King
Sách Các Vua 1
(chương 1 – 11)
***
I. TỔNG QUÁT
Sách Các Vua 1 & 2 ghi lại những diễn tiến trong lịch sử Israel từ cuối triều đại Đavít đến biến cố Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy, tổng cộng khoảng 410 năm. Có thể trình bày lược đồ tổng quát của sách như sau:
1V chương 1-2 : Những ngày cuối đời của vua Đavít
1V chương 3-10 : Thời cực thịnh của vua Salomon
1V chương 11 : Vua Salomon suy tàn
1V chương 12-13 : Đất nước phân chia
1V chương 14-22 :Vương quốc Giuđa (Nam) và Israel (Bắc)
Sách Các Vua ghi lại những sự kiện lịch sử nhưng lại trình bày những sự kiện đó từ quan điểm tôn giáo. Bao lâu dân Israel thờ phượng Thiên Chúa của giao ước thì bấy lâu họ sẽ được hưởng an bình thịnh vượng. Trong thực tế, dân Israel đã gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên và chạy theo các ngẫu tượng ngoại giáo, đặc biệt là thần Baal của dân Canaan. Chính vì thế, Thiên Chúa đã thiết lập các tiên tri để họ kêu gọi dân trở về với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.
II. LỜI CẦU XIN CỦA SALOMON
Salomon được xức dầu tấn phong làm vua vào năm 970 trước Công nguyên. Khi lên ngôi vua, ông đã cầu xin Chúa “ban cho ông một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và biết phân biệt phải trái” (3,9). Lời cầu xin của ông đẹp lòng Thiên Chúa, và Ngài đã ban cho ông sự minh triết khiến ông nổi tiếng là khôn ngoan và được coi như hình mẫu của sự khôn ngoan trong lịch sử dân Israel.
Lời cầu xin của Salomon đẹp lòng Chúa vì ông không cầu xin cho cá nhân ông nhưng chỉ nhằm phục vụ Dân Chúa. Lời cầu xin đó phát xuất từ tâm hồn khiêm tốn, ý thức rằng sẽ không thể chu toàn trách nhiệm lớn lao được trao phó nếu không có ơn Chúa phù trì. Lời cầu xin đó cũng cho thấy tầm quan trọng của sự lắng nghe, lắng nghe tiếng Chúa và lắng nghe tiếng dân, vì nếu không lắng nghe thì sẽ không nhận ra sự thật và không thể đáp trả những nguyện vọng của Dân Chúa.
Điều đáng tiếc là Salomon đã không trung thành mãi với ý nguyện ban đầu. Oâng đã không còn lắng nghe tiếng Chúa, cũng chẳng nghe tiếng than thở của dân (chương 9), càng ngày càng sa đà vào lối sống của dân ngoại, và vì thế đưa đất nước đến chỗ suy vong.
Lời cầu xin của Salomon có giúp bạn nhìn lại việc cầu nguyện của bạn không? Bạn có ý thức rằng việc quan trọng nhất khi cầu nguyện không phải là nói mà là lắng nghe? Bạn có thái độ lắng nghe tâm tư của người khác hay chỉ muốn người khác lắng nghe nỗi lòng của mình?
III. XÂY DỰNG ĐỀN THỜ
Vua Đavít ước mong xây dựng Đền thờ kính Đức Chúa, nhưng ước nguyện này chỉ được hoàn thành dưới triều Salomon. Vào năm thứ tư triều đại của ông, Salomon đã bắt đầu công trình xây dựng đền thờ, và sau bảy năm, công trình được hoàn thành (chương 6). Sau khi hoàn thành, nhà vua đã cho kiệu Hòm Bia của Đức Chúa vào Đền thờ, và vinh quang Đức Chúa tràn ngập Đền thờ. Trong dịp này, vua Salomon đã thưa lên Chúa những lời thật sâu sắc, “Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây?” (8,29).
Quả thật, Thiên Chúa chẳng lệ thuộc vào một ngôi nhà bằng gạch đá. Ngài chỉ hiện diện ở đó vì tình thương đối với Dân Ngài. Khi dân không còn trung tín nữa thì ngay cả sự hiện diện của Đền thờ cũng không cần thiết! Sách Các Vua đã kết thúc với sự kiện bi đát là Đền thờ bị phá huỷ và dân bị đem đi lưu đày. Chính Chúa đã cảnh báo Salomon từ trước, “Nếu ngươi và con cháu các ngươi tráo trở bỏ đường lối Ta…. Thì Ta sẽ tiêu diệt Israel khỏi phần đất Ta đã ban cho chúng. Còn Đền thờ Ta đã thánh hoá để kính Danh Ta, Ta sẽ loại trừ khỏi nhan Ta, và Israel trở thành bia miệng cho mọi dân tộc đàm tiếu” (9,2).
Những điều này lại chẳng giúp chúng ta suy nghĩ về nhà thờ của ta và về việc thờ phượng ngày nay sao? Những ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ của ta có đi đôi với đời sống thờ phượng chân thành và đời sống luân lý tốt đẹp không?
Sách Các Vua 1
(chương 12-22)
***
I. CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO
Sau cuộc ly khai về chính trị, Giơroboam làm vua toàn Israel, chỉ còn Giuđa theo nhà Davit (12,20). Giơroboam quyết định đặt 2 bò mộng bằng vàng ở Bethel và Dan nhằm mục đích chính trị là để dân khỏi phải lên Giêrusalem để làm việc thờ phượng, và như thế ông giữ dân ở lại với mình (12,26-33). Như thế, tôn giáo đã bị lợi dụng để phục vụ cho ý đồ chính trị.
Đây là điều tái diễn thường xuyên trong lịch sử nhân loại. Hãy thử nhớ lại tôn giáo thờ hoàng đế trong đế quốc Roma. Hãy thử nhớ đến chính sách trong các chế độ độc tài khi người ta tìm cách thần thánh hoá một con người để thay thế Thiên Chúa đích thực, hoặc sử dụng tôn giáo như công cụ cho ý đồ chính trị của mình. Thiên Chúa không còn là Đấng được tôn thờ nhưng chỉ là phương tiện phục vụ những tính toán quyền lực của con người. Đương nhiên Thiên Chúa không thể chấp nhận điều đó (13, 1-5), và Hội Thánh phải luôn luôn cảnh giác trước nguy cơ này.
II. TRUNG THÀNH VỚI LỜI CHÚA
Sách 1V 13,11-32 kể lại một câu chuyện thật khó hiểu. Người của Thiên Chúa đã trung thành với Lời Chúa đến nỗi khước từ lời mời của nhà vua, thế rồi một người khác cũng tự xưng là tiên tri đã đến khuyến dụ và người của Thiên Chúa đã nghe theo. Cũng vì thế mà ông phải chịu hình phạt khủng khiếp là bị sư tử vồ. Tại sao Thiên Chúa lại khó khăn và độc ác như thế? Người ta bị lừa dối chứ đâu phải cố tình làm trái mà bị Thiên Chúa trừng phạt?
Ta có thể nêu lên những câu hỏi tương tự, tuy nhiên bài học cần quan tâm ở đây là sự trung thành tuyệt đối với Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh. Bài học này cần thiết cho các tín hữu ngày nay hơn bao giờ. Ngày nay ta đang đối diện với cơn cám dỗ thoả hiệp với thế gian và sự thoả hiệp này được biện minh bằng những lý do hết sức tốt đẹp. Chẳng hạn, tại sao Giáo Hội không cho phép ly dị, bắt người ta phải sống trong cảnh đau khổ mãi? Tại sao Giáo Hội không cho phép sử dụng những phương tiện ngừa thai để hạn chế sinh sản và bảo vệ hạnh phúc cho nhân loại? Tại sao Giáo Hội lại loại trừ những người đồng tính luyến ái, không biết cảm thông với họ? …
Cũng ở đây, ta mới hiểu tại sao Giáo Hội Công giáo cương quyết trong nhiều lập trường về đức tin và luân lý, là vì Giáo Hội muốn trung thành với Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh, và xác tín rằng chỉ có Lời Chúa mới đem lại sự sống đích thực và vĩnh cửu cho con người.
III. TẬP TRUNG VÀO TIÊN TRI ELIA
1. Một vài ghi nhận về Elia
Tên gọi của tiên tri Elia có nghĩa: Giavê là Thiên Chúa của tôi. Ta không có đầy đủ những sử liệu về việc sinh hạ và thiếu thời của tiên tri. Tuy nhiên, ta biết chắc rằng tiên tri Elia đã hoạt động dưới thời các vua Ahab, Ahaziah, và Jehoram (873-843 BC). Các vua thời đó thờ phượng Thiên Chúa nhưng cũng chạy theo các thần ngoại (Baal và Ashera) để cầu mưa nhằm làm tươi tốt đất đai. Nhiều tiên tri và tư tế khác cũng chạy theo, nhưng Elia cương quyết đòi hỏi một niềm tin trọn vẹn và tinh tuyền vào Giavê. Hoàng hậu Jezabel là người Phoenician, cũng là người đỡ đầu cho những việc thờ cúng ngoại giáo này, và tiên tri Elia đã gặp nhiều khó khăn với bà hoàng hậu này.
2. Lòng nhiệt thành của Elia
Sách Các Vua kể lại việc tế lễ trên núi Carmel (18, 20-40). Với con người ngày nay, có nhiều chi tiết trong câu chuyện này khó được chấp nhận, ví dụ tiên tri Elia thách đấu với các tư tế Baal, cuối cùng đã ra lệnh bắt và giết họ… Thiết nghĩ cần vượt lên trên những chi tiết trên để nắm bắt ý nghĩa chính của câu chuyện. Dân Chúa lúc đó là những kẻ hai lòng, đi khập khiễng (18,20-21), và tiên tri Elia đã làm mọi cách để lôi kéo mọi người về với niềm tin đích thực là niềm tin vào Thiên Chúa của giao ước. Tất cả làm nổi bật lòng nhiệt thành của vị tiên tri đối với công việc của Chúa (19,4).
Lòng nhiệt thành của tiên tri Elia chất vấn đức tin và lương tâm Kitô giáo của mỗi chúng ta. Tình trạng mà Elia gọi là khập khiễng, hai lòng, nghĩa là không toàn tâm toàn ý với Chúa, không phải là không có trong đời sống đức tin của ta. Ta cũng không dám chiến đấu cho chính nghĩa của Chúa như Elia đã chiến đấu, chủ yếu là vì sợ hãi, sợ mất quyền lợi, địa vị hay một thứ gì khác … trong khi điều đáng sợ nhất là đánh mất chính Chúa thì lại không sợ!
3. Nỗi chán nản của vị tiên tri
Vì nhiệt thành với công việc Nhà Chúa, tiên tri Elia phải đối diện với mối đe doạ đến từ chính bà hoàng Jezabel, và phải chạy trốn (19, 1-3). Trên đường chạy trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở với Chúa, “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (19,4). Nỗi chán nản của Elia khiến ta nhớ đến tâm trạng của thánh Gioan Tẩy giả trong ngục thất (x. Lc 7,18-23) và của chính Chúa Giêsu trong Vườn Ghetsemani.
Trong đời sống đức tin, người Kitô hữu cũng có những giây phút mệt mỏi, chán nản, đôi khi ngã lòng và sinh ra nghi nan vì thấy mình phải chịu nhiều thiệt thòi trên đường theo Chúa, và dường như Chúa không hành động gì cả. Trong những giây phút đó, hãy nhớ đến Elia, Gioan Tẩy giả và chính Chúa Giêsu để gặp được ở đó những người bạn đồng hành.
4. Chúa luôn đồng hành với tôi tớ Ngài
Chúa vẫn luôn đồng hành với Elia. Khi vị tiên tri mỏi mệt và chán nản, có thiên sứ đem bánh và nước đến cho ông (19, 5-8) để ông có sức đi tiếp hành trình đến núi của Thiên Chúa. Ở đó vị tiên tri đã gặp gỡ Chúa không phải trong cơn động đất kinh hoàng hay lửa cháy bừng bừng nhưng trong tiếng gió hiu hiu (19,12).
Cũng thế, Chúa không bao giờ bỏ rơi ta trong hành trình đức tin. Người luôn đồng hành với ta và ban sức mạnh cho ta. Bánh Thánh Thể chính là lương thực thần linh cho lữ khách trên đường hành hương, là nguồn sức mạnh cho người chiến sĩ trong cuộc chiến của đức tin. Hình ảnh Elia gặp gỡ Chúa trong tiếng gió hiu hiu cũng là lời mời gọi ta biết trở về trong tĩnh lặng; ở đó ta có thể gặp gỡ Chúa và lắng nghe tiếng gọi thầm kín của Người.
Sách Các Vua 2
(chương 1-13)
I. ƠN GỌI CỦA ÊLISÊ (1V 19, 19-21)
Trong trình thuật về ơn gọi của Elisê, nên quan tâm đến một vài chi tiết: Áo choàng của Elia là biểu tượng quyền năng của vị tiên tri (x.2V 2, 8.14: đập áo choàng rẽ biển). Elisê đã đáp lại lời mời gọi bằng cách giết bò và lấy cày làm củi. Hành động này diễn tả quyết tâm dứt khoát từ bỏ mọi sự để theo thầy.
So sánh với Chúa Giêsu (đọc Lc 9, 57-62), Người còn đòi hỏi nhiều hơn đến độ “để kẻ chết chôn kẻ chết.” Chúa Giêsu không coi nhẹ quan hệ gia đình nhưng Người muốn cho thấy tính tuyệt đối của Nước Trời.
Những trình thuật trên giúp ta thấy rõ hơn đòi hỏi từ bỏ trong đời sống Kitô hữu, không chỉ trong đời tu mà đối với mọi tín hữu, mọi ơn gọi. Sự từ bỏ này không những được thể hiện trong những chọn lựa quan trọng của đời sống mà còn cần được thể hiện ngay trong những chọn lựa hằng ngày.
II. QUYỀN NĂNG CỦA LỜI THIÊN CHÚA
1. Elisê làm nhiều phép lạ
Tiên tri Elisê làm nhiều phép lạ: những phép lạ trên sự vật như chữa lành nước uống, lượng dầu của bà goá nghèo khổ; những phép lạ trên bệnh tật và cả thần chết. Điều cần nhấn mạnh ở đây là quyền năng của Lời Chúa, Lời chữa lành, Lời ban sự sống. Ý nghĩa này được thể hiện cách cụ thể qua phép lạ chữa lành Naaman.
2. Phép lạ chữa lành Naaman (5,1-17)
Vua Israel bất lực trước cơn bệnh của Naaman. Dù thương mến vị tướng này hết sức, nhà vua không thể giúp gì được. Như thế, quyền lực chính trị và quân sự không phải là tất cả. Rộng hơn nữa, mọi thứ quyền lực con người có trong tay đều có những giới hạn của nó. Sự giới hạn này gắn liền với chính thân phận hữu hạn của loài thụ tạo. Không biết nhìn nhận những giới hạn này là không sống đúng với sự thật về con người, và có thể dẫn đến những hành động tai hại.
Thái độ của Naaman: Ông từ chối đi tắm ở sông Giođan theo yêu cầu của tiên tri Elisê vì lập luận rằng có nhiều dòng sông ở quê ông còn tốt hơn. Chính ở đây, độc giả khám phá ý nghĩa của bản văn: vấn đề không phải là dòng sông mà là lời của vị tiên tri dạy, đúng hơn là Lời Thiên Chúa phán qua miệng vị tiên tri. Chính Lời Thiên Chúa làm cho nước sông Giođan có khả năng chữa lành, chính Lời Thiên Chúa chữa lành và ban sự sống.
Những chi tiết trên giúp ta suy nghĩ về đức tin và đời sống Kitô hữu của mình.
Nước sông Giođan là hình ảnh nước rửa tội: Bệnh phong là hình ảnh của tội lỗi (thân phận người phong trong Israel mô tả ý nghĩa của tội lỗi: mất hiệp thông với Thiên Chúa, với cộng đoàn, bị xa cách). Naaman nhờ nước sông Giođan mà được sạch, da thịt trở nên đẹp đẽ như da đứa trẻ. Cũng vậy, nước rửa tội ban cho ta ơn tái sinh, dẫn ta vào sự hiệp thông đã mất.
Ý nghĩa của cử hành bí tích: Trong mọi cử hành bí tích đều có Lời và chất liệu như nước, dầu, bánh… Đây chỉ là những chất liệu bình thường trong cuộc sống nhưng Lời Thiên Chúa (qua thừa tác viên) làm cho chất liệu mang nội dung mới. Cả linh mục cũng như giáo dân đều cần quan tâm đến ý nghĩa này để cử hành bí tích với ý thức đức tin, không biến bí tích thành ma thuật.
Một chi tiết cần lưu ý vì có thể gây thắc mắc là câu chuyện Elisê nguyền rủa đám trẻ con khiến chúng chết. Hành động đó không phát xuất từ sự độc ác của vị tiên tri nhưng để làm nổi bật lời cảnh giác: đừng coi nhẹ lời ngôn sứ.
III. TRUNG TÍN VỚI LỜI CHÚA
Tiên tri là người được Chúa sai đi để công bố Lời Chúa cho dân, vì thế các ngài nhấn mạnh rất nhiều đến việc trung tín với Lời Chúa. Có thể lấy một vài câu chuyện trong Sách Các Vua để minh hoạ.
1. Truyện bà Jezabel
Vì lòng tham, hai vợ chồng vua Achaz sử dụng mọi thủ đoạn tồi tệ nhất để chiếm đoạt vườn nho của Nabot. Nabot bị tố cáo tội phạm thượng đến Thiên Chúa và Đức Vua, và ông bị ném đá chết. Và nhà vua ung dung chiếm đoạt vườn nho của Nabot (1V 21, 4-15). Thế nhưng tiên tri Elia được Chúa sai đến tuyên án lệnh của Thiên Chúa, một án lệnh khủng khiếp: “Ta sẽ giáng tai hoạ xuống trên ngươi, Ta sẽ xoá sạch hậu duệ ngươi… Chó sẽ ăn thịt Jezabel…” 1V 21,23. Và án lệnh đã được thi hành: vì vua Achaz bày tỏ lòng sám hối nên Chúa phán, “Vì nó đã hạ mình trước mặt Ta, nên Ta sẽ không giáng họa trong buổi sinh thời của nó, nhưng đến đời con nó, Ta sẽ giáng họa xuống nhà nó” (21,29). Nhưng bà Jezabel đã phải chịu hình phạt như Lời Chúa phán (2V 9, 30-37).
2. Truyện Vua Ahaziah
Nhà vua đau ốm và sai người đi thỉnh ý thần Baal xem có qua nổi cơn bệnh không (2V 1,2). Quả là một cử chỉ tỏ tường cho thấy nhà vua đã bỏ Chúa để tin theo các thần tượng ngoại giáo. Vì thế Chúa phán qua miệng tiên tri Elia: “Ở Israel không có Thiên Chúa hay sao, mà các anh lại đi thỉnh ý Baal… Vì thế Đức Chúa phán thế này: ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm, vì thế nào ngươi cũng chết” (2V 1, 3-4). Và án lệnh của Thiên Chúa đã được thi hành (2V 1,17).
Hai câu truyện trên và nhiều sự kiện khác trong sách đều nhằm làm nổi bật đòi hỏi trung tín với Thiên Chúa và với giao ước. Đây không phải là lời đe doạ nhưng là lời mời gọi cho tất cả các tín hữu, để mỗi người cố gắng sống trung tín với ơn gọi đã lãnh nhận: ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi gia đình, ơn gọi linh mục tu sĩ. Cuộc sống ta sẽ chỉ có hạnh phúc thật sự sâu xa và bền vững khi sống sự trung tín này.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com