tiền tung hú hoạ lên đầu đám người hiếu kỳ kéo ra xem đông nghịt ven sông. Người lớn reo hò la hét tranh nhau nhặt tiền. Cứ mỗi lần như vậy, trên mặt Lý Câu lại giãn nở một nụ cười tự đắc.
... Mây xuân cùng trúc lẻ
Mềm mại hẹn cùng Tiêu Hán
Má hồng ngất ngây thanh thản...
</I>
Từ trong nhà, quan Ngũ phẩm Tôn Trinh đã vẳng nghe tiếng đàn sáo rộn ràng từ xa vọng tới. Ông chậm rãi leo lên lầu ngóng đợi đoàn người đang đến làm lễ Đại đăng khoa cho Lý Câu và Nhuệ Anh con gái yêu của ông.
Ký ức những ngày qua dồn đập đổ về khiến lòng ông chua xót.
*
**
Bạn đồng liêu là Tăng đô án Từ Vinh bị người hại chết trong đêm Nguyên tiêu. Tôn Trinh buồn đau, bối rối. Nỗi oan trái của nhà Tăng đô án giáng lên đầu mẹ con Từ Lộ khiến cho tương lai tưởng đã rạng ngời của Nhuệ Anh bỗng sập tối như bị một đám mây đen phũ phàng che kín. Gia thế họ Từ không hẳn vào hàng đại phú nhưng nề nếp gia thư danh giá nổi tiếng khắp đất kinh kỳ, mà chỉ trong chưa đầy một tuần trăng đã tan nát. Bao nhiêu tài sản quý giá từ thời ông cha để lại nay như có chân chạy về nhà Diên Thành hầu và lũ tay chân nha lại. Từ Vinh phu nhân lìa đời. Từ Lộ bị khép tội vu oan giá hoạ cho hoàng thân nhất đẳng công thần Diên Thành hầu. Tội đáng xử trảm. May được ân vua mở lòng khoan thứ nên mới thoát chết. Không biết Từ công tử phiêu bạt nơi đâu. Nghĩ đến tình bạn và lời hẹn ước cũ, Tôn Trinh đã cho người bí mật đi dò tìm tông tích mong có thể giúp đỡ được phần nào chàng trai lúc hoạn nạn. Những người biết Từ Lộ đều quả quyết là chàng không đi đâu ra khỏi kinh thành. Tai hoạ giáng xuống, lòng quá đau đớn phẫn uất nên Từ chủ tâm lánh mặt mọi người mà thôi. Nhuệ Anh, sau khi Từ Lộ bỏ đi không thiết ăn uống, suốt ngày than khóc, ban đêm giam mình trong thư phòng với những vần thơ sầu oán bạc mệnh... Giữa lúc đó Diên Thành hầu sai người đến đánh tiếng mai mối Nhuệ Anh cho công tử Lý Câu.
Tôn Trinh chẳng ưa gì Lý Câu. Diên Thành hầu là bậc quyền thế thiên hạ, lời sấm giọng sét chỉ sau đấng chí tôn nhưng người kinh thành ai chẳng có lần truyền tai nhau về những điều mờ ám mà cha con ông ta đã làm. Chuyện cái thây Từ Vinh bỗng dưng trôi ngược trên sông, dựng đứng ba ngày ba đêm, tay cứ chỉ thẳng vào nhà Diên Thành hầu đã ám ánh Tôn Trinh. Đêm ông không ngủ, tâm trí không thoát ra được câu chuyện oan khốc nhà Từ Vinh. Ông ngờ vực mối liên quan giữa Diên Thành hầu và cái chết tức tưởi của người bạn đồng liêu. Ông biết Từ Vinh từng dâng lên đấng cửu trùng những tờ tấu tố cáo tội lỗi của cha con Diên Thành hầu, vì được che chở nên nên cha con nhà này vẫn vô sự. Công tử Lý Câu cũng không thèm giấu giếm sự tức tối và nhiều lần cho người giở giọng doạ cha con ông sau khi Nhuệ Anh khước từ lời cầu hôn của hắn, chỉ một mực trao duyên gửi phận cho Từ Lộ. Tai tiếng của công tử Lý Câu đã danh khắp đất này. Chưa qua hai mươi tuổi mà trong nhà công tử Câu đã nuôi một lũ nàng hầu con hát lả lướt khêu gợi đủ vẻ. Ấy thế mà ra đường gặp con gái nhà lành mặt mũi tươi tắn là lập tức cho gia nhân túm tóc lôi tay đưa về dinh thự ép chuyện mây mưa rồi mới thả. Nếu không phải là quý tử của Diên Thành hầu, hẳn giờ này Lý Câu đã nằm rũ trong lao kinh nội.
Trước đây, khi mai mối đến ngỏ lời dạm hỏi, Tôn Trinh đã uốn lưỡi khéo chối. Nại cớ tuổi Nhuệ Anh còn ít, nhà lại chỉ có một gái, nên chưa muốn xa con. Những tưởng khi mai mối ra khỏi cửa là chuyện đã xong. Nhưng tới tuần trăng sau, vào dịp tết hoa n ngày rằm tháng Hai, bỗng có người khiếng đến đặt trước sân nhà ông một chiếc quả lớn đựng đầy trầu cau bánh trái thượng hạng. Hỏi ra là gia nhân trong phủ Diên Thành hầu theo lệnh công tử L Câu mang quà Tết đến. Vợ chồng Tôn Trinh chưa kịp nói câu nào, lũ gia nhân nhà Diên Thành hầu đã lặng lẽ rút đòn khiêng, kéo nhau mất biến suo dậu tre ngà đầu ngõ. Thế là ván đã đóng thuyền, mặc dù Nhuệ Anh lăn lộn khóc lóc một mực xăm xăm đòi trả trầu cau. Nhuệ Anh và cô hầu gái xoã tóc, mt mày không điểm trang, cố tình ăn mặc rách rưới lê lết khiêng chiếc quả ra đến đầu ngõ toan mang đi trả. Đón nàng đầu ngõ là ngũ phẩm phu nhân tay cầm con dao cau sắc như nước:
- Nhuệ Anh! Cứ mang mâm trầu đi. Nhưng hày dùng dao này đâm cổ mẹ trước đã.
Nhuệ Anh dừng sững lại. Mẹ nàng vật mình khóc:
- Dù con có hứa hôn với công tử Từ Lộ nhưng bỗng dưng nhà có trọng tội với triều đình. Nhà cửa tan nát. Vị hôn phu của con thì biệt tăm tích không lời nhắn gửi, không biết sống chết ra sao. Nếu nó có lòng với con, ít ra cũng phải có lời từ biệt... Nay công tử Lý Câu cũng là người khôi ngô, con nhà danh giá. Con gái có thì... Chuyện ăn chơi đối với đám công tử con nhà quyền thế như vậy âu cũng là lẽ thường tình. Đàn bà là phận tôi mọi, nếu để bụng chuyện ấy thì không sống nổi đâu con ạ. Con không thấy đó sao, ở kinh thành này đã bao nhà tan nát vì trái ý Diên Thành hầu... Cha mẹ sinh con ra chưa mong con báo đáp điều gì... Nay chỉ xin con... đừng đang tâm hãm hại cha con vào vòng lao khổ...
Dứt lời, bà mẹ lùi mấy bước, quì thụp xuống, hai tay chắp lại vái sống về phía con gái.
Nhuệ Anh rụng rời. Chân nàng dính chặt xuống mặt đất. Rồi không nói một lời, Nhuệ Anh buông mâm lễ vật. Chiếc mâm đồng rơi xoảng và những tấm bánh, buồng cau lăn lóc tung toé trước ngõ. Nhuệ Anh cắn vào môi bật máu. Từng bước câm lặng, nàng giẫm lên la liệt trầu cau, bánh trái, rồi như một cái xác không hồn lặng lẽ trở vào buồng.
Nửa đêm hôm đó, Nhuệ Anh mặc áo cánh ngắn, tóc vận gọn cài trâm gỗ, bó rơm vào đế giày để chân đi không phát ra tiếng động. Nàng rón rén bước qua mình cô hầu thân tín đang ngủ mê kêu ú ớ, nhẹ bước như một con mèo lẹ làng ra khỏi nhà. Băng mình qua đêm tối, quên cả sợ hãi, Nhuệ Anh đi tìm Từ Lộ. Nhiều người đn rằng Từ đã bị pháp sư ĐẠI ĐIÊN dùng bùa phép giết chết. Riêng Nhuệ Anh biết chỗ chàng ẩn náu. Cái am nhỏ thờ thần đất ấy nằm bên cạnh bờ sông gần cầu Quyết nhưng đã nhiều năm không hương khói mà thành hoang phế, chung quanh là cánh rừng rậm rịt những tầng mây gai tối sẫm, lại thêm tiếng kẽo kẹt ghê người phát ra từ những thân tre khô xác cọ vào nhau mỗi khi gió thổi khiến người bạo gan cũng sởn gai ốc. Chốn ấy hầu như không có ai đặt chân tới. Tiết Thanh minh năm ngoái, nàng và Từ trốn cha mẹ, lựa lúc cô hầu gái và lão bộc đang mải xem thiên hạ lễ bái tảo mộ, mới rủ nhau lẻn đi chơi. Hai người mải mê trò chuyện, không nhận ra mình đã lạc bước tới tận cầu Quyết, lạc tới cửa miếu hoang. Nhuệ Anh nhìn bụi cây dày đặc, thấy trời sắp tối, lại lo về muộn, cha quở mắng, oà lên khóc. Nàng càng khóc, Từ Lộ càng hoảng hốt, vừa dỗ dành vừa loanh quanh mãi không tìm thấy đường về. Mãi sau, lão bộc sốt ruột chạy bổ đi tìm, may mới đón được họ.
Tai hoạ xẩy ra, Từ mất tích. Bằng linh cảm, nàng luôn cảm thấy chàng đang sống, đang ở đâu đây, rất gần. Sau nhiều lần cho gia nhân lùng sục dò tìm, nàng bí mật ăn mặc như một người hái củi tha thẩn khắp nới. Tay vờ nhặt củi khô mà mắt thì sục sạo dõi tìm. Cuối cùng Nhuệ Anh tới ngôi miếu thổ thần hoang phế bên sông.
Trong miếu, giữa tấm thân rỗng của bức tượng thổ thần mà mối đã ăn mất một bên chân, Từ đang ẩn náu, tím ruột bầm gan tìm kế trả thù. Chàng đã thành một ngưi khác. Không còn dấu vết gì của chàng trai hào hoa phong nhã nồng nàn. Gương mặt tuấn tủ yêu dấu ngày nào nay xanh tái. Đôi mắt dịu dàng tình tứ trước đây nay như bốc lửa dưới đôi mày rậm. Nhiu lúc đang nói chuyện cùng nàng mà cái nhìncủa Từ như đặt vào khoảng không. Trong con ngươi của đôi mắt rừng rực ấy loé lên một ngọn lửa man dại.
Nhuệ Anh biết, trong lòng chàng giờ đây chỉ có hận thù. Chàng nghĩ đến cái chết oan khiên của song thân. Nỗi đau của Từ như một thứ phong thấp nhập tâm phế. Nó khiến chàng câm lặng, ngày đêm nung nấu trong trí não một điều gì ghê gớm. Cháy ruột vì thương xót, Nhuệ Anh vẫn không khỏi chạnh lòng khi hiểu rằng với Từ, nàng không phải là tất cả của chàng, ngự trị trọn vẹn trái tim chàng như trước đây nàng đã lầm tưởng. Bây giờ nàng mới hiểu rằng trong con người Từ có một mảng tối mà nàng không hiểu và không thể với tới. Vẻ lặng lẽ u uẩn của Từ như muốn xua đuổi Nhuệ Anh. Nước mắt ròng ròng, tim đau như xé, chiều đ muộn, Từ vẫn ngồi cắn môi bật máu, cố không nhìn nàng. Nàng đành nín lặng ra về. Ngắm những vệt gai cào trên má in rõ mồn một trong tấm gưng đồng treo đầu giường, Nhuệ Anh đổ vật xuống giường, ôm mặt khóc nức nở. Khi chiếc gối ướt đẫm nước mắt phả vào mặt nàng một mùi mặn lành lạnh, nàng như người sực tỉnh, đứng vụt dy, giật đứt tấm lụa màu thiên thanh đang dệt dở trên khung cửi trùm kín chiếc gương đồng. Những vuông lụa dệt dở rủ xuống xơ xác như khăn tang,
Đêm rằm tháng Hai, Nhuệ Anh lần đến được ngi miếu thì trống trên chòi điểm canh ba. Bụi cây đen ngòm quanh miếu khiến nàng chợn rợn như có bóng người rình rập. Trong bụi tre gai kẽo kẹt tiếng quỷ đưa võng. Giữa trời le lói vài ngôi sao nhợt nhạt. Tiếng chim lợn bay ngang qua đầu kêu "éc..éc..!" như đánh rơi những điềm gở. Vầng ngực của Nhuệ Anh thốt đau nhói vì sợ hãi. Nàng quay ngoắt ra phía sau. Không có gì đáng nghi ngại. Nhuệ Anhn vững dạ hơn chút ít. Nàng thận trọng gõ lên cánh cửa ọp ẹp của ngôi miếu ba tiếng khoan ba tiếng nhặt. Đó là ám hiệu mà nàng đã dặn Từ Lộ. Bên trong vẫn im ắng. Nhuệ Anh lặp lại ám hiệu thêm hai ln nữa, trong lòng rối bời. Chàng ốm... Chàng đã dại dột làm điều gì đó để bị bắt. Chân tay nàng bủn rủn.
Cố định thần nhìn kỹ cánh cửa, thấy hơi hé mở. Dường như có một làn hơi ấm mong manh phả ra Từ bên trong, lẫn giữa mùi lá mục và oai oai rêu phong. Làn hơi ấm đó chính là Từ. Cái mùi quen thuộc ấy không thể lẫn vào đâu đưc. Nàng dấn bước. Bóng tối trong căn miếu lập tức bưng chặt lấy mắt. Ánh đèn đom đóm soi rõ pho tượng thổ thần đắp bằng đất sét giờ đã bị mủn mất nửa đầu. Con mắt còn lại đang lừ lừ nhìn nàng Từ trên cao. Nhuệ Anh chột dạ cố trấn tĩnh để khỏi sợ hãi. "Lạy thổ thần phù hộ. Con đến đây không phải vì tà tâm...!". Nàng nín thở, cố nhướn mắt trông cho rõ người con trai đã khin trái tim nàng ngày đêm bị bóp nghẹt.
- Nhuệ Anh. Xin nàng đừng tìm ta nữa.
Tiếng nói vang lên Từ phía sau khiến Nhuệ Anh giật bắn người.
Tựa lưng vào bức tượng, Từ Lộ ngồi xếp bằng trớc một trang giấy đang viết dở. Những dòng chữ sẫm tối dường như hắt lên ánh đỏ. Nhuệ Anh nhìn kỹ. Trong cái bát sành trước mặt Từ không phải là thứ mực Tàu thông thường. Đây là một thứ nớc sền sệt phả lên mùi mặn. Nàng nhìn đầu ngón tay trỏ của Từ Lộ. Đầu ngón tay đã bị cắn nát dù được dịt lại bằng mạng nhện nhưng vẫn đang rỉ máu. Nhuệ Anh hiểu rằng những dòng chữ đó được viết bằng máu của chàng.
- ... Ta chỉ sống nốt kiếp này để báo thù!...
Nhuệ Anh lao tới ôm lấy bàn tay Từ Lộ, ấp lên ngực. Nàng khóc tức tưởi. Nước mắt của nàng làm ướt tay chàng. Hơi ấm của dòng nước mắt phút chốc làm tan băng giá giá trong lòng Từ Lộ. Từ khi song thân mất, Từ chỉ còn là một con thú bị săn đuổi. Ở đâu chàng cũng cảm thấy có hình bóng của bè lũ Diên Thành hầu và pháp sư ĐạiĐiêntruy tìm lùng sục. "Nhỏ cỏ phải nhổ cả rễ...". Chàng đã nghe người ta nói lại những lời đắc ý của ĐiĐiênkhi hắn giết được cha chàng và thây cha chàng đứng sững trước cửa nhà Diên Thành hầu. Chàng đã chọn ngôi miếu hoang này làm nơi ẩn náu để tránh mọi điều bất trắc, nuôi chí, đợi cơ hội trả thù. Nhưng đêm nay dưới ánh mắt nồng nàn của người yêu, lòng Từ dịu lại, mềm ra thoáng chốc. Chàng đăm đắm ngắm gương mặt Nhuệ Anh. Chiếc cằm thanh tú hơi nặng ra vì khóc nhiều, những sợi tóc mai bơ phờ rối tung trước trán, rủ thành lọn bên thái dương, bết lại vì nước mắt mà trông càng quyến rũ. Từ Lộ xót xa bội phần ngắm vị hôn thê. Nếu cha chàng không chết vì tay ĐạiĐiênvà Diên Thành hầu thì gương mặt đẹp não lòng và thân hình trời cho này sẽ mãi mãi k cận bên chàng, mãi mãi là của chàng. Đó là điều mà nhiều vương tôn công tử ở đất kinh thành này đều mơ ước. Nhưng giờ đây, mọi cánh cửa đều sập lại trước mặt chàng. Thù nhà khiến chàng không nghĩ được đến bất cứ một điều gì khác ngoài tiếng gọi báo oán. Trái tim Từ rắn trở lại. Tay chàng nắm chặt. Một dòng máu tươi rỉ xuống Từ đầu ngón tay trỏ mà chàng đã cắn nát để viết bức huyết thư trước mặt.
Nhuệ Anh rùng mình khi cảm thấy hơi lạnh Từ trong tim Từ chuyền qua những đầu ngón tay của bàn tay mà nàng đang ôm trước ngực. Bất giác Nhuệ Anh buông tay nhích về pha sau. Nhưng không thể kìm nén được, nàng lại nhòai thân đổ gục hai vai vào lòng Từ Lộ:
- Chàng ơi... Nguy rồi!... Sáng nay, Tết hoa nở, gia nhân của Lý Câu lại đội lễ vật tới...!
Vừa nghe thy mấy tiếng "Lý Câu..." khắp người Từ Lộ rúng động. Chàng nắm hai vai Nhuệ Anh, đẩy nàng ra. Mấy ngón tay Từbóp chặt đôi vai mảnh dẻ của Nhuệ Anh. Đôi mắt Từ như lồi ra, trừng trng nhìn vào mắt nàng. Ánh mắt đó khiến đầu lưỡi Nhuệ Anh líu lại:
- ...Từ Lộ! Hãy đưa em đi...! Hãy đưa em đi bất kỳ nơi nào. Đôi ta như cây liền cành...
Đôi mắt Từ vẫn mở trừng trừng trong bóng tối miếu hoang. Tưởng như chàng không còn nhìn thấy vị hôn thê phủ phục trước mặt, không nghe giọng nói van nài khẩn thiết của nàng. Một làn gió từ bên ngoài lọt vào cửa miếu, đốm đèn đom đóm trên bệ thờ thần vụt tắt. Im lặng. Mãi sau trong bóng tối âm u, tiếng của Từ mới lại vang lên rành rõ, ớn lạnh, vô cảm vô hồn:
- Nhuệ Anh... Xin nàng hãy quên ta đi. Xin nàng hãy coi như ta không còn trên cõi đời... Đời ta, dẫu sau này có thác xuống làm ma nơi âm phủ hay đầu thai vào kiếp khác... Ta vẫn vĩnh viễn mang ơn nàng...!
Nhuệ Anh còn chưa hết bàng hoàng vì những lời của Từ thì nàng đã thấy đôi bờ vai của mình trùng xuống chạm nền gạch lạnh toát của miếu hoang. Từ đã xoay người. Giờ đây chàng quay lưng lại phía nàng, úp mặt về phía tường rêu, hai con mắt vẫn mở trng trừng lạnh lẽo...
Khi Nhuệ Anh tức tưởi chạy đến cổng nhà thì đã quá canh ba. Đôi bàn chân trần bé nhỏ tướp máu. Nỗi uất ức tuyệt vọng bóp nghẹt tim nàng. Nhuệ Anh lặng lẽ đẩy cánh cửa để vào nhà mà không nhận ra cha nàng đã bí mật theo sau nàng, đau đớn ngắm nhìn nỗi tuyệt vọng của con. Ông đã về trước, rút sẵn chốt cửa chờ con. Trong lòng quan Ngũ phẩm Tôn Trinh vừa đau xót lại vừa gần như nhẹ nhõm. Ông nghĩ, vậy là việc nhân duyên của con gái mình với Lý Câuđã là số mệnh, hoạ phúc thiên định. Cha con ông không phải là kẻ thất phu sai lời hẹn năm xưa với Tăng đô án Từ Vinh. Ông lại tự hứa với mình, dẫu buông xuôi cho con gái lấy Lý Câu nhưng ông sẽ ngầm lo liệu giúp Từ Lộ khi có dịp. Âu cũng là trả cái nghĩa với người bạn đồng liêu năm xưa.
... Xe vàng chuyển
Cờ nghê bóng quyện
Tiêu xa luyến... </I>
Tiếng đàn sáo đã vang lừng trước cổng kéo Tôn Trinh trở lại thực tại. Tôn Trinh tái người khi nhận ra đây là nhã nhạc chỉ dành cho bệ rồng. Công tử Lý Câu lại ngông cuồng đến mức này ư? Ông nheo mắt che tay nhìn kỹ, cố tìm trong đám người theo sau ông mai mối xem có thấy gương mặt song thân chú rể. Theo phong tục cha ông để lại Từ bao đời nay, Đại đăng khoa bao giờ cũng là lễ trọng nhất và không thế vắng mặt song thân chú rể. Nhà Diên Thành hầu đã ngạo nghễ bỏ qua lễ vấn danh, lễ sơ vấn mà vào ngay lễ Đại đăng khoa này. Một sự ngạo ngược đã đành. Vậy mà nay trong dòng người đã đến trước cổng nhà ông kia vẫn không thấy mặt vợ chồng Diên Thành hầu. Họ cậy thế coi rẻ người quá lắm. Trong lòng Tôn Trinh trào lên niềm uất tủi. Nhưng nhìn lại, ông thấy bà vợ mình đã loe xoe xiêm áo bên cạnh... Không thể dừng lại được nữa rồi. Quan Ngũ phẩm đành sửa mũ xốc áo quát lũ gia nhân ra mở rộng hai cánh cổng.
Cổng vừa mở, Lý Câu đã hấp tấp gạt đám tiểu đồng vây quanh, vượt lên chen qua ông mai bà mối để vào sân trước. Trong thâm tâm, vị công tử ăn chơi này cũng ngạc nhiên vì những hành xử khác thường của chính mình. Từ lúc còn là một đứa trẻ mười ba tuổi, Lý Câu vỗ ngực không biết bao nhiêu gái đẹp đã qua tay mình. Từ các tố nữ yểu điệu trông chốn phòng khuê cho tới những bông tầm xuân hé nụ nơi thôn dã. Từ bọn ca kỹ nhẵn mặt khách làng chơi đến các tiểu thư con quan nhất nhị phẩm, mỗi khi Lý Câu muốn thì lập tức trong phủ đệ của hắn lại phấp phới những bóng hồng. Lý Câu như con ong hoang cả thèm chóng chán, không đậu cánh hoa nào được vài tuần trăng. Điều này không phải không gây cho Lý Câu và vợ chồng Diên Thành hầu nhiều tai tiếng phiền nhiễu. Nhưng công tử là con một. Theo phép vua ban, Lý Câu sắp ến tuổi tập ấm tước cha. Diên Thành hầu phu nhân đã có ý chấm nhiều đám môn đăng hộ đối. Nhưng cậu con trai ngỗ ngược không nghe.
Lý Câu nhìn thấy tiểu thư Nhuệ Anh trong lễ Vu Lanở chùa Diên Khánh năm ngoái. Vẻ đẹp khác lạ của người con gái đứng mơ màng bên bụi hoa ngâu trước sân chùa khiến công tử họ Lý ngẩn người. Đến lúc người con gái quay mình toan dời bước vào lễ Phật thì công tử Câu vội len theo. Trên tay công tử là chùm hoa ngâu vừa hái mong tặng cho người đẹp. Nhưng cô tiểu thư dửng dưng. Nàng cúi chào sư trụ trì rồi cùng mấy cô bạn ríu rít soạn lễ. Công tử Cu vỗ tay gọi kẻ hầu. Nhưng vẻ xăng xái, nể trọng của mấy tăng ni nhận lễ và dáng vẻ đoan trang lạ thường của người con gái khiến công tử phải chùn tay. Lập tức cho người dò hỏi, biết nàng là tiểu thư con quan Ngũ phẩm Tôn Trinh, thì trong dạ mừng thầm, tưởng chừng như vưu vật đã nằm gọn trong tay rồi.
Nào ngờ Nhuệ Anh đã hứa hôn với Từ Lộ, con quan Tăng đô án Từ Vinh. Hoa đã có chủ. Nhưng với Lý Câu thì điều đó chẳng hề gì. Những cản ngại đối với gã bao giờ cũng làm tăng thêm sự hấp dẫn. Mỗi lần gặp, nhan sắc khác thường của Nhuệ Anh lại thêm một lần nữa làm Lý Câu bồn chồn nghiêng ngả.
Những đêm dài sau cuộc truy hoan, lần đầu tiên công tử Lý Câu thấy trong lòng trống trải. Và bóng dáng Nhuệ Anh với nt mày đa đoan nằm ngang trên đôi mắt long lanh, mới nhìn như vui, ngắm kỹ như u uẩn sầu đong đã ngày đêm ám ảnh. Lý Câu thấy mình đang nằm úp trên gương mặt quyến rũ kỳ lạ ấy, hai khuỷu tay ngập trong mớ tóc mây xoã tung của nàng và cuộc mây mưa đạt đến khoái lạc khôn tả trong tiếng gào thét của Nhuệ Anh. Tỉnh dậy, vạt đệm da cáo trắng ướt đầm dưới chỗ gã nằm.
Từ đó, những cuộc ân ái với mọi giai nhân khác đều trở nên nhạt như nước ốc. Cơn thèm khát càng dâng cao tột độ. Lý Câu hiểu rằng, hắn sẽ héo mòn tâm can nếu không độc chiếm vợ chưa cưới của Từ Lộ về làm của riêng. Nhưng dù đã hãm hại được gia đình Tăng đô án Từ Vinh, nhưng trong mắt Nhuệ Anh vẫn chỉ có hình bóng Từ Lộ độc chiếm. Nhuệ Anh cng xua đuổi, càng cao ngạo, ngọn lửa dàm mê càng rừng rực thiêu đốt Lý Câu.
Một buổi tối, khi song thân của Lý Câu vừa thưởng thức món hùng chưởng hầm sâm, đang ngồi xỉa răng bằng tăm ngà, thì giật nẩy mình khi cậu quý tử chạy vụt tới. Đồng thời, từ tay cậu, một lưỡi đao sáng loáng cắm phập xuống chiếc sàn gỗ lim, rung lên bần bật. Phu nhân lẩy bẩy. Diên Thành hầu vốn biết tính nết cậu quý tử, đứng vụt dậy nhìn con trừng trừng. Cậu quý tử một mực đòi cha mẹ phải đến hỏi Nhuệ Anh về làm vợ. Nếu cứ ngăn cản, cậu sẽ dùng lưỡi đao này đâm chết cha mẹ rồi tự đâm vào cổ mình. Việc Lý Câu bỗng dưng gắn bó với một người con gái, mà đó lại là vị hôn thê của con trai Tăng đô án Từ Vinh, khiến cả vợ chồng Diên Thành hầu vừa ngạc nhiên, vừa phẫn uất...
*
**
Ông bà mai mối nhả miếng trầu đang nhai dở, hai tay nâng cái dải lụa hồng, còn đang định lựa lời mở miệng thì Lý Câu phất tay sải ba bước tới mặt vợ chồng Tôn Trinh đang đứng trên thm nhà. Cúi mặt vái hai vái mà mắt vẫn ngước lên dáo dác tìm kiếm:
- Hôm nay, nhân ngày lành tháng tốt, song thân tôi cho mang lễ vật tới làm l Đại đăng khoa. Hẹn sau mười ngày nữa, lễ Tiểu đăng khoa cử hành, đón Nhuệ Anh tiểu thư về cùng tôi gá nghĩa trăm năm.
Nghe câu nói sỗ sàng thất lễ, ông mai bà mối đưa mắt nhìn toan lên tiếng đỡ lời. Nhưng Lý Câu dã quay lại. Mười hai thanh nữ nhất loạt tiến lên, đồng loạt nhún chân hạ dẫy qủa sơn son. Các tiểu đồng răm rắp thành hàng ngang, lẹ tay mở những chiếc quả đựng lễ vật. Sáng loà giữa đám lễ vật là một buồng cau lớn, những quả cau bằng bạc khối mà chỉ khẽ đụng vào thì tiếng bạc cũng ngân rung. Một trăm cặp bánh phu thê làm bởi những tay thợ khéo nhất kinh thành được gói bằng lá dong xanh mướt cột lạt nhuộm đỏ tươi rói. Hai mâm xôi gấc hạt mọng thẫm, hai mâm xôi trắng ngật ngưỡng, trên đỉnh mỗi mâm là một thủ lợn kếch sù có gài bông hoa đỏ chói bằng lụa nơi mõm. Khi nhìn đến chiếc quả sơn son cuối cùng, mọi người đều ồ lên một tiếng kinh ngạc trước bộ nữ trang quý giá mà Diên Thành hầu tặng con dâu. Một đôi hoa tai xoè sáu cánh vàng uốn cong, nhuỵ hoa là một viên ngọc ánh hồng như hút lấy ánh sáng toả ra từ ngọn nến mà lũ tiểu đồng nhà Lý Câu vừa thắp lên. Trong chiếc hộp ngà trạm trổ tinh xảo là hai con rồng vàng chầu mặt nguyệt uốn cong thành một chiếc kiềng đỡ hai chữ "Phúc Lộc". Nằm sum vầy giữa hộp là đôi vòng cũng bằng một thứ ngọc nổi vân đen trên nền xanh biếc. Mộ chiếc trâm bằng đồi mồi có sáu dây tua mà lủng lẳng mỗi đầu dây là một viên trân châu.
Lý Câu nhìn khắp mọi người, vẻ tự mãn làm tròn đầy, nở nang khuôn mặt. Công tử quay sang nhn vào mặt Tôn Trinh hỏi:
- Thưa nhạc phụ... sao không để Nhuệ Anh tiểu thư ra nghênh tiếp? Tôi muốn nhìn thấy bà mối đeo kiềng vàng cho tiểu thư!
Tôn Trinh nghiêm sắc mặt:
- Nhà công tử nhiều châu báu lắm, chúng tôi biết. Nhưng con gái nhà chúng tôi có đi lấy chồng đi chăng nữa cũng không phải vì chuộng kiềng vàng đâu. Song thân nhà công tử đâu, sao không diện kiến. Xưa nay con nhà nề nếp chưa từng có ai tự đi hỏi vợ bao giờ. Vả lại, công tử còn không biết phép nước, dám dùng nhã nhạc của cung đình đem rong ruổi trên đường như một bầy hát rong. Phiền công tử hãy mang lễ vật trở về nhà.
Đứng cạnh chồng, Tôn Trinh phu nhân nghe những lời của chồng thì rụng rời chân tay. Bà vội vàng đỡ lời, nói như người hụt hơi:
- Kìa phu quân, sao hôm nay ông quá lời làm vậy? Gia đình hoàng thân là chốn cao sang thì có bao giờ lại không biết phép tắc? Chẳng qua... có lẽ hôm nay ngài bận vào triều luận bàn quốc sự...
Tôn Trinh quắc mắt nhìn vợ:
- Bà chớ nguỵ ngôn với ta để bênh vực cho những điều trái nề nếp gia phong...
Thấy tình thế nguy ngập, bà mối vội bước lên, uốn lưỡi dẻo quẹo:
- Thôi mà. Trăm sự xin ông bà lượng thứ. Công tử chúng tôi tuy còn trẻ người non dạ nhưng một lòng yêu thương Nhuệ Anh tiểu thư. Ông bà ta xưa đã dạy: "Thật thà bằng ba khôn khéo". Sinh ra làm phận gái ai cũng phải lấy chồng. Nay ông bà được kết thân với nhà Hoàng thân quyền thế lệch thiên hạ, còn hưởng nhiều phúc lộc về sau. Tiểu thư được sánh đôi với Lý công tử, mỗi bước chân đi ngập trong châu báu, gấm vóc. Cái vinh hạnh chất ngất ấy thử hỏi trên đời ai là người không mơ ước? Xin nghĩ đến tương lai của tiểu thư mà cẩn trọng. Đừng làm cho Hoàng thân bất ý một lần nữa.
Tôn Trinh không nói thm được lời nào. Ý muốn của công tử Lý Câu cứ như một dòng thác lũ bất cần lẽ phải. Đám lễ vật sáng loá trước mắt cũng xoa dịu sự bực bội của ông đôi phần. Ông tự an ủi rằng dẫu thế nào đi nữa, ái nữ của ông cũng được một chỗ ấm thân. Dẫu Lý Câu vốn là một kẻ ngông cuồng càn rỡ nhưng con gái ông vốn bướng bỉnh, biết đâu với sắc đẹp và tài trí của nó, nó sẽ thuần phục được con ngựa hoang toàng kia... Nghĩ đến đây, tâm trạng căng thẳng đối phó của quan Ngũ phẩm Tôn Trinh chùng xuống.
Ông sai gia nhân:
- Vào mời tiểu thư ra đây.
Chưa dứt lời đã thấy tiếng Nhuệ Anh vang lên ngay sau lưng ông:
- Thưa cha mẹ, xin cha mẹ thứ có con tội thất lễ. Con xin có mấy lời với công tử.
Tôn Trinh giật mình quay lại. Con gái ông xoã tung tóc, mắt ráo hoảnh, mặt không son phấn. Nàng nhợt nhạt nói với Lý Câu đang ngẩn người:
- Nhuệ Anh tôi xin cảm ơn sự chiếu cố của công tử. Tôi xét mình phận mỏng, km quyền thế, không xứng kết đôi cùng công tử, công tử mang lễ vật về ngay cho.
Nói xong nang phăm phăm chạy đến bên mâm cau bạc, nhặt lấy chiếc hộp trang sức đang hắt ánh sáng chói lọi rồi đặt vào tay Lý Câu. Lý Câu đang ngơ ngác chưa kịp hiểu ra chuyện gì, bất giác hai tay đỡ lấy mâm đứng như trời trồng giữa sân. Cả đám đông lặng im, há miệng nhìn.
Tôn Trinh phu nhân tái mặt, lật đật chạy ra quát:
- Hỗn nào! Nhuệ Anh! Phận gái cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Phải biết giữ bổn phận.
Nhuệ Anh nhìn mẹ:
- Thưa mẹ, mẹ có chóng quên quá không? Cha mẹ đã sắp đặt cho con một lần và con đã nghe theo. Con quyết không lấy ai ngoài Từ công tử. Xin cha mẹ đừng ép duyên con.
Lý Câu cười nhạt:
- Từ công tử?... Lẽ nào nàng chẳng biết cái thằng dở điên dở khùng ấy đã mắc vào tội vu oán giá hoạ cho người khác, may nhờ hồng ân của cha ta nên mới khỏi bị xử trảm. Mà có khi hắn đã chết rũ xương nơi nào rồi...
Không biết được sự tình nỗi oan trái của Từ Lộ là do cha con Diên Thành hầu gây nên, nhưng Nhuệ Anh cảm thấy rất rõ giọng nói của gã công tử đang đứng trước mặt nàng một vẻ khoái trá dã thú khiến nàng ghê sợ. Nhuệ Anh khinh miệt nhìn gã, ngắt lời:
- Công tử chớ quá lời. Chớ khoái trá khi nói về nỗi bất hạnh của kẻ khác. Trời có mắt. Ta không bao giờ tin người trung nghĩa như cha con Từ công tử lại có thể làm điều gì không xứng đáng. Trong lòng ta chỉ có Từ Lộ mà thôi. Ta tin sẽ có ngày chàng giải được nỗi oan khuất ny.
Lý Câu vằn mắt:
- Nàng chớ hão huyền. Muốn gì thì mươi ngày nữa nàng cũng đã nằm trên giường cưới của ta. Ta đã hẹn với nàng trên cầu, vào đêm Nguyên tiêu. Cho đến nay, lẽ nào nàng chưa hiểu tính ta. Ta đã nói, đã muốn cái gì thì dẫu sét đánh ngang tai cũng mặc. Hôm nay, vì sắc đẹp của nàng, ta bỏ qua cho nàng tội bất kính. Lúc này ta chỉ muốn chạy nhanh tới đêm tân hôn. Và hãy nh, cái gì công tử Lý Câu này đã muốn ắt phải được.
Rồi đĩnh đạc, khoan thai, Lý Câu mở một nụ cười với vợ chồng Tôn Trinh:
- Bây giờ ta phải về, Cha ta đang mở tiệc khoản đại bạn bè khách khứa. Chắc ông bà tuổi cao, từng trải cũng biết rõ lẽ thiệt hơn mà làm cho tiểu thơ bớt bướng bỉnh.
Gã quay sang cười với Nhuệ Anh đang đỏ bừng mặt vì tức giận:
- Khi tiểu thư tức giận trông càng bội phần xinh đẹp. Ta thích ngay cả sự bướng bỉnh của tiểu thư. Mười ngày nữa, nàng sẽ còn dịp mà phô vẻ tức giận trước mặt ta.
Giáo phường lại nổi nhạc. Mười hai cô gái đội lên đầu những chiếc quả rỗng không, cùng ông mối bà mai và lũ tiểu đồng nhún nhẩy trở v. Lý Câu đi sau cùng. Xe ngựa ghé sát thềm. Trước khi bước lên xe, còn quay lại ghé vào tai vợ chồng quan Ngũ phẩm Tôn Trinh:
- Ông bà hãy cấm cung tiểu thư Nhuệ Anh ngay từ bây giờ. Đừng để tai vạ đến cả dòng họ. Xin hãy bảo trọng.
</FONT></FONT></DIV>
Chương thứ :5 "
Tháng ba.
Kinh thành đỏ rực hoa. Hàng cây gạo bên sông Cái, sông Nhuệ, sông Tô nghiêng những con rồng lửa quấn quýt nực nội xuống dòng sông. Những cánh hoa rơi lăn lóc trên mặt cỏ như bùi nhùi rơm nhỏ xíu lập loè cháy. Mênh mông mang đầy trời tiếng ong bay.
Vua Lý Nhân Tông ngự lãm điểm binh ở cánh đồng Gỉang Võ.
Bao quanh đài cao l đội Ngự lâm quân do quan Tả đô cấm vệ chỉ huy sứ chỉ huy. Vòng ngoài là mười vệ Điện tiền cấm quân gươm giáo sáng loà, trùng trùng lớp lớp trải rộng, cờ xí rợp trời, kéo dài tới tận sát nơi chuồng ngựa chuồng voi Kim Mã, Cống Vị. Các đạo Tả Quảng Thánh, Hữu QuảngThánh,Tả Ngự Long, Hữu Ngự Long,Tả Bổng Nhật, Hữu Bổng Nhật,Tả Thần Điện, Hữu Thần Điện... Trên trán mỗi cấm quân đều thích ba chữ son đỏ: "Thiên tử quân". Khi triều đình truyển mộ trai tráng vào các đạo cấm vệ quân, Thái uý Lý Thường Kiệt đã tâu lên vua: "Bẩm bệ hạ. Ta nên chọn dân châu Hoan. Dân đó xưa nay dù mang tiếng gàn dở nhưng một dạ trung thành. Bệ hạ sai chúng gác cổng Cấm thành, chẳng phải chỉ kẻ lạ mặt mà dẫu cha chúng nó xin vào thành nhổ một ngọn cỏ rồi trở ra tức khắc, chúng cũng quyết không cho!...".
- Hoàng thượng giá lâm!
Tiếng hô của quan Tả đô cấm vệ chỉ huy sứ. Cả biển người chuyển động, h theo như sấm rền:
- Thánh thượng vạn tuế! Thái hậu vạn tuế vạn vạn tuế!
Xa giá tới.
Thớt voi trắng dẫn đầu cỗ xe THÁI BÌNH. Bành voi Bồng la nga cẩn vàng. Cổ voi đeo một chuỗi ba mươi sáu chiếc chuông bạc, mỗi bước đi, tiếng chuông ngân lên trong vắt. Hai quan Chánh phó Điện tiền chủ huy sứ cưỡi ngựa trắng hộ tống hai bên. Đức Nhân Tông ngồi trên bành voi, mặc áo bào tía, đầu ội mũ hành phục quan màu vàng có đính hạt châu.
Chương thứ :6 "
... Ai cướp được con kén chày kình
Ấy thực nam sinh công hầu bá tước
Ai cướp được con kén mo dài
Ấy thực nữ tài cung phi hoàng hậu
Con con cháu cháu
Tử thịnh tôn đa...</I>
</DIV>
Ngàn ngạt tiếng hát tiếng hú reo hò rộn rã khắp một vùng.
Dân Quí Vũ mở hội Chen và lễ Mở Cửa Rừng.
Tục truyền rằng thần núi Linh Sõn Đại Vương qua giấc ngủ dài mùa đông vươn vai thức dậy thì đã xuân. Đại Vương gạt tay mở cửa rừng chấm dứt cảnh xơ xác tiêu điều của hạ giới. Thế là mầm măng tua tủa mọc, chim chóc ra khỏi tổ, thú rời hang, dân làng nô nức vào rừng ngây ngất với sự hào phóng của thần núi.
Năm ngoái đói kém. Lúa nương nghẹn hạt. Người khắp nơi đổ về rừng bòn vét hết củ mài, đào cả củ nâu để sống cầm hơi. Có kẻ sa vực sâu, sập chân xuống hố đào đành nằm đó đợi làm mồi cho thú dữ, sâu bọ. Cuối thu vừa rồi dân làng còn nhặt được xác một ông già hai cánh tay khô đét ôm chặt nhánh rễ củ nâu, hàm răng vẫn cắn ngập qua lần vỏ củ. Mọi người kháo nhau là xác không tiêu được vì ông già ăn nhiều củ nâu quá, máu nghẽn lại trong người, thân hình dẹt đét như được bọc một lớp nhựa chát xít, khô cong.
Cũng từ hôm ông già chết, đêm đêm phía bìa rừng cứ văng vẳng tiếng đàn ông khóc gọi hồn. Tiếng khóc hú như gọi thêm người chết đói đổ xuống. Dân làng trách nhau rằng đầu năm đã mở lễ hội sơ sài, lễ dâng lên Linh Sơn Đại Vương quá mọn. Tổ tiên người Quí Vũ đã dặn lại con cháu, mức hào phóng của Linh Sơn Đại Vương tuỳ thuộc vào sự đông đúc của hội Chen trong những ngày mở cửa rừng. Năm nào già trẻ trai gái cật lực chen vai thích cánh thì cửa rừng sẽ mở rộng hơn. Mùa màng tươi tốt. Muông thú đầy rừng. Măng củ kín mặt đất. Đàn bà sinh con đẻ cái đầy nhà. Trận chiến liên miên nối nhau đời này qua đời khác cướp đi quá nửa trai tráng trong làng. Nhà nào đẻ lắm con trai thì triều đình sẽ ân thưởng. Hội Chen năm nay đông vui hơn mọi năm...
Gà gáy canh năm, già trẻ trai gái đã đến kéo kín bãi cỏ trước rừng. Những lá cờ đã được dựng lên từ lúc nào đang vẫy vùng trước gió. Vang tiếng rống nghẹn ngào ngào của lũ trâu rừng đang vồ đập trán dao chọc cổ. Mùi thịt thơm lừng trên đống lửa than đỏ rực. Những tảng thịt trâu nướng máu vẫn còn ứa huyết hồng đặt trên lá chuối rừng trước bệ thờ Linh Sơn Đại Vương. Lát nữa, Đại Vương thụ lễ, rồi thịt sẽ được xẻ thành tảng xâu dây mây phân phát đều cho bách tính dự hội. Từng cặp nam nữ cầm miếng làm phép. Đợi lúc trời sập tối, các đôi nam nữ dắt tay nhau tản vào rừng. Những đứa trẻ sinh ra từ những cuộc ân ái trong đêm Chen sẽ được dân làng tôn sùng, góp công nuôi nấng và gọi là con của Linh Sơn Đại Vương.
Điệu múa Gà Phủmở đầu lễ hội. Một người đàn ông cởi trần đóng khố đu gối bôi phẩm đỏ, cánh tay nổi cuộn giơ cao chiêng tấu lên âm thanh rộn ràng. Một người đàn bà tóc búi xoè ra như đuôi công ngực che miếng vải nâu nhỏ nửa thân dưới là chiếc váy kết bằng lông chim đủ màu sặc sỡ tay cầm mõ tre hoà cùng tiếng chiêng. Cùng nhảy múa với họ là cặp ông bà già được dân làng chọn trong đám những người già đông con nhiều cháu, con cháu khoẻ mạnh cường tráng nhất vùng. Ông già cũng đóng khố cởi trần. Bà già cũng mảnh vải cũn cỡn che ngực, váy lông chim. Chỉ có khác, mảnh vải che ngực của bà lão dệt bằng sợi gai nhuộm màu hường, phía dưới lủng lẳng những quả chuông đồng nhỏ. Ông già tay cầm một chiếc chày lớn đẽo bằng gỗ nghiến già chuốt màu nâu bóng tạc theo hình dương vật người nam. Bà già cầm một mo cau quét vôi trắng uốn công cong theo hình âm vật người nữ.
Chung quanh ông bà già và cặp người đánh chiêng gõ mõ là những vòng trai gái chen nhau. Trai khố vải ngực trần tay cầm gậy ngắn. Nữ yếm ngắn che ngực váy kết lá sồi. Tiếng chiêng rộn ràng. Tiếng mõ trầm ấm như lửa than. Trống cái thì thùng điểm nhịp. Hai người đàn ông đàn bà đánh chiêng gõ mõ vừa khom người vừa đi giật lùi, mỗi bước đi như mỗi lời mời mọc thúc gọi. Ông già bà già nhún nhẩy đuổi theo nhịp chiêng nhịp mõ. Mỗi khi tiếng trống "Tùng...!", ông già lại cất tiếng hú lên những tiếng hú dài. Theo với tiếng hú, ông già bà già tiến lại gần nhau. Bà già giơ mo cau dứ dứ. Ông già miệng hú mình gồng tay đưa chày gỗ day day vào giữa mo cau. Hai người già nhún nhẩy tiến lên lùi xuống nhịp nhàng trong tiếng hú mênh mang thăm thẳm như vọng từ rừng sâu và tiếng chiêng mõ rộn ràng mà chày, mo vẫn không dời nhau. Mỗi lần chày gỗ chạm mo cau, vòng người chung quanh lại chao đảo, vai nam hích vai nữ, ngực nữ chạm ngực nam, miệng cất thành tiếng "Vào nõ bạc. Ra nõ vàng... Hú hời... Hú hợ...!". Rồi từng đôi trai gái tách riêng, vẫn theo nhịp chiêng mõ trống điểm thì thùng mà múa như những cặp gà trống mái vờn nhau. Thỉnh thoảng bên nam lại nhẩy dựng lên miệng hú khẽ. Nữ khom mình chúm miệng hoà theo. Âm vang lách cách đầu gậy. Ràn rạt váy lá sồi... Quanh họ là lũ trẻ tóc trái đào chen lấn cùng các cô bé vừa làm lễ rửa ngực đeo yếm. Những chàng trai chưa vợ tìm cách len đến gần các cô gái thanh tân mà chàng ta để mắt từ lâu. Còn lớp người lớn tuổi thì vừa xem hội vừa mắt trước mắt sau đợi lúc vào tục Cướp Kén. Đó là là lúc tiếng chiêng tiếng mõ dứt và trống cái giật lên một hồi dài. Khắp bãi hội xô về phía ông già b già. Người nào nhanh tay nhanh mắt cướp được chày gỗ nghiến, mo cau cong thì họ hàng làng xóm cũng được may lây suốt năm. Trâu bò lợn gà một sinh mười. Thóc gạo đầy nhà. Đàn bà tốt nái sinh nở bầy con Sơn Thần khoẻ mạnh. Cả họ giết trâu bò lợn gà mở tiệc ăn mừng.
Bãi rộng phía tây sát cửa rừng cũng một đám đông xúm đen xúm đ. Trò bắt chạch trong chum dành cho những đôi trai gái đã sẵn có tình ý. Những con chạch to tầy cổ tay được thả vào quẫy lộn trong chum đầy nước. Đôi trai gái đứng đối diện qua miệng chum, tay phi nắm chéo nhau giơ lên trời, thân khom, cùng thò tay trái vào chum quờ bắt lũ chạch trơn nhẫy. Phải hai tay hai người nắm vào một con chạch mới là thắng cuộc. Tiếng reo hò tán thưởng vang ầm. Đôi trai gái đó được quyền tay trong tay dắt nhau vào rừng hợp hoan thành vợ chồng ăn đời ở kiếp.
Tiếng người xôn xao trong đám bắt chạch chợt lắng. Xuất hiện trước mặt họ một đôi trai gái. Cô gái chừng đôi tám thân dong dỏng, cặp vai xuôi mượt, hai gò má cao ánh một lớp măng tơ như làn sương phủ. Môi trầu đỏ thắm. Hai mắt mở to trong veo như mắt bê con... Cô là con gái yêu của vị tộc trưởng danh giá nhất vùng mà người dân Quí Vũ ai cũng nể trọng. Chàng trai nắm tay cô gái có thân hình chắc như cây lim. Mày thô mắt sáng. Cái nhìn âu yếm. Mọi người nhận ra ngay chàng thợ săn tài ba dũng cảm nhất trong vùng. Tay trong tay đôi trai gái sóng bước tới bên chum chạch. Ánhs mắt nhìn nhau âu yếm rạng ngời. Tiếng mõ điểm đến nhịp năm, đôi cánh tay đã giơ lên cao. Một chú chạch lớn rối rít quẫy chiếc đuôi vàng khươm ròng ròng nước. Đám đông vây quanh reo hò ầm ĩ.
Chú chạch lại được thả xuống chum. Cô gái xoay thân kiễng chân xoè bàn tay ra trước mắt như để ngắm nghía những ngón tay thon thả lấp lánh nước mà những tia mặt trời cuối cùng trong ngày đang làm loé lên những vầng ngũ sắc trong giây lát rồi mới âu yếm nắm lấy bàn tay người yêu đang chìa trước mặt.
Nhưng cô gái giật bắn người. Thay cho bàn tay rắn chắc khoẻ mạnh quen thuộc của người yêu thì lại là một bàn tay thô rám, ngón tay sần sùi với những chiếc lng thô cứng như lông lợn lòi chợt nắm chặt tay cô. Cô gái ngước mắt nhìn lên. Kề sát mặt cô là một chiếc trán dô với đôi chùm lông mày bạc trắng rủ xuống phủ gần kín cặp mắt đỏ cười cợt. Một cái miệng với cặp môi dầy thưỡn ra trong một nụ cười đắc ý ướt đẫm nhục dục. Cô gái thét lên. Đó là gương mặt của pháp sư Đại Điên, người mà dân chúng khắp vùng Kinh Bắcnày vưa vâng phục vừa kinh sợ. Dưới chân pháp sư, chàng thợ săn nằm bất tỉnh.
Đám đông há mồm kinh sợ. Tiếng kêu bị giam chặt trong những đôi hàm đã khoá cứng. Pháp sư Đại Điên ngửa mặt lên trời cười sằng sặc. Chiếc túi da vằn vện vẽ hình âm dương đeo trước ngực nẩy lên nẩy xuống theo nhịp rung của khuôn bụng béo mỡ. Chỉ một đng tay, pháp sư nắm chặt ngang lưng cô gái. Cô vùng vẫy, nghiến răng cắn chặt vào bàn tay lông lá và rít lên những tiếng khiếp hãi của một con thú nhỏ. Pháp sư điềm tĩnh mở túi da thò hai ngón tay kẹp lấy một chiếc trâm bạc có gắn viên minh châu óng ánh to như hạt sen xanh. Vẫn cười nhếch miệng, pháp sư vuốt nhẹ gò má mịn màng của cô gái trẻ rồi thong thả gài trâm lên ngực yếm tơ hoa đào, nơi phập phồng đôi gò nhũ hoa như đôi chim kinh sợ đang vùng vẫy tìm cách thoát khỏi giam hãm.
Dưới chân pháp sư, chàng thợ săn hồi tỉnh. Chàng chống hai tay toan gắng gượng ngồi dậy. Khônng hề nhìn xuống, Đại Điên hướng lòng bàn tay xuống đất. Chàng trai lại gục xuống như chết.
ĐạiĐiênlôi xềnh xệch con gái tù trưởng vọt qua đám người đang ngơ ngác. Một tay đỡ eo lưng cô, một tay thiền trượng, pháp sư hướng về phía cửa rừng đi như lướt.
Mặt trời dần chìm vế phía tây. Bóng âm u đổ xuống thảm cỏ mịn đang nhum màu sẫm tối. Tiếng xao xác cuả đàn chim rừng bay về tổ xáo động không trung. Xa hơn, thẳm sâu trong rừng, hồi gầm của những chúa sơn lâm tỉnh giấc ngày, bắt đầu vào cuộc kiếm mồi trong đêm tối.
Đại Điên đến sát cửa rừng. Cô gái như cái xác không hồn dựa oặt vào bên vai pháp sư. Còn vài bước, chừng như không thể kìm nén được nữa, Đại Điên rên khẽ một tiếng, bế xốc cô gái lên tay. Những dẻ lá gồi, lông chim từ tấm váy ngắn của cô gái lả tả rụng xuống theo đôi chân gấp gáp của pháp sư.
Chiều sẫm hẳn.
Đại Điên quay sang, cúi xuống nhìn vào khuôn mặt đờ đẫn như người trong cơn mê ngủ cuả cô gái, thẳng tay ném cây thiền trượng cắm ngập xuống thảm cỏ. Mấy ngón tay gấu lẩy bẩy cởi nút ngực áo...
Bỗng nhiên người cô gái khẽ giật lên. Rồi cái thân thể mềm mại đó chuồi khỏi cánh tay pháp sư, đổ xuống đám cỏ vừa bị xéo nát như đang rỉ nhựa. Đại Điên ngạc nhiên trừng mắt nhìn lại. Trên khoé miệng cô gái, một dòng máu đỏ ứa ra chảy dài xuống cổ. Cô gái đã cắn lưỡi tự vẫn...
- Hừ... Con ma ranh này!
Đại Điên chửi gằn. Một chân đạp lên bộ ngực trinh bạch của cô gái. Nhưng ngay lập tức pháp sư đứng thẳng dậy. Một điều gì đó ở phía trước khiến ông ta chợn rợn cau mày. Trong bóng đêm mịt mùng đang trùm lên cánh rừng, một ngọn đuốc nhựa trám vừa thắp lên soi quầng sáng quanh gốc đinh cổ thụ. Dưới quầng sáng, bên gốc cây, một bóng người đứng đó, cặp mắt trừng trừng nhìn thẳng về phía Đại Điên.
Đại Điên "hử" khẽ một tiếng trong miệng. Pháp sư đã nhận ra kẻ táo tợn. Đó là Từ Lộ, con trai của Tăng đô án Từ Vinhđã bị ông ta sát hại trong đêm Nguyên tiêu.
*
**
Cách đây hai tháng, trong miếu hoang thổ thần bên bờ sông Nhuệ, Từ L ngồi lặng trước dải lụa rách nát vì bao vết chân voi chân ngựa chân người giẫm đạp. Những hàng chữ viết bằng máu đỏ trên dãi lụa chứa nỗi oan khuất ngút trời của gia đình chàng giờ đã khô đen bê bết bùn đất. Chàng nghe tiếng những bước chân của Nhuệ Anhmỗi lúc mỗi xa dần. Cả tiếng nức nở nghẹn uất của cô gái. Có bàn tay phũ phàng giật mạnh quả tim trong lồng ngực Từ Lộ. Cảm giác đau đớn nhục thê, trống rỗng xâm chiếm trong Từ. Sợi dây cuối cùng nối chàng với cõi đời đã đứt.
Chao ôi, trước đây chàng đã tin tưởng biết bao vào công lý, vào trật tự kỷ luật của triều đình, vào lẽ phải và từ tâm của con người. Tiếng tiêu của chàng đã bao lần hòa giọng ca tụng công đức của đấng minh quân vời vợi trời cao. Vậy mà giờ đây vẻ thờ ơ của Đức hoàng thượng và của ĐứcỶ LanThái hậu đã như nhát gươm xóc thẳng vào ngực chàng. Những bàn tay đang được thần dân ngưỡng vọng như thần thành nay đã phũ phàng ném mảnh lụa thấm đầy máu và nước mắt của mẹ con chàng xuống chân voi vó ngựa. Từ nhớ lại lúc thân mình bị kẹp chặt giữa những cánh tay sắt cuả bầy đao phủ, đao kề c, ngực chàng vẫn như vỡ ra mỗi khi bước chân của bầy ngựa voi giẫm lên ngực bức huyết đơn. Những vó sắt ngàn cân đó đang giẫm lên ngực Từ, vùi chôn mãi mãi những tiếng kêu oan khuất của mẹ con Từ cũng như những bàn dân thấp cổ bé họng bị dồn vào đường cùng như mẹ con chàng. Trong lòng Từ Lộ, trong chàng thư sinh hào hoa đang bơi lội trong hạnh phúc yêu đương và tiếng tiêu làm mê đắm cả kinh thành trước đây, giờ chỉ còn tiếng gào thét trả thù. Chàng đã tin vào lòng từ ái. Nhưng lòng từ ái đã bị cái ác giầy xéo. Chàng đã tin vào công lý. Nhưng công lý đã bị che khuất bởi manh tâm, bàn tay nhơ bẩn của Diên Thành hầu và biết bao tham quan ô lại...
Quanh miếu thổ thần, dật dờ những oan hồn. Từ trò chuyện với những hồn ma. Hồn mặc áo trắng và xoã tóc là hồn của những goá phụ bên nách cắp con. Những hài nhi chết yểu vì tên bay đạn lạc, thiếu sữa, đói khát. Những hồn áo nâu với hộp xương sọ phô màu xám xỉn l hồn của những chiến binh ra đi từ đồng ruộng, và nhanh chóng phơi thây nơi chiến địa.
Vô số là hồn không rõ hình hài, chỉ thấy mảnh lá chuối bó quanh che thân rít lên phần phật trong gió lạnh sởn xương sống... Trên mỗi đoạn xương cẳng tay gày guộc đội một tờ đơn. Những hồn oan khuất không chết vì tên bay đạn lạc và vì nghèo đói rách nát, không phơi thây nơi chiến địa, chỉ chết vì không chờ đợi nổi công lý. Từ như thấy thấp thoáng trong đám cô hồn đó có bộ xương trắng với những bước đi uyển chuyển của mẹ chàng. Bà đang đứng. Bà bước tới một dòng sông nước đầy ắp đỏ ngầu như máu đọng. Bà đưa tay ra. Có ai đó như Từ Vinh cha chàng đang đứng bên kia bờ sông máu. Tiếng khóc của cha, tiếng hờ oan của mẹ vng vẳng đâu đây quanh miếu thổ thần... Từ đứng dậy đẩy cửa miếu, lao vào bóng đêm bên ngoài.
Đó cũng là đêm kinh thành Thăng Longrực rỡ đèn hoa cờ xí. Ngày này cách đây vừa một giáp, trên sông Như Nguyệt, Thái uý Lý Thường Kiệtđánh tan đạo quân Tống do Chiêu thảo sứ Qúach Quìthống lĩnh, lấy lại được châu Quảng Yên.Mười hai năm đã qua, cùng với niềm mừng vui chiến thắng, nỗi đau đã dần khép miệng. Những người mẹ mất con, vợ mất chồng cũng khô nước mắt. Nước mắt lặn vào bên trong, chỉ đêm đêm thầm chắt rỉ ra trên giường chiếu lạnh, trong căn nhà trng vắng. Những đứa trẻ mồ côi đã có đủ thời giờ trở thành trai tráng. Và như những người bố bỏ mạng nơi trận địa, những đứa trẻ lại mong ước được đến ngày trở thành chiến binh...
èn lồng, đuốc sáng uốn lượn toả lập lờ dọc bờ sông Nhuệ, sông Tô. Người người lớp lớp trẩy đi. Tiếng cười nói râm ran. Thì thùng trống điểm đám thi vật, đám múa lân múa rồng. Trẻ nhỏ từng đàn hò reo chạy đuổi dọc bờ sông, chơi trò rồng rắn trước sân đình chùa, vỗ tay lanh lảnh cất tiếng hát lên khúc đồng dao mới:
"Nam quốc sơn hà...
Nam đế cư.
... định phận tại
thiên thư..."
</I>
Từ Lộ tránh vùng sáng, cứ nhằm nơi tối đen không có tiếng người mà bước tới.
Trang trại của quan Tăng đô án Từ Vinh cha chàng trước đây đã thuộc về tay Diên Thành hầu đang thiêm thiếp trong bóng đêm dày đặc, không biết gì đến nỗi bể dâu của mà chủ cũ của nó vừa trải qua. Chiếc đèn lồng tám mặt từ đời tổ tiên của chàng để lại cứ đến giờ dậu mỗi ngày được gia nhân đốt lên hắt ra tám hướng ánh sáng vàng sang cả thì nay vẫn được treo ở đó. Nhưng tám mặt đèn nay dường như chỉ để rọi sáng cho một tấm biển sơn son thiếp vàng rực rỡ với hai chữ "Hý viện" được viết bằng chữ thảo bay bướm.
Diên Thành hầu đã biến trang trại yên tĩnh nho nhã vào bậc nhất kinh thành này thành kỹ viện. Và kia, đôi đèn treo trên hai cột cổng hàng đêm đón khách đến mua vui lại chính là đôi đèn Mỹ nhân và Tiêu tương mà chàng và Nhuệ Anhã tìm nhau theo anh sáng lung linh và say đắm bày tỏ tình yêu trong đêm Nguyên tiêu.
Đã qua giờ tý tám khắc. Đêm hội đã lắng dần trên kinh thành. Bên trong kỹ viện, đám kỹ nữ và khách làng chơi hẳn đã buông rèm ngủ yên. Từ Lộ nín thở rón rén bước lại gần hàng rào. Chàng chợt nghe tiếng ngựa hý ở dẫy nhà hướng nam trước đây cha mẹ chàng đã đặt bàn thờ tổ tiên. Chàng đã hiểu dã tâm ca Diên Thành hầu. Kẻ thù đã y theo kế của pháp sư Đại Điên biến nơi thiêng liêng nhất trong khu dinh cơ này thành tầu ngựa để triệt mạch phúc của dòng họ Từ.
Từ Lộ chợt giật thót mình khi nhận ra một bóng người không hiểu đã lặng lẽ đến bên chàng từ lúc nào. Chàng chưa kịp phản ứng thì bóng người đã giơ bàn tay lên làm hiệu im lặng. "Tiểu công tử!". Chàng nghe tiếng thì thào và nhn ra ngay đó là lão Ngô, người lão bộc trung thành đã hầu hạ trong nhà từ khi chàng chưa ra đời. Từ chưa kịp nói gì thì lão Ngô đã nắm lấy hai bàn tay lạnh giá của chàng:
- Tiểu chủ... chớ đến đây! Nguy lắm... Diên Thành hầu vẫn cho người di rình tìm tiểu chủ khắp kinh thành...!
Từ Lộ nấc lên, vịn vào vai lão bộc:
- Nhà ta... lại thành nơi như thế này ư, lão Ngô...?
Người lão bộc nghẹn ngào nức nở, bật ra những tiếng kêu khẽ đứt quãng:
- Đau đớn... lắm... tiểu chủ ơi...!
- ... Sao lại ở đây... lúc này...?
Từ Lộ nhẹ giọng cố làm cho lão bộc trấn tĩnh lại.
- Tiểu chủ... Từ ngày đó đến nay không đêm nào kẻ vô dụng này có thể đặt mình ngủ trọn. Đêm nào cũng ra đây... Mà phải chờ đến canh này... người trong nhà đã yên ngủ cả... Kẻ này biết thế nào cũng có lúc tiểu chủ tìm trở về.
Từ Lộ nghiến răng bóp chặt hai vai lão bộc:
- Thế còn... bọn chúng... Diên Thành hầu, Đại Điên ra sao?
- Diên Thanh hầu tháp tùng xa giá lên khao quân của Thái uý Lý Thường Kiệtmừng chiến thắng trên sông Như Nguyệt. Còn Đại Điên là kẻ giang hồ. Cữ này lão vác thiền trượng khoác áo cà sa đi rong chơi. Rượu ngon, gái đẹp, trống cờ mở hội đâu vui là có lão...
Lặng im. Đến mức nghe rõ cả tiếng gió chạy lạt sạt trên hai hàng cau trổ lá xum xuê bên đường trước cổng khu dinh thự. Từ L hỏi như trong cơn mê:
- Thế còn...
- Dạ... Thưa tiểu chủ... Bài vị thờ quan ông quan bà kẻ này vẫn cất giấu vào nơi tin cẩn. Đầu kẻ nô bộc này dẫu có rơi, máu kẻ nô bộc này dẫu có chảy thì khí vật thiêng liêng đó cũng không thể mất vào tay kẻ ác...
- Ta ơn lão suốt đời. Nhưng này... Bây giờ lão hãy trao lại vật thiêng đó cho ta...
- Trời... Tiểu chủ giữ bài vị của quan ông quan bà làm gì trong lúc này... Tiểu chủ còn đang phải lẩn tránh
- Lão Ngô... hãy nghe lời ta... - Từ Lộ toan nói tiếp. Nhưng chàng chợt đưa tay ngăn lão bộc lại - Lão chờ ta một chút... Ta vào trong này...
- Ơ kìa... Tiểu chủ... - Lão bộc sợ hãi kêu lên - Coi chừng hại đến tính mạng.
Từ Lộ như không nghe thấy tiếng lão Ngô. Chàng nhẩy qua hàng rào vào vườn. Tránh chỗ có ánh đèn sáng, Từ bò về phía gian từ đường trước đây và bây giờ là tầu nhốt ngựa. Đầu hồi khóm hoàng trúc do chính tay Từ Vinh cha chàng xin được mầm non trổ vo mùa xuân từ vườn ngự uyển của đức vua mang về trồng vào đúng ngày mẹ trở dạ sinh ra chàng. Mười tám năm qua, mầm trúc mảnh mai giờ đã thành khóm trúc rậm rạp, thân vàng óng vươn cao. Từ bước nhẹ đến bên khóm trúc. Chàng cúi xuống, lần tìm một thân trúc vừa tầm khẩu tay. Thân trúc lung lay. Lá trúc rung chuyển sương đêm ào ạt trút xuống ướt đẫm hai vai áo. "Lạy cha... Lạy mẹ... Lạy vong linh tổ tiên họ Từ... xin cha xin mẹ hãy về phù hộ cho con trả mối thù này...!" Từ Lộ cúi xuống v phía từ đường dòng họ, miệng lẩm bẩm khấn. Kỳ lạ...! Cùng với lời khấn nguyện của Từ, một ngọn gió lạnh buốt dấy lên. Những vòm lá trúc trên đầu chàng lại im phắc. Và thân trúc trong tay chàng buột ra khỏi bộ rễ bền chặt nhằng nhịt dưới đất, như tự chuồi lên nằm gọn trong tay Từ.
Từ đã trở lại bên lão bộc:
- Lão cứ trao bài vị cho ta...
- Nhưng...
- Đừng nói gì nữa, lão Ngô...
Từ Lộ vội ngưng lời. Trước mặt chàng, những ngọn đuốc đỏ dọc vừa bất chợt đốt lên trong trang trại. Tiếng người huyên náo. Trên chòi gác, tù và gấp gáp rúc lên.
- Bọn chúng biết... Lộ rồi... Tiểu chủ chạy đi...!
Lão bộc hốt hoảng đẩy vai Từ Lộ.
- Lão mau đi cùng ta!
- Không được... Tiểu chủ trốn chạy đi... Hướng này...!
- Lão Ngô...!
Nhưng lão bộc đã dang tay đẩy mạnh chàng về phía bờ sông Tô. Còn lão lại vùng lên nhằm ngay hướng chuồng ngựa của hý viện và khuệch khoạng chạy.
"Bắt...! Có kẻ gian đột nhập trại...!". Tiếng người la hét. Thêm nhiều đuốc sáng. Chân người rinh rịch chạy. Gươm đao loảng xoảng. Hai cánh cổng trang trại rền rĩ mở ra.
Từ Lộ cứ nhằm bóng tối trước mặt mà chạy lao đi.
"... Có kẻ trộm ngựa! Trộm ngựa!...". Phía sau Từ Lộ, nơi trang trại nhà chàng khi trước lại vang lên những tiếng thét hốt hoảng. Đột ngột, không gian lại như bị vỡ ra thành muôn mảnh bởi tiếng vó ngựa từng đàn hốt hoảng chạy lồng lên trong bóng đêm.
Từ Lộ thu mình đứng nép bên gốc duối bên đường. Những con ngựa cao lớn lực lưỡng cất tiếng hý vang nối nhau phóng rầm rập vụt qua trước mặt chàng. Tiếng đập trong lồng ngực Từ Lộ cũng chợt như dừng đứng lại. Chàng hiểu. Ngưòi lão bộc trung thành đã liều thân tháo then chuồng thả đàn ngựa ra để đánh lạc hướng lũ gia nhân nhà Diên Thành hầu cho chàng chạy thoát. Chờ cho tiếng vó ngựa lắng, ánh đuốc và tiếng người hò hét đuổi theo bầy ngựa xa dần, Từ Lộ ôm gốc cây ngồi thụp xuống giọng thầm thì nghẹn tắc trong cổ họng:
- Cha ơi... mẹ ơi...! Đêm này là đêm cuối cùng hèn nhát của đứa con đớn hèn mang tên Từ Lộ do cha mẹ sinh ra. Con xin tạ tội trước vong linh... Ta tạ lỗi vi lão Ngô vì sự hèn yếu, mù quáng của ta trước đây.
Chàng đứng bật dậy, ngửa mặt lên trời, nghiến răng:
- Ta... ta sẽ trả thù...! Trả thù!
Qua bao ngày tìm kiếm, hôm nay Từ Lộ đến đất Quí Vũ. Trong tay chàng là cây gậy nhổ lên từ khóm trúc bên đầu hồi từ đường dòng họ. Cây gậy trúc mà giờ đây Từ Lộ mỗi lúc mỗi cảm thấy nặng chĩu anh linh, vong hồn của cha mẹ chàng. Lần tìm tung tích Đại Điên ở tất cả những nơi mà chàng nghe thấy đang mở hội. Và ở hội Chen này, chàng gặp pháp sư Đại Điên.
Đại Điên nhìn chàng trai trẻ. Nét mặt không hề thay đổi. Cái nhìn như nh mắt một con mèo già uể oải thừa mứa vờn quanh một chú chuột nhỏ bé non nớt. Pháp sư cất cái giọng rè rề lười biếng giễu cợt:
- Chú mày cũng thích cái hội mở rừng với trò cướp kén bắt trạch này ư?
Từ Lộ hết nhìn Đại Điên đứng ngạo nghễ trước mặt chàng, lại nhìn xuống xác cô gái nằm dưới đất. Dòng máu vẫn rỉ chảy trên khoé mép. Chiếc yếm che ngực lúc nãy bị gió rừng thổi lật tung, cành trâm bạch cẩn minh châu ngời ánh ma trơi trên cỏ.
Không nói một lời, Từ sấn tới.
Đại Điên vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Thậm chí lão pháp sư không thèm đụng đến cây thiền trượng đang run rẩy trên thảm cỏ ngay bên chân lão. Chỉ đến khi Từ Lộ còn cách lão chừng hai bước chân, Đại Điên làm bộ uể oải giơ một bàn tay lên, xoè ra trước mặt quát: "Dừng!"
Cùng với tiếng quát của pháp sư, như có một sợi dây thừng dằng Từ Lộ sững lại. Cẳng chân nặng như đeo chì. Từ nhoai người cố bứt ra khỏi các sức vô hình mà khủng khiếp như ngàn cân mỗi lúc một đè nặng lên hai vai. Nhưng người chàng cứ muốn rũ lả xuống. Đại Điên cười khà khà, đưa tay rút cây thiền trượng lên khỏi mặt đất. Thong thả buộc mấy cái nút áo vừa cởi, Đại Điên quay người đủng đỉnh bước đi như không hề để ý đến chàng thanh niên đang đứng sững bất lực mặt mày xám xanh vì uất ức.
Cùng với bước chân quay di của Đại Điên, cái sức nặng vô hình mà khủng khiếp cũng như đột ngột cất khỏi hai vai, khỏi thân thể Từ Lộ. Từ rùng mình. Chàng mím miệng hít một hơi dài, nắm chặt lại cây gây trúc. Tay vung gậy ln cao, nhẩy ba bước dài, Từ đến sát sau lưng Đại Điên. Gậy trúc nhằm thẳng đỉnh đầu bóng loáng của Đại Điên bổ xuống.
Đại Điên vẫn đủng đỉnh bước một đi về phía những tảng thịt trâu nướng thơm phức trong miếu Sơn thần.
Gậy trúc trong tay Từ Lộ sắp bổ xuống thóp đầu trọc của pháp sư thì bỗng như có bàn tay người t trên cao thò xuống giữ đầu gậy lại. Cũng từ trên thinh không, một giọng nói như ghé sát vào tai Từ thầm thì mà chàng nhận ngay ra đó là giọng nói của cha chàng: "Chớ...! Chớ...! Giết hổ phải cần hùng. Đại Điên có phép lục thông. Con ta chưa đủ sức". Cây gậy trúc như tự quay đầu lại, và thoắt cái lại trở về nằm gọn trong tay Từ Lộ.
Khi đó Đại Điên mới đủng đỉnh quay nhìn lại. Đi mắt của hắn rờn rờn ánh mắt thôi miên như mắt cọp trong đêm. Bắt gặp vẻ ngơ ngác thảng thốt của Từ Lộ, Đại Điên cười lớn:
- Ta có lời nguyền. Khi nào buộc phải giết người thì mỗi ngày chỉ giết một mạng. Ngày hôm nay đã đủ một đứa rồi - Pháp sư giơ đầu cây thiền trượng chỉ vào xác cô gái nằm trong vũng máu - Vậy ta tha cho mi... Con chách trấu bé nhỏ tội nghiệp!
Nói rồi, Đại Điên đặt thiền trượng lên vai, xốc lại áo chùng, ngửa cổ nhìn vọng lên trời đêm, cất một tràng cười buốt óc...
Trước cửa rừng Quí Vũ đêm hội Chen đến phần vui vẻ huyên náo nhất. Trò Cướp Kén. Trống vẫn thì thùng điểm nhịp. Chiêng vẫn dóng dả vang vang. Mõ vẫn trầm trầm chen tiếng. Những đôi trai gái đã ăn ý cùng nhau bây giờ tản ra, tay nắm tay tiến vào trong bóng tối âm u của rừng. Cánh rừng già thở hổn hển dưới trời sao và những dải sương trắng chăng ngang.
Năm ấy, nhiều đứa trẻ ra đời sau chín tháng mười ngày trên đất Quí Vũ sau đêm hội Chen không có vẻ gì là con cái của Sơn Thần. Những đứa trẻ từ lúc lọt lòng mẹ đã có vầng trán dô, đôi mày dài và cặp mắt đỏ nhìn lâu không chớp.
Chương thứ :7 "
Diên Thành hầu phu nhân bệ vệ trên sập gụ khảm ốc lóng lánh. Bộ xiêm áo bằng đại vóc màu hoàng thổ của bà ganh đua cùng vòng vàng xuyến ngọc nổi bật trên tấm gối dựa bọc da cáo đen. Từ người phu nhân toả ra mùi hương sực nức.
Mùi hương này được chưng cất bởi mồ hôi, có khi cả máu của những gia nhân xấu số chẳng may bỏ mạng trên con đường thiên lý đi tìm lọai trầm đắt giá nhất tại bắc phương để ủ cho nhà Diên Thành hầu.
Cứ mỗi năm một lần, những phó quan gia cha truyền con nối của nhà hu lại phải dẫn một tốp mười ba gia nhân cưỡi ngựa mang bạc thoi vàng nén đi qua xứ Lạng, vượt đường dài sang nước Đại Tống, tới tận Tô Châulùng mua các loại trầm quí nhất cho phu nhân. Nhng lò hương được đặt trong mấy gian phòng lớn treo đầy quần áo và cái mùi trầm sang trọng đó cứ toả quanh năm để ướp hương cho quần áo xiêm y của toàn gia Diên Thành hầu.
Cất giọng sang sảng quyền quí, phu nhân nói với viên thư lại đang ngồi trên chiếc đôn thấp với cuốn sổ và chiếc bút lông đẫm mực khư khư trên tay:
- Này Trần Mục... Nhà ngươi vừa nói đến bảng kê biên quà mừng cưới của tri châu Lạng Giangphải không?
Trần Mục khúm núm:
- Dạ bẩm phu nhân... Bảng của tri châu Lạng Giangcon đã đọc xong. Hai ôi tay gấu này loại lớn nhất đấy ạ... Lại còn chiếc sừng tê cỡ đại... Con đồ rằng trong ngự y cũng chưa chắc có được...
Phu nhân mỉm cười mãn nguyện. Bà khẽ hất hàm. Trần Mục cúi đầu hắng giọng đọc tiếp:
- Hạ quan, tri phủ Bình Giang là Lê Trường Tíchlòng thành cúi đầu dâng lời cầu chúc lễ Tiểu đăng khoa của đại công tử. Tài hèn sức mọn, hạ quan xin có chút lễ sơ sài dâng lên bề trên, những mong được ân trên lượng thứ. Gồm: Trâu năm xoáy. Lợn năm móng. Trầu vàng cau tía ba mâm. Ngự tửu hạ thổ...
Phu nhân thoáng cau mày:
- Chọn ngang lễ nạp thái của Hoàng tử! Tri phủ Bình Giang rõ khéo... Ta biết, từ đời cha hắn đã giỏi việc đoán ý chiều lòng bề trên. Nhưng năm nay phủ Bình Giang mất mùa đói kém lắm hay sao mà quan phụ mẫu chỉ soạn một lễ bạc thế này...?
Trần Mục lét mắt nhìn phu nhân, thưa:
- Dạ bẩm... bảng kê còn dài ạ... Dê béo hai mươi con. Cá chép hai trăm con. Tôm hùm hai trăm đôi. Gạo tám hương hai mươi gánh. Gạo cẩm hai mươi hộc. Gà cẩm kê sống hai đôi. Ngoài ra, bẩm phu nhân. Gấm tía mười hai cây. Lụa điều hai mươi tấm. Vàng thoi năm nén. Ngọc bích ba đôi...
Trên gương mặt của Diên Thành hầu phu nhân giãn nở một nụ cười. Phu nhân khẽ gật đầu. Biết ý, Trần Mục vội nhoai người khom lưng đặt cuốn sổ vào tay phu nhân. Phu nhân liếc vài dòng, rồi chợt cau mày:
- Ta chưa thấy danh tính của tri phủ châu Hoan, châu Ái... Lũ này chết cả rồi sao?
Trần Mục cúi đầu:
- Dạ bẩm... Châu Hoan, châu Ái đường về kinh xa xôi hiểm trở. Dân tình ngang ngạnh... Tri phủ hai châu cũng có lễ vật dâng về. Nhưng tin cấp báo ra chiều qua, nửa đường bị kẻ đói chặn cướp mất một xe vàng lụa, giết ba lính áp tải. Chắc lúc này lũ tri phủ hai châu đang thu thập thêm cho đủ l vật dâng về kinh...
Phu nhân thở dồn dập:
- Liệu có tin được lời lẽ của bọn quan bất trí dân bất nghĩa này chăng? Ta tưởng từ khi phu quân ta tâu lên Hoàng thượng cho biếm chức tri phủ của Đinh Xương, cất nhắc Bùi Vĩnhlên thay ở châu Hoan thì đám hào lại ở đây thấm lễ nghĩa hơn...
Bà trừng mắt nhìn Trần Mục:
- Chỉ ti ngươi chậm chạp như một con rùa già. Ta đã nhắc cách đây một tháng, rằng phải xuống trát đàn hặc lũ tri phủ tri châu về tội lười biếng, không để ý gì đến dân trong hạt. Nếu không mau sửa đổi, sẽ bị biếm chức. Lũ đó dù ngu muội, song ngầm ý của những cái trát đó thì mau hiểu lắm!
Trần Mục khúm núm:
- Dạ, bẩm, con đã gửi cách đây cỡ vài chục ngày. Nhưng xin phu nhân bớt giận, đường sá xa xôi, dân tình đói kém, không phải vị tri phủ tri châu nào cũng thu xếp ngay được...
Có tiếng cô hầu gái nhẹ nhàng bước vào:
- Dạ bẩm phu nhân... Có Thái sư phu nhân Lê Văn Thịnh cùng gia nhân đặt kiệu trước phủ để vào mừng lễ Tiểu đăng khoa của đại công tử ạ.
Diên thành hầu phu nhân đưa tay sửa lại món tóc đã điểm bạc rủ xuống trước trán. Phu nhân chưa cần truyền lệnh thì Trần Mục đã biết ý, vội ôm sổ nhanh nhẹn lui bước vào nhà trong.
Diên Thành hầu phu nhân vừa kịp vuốt lại nếp áo quần thì đã thấy một vị mệnh phụ vóc người cao lớn, bước đi nhanh nhẹn mà đài các đang tiến vào nhà. Theo sau là năm gia nô mặc đồng phục, lễ mễ tráp đỏ trên tay.
Gương mặt mệnh phụ tròn vạnh như trăng đêm rằm. Một đường ngôi thẳng tắp chia món tóc trước trán làm hai nửa vẫn giữ màu đen mướt khiến càng tăng vẻ đoan trang, nghiêm nghị. Là vợ một vị Thái sư nhất phẩm, quyền cao chức trọng, lại nhiều tham vọng mà Thái sư phu nhân trang phục thật giản dị. Bộ xiêm áo bằng lụa vân hoa màu xanh nhạt với đường cắt may tinh tế, phần trên ôm vừa khít đủ tôn chiếc cổ cao và bộ ngực thanh nhã, chảy xuôi như một dòng suối chưa tới eo lưng đã dừng lại toả rộng, tha thướt đủ cho thấy sự bộn bề hào hoa của chủ nhân. Tay không vòng xuyến. Đồ trang sức duy nhất trên người bà là một viên ngọc trai màu hồng to bằng quả trứng chim đung đưa trên giải dây lưng lụa bạch, dìu dịu toả sáng ngờm ngợp như có linh hồn. Nghe nói đó là viên ngọc trai quốc bảo của vua Chế Củnước Chiêm Thànhven biển đông. Những đêm trăng sáng, vua Chế Củthường mang viên ngọc trai này ra cho uống ánh trăng. Chừng một trống canh, khi trăng viên mãn, viên ngọc bỗng chói sáng, sắc cầu vồng lung linh rực rỡ. Áp viên ngọc trai đã uống ánh trăng đó lên tai thì nghe cả tiếng gió biển âm u, sóng biển rì rào, các thuỷ thần thì thầm trò chuyện với nhau từ đáy đại dương sâu thẳm vọng tới. Mùa xuân năm Kỷ Dậu(1069) Thánh Tônghoàng đế thân chinh đi đánh Chiêm Thành, có Lý Thường Kiệt làm tiên phong, bắt được Chế Củgii về kinh, thu phục ba châu Đại Lý (Nay là đất Lệ Thủy, Quảng Bình), Ma Linh (Nay là đất huyện Bến Hải, Quảng Trị), Bố Chính(Nay là đất các huyện Bố Trạch, Quảng Trạch,Tuyên Hóacủa Quảng Bình). Không hiểu sao viên ngọc trai truyền kỳ đó lại đong đưa bên giải dây lưng của phu nhân quan Thái sư Lê Văn Thịnh.
Thái sư phu nhân cúi đầu thi lễ:
- Khắp kinh thành đang dậy lời đn đại, tán dương sự hào hoa của đại công tử con quan Diên Thành hầu. Kẻ nghèo hèn này hôm nay may mắn được đích mục sở thị, mới thấy rằng lời ấy chẳng phải ngoa truyền!
Diên Thành hầu phu nhân thoáng nhìn vẻ đoan trang của Thái sư phu nhân, liếc xuống bộ xiêm y rực rỡ mình đang mặc, trong lòng dấy lên chút ghen tị vì biết mình dù có phô ra muôn sự phú quý thì vẫn không địch nổi cái vẻ đĩnh đạc sang cả trong người đàn bà vợ vị trạng nguyên nhất bảng của khoa thi đầu tiên của triều đình mở năm Ất Mão. Nghe nói, Thái sư phu nhân thường dậy vào đầu giờ dần để giúp chồng xem xét, soạn thảo giấy tờ biểu tấu trước khi dâng lên vua.
- Không dám không dám... Thiên hạ quá lời...
Diên Thành hầu phu nhân đáp lại, không giấu nổi nét cười nhẹ mãn nguyện:
- Một người thông tuệ như phu nhân thì còn gì lạ lời đồn thổi từ nhà quyền quý đến đám tiện dân ở chốn kẻ chợ này...
- Có sao... Có sao... Đại công tử nhà tanức tiếng là con người hào hoa. Tiểu thư nhà nào may mắn lọt vào mắt xanh của đại công tử, đặt chân trước từ đường nhà này thật là đại phúc...
Diên Thành hầu phu nhân miệng vn còn giữ nụ cười mà trong lòng xót như chà muối. Phu nhân đã mất biết bao nhiêu công sức để ngăn trở cái lễ Tiểu đăng khoa oan nghiệt này. Nhưng đứa con trai ngang ngược đã bất chấp tất cả. Gi đây, chính tai phu nhân đang lại phải nghe những lời lẽ mà bên trong chiếc vỏ bọc ngọt ngào đó đang rình rập vô số mũi dao.
Chừng như thấy lời lẽ ý tứ của mình như vậy cũng đã đủ, với nụ cười nửa miệng cao ngạo, duyên dáng, Thái sư phu nhân khẽ đưa mắt sang bên phải, nơi đám gia nhân của bà, trái hẳn với phong cách ăn mặc trang nhã của chủ nhân, ăn mặc phục sức rực rỡ cầu kỳ, để chứng tỏ gia chủ là một người hào phóng. Đám này đang nhất loạt cúi đầu chờ lệnh. Sau cái đưa mắt của bà, ba gia nhân đỡ một chiếc tráp sơn son thiếp vàng phủ lụa điều răm rắp bước lên phía trước.
- Phu quân tôi có chút lễ mọn mừng ngày vui của đại công tử...
Thái sư phu nhân khẽ nghiêng người, tự tay nhấc vuông lụa điu.
- Xin mạo muội mừng lễ Tiểu đăng khoa của đại công tử. Những mong phù hợp với sở thích của phu nhân.
Vuông lụa rơi xuống nằm sõng sượt trên mặt đất, một ánh sáng chói loà đập vào mt. Diên Thành hầu phu nhân không kìm được tiếng reo kinh ngạc. Một con trâu đúc bằng vàng khối hiện ra. Dáng đồ sộ của khối vàng và những nét chạm trỗ cực kỳ tinh xảo khiến người đã quen mắt với những kỳ trân dị bảo chốn cung đình như Diên Thành hầu phu nhân cũng phải loá mắt.
- Còn đây là quà mừng cô dâu. Mừng cô dâu bay bổng thanh cao...!
Lời nói chưa dứt, sau một tiếng "tách" nhỏ, đáy tráp bỗng bật mở, phô thêm một bảo vật nữa, những người chứng kiến càng kinh ngạc bội phần.
Trước mặt Diên Thành hầu phu nhân là một con rồng kết thành bởi những hạt ngọc màu hồ thuỷ hắt sáng. Viên hồng ngọc được gắn làm mắt rồng hơi lẹm ở phía dưới khiến trông như con rồng đang nhỏ lệ. Đôi lễ vật trâu vàng rồng ngọc đặt cạnh nhau, mới nhìn chỉ thấy thật cân xứng. Trông kỹ hơn một chút, mới nhận ra rằng rồng thì thanh cao uốn khúc hướng lên chín tầng trời, mà trâu thì chỉ vục mặt xuống đám cỏ ở dưi đất, người tinh ý sẽ cười thầm vì sự cọc cạch khôn tả. Diên Thành hầu phu nhân không biết được rành rẽ điều ấy, bà thầm nhầm tính giá trị trâu vàng rồng ngọc, nở từng khúc ruột, quên c việc người ngồi trước mặt bà đây đã thóc mách đến tận ngọn nguồn về nội tình nhà mình.
Thái sư phu nhân dim mắt liếc nhìn khuôn mặt ửng đỏ của người ngồi trước mắt trước cặp lễ vật mình mang tới. Một sự thoả mãn dâng tràn trong bà. Vốn là con gái một ông đồ nho nổi tiếng vùng hiếu học đất Kinh Bắc, gá nghĩa với chàng học trò Lê Văn Thịnh từ thuở còn hàn vi đêm nấu cháo ngày đồ xôi để chồng dùi mài kinh sử, từ con đường khoa bảng mà làm nên công danh, Thái sư phu nhân vốn coi thường đám thê thiếp trong triều. Bọn họ chỉ biết ỷ vào thế của chồng hoặc ỷ vào dòng họ hoàng tộc mà lên mặt kênh kiệu hơn người, tham lam thu vén cho đầy đụn đầy kho. Cứ như nhà Diên Thành hầu đây vốn nức tiếng giàu sang phú quí, nhưng xem ra đầu óc hạn hẹp, tầm nhìn cũng không hơn là bao so với đám trọc phú chốn quê mùa. Chắc hẳn Hầu phu nhân lần này thừa dịp đám cưới cậu quý tử mà ra sức bóp nặn lũ quan nha dưi quyền.
May sao tiếng đàn sáo nhã nhạc từ bên ngoài vọng vào mỗi lúc một lớn, cắt đứt câu chuyện đã đến lúc khó nói của hai vị phu nhân vốn bằng mặt chẳng bằng lòng mà ở kinh thành này ai cũng biết. Diên Thành hầu phu nhân làm ra vẻ vội vã nhỏm dậy:
- Ấy chết... Đám rước dâu đã về nhà... Xem chừng sớm nửa khắc đấy... Mời Thái sư phu nhân tiện có mặt dự mừng, ban phúc cho đôi trẻ.
- Xin đa tạ... Phu nhân cho tôi được kiếu. Đến gặp được phu nhân như thế này là rạng mặt cho chúng tôi lắm rồi... Còn việc lễ trọng của đại công tử, chúng tôi đâu dám...
Đám gia nhân nhất loạt rạp mình chào Diên Thành hầu phu nhân rồi quì xuống, đỡ Thái sư phu nhân lên kiệu.
Dẫu vậy, trên quãng hoa viên mênh mông dẫn lối ra khỏi dinh thự nguy nga của Diên Thành hầu, Thái sư phu nhân cũng kịp liếc mắt điểm mặt đám kiệu rước dâu dài dằng dặc vừa về đến cổng đang dừng lại để bà già dẫn đường vung những nắm tiền đồng ban phát cho lũ người hiếu kỳ bạo dạn đang đứng chờ xem mặt cô dâu trước dinh thự.
Kiệu vừa dừng trước nghi môn, công tử Lý Câu hớn hở vén rèm. Những người đứng chung quanh sững sờ kinh ngạc vì vẻ đẹp thuần khiết của cô dâu. Gương mặt trắng xanh của Nhuệ Anh tiểu thư như một đoá hoa hàm tiếu dưới chiếc mũ phượng, vươn cao trên cổ áo bát ty màu đỏ thêu hình mặt trời và những con chim phượng đang nhẩy múa. Thân áo bát ty rủ dài êm ả xuống chiếc xiêm cũng bằng đoạn bát ty màu bạch tuyết, phía dưới gấu có đường viền xanh như cỏ chuốt. Dưới những lượn sóng rờn của lụa là gấm vóc, đầu mũi đôi hài nhỏ chập chờn hé lộ. Bên kiệu có sau thị nữ mặc áo mã tiên. Hai người cầm đèn lồng chạm rồng. Hai người cầm cành thiên tuế. Hai người bưng tráp trầu và hộp hương bằng ngọc...
Khoảng cách giữa kiệu của Thái sư phu nhân và kiệu hoa của cô dâu tuy không gần nhưng cũng đủ để cho đôi mắt tinh tường của phu nhân kịp nhận rõ vẻ nhìn xuống vẻ ngoan ngoãn và cam chịu của cô dâu. Vốn đã hỏi han rất kỹ về mối tình của Nhuệ Anh với Từ Lộ,con trai quan Tăng đô án vừa bị sát hại, vụ nghi án vẫn còn đang gây bao lời đồn đại khắp chốn kinh thành, trong lòng Thái sư phu nhân không khỏi chợt dấy lên một chút khinh bỉ về sự bạc bẽo ca người con gái đang ngồi trên kiệu hoa kia. Và một người mới nhập cuộc nhưng đã rất thông thạo những nghi thức lễ nghĩa chốn cung đình, Thái sư phu nhân hiểu ngay rằng cậu quí tử nhà này đã ngông nghênh dám dùng y phục nghi trượng trong đám cưới công chúa để làm sang đám cưới y. Thái sư phu nhân nhếch nụ cười nửa miệng. Nhất định bà không bỏ qua sự ngạo mạn này. Phu nhân tự dặn mình rồi cho xe ngựa chạy thẳng về dinh ở hướng Nam kinh thành.
Lúc đó, dưới tấm nghi môn "Diên Thành hầu phủ", từ noãn các vào tới chính đường, các cánh cửa đều mở toang, phô ra những đôi cu đối sơn son thếp vàng chói lọi. Trước chính đường treo cao bức đại hoành phi bốn chữ khảm vàng: "Diên Thành hầu tôn từ". Dưới hoành phi là bài vị của Thái tổ hoàng đế. Hai bên tả hữu bàn th đặt hai chiếc đôn cẩm thạch, trên có trải nệm lông hắc thử dể hút hơi ấm xua tan cái rét tháng ba. Khoảng giữa hai đôn là một bồn lớn đựng những viên than cháy đỏ toả hơi ấm sực. Diên Thành hầu và phu nhân uy nghi trên đôn. Lại mười tám chiếc kỷ trạm rồng phượng đặt thành hai hàng đối diện nhau. Bên mỗi kỷ là một lò sưởi nhỏ bằng đồng. Ngồi chĩnh chiện trên mười tám kỷ là các bậc huynh trưởng trong hoàng tộc. Cảnh tượng uy nghi là vậy. Nhưng từ Diên Thành hầu đến các bậc huynh trưởng trong họ đều không giấu được cái vẻ gượng gạo trên mặt.
Hai thị nhữ nhẹ đỡ Nhuệ Anh tiểu thư xuống kiệu. Công tử Lý Câu sóng đôi cùng Nhuệ Anh bước đến vái chào song thân, hoàng tộc và bàn thờ gia tiên. Nhuệ Anh nhìn những gương mặt lạnh lùng dàn ra trước mặt nàng. Những nh mắt như xuyên thấu người nàng, thầm định giá nàng như một đồ vật giữa những đồ tế tụng nghi trượng chói sáng. Nàng đã phải quỳ xuống vái lạy không kể xiết bao nhiêu lần. Thân thể mảnh mai của nàng mỗi lần cúi xuống lại lẩy bẩy muốn ngã nếu không có hai thị nữ luôn dìu dỡ hai bên.
Riêng Lý Câu thì chẳng còn bụng dạ nào để vào những thứ nghi lễ phiền toán và dai dẳng hành hạ hắn lúc này. Chú rể nhổm lên cúi xuống vái lạy như một cái máy. Và mỗi lần ngẩng lên cúi xuống, cặp mắt lại không thể rời được khoảng gáy trần của Nhuệ Anh kề ngay bên vai hắn. Trắng ngần và thon nhỏ như một đài hoa huệ và được khoá lại bởi chiếc kiềng vàng nặng chĩu do chính tay Lý Câu tròng vào, bấm khoá trong lễ tơ hồng ở sn nhà gái. Mỗi lần như thế trong lòng Lý Câu lại cháy rực một nỗi thèm khát điên cuồng được ôm vào trong vòng tay cái thân thể này, ngấu nghiến hôn lên cái gáy mảnh mai trắng ngần này... cho thoả tt cả những nỗi thèm khát nung nấu trong hắn, mỗi ngày mỗi thiêu đốt, ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy Nhuệ Anh trong buổi dâng hương ở sân chùa Từ Đàm. Đôi lúc cái ý nghĩ tàn bạo điên cuồng đưc ghé miệng cắn nát cái gáy kiêu hãnh đó, vò nát giày xéo lên cái thân thể đồng trinh đó... để trả thù lại bao nỗi uất ức, tủi nhục mà s cao ngạo của nàng đã gây ra cho một người như hắn, đường đường là một vị đại công tử, tập ấm chức hầu danh giá nhất triều đình.
Từ Lộđã bỏ đi biệt tăm tích. Nhưng Lý Câu cảm thấy cái bóng của tình địch vẫn thấp thoáng đâu đây, lẩn khuất sau những gương mặt, những đèn nến nghi trượng, những mâm cao cỗ đầy trong tiệc cưới này. Và chỉ cần thoáng thấy bóng Từ Lộ, cái thân thể đồng trinh bên hắn đây, cái gáy trắng ngần thon thả như một đài huệ này sẽ tan nhoà, sẽ biến mất như một ảo ảnh... Ý nghĩ đó nhói lên làm Lý Câu như nghẹt thở. Lý Câu nghiến răng, c nhìn kỹ mặt Nhuệ Anh. Nét mặt buồn, nhưng cam chịu, ngoan ngoãn thành kính vái lạy cha mẹ và các bậc huynh trưởng. Lý Câu thấy yên lòng. Nhưng đôi môi hắn mím chặt. Con chim nhỏ ngang ngạnh bướng bỉnh đã trở nên biết điều an phận trong lồng son rồi. Nhưng hãy chờ đấy, cái lồng son này cũng sẽ có lúc trở thành chốn địa ngục...
Cuối cùng thì những quy định phiền phức những lễ nghi dai dẳng trong đám cưới công tử của một đại gia đại phú cũng đã xong. Tiếng đàn sáo lại réo rắt vang lên. Từng dẫy đèn lồng thắp lên trong nhà, ngoài vườn. Cô dầu đã được dẫn vào phòng tân hôn chuẩn bị làm lễ hợp cẩn.
Nhưng công tử Lý Câu lúc này lại vẫn ra vẻ không hay biết. Công tử vẫn lượn lờ ngửa cổ nốc từng chung rượu lớn, cười đùa bỡn cợt với đám bằng hữu đang ngồi ngả nghiêng trên chiếu rượu đã gần tàn hoặc chen vai thích cánh trong những chiếu bạc vừa mới mở ra la liệt ngoài sảnh.
Ban sáng, lúc chuẩn bị rước dâu, bà mai đã dặn đi dặn lại Lý Câu về lễ hợp cẩn. Chú rể sẽ phải lấy miếng trầu trăm trong tế tơ hồng để dành trao cho cô dâu một nửa. Rồi rót một chén rượu, hai người cùng uống cn. Rồi vợ trải chiếu lạy chồng hai lạy. Chồng đáp lại vợ một vái... Lý Câu nhăn mặt cố nhịn, nghe hết những lời ê a thốt ra từ cái miệng móm mém lúng búng đỏ nước cốt trầu của bà mai đã ngoài bảy mươi tuổi.
A ha! Lễ hợp cẩn... Có thế mới nên vợ nên chồng... Công tử Câu muốn phá lên cười. Bây giờ miếng trầu trăm vẫn nằm gọn trong túi áo gấm đây. Đáng lẽ miếng trầu này phi đặt lên chiếc đĩa có hình song phượng trên bàn trong phòng đôi tân hôn. Nhưng Lý Câu muốn làm ngược lại. Lúc lễ tơ hồng trên sân nhà gái, đáng lẽ miếng trầu trăm phải được nâng niu nhấc lên, khe khẽ bọc lại bằng một vuông lụa đào. Nhưng Lý Câu lại đưa tay nhón lấy bỏ vào túi, làm nát cả đôi cánh xanh xinh xinh của miếng trầu. Lý Cu muốn Nhuệ Anh và mọi người biết rằng, trên đời này đại công tử Lý Câu muốn làm gì thì làm, chẳng phải nghe ai, chẳng cần tuân theo luật lệ.
"Ta sẽ móc túi lấy miếng trầu trăm ra, và hỏi nng có nhớ lễ Vu Lanở TừĐàmnăm ngoái. Nàng đã từ chối mời ta một miếng trầu. Lại kiêu căng ra sao trước mặt Hầu công tử này. Bây giờ miếng trầu đó đây. Ta không mời ta mà ta cũng chẳng mời nàng. Miếng trầu này cũng như thân phận kiêu sa của nàng đó, từ nay sẽ thuộc về ta, hoàn toàn thuộc về ta. Miếng trầu trăm ta không ăn mà sẽ xéo nát dưới chân như nàng đã làm đối với ta trong lễ Vu Lanngày đó...". Những ý nghĩ cứ loé lên, lúc nguội tắt trong đầu Lý Câu.
Chuếnh choáng hơi men, Lý Câu không còn nghĩ gì đến thể diện, sán đến phường con hát đàn địch mua vui cho đám quan lại quý tộc cự phú, lả lơi cười nói, bẹo má, bế cả lên đùi ngồi bỡn cợt. Đám con hát cười như nắc nẻ, rồi chợt bụm miệng sợ hãi vì sực nhớ đang ở giữa lễ Tiểu đăng khoa của công tử. Mãi đến lúc mấy tên gia nhân đầu chít khăn điều hớt hải tìm, nói phu nhân truyền cho đại công tử vào ngay để làm lễ hợp cẩn kẻo lỡ giờ tý tốt lành, Lý Câu mới làm vẻ như buộc phải tuân lời. Và lúc đó, dù chuếnh choáng hơi men, đại công tử họ Lý cũng chợt hiểu ra rằng, không phải Nhuệ Anh mà chính hắn, chính hắn, sau bao nhiêu công sức, cơ mưu để đi tới được ngày hôm nay, thì đến lúc này tất cả sự thèm khát cùng dục tình hàng ngày vẫn ngùn ngụt bốc lên hành hạ tâm can hắn giờ đây lại như cơn thuỷ triều vào độ trăng khuyết. Nước rút đi để lại bờ bãi hoang vắng xác xơ. Hắn chần chừ vì ngại ngùng, sợ hãi phải giáp mặt với nàng.
Lý Câu chệnh choạng theo hai thị nữ cầm đôi nến hồng dẫn đến trước cửa phòng tân hôn. Trong hơi rượu mù mờ đầu óc, hắn bậm môi đoán thầm xem lúc này Nhuệ Anh đang làm gì. Hoặc sẽ là một gương mặt, một cặp mắt phẫn uất căm thù. Hoặc sẽ là một thái độ lạnh lùng nhẫn nhục cam chịu. Cả hai hắn đều không muốn. Như mọi người đàn ông bình thường khác lúc này, cùng với những bước chân gần đn hai cánh cửa ngăn cách kia, trong ngực hắn bỗng nhói lên nỗi niềm khao khát mong đợi được mềm yếu được vuốt ve chiều chuộng yêu thương.
Hai thị nữ dừng lại trước cửa phòng. Cả hai ngước mắt nhìn lên đại công tử, và mỉm cười. Nụ cười cầu tài lấy lòng khiến Lý Câu như chợt tỉnh. Hắn móc túi lấy chút bạc vụn thưởng rồi giật phắt lấy cây nến, gạt hai đứa sang một bên, kiên quyết đẩy mạnh cánh cửa bước vào phòng tân hôn.
Căn phòng trống hoang, lặng ngắt như tờ.
Lý Câu giơ cao cây nến trong tay, đứng ngẩn, hơi men thoắt tan biến.
Mọi thứ vẫn còn nguyên đó. Chic giường cao chạm trổ cầu kỳ rèm che chăn rồng gối phượng. Chiếc kỷ nhỏ chân quỳ có đặt bình rượu cẩm và chiếc chén "quân độc ẩm" úp bên. Chiếc chiếu cạp điều cuộn tròn để đợi bàn tay cô dâu trải ra đón lễ hợp cẩn. Phía góc nhà, chân đèn dầu lạc bập bùng ngọn lửa. Lý Câu đã nhìn thấy trên tấm nệm hồng trải giường, chiếc áo lụa bát ty khoác ngoài thêu mặt trời và chim phưng mà Nhuệ Anh vừa mặc.
Những giọt nến hồng nhỏ xuống bàn tay rát bỏng. Nhưng Lý Câu không hay biết. Hắn cứ đứng thế trân trân. Rồi hắn cúi nhặt lên những ngọn trâm cài đầu, những chiếc vòng vàng nhẫn ngọc, đôi hoa tai... Tất cả đồ sính lễ mà hắn đã mang tới cho Nhuệ Anh. Tất cả đều được bỏ lại cùng chiếc kiềng vàng chạm hình rồng đeo cổ. Móc khoá của chiếc kiềng vàng đã bị bàn tay, không phải bàn tay, mà là những vết răng cắn còn vương máu, bẻ gẫy. Gió lạnh lùa vào tung phần phật đôi rèm cửa sổ lụa hồng khiến Lý Câu ngẩng nhìn, bước nhanh tới. Trước mặt hắn là khoảng tối đen của khuôn viên sau lầu cao. Xa hơn nữa là hàng rặng cây mai cây ổi đen sẫm dăng mành hai bên bờ sông Tô. Lý Câu đã nhìn thấy một dải lụa trắng xé từ những lá màn cửa, rèm giường nối nhau xoắn lại thành sợi dai chắc buộc vào song cửa sổ, dòng từ thành cửa gỗ xuống khoảng đen sâu thẳm khuôn viên.
... Nàng đi rồi...! Thế là xong... Thế là hết...! Hết tất cả...!
Những tiếng chói óc vang lên từ trong sâu thẳm tâm trí Lý Câu. Hắn thẫn thờ bước lại bên chiếc kỷ chân quì. Hắn run run đặt cây nến hồng lên mặt kỷ. Ngồi xuống. Bây giờ hắn mới nhận ra những giọt nến nóng chảy đọng lại còn đang bốc khói trên mu bàn tay. Hắn cứ để nguyên thế, gật gù ngm những giọt nến bỏng như ngắm nghía thưởng thức một vật gì lạ lẫm, tình cờ có được, tình cờ sa vào mu bàn tay hắn.
Bên ngoài, một hồi trống thì thùng dội lên báo hiệu giờ tý đã điểm. Giờ khắc bắt đầu lễ hợp cẩn thiêng liêng của đôi vợ trồng trẻ. Đám con hát cũng tạm dừng để các đào kép, nhạc công cùng hợp sức tấu lên bài ca cầu phúc cho cặp tình nhân được bách niên giai lão, giàu sang phú quý, con cháu đầy đàn. Lại thêm những ngọn đèn lồng, những cây bạch lạp được nối nhau đốt lên khiến trong lầu, ngoài hoa viên càng thêm tưng bừng rực rỡ.
Trong phòng, Lý Câu vẫn lầm lì ngồi bên kỷ. Chiếc chiếu cạp điều đã được trải rộng ở bên. Chén rượu độc ẩm rót ra cạn lại đầy. Lý Câu ngửa cổ dốc vào miệng hết chén này đến chén khác. Thứ rượu cẩm bằng hai mươi hai vị thuốc quý hạ thổ lâu năm thơm ngon có tiếng mới được kén dùng cho lễ hợp cẩn của con trai đệ nhất phẩm Diên Thành hầu mà sao lúc này mỗi chén đắng chát bóp chét lấy miệng, bóp chét lấy cổ họng.
Lý Câu cứ uống. Uống mãi. Tiếng trống điểm canh, tiếng đàn sáo chúc phúc từ ngoài kia vẳng vào mỗi lúc mỗi xa xôi mơ hồ như tiếng ma tiếng quỷ, như tiếng vang vọng vẳng lên từ một đời kiếp nào khác. Bình rượu hợp cẩn đã trắng đáy. Lý Câu nhấc bình lên giơ ra trước mặt hấp háy mắt.
Hết rồi... Thế l hết rồi...! Chó má cái lễ hợp cẩn...!
Một lần nữa những tiếng nói mơ hồ lại vẳng lên trong Lý Câu. Lý Câu gục gặc đầu, mắt rời bỏ bình rỗng, hướng lên và bỗng dừng lâu ở trên tường, nơi có treo kiếm báu gia truyền của hoàng cung. Thanh kiếm đã được chính tay Đức Thái Tổhoàng đế trao cho cha Diên Thành hầu tức ông nội Lý Câu nhân ngày triều đình dời đô từ Hoa Lưra Thăng Long để tưởng thưởng cho những quần thần đã có công lao trong việc dời đô, định đô. Dòng họ Lý kiêu hãnh với thanh kiếm báu. Hôm trần thiết phòng tân lang, Lý Câu nằng nặc xin cha cho treo thanh kim trong phòng. Mọi người gàn quải, như thế sợ làm điều bất kính. Lại nữa, đêm động phòng hoa chúc của vợ chồng trẻ chẳng nên có đao kiếm. Nhưng Lý Câu vốn dĩ ngang ngược, đã muốn là đòi bằng được. Diên Thành hầu buộc phải chiều lòng cậu con trai độc. Hầu tắc lưỡi nói với phu nhân: "Nhà mình, mình biết. Bà có nhớ năm Diên Vũtròn tuổi tôi, làm lễ định trí, bao nhiêu vật dụng bầy quanh, thằng bé đâu có ngó ngàng tới. Nó đạp chân nhoai người, tay với lên. Một tay nhặt hộp son phấn. Một tay quờ cây kiếm báu...!".
Lý Câu xô đổ kỳ chân quì vùng đứng dậy. Lại như ngày tròn tuổi tôi năm xưa, giờ đây Lý Câu lại chồm tới thanh kiếm báu.
Roạt... Lưỡi kiếm rút khỏi vỏ, ánh lên thứ ánh sáng xanh rợn của loại thp quí trước ánh đèn và ngọn lửa nhảy nhót trên đỉnh nến hồng. Lý Câu nheo mắt, mím miệng đăm đăm nhìn lưỡi thép.
Lý Câu đang đăm chiêu ngắm lưỡi kiếm thì giật mình vì trống điểm sang canh vọng tới. Giờ sửu bắt đầu. Cái hình ảnh trâu vàng rồng ngọc kề bên nhau, quà mừng của quan Thái sư đầu triều mà Diên Thành hầu phu nhân đã nhanh tay sáng ý cho bầy lên trước bàn thờ gia tiên khi rớc dâu vào dinh để khoe thanh thế giàu sang phú quí giờ đây lại ập tới trong đầu Lý Câu. Tay nắm chặt đốc kiếm, Lý Câu ngước đôi mắt vô hồn hướng ra ngoài cửa sổ. Vòm trời tháng ba xa rộng lp lánh những vì sao chuyển mùa. Trong vùng sâu thẳm của trời đêm, Lý Câu nhắm mắt, lại thấy Nhuệ Anh. Gáy trắng như bông huệ. Xa vời. Kiêu hãnh trêu ngươi.
Lý Câu thẫn thờ đưa đầu mùi kiếm hất chiếc áo choàng lụa bát ty thêu chim phượng. Chiếc áo lụa trơn ngập ngừng trên đầu mũi kiếm một giây, rồi lại lặng lẽ xoãi ra rơi xuống chiu.
Bất chợt cơn giận dữ ập đến. Một sức mạnh điên cuồng thoắt nhập vào khiến toàn thân Lý Câu tê cứng.
Hừ... mày... à...!
Lý Câu gầm trong họng. Lưỡi kiến dữ dội vung lên. Roạt...! Tấm áo choàng bát ty bị chém đứt phăng thành hai mảnh, một mảnh phật phờ rơi trở lại chiếu, một mảnh văng ra cuốn vào chân ngọn đèn dầu lạc ở góc phòng. Lý Câu rít lên vọt đuổi theo mảnh lụa. Xoảng... Cây đèn bị chém ngang thân, dầu văng tung toé. Những giọt dầu bắn ra loang dần, kéo theo những vệt lửa ngoằn ngoèo như những vệt lân tinh bò lan trên tường, trên nền thảm trải phòng, trên giường hoa nệm gấm cho dâu chú rể còn nguyên nếp và thơm quyện mùi trầm quý.
Lý Câu như người điên. Hắn chống kiếm nhẩy dựng lên, giẫm đạp lên những vòng vàng, xuyến bạc, hoa tai, kiềng, nhẫn. Roạt... roạt...! Lại tấm màn cửa lụa hồng bị chém đứt. Roạt...roạt...! Tấm khăn trải giường bị hất cao, tung lên những lưỡi lửa bay quẩn quanh khắp phòng theo những đường kiếm lượn. Đến lúc Lý Câu mệt nhoài vì chém giết, chống kiếm đứng thở hồng hộc như con thú dữ bị dồn đến cùng đường và những lưỡi lửa hung dữ ăn loang lem lm liếm rộng khắp căn phòng tân hôn ngổn ngang tàn phá thì bên ngoài vẫn không một ai hay biết. Hai thị nữ vẫn chồn chân mỏi gối ngoan ngoãn đứng hầu hai bên cửa phòng. Ngoài hoa viên Hầu gia, đám hát vừa giã. Phu kiệu í ới gọi nhau sắp đòn khiêng đưa những vị khách muộn mằn rời dinh.
Đám cháy dữ dội dã thiêu huỷ toàn bộ dinh cơ lầu gác bên bờ sông Tô Lịchvà đám cưới không thành ca đại công tử con quan Diên Thành hầu đêm đó đã là câu chuyện bàn tán cửa miệng của người kinh thành Thăng Long suốt bao năm sau.
Chương thứ :8 "
Gió bất chợt cuồng nộ trên sông Gâm. Vòm trời cao xanh thoắt tối sầm. Mưa quật xuống ràn rạt xé rách da người.
Cái bóngbé nhỏ vận đồ đen kín mít bỗng chạy vụt lên mấy bước rồi khựng lại. Và lồng lộn xõa xuống một mái tóc đen dài cũng đang giận dữ như cơn giông. Người đó đứng chôn chân. Nửa thân ngả đổ về phía trước ghìm trong gió vừa như lấy đà để bất chợt lao oà xuống dòng sông. Từ Lộ muốn dụi mắt mà tay cứng đờ. Chàng lẩy bẩy bíu vào cụm nứa định nhổm người lên những không được. "Trời... Nhuệ Anh...?". Từ vừa lắp bắp vừa thốt lên thì người trên lèn đá đã nhào xuống làm con bè giật mình chòng chành. Bóng áo đen dổ sập toàn thân ướt đẫm xuống chân Từ Lộ. Trong ánh chớp của cơn giông rừng vừa loé lên như một nhát chém sáng loà xẻ ngang vòm trời cùng với tiếng sét dữ dội nổ tung khiến người vật cỏ cây muôn loài chết lặng, bên tai Từ lại vẳng tiếng kêu nghẹn ngào, tiếng gọi tha thiết trỗi lên từ trong vùng ký ức sâu thẳm tưởng chừng đã muôn đời muôn kiếp lãng quên...
*
* *
Từ Lộ gò lưng tì vai chống sào đẩy bè ngược sông Gâm.
Con sông về mùa cạn nước trong vắt có thể nhìn thấ
Chương thứ :9 "
Trơn
Lạnh
Những chiếc vẩy biết khóc
À ơi...
Lời ru cá bơn
mồ côi
Lời ru cá bơn
À ơi...
Ai chôn chữ trinh ba vạn
À ơi...
Ai chém chữ trinh chín ngàn
Ru nào
Mỹ nhân đoạ xoáy nước
Ngơ ngẩn đường tu
Ru nào
Cá bơn
Phơi thân rạp cỏ</I>
Chương thứ :10 "
Ngạn La nằm co ro trên nền đá lạnh. Ngón út của bàn chân phải đang rỉ máu nham nhở vết chuột cắn.
Thoát khỏi biển lửa thiêu cung nữ chy rần rật trên đảo Âm Hồn. Thoát khỏi lưỡi búa của đao phủ nhờ ân sủng bất ngờ của đức vua, nàng lập tức bị tống giam vào lãnh cung. Một dãy hun hút những biệt phòng xây bằng đá nền đen gân trắng, cửa ra vào bằng lim khối, ngay giữa mùa hè cũng phả ra hơi ẩm ướt lạnh lẽo rợn người. Cái âm u lạnh ngắt nơi giam cầm những cung nữ chẳng may xấu số làm phật ý vua và hoàng hậu này khiến những kẻ xấu số tuyệt vọng ngay từ lúc mới đặt chân vào. Cửu trùng ngay gần đó mà thăm thẳm xa. Đêm qua đang ân ái nồng thắm bên đức kim thượng, sáng mai, vì bấtcứ điều gì khiến ngài phật ý, cũng có thể bị nhốt vào lãnh cung. Chưa kể bao nhiêu mưu mô, cạm bẫy rình sẵn. Những kẻ ngây thơ đang được bao bọc trong gấm lụa hôm nay mà trong lòng không khỏi nơm nớp lo một ngày nào đó sẽ bị tống vào một trong những biệt phòng. Những biệt phòng xây bằng đá cao tám thước dày hai thước, chỉ có một cửa sổ duy nhất nhỏ bằng bàn tay để mỗi khi đêm hết mặt trời lên thì ánh bình minh lại lạnh lùng chui vào trong vài khắc đủ để người xấu số bên trong thêm một lần bị nỗi đau cào xé. Rồi cái ánh mặt trời đó vội vã ra i biền biệt cho đến tận sáng ngày hôm sau. Và trong những ngày u ám không ánh mặt trời, kẻ bị giam cầm trong lãnh cung thấy mình bị chôn sống vĩnh viễn trong bóng tối đen đặc.
Ngạn La tưởng đã nm dưới mộ. Và từ dưới nấm mồ này, hồn phách nàng nhớ lại cái ngày định mệnh, khi tiên hoàng Nhân Tông bắt gặp nàng trên đường.
*
**
Đang là một con mèo nhỏ uyển chuyển thả sức nhẩy nhót thăm thú những hoa cỏ ngọt ngào nở dưới ánh mặt trời hào phóng rọi chiếu trên đồng nội, cái ngày định mệnh oan nghiệt của nàng ập đến khi tiên hoàng bất chợt tuần du ngang qua. Đang là một cô bé suốt ngày đeo chiếc giỏ cua bên hông, bỗng người ta nhấc bổng nàng lên kiệu vào đưa thẳng về cung.
Kiệu vừa đặt xuống, mặc nàng khóc giẫy, cào cấu đòi về với mẹ, bốn thị nữ đã xúm lại lột hết bộ đồ nâu còn vương mùi bùn đất, dìm nàng trong một bồn nước thơm, kỳ cọ khắp thân thể đến mức da thịt nàng đỏ ửng. Sau đó, họ đưa nàng sang bồn tắm đẹp hơn, sóng sánh thứ nước ấm ấm này, da thịt Ngạn La dịu lại. Những vết đỏ ửng do kỳ cọ dần biến mất. Khi các thị nữ đặt Ngạn La lên chiếc giường trải vải gai trắng, Ngạn La đã lim dim ngủ. Một thị nữ đem ra ba chiếc bình lớn, trong mỗi mình đựng một thứ cao đặc sánh, toả mùi thơm hắc. Thị nữ lấy một chiếc chổi nhỏ làm bằng lông mịn nhúng lần lượt vào các bình. Thứ cao màu hồng phủ lên mặt nàng. Thứ cao màu vàng đựng trong cái bình lớn nhất, thị nữ phủ một lớp thật đều lên toàn thân nàng. Đến khi chấm thứ cao màu đỏ lên đầu vú Ngạn La, thị nữ dừng tay. Trên bầu vú nhỏ nhô cao, rắn chắc như ngà voi của Ngạn La, phía vú bên trái mờ mờ một chiếc bớt trông như một con thạch sùngn nhỏ xíu màu tím bốn chân như đặt hờ ly bầu vú mịn màng, riêng cái đầu hơi chìm xuống, hướng về phía chiếc nốt ruồi đỏ ở giữa ngc cô gái... Ngập ngừng một giây, thị nữ đnh lướt đầu chổi để phủ cao lên hình bớt. Nhưng Ngạn La hét lên một tiếng thật dữ tợn. Cô bé đưa tay lên giữ chặt hình cái bớt trên đầu vú. Đôi mắt như chợt bạc đi vì tức giận, vì sợ hãi. Thị nữ ngạc nhiên, nhưng không dám hỏi.
Nhẹ nhàng xoa vuốt lên người nàng một lượt rồi thị nữ để cho Ngạn La nằm ngủ trên giường độ một canh giờ, trong khi đặt lên đôi mi khép chặt của nàng hai chiếc khăn lụa nhỏ gập làm tám, giữa một lớp khăn lại có một lớp cao mát lạnh. Ngạn La tỉnh dậy, đôi mắt sưng đỏ vì khóc của nàng đã trở thành trong veo. Thị nữ lại dìu nàng xuống chiếc bồn tắm nhỏ màu ngọc đỏ đang bốc hơi nghi ngút từ một thứ nước tắm sánh như dầu. Vừa ngâm mình vào nước tắm, lớp cao trên thân thể nàng tan ra, để lộ làn da mượt óng. Đến đây, hai thị nữ đưa tay cho nàng vịn để bước sang chiếc hồ tắm cuối cùng được làm bằng đá xanh gợn vân huyền.
Tắm cho Ngạn La, các thị nữa đưa mắt nhìn nhau vừa tò mò vừa ái ngại. Ngạn La dần nín khc. Những đồ đạc lộng lẫy được trần thiết trong phòng tắm rộng lớn dành cho các phi tần khiến nàng thấy hết sức lạ lẫm. Chúng hút chặt mt nàng. Rồi nàng đặt tay lên bờ chiếc hồ tắm bằng đá xanh gợn vân huyền, bước theo những bậc đá thoai thoải từ đáy hồ dẫn lên bờ. Hơi nước nóng phả ra từ mặt hồ khiến cho gian phòng mờ ảo như trong sương.
Hai thị nữ dắt tay Ngạn La tới trước gương tròn lớn bằng đồng sáng choang đặt ở cuối gian phòng. Nàng sững sờ nhìn thấy toàn thân mình trần truồng trong gương. Đôi mắt mèo màu xám nâu mở to ra hoảng hốt dưới đôi mày mềm mại lượn cong vút lên như hai cánh én. Đôi môi mọng màu hoàng thổ sẫm kinh ngạc mở rộng hé lộ hàm răng đen láy. Mớ tóc dài nuôi nấng qua mười hai năm tràn xuống nửa lưng ôm lấy bờ vai mảnh mai chảy xuôi màu nâu mịn như lụa. Đôi vú mới nhú như nửa vầng trăng với hai đầu vú nhỏ ương ngạnh và kiêu hãnh. Xa xôi dưới kia cũng mượt mà và chảy tràn như lụa là cặp đùi và đôi chân thon dài với năm ngón chân nhỏ như xoè ra, móng chân màu vàng vì những ngày bám đất trơn trên những con đường lầy lội quanh nhà.
Nhìn thấy những ngón chân của mình, Ngạn La bỗng xót thương cho chúng và oà khóc vì nhớ mẹ. Người mẹ nghèo vẫn dùng cây chổi để đuổi vụt vào lưng nàng mỗi khi nàng bầy tr nghịch ngợm và biếng nhác. Vậy mà bà vẫn thưỡng bấm bụng nhịn ăn để mỗi bữa Ngạn La có được một bát cơm đầy, còn bà thì lặng lẽ vét ít cơm cháy ở đáy niêu ăn với cà muối và những củ khoai luộc. Để giữ đẹp cho làn da của con, mỗi ngày bà tha thẩn khắp các bờ ruộng nhặt rau má về giã trong cối đá, hoà chút mật mía cho con uống. Những đêm nàng bị cảm sốt, bà thức chong chong đu chõng, không dám ngủ, đốt đèn đi tìm lá nhọ nồi về vắt cho con uống, nước mắt giàn giụa làm mờ đôi mắt mê hoặc mà sự khổ cực đã làm phai nhoà... Vậy mà giờ đây, nàng đã phải bỏ lại ngời mẹ già đơn độc trong cái xóm hiu hắt, ngỡ ngàng trước gương trong chốn lầu vàng điện ngọc, vừa thích thú ngắm nghía những đồ vật choàng lộn, vừa sợ hãi không biết rồi mình sẽ ra sao.
Bn thị nữ quấn một chiếc khăn lụa xốp màu đỏ quanh người để thấm khô những hạt nước li ti đang chảy dài trên thân thể Ngạn La. Rồi họ xức khắp người nàng một thứ dầu thơm mùi hoàng lan, chuốt thêm một lần nữa cái làn da vốn đã óng mượt. Rồi kẻ thì mặc cho nàng một chiếc áo màu hoàng yến, kẻ đeo cho nàng một chuỗi hạt châu quí giá, một đôi xuyến và ba cặp nhẫn vàng cũng đều cẩn hạt châu. Một thị nữ lớn tuổi bê vào một tráp chạm rồng, trong đựng phấn son và tóc giả. Bà xuýt xoa quấn cao mớ tóc của nàng lên đỉnh ầu và giữ chặt chúng bằng một chiếc trâm vàng rồi cài thêm những lọn tóc giả.
Nhìn trong gương, Ngạn La mỗi lúc càng không nhận ra mình. Nàng nghĩ trước mặt mình là một con tò he hình công chúa bằng bột nặn, mà thỉnh thoảng nàng vẫn nhìn thấy trong những dịp làng mở hội, có những cụ già khéo tay ngồi sau một mẹt phấn xanh đỏ làm mê mệt lũ trẻ con như nàng.
Thị nữ dùng thứ vải gai mịn thấm phấn màu hồng đào trong chiếc hộp ngọc thoa nhẹ lên má Ngạn La. Dùng thỏi son thơm như kẹo miết lên đôi môi vùng vằng của nàng. Xong đâu đấy, bà dùng chì than tô lông mày và viền mắt. Đứng lùi ra năm bước, thị nữ lặng ngắm, không kìm được lời thốt ra từ đôi môi đã bắt đầu khô héo: "Tuyệt thế!".
Thị nữ ngắm mãi, lưu luyến không nỡ rời.
Rồi một chiếc võng lụa bốn người khiêng ghé tới. Dẫn đường là một người đàn ông mặc áo thụng chàm, mặt tái, tay trái cầm đèn lồng đỏ, tay phải cầm dùi gõ vào một chiếc trống nhỏ đeo lủng lẳng bên hông. Hai thị nữ đỡ nàng lên võng, buông bức rèm che xuống trước khi phu võng cất bước.
Tum... Tum... Tu... um...! Người dẫn kiệu giơ cao đèn lồng, cứ mươi bước lại gõ lên ba tiếng trống dạo.
Ghé mắt qua rèm võng, Ngạn La nhìn thấy san sát những dinh thự lầu son gác tía, những căn phòng có cửa sơn đỏ toả ra những làn hương ngào ngạt xa hoa. Những người qua lại đều ăn mặc đẹp đẽ, khi nghe tiếng trống đều vội vã nhường đường, cúi mặt vái lạy. Ngạn La ngạc nhiên và thích thú. Nàng quên cả sợ, reo lên như trẻ con. "... Tân cung nhân này trông thật khác thường. Như phù thuỷ... Đưa mắt nhìn ai thì lấy hết hồn vía của người ta. Chẳng trách được hoàng thượng phải nhặt cô ta giữa đám bùn đất...". Ngạn La lại sực nhớ, cau mày thắc mắc cố hiu những điều mà mấy thị nữ nói nhỏ với nhau về nàng trong lúc trang điểm.
Võng đi được vài trăm bước, bỗng có một vị mặt trắng áo thụng xanh lướt thướt chạy tới ghé vào tai người dẫn võng thì thầm điều gì đó có vẻ rất nghiêm trọng. Võng quay phắt lại.
Đèn lồng tắt. Tiếng trống cũng lặng ngắt. Ngạn La được đưa về mt trong những căn phòng có cửa sơn son.
Không biết đã bao lần, Ngạn La thầm ước gái như mình chết ngay lúc mẹ mới sinh ra. Như thế, không phải trải qua cảm giác đau đớn, kinh hoàng nơi giàn thiêu cung nữ và khi lưỡi gươm đao phủ kề cổ. Nàng tự hỏi, trong đám hàng ngàn người dân lam lũ đứng dưới kia chứng kiến giàn thiêu cung nữ liệu có người mẹ tội nghiệp của nàng không? Nếu có, mẹ nàng có sống nổi? Núm ruột của bà đang bị kẻ khác đưa lưỡi dao cứa nát.
Từ bé, Ngạn La không biết mặt cha. Người ta đồn rằng một hôm trời giông bão, dân làng thấy một người đàn bà đẹp trạc mười tám tuổi mặt tái mét, váy áo lụa, bế một đứa bé gái mới hai tháng tuổi quấn trong tã gấm, lưu lạc đến đầu làng ngồi lả đi dưới mái đình. Đứa trẻ khóc không dứt mà người mẹ vẫn bt tỉnh. Dân làng thương tình, đem về cứu chữa. Bé gái được mang đi bú chực khắp làng. Cảm cái ơn của người làng, hai mẹ con ở lại. Người mẹ cắn răng tập đi nhổ mạ thuê, tập cầm cuốc cầm cào, tập mò cua bắt ốc sống qua ngày. Đôi bàn tay thon mềm của bà ban đầu tứa máu, sau cùng đóng thành chai nứt nẻ. Bà không bao giờ kêu ca, không khi nào nói nửa lời về hoàn cảnh của mình. Đôi mắt lúc nào cũng nhìn xuống, buồn thăm thẳm. Chỉ nghe người ta đồn rằng bà vốn con nhà quyền quý, hoặc do sa cơ hoặc trót dại lỡ lầm mà phải lưu lạc đến nơi này. Trong vòng tay bà, cô bé Ngạn La cứ thế lớn lên, như cây cỏ uống đủ ánh trời. Đẹp hoang dại, lạ lẫm như không có thật. Không bao giờ tủi thân khi nghe lời đồn đại về gốc gác của mình.
Đêm ấy, Thái giám đang dẫn võng trên đường đưa nàng đến hầu hạ hoàng đế Nhân Tông. Vị hoàng đế sáu mươi ba tuổi đang nóng lòng chờ đến phút giây tận hưởng phong vị lạ của vin ngọc ông vừa nhặt được trong đám bùn đất dọc đường thì bỗng lâm trọng bệnh. Cuộc hoan lạc được chuẩn bị kỹ càng vậy là tiêu tan. Võng lại đưa nàng về căn phòng nhỏ trong một dãy không biết bao nhiêu phòng như thế được làm sẵn từ đời tiên vương. Đó là chỗ cư ngụ của các cung nhân...
Từ đó đến nay, Ngạn La chỉ được nhìn hoàng đế một lần, khi ngài sắp băng hà. Nàng hoảng sợ thét lên: "Ma!". Cũng may nhờ lúc đó triều nội bận với trăm công việc nghìn mưu toan mà nàng tránh khỏi bị xử trảm vì tội bất kính. Nhưng tiếp sau đó là con đường dẫn đến giàn thiêu. Và bây giờ là lãnh cung.
Trí óc non nớt của Ngạn La vẫn không thể hiểu là mình đã làm gì nên tội mà bị trừng phạt như vậy. Nàng khóc lóc vật vã ku cứu. Nhưng bốn bức tường lãnh cung đã hoàn toàn tách biệt nàng với thế giới bên ngoài. Ngày một lần, có một nữ cai ngục mặt lầm lì như một cánh cửa đá lẳng lặng mang đồ ăn đến đặt vào cửa bằng hai bàn tay. Còn lại một mình nàng suốt ngày đêm phải chống chọi với bóng tối và lũ chuột. Từ thuở nhỏ Ngạn La đã yêu thích và thường đùa nghịch với chuột. Nàng thường phá lên cười khi những con vật bé nhỏ xinh xắn có bộ lông màu tro bếp âm ấm chui rúc vào nhau như tìm một chỗ trú ấn trên bàn tay nàng... Nhưng đó là những chú chuột đồng mới sinh trong mỗi mùa lúa chín. Còn chut lãnh cung con nào con nấy béo nẫn, to bằng bắp chân, bằng cột nhà. Những con chuột đen trũi, lông gáy dựng lên như bờm và dài cứng như lông lợn đực. Những con chuột ngày đêm vây quanh nàng với những cặp mắt tròn xoe thô lố, rực như than. Những cái mõm há hoắc để lộ mẩu lưỡi đỏ lòm ngo ngoe giữa những chiếc răng thưa trắng nhởn nhọn hoắt. Những tiếng rít dai dẳng kéo dài xiết vào óc nàng...
Ngày đầu tiên nhìn thấy lũ chuột, Ngạn La kinh hoàng hét lên, tay nắm chặt viên đá vừa nhặt được. Lăm lăm viên đá, Ngạn La cố trấn tĩnh, tiến về phía trước, nhìn trừng trừng vào mắt chúng. Nàng tiến một bước thì lũ chuột lùi một bước, móng chân khua ràn rạt trên đá. Nàng lùi một bước thì lũ chuột ràn rạt tiến lên một bước. Cuối cùng, Ngạn La bất lực, thở hổn hển lùi tựa sát vào tường đá, không dám rời mắt khỏi lũ chuột. Chúng dừng lại, trừng trừng những cục than đỏ hướng về phía nàng rình rập. Mệt mỏi, căng thẳng, sợ hãi, Ngạn La hầu như không dám chợp mắt. Nghe nói lũ chuột khủng khiếp này đã nhiều lần cắn cụt tai cụt mũi các cung nữ bị giam trong lãnh cung. Năm thứ mười ba đời tiên hoàng, có một th phi phạm tội làm rớt nước yến vào vạt áo của tiên hoàng trong khi hầu ngài dùng bữa phụ vào giờ thân, Hoàng hậu nổi giận, lập tức tống giam ở lãnh cung này. Thứ phi đau đớn khóc đến chảy cả máu mắt mà không mảy may động lòng một ai trong hoàng cung. Sau ba ngày, quản giám bẩm rằng cơm nước đưa tới ô cửa mà không ai đụng tới. Việc được báo lên Tổng quản thái giám, trình lên Hoàng hậu. Hoàng hậu cho lệnh mở lãnh cung. Chỉ thấy chiếc sọ của thứ phi trợt trạt những vết răng chuột cùng những lóng xương bị gặm hết thịt da vương vãi trên sàn đá lạnh. Một đàn chuột đói đang dụi mõm chùn chụt những vết máu trên mặt đá...
Lúc này không rõ ngày hay đêm. Những con chuột khổng lồ dường như buồn ngủ nên đã trở về hang hốc bí mật của chúng ở khắp đâu đó trong lành cung. Ngạn La buông lỏng tay, lả đầu, thiu thiu nhắm mắt.
Chợt nàng thấy toàn thân tràn ngập một cảm giác khoan khoái. Chung quanh bỗng sánh loà. Ánh èn hay mặt trời? Nàng không phân biệt nổi. Cái ánh sáng lành lạnh này khiến cho nàng như bừng tỉnh, vươn rộng hai cánh tay, mở mắt. Nghe tiếng thì thào đâu đó. Cái tiếng thì thào như một mạch ngầm, như một con rắn trơn chuội run rẩy trườn dưới mạch đá ngay dưới chân, mỗi lúc một rõ dần.
Rồi nền nhà bỗng toác ra thành miệng một hầm mộ.
Ở dưới đáy hầm mộ là đàn chuột đã hăm he cắn nát tay mặt mũi nàng vừa nãy. Những con chuột giờ đây đang nằm ngủ im thít cạnh ngỗn ngang những bộ xương vừa bị gặm hết thịt da. Khi những tiếng thì thào vừa dứt, những bộ xương cẳng tay cẳng chân, đầu lâu từ từ dựng dậy nối nhau chuyển động xếp lại theo trật tự răm rắp, thành hình người. Từ miệng của những con chuột đang ngủ, một dòng da thịt chảy ra, đắp vào những bộ xương đó. Có bẩy mươi bẩy bộ xương.
Và những bộ xương khô vừa được đắp da thịt đã trở thành những người đàn bà con gái đẹp lộng lẫy. Họ ríu rít kéo nhau lướt tới mớ quần áo xếp thành đống ở góc hầm mộ, đang sực lên mùi ẩm mốc. Họ trao đổi, giành giật từng thứ rồi nhanh chóng bận xiêm y và cũng trâm cài ngọc giắt, lần bước ra khỏi hầm mộ đi về phía Ngạn La. Cửa hầm mộ khép lại.
Ngạn La cứng đờ người. Nàng rú lên muốn bỏ chạy mà không sao nhấc nổi đôi chân như hoá đá dính chặt với sàn lãnh cung. Ngạn La tuyệt vọng, bấm chặt tay vào thành tường đá. Máu chảy ròng ròng trên những đầu ngón tay nàng trầy xước. Đang sắp ngất đi vì sợ hãi, một giọng nói dịu dàng bỗng cất lên ngay bên tai nàng:
- Đng sợ...! Tân cung nữ... Đừng sợ. Ta là Hoàng thái hậu họ Dương. Ta đâu muốn hại nàng...
Ngạn La ngước lên.
Rất gần, một gương mặt trắng bệch chỉ có đôi môi đỏ chót và một sợi dây lụa trắng vấy máu lòng thòng từ cổ xuống trước ngực. Nhưng gương mặt đó xiết bao phúc hậu qua đôi mắt nhân từ ai oán từ bên trên đang rọi xung mặt nàng.
Ngạn La nhìn sang bên. Bẩy mươi sáu thị nữ kia đã đứng xếp thành hai hàng từ lúc nào, mặt cũng đều trắng bệch như sáp. Cũng vẫn cái nhìn ai oán hướng về phía nàng. Không có vẻ g là dữ dằn, đe doạ.
Bóng ma tự xưng là Hoàng thái hậu họ Dương cất giọng trầm trầm:
- Cô bé tội nghiệp, con có biết đây là đâu không?
Ngạn La nhìn sững, ngơ ngác lắc đầu.
- Đây là cung Thượng Dương ngày trước. Con đang ở cái nơi mà cách đây năm mươi tư năm, ta và bảy mươi sáu thị nữ tội nghiệp này bị Nguyên phi Ỷ Lan và đức hoàng đế Nhân Tông lúc ấy vừa lên ngôi bức t, buộc phải làm mồi cho đàn chuột đói.
Ngạn La rùng mình. Những con mắt đỏ như than của lũ chuột hiện ra trước mắt nàng. Những móng chân khua ràn rạt trên sàn đá lại xiết óc...
- Ta đã coi Càn Đức như con đẻ. Ta cũng nhận ra cái tài quán xuyến thiên hạ của Ỷ Lan - đứa bần nữ hái dâu. Vậy mà...
- ...!
- Năm mươ tư năm rồi ta không thể nằm yên dưới mộ. Đêm nào ta cũng trở dậy. Nhiều chuột quá. Thâm cung thăm thẳm. Nỗi oan khuất của ta và bẩy mươi sáu thị nữ vô tội kia chẳng lọt được ra ngoài...
Từ dưới sàn lại rền rĩ tiếng chuyển động như sấm. Cửa hầm mộ đen ngòm lúc nãy đã khép lại mở ra cách chân Ngạn La chưa đầy một bước khiến nàng tưởng như đứng trên vực thẳm. Cái đàn chuột lúc nãy ngủ say giờ đã thức giấc, lấp lánh những con mắt hau háu và những bờm lông dựng ngược cứng như lông lợn rừng.
Rồi vọng lên tiếng rên xiết. Một người đàn bà mặc áo bào tía được chế theo y phục của Hoàng thái hậu, gương mặt đầy đặn như trăng rằm, lưỡng quyền nở rộng, đôi mắt sáng với cái nhìn kiêu hãnh, khuôn miệng cong cong mím chặt, hai góc mép hằn lên những vạch quyền uy.
Ngạn La thét lên một tiếng. Nàng nhận ra người đàn bà này. Hoàng thái hậu Ỷ Lan - người đã có công hạ sinh đức hoàng đế Nhân Tông và được triều đình cũng như khắp bàn dân thiên hạ ca tụng là có đại công đại đức. Từ một cô gái hái dâu xinh đẹp, bà được đưa về cung, được vua Thánh Tông yêu vì. Bà đã một tay rèn dạy đức hoàng đế lúc ngài mới lên ngôi khi vừa tám tuổi, một tay chấp chính cùng các đại thần như Lý Đạo Thành, Lý Thường Kiệt... dựng len một sự nghiệp rạng rỡ hiển hách chưa từng có kể từ khi Đức Thái Tổlp nghiệp khai sinh ra triều LÝ. Ngạn La thích thú vì được gặp bà. Nàng thấy có cái gì gần gũi với người đàn bà này. Phải chăng vì Ỷ Lan vốn xuất thân là một cô gái hái dâu còn nàng là một cô bé bắt cua chăng?
Nhưng trước mắt Ngạn La, gương mặt Thái hậu Ỷ Lan thoắt già nua, đầy nếp nhăn, co rúm lại vì đau đớn. Những tiếng rên xiết bật ra từ đôi môi quyền uy của Thái hậu. Bà cúi xung, cố sức rứt ra một vật gì đó đang đeo bám dưới chân bà. Ngạn La nhìn theo thì thấy ba con chuột to bằng thân cây chuối đang ngoạm những chiếc mõm nhọn hoắt vào bắp chân Thái hậu. Máu tuôn đỏ lòm thành vũng dưới chân bà. Nhưng người đàn bà đó chỉ rên xiết chứ không hề kêu cứu van xin. Ngạn La chạy băng băng xuống những bậc thang ẩm nhớp nháp của hầm mộ, chìa tay ra định kéo Thái hậu. Nhưng khi tay nàng vừa đụng đến người Thái hậu thì Thái hậu và đàn chuột đang cắn xé bà bỗng cùng tan biến. Tay nàng bị hẫng, rơi tõm xuống khoảng không. Mấy đầu ngón tay nàng lạnh toát. Ngạn La rùng mình. Nàng chợt ngẩng đầu lên vì nghe vọng những tiếng âm âm từ trên cao:
- Cô bé... Chớ đụng vào âm hồn. Bà ta phải đến đây để tr nợ cũ. Chẳng ai cứu được bà ta đâu...
Ở trên cao kia Hoàng thái hậu họ Dương cùng bẩy mươi sáu thị nữ sừng sững vươn mình lơ lửng trên nền tường lãnh cung. Những đôi mắt đau đớn và lạnh lẽo của họ rọi thẳng xuống Thái hậu lúc này đã hiện hình trở lại và tiếp tục bị những con chuột chụm đầu cắn xé.
Lại cái giọng nói dường như ngọt ngào của Dương Thái hậu:
- Ỷ Lan... Ngươi có biết đau không?
Linh Nhân Ỷ Lan cắn môi bật máu. Bà hất đầu kiêu hãnh làm cho chiếc mũ miện long lanh trong ánh sáng lạnh của hầm mộ:
- Tất nhiên là ta biết đau... Hoàng hậu họ Dương...!
Dương Thái hậu không đổi giọng:
- Da thịt con người mà... Ỷ Lan. Nhưng ngươi chỉ mới bị chuột cắn mười năm nay. Còn ta với bảy mươi sáu thị nữ thì đã trải qua năm mươi tư năm dưới hầm mộ. Năm mươi tư năm bị chuột cắn là bao nhiêu đời người... hả Ỷ Lan?
Linh Nhân cúi đầu im lặng. Những tia sáng rực rỡ của những vin ngọc dạ quang trên mũ miện cũng thoắt mờ đi. Dương Thái hậu cười nhạt:
- Ta đã làm nên tội gì hả cô gái hái dâu đất Kinh Bắckia? Phải chăng tội của ta chỉ là đã tin ngươi và yêu thương Càn Đức con trai ngươi như con đẻ của ta? Ngươi đã nói những gì và làm những gì trong cái ngày đẫm máu đó? Nghiệt phụ!
Giọng Linh Nhân run rẩy, như chìm dưới nước:
- ... Phải... Ngày ấy... ta đã nói cùng Càn Đức khi ta nhìn tháy cái mũ miện Thái hậu lấp lánh trên đầu ngươi... Con trai ơi, mẹ già khó nhọc mới có ngày nay mà bây giờ phú quí người khác được hưởng thế thì con để mẹ già vào đâu!
Dương Thái hậu ngắt lời:
- Từ một con bé hái dâu, ngươi đã một bước lên ngôi Nguyên phi cận kề bên đức Thánh tông. Rồi khi Hoàng đế băng thì ngươi đã được tôn lên làm Hoàng Thái phi. Phú quí của ngươi cao chót vót, ân sủng của vua đã từ ngươi mà tưới đẫm cả dòng họ xứ quê mùa... Vậy mà lòng khao khát phú quí của ngươi còn chưa thoả ư...?
- Không. Với ta như thế chưa đủ. Ta muốn duy ngã độc tôn trong thiên hạ. Ta đã khiến đức Thánh Tông phải mê đắm nể trọng, nhất nhất theo lời. Ta muốn sai khiến được người duy nhất nắm giữ thiên hạ trong tay. Ta phải sai khiến được con trai ta. Không gì thích thú bằng khi thấy chỉ với một ngón tay út của bàn tay ta, cả giang san rùng rùng chuyển động. Ta phải buông rèm để nghe chính sự. Ta đã làm được rất nhiều cho đất nước này. Ta là người đàn bà duy nhất mà sử sách phải mãi mãi lưu truyền...
Dương Thái hậu thét lớn:
- Câm ngay! Nghiệt phụ! Ta biết tham vọng khôn cùng của ngươi. Ngươi quả là người đàn bà có trí tuệ và quyền biến có một không hai. Ta chưa bao giờ ngăn trở ngươi. Khi biết tính mệnh của mình bị lâm nguy, ta đã hạ mình van xin ngươi rằng ta xin khước từ ngôi Hoàng Thái hậu. Để mẹ con ngươi được an hưởng ngôi báu, ta xin vào chùa đi tu ăn chay niệm Phật, không bao giờ tưởng đến triều chính vàng lụa. Vậy mà ngươi vẫn không buông tha...
- Phải... Đức Thánh Tông hoàng đế băng ở điện Hội Tiênngày Canh Dần tháng Giêng năm Thần Vũ thứ 4... Hoàng Thái tử Càn Đức con ta lên ngôi trước linh cữu khi mới bẩy tuổi. Bà khng có công sinh ra hoàng đế mà được tôn là Hoàng Thái hậu, lại còn được buông rèm nghe chính sự. Còn ta, chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau lại chỉ chịu phận Hoàng Thái phi thôi sao? Không. Ta muốn ta phải là ngôi thứ nhất! Vả lại, nếu không phải ta mà là bà buông rèm nghe chính sự, sự thịnh vượng của quốc gia này có được như ngày nay chăng? Kẻ ngáng đường ta, dù chỉ là vô tình, kẻ đó phải chết!
Hoàng Thái hậu họ Dương cất lên một hồi cười khanh khách lạnh người:
- Chao ôi! Trời đất quỷ thần hãy nghe! Chỉ để cho một người đàn bà máu mê quyền lực, bước lên ngôi Hoàng Thái hậu mà đến nỗi phải nhúng ngập tay vào máu đến vậy ư?
Nét mặt của Ỷ Lan Thái hậu co rúm một lần nữa. Và lần này trong giọng bà có thoáng chút ăn năn, như thì thầm với chính mình:
- Phải... Năm Thái Ninhthứ hai, trời mưa dầm dề không dứt. Cả tháng trời mưa... Ta đã sai rước Phật Pháp Vânvề Kinh để cầu tạnh. Ta đã làm đại lễ cầu Thần núi Tản Viên mong cứu nhân gian khỏi một trận hồng thuỷ... Và ta cũng sai người giam đương kim Hoàng Thái hậu cùng bẩy mươi sáu thị nữ vào Thượng Dương cung này rồi bức cho tất cả phải chết... Ta đã làm Hoàng Thái hậu sau cái chết của bẩy mươi bẩy người...!
Bây giờ đàn chuột đã sấn vào, leo cả lên lồng ngc và cánh tay của Ỷ Lan mà gặm thịt da bà. Ỷ Lan quằn quại. Đôi mắt can đảm vẫn nhìn không chớp vào Dương Thái hậu. Dương Thái hậu nghiến răng:
- Ngươi rước tượng Phật về thờ phụng. Ngươi lập đại lễ cầu đảo Thần núi Tản Viên... Một tay ngươi gõ mõ tụng kinh, một tay ngươi thọc sâu vào bầu máu trong gan ruột của những người vô tội!
- Đừng quá lời, Dương Thái hậu!
- Một người như Thái sư LýĐạo Thànhlừng lẫy công trạng, tận tuỵ phò vua giúp nước. Vậy mà ngươi, khiến cho ông ta buồn rầu đến mức phải lập Viện Địa Tạngtrong miếu Vương Thánh... Ngưi còn giả nhân giả nghĩa phao lên rằng ta và bẩy mươi sáu thị nữ vì quá thương tiếc Đức Hoàng đế mà tự vẫn chết theo hầu hạ người dưới suối vàng!...
- Ta làm sao có thể làm khác được. Thi nào cũng vậy thôi, mạng người quá rẻ trong tay các bậc đế vương, nhưng vẫn phải phủ lên những cái chết đó hoặc là một sự đê nhục, hoặc là phản trắc hoặc là một nghĩa cử huy hoàng. Điều này các bậc đế vương thường xuyên làm mà, hoàng hậu họ Dương!
- Ngay cả việc giết người ngươi cũng là một kẻ siêu quần. Nhưng sao ngươi nỡ vu cho ta cái điều mà chính bản thân ngươi cũng không thể làm được... Để lấp liếm việc bức hại chúng ta, ngươi còn noi theo tiền lệ cực kỳ hung ác của tên hung bạo TầnThủy Hoàngbuộc cung nữ phải chết theo vua. Sao ngươi không tự thiêu mà chết theo Đức Thánh Tông để làm gương cho thiên hạ?
- Phải. Ta đã dùng nhiều thủ đoạn, Dương Thái hậu. Ngươi chết oan là phải. Ở trong cung từng ấy năm mà ngươi vẫn không biết rằng cái bức đại vóc đẹp đẽ của triều đình bao giờ cũng dệt nên bởi những mưu mô và thủ đoạn được kéo ra từ những con kén ngậm máu và nước mắt sao...? Dù ta ám hại ngươi và bẩy mươi sáu thị nữ kia, ngươi cũng nên công bằng một chút. Sau đó ta đã dốc lòng niệm Phật, tu tạo nên hơn một trăm ngôi chùa, quảng bá Phật dạo cho thiên hạ thấm nhuần lẽ từ bi... Ngươi không thấy dưới triều con ta, nước Nam này đã lập nên những chiến công hiển hách chưa từng có, đã tôn tạo Quốc tử giám, noi gương Đức Thái Tổmở những khoa thi để thoát khỏi mọi sự mọi rợ hay sao? Dương Thái hậu, sao ngươi không quên thù oán riêng cho đất nước này? Ngươi chẳng qua cũng chỉ là một con mụ đàn b đầu óc nhỏ hẹp, chỉ dựa vào sắc đẹp và phong thư yểu điệu làm tài sản ở chốn thâm cung để suốt đời núp bóng các đế vương mà thôi...!
Dương Thái hậu lại cười nhạt:
- Hãy nhìn ta v bẩy mươi sáu oan hồn này, Ỷ Lan! Những kẻ đầy tham vọng như các ngươi vẫn quen coi mạng sống và niềm yên vui của kẻ khác là những thứ mà bất cứ lúc nào các ngươi cũng có thể tuỳ tiện dí nát dưới gót hài trên đường đeo đuổi mộng đế vương. Tai các ngươi đã điếc trước tiếng khóc than rên xiết của những người yếu ớt đã bị giẫm đạp dưới bước chân voi ngựa...
Mặt cắt không còn hạt máu, Linh Nhân cố rứt một con chuột đói đang lăm le ngoạm những chiếc răng nhọn hoắt vào mồm bà:
- Không... Ta không điếc... Nhưng ngươi cần phải biết, cái người điều binh khiển tướng khi mở đường máu cho một đại quân thì không được quá quan tâm đến tiếng kêu của kiến và cỏ...
Dương Thái hậu tiếp tục, căm hờn:
- Sau mỗi lần nhúng tay vào tội ác thì các ngươi giỏi giang lắm trong cách tìm ra những thủ đoạn để lấp liếm, phủ lên tội ác một bức màn trướng đẹp đẽ hòng che mắt thiên hạ. Ỷ Lan, ngươi che mắt được thiên hạ nhưng có che được con mắt của lương tâm ngươi không?
Bẩy mươi sáu oan hồn thị nữ rầm rì tiến lại với những bước chân đe doạ. Một trăm năm mươi bàn tay trong suốt đưa ra túm lấy áo Ỷ Lan. Ỷ Lan trợn tròn đôi mắt đã mất sinh khí. Bà lùi dần, sát vào chân tường:
- Không! Tiếc thay suốt đời ta đã không đánh lừa được lương tâm mình. Nhưng sau đó ta đã cố công khuyn nghiệp từ bi...
Khắp hầm mộ rộn rực tiếng các oan hồn không rõ hình hài. Bẩy mươi sáu thị nữ đã túm được áo Ỷ Lan Thái hậu. Dương Thái hậu căm phẫn:
- Ta biết, sau khi bức hại ta, ngươi đã hối hả tô tượng xây chuà ăn chay niệm phật. Há ngươi không biết rằng một dúm dân đen còm cõi của nước Nam, một mặt thì phải đưa ngực ra chống đỡ mũi tên hòn đạn của ngoại xâm, một tay thì phải dồn công góp của, thắt ruột phu phen tạp dịch... Còn đó những oan hồn dưới bức tường đá nặng trịch của những ngôi chùa. Ngươi làm cho dân hay chỉ để an ủi cái lương tâm ngươi, để ngươi được trọn vẹn hưởng lạc, Ỷ Lan? Tại sao khi có một vị gián quan can ngăn việc xây quá nhiều chùa tháp làm dân lao lực thì ngươi lại nổi giận và đày ông ta lên chốn rừng thiêng nước độc? Đó chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Phật dạy lời từ bi, dạy "Phật tại tâm...". Ngươi có thật sự tin rằng Phật đang ngự tại những ngôi chuà lộng lẫy mà ngươi đã xây nên không? Ta tin rằng đức Phật không ngự ở những nơi mà Phật có đốt đuốc đi tìm cũng chẳng thấy hai chữ từ bi...!
Những mảnh đại vóc của Ỷ Lan bắt đầu nc ra dưới bàn tay của các thị nữ. Thái hậu kinh hoàng chạy trốn. Nhưng từ bốn phía của hầm mộ cũng chìa ra tua tủa những bàn tay trong veo. Và đàn chuột đói hầm hè trở nên đông đúc vô kể. Ngạn La thấy thương xót trước vẻ tuyệt vọng của Ỷ Lan. Nàng xót xa quỳ xuống trước mặt Dương Thái hậu:
- Xin bà tha cho cái bà bị chuột cắn kia. Đau lắm! Bà ấy không chịu nổi đâu...
Lúc đó Dương Thái hậu mới nhớ đến Ngạn La. Bà đỡ nàng dậy, ánh mắt dịu đi:
- Không. Đây không phải là ta, cô bé ạ. Đây là âm phủ. Con là người có duyên có kiếp nên mới được tiết lộ về những câu chuyện cõi âm. Con còn bé quá, chưa biết rằng ở trên trần thế, người ta có thể chạy trốn nhiều thứ. Nhưng khi chết xuống âm phủ thì người người đều phải đối diện với chính mình trước mặt Diêm Vương.
Ỷ Lan Thái hậu oằn mình vì đau, hỏi Ngạn La:
- Ngươi là ai? Sao dám nghe những chuyn chết người này? Ta cấm chỉ ngươi không được tiết lộ với bất kỳ ai. Dù ta chết đã lâu nhưng trong dân gian đâu đâu cũng đang tôn thờ ca tụng công đức của ta và con trai ta. Ngươi muốn giữ mạng thì hãy liệu giữ mồm.
Dương Thái hậu phá lên cười:
- Ôi, Ỷ Lan. Âm phủ đã mười năm mà sao ngươi vẫn còn chưa từ bỏ những tham vọng hão huyền! Một người đàn bà sắc sảo như ngươi mà li không biết rằng thiên hạ thờ người chết, thật ra chẳng qua thiên hạ mượn thây chết mà dùng cho những mục đích của họ đấy thôi. Hãy trông đây Ỷ Lan... Vưu vật tuyệt thế này đã bị cái lệ ộc ác mà ngươi đặt ra đưa lên giàn thiêu. Ngươi và cả ta nữa, cũng chưa biết được nỗi sợ hãi khi kề cận cái giàn thiêu mà cô bé con vô tội này phải trải qua. May mắn thoát khỏi ngọn lửa thiêu, cô bé lập tức bị tống vào lãnh cung. Con chim nhỏ này đã làm nên tội tình gì?
Ngạn La quay sang nhìn Ỷ Lan với đôi mắt căm hờn. Nhưng khi trông thấy máu rỉ ra từ những vết thương bị chuột cắn của bà, nàng lại động lòng thương xót.
Bỗng nghe có tiếng ồn ào và tiếng khoá sắt ngoài cửa lim khua loảng xoảng. Lắng nghe kỹ nữa, dường như có tiếng trống "tum...tum...". Trong nháy mắt, Dương Thái hậu, bẩy mươi sáu thị nữ, Ỷ Lan Thái hậu và lũ chuột biến vào cái miệng mở toang của hầm mộ. Hầm mộ khép lại không còn dấu vết.
Cnh cửa lãnh cung đột ngột mở toang. Luồng ánh sáng chói gắt oà vào xô ngã Ngạn La. Nàng lẩy bẩy che mắt nhìn, thấy bốn người khiêng chiếc võng điều. Kèm bên là bốn thị nữ đã đưa nàng vào buồng tắm của tiên hoàng lúc mới vào cung. Những người khiêng võng nhanh nhẹn đặt Ngạn La hầu như bất tỉnh vào trong võng rồi khiêng đi.
Khi nàng tỉnh lại trong hồ nước tắm thơm, lại thấy bốn thị n đang lặp lại những cử chỉ săn sóc thân thể nàng như lúc mới vào cung. Một lần nữa tấm thân mảnh mai mượt như lụa của Ngạn La lại được tẩm hương. Ngạn La tỉnh hẳn dưới sự vuốt ve của ln nước nóng trong hồ tắm ngọc. Nàng lờ mờ hiểu rằng mình đang được chuẩn bị cho một lễ dâng hiến.
Chương thứ :11 "
Mậu Thân, Tháng Ba. Thiên Thuậnnăm thứ nhất (1128).
ThầnTông vật vã trên nệm gấm</EM>
Lên ngôi mới được ba tháng, ngài vẫn còn là một con rối mặc hoàng bào, được nhào nặn từ khí chất của một vị hoàng đế quyền uy với một đứa trẻ mười ba tuổi tính nết thất thường được chiều chuộng tột đỉnh và hay hờn dỗi.
Thấy vua còn là trẻ con, các phe phái trong triều không bỏ lỡ, chen vai thích cánh tranh thủ tâu bày việc nọ việc kia khiến vua liên tục xuống chiếu, ban ra những ngự lệnh có khi đối chọi nhau như nước với lửa.
Ngày Tân Mão, tháng Giêng, để tỏ lòng tiếc nhớ Tiên hoàng Nhân Tôngvừa băng, vua ban chiếu cấm dân chúng không được cưỡi ngựa, đi võng màu lam, xe che màn. Thế nhưng chưa được một tháng sau, chưa đến lễ tốt khốc, đã truyền cho các quan cởi bỏ áo trở. Lại sai Viên ngoại lang Lý Khánh Thầnvà vợ đi đón con gái của Điện tiền chỉ huy sứ Lý Sơnđể lập làm Lệ ThiênHoàng hậu, sai Viên ngoại lang Trần NgọcĐộvà vợ đi đón con gái của Lê Xươnglà cháu chú bác của Thái uý Lê Bá Ngọcvào cung lập làm Minh Bảophu nhân... Khiến thiên hạ có lời đàm tiếu về chữ hiếu của đấng tân vương. Một loạt các chức vụ, quan lại trong triều được định đoạt chỉ dựa vào ý thích của vị tân vương non trẻ và những lời tâu trình nhỏ to của lũ cận thần, nội thị hầu hạ trong cung. Ngày Kỷ Sửu tháng Giêng, biếm Đại liêu bang Lý Sùng Phúcvì đi qua cửa thành Tây Dương, người tuần tra hỏi mà không trả lời. Ngày TânSửucùng tháng, lấy Lê Bá Ngọclàm Thái uý, thăng tước Hầu. Nội nhân hoả đầu Lưu Ba, DươngAnh Nhĩlàm Thái phó, tước Đại liêu bang. Nội nhân hoả đầu Lý Khánh, Nguyễn Phúc, Cao Y làm Thái Bảo, tước Nội thương chế. Nội chi hậu quản gáip Lý Sơnlàm Điện tiền chỉ huy sứ. Trung thừa MâuDuĐôlàm Gián Nghị đi phu. Rồi Lý Tử Khắcchỉ có công dâng tấu ở rừng GiangĐếcó hươu trắng, vua sai người đi bắt được, liền sắc phong ngay Khắc làm Khu mật sứ, xếp vào hàng Minh Tụ, được đội mũ bẩy cầu...
Biết Thần Tôngvốn là một đứa trẻ yếu đuối, hay mềm lòng, mỗi khi thấy những kẻ tội nhân đói khát, rách rưới, bị lao dch, đánh đập trong nhà ngục của Đô hộ phủ thì không sao chịu nổi, thường ôm mặt khóc nức nở, quan hầu cận lập tức đưa xa giá đi nơi khác, bắt hý phường hay con hát làm cho vua nguôi ngoai, người nhà của phường kẻ cướp đại gian đại ác đang bị nhốt trong Đô hộ phủ hợp nhau lại, bàn kế đem vàng lụa đút lót cho lũ thái giám, cận thần hầu hạ vua. Bọn này tìm cách mượn lời lẽ ngọt nht thương cảm nói về nhân nghĩa khiến vua đọc lời tấu lại ôm mặt khóc lần nữa. Tháng Hai Thiên Thuậnnăm thứ nhất, tháng Hai Thiên Thuậnnăm thứ hai, vua xuống chiếu nhất loạt tha tội cho cc tội nhân và những kẻ bị biếm truất trong nước...
Cũng như các đấng tiên đế, Thần Tông một long sùng kính Phật. Mọi hưng vong, thành bại của việc, của người vua và các cận thần đều qui công cho Phật, Đạo. Tháng Giêng Mậu Thân, Nhập nội Thái phó Lý Công Bìnhphụng chỉ đem quân đi đánh Chân Lạpvào cướp bóc ở bến Ba Đầu, châu Nghệ An. Ngày Đinh Mão, tháng Hai, tin báo thắng trận về kinh. Hôm sau, ngày Mậu Thìn, vua ngự đến hai cung Thái Thanh, Cảnh Linhcùng nhiều chùa quán trong kinh thành để làm lễ tạ ơn Phật, Đạo... mà quên những việc tưởng thưởng, uý lạo tướng sĩ đã có công phá giặc...
Thần Tông vật vã trên nệm gấm.
Một giải áo kết bằng chỉ kim tuyến màu cẩm đào dưới nách vạt áo gấm của đức vua vị tuột, tà áo cẩu thả trễ xuống. Cung nữ quạt kề bên muốn quì xuống để nâng buộc lại mà không dám. Thấy hơi thở của ngài ngự gấp gáp, tưởng ngài khát, một cung nữ khác vội dâng lên chén sâm thang. Nhưng bất chợt ngài vung tay hất đổ bát thang, tung chân đạp vào mặt cung nữ, miệng la hét ầm ĩ "Cút đi! Các ngươi cút hết đi cho khuất mắt ta... ta không muốn nhìn thấy mặt các người...!"
Đám cung nữ sợ mất vía, chạy dạt sang bên, không dám bỏ đi.
Bàn ngự thiện đặt trước long sàng. Sáng nay, giữa bàn đặt món trân vị dưới hình hài một con ngỗng vàng còn nguyên mỏ và đôi cánh vươn cao như sắp bay lên. Để làm món trân vị, Ngự trù thuộc Lục thượng cục trong cung đã phải mời các hoả đầu đã từng nấu ăn trong cung nhà Tống. Phải nhốt ngỗng trong lồng kín ba tháng không để ánh mặt trời lọt vào, nuôi ngỗng bằng những hạt kê vàng trộn sữa dê cùng với một thứ bột màu nâu bí truyền của đầu bếp phương bắc. Khi mở lồng, ngỗng gần như mù kín mắt, không nhích nổi một bước nhưng cái mỏ thì đỏ chót, đôi chân mập bụ sữa, thịt mềm da vàng óng. Làm lông, mổ bụng, nhồi bát vị vào bụng ngỗng. Thêm một con sơn dương mổ sẵn. Ướp trân vị vào bụng sơn dương. Đặt ngỗng vào trong bụng sơn dương, khâu kín bằng chỉ ruột mèo. Quay sơn dương trên lò than hoa. Cứ đúng thời khắc lại gia giảm thêm những gia vị bí ẩn thỏang mùi thơm hắc. Sơn dương chín vàng ươm, mở bụng, khéo tay lấy ngỗng ra, lại tẩm thêm gia vị chiết từ nhựa loại cây rừng mà tù trưởng các vùng phiên trấn thường mang theo mình để hít thở mùi thơm. Cái mùi thơm đặc biệt ấy khiến các tù trưởng trèo đèo lội suối hay dâm lạc với đàn bà không khi nào thấy mệt! Món trân vị đã hoàn tất. Ngỗng vàng được đặt trên bàn ngự thin, còn thịt sơn dương trong lúc cao hứng vua thường sai lũ nội thị xé từng miếng nhỏ ban thưởng cho các cận thần, quí phi...
Sau lưng vị vua trẻ, chỉ vén tấm rèm đại vóc màu phỉ thuý kia, sẽ hiện ra dục thất của ngài ngự. Một bể tắm lớn bằng đá hoa cương cũng màu phỉ thuý, bốn phía đặt những tấm gương đồng sáng choang. Mỗi ngày, sau buổi thiết triều, vị vua nhỏ tuổi được dìu vào chốn này, trút bỏ ngự bào trong tiếng đàn sáo từ trên cao toả xuống. Rồi trong làn hơi nước thơm ngào ngạt, mờ ảo sương giăng. Ngài ngự sẽ ng vào tay bầy cung nữ tuổi chưa quá mười ba mà thân hình đã nở nang, da trắng như mỡ đông, tóc xoã ướt tựa rong rêu, choàng ngang thân một mảnh vải cũng màu phỉ thuý mờ đục khiến cho những đường cong càng thêm khêu gợi nõn nường. Những đôi tay dệt thành một tấm lưới dịu ngọt, đỡ lấy vị hoàng đế gầy mảnh. Bằng những kinh nghiệm thâu nhận kỹ lưỡng từ những cung nữ luống tuổi dày dn trong hậu cung, các cung nữ trẻ dìu vị chúa tể của họ vào cõi cực lạc, dưới sự trông coi không rời mắt của lũ giám quan đứng nửa kín nửa hở sau những tấm rèm buông chùng xung quanh. Khi Tiên hoàng băng chưa đầy một tháng, sau khi ban chiếu cho triều đình bỏ áo trở, Thần Tông được dìu vào chốn này. Dù được sinh ra trong nhà Sùng Hiền hầu hoàng thân sang cả bậc nhất kinh thành, lên hai tuổi được vua bác là Nhân Tôngvì không có con nối dõi, đem vào cung nuôi, lập làm Hoàng Thái tử, hưởng đủ mọi xa hoa, lại đã tập hành lạc với th nữ từ năm lên tám, không lạ gì hơi hướng sắc đẹp, nhưng lên ngôi vua, vào đến chốn long sàng, vào đến bồn tắm phỉ thuý, vẫn cảm thấy cực khoái đến ngạt thở, tưởng chừng đang chơi vơi ở cõi Bồng lai. Sau này mới hiểu, tại sao trong các triều đình thường lâm vào cảnh nồi da nấu thịt, thuốc độc hoặc bùa chú ám hại lẫn nhau trong anh em ruột thịt để đoạt ngôi báu. Mê man trong lạc th bởi những tay thâm hậu chuyên bày đặt kỳ công đưa ra cho các vị chúa tể, Thần Tông trễ nải việc triều chính, chẳng nghĩ đến thiết triều, suốt ngày uể oải đê mê hưởng ái ân trong tay cung nữ.
Nhưng lúc này, sau một tháng mê man cùng những lạc thú nơi cung cấm, vị vua trẻ bắt đầu lờ mờ cảm thấy một điều gì đó. Tận đáy lòng, ngài thấy như thiếu một điều gì. Một cơn khát không bao giờ thoả. Trong làn sương ngào ngạt phả ra từ bồn tắm, trong văng vẳng tiếng nhạc thăng giáng từ nóc cung điện, manh nha một nỗi trống trải. Ngài cố tìm trong ký ức. Một hình bóng nào đó ẩn hiện từ kiếp trước. Bóng ma nào lẩn khuất và vẫy gọi? Ngài chịu không hiểu nổi, không thể gọi tên. Đã ba ngày nay, đức vua bé nhỏ vật vã trên long sàng.
Những lúc ngài ngự tính khí thất thường, các cung nữ hay lũ nội giám thường ngầm bảo nhau chạy sang báo với Lệ Thiênhoàng hậu. Hoàng hậu cốt cách đoan chính, lại lớn hơn bốn tuổi, luôn biết cách làm đức vua dịu tính lại. Nhiều lúc nhìn Lệ Thiên hoàng hậu vỗ về, dỗ dành Thần Tôngnhư một người chị cả vỗ về an ủi đứa em nhỏ, lũ cung nữ và nội giám đứng hầu xung quanh không khỏi bấm bụng bưng miệng nhịn cười. Rồi lại còn Minh Bảophu nhân, một kiều nữ thướt tha yểu điệu mà thường ngày ngài ngự rất gần gụi yêu quí. Đã có những lúc ngài ngự khi ăn khi ngủ đều phải có phu nhân kề bên, tay trong tay má kề má. Nhiều khi ngài chỉ mong cho chóng kết thúc việc thiết triều tẻ nhạt kéo dài lê thê để nhanh chóng lên kiệu truyền cho lũ nội giám, cung nữ theo hầu đi nhanh về nội cung để được nhìn mặt cầm tay Minh Bảo phu nhân... Nhưng đã năm ngày nay ngài ngự chẳng vời đến Lệ Thiên hoàng hậu mà cng chẳng nhắc đến Minh Bảo phu nhân.
Lòng cồn cào như lửa đốt. Thần Tông rời long sàng, truyền thị nữ đưa vào hồ tắm.
Những tưởng nước tắm và các cung nữ sẽ khiến cho ngài đỡ cồn cào, trống vắng. Ai ngờ, càng tắm, càng nhìn các cung nữ lả lướt trước mắt, nõi buồn trong lòng Thần Tông càng tê tái. Càng thấy thiếu một điều gì đó, thiếu một ai đó đến rưng rưng. Nước mắt tự nhiên ứa ra, rơi xuống hồ phỉ thuý. Chợt Đức vua đứng vùng dậy, khiến cho các cung nữ hốt hoảng ngã dạt ra tứ phía. Gọi giật giọng:
- Thái giám?
Viên Tổng Thái giám đang đứng kính cẩn khoanh tay sau bức màn, lòng lạnh tanh trước những cảnh trong cung cấm, chỉ chăm chăm lo lắng đến việc bảo toàn sự an nguy của ngài ngự, không bỏ sót bất kỳ cử chỉ nào của các giám quan chầu hầu và cung nữ. Dù Đức vua gọi giật giọng, không hề hoảng hốt, Thái giám khoan thai bước đến bên cạnh hồ tắm, cúi đầu thi lễ:
- Muôn tâu! Hạ thần xin chờ lệnh...
Thần Tông hơi cau có nhìn cái vẻ khúm núm của Thái giám. Bụng dạ người ta thật khó lường. Ngài nhớ, cha ngài là đức Sùng Hiền hầu đã có lần nói rằng, chính viên Tổng Thái giám này trước đây đã cố sức ngăn cản việc lập ngài lên làm Hoàng Thái tử. May nhờ đức Nhân Tông và Ỷ Lan Thái hậu một dạ quyết đoán nên ngài, lúc đó mang tên Dương Hoán, mới được lên ngôi vua ngy hôm nay.
Thần Tông sẵng giọng:
- Nghe đây. Ngươi có nhớ... - giọng nói của đức vua bất chợt bật ra, gấp gáp... Giàn thiêu cung nữ ở Na Ngạn...
- Dạ bẩm Hoàng thượng...
- Có đứa con gái mà ta tha tội chết trên giàn thiêu...
- Dạ bẩm Hoàng thượng...
-Nhà ngươi không phải thưa bẩm gì cả... Hãy mang con bé đó lại đây cho ta... Mang ngay...!
- Dạ bẩm hoàng thượng...
Tổng Thái giám dập đầu quỳ lạy trước hồ tắm, hai đầu gối xiêu vẹo vì sợ hãi.
Tổng Thái giám không được tháp tùng đức hoàng thượng trong chuyến đi Na Ngạn làm lễ thiêu các cung nữ gửi xuống suối vàng để hầu hạ tiên đế, nhưng chuyện về cung nữ Ngạn La thì ai trong chốn hậu cung này chẳng rõ. Không phải vì cô bị giam trong lãnh cung. Những kẻ xấu số dẫu có nối nhau bỏ mạng nơi thâm cung u tối đó cũng chẳng ai để ý đến. Nhưng việc tân cung nữ mười ba tuổi Ngạn La dám chống lệnh triều đình, không bước lên giàn thiêu theo hầu đức tiên đế nơi chín suối là một tội tày đình mà chỉ có nhờ lượng cả bao dung của đức vua Thần Tông mới thoát khỏi cái tội chém ngang lưng. Giam cô ta vào lãnh cung để nhận cái chết dần mòn là phúc cho cô lắm. Thế mà giờ đây Hoàng thượng lại truyền vời Ngạn La đến hầu...!
- Dạ bẩm Hoàng thượng...
- Sao nữa... Ngươi còn đứng trơ ra đó à?
Đức vua thét.
Thái giám nín hơi lấy hết can đảm:
- Dạ... Bẩm tâu... Ngạn La hiện bị giam... trong lãnh cung... Xin bệ hạ tha tội chết cho thần... Thần e rằng...
Vừa nghe xong, Thần Tông xé toạc luôn cái khăn đang quấn ngang người:
- Bị giam vào lãnh cung? Ai giam... Ta hỏi ngươi... kẻ nào cả gan giam nàng...?
Một lần nữa lồng ngực viên Thái giám thót lại. Làm sao dám tâu bày đó chính là truyền chỉ của Hoàng thượng! Ai có thể nghĩ rng đến một nào đó như lúc này Hoàng thượng lại chợt nhớ, lại truyền chỉ đưa cung nữ tội nhân đó vào hầu hạ bên long sàng...
Nhưng thật may cho viên thái giám. Thần Tông đã bất chợt lăn mình trên đệm gấm, hai tay đập thình thình miệng la hét liên hồi:
- Mặc... Mặc các người...! Mang nàng đến cho ta...! Rồi các ngươi cút ngay đi cho khuất mắt ta...!
Tổng Thái giám lại dập đầu cúi lạy rồi lập cập lui ra.
Thần Tông chong chong nhìn ra ngoài, vật vã nóng lòng từng giờ từng khắc ngóng đợi tiếng trống bạc báo hiệu võng đưa Ngạn La tới...
Tổng Thái giám đã trở lại sau khi cắt đặt người đến lãnh cung đón cung nữ Ngạn La. Ngắm Đức vua nôn nóng như đứa trẻ nằng nặc đòi một thứ đồ, Viên Tổng Thái giám chợt nhớ đến cậu bé Dương Hoán cách đây mười hai năm.
*
**
Mùa thu, tháng Bẩy, ngày hai mươi nhăm. Hội TườngĐại Khánhnăm thứ tám (1117). Vua Nhân Tông thẫn thờ ngấn lệ, quanh quẩn không rời bên gối Ỷ Lan Hoàng Thái hậu.
Thái hậu vừa băng.
Khi Thái hậu lâm trọng bệnh, gương mặt đẹp đẽ thường ngày của bà đã bắt đầu biết dạng. Bà nằm trên giường, thỉnh thoảng lại đứng phắt dậy, kêu rú, luôn miệng thét đuổi chuột, chân giẫy đành đạch, tay hoảng loạn đưa qua đưa lại quanh mình như cố sức vứt một vật gì ra khỏi da thịt. Những lúc như vậy, mặc các thị nữ lay gi, Ỷ Lan Thái hậu không nhận ra bất kỳ ai, chỉ thỉnh thoảng khóc gọi tên Dương Thái hậu rồi nghiến răng kèn kẹt. Ba ngày nay, những cơn mê sảng mỗi lúc càng bấn loạn. Ngự y vào xem mạch, khoát tay lắc đầu thất vọng, nói vào tai Thái bảo Lý Trác: "Trong nội nhật thôi!". Vua Nhân Tông khóc nức, cùng tất cả các hoàng thân Sùng Hiền hầu, Thành Khánh hầu, Thành Quảng hầu, Thành Chiêu hầu, Thành Hưng hầu và các hoàng hậu, phu nhân, các trọng thần chầu chực bên giường. Khi đến, Thái hậu đã bằn bặt thiếp đi, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Vua và các hầu cùng thị nữ cất tiếng khóc vang trời. Ở bên ngoài, hữu ty và các lễ quan bắt đầu tấp nập lo hậu sự.
Bỗng nhiên mi mắt Thái hậu giật nhẹ. Rồi bà chống tay ngồi dậy, vẻ khoẻ mạnh tỉnh táo hoàn toàn, như không có chuyện gì xảy ra. Nhân Tông và những người ngồi quanh reo lên mừng rỡ. Hoàng hậu và các thị nữ vội đỡ lưng. Thái hậu đưa đôi mắt thoắt trở lại tinh tường nhìn lướt khắp các khuôn mặt. Giọng nói của Thái hậu chợt lại vẫn uy nghi:
- Ta dặn các ngươi rồi... Thằng bé con đó đâu?
- Muôn tâu...!
- Mang nó lại đây cho ta...
- Muôn tâu...!
Nhân Tông ra hiệu. Thái bảo Lý Trác lật đật đến bên Sùng Hiền hầu phu nhân. Hai vợ chồng Sùng Hiền hầu vội vàng trở ra. Thị nữ chực sẵn lúc nào từ ngoài cửa, tay bế Dương Hoán mới chừng hai tuổi. Sùng Hiền hầu phu nhân hối hả như giằng lấy con, cùng chồng và Lý Trác bế đến bên giường Thái hậu. Khi vợ chồng Sùng Hiền hầu tới nơi, đã thấy bn cậu con trai đẹp đẽ, khoẻ mạnh là con của các hầu, lớn hơn Dương Hoán. Nét mặt của tất cả mọi người đều căng thẳng, quyết liệt. Đức vua Nhân Tông thở dài buồn nản. Riêng hoàng hậu thì c nhìn những đứa bé trai mà tủi phận khóc rũ rượi sau lưng Thái hậu.
Vừa thấy Dương Hoán trong tay Sùng Hiền hầu phu nhân, mặt Thái hậu tươi lên. Bà đưa bàn tay khô khỏng chạm nhẹ lên vầng trán rộng, sáng ngời của đứa bé:
- Cái trán này, có thể giữ vững cơ nghiệp cho nhà Lý ta đây.
Tổng Thái giám nhớ, lúc trong rõ mặt đứa bé hai tuổi Dương Hoán, ông đã giật mình. Rất quen. Một gưng mặt mà ông đã gặp. Dung mạo ấy khác thường, hơi ma quái, có sức sai khiến người. Gặp một lần không thể quên. Nhưng không thể gọi tên.
Thái hậu đột ngột ngẩng lên. Người nhìn như điểm mt Nhân Tông, Hoàng hậu, vợ chồng Sùng Hiền hầu và tất cả mọi người đang đứng im phắc như nín thở quanh giường. Thái hậu im lặng hít một hi dài rồi lại thong thả lên tiếng:
- Các ngươi hãy nghe ta... Thằng bé này mới hơn hai tuổi đã thông minh đĩnh ngộ, dung mạo chẳng phải thường... Cả đời ta không tiếc công sức để gìn giữ ngôi báu. Xã tắc luôn cần có người tài để cai trị. Đức vua hiện nay bạc phận không con nối dõi. Trước đây ta đã truyền đem con trai của các hầu vào nuôi dưỡng trong cung, chọn lấy đứa tài nhất. Xem ra Dương Hoán dù mới hai tuổi nhưng là đứa nổi trội hơn cả. Khác hẳn người thường. Sau khi ta chết, hãy lập thằng bé này làm Thái tử, sau này lên nối ngôi trị vì thiên hạ, duy trì ngàn đời triều đi nhà Lý ta...!
Chung quanh lặng ắng đi sau lời phán truyền của Thái hậu. Vẻ thất vọng thoáng chút căm tức hiện lên trên khuôn mặt của các hoàng thân và phu nhân.
Chờ đợi giây lát, Thái hậu c ngẩng đầu lên nhìn lại chung quanh, gằn giọng hỏi lại:
- Các người... có nghe rõ lời ta... truyền... không?
Chỉ có đức vua và vợ chồng Sùng Hiền hầu cùng Thái bảo Lý Trác vội vã đáp:
- Dạ bẩm Thái hậu... Hoàng nhi và các triều thần đều nghe rõ rồi ạ...!
- Được...!
Thái hậu buông tay. Những lời nói vừa rồi đã làm Thái hậu kiệt sức, bà nhắm mắt ngả lưng tựa vào tay hai cung nữ đỡ phía sau để thở. Nhưng đôi mắt của Thái hậu vẫn hé mở. Bà ưỡn người nhìn quanh như ể đắn đo. Ánh mắt dừng lại trên mặt quan Nội chi hậu quản giáp Lý Sơn. Thái hậu đưa ngón tay làm hiệu vẫy tiểu thư con Lý Sơn lại gần. Cô bé sáu tuổi từ nãy đến giờ nép bên tay mẹ nhìn Thái hậu, giờ sợ hãi chồn chân trụ lại. Nhưng người mẹ đã ý tứ nhẹ nhàng đẩy con lên với nỗi hồi hộp cuồn cuộn như sóng trong lòng. Cô bé đến bên giường. Thái hậu lặng lẽ nhìn cô bé giây lát rồi run rẩy chạm vào bàn tay bụ bẫm của cô bé. Cố sức lắm Thái hậu mới đưa được bàn tay đó đặt vào bàn tay Dương Hoán:
- Các ngươi hãy nghe... Một mai đứa nhỏ lên ngôi báu thì cử hành ngay lễ nạp hậu đón con bé này vào cai quản nội cung... Phải làm tức thì việc này... Cái hoạ trống ngôi thái tử, trống ngôi hoàng hậu, gây cảnh nồi da nấu thịt, hẳn các ngươi chẳng lạ gì...!
Tiếng dạ ran lên xung quanh. Không ai có gan nói thêm được lời nào về những định liệu của Thái hậu. Sùng Hiền hầu là huynh đệ với Đức đương kim hoàng thượng. Nội chi hậu quản giáp Lý Sơn là người hoàng tộc trong tay nắm giữ hầu hết binh mã của triều đình. Nhưng điều quan trọng hơn nữa là phu nhân Đỗ Thị vợ Sùng Hiền hầu và phu nhân Nguyễn Thịvợ Lý Sơn đều thuộc dòng họ nội, ngoại của Thái hậu và được Thái hậu đưa vào cung gây dựng cho từ khi người được đức Thánh Tôngban ân sủng...
Nói rồi, Thái hậu bỗng đổ sập xuống gối. Bà thở hắt, đầu ngật ra sau, mắt trợn ngược. Thái hậu băng.
Nhân Tông đặt bàn tay vuốt mắt mẹ. Vuốt ba lần, mắt vẫn mở trừng trừng. Đến khi ngài ra lệnh cho Thái bảo Lý Trác đuổi hết mọi người ra ngoài. Chỉ còn một mình với thi hài Thái hậu, ngài khóc rưng rức, khấn tên Dương Thái hậu. Khấn lần thứ nhất, mắt vẫn không khép. Nhân Tông quì xuống khấn lần thứ hai, thi hài Ỷ Lan Thái hậu giật mạnh, gần như chồm dậy. Khấn lần thứ ba, thi hài từ từ nằm xuống, không vuốt mà mắt tự khép lại. Nhân Tông ngửa đầu khóc ba lần: "Chẳng lẽ có đức Phật thật sao?", và bước ra ngoài. Hữu ty và lễ quan đã răm rắp sắp đặt hậu sự. Thái hậu được dâng tên thuỵ là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu.
Vua Nhân Tông buồn đau khôn xiết, nhất nhất làm theo lời mẹ, ngay cả việc hoả táng thi hài và đem chôn sống ba người thị nữ đã tận tuỵ hầu hạ Thái hậu hết sức chu toàn. Một của Linh Nhân táng ở Thọ Lăng phủ Thiêm Đức. Xung quanh ngôi mộ lộng lẫy đào ba chiếc huyệt. Ba thị nữ được xốc nách dìu tới, đẩy xuống huyệt. Trong tiếng khóc nghẹn xé ruột của những người bị cưỡng phải lìa bỏ xuộc sống, mộ đoàn tăng ni tay lần tràng hạt, tay cầm phướn đi rắc nước thiêng xuống mộ và rưới lên đầu những người bị chôn sống. Trong lúc đó, những tảng đất được lấp dần đến bàn chân, đầu gối, bụng và cổ kẻ xấu số. Khi đất lấp đến cằm, những người xấu số không thể chửi rủa được nữa, miệng chỉ còn ngớp ngớp như cá mắc cạn và đôi mắt muốn nứt tròng để lộ vẻ căm hờn. Để hoàn tất công việc, người ta bỏ vào miệng mỗi người một đồng tiền rồi lấp kín đầu. Lúc đó, những người đứng gần đấy vẫn thấy ngôi mộ sống giẫy lên rùng rùng và tiếng ằng ặc vọng lên một cách yếu ớt từ dưới đất.
Thái giám vẫn nhớ, sau khi Thái hậu mất, giông bão trong triều nội khởi phát. Các hoàng thân đều hậm hực ngăn cản việc lập Dương Hoán làm Thái tử, lấy cớ rằng cậu bé ốm yêu, trông không giống người thường, lại còn quá trứng nước. Đức hoàng thượng đã cao tuổi, chẳng may có mệnh hệ nào thì vua còn nhỏ như vậy làm sao có thể cai trị thiên hạ, giữ bền xã tắc? Các quan trong triều người phò Dương Hoán, kẻ kết bè với các hoàng thân.
Cậu bé hai tuổi Dương Hoán đã được đưa vào cung nuôi dạy cùng con trai các vương hầu khác. Có lần cung nữ chuyên hầu hạ nâng giấc cho Dương Hoán đang lúc nửa đêm bỗng hét ầm lên khiếp sợ. Thái giám, thị vệ hốt hoảng chạy tới. Cảnh tượng kinh hoàng trước mắt: Một con rắn lục màu xanh lẹt đang quấn quanh cổ Dương Hoán, vươn cổ định mỏ vào thái dương. Dương Hoán vẫn ngủ say. Cung nữ thì đang run lẩy bẩy trong góc phòng, khiếp đảm muốn ngất. Thái giám thị vệ cung cuồng không biết bằng cách nào bảo toàn tính mạng cho cậu bé.
Cái lưỡi nhọn ghê tởm của con rắn độc hạ thấp sát thái dương cậu bé. Vòng cuốn quanh cổ cậu bé lỏng dần, để chỗ cho cái cổ lấy đà vươn cao chực mổ xuống. Đám thị vệ đứng lặng vì bất lực. Thị nữ ngất xỉu đi.
Bỗng Dương Hoán mở mắt. Bàn tay cậu bé đưa lên, đặt vào đúng mõm con rắn xanh. Đám thị vệ thét lên một tiếng kinh hoàng, nhắm mắt lại.
Đến khi mọi người chung quanh mở mắt, thì thấy Dương Hoán đang chơi đùa với rắn. Con rắn lục với nọc độc khủng khiếp giờ đây đã nằm ngoan ngoãn trong lòng bàn tay hồng hồng nhỏ xíu!
Tổng Thái giám nhớ, lúc ấy mắt Dương Hoán ánh lên vẻ gì đó rất khác lạ. Lần thứ hai, ông lại tự vỗ đầu mình, cố nhớ lại xem cái diện mạo này đã gặp ở chốn nào.
Đức Nhân Tông giao cho Tam pháp ty điều tra vụ con rắn lục nhưng không sao ra manh mối. Dẫu vậy, nhiều kẻ tâm phúc trong gia đình hoàng thân quyền cao chức trọng ở triều đình đã biến mất khỏi kinh thành.
Ba tháng sau khi Thái hậu mất, mùa đông, tháng Mười, vua Nhân Tông lệnh cho quần thần văn võ ngự đến hành cung Khải Thụy xem gt và cày ruộng tịch điền. Hữu ty lập trước ở đây một đàn tế Thần nông. Lễ dâng lên Thần nông một mâm xôi trắng, một thủ lợn to, bốn chân giò... Đám thợ gặt chờ sẵn trên ruộng tung hô vạn tuế. Những lượm lúa nặng trĩu hạt đầu tiên được dâng lên ngài ngự. Vua nâng cao lượm lúa trĩu hạt vàng, khấn lạy bốn phương tám hướng t ơn trời phật. Lượm lúa truyền qua tay các hoàng thân quốc thích, bá quan văn võ đại thần. Cuối cùng, lượm lúa đến tay quan Trung thư thị lang để chuyển cho đám nông phu chờ sẵn bên cối giã. Đám nng phu kính cẩn tuốt từng hạt lúa, giã kỹ thành gạo trắng bong để nấu nồi cơm cúng đặt lên bàn thờ Thần Nông. Lát nữa, tàn một tuần hương, các quan Thái bốc, chiêm tinh sẽ hạ mâm cơm gạo mới xuống để nhìn móng chân giò lợn mà đoán trước vụ mùa sắp tới được, mất...
Dùng xong bữa cơm đạm bạc dọn ngay trên bờ ruộng với các lão nông, vua Nhân Tông cởi áo bào, khoác lên người bộ áo tơi nón lá. Giữa khoảnh ruộng phẳng, một chiếc lưỡi cày sáng choang, tay cày buộc khăn lụa đỏ và con trâu cộ đôi sừng cong vút đang chờ Hoàng thượng. Theo lệ đặt ra từ đời tiên hoàng Thái Tông, đức vua đi cày cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, và nêu gương cho nông phu trăm họ.
Năm nay, khác với mọi năm, Đức vua mở đường cày cắt ngang ruộng rộng rồi bất chợt họ trâu, cắm cày dừng lại giữa luống, phất tay lệnh cho Thái bảo Lý Trác. Lý Trác bước lên bậc cao của hành cung, cung kính nâng tờ chiếu viết trên vuông lụa màu vàng, cao giọng đọc:
- "... Trẫm nay cai trị muôn dân mà lâu không có con nối, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? Vậy nên trẫm nuôi các con trai của Sùng Hiện, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng để chọn người nào giỏi thì lập làm Thái tử. Khi Thái hậu băng, người đã có di chiếu, Dương Hoán được lập làm Thái tử. Nhưng do trong triều còn có nhiều kẻ không phục, nói Dương Hoán còn trứng nước. Trẫm thật đau lòng khi vì một ngôi Thái tử mà có thể dẫn tới chuyện không hay trong cốt nhục. Vậy nay, thể lòng các hầu, nay nhân lễ tịch điền, ta trao việc chọn lựa Hoàng Thái tử vào tay Trời, Phật...!".
Đám nội giám lễ mễ bê ra năm chiếc tráp lớn đặt trước mặt năm cậu con trai của các chức hầu. Mở tráp, bầy ra la liệt trước mặt các cậu bé: cung kiếm đao thương, lụa là gấm vóc, nghiên bút kinh sách... cho chí đến những vật dụng thường ngày như son phấn gương lược, rượu chè, kẹo bánh, hoa quả...
Các hoàng thân quốc thích văn võ đại thần đều hồi hộp. Mọi người hiểu rằng Hoàng thượng đang dùng thuật "sở nguyện" (để con trẻ tự lựa chọn đồ chơi theo ý thích mà đoán được ý nguyện, tương lai của đứa trẻ sau này) để xét nết, chọn người trao ngôi báu.
Mấy cậu quý tử chẳng đợi lời cha mẹ, lập tức sà vào đống đồ vật rực rỡ trước mặt. Đứa nhặt bạc vàng. Đứa cầm cung kiếm. Đứa bới hoa quả vải vóc... trong sự hồi họp lo lắng đến nghẹn thở của các bậc cha mẹ đứng vây quanh.
Riêng chú bé Dương Hoán cứ dửng dưng trước đống phẩm vật ngổn ngang trước mặt. Mặc vợ chồng Sùng Hiền hầu vỗ tay dậm chân thúc giục. Chú bé cứ ngồi nguyên vậy một lát, như tâm trí non nớt còn để mãi tận đâu đâu. Đến lúc chiếc trống nhỏ trong tay quan Thái bảo sắp dóng lên một hồi chín tiếng báo thời gian đã hết, đức Hoàng thượng cùng các quan đại thần xem xét sở nguyện của mỗi đứa trẻ mà quyết định ngôi vị Thái tử về ai... thì cậu bé Dương Hoán bỗng chng tay đứng dậy. Cậu chẳng nhìn ai, chẳng nói chẳng cười, cứ thế lẫm chẫm lần tường bước đi theo đường cày của đức Nhân Tông vừa mở. Loạng choạng vấp ngã. Lại chống tay đứng dậy. Mãi đến khi đến được gần đức vua, cậu bé mới một lần nữa cúi xuống, bàn tay nhỏ bé nhặt lên một hòn đất, toét miệng cười, và giơ tay cầm hn đất về phía Hoàng thượng như để khoe, rồi đưa lên miệng.
Mọi người ngơ ngác. Còn vợ chồng Sùng Hiền hầu thì mặt xanh mày xám chỉ chực chạy tới bế xốc con lên để tránh được cơn thịnh nộ của đức Hoàng thượng về tội bất kính của thằng bé.
Nhưng nhìn kìa, từ phía đàn tế Trời, Phật, các quan Thái bốc đã lật đật bước tới quỳ thụp xuống trước mặt Hoàng thượng:
- Bm tâu Bệ hạ... Được vàng bạc châu báu, cung kiếm gươm đao... thì dễ... Được đất mới là triệu được nước... Nhờ phúc ấm của các đấng Tiên hòang, phúc ấm của Thái hậu, giang sơn nhà Lý ta có ngôi vị Thái tử rồi...!
Nhân Tông buông cày, đứng giữa luống đất vỡ dở cất tiếng cười ha hả.
Chạy theo hầu bên Hoàng đế, lúc đó viên Tổng Thái giám chợt nhìn vào mắt Dương Hoán. Một niềm thoả mãn tột cùng, của một người có quãng đời từng trải, bỗng hiện lên ràng rõ trong mắt cậu bé. Khiến cậu bé hai tuổi bất chợt già hẳn đi như một người dàn dạn sương gió, thấm đẫm tham vọng trong cõi đời. Thái giám giật thót người. Nhưng tĩnh khi trí nhìn lại, thấy Dương Hoán chỉ là cậu bé hai tuổi với cái miệng bê bết đất.
Đêm đó, từ khu ruộng tịch điền Khải Thụy nhìn lên, vòm trời xanh đen sâu thẳm. Mặt trăng có hai quầng.
*
**</FONT>
</FONT>
Được nuôi dưỡng từ nhỏ trong cung cấm, hơn mười năm trời sống trong cái không khí âm âm tranh tối tranh sáng và những tiếng thì thầm to nhỏ nếu không là chuyện dâm bôn khơi gợi thì cũng là sự mỉa mai dèm pha lẫn nhau của đám cung nữ nịnh hót ăn không ngồi rồi và lũ nội giám mặt trắng béo phị, Thái tử Dương Hoán không lạ lẫm gì với những chuyện mây mưa chăn gối. Đám nội giám bất lương còn thay nhau bày vẽ ra những việc nam nữ gợi sự tò mò ham thích để lấy lòng Thái tử hòng mưu sự ân sủng sau này. Chưa kể, trước mặt Thái tử là đấng Phụ hoàng tuổi đã cập kề sáu mươi mà chung quanh vẫn nào hậu, nào phi vi hàng chục hàng trăm cung tần mỹ nữ ngày đêm khêu gợi.
"Tum... tum..." tiếng trống bạc theo võng từ xa vẳng tới.
Trước viên Tổng Thái giám, cặp mắt lộ quang sáng chói của Thần Tông luôn bút rứt. Từ khi là Thái tử Dương Hoán đến lúc trở thành đức vua Thần Tông, cậu bé mười ba tuổi có thể thoả thích ngụp lặn trong dòng hoan lạc mà không bị ai ngăn cấm. Và ngoài hậu, phi và các phu nhân có biết bao nhiêu vưu vật ngoan ngoãn khác được kiệu được võng nối nhau dẫn đến trước long sàng này dâng hiến thoả mãn cơn khát của vị vua niên thiếu. Nhưng kỳ lạ, càng uống lại càng thấy khát. Và giữa những cơn khát bỏng rẫy nối nhau hành hạ trong tâm thần và thể xác của Thần Tông, có lúc ngài lờ mờ, nôn nao nhớ lại một điều gì không rõ...
Thần Tông hoàng đế nhỏm người dậy. Trái với lệ thường vẫn chờ cho tiếng trống nối tiếp dồn dập báo võng đến gần, võng qua cửa, võng đến dâng hiến trước long sàng, lần này Thần Tông hấp tấp xỏ chân vào đôi hài thêu chim phượng mà cung nữ vừa vội quì xuống đặt vào đôi chân bé nhỏ trắng lạnh của đức vua. Chợt ngài như trông thấy ngọn lửa đỏ rừng rực toả khói đen lên vòm trời Na Ngạn hơn hai tháng trước cùng lẫn với tiếng sóng nước, tiếng giông bão gầm gào suốt trên dải sống Gâm dài dặc trong một ngày đầu hè hơn bốn mươi năm trước.
Võng đã tới trước long sàng. Tiếng trống ngừng bặt.
Ngạn La được dìu ra khỏi võng.
Thần Tông kêu thảng thốt. Mắt dán chặt vào Ngạn La.
Tổng Thái giám cũng không thể ghìm nỗi tiếng kêu thán phục. Đang đứng trước long sàng kia, không rõ là người hay nữ thần Lạc Thuỷ? Phảng phất vẻ mèo hoang.
Da dẻ thơm tho. Vẻ mặt luôn biến ảo. Lúc sầu dung mãn diện. Lúc mãn diện quang thái. Lạ lùng ma quái. Trán có nốt ruồi. Dung nhan đầy vẻ cô tịch. Người mảnh khảnh như gió thổi bay. Nàng đến, mà có cảm giác đã đem tất cả cái ánh sáng vàng cháy rực của chiều tà rắc vào hoàng cung. Vậy mà cử chỉ thì quê kệch vụng về. Bàn tay và đôi chân hơi thô nhưng đối cánh tay và đôi chân thon đến nuột nà không giấu được xiêm áo lụa...
Tổng Thái giám hồi lâu mới trấn tĩnh được, khẽ nhắc:
- Tân cung nhân! Mau quì xuống cảm tạ ân sủng của Hoàng thượng.
Ngạn La không quì. Nhìn thấy Thần Tông bé nhỏ trong chiếc áo gấm giản dị, xung quanh không có lính tiền hô hậu ủng, gươm giáo sáng loà, phút chốc Ngạn La thấy thích thú, như tìm thấy một cậu bé cùng trang lứa để đùa nghịch. Quên hết giàn thiêu, quên hết lãnh cung. Đôi mắt mèo hoang của nàng nhìn xoáy vào đức vua, rồi nhoẻn cười:
- Lần này, tôi mới nhìn rõ Vua...
Tổng Thái giám tái mặt thét:
- Hỗn. Khi quân! Bay đâu, mau tống giam vào ngục.
Vua cau mày. Ngạn La không để ý, cái nhìn mà mị khiến Thần Tông bị thôi miên. Thần Tông thốt nhiên phì cười. Dường như một ngọn gió mát lành vừa thổi qua bầu không khí đặc sệt tình dục của cung điện và của long sàng.
- Nàng thật kỳ lạ. Đừng sợ lão già kia. Lão phải nghe lệnh ta...!
Tổng thái giám hậm hực quay đi nơi khác để tránh mặt.
Lát sau, thấy trong nội tẩm vẻ im ắng, cực chẳng đã, Tổng Thái giám phải rón rén bước chân, nghiêng đầu ghé vào. Tổng Thái giám trợn mắt há miệng.
... Thả đỉa va va
Chớ bắt đàn bà
Làm tội đàn ông...</I>
Tiếng cung nhân Ngạn La lanh lảnh cất lên, như tiếng ngọc rơi. Còn Thần Tông thì vừa chạy đuổi vừa hát theo từng lời của Ngạn La, thích chí cười khanh khách. Ngài nhẩy cả lên long sàng, làm chăn gối lộn tùng phèo. Vui quá! Khác hẳn cung cách khép nép, lúc nào cũng làm ra vẻ thướt tha yểu điệu của tất cả các hậu, phi, cung nữ và tiểu thư ngài từng biết. Thần Tông lớn tiếng, vừa chạy vừa cười, hát theo Ngạn La:
... Cơm trắng như bông
Gạo tiền như nước
Đổ mắm đổ muối...</I>
Viên Tổng Thái giám không còn tin ở mắt mnh nữa. Trong kia, sau một hồi chạy đuổi, đức Thần Tông thua cuộc bị bắt, đang phải khom lưng làm ngựa cõng cung nhân Ngạn La. Cô bé hai chân quặp ngang bụng, hai tay bíu lấy chỏm tóc của Thần Tông, ming đếm; "một... hai...!" theo từng bước đi của Hoàng thượng. Được mấy bước, Thần Tông không chịu nổi sức nặng trên lưng, ngã ngồi xuống. Ngạn La mất đà ngã lăn kềnh ra tấm thảm mầu huyết d.
Tổng Thái giám hoảng hốt chạy vào nâng Ngài ngự dậy. Còn cung nhân Ngạn La thì cứ nằm đó, mặt xịu ra dằn dỗi. "Chao ơi... Không còn phép tắc gì nữa... không còn phép tắc...!". Viên Tổng Thái gim kêu lên. Rồi Thái giám chỉ tay vào mặt Ngạn La:
- Nhà ngươi đáng tội chết chém... Đáng tội chết thiêu...!
"Chết thiêu!" Ngạn La nhỏm dậy, bất giác nhắc lại lời viên Thái giám. Nỗi sợ cùng cực khiến cô bé rúm người lại, hai tay chống trên thảm, lùi xa. Lùi xa Thần Tông:
- Chao ơi...! Chết thiêu...! Giàn thiêu...!
Nhìn vẻ hốt hoảng của cô, Thần Tông mỉm cười. Bây giờ ngài không còn là một cậu bé nữa, mà là một người đàn ông từng trải. Thần Tông xua viên Tổng Thái giám lui ra, rồi cúi xuống, thì thầm vào tai nàng:
- Hãy xưng là "thiếp" cho phải phép, Ngạn La.
Một cơn sóng thèm khát dữ dội đang dâng lên khiến toàn thân đức vua run rẩy. Ngài cúi xuống, bắt đầu mở những dải buộc trên xiêm y của nàng. Một làn da nâu óng mượt bất chợt hiện ra. Điều làm Thần Tông nhìn thấy dưới mấy ngón tay mình khiến Thần Tông nghẹn thở.
Tươ tắn như một đoá hoa nhỏ xíu. Ngọt ngào như mật, chiếc rốn nhỏ màu chu sa của nàng duyên dáng lũm xuống trên chiếc bụng thon nhỏ.
"Chu sa đỗ tế". Một người đàn bà có chiếc rốn màu chu sa là ước mơ muôn đời của các bậc đế vương. Hàng trăm năm mới có một người đàn bà như thế. Người đó sẽ là niềm khoái lạc vô tận và đem lại may mắn cho ngôi báu. Đã nhiều lần khi còn là Thái tử Dương Hoán, lũ Thái giám và bọn thị vệ đã thì thầm bên tai Ngài như thế.
Thn Tông không tin ở mắt mình.
Rồi, say đắm, Thần Tông cúi xuống, định ghé môi lên đoá hoa ma mị đó.
Gần nữa, và gần nữa. Một làn hương mang vị đắng của cỏ non, của mật ong, của hoa sen cuối thì, phả lên từ da thịt nàng. Một nỗi hoan lạc đê mê đang dìu dặt tới...
Nhưng vua bỗng giật bắn người, chồm dậy, mặt tái đi vì sợ hãi.
Ngài nhìn thấy trên chiếc rốn đó gương mặt của Tiên hoàng Nhân Tông.
Cái gương mặt ngài nhìn trước khi hấp hối, đã bị biến dạng vì bệnh tật. Cái nhìn ảm đạm và đe doạ chiếu thẳng vào mắt Thần Tông.</FONT> </DIV>
Chương thứ :12 "
Thuận Thiên năm thứ hai (1129). Mùa Xuân. Tháng Giêng. Ngày Thìn.
Vua cho mở hội khánh thành tám vạn bốn nghìn bảo tháp ở gác Thiên Phù.
Cách đây ba tháng, ngựa trạm đã phi suốt ngày đêm mang lệnh vua cấp báo các ngôi chùa trong nước truyền cho tất cả các sư sãi phải về kinh dự đại lễ. Chuẩn bị hàng trang, dặn dò chú tiểu đóng cửa cho chặt, tay nải khóac chéo vai, một tay cầm gậy trúc, các sư sãi lên đường về kinh. Các nẻo đường trong nước nhan nhản những vị sư khất thực gầy guộc trong chiếc áo vàng lấm bụi qua vai đi miên man. Đôi khi, người ta bắt gặp xác của một vị sư vô danh khô quắt dưới bóng cây, trên gương mặt vẫn ngưng đọng nụ cười mãn nguyện của người tin rằng mình đang lên đường tới cõi Phật.
Để có tám vạn bốn nghìn bảo tháp, triều đình đã huy động vô kể thợ gốm, thợ ngoã ròng rã cả năm trời trước đó để nặn ra những ngôi tháp cao chừng năm tấc, đem nung bằng lửa rơm và than củi trong những chiếc vò khum khum mà mọi kích thước đều do nhóm thợ cả đo đạc, tính toán cẩn thận... Khi ánh lửa tàn, các ngôi tháp xuất lò có màu đỏ như son. Những ngôi bảo tháp được đặt trên gác Thiên Phù khiến cả ngôi gác lộng lẫy, hắt bóng duyên dáng xuống dòng sông uốn lượn. Những nhà sư đến từ khắp mọi miền ngồi la liệt tụng kinh gõ mõ cầu cho sự thịnh vượng của nhà Phật, mừng thiên hạ thái bình, quân của triều đình bách chiến bách thắng, cầu chúc cho đức hoàng đế Thần Tông sống lâu muôn tuổi.
Kiệu vng của Thần Tông đã đến gần chân gác Thiên Phù. Trong tiếng tiền hô hậu ủng của hàng ngàn quân hộ tống và đoàn tuỳ tùng, nhất loạt sư sãi cùng háo hức ngẩng đầu nhìn về phía đức vua. Thần Tng đã sang tuổi mười bốn. Gương mặt xanh xao với đường sống mũi thẳng như một lưỡi dao. Một vành ria mờ mờ hiện bao quanh môi mỏng luôn mím chặt. Đôi mắt ngài ngự nay hiền như mắt đàn bà. Và thỉnh thoảng đôi mắt đó lại thoắt rờn rờn lên như sóng nước.
Kiệu dừng. hai thị vệ đỡ hai tay ngài ngự xuống kiệu. Quan quân, dân chúng và tăng ni cúi rạp mình trong tiếng hô vang dội: "Đức hoàng đế vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế...!". Tim Thần Tông đập rộn. Tột đỉnh vinh hoa quyền lực là đây.
Cố nén niềm kiêu hãnh trong lòng, Thần Tông giơ tay, khẽ nói:
- Bình thân! Tại cuộc đại lễ này, ta ở dưới chân đức Phật và chỉ ngang hàng với chú tiểu nhỏ kia!
Nói rồi đức vua thong thả dạo bước giữa những hàng dài như vô tận các tăng ni phật tử đang ngồi xếp vòng tròn tay lần tràng hạt, tay gõ mõ, miệng tụng kinh. Chưa bao giờ lòng thành kính với đức Phật lại được bầy ra rờ rỡ như trong đại lễ này.
Thần Tng bước đi giữa miên man những màu áo cà sa. Miên mang tiếng gõ mõ đọc kinh rầm rì như biển sóng lúc nửa đêm khiến những trái tim cứng rắn nhất cũng trở nên mềm dịu. Thần Tông như được ai đó b vào trong nôi và đu đưa vào giấc miên viễn.
Con đường nào tít tắp xa trước mặt chợt hiện? Mọc đầy đá tai mèo màu tím. Cái ánh sáng nhàn nhạt này không rõ của ngày hay của đêm. Mà văng vẳng tiếng lục lạc rung từ đầu tích trượng của tỳ kheo. Người đàn ông gầy guộc vai đeo tay nải, tay cầm bát gỗ khất thực trên đường thiên lý. Con đường không soi tỏ đi đâu về đâu. Thần Tông không thể cắt nghĩa nổi, tại sao con đường đó cứ bám chặt lấy tâm trí ngài.
Trong giấc mơ, bất kể ngày hay đêm, Thần Tông đều thấy hiện lên gương mặt của một thiếu nữ. Gương mặt nhạt nhoà. Chỉ thấy một đôi mày dài và có đuôi như lá. Không khóc mà dường như ấn nấp đâu đó trong khoé mắt là những giọt nước nặng trĩu. Đẹp và bun miên man khiến trái tim yếu ớt của ngài thổn thức. Mỗi lần mơ thấy gương mặt ấy, Thần Tông đuổi theo. Gương mặt cứ chập chờn xa dần. Nếu có thi thoảng ngài đuổi kịp, thì gương mặt thiếu nữ ấy biến mất, lồng vào đó là một gương mặt có cái mõm nhọn, phủ một lớp lông tơ mượt mà.
Thần Tông thức dậy, thấy tràn ngập xung mình mùi ngọt nhàn nhạt, man mát như hương hoa lúa. Ngài chép miệng, cố nhớ lại xem đó là mùi gì. Không rõ. Chỉ biết đó là mùi khiến ngài khát. Khát lắm. Thái y đến để phân định xem mùi gì khiến đức vua đang nhớ, đang khát đến hành hạ thể xác. Tất cả các thứ mang mùi ngọt nhàn nhạt được mang đến. Không phải. Mãi về sau, khi nhũ mẫu mang đến mt ít sữa đàn bà mới vắt, đựng trong bình ngọc, Đức vua nhìn thấy mới tỏ vẻ háo hức, nói: "Hình như ta nhớ thứ này". Rồi vồ lấy bình ngọc uống cạn. Sau đó đẩy bình ra: "Được. Nhưng chưa hẳn là thứ ta tìm kiếm. Nhưng từ nay, cứ đúng ngọ, hãy đem cho ta!".
Từ đó, cứ đúng ngọ, một bình sữa đàn bà mới vắt được đặt lên mâm ngự thiện. Bình sữa này được Thái y tuyển từ mười hai bình sữa của mười hai người đàn bà sinh con so khoẻ mạnh, mới được bứt ra khỏi trẻ sơ sinh, mang thẳng vào cung, ngày ngày được tẩm bổ sâm nhung quế phụ, chỉ để bữa vắt sữa vào bình ngọc đem dâng Vua.
Một lần, Đức vua đòi xem mặt những nô tỳ đã vắt sữa cho vua uống. Nhìn khắp lượt mười hai gương mặt, rồi Vua dừng lại ở một người đàn bà có đôi bầu vú nhỏ, nhọn hoắt, ở giữa hai bầu vú có ba sợi lông dài vàng óng, mắt tròn, mặt nhọn có nhiều lông tơ như mặt dã nhân. Vua đặt tay vào đôi vú, ve vuốt ba sợi lông vàng, nhìn lâu cái gương mặt đó, như nhìn ra cố nhân: "T nay, ta chỉ uống sữa của người này". Mười một người đàn bà khác được trả về nhà.
Mỗi ngày, người đàn bà mặt nhọn được chăm bẵm, tẩm bổ những món lợn sữa, trước giờ ngọ chừng ba khắc bắt đầu vén áo, ghé đầu vú vào miệng bình ngọc. Một dòng sữa trắng đục, hăng hơn sữa người thường phun thành từng tia xuống đáy bình. Vua uống sữa, đã cơn khát, khỏi ốm. Mỗi lần Thần Tông uống cái thứ sữa đựng trong bình ngọc, thì đỡ nôn nao. Nhưng vẫn mường tượng thiếu một cái gì đó. Mỗi lần ghé môi vào mình sữa, ngài dường như thấy những giọt sữa rỏ xuống từ một bầu vú ấm và lông lá.
Giấc mơ viên của Thần Tông tiếp nối, trong khi chân vẫn đưa ngài qua những dòng sư sãi đang cúi đầu tụng kinh gõ mõ.
Chợt một tiếng mõ lạc lõng, rơi ra ngoài giàn đại hợp của muôn ngàn tiếng mõ đnag râm ran trong buổi lễ, rót thẳng vào tai Thần Tông. Tiếng mõ đó đứng riêng một sắc, lúc trầm đục như thúc tức v ngực, lúc trong trẻo như tiếng hạc bay, lúc như khóc như than, lúc rủ rỉ như ru êm. Có một sức trì níu ma quái nào đó kéo đôi chân ngài vô tình lựa giữa ngàn ngạt những tăng ni để hướng về phía tiếng mõ.
Thần Tông đưa mắt tìm kiếm.
Ngài chạy giữa hàng hàng lớp lớp những bóng áo cà sa để nửa vai trần, đầu trọc, đang ngồi xếp bằng theo thế liên hoa, đang nao nức tụng kinh. Ngài cuống quýt tìm nơi phát ra tiếng mõ.
Thần Tông chạy ra xa tít. Đám cận thần và lũ thị vệ áo bào vướng víu, võ phục nặng nề khó khăn lắm mới kịp theo bước chân ngài ngự. Khi họ dừng lại, thấy đức vua đứng sững trước một người bé nhỏ.</FONT>
Đó là một sư bà ngồi ở cuối dẫy cuối cùng. Cái đầu trọc cúi xuống. Những sợi tóc mọc thóang điểm lấp lánh như bc hắt ánh sáng lên gương mặt chăm chú đang hết sức căng thẳng của Thần Tông. Dáng cúi đầu thật yêu kiều. Cái bàn tay lần tràng hạt thon mềm. Chỉ nhìn cũng biết chúng mát như lụa. Bàn tay phải qun quýt lấy chiếc dùi mõ và bàn tay đó như run rẩy gõ lên từng chuỗi âm thanh như hờn khóc. Đôi hàng mi nặng trĩu rủ xuống trông như ngủ. Dường như người gõ mõ đang cử động chiếc dùi trong một cơn mê, với trái tim đang run lên nối nhịp với chiếc mõ vô tri.
Thần Tông không bước nổi. Nặng như ngàn cân đeo đầu mũi chân. Ngài dính chặt xuống mảnh đất trước sư bà.
Thần Tông đứng rất lâu, mồ hôi nhỏ giọt ướt cả mặt đất mặc dù có hai tiểu thái giám cầm quạt phe phẩy hai bên.
Tiếng mõ khiến tim ngài đau nhói. Cơn đau tim này không bao giờ có trong lồng ngực của một đứa trẻ mười bốn. Thần Tông cảm thấy như mình đã sống qua nhiều kiếp, oải mình vì bể dâu.
Một người đàn ông từng trải đang hiện diện trong ngài, ngắm nhìn người đàn bà đầu trọc lạ lẫm lạc lõng với khung cảnh đô hội và trước tám vạn bốn nghìn bảo tháp đang đỏ rực toả sáng.
Dường như không Phật, không trời, không vua, không trần gian trong cái hàng mi nặng trĩu sập xuống như then khoá kia.
Và ngài háo hức muốn được nhìn tận mặt. Được nhìn vào đôi mắt ẩn sau hàng mi khép như ngủ kia. Nhưng những tiếng rộn rịch của đám tiền hô hậu ủng nãy giờ đã kịp đến tề tựu xung quanh vua trước mặt, sư bà vẫn không ngẩng đầu, vẫn như chìm vào một giấc ngủ say đắm từ thuở hồng hoang.
Hàng trăm đôi mắt đổ dồn vào chỗ đức vua và sư bà. Mọi người chưa bao giờ thấy sự lạ như vậy. Bởi dẫu là sư bà hay ai đi nữa thì khi đức vua có biệt nhãn, người đó buộc phải giữ lễ, phải ngưng tụng kinh, phải quì mọp xung, chắp hai tay xưng tụng đức vua. Khi đức vua cho phép bình thân thì mới được quay lại việc tụng kinh gõ mõ.
Viên thị vệ theo hầu vua nổi giận thét:
- Sư bà chùa Trầm... Ngài ngự giáng lâm... sao sư bà không mau mau quì lạy?
Sư bà vẫn không ngẩng mặt.
Viên thị vệ rút soạt kiếm ra khỏi vỏ. Mũi kiếm lách dưới cằm sư bà:
- M này hỗn xược! Thất lễ! Muốn ta đưa mụ đi đường tắt lên Niết bàn phải không?
Viên thị vệ tay giữ kiếm không rời khỏi cổ sư bà, mắt nhìn Thần Tông chờ đợi. Nếu nhà vua gật đầu, hoặc chỉ cần nhìn lảng sang chỗ khác, lưỡi kiếm sắc như nước lập tức sẽ đưa ngang, cái cổ mảnh mai sẽ đứt lìa và máu của sư bà sẽ phun lên làm đỏ thêm những ngọn tháp.
Nhưng Thần Tông lại khng hề tức giận. Ngài hạ giọng như thì thầm:
- Sư bà! Người hãy cho ta nhìn mặt.
Lúc đó sư bà chùa Trầm mới như sực tỉnh khỏi giấc ngủ, vụt ngẩng đầu lên.
Đôi mắt lập tức chiếu rc vào mắt Thần Tông.
Đôi mắt dài như lá, không khóc mà sũng lệ khiến cho đôi hàng mi không phải là bờ bến mà chỉ như những cánh cửa khép mở đưa người ta đến một cõi phiêu bồng xa thẳm.
ôi màu khói lam ủ dột như chau. Đôi mắt ấy hắt cái ánh sáng kỳ lạ khiến ngài ngự rùng mình và trái tim như tuột rơi đâu mất. Mùi da thịt thơm ngát như mùi sen chớm nở thoảng lên khiến Thần Tông sững sờ. Vẻ quyến rũ vô tình của sư bà khiến cho người ta quên mất hai nếp nhăn khắc khổ đã hằn vết bên khoé miệng tuyệt đẹp. Thần Tông bt giác tự hỏi: "Sư bà bao nhiêu tuổi nhỉ? Hai mươi. Năm mươi... Hay đã thiên thu...?".
Tên thị vệ cũng ngẩn người nhìn, thẫn thờ buông kiếm.
Lưỡi kiếm tuột từ cổ xuống, đậu hững hờ trên vai sư bà.
- Đức hoàng đế vạn tuế...!
Sư bà khẽ nói trong miệng, giọng buông thõng và đôi hàng mi lại đổ sóng soài như cố che giấu điều gì. Đôi bàn tay như lụa lần tràng hạt. Tiếng mõ lại đều đều vang lên. Nhưng không giấu được sự run rẩy.
Thần Tông bỗng cảm thấy như say sóng.
Dáng vẻ lạ lẫm và mùi hương thoảng lên từ da thịt của người đàn bà luống tuổi đã tự giam mnh trong cửa Phật lâu ngày khiến ngài cứ thấy da diết nhớ. Đang đứng trước mặt bà mà lại nhớ. Dường như cái giấc mơ cố hữu đang trở lại.
Có phải các gương mặt thiếu nữ mà ngài rượt đuổi mỗi đêm? Nhưng đây lại là một sư bà luống tuổi! Không rõ nhớ gì. Nhưng thổn thức và trống vắng mà cồn cào lo sợ. Sợ giây phút cái hình ảnh đang hiển hiện trước mặt kia bỗng chốc sẽ tan biến vào thinh không như một ảo giác.
Thần Tông bỗng hạ giọng, như nài nỉ:
- Sư bà động Trầm, người có thể về trông nom việc tụng kinh niệm Phật trong nội cung ta được chăng?
Sư bà vẫn không ngẩng đầu.
Thần Tông lại khẩn khoản:
- Nội cung của ta đang cần một người như sư bà để giáo hoá Phật đạo cho các cung nữ.
Lời từ chối bật ra từ lồng ngực rung động:
- Kẻ tu hành xin cảm tạ đặc ân của Đức hoàng đế. Kẻ tu hành này đã quen uống nước suối ăn mầm cây trong động Trầm. Không quen với các nghi lễ quí phái chốn kinh thành...
Thần Tông ngạc nhiên, thoáng sợ:
- Ngươi từ chối ư? Đó là niềm mong ước của cả ngàn tăng ni...
Sư bà vụt nhìn lên, chói chang mắt </FONT> Thần Tông</FONT> :
- Đức hoàng đế bỏ qua cho kẻ tu hành này... Lễ sắp tàn. Xin hoàng đế gia ân cho kẻ tu hành này được trở về động Trầm.
Thần Tông lại thêm một lần nài nỉ khiến mọi ngưi chung quanh lại thêm sửng sốt:
- Thôi được... sư bà sẽ về chùa Trầm. Nhưng trước khi sư bà trở về, ta muốn lưu sư bà lại một tuần trăng để cùng đàm đạo đôi điều về Phật pháp...
Thần Tông hấp tấp phất tay áo trở gót không kịp để sư bà từ chối. Khi vua vừa quay mình, từ đôi mắt sóng sánh của sư bà hai dòng lệ trào ra, nối nhau chảy xuống theo những nếp nhăn khắc khổ trên miệng và chảy vào đầu lưỡi, đầy vị mặn.
"Nghiệp chướng!"
Hai tiếng nấc khẽ trong khoé miệng của sư bà.</FONT>
Chương thứ :13 "
Má đỏ thầm phai...</I>
Sư bà chùa Trầm quì trước bệ rồng.
Vua Thần Tông nhấp môi vào chén nước sâm từ tay viên Thái giám đứng hầu bên ngài dâng lên mà mắt vẫn đăm đăm vào sư bà. Người đàn bà lạ lẫm vừa rơi xuống từ một đỉnh núi phủ đầy tuyết sương, trên mắt, trên môi, trên đôi vai mỏng còn nồng mặn mùi rễ cây oải hương và gió thổi quấn quyện từ địa ngục.
Ngập ngừng, những lời nói của Thần Tông buông, treo lơ lửng đầu lưỡi:
- Sư bà hãy đem Phật đạo giáo hoá các cung nhân của trẫm!
Những ngón tay dài và mảnh, trong suốt, chắp lại trước ngực. Có thể thấy rõ những mạch máu màu tím đang nhẩn nha chảy, lan toả chút hơi ấm trên mu bàn tay. Mười búp tay tiểu thư hao gầy dưới những móng tay cũng màu tím. Đôi hàng mi sững lặng in bóng lên màu da bạc. Đôi môi đầy đặn như môi Phật, màu trắng. Một bóng tối mờ ảo phủ trên gương mặt. Mong manh. Xa xôi. Không thời gian. Chung quanh ngừng lặng. Vẻ xa hoa của hoàng cung trở nên trơ trẽn trước gương mặt này.
Một nỗi buồn vô cớ thấu vào tận đáy tim Thần Tông.
Sư bà chợt ngẩng đầu, đưa mắt nhìn qua vai Thần Tông. Vẻ hư vô trong mắt bà lóe lên đỉnh điểm một vẻ đẹp không tả xiết. Vẻ đẹp của người đã từng sống và từng chết đi, rồi tái sinh ở thế gii bên kia.
Xa xa, cửa Càn Nguyên điện nhuộm vàng. Hoàng hôn rớt lại trong một vệt ráng chiều thấm máu trên đường chân trời. Thần Tông giật mình nhận ra trong mắt sư bà một ánh lạnh lẽo. Một con thuyền quen lênh đênh trên đại dương trong đêm tối. Với những gỗ những ván ngâm mặn mòi trong nước biển. Không tay chèo không bánh lái, lấy lênh đênh làm bến đỗ. Không ao ước bình yên. Biển cũng trở thành nhạt nhẽo. Giông tố cũng trở thành cợt đùa. Mà những con sóng xô nhanh chỉ là tiếng ru đều đặn giục lênh đênh.
Khẽ nói:
- Kẻ bần ni sợ mình bất túc, tâu bệ hạ. Nơi này không phi là xứ của bần ni. Xứ của bần ni là động Trầm...
Từ trên ngai vàng, Thần Tông cúi nhìn xuống mái đầu cạo trọc mà những gốc tóc nhô lên sớm đã thưa thớt chớm bạc:
- Sư bà bình thân. Ta đã hỏi quan Tây thượng cáp môn sứ về bà. Tiếng tăm về năng lực giáo hoá của sư bà đã được đồn thổi khắp xứ Đoài, về đến tận kinh k. Trẫm vốn sùng đạo, những mong dùng Phật đạo để lấy lẽ từ bi làm phép trị nước.
Sư bà nói mơ màng:
- Các tiên đế vốn là người sùng đạo...
- Phải, trẫm noi gương các tiên đế, lại thêm mong cho khắp thiên hạ không còn kiện tụng tù ngục, nhà nhà cất tiếng âu ca... Muốn vậy, màu cà sa của Phật phải bao trùm khắp cõi phàm. Các tiên đế đã giành lại giang sơn, mở mang bờ cõi. Công lao ấy núi Thái Hằng cũng không thể so bì. Nhưng để được như vậy, máu cũng chảy thành sông... Từng đi kinh lý vùng biên ải, trẫm đã nhìn thấy xương người phơi trắng trên bờ cõi. Trẫm đau lòng khi nhìn thấy cảnh đó. Với Phật pháp, non sông của trẫm sẽ không lặp lại cảnh núi xương sông máu...
Sư bà nhìn vào đôi mắt rực ánh hào quang của Thần Tông:
- Thưa, có phải vì vậy mà vừa mới lên ngôi, tháng Hai năm Mậu Thân ngày Ất Mão, Bệ hạ xuống chiếu tha cho các tù nhân ở phủ Đô hộ. Ngày Nhâm Tuất, người lại xuống chiếu tha cho một trăm ba mươi kẻ bị biếm truất?
Mắt Thần Tông sáng rỡ:
- Sư bà ở chốn hang động, xa lánh phàm trần mà cũng rành việc nước?
Sư bà tiếp giọng đều đều:
- Người còn đi khắp các chùa quán để cảm tạ đức Phật dã giúp cho người chiến thắng quân Chân Lạp ở bến Ba Đầu? Rồi hôm này người lại mở đại lễ khánh thành tám vạn bn nghìn bảo tháp?
Thần Tông ngạc nhiên lẩm bẩm:
- Kỳ lạ! Bà này sao quá rành rẽ nhất cử nhất động của ta...!
Câu nói đó không qua tai sư bà.
- Tâu Bệ hạ, chẳng có gì lạ... Đầu ngón tay út của Bệ hạ nhấc lên cũng đủ gây mưa móc hay sóng gió trong thiên hạ. Bần ni tuy ngụ nơi thâm sơn cùng cốc nhưng không phải những âm ba chốn kinh thành quyền quí không dội tới. Kẻ xuất gia muốn hành đạo tất phải hiểu việc đời!
"Khẩu khí chẳng phải tầm thường. Mà sao người tu hành này lại cứ toát ra một sự huyền bí khiến ta không thể dằn lòng để rời xa bà ta vậy? Mà bà ta ở đ tuổi có thể sinh ra ta. Cái thân hình có lẽ ngày xưa rất quyến rũ kia đã bị cuộc đời tu hành khắc khổ mài mòn trở nên vóc hạc xương mai. Có một sức hút kỳ lạ ở người đàn bà này. Cái mũi côi cút trên gương mặt. Đôi môi ấy hẳn xưa đã từng sống động và khao khát. Lông mày màu khói nhạt mượt như lụa. Cái cổ cao không thể nào thanh mảnh hơn thế, khi chắp tay cúi xuống hiện rõ vẻ kiêu hãnh của một con ngựa yêu kiều. Trên đầu, làn da trắng xanh chỉ có những chân tóc bị cạo che phủ hắt sáng như toả hào quang...".
Một giấc mơ xa xôi, dịu dàng và cam chịu, khác với sự nôn nóng thường nhật của một ông vua muốn gì được nấy đang manh nha trong lòng Thần Tông. "Không thể hiểu nổi... tại sao giữa muôn nghìn tăng ni Phật tử, ta lại chỉ nhìn thấy bà và lập tức cưỡng bà về cung... Tại sao khi bà ta xuất hiện, mọi thứ xung quanh đều nhạt nhoà, không hiện hữu...". Thần Tông không ngớt ngẫm nghĩ và càng lúc càng thấy lạ trước mình. Ngài chằm chằm nhìn tận mặt của sư bà, dò hỏi, cố đuổi theo một ý nghĩ vô hình vừa loé lên rồi chập chờn trêu cợt bay xa để ngài phải miệt mài theo dõi. Thần Tông quên cả việc đáp lại câu nói của sư bà.
Giai âm trong giọng nói của sư bà vẫn cất lên như tiếng của một ngọn suối đang chảy âm u dưới vòm đá:
- Nhưng tâu Bệ hạ... Xin người thứ lỗi... Lòng nhân đc như trời biển của người thật là đáng trân trọng, làm cảm động đến cả thánh thần. Vậy nên năm rồi nhiều nơi hạn hán ruộng đồng nứt nẻ không có nước cấy cày, người đã trai giới cầu đo, an chay niệm Phật cầu mưa. Lòng thành của đấng cửu trùng đã cảm động tới Trời Phật. Bệ hạ lại muốn dùng Phật đạo từ bi để giáo hoá chúng sinh khỏi cảnh đầu rơi máu chảy. Điều đó tốt vậy thay!
- Đa tạ sư bà...
- Trước khi Đức Thái Tổ mang cơ nghiệp nhà Lý thì nước Nam ta vẫn là xứ man rợ, Phật đạo có nhen nhóm nhưng chưa phổ độ đến chúng sinh. Cùng với Đức Thánh Tông cho tạo tác văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Thất thập nhị hiền, thì Linh Nhân Thái hậu và Đức Tiên đế Nhân Tông đã lập hơn một trăm chùa nguy nga lộng lẫy, Phật đạo ngày càng rạng r...
- Đúng vậy. Nhờ ơn các bậc Tiện hoàng, chưa bao giờ Phật đạo lại được phổ độ rộng khắp như ngày nay!
Sư bà làm cử chỉ gần như phản đối:
- Phải, bây giờ khắp nơi đua nhau xây chùa tạo quán, lũ lượt người người nhập chùa làm tăng ni Phật tử. Đi đâu cũng bắt gặp bóng áo cà sa cầm bát đợi bố thí vàng rực khắp góc chợ sân đình.
- Càng nhiều bóng áo cà sa, vương quốc của ta càng bớt những kẻ ác phạm. Ta đang mong bóng áo cà sa của nhà Phật nhuộm mọi hang cùng ngõ hẻm. Khi mới lên kế nghiệp đế vương ta đã thề cùng trời đất quỷ thần...
- Nhưng chẳng lẽ Bệ hạ không thấy rằng trong vương quốc của Bệ hạ đâu phải đã hết những kẻ ác phạm? Năm ngoái Bệ hạ xuống chiếu tha cho bao kẻ gian ác đáng ra phải trừng phạt tại Đô hộ phủ thì năm nay những kẻ đó lại đang hoành hành làm khốn khổ chúng dân. Năm ngoái Bệ hạ rộng lượng xuống chiếu phục chức cho những kẻ bị biếm truất thì năm nay bọn thamm ô quan lại đó lại đang ngất ngưởng trên chức trọng quyền cao để bòn rút xương tuỷ của dân đen...
Nét mặt Thần Tông cau lại. Mắt ngài đ bắt đầu phóng ra những luồng giận dữ. Sư bà nhận thấy nhưng không nao núng. Đôi mắt vẫn chiếu rọi vào mắt Thần Tông khiến đức vua thấy chói chang. Tổng quản Thái giám đứng hầu bên cạnh đức vua lên tiếng quát khẽ:
- Sư bà... Không được lộng ngôn mạn thượng!
Ánh mắt nộ khí của Thần Tông bắt gặp phải cái nhìn chứa chất nỗi đau đớn mênh mang của sư bà. Trong thoáng chốc, Thần Tông buốt lạnh nhận ra trong đó một nỗi buồn hoài huỷ xót thương cho kiếp người. Và rực lên như ánh hoàng hôn loé rạng bên cơn giông ẩn hiện thăm thẳm ở cuối trời.
Ngài muốn biểu hiện một cử chỉ nào đó của quyền lực tối thượng với người đàn bà đang quì trước mặt. Nhưng rút cuộc ngài chỉ im lặng. Năm ngón tay choãi ra trên đầu rồng tay vịn ngai vàng. Ngài trở lại là một đứa trẻ đang bị lạc cả phần hồn lẫn phần xác, chơi vơi trên đồng cỏ mênh mang.
Ngài bỗng muốn được người đàn bà kỳ lạ đang quỳ trước mặt ấy choàng tay ôm vào lòng. Bà ta có biết ru không nhi? Sư bà có thể ru ta với lời ru của một người mẹ hay với sự nóng ấm của lồng ngực người đàn bà? Tại sao ở bà ta lại toát ra nỗi quyến rũ huyền hoặc. Yêu tinh hay thần nữ? Một kẻ tu hành hay là một kẻ bị giáng xuống nơi trần thế này để chịu kiếp nạn?
Thần Tông chú mục vào khoé miệng khoé mắt đã hằn nhiều nếp nhăn khắc khổ ca sư bà để kìm giữ ngọn lửa cứ chợt muốn cháy bùng lên ở trong lòng.
Sư bà vẫn không rời mắt khỏi gương mặt Thần Tông. Cái gương mặt vừa quen vừa lạ như thấp thoáng vẳng lên từ một cõi xa xôi huyền bí nào đó trong cuộc đời oái oăm này. Nỗi đau cô quạnh nhói lên trong vùng ngực mảnh mai của sư bà.
*
**
Đoạ xứ!
Bến Đá sông Gâm. Bè nứa với chiếc nón lá của người tỳ kheo. Cơn giông sầm đổ. Rồi trời quang mây tạnh và hoa gạo như những bụm máu qua vai một người con trai. Thác Oán. Túp lều lau sậy le lói bếp lửa. Người đàn ông cá bơn... Ta tưởng dứt bỏ lòng trần, đường tu trọn kiếp. Nào ngờ...
*
**
</FONT> Đoạ xứ!
Sư bà cố tìm lại nét thư sinh ngời ngợi mà ngang tàng thân thiết xưa kia. Đâu đây dường như vãn phảng phất gương mt tưởng chừng xa xôi quên lãng mà thật ra vẫn ám ảnh lẩn khuất sâu thẳm trong đáy cùng tâm trí sư bà. Dường như chúng đang được cầm tù trong vài đường nét còn lộ chút thân thuộc. Cái thân hình nhỏ nhắn xanh xao của một đứa trẻ mà dục vọng đã rừng rực ám ảnh như định mệnh. Ngai vàng tôn nghiêm quá lạc lõng trước vị đế vương nhỏ bé này. Không rõ đức vua mong muốn điều gì? Một lần nữa sư bà lại rúng vai rùng mình sợ hãi nghĩ đến nỗi cám dỗ tục luỵ cõi trần!
- Tâu Bệ hạ... Người đã nhận ra người còn thiếu điều gì trong khi dùng phép từ bi vô tận của Phật đạo chăng?
Viên Tổng quản Thái giám đứng hầu bên cạnh ngai vàng lại một lần nữa giật mình cố trừng mắt về phía sư bà.
Thần Tông giơ mấy ngón tay:
- Sư bà là kẻ tu hành lẽ nào chẳng hiểu đạo t bi có thể cải hoá khắp lượt chúng sinh. Tôn vinh Phật đạo và cai trị bằng cách giáo hoá Phật đạo khắp thiên hạ, phép trị quốc của ta vậy là đã đầy đủ.
- Vậy Bệ hạ nghĩ sao về những k đã được ân sủng của ngài mà trở lại làm điều thất đức? Bởi vì hạt thiện mà gieo không đúng chỗ ắt sẽ mọc lên mầm ác. Cũng vậy, lời giáo hoá của chốn thanh bần sao có thể len lỏi vào ni cung cấm ngào ngạt son phấn. Bần ni xin tạ ơn lòng đoái thương của Bệ hạ mà không dám nhận trọng trách Bệ hạ vừa giao phó. Xin Bệ hạ rộng lượng gia ân cho bần ni được trở về ngay động Trầm.
- Không được!... Sư bà đừng trái lời trẫm... Bay đâu!
Thần Tông giật giọng, mấy ngón tay trắng mảnh co lại, đấm mạnh lên ngai vàng.
- Xin tuận lệnh! Tâu bệ hạ!
Viên Tổng Thái giám đng hầu vội rạp mình rồi lui bước, khuất vào phía sau bóng tối nội điện.
Hai tấm rèm nặng trĩu sau lưng Ngài ngự được từ từ kéo ra. Luồng ánh sáng chói loà từ đằng sau tấm rèm đập vào mắt. Hàng trăm cung nữ nối nhau quì mọp. Dào dạt mùi phấn sáp chế từ bột nếp, chu sa và hoa hồng. Mùi xạ hương, mùi trầm xông ướp trong xiêm áo của các cung nữ cùng ganh đua ngào ngạt. Xiêm áo ba bảy lớp trăm hồng ngàn tía.
Sư bà cúi mặt, khó thở với vị phàm trần nồng nặc, nhưng vẫn phải sững sờ vì vẻ đẹp rực rỡ của các cô gái hầu hết đang tuổi trăng tròn...
Sư bà biết rằng tất c những cô gái đẹp của trăm miền được Thần Tông tuyển nạp về đây mới chỉ trong vòng hai năm trời từ khi người lên nối đức tiên đế lên ngôi hoàng đế trị vì thiên hạ. Sư bà chợt hiểu đâu là cái căn nguyên của ngọn lửa rừng rừng lúc như thiêu đốt lúc như lặn tắt trên gương mặt, trong đôi mắt của con người ngồi trên ngai vàng kia. Bất giác sư bà cúi xuống khẽ thở dài:
Thần Tông nhìn sư bà, dịu giọng:
- Hãy xem... các cung nhân của ta đã sẵn sàng. Sư bà hãy theo ta!
- Tâu bệ hạ... Bần ni không thể...
Nhưng Thần Tông đã đứng dậy. Viên Tổng quản Thái giám lén nhẹ trở lại chỗ cũ bên ngai vàng từ lúc cánh rèm kéo lên vội đưa tay đỡ ngài ngự. Sư bà định nói nữa nhưng nhìn Thần Tông đã đứng dậy quay gót, bất đắc dĩ, sư bà đành bước theo Thần Tông.
Hai hàng cung nữ quì bất động trn điện ngọc. Chỉ thấy những tấm lưng thon, những bờ vai mỏng, những mái tóc dày rung rung. Và phảng phất đâu đó những hơi thở rộn ràng cố ghìm nén lại trong lồng ngực. Vốn quen với khoảng không gian trong trẻo và lạnh lẽo của hang động Trầm, mỗi bước đi sư bà mỗi thấy bức bối ngột ngạt.
Tay đỡ đức vua, Tổng quản Thái giám không ngăn được gườm mắt khi đi qua sư bà. Từ hôm sư bà vào cấm cung đến nay, mâm Lục đầu bài bỏ ngỏ. Sự bất thường chưa từng có ở Tử Cấm Thành, từ ngày Hoàng đế lên ngôi.
Theo lệ của triều đình, ngoại trừ Hoàng hậu là người làm chủ trong cung cấm, còn thì mọi phi tần cung nữ đều được ghi trên mỗi tấm thẻ bài màu xanh. Thần Tông lên ngôi hai năm, số thẻ bài nằm chất đầy mấy chiếc tráp lớn để chật trên giá. Đã vậy, mùa thu năm ngoái, Hoàng thượng còn xuống chiếu cho con gái các quan và các nhà hào phú trong thiên hạ đến tuổi cũng chưa được lấy chồng, phải chờ đợt tuyển chọn người vào hậu cung, ai bị loại mới được tính tới chuyện hôn thú... Buổi tối, sau khi Hoàng thượng dùng ngự thiện, viên Tổng quản Thái giám quì xuống, hai tay dâng chiếc mâm bày các Lục đầu bài để ngửa. Vua liếc nhìn qua, trong đám phi hậu cung tần, vua thích ai thì cầm tấm thẻ có tên người đó lật úp xuống. Được lệnh truyền, các Thái giám nội thị cứ theo thẻ được chọn mà sửa sang, chuẩn bị đưa người vào nội thất hầu hạ đức vua.
Trừ ngày đầu tháng, Đức vua thường ngự ở cung Nghênh Xuân của Hoàng hậu, còn các ngày trong tháng, viên Tổng quản Thái giám thường là người biết tường tận mọi ham muốn sở thích của vua mà chọn lựa phi tần mỹ nữ cho vừa lòng ngài ngự.
Những ngày xuân, tiết trời ẩm ướt, cây hăng hăng lộc, cái rét vẫn ngấm ngầm làm tê tái thịt da, Tổng quản thận trọng đặt lên mâm lục đầu bài những chiếc thẻ mang tên các cung tần đến từ phương Nam với nước da nâu hồng ấm áp, mắt to mi rợp, môi mọng hơi trề như nũng nịu. Tổng quản biết, các cung tần này đầu gối tay ấp bên vua sẽ như mang ánh nắng phương nam chói gắt đến sưởi m cho ngài, làm tan hơi lạnh của tiết đông xuân. Mùa hạ, trên mâm Lục đầu bài chen chúc tên của các mỹ nữ tuyển từ Bắc phương. Mí mắt dài hẹp tản khoé thu ba trên làn da trắng muốt như bạch hoa trà. Tóc đen dài vấn vít quấn cao trên đầu, cài chặt bằng trâm vàng, trâm bạc hoặc cành thoa có gắn hoa sen còn hàm tiếu thơm ngào ngạt. Cẩn trọng hơn, tổng quản còn xem ai có làn da mát lạnh giữa mùa hè thì mới chọn khi lâm hạnh, vua hài lòng như được đắm trong dòng suối mát.
Bây giờ, Đức vua đã cho vời sư bà đã ngoài sáu chục tuổi này vào giữ trong cung làm gì đây? Viên Tổng quản Thái giám không dám nghĩ tiếp. Ông ta băn khoăn nhìn sư bà bước đi, mong manh lạc lõng giữa hậu cung muôn hồng nghìn tía.
- Sư bà! Các cung nhân của trẫm thành thạo về đường son phấn mà vụng dại về đường phụng thờ Phật. Ta lưu sư bà trong cung để sư bà uốn nắn điều này...
Mắt không rời sư bà, Vua nhắc lại:
- Hậu cung của Bệ hạ đã quá đủ đầy. Mà Phật đạo thì quá xa lạ với những chỗ huyên náo. Xin Bệ hạ đừng buộc kẻ kém cỏi này phải nói ra những lời lạc lõng.
Môi sư bà run rẩy như cố ghìm tiếng nấc:
- Xin Bệ hạ cứ trọn hưởng lạc thú, cho sớm trọn kiếp này...
Nhìn những giọt nước mắt long lanh bên khoé mắt sư bà, Thần Tông ngạc nhiên, gần như mừng rỡ:
- Sư bà sao lại khóc? Trẫm đã làm sư bà đau lòng ư?
Sư bà cố kìm những giọt nước mắt:
- Tâu Bệ hạ! Bần ni chỉ là phận con sâu cái kiến, có đáng kể gì đối với Đấng cửu trùng. Xin người đừng để tâm. Chỉ có điều, xin Bệ hạ hiểu cho rằng, với một kẻ đã rắp tâm xa lánh cõi phàm, chỉ quen ăn rau rừng, uống nước suối, nhìn ngắm đất nâu và cỏ xanh, thì việc bắt buộc phải ở lại nơi này, cũng không khác gì bị hãm vào đoạ xứ... Xin hãy cho bần ni được về chốn cũ.
Đức vua nổi giận:
- Sư bà! Nên nhớ rằng, bà dầu đã dâng mình cho Phật đạo, nhưng bà sống ngày nào thì vẫn ăn ở đi lại trên đất của Thiên tử. Nếu bà quá ngang ngược, ta sẽ không dung tha.
Sư bà ai oán ngẩng nhìn. Đôi mắt chỉ biểu lộ sự tuyệt vọng, ngao ngán, mà không oán giận:
- Vậy thì, Bệ hạ cứ một mực như thế, xin hãy nghe. Bần ni chỉ xin nói lại lời di chúc của đức Phật mà thôi. Quyển bốn, Phá tăng sự, đã nói: lúc Bồ Tát còn là hoàng tử ở trong cung, khi vui vẻ chơi đùa, hay nói lảm nhảm. Một mình của ngài có ba bà phu nhân và sáu vạn mỹ nữ. Ngài nói, nếu ta không làm chuyện tục lậu với họ, e rằng người ngoài nói ta không phải là kẻ trượng phu...
Mắt Thần Tông sáng rỡ:
- Sư bà thật hiểu rộng biết nhiều. Ta này đường đường là vua một nước, mấy trăm mỹ nữ cung tần, chưa có chi là nhiều...
- Nếu Bệ hạ quả thực sùng đạo Phật, vậy có th làm theo đức Phật dạy được chăng? Phật dạy: "Tỳ kheo các người, nên tự cạo đầu, bỏ hết đồ trang sức, mác áo nâu màu xấu, cầm bát xin ăn cho sống qua ngày. Phải tự biết như thế mới là phải phép, hễ hơi có lòng kiêu ngạo là phải dẹp đi ngay!".
- Khổ ải như thế phỏng có ích gì đối với một bậc đế vương?
- Theo chỗ bần ni biết, Bệ hạ và những người trong cung cấm, dù vui chơi, tận hưởng xa hoa thỏa chí mà tâm vẫn phiền não. Đó là vì chưa xem phép "biết đủ" của đức Phật. Cái phép "biết đủ" tức là chỗ vui vẻ yên ổn. Con người biết đủ, dẫu nằm trên đất lạnh vn yên vui. Kẻ không biết đủ dẫu ở lầu cao cửa rộng giữa son phấn ngọc ngà cũng không xứng ý. Không biết là đủ, dù giàu cũng là nghèo, Biết đủ, dù nghèo cũng như giầu. Kẻ không biết đủ thường bị ngũ dục lôi đi. Người biết đủ lấy thế mà thương xót...!
Thần Tông cả cười:
- Dương như ta đã nghe những lời này nhiều lắm rồi. Từ kiếp trước! Nhưng ta thấy, thiên hạ chỉ có những kẻ không có thì mới tự an ủi rằng mình đang "tri túc". Còn những bậc đế vương xưa nay, dẫu có cả thiên hạ trong tay cũng không bao giờ tự cho là đủ. Nếu không, việc ra sức động binh mở mang bờ cõi, sơn hào hải vị đầy bàn, son phấn mỹ nhân bao bọc quanh mình... chẳng là hão huyền sao...!
Sư bà rạp đầu, chắp hai tay vái dài Thần Tông:
- Muôn tâu! Xin Bệ hạ gia ân, cho phép bần ni ra khỏi đoạ xứ này!
- Không được. Sư bà phải ở lại!
Thần Tông ghé vào tai sư bà, khẽ nói:
- Sư bà nên biết, hình như những năm qua, đêm đêm ta mơ thấy gương mặt của sư bà...
Câu nói thầm đó tựa như tiếng sét bên tai sư bà. Lồng ngực mảnh mai run rẩy của sư bà không ghìm nổi tiếng nấc. Sư bà buột miệng:
- Quá lắm! Từ Lộ! Hai kiếp của người rốt cục cũng chỉ đầy đoạ thân ta mà thôi!
Thần Tông giật nẩy mình khi nghe hai tiếng "Từ Lộ". Đứng sững. Cau mày như nhớ lại một điều gì. Giây lâu. Có một cái gì như bóng mây thoáng qua. Cố nhớ lại một hình bóng nào đó. Nhưng rốt cục, chỉ thấy gương mặt thiếu nữ nhạt nhoà. Đôi mắt sũng nước như lá. Và trong không gian ngòn ngọt nhàn nhạt mùi sữa dã nhân.
Thần Tông bất chợt đưa hai tay về phiá sư bà đang khóc nức nở. Như một đứa trẻ đòi mẹ che chở. Lại như một người tình khao khát được ôm ấp. Mắt vua cũng giàn giụa nước.
Nhưng sư bà động Trầm bỗng sững lại.
Từ phiá sau Thần Tông, một cung nhân tha thướt trong bộ xiêm áo màu hồng. Đôi mắt xám mênh mang với con ngươi ánh nâu như mắt mo hoang. Môi mọng màu hoang thổ. Tóc mượt như lụa không thèm búi chảy tràn xuống bờ vai thon mảnh. Thấp thoáng sau tấm sa mỏng, chiếc rốn màu chu sa ẩn hiện theo bước đi kiêu hãnh của loài ngựa hoang.
</FONT>
Duờng như không gian tràn ngập nàng. Cung nhân hồ ly.
Dù không quay lại, Thần Tông vẫn biết dó là Ngạn La. Ngài ngự rụt đôi tay đang đưa về phía sư bà, cất tiếng vọng li:
- Ngạn La! Sao bây giờ nàng mới đến?</FONT>
Copy từ VNthuquan.net bởi Huỳnh Hữu Phước - Nha Trang Khánh Hòa. Bạn nào cần sách, truyện gì trên Vnthuquan.net có thể liên hệ vào email bên dưới sẽ được đáp ứng ngay.
Website: http://bahy.vnbb.com
Email: [email protected]
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com