Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Sách Ê-de-ki-en

Sách Êzêkiel

(chương 1-12)

***

250px-EzekielI. TỔNG QUÁT

1. Nội dung

Sách Ezekiel gồm 5 phần chính:

– Chương 1-3 : Ơn gọi của Ezekiel
– Chương 4-24 : Những lời tiên tri về vận mệnh
Giêrusalem
– Chương 25-32 : Những lời tiên tri chống lại các
nước khác
– Chương 33-39 : Niềm hi vọng hồi sinh sau khi
Giêrusalem thất thủ
– Chương 40-48 : Thị kiến về Đền thờ mới và sự
phục hồi đời sống chính trị cũng
như tôn giáo của Israel.

2. Văn loại

Sách Ezekiel được xếp vào thể văn tiên tri. Cũng như các tiên tri khác, Ezekiel là phát ngôn viên của Chúa. Khi cộng đoàn phải đối diện với những khủng hoảng tôn giáo và chính trị, Ezekiel nhân danh Chúa đưa ra những lời lên án hoặc khích lệ họ. Đối tượng mà Ezekiel nhắm tới là cộng đoàn Do thái ở Giuđa và Babylon vào thế kỷ VI trước Công nguyên. Ezekiel nói tiên tri bằng nhiều hình thức: thị kiến, những hành động biểu tượng, những ngụ ngôn, diễn từ.

II. ƠN GỌI CỦA EZEKIEL (1,1 – 3,27)

1. Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi của con người

Bài tường thuật về ơn gọi của Ezekiel khá giống với những bài tường thuật về ơn gọi của Isaia và Giêrêmia. Tác giả làm nổi bật sự tương phản giữa vinh quang Thiên Chúa và sự thấp hèn của con người, giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi con người: “Đó là một cái gì trông tựa vinh quang của Đức Chúa. Vừa thấy thế, tôi liền sấp mặt xuống” (1,28).
Cảm nghiệm này giúp cho các tiên tri – và mỗi Kitô hữu – ra đi công bố Lời Chúa với lòng khiêm tốn, đồng thời giữ vững niềm tin tưởng cậy trông: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel… Đừng sợ chúng, cũng đừng sợ những lời chúng nói… Người cứ nói với chúng những lời của Ta” (2, 3-6).

2. Ăn cuộn sách (2,1 – 3,15)

Đức Chúa phán với Ezekiel: “Hãy ăn cuộn sách này rồi đi nói với nhà Israel” (3,1). Ezekiel đã ăn và cảm nhận cuộn sách thật ngọt ngào (3,3). Lời Chúa là mật ngọt cho tâm hồn. Có nhiều thứ mật ngọt. Có những loại mật ngọt dẫn đến hư vong, chỉ có Lời Chúa mới mang lại hương vị hạnh phúc, bình an và niềm vui sâu xa, bền vững. Tiên tri đích thực không rao giảng lời lẽ và sự khôn ngoan của riêng mình nhưng là Lời của Chúa (x. 1Cor 2,4). Muốn thế, bản thân tiên tri phải được thấm nhuần Lời Chúa, phải “ăn và nuốt” lấy Lời Chúa.

3. Nhiệm vụ người canh gác (3,17-21)

Đức Chúa giao cho Ezekiel nhiệm vụ “canh gác nhà Israel.” Tiên tri thi hành nhiệm vụ này bằng cách nghe Lời Chúa rồi thay mặt Chúa loan báo cho dân. Phải loan báo cách trung thành, dù là những lời người ta không muốn nghe; nếu không, bản thân tiên tri sẽ bị trừng phạt: “nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng ‘Chắc chắn ngươi sẽ phải chết,’ và nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác đó biết… thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (3,18).

Được chia sẻ chức năng tiên tri của Chúa Kitô, bạn đã thi hành nhiệm vụ canh gác này với ai? Bằng cách nào?

III. NHữNG HÀNH ĐỘNG BIỂU TƯỢNG

1. Bốn hành động biểu tượng trong Ez 3,16 – 5,17

– Vẽ trên gạch hình ảnh Giêrusalem bị vây hãm
– Nằm nghiêng bên trái rồi bên phải trong một số ngày để loan báo số năm dân Israel và Giuđa bị lưu đày.
– Phần lương thực
– Cắt tóc cạo râu và phân chia râu tóc

2. Ý nghĩa

Những hành động biểu tượng không nhằm mục đích thỏa mãn tính tò mò của người xem nhưng nhằm loan báo Lời Chúa bằng những hành động cụ thể. Các bí tích và cử hành phụng vụ cũng là những hành động diễn tả và chuyển thông ân sủng của Thiên Chúa nhưng nhiều khi ta không quan tâm vì đã quá quen. Đức Bênêđitô XVI nhấn mạnh: “Giáo lý nhiệm huấn cũng phải quan tâm đến việc trình bày ý nghĩa của các dấu chỉ chứa đựng trong các nghi lễ. Điều này đặc biệt quan trọng cho thời đại kỹ thuật cao như thời đại của chúng ta, một thời đại có nguy cơ đánh mất khả năng nhận biết các dấu chỉ và biểu tượng” (Tông huấn Bí Tích Tình Yêu, số 64).

Trong thời đại thế tục hoá ngày nay, cuộc sống chân chính của Kitô hữu cũng có thể là những hành động biểu tượng loan báo Tin Mừng.

Sách Êzêkiel

(chương 13-24)

***

Ezekiel-iconI. CÁC TIÊN TRI GIẢ (13,1-23)

1. Tổng quát

Chương 13 được chia thành hai phần đối xứng nhau: lên án các tiên tri nam (câu 2-16) và các nữ tiên tri (câu 17-23). Một số học giả cho rằng trong Thánh Kinh Cựu Ước, danh hiệu tiên tri chỉ được dành cho một số ít phụ nữ (Miriam trong Xh 15,21; Deborah trong Tp 4,4; vợ của Isaia trong Is 8,3). Vì thế các nữ tiên tri ở đây thực ra là những phù thủy vì họ sử dụng pháp thuật (x. 1Sam 28,7 tt). Nhưng những học giả khác lại cho thấy sự giống nhau giữa các tiên tri giả này, dù là nam hay nữ, cho nên có thể gọi tất cả họ là phù thủy hoặc tiên tri.

2. Nhận diện các tiên tri giả

Tiên tri giả là những người chỉ nói theo ý riêng của mình (13,2. 17). Tiên tri giả là những người công bố những thị kiến hão huyền và lời sấm dối trá mà lại dám mạo nhận là lời sấm của Chúa: “Ta sẽ ra tay trừng phạt hạng tiên tri thấy thị kiến hão huyền và nói lời sấm dối trá” (13, 6-9. 23). Tiên tri giả là những người nói tiên tri để tìm tư lợi cho mình, đồng thời phỉnh gạt dân chúng: “Các ngươi đã xúc phạm đến Ta … chỉ vì những nắm lúa mạch, những mẩu bánh, đến nỗi các ngươi giết chết những người đáng lẽ không phải chết, và cho sống những người không đáng sống” (13,19).

3. Cảnh giác trước các tiên tri giả

Thánh Phaolô nhắn nhủ môn đệ của ngài, cũng là nhắn nhủ các Kitô hữu ở mọi thời đại, “Sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ làm cho họ vui tai. Họ sẽ ngoảnh đi không nghe lời chân lý nhưng hướng về những chuyện hoang đường. Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, hãy làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh” (2Tm 4,3-5).

II. TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN (14,12-23, 18,1-32)

1. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình

Tiên tri Ezechiel tuyên bố rằng ngay cả những nhân vật nổi tiếng đạo đức trong quá khứ như Noah, Daniel và Job cũng không thể ngăn nổi cơn giận của Chúa đối với dân tội lỗi. Sự công chính cứu thoát cá nhân người công chính chứ không thể cứu người khác: “Chúng cũng chẳng cứu nổi con trai con gái mình, chỉ mình chúng được cứu thoát vì đã sống công minh chính trực” (14,20). Không thể chỉ cậy dựa vào những việc lành trong quá khứ để an tâm trong lối sống tội lỗi hiện tại: “Nếu kẻ công chính từ bỏ lẽ công chính của mình mà theo đòi kẻ gian ác làm mọi điều ghê tởm, nó làm thế mà được sống sao?” (18,24). Phải sống công chính ngay trong hiện tại, phải trở về với Chúa mỗi ngày: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ mọi tội lỗi nó đã phạm mà tuân giữ lề luật của Ta…chắc chắn nó sẽ sống chứ không phải chết” (18,21).

2. Sống tinh thần trách nhiệm trước mặt Chúa

Thiên Chúa không vui thích vì con người phải chết (18,23.32), đồng thời không ai có thể trách cứ Thiên Chúa về án xử công minh của Người (14,23). Không thể dựa vào câu ngạn ngữ “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” để đổ lỗi cho người khác và trốn tránh trách nhiệm của mình (18,2-4). Điều quan trọng là chu toàn trách nhiệm của mình và sống ngay thẳng trước mặt Chúa: “Hãy trở lại và hãy sống” (18,32).

III. NGƯỜI VỢ BẤT TRUNG (16,1-63)

1. Ngôn ngữ ẩn dụ và lịch sử Israel

Ezekiel được coi là một trong những bậc thầy về việc sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ, nghĩa là kể chuyện rồi áp dụng vào hoàn cảnh hiện tại. Tài năng đó được thể hiện cụ thể trong chương 16 và các chương khác (15,17,19,23,31,34).

– Câu 1-14 mô tả Giêrusalem như một đứa trẻ mồ côi, được sinh ra từ dân Amorites và Hittites, nhưng lại bị ném ra bên ngoài, không ai chăm sóc. Chính Chúa đã chăm sóc đứa trẻ đó thành một thiếu nữ xinh đẹp. Rồi Chúa quay lại và lập giao ước với Giêrusalem. Giêrusalem trở thành thiếu nữ nổi tiếng vì nhan sắc, vì phẩm giá cao quý và những ân huệ tuyệt vời.

– Câu 15-34 lại mô tả Giêruslaem trở thành sa đoạ vì chính nhan sắc mỹ miều của nó: hoang dâm với mọi khách qua đường, đàng điếm trên các tế đàn, biến con cái mình thành của lễ dâng các ngẫu tượng, hoang dâm với Ai Cập, Assyria, Babylonia đến nỗi “người đàng điếm không phải là kẻ chạy theo ngươi mà là chính ngươi. Người trả tiền là ngươi chứ không phải chúng” (16,34).

– Câu 35-43 loan báo án phạt mà Giêrusalem phải chịu: bị lột trần và xử phạt như đối với những kẻ sát nhân và ngoại tình (câu 37-38, x. Dnl 22,22; Lev 20,10). Giêrusalem sẽ bị xử phạt trước mặt các phụ nữ khác (các dân khác). Rồi cơn giận của Chúa sẽ nguôi ngoai (câu 42).

– Câu 44-58 so sánh Giêrusalem với các chị em là Samaria và Sodoma. Giêrusalem là phụ nữ tội lỗi nhất và bị trừng phạt nặng nề.

– Phần kết (câu 59-63) lại mở ra một viễn tượng lạ lùng: Thiên Chúa khôi phục mọi sự cho Giêrusalem, nhắc nhớ giao ước cũ, và tuyên bố sẽ thiết lập giao ước vĩnh cửu

2. Nhìn lại giao ước yêu thương với Thiên Chúa

Giao ước này được thiết lập từ tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa, tình thương vượt trên mọi yếu hèn, phản trắc và sa ngã của ta. Hãy sống Đạo như một giao ước tình yêu và không ngừng làm mới lại giao ước đó mỗi ngày.

Sách Êzêkiel

(chương 25-36)

***

lehiI. TIÊN TRI, NGƯỜI CANH GÁC (33,1-9; 3,17-21)

Tiên tri có nhiệm vụ trung chuyển Lời Chúa cho dân, bảo vệ dân, canh giữ dân, lôi kéo kẻ gian ác khỏi đường tội lỗi và khích lệ người công chính trên đường công chính. Thiên Chúa đòi hỏi tiên tri phải loan báo cho kẻ gian ác biết án xử của Thiên Chúa; nếu không, không những kẻ gian ác bị trừng phạt nhưng chính tiên tri cũng bị trừng phạt: “Nếu người canh gác thấy gươm đến mà không thổi kèn, khiến dân không được báo, và gươm đến làm cho người nào phải thiệt mạng, thì kẻ ấy chết vì tội lỗi của mình, nhưng máu người ấy, Ta sẽ đòi người canh phải trả” (33,6).

Nhiệm vụ của người canh gác đòi hỏi phải tỉnh thức và cảnh giác để có thể nhận ra những âm mưu và nguy hiểm đang đe doạ dân trong thành. Về mặt thiêng liêng, hình ảnh này gợi về sứ điệp Tin Mừng: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21,36), tỉnh thức trước những cám dỗ tinh vi của ma quỷ, tỉnh thức trước tiếng gọi thầm kín của Chúa, tỉnh thức cho mình và cho những người Chúa đã trao phó cho ta.

Tỉnh thức giữa lúc mọi người đang ngủ là điều không dễ, nhất là khi phải tỉnh thức thường xuyên. Vì thế cần cầu nguyện. Nguồn sức mạnh của tỉnh thức là tình yêu, như người mẹ tỉnh thức trước tiếng khóc của đứa con. Tình yêu đó là đức Ái mục tử mà cha mẹ phải có đối với con cái, linh mục phải có đối với cộng đoàn đã được trao phó cho mình.

II. DỤ NGÔN VỀ CÁC MỤC TỬ (34,1-16)

Các mục tử trong quá khứ đã không chu toàn nhiệm vụ đối với đoàn chiên, nhất là những con chiên bệnh tật, bị thương tích, lạc đường… (câu 2-6) Vì thế Thiên Chúa sẽ trừng phạt các mục tử và giải thoát đoàn chiên: “Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa” (34,10).

Chính Chúa sẽ đảm nhận trách nhiệm mục tử: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc đoàn chiên của Ta và thân hành kiểm điểm” (34,11). Chúa sẽ là mục tử tốt lành, chăm sóc đoàn chiên, quy tụ chiên tản mác, kiếm tìm chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát.

Người Kitô hữu đọc đoạn văn này không thể không nhớ đến Ga 10,1-18, ở đó Chúa Giêsu khẳng định, “Tôi chính là Mục tử nhân lành.” Đặc điểm của vị mục tử nhân lành là Ngài biết chiên và hi sinh cho đoàn chiên: “Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi, như Chúa Cha biết Tôi và Tôi biết Chúa Cha, và Tôi hi sinh mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10,15).

Đây cũng là điều mọi Kitô hữu phải quan tâm suy nghĩ vì đã được chia sẻ chức năng mục tử của Chúa Kitô qua bí tích Thánh Tẩy.

III. TÁCH BIỆT ĐOÀN CHIÊN (34,17-31)

Ở đây, chủ đề được chuyển từ việc lên án các mục tử không chăm sóc đoàn chiên sang những con chiên lạm dụng quyền lợi của mình. Những con chiên khỏe mạnh, béo tốt nhưng chỉ biết nghĩ đến mình và gây thiệt hại cho những con chiên gầy gò đau yếu. Chúng sẽ bị xét xử: “Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên” (34,22). Những lời này giúp các Kitô hữu ý thức về đời sống trong cộng đoàn Giáo Hội, không chỉ là mối tương quan giữa giáo dân và chủ chăn, nhưng còn là mối tương quan giữa giáo dân với nhau. Làm sao để xây dựng một tương quan huynh đệ, liên đới, chia sẻ và đồng cảm với nhau; đó là một trong những đòi hỏi mục vụ hàng đầu phải quan tâm tới.

Các câu 23-24 chuyển sang một chủ đề mới là loan báo vị mục tử mới, một hoàng tử mêsia. Đavít sẽ là mục tử/hoàng tử được hứa ban và Đức Chúa là Thiên Chúa của chúng: “Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó sẽ chăn dắt chúng, đó là Đavít, tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng, chính nó sẽ là mục tử của chúng… Đavít, tôi tớ của Ta, sẽ là ông hoàng ở giữa chúng” (34,23).

Sang đến câu 25-27, không còn hình ảnh mục tử nữa; thay vào đó Ezekiel nói đến giao ước bình an giữa Thiên Chúa và dân Người: “Ta sẽ thiết lập với chúng một giao ước bình an” (34,25). Chính Chúa sẽ đem bình an và thịnh vượng đến cho Dân Người.

Vị hoàng tử bình an và mục tử lý tưởng mà Ezekiel loan báo chính là Chúa Giêsu, Thiên Chúa xuống thế làm người, và ở giữa loài người. Ngài đến để đem bình an cho nhân loại, thiết lập giao ước mới và vĩnh cửu bằng máu Ngài đổ ra trên thập giá.

Sách Êzêkiel, chương 37-48

***

prophet_1I. THỊ KIẾN VỀ NHỮNG BỘ XƯƠNG KHÔ (37,1-14)

Thị kiến này là một trong những trình thuật được biết đến nhiều nhất trong sách Ezekiel. Trình thuật gồm hai phần: thị kiến (câu 1-10) và giải thích (câu 11-14). Cơ hội để vị tiên tri công bố thị kiến này là lúc dân lưu đày đã mất hết hi vọng vào tương lai. Họ đã từng nghĩ rằng Giêrusalem là bất khả xâm phạm nhưng thực tế chứng minh đó chỉ là niềm hi vọng hão huyền, và bây giờ chỉ còn lại niềm tuyệt vọng: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời” (câu 11).

Trong bối cảnh tuyệt vọng đó, tiên tri công bố thị kiến tràn ngập hi vọng. Trong một thung lũng tràn ngập những bộ xương khô, nghĩa là những dấu chứng của chết chóc và tuyệt vọng, Lời Chúa tra vấn vị tiên tri, “Liệu các xương khô này có hồi sinh được không?” Vị tiên tri trả lời hết sức dè dặt, “Chỉ một mình Người mới biết được!” Thế rồi Chúa sai vị tiên tri tuyên sấm trên những bộ xương khô để một linh khí mới cùng với da thịt, các đường gân sẽ làm cho nó hồi sinh (câu 4-6). Lần thứ hai, Chúa lại sai tiên tri gọi linh khí từ bốn phương đến, và linh khí đã làm cho cả cánh đồng xương khô thành một đạo quân hùng mạnh (câu 9-10).

Trong phần giải thích tiếp theo, Thiên Chúa tuyên bố rằng những con người tuyệt vọng sẽ được hồi sinh và có đời sống mới tại Israel. Tuy nhiên hình ảnh được vận dụng ở đây lại là hình ảnh những huyệt mộ được mở ra (câu 12) chứ không phải là cả cánh đồng xương khô. Đồng thời câu 13 và 14 không chỉ nhấn mạnh đến miền đất mà dân sẽ được định cư nhưng còn nhấn mạnh đến việc hiểu biết Chúa, “các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa.” Thị kiến này không nhằm trình bày niềm tin vào sự phục sinh cá nhân cho bằng sự hồi sinh của một dân tộc về mặt xã hội.

Thánh Phaolô dạy, “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng” (Dt 11,1). Như thế, đức tin gắn liền với hi vọng, và sống đức tin là sống trong hi vọng. Niềm hi vọng Kitô giáo có những nét đặc thù. Đó là niềm hi vọng cậy dựa vào một mình Chúa là Thiên Chúa của sự sống và là Cha yêu thương, chứ không dựa vào sức mạnh người đời. Đó là niềm hi vọng vượt qua cả biên cương sự chết chứ không chỉ dừng lại ở những thành công trần thế. Chính niềm hi vọng đó ban sức mạnh cho ta trong mọi nghịch cảnh. Tôi phải tự hỏi mình: tôi hi vọng điều gì? Tôi hi vọng vào ai?

II. DÒNG NƯỚC TỪ ĐỀN THỜ (47,1-12)

Phần cuối trong sách Ezekiel (40,1 – 48,35) gồm có một phác thảo kiến trúc về Đền thờ (40,1 – 42,20), mô tả việc thờ phượng trong Đền thờ (43,1 – 44,3), những lề luật về Đền thờ (44,4 – 47,12) và những ranh giới phân chia đất đai (47,13-48,35). Ở đây chỉ tập trung vào thị kiến về dòng nước chảy ra từ Đền thờ.

Tiên tri Ezekiel và người hướng dẫn trở lại phía cửa Đền thờ và thấy có nước vọt ra từ ngưỡng cửa và chảy về phía đông. Càng đi xa về phía đông, tiên tri thấy dòng nước càng dâng cao. Người hướng dẫn lấy thước đo bốn lần và mỗi lần nước lại dâng cao hơn, cuối cùng thành dòng thác (câu 3-5). Ezekiel thấy nhiều cây cối hai bên bờ, và được giải thích rằng dòng nước ban sự sống phát xuất từ ngai Thiên Chúa sẽ làm cho nước mặn chát của Biển Chết thành nước trong lành, làm cho cây cỏ tốt tươi trổ sinh hoa trái, và lá không bao giờ tàn tạ. Hình ảnh này phát xuất từ huyền thoại cổ xưa về thành phố trên đồi, từ đó phát sinh những dòng sông trên trái đất (x. St 2,10-14). Hình ảnh này cũng được vận dụng trong văn chương khải huyền (x. Kh 22).

Thị kiến của tiên tri Ezekiel loan báo việc thờ phượng sẽ được hồi sinh trong Đền thờ được tái thiết. Tuy nhiên người Kitô hữu lại khám phá nơi thị kiến này những tầng ý nghĩa khác. Trong trình thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thánh Gioan ghi nhận rằng, “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra” (19,34). Chúa Giêsu chính là Đền thờ sống động (x. Ga 2,21), và dòng nước cùng máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người chính là nguồn nước ban sự sống, được thông ban qua các bí tích, cho tất cả những ai tin vào Người. Chính vì thế trong Đêm Vọng Phục Sinh, chủ tế cử hành nghi thức làm phép nước để rửa tội cho các dự tòng và rẩy trên dân chúng, khi đó cộng đoàn cùng hát lên, “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên: Alleluia, Alleluia.”

Trong cuộc sống ngày nay, có quá nhiều “biển chết,” những vùng biển nhìn thật hấp dẫn và đẹp mắt nhưng chỉ toàn cung cấp thứ nước mặn chát và chết chóc. Chỉ có nguồn nước mà Chúa Giêsu ban cho mới đem đến sự sống dồi dào như Người đã hứa: “Ai khát, hãy đến với Tôi, ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói: từ lòng Người sẽ tuôn chảy dòng nước hằng sống” (Ga 7,38). Liệu chúng ta có dám tin vào lời mời gọi của Chúa Giêsu không? Nếu tin, ta đã đáp lại lời mời gọi đó như thế nào?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #bunbo