Sách Isaia
SÁCH ISAIA
(chương 1-7)
I. TỔNG QUÁT
1, 1-31 : Dẫn nhập: Hạch tội dân bội bạc và giả hình (1,2-8).
Lời sấm về sự thờ phượng đích thực (1,10- 16).
Kêu gọi hoán cải (1, 18-20).
Đe doạ hình phạt (1,21-31).
2, 2-5 : Tương lai của núi Sion
2, 6-22 : Ngày của Đức Chúa
3, 1-26 : Cảnh hỗn loạn tại Giêrusalem và hình phạt cho các phụ nữ.
4, 2-6 : Số sót (chồi non của Đức Chúa)
5, 1-7 : Bài ca vườn nho
5, 8-30 : Tố giác những lạm dụng xã hội và những người lãnh đạo.
6, 1-13 : Ơn gọi của ngôn sứ Isaia
7, 1-25 : Lời tiên tri về Emmanuel
II. ƠN GỌI CỦA TIÊN TRI ISAIA
1. Isaia “thấy” Chúa (6,1)
Đây là khẳng định đơn giản nhưng hết sức mạnh mẽ vì trong Thánh Kinh, con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa mà có thể sống sót nổi (x. Xh 33,20). Khẳng định này làm nổi bật uy quyền của lời tiên tri, vì lời đó không dựa vào sự khôn ngoan của người đời nhưng trực tiếp đến từ Thiên Chúa (x. 1Cr 2,1-5).
2. Đấng Thánh của Israel
Isaia trình bày Thiên Chúa là Đấng cực thánh (6,3) và con người cần đặt trọn niềm tin vào Ngài: “Nếu các ngươi không vững tin, các ngươi sẽ không đứng vững” (7,9). Đối diện với Thiên Chúa chí thánh, con người cảm nhận sâu sắc thân phận tội lỗi và ô uế của mình (6,4) (đối chiếu Lc 5, 1-10). Vì thế, cần được Thiên Chúa thanh tẩy (6,5).
3. Sự đáp ứng của Isaia
Trước tiếng gọi của Thiên Chúa “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Isaia đáp trả rất nhiệt tình: “Lạy Chúa, này con đây, xin Chúa sai con”(6,8). Thiên Chúa cũng kêu gọi và trao phó sứ mạng cho bạn, bạn đã đáp trả thế nào trước tiếng gọi của Chúa?
III. LỜI TIÊN TRI VỀ EMMANUEL (7, 10-17)
1. Lời tiên tri (7, 13-17)
“Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.” Từ almah trong tiếng Hípri có nghĩa là thiếu nữ đến tuổi kết hôn, không nhất thiết phải là trinh nữ. Tuy nhiên bản dịch Hi Lạp đã dùng từ parthenos nghĩa là trinh nữ. Thánh sử Matthêu đã sử dụng từ parthenos này (1, 22-23). Đây là nền tảng cho cách giải thích của Kitô giáo về bản văn này như lời tiên tri về việc Đức Maria thụ thai và sinh hạ Chúa Giêsu Kitô.
2. Ý nghĩa
Trong bối cảnh lịch sử thời vua Achaz, lời tiên tri này là một dấu chỉ hi vọng giữa hoàn cảnh đầy thất vọng, dấu chỉ sự sống giữa những đe doạ và chết chóc. Trong truyền thống Kitô giáo, lời tiên tri này hướng nhân loại đến Chúa Kitô, Đấng đến để xây dựng thế giới mới và nhân loại mới.
IV. BÀI CA VƯỜN NHO (5, 1-7)
1. Vườn nho
Vườn nho là một trong những hình ảnh và chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh (x. Mt 21,33-42; Mc 12,1-10; Lc 20,9-18). Hình ảnh này hàm chứa nhiều ý nghĩa: (1) nghĩa tự nhiên về mặt canh nông; (2) bản tình ca hát cho người bạn đời, vì thế, hình ảnh “nho dại” ám chỉ sự bất trung trong đời sống hôn nhân; (3) vườn nho còn là biểu tượng cho sự giàu có, nhưng theo mạch văn, sự giàu có không nhất thiết dẫn đến một xã hội công bằng và huynh đệ.
2. Hình ảnh vườn nho và đời sống đức tin của người Kitô hữu
Một trong những dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu là dụ ngôn về những người thợ làm vườn nho và là những kẻ sát nhân (Mc 12,1-10). Vườn nho ở đây là Nước Trời, là cộng đoàn Dân Chúa, và cũng có thể hiểu là cuộc đời mỗi chúng ta. Chính Thiên Chúa mới là chủ vườn nho, còn mỗi người trong chúng ta chỉ là thợ làm vườn nho, và phải dâng những hoa lợi vườn nho cho Chúa. Nhưng thay vào đó, có thể ta chỉ thu tích hoa lợi hoàn toàn cho bản thân và những tính toán ích kỷ của mình, khước từ quyền làm chủ của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Vậy bạn là ai trong dụ ngôn này? Vườn nho đời bạn đem lại những hoa trái nào? Bạn sử dụng những tài năng và ân huệ Thiên Chúa ban cách nào?
Sách Isaia
chương 8-12
+++
I. TỔNG QUÁT
8,1-15 : Những lời tiên tri về Assyria
8,16-20 : Sứ mạng của Isaia
9,1-6 : Vị vua mới và ơn giải thoát
9,7 -10,4 : Các thử thách của vương quốc miền Bắc
10,5-34 : Vai trò của Assyria
11,1-9 : Vị vua lý tưởng
11,10-16 : Tái thống nhất Israel
12,1-6 : Bài ca tạ ơn
II. LỜI TIÊN TRI VỀ VỊ QUÂN VƯƠNG (8,23 – 9,6)
1. Lời tiên tri trong bối cảnh lịch sử
Đây là lời tiên tri mang tính “mêsia” (cứu thế) vì mô tả vị vua lý tưởng trong tương lai sẽ thiết lập triều đại mới, triều đại hòa bình, công minh và chính trực. Có thể là lời tiên tri về vua Hezekiah, người kế vị Akhaz, sẽ lên ngôi năm 725 hay 715 trước Công nguyên. Tuy nhiên, vị vua này lại được mang những tước hiệu đặc biệt, nhất là “Thần linh dũng mãnh” (Tv 2,7 còn cho rằng vị vua này là Người Con được Thiên Chúa sinh ra, Tv 45,7 còn gọi vị vua này là Elohim “Thiên Chúa”). Vì thế, theo lời tiên tri, vị vua này không chỉ là một con người.
2. Lời tiên tri và phụng vụ Kitô giáo
Hội Thánh Công giáo chọn đọc lời tiên tri này trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh (bài đọc I: Is 9,1-6; bài Tin Mừng: Lc 2,1-14). Đối chiếu hai bản văn Thánh Kinh trên, ta sẽ thấy cách giải thích của Hội Thánh về lời tiên tri. Đây là lời tiên tri về việc giáng sinh Chúa Giêsu Kitô, Đấng muôn dân mong đợi, Đấng đến thiết lập “vương quốc vững bền, trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,6). Điều cần ghi nhận là thế giới lý tưởng đó không tùy thuộc vào sức mạnh quân sự nhưng tùy thuộc vào một trẻ thơ không có quyền lực gì cả, nghĩa là một thế giới được xây dựng trên sự công chính và tình thương.
III. TRIỀU ĐẠI CỦA ĐẤNG MÊSIA
1. Lời tiên tri về vị vua lý tưởng (11, 1-9)
Câu 1 cho biết vị vua này xuất thân từ nhà Đavít: “Từ gốc tổ Giessê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non.” Câu 2-5 mô tả những đặc điểm của vị vua này: Thần Linh Thiên Chúa sẽ ngự xuống trên ngài và ngài sẽ thực hiện tất cả công việc của vị vua công chính. Câu 6-9 mô tả thế giới sẽ được biến đổi dưới triều đại của vị vua này. Thế giới được mô tả bằng những hình ảnh lý tưởng như vườn địa đàng: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.”
Tiên tri Isaia mô tả một thế giới lý tưởng, và thế giới đó sẽ trở thành hiện thực khi “sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển.” Nghĩa là phải khước từ những tham vọng bất chính và thiết tha với sự công chính của Thiên Chúa. Thế giới này vẫn còn ở phía trước và không ngừng vẫy gọi chúng ta đi tới.
2. Lời tiên tri và phụng vụ Kitô giáo
Hội Thánh Công giáo chọn đọc lời tiên tri này trong Chúa nhật II Mùa Vọng (bài đọc I: Is 11,1-10; bài Tin Mừng: Mt 3,1-12). Liên kết hai bản văn Thánh Kinh này sẽ giúp ta hiểu cách giải thích của Hội Thánh về lời tiên tri của Isaia: đây là lời tiên tri về Đấng Mêsia, Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần, sẽ thiết lập Nước Trời. Nước Trời chính là chủ đề lớn bao trùm mọi lời rao giảng của Chúa Giêsu. Nước Trời phải là lý tưởng của mọi Kitô hữu và ta cần cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay từ hôm nay.
IV. THIÊN CHÚA LÀ CHỦ LỊCH SỬ (10,5-43)
1. Thiên Chúa là Chủ lịch sử
Trong tầm nhìn của Isaia, Assyria là ngọn roi Thiên Chúa dùng để xử phạt dân Ngài (10,5). Tuy nhiên chính Assyria cũng sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt vì nó đã không phụng sự Đức Chúa mà chỉ biết tiêu diệt: “Ta sẽ trừng phạt hậu quả lòng tự đại của vua Assyria và con mắt kiêu căng ngạo nghễ của nó” (câu 6-16). Như thế, nếu nhìn lịch sử trên bề mặt, người ta thấy những biến cố này dẫn đến những biến cố khác, nhưng từ tầm nhìn của đức tin, người tín hữu khám phá sự hiện diện của chính Thiên Chúa là Đấng dẫn dắt lịch sử đi đến cùng đích tối hậu của nó.
2. Sống niềm tin vào Thiên Chúa
An trong mọi biến cố lịch sử và đời người, chính Chúa là đấng hướng dẫn lịch sử đi tới cùng đích tốt đẹp nhất. Cách nhìn này của đức tin thúc đẩy ta luôn sống tâm tình tin tưởng và phó thác, cả trong những hoàn cảnh nghiệt ngã và khó khăn nhất.
Sách Isaia (chương 13 – 23)
+++
I. TỔNG QUÁT: HẠCH TỘI CÁC DÂN (13,1 – 23,8)
Trong truyền thống, các tiên tri nhiều lần loan báo thảm hoạ đổ xuống các dân tộc. Tuy nhiên lời loan báo này lại mang giá trị tích cực cho những tâm hồn biết lắng nghe. Những lời loan báo này xem ra không có liên hệ gì với chúng ta ngày nay nhưng cũng có thể rút ra một số bài học cho đời sống đức tin.
13,1-22 : Babylon bị tàn phá
14,1-32 : Cái chết của vua Babylon. Hạch tội Assyria. Hạch tội người Philitinh.
15,1-9 : Hạch tội Moab
16,1-14 : Dân Moab thỉnh cầu và than vãn
17,1-14 : Hạch tội Damas và Israel
18,1-7 : Hạch tội dân Cút
19,1-25 : Hạch tội Ai Cập và tương lai của Ai Cập
20,1-6 : Ngôn sứ ở trần
21,1-16 : Babylon sụp đổ. Hạch tội người Ả Rập.
22,1-25 : Sự sụp đổ của Giêrusalem. Tranh cãi tại tòa.
II. SỰ SỤP ĐỔ CỦA BABYLON (14,1-22)
1. Ý nghĩa
Bài ca của Isaia về sự sụp đổ của Babylon là bài ca nổi tiếng vì đã so sánh vua Babylon với “Lucifer, con của bình minh” (14,12). Hình ảnh này được rút từ huyền thoại Canaan về các thần Helel và Shahar (Sao Mai và Sao hôm) bị sa xuống từ trời sau cuộc nổi loạn. Trong Kitô giáo, ta nhớ đến sự sa ngã của Lucifer và các thiên thần hầu cận Lucifer (x. Lc 10,18).
Nội dung chính của bài ca này là những kẻ kiêu căng muốn trèo lên thật cao rồi sẽ bị hạ xuống thật thấp. Adam và Eva cũng được liên tưởng đến ở đây, “Ta sẽ vượt ngàn mây, sẽ nên như Đấng Tối cao” (x. 14,14). Hai ông bà đòi nên như Thiên Chúa nhưng cuối cùng bị đuổi khỏi vườn Eden.
2. Trong tương quan với Tân Ước
Am vang bài ca này thể hiện rõ nét trong sách Khải Huyền (chương 17-18). Tác giả dùng những hình ảnh biểu tượng để diễn tả sự trừng phạt dành cho đế quốc Roma vì đã bắt bớ và bách hại các chứng nhân của Chúa Giêsu. Cho đời sống thiêng liêng, bài ca này cũng nhắc nhớ ta về lời Chúa Giêsu, “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18,14).
Nếu bài ca của Isaia lên án lối đi của kẻ kiêu căng thì thư Philip 2,5-11 lại trình bày con đường ngược lại: Chúa Giêsu hủy mình ra không, vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh.
III. TIÊN TRI Ở TRẦN (20,1-6)
1. Sư kiện
Trong ba năm, Isaia ở trần và đi chân không (20,3) để nên điềm báo sự sụp đổ của Ai Cập: dân phải đi tù và bị đi đày. Đây là lời cảnh báo cho dân Giuđa và miền duyên hải vì quá cậy dựa vào sự trợ giúp của Ai Cập: “Đâu rồi niềm hi vọng của chúng ta, nơi chúng ta đến ẩn náu để được giúp đỡ hầu thoát khỏi tay vua Assyria?” (20,6).
2. Rao giảng Lời Chúa bằng hành động
Các tiên tri không chỉ rao giảng bằng lời nói nhưng còn bằng những hành động biểu tượng, vd. Hôsê với cuộc hôn nhân kỳ lạ, Ezekiel cũng có nhiều hành động lạ lùng (x. chương 4). Hành động cụ thể có khả năng lôi kéo sự chú ý của người ta và mời gọi họ suy nghĩ.
Kitô hữu cũng phải rao giảng Lời Chúa không chỉ bằng lời nói mà còn bằng cả đời sống. Theo nghĩa thiêng liêng, hình ảnh ở trần và đi chân không có thể giúp ta ý thức đến (1) sự từ bỏ, khó nghèo và khiêm tốn, và (2) sự nương tựa vào một mình Chúa. Đây cũng là những chỉ thị của Chúa Giêsu cho các môn đệ trên đường truyền giáo: “Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy” (x. Mt 10,5-10).
Sách Isaia
(chương 24-39)
+++
I. TỔNG QUÁT
24,1 – 27,13 : Khải huyền của Isaia: mặt đất tan
hoang – ngày chung thẩm – tiệc cánh chung – thánh thi tạ ơn – Israel được phục hồi.
28,1 – 33,24 : Những tính toán chính trị và Ơn Cứu độ: Samaria thất thủ – Số sót – Các ngôn sứ giả – Dụ ngôn về Ơn Cứu độ – Lời sấm về Giêrusalem – Lời tiên tri về Ơn Cứu độ – Lời sấm về Assyria – Sion được giải thoát – Vị vua công chính và ơn giải thoát.
34,1 – 35,10 : Những lời sấm sau lưu đày: lời sấm chống Edom – Giêrusalem toàn thắng.
36,1 – 39,8 : Những câu chuyện từ thời vua Hezekiah: cuộc xâm lăng của Sennacherib – Cầu cứu ngôn sứ Isaia – Thánh thi tạ ơn – Phái đoàn Babylon.
II. CUỘC CHUNG THẨM (24,21-23)
1. Ngày của Chúa
“Ngày của Chúa” là chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh. Tuy nhiên ở đây có một điểm đặc biệt: Đức Chúa sẽ trừng trị cả đạo binh thiên quốc (các vì sao được coi như các thiên thần, các thần ngoại giáo (Đnl 4,19; Gier 8,2). Chi tiết này làm nổi bật chiều kích vũ trụ của ngày chung thẩm.
Câu 21 cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa “đạo binh thiên quốc” và “vua chúa trần gian”: “Trên trời, Đức Chúa sẽ trừng trị đạo binh thiên quốc; dưới đất, Người trừng trị vua chúa trần gian.” Các vua chúa trần gian có vị bảo trợ cho họ trên trời, nhờ đó họ có sức mạnh, đây là ý tưởng quen thuộc thời xưa. Đỉnh cao trong “Ngày của Chúa” là Đức Chúa sẽ hiển trị trên núi Sion và vinh quang của Ngài tỏ rạng trước muôn dân (24,23).
2. Người Kitô hữu và ngày chung thẩm
Khi Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Ngài sẽ đưa ra phán quyết chung thẩm dành cho người công chính cũng như kẻ bất lương, “Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hi vọng này, như chính họ cũng hi vọng, là người lành và kẻ dữ sẽ sống lại” (Cv 24,15), rồi được hạnh phúc vĩnh hằng hay bị kết án muôn đời.
Ngày chung thẩm xảy ra lúc nào, chỉ một mình Thiên Chúa biết. Sau cuộc chung thẩm, vũ trụ được giải thoát khỏi cảnh hư nát và được chia sẻ vinh quang với Chúa Kitô, bắt đầu Trời Mới Đất Mới (2Pet 3,13). Vương quốc Thiên Chúa sẽ được hoàn thành và Thiên Chúa nắm toàn quyền trên muôn loài (1Cor 15,28). Niềm tin đó phải hướng dẫn đời sống của ta ngay từ bây giờ, “Trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách, và sống bình an” (2Pet 3,14).
III. TIỆC CÁNH CHUNG (25,6-8)
1. Ý nghĩa
Bữa tiệc là chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh cũng như trong nhiều truyền thuyết của các dân tộc. Ở đây, bữa tiệc là tiệc mừng sau khi chiến thắng. Tuy nhiên Isaia trình bày một số nét đặc biệt: đây là tiệc mừng cho mọi dân tộc, “Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc” – Thiên Chúa sẽ tiêu diệt sự chết đến muôn đời, “Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân” – Thiên Chúa sẽ cất bỏ mọi nỗi đe doạ trên nhân loại, “Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người.”
Gắn với lời loan báo về tiệc cánh chung là thánh thi tạ ơn (26,1-19). Thiên Chúa sẽ trả thù cho người nghèo nhưng sống công chính. Hơn nữa, “các vong nhân sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên; những kẻ nằm trong bụi đất, hãy trỗi dậy, hãy reo mừng” (26,19). Một vài học giả cho rằng câu này là lời khẳng định sớm nhất trong Thánh Kinh về niềm tin vào sự sống lại. Tuy nhiên nhiều nhà chú giải lại cho rằng câu này có ý nói đến sự phục sinh một dân tộc chứ không phải sự phục sinh của những người đã chết. Dù sao, ý tưởng này cũng dọn đường cho niềm tin vào sự phục sinh kẻ chết.
2. Trong Tân Ước
Trong Kitô giáo, “miền đất không còn nước mắt” được hiểu là thiên đàng, Nước Trời: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Trong sách Khải Huyền 19,6-10, Khải hoàn ca trên thiên quốc được diễn tả bằng hình ảnh tiệc cưới: “Nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng … Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên.” Hình ảnh tiệc cưới cũng là hình ảnh quen thuộc trong giáo huấn của Chúa Giêsu về Nước Trời, “Nước Trời giống như chuyện một vị vua mở tiệc cưới cho con mình…” (x. Mt 22,2-14; Lc 14,16-24).
Ghi chú: Sách Isaia được chia ra làm ba phần: Isaia đệ nhất (chương 1-39), Isaia đệ nhị (chương 40-55) và Isaia đệ tam (chương 56-66). Isaia đệ nhị và đệ tam được viết vào cuối thế kỷ VI trước Chúa Giáng sinh, nghĩa là sau thời ngôn sứ Isaia đến hai trăm năm. Vì thế, chúng ta ngưng đọc sách Isaia ở đây để sang các ngôn sứ khác, rồi sau này sẽ tiếp tục đọc Isaia đệ nhị và đệ tam.
Sách Isaia II, chương 40-48
***
tuan51Câu hỏi đặt ra là tại sao đã đọc sách Isaia từ trước, bây giờ lại quay lại? Bắt đầu từ Isaia 40,1 chúng ta được đưa vào bối cảnh mới là thời điểm chấm dứt cuộc lưu đày Babylon (539 trước Công nguyên), và những lời sấm được trình bày trong những chương sau này mang một cung giọng khác với các chương 1-39. Vì thế những chương sau này được gọi là Isaia II hay Sách an ủi. Các chương sau này có thể được chia thành hai phần chính: phần thứ nhất (40-48) chủ yếu nói đến cuộc giải thoát khỏi cảnh lưu đày Babylon, phần thứ hai (49-55) nói về việc khôi phục Sion. Một số chủ đề lớn sẽ được đề cập tới ở đây.
I. LOAN BÁO NGÀY GIẢI THOÁT (40,1-11)
Chủ đề chính ở đây là sự giải thoát Israel khỏi cảnh lưu đày. Trong Ezra 1, biến cố giải thoát này được gán cho Kyrô vua Ba Tư vì ông đã ra chiếu chỉ cho phép dân hồi hương. Nhưng ở đây tiên tri Isaia làm nổi bật nguyên do sâu xa của ơn giải thoát là chính Thiên Chúa, Đấng tuyên bố rằng “Thời phục dịch của Giêrusalem đã mãn, tội của Thành đã đền xong” (câu 1). Vì thế, cuộc giải thoát này làm nổi bật quyền năng và vinh quang Đức Chúa. Ai cũng nghĩ Babylon hùng mạnh lắm nhưng thực ra cũng không hơn gì hoa cỏ ngoài đồng, chỉ có lời Thiên Chúa đời đời bền vững, “Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua… nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta đời đời bền vững” (câu 7-8).
Trong Tân ước, thánh Matthêu và Gioan trích dẫn Is 40,3 “có tiếng hô trong sa mạc” để áp dụng cho thánh Gioan Tẩy giả (Mt 3,3 và Ga 1,23). Cách trích dẫn này giúp ta hiểu vai trò của Gioan Tẩy giả là loan báo và chuẩn bị cho hành động cứu độ mà Thiên Chúa sẽ thực hiện cho nhân loại nơi Chúa Giêsu Kitô.
II. CUỘC XUẤT HÀNH MỚI (43,14-44,5)
Is 43,15-21 là lời sấm về việc dân Israel sẽ được giải thoát khỏi cảnh lưu đày bên Babylon, và lời sấm này được xây dựng dựa trên biến cố Xuất Hành:
“Đây là Lời Đức Chúa,
Đấng đã vạch một con đường giữa đại dương,
Một lối đi giữa sóng nước oai hùng,
Đấng đã cho xuất trận
Nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnh binh hùng:
Tất cả đã nằm xuống và không còn trỗi dậy,
Đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn” (43,16- 17)
Xuất hành là biến cố trung tâm của lịch sử Israel, cũng là tâm điểm niềm tin của Israel. Qua cuộc Xuất hành, Thiên Chúa tạo dựng dân Israel. Nhưng trong lời sấm của tiên tri Isaia, dân Israel được nhắc nhớ: “đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước” vì “Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy sao?” (43,17).
Như thế, Xuất hành không chỉ là biến cố của quá khứ mà là biến cố của hôm nay. Xuất hành trở thành mẫu mực cho hành động của Thiên Chúa trong lịch sử và trong từng giây phút hiện tại. Điều quan trọng không phải là những gì Thiên Chúa đã làm thời Môsê mà là những gì Thiên Chúa làm hôm nay. Vì vậy Isaia khuyến khích ta đọc lại câu chuyện Xuất Hành để áp dụng cho chính hoàn cảnh hiện tại.
III. CUỘC XUẤT HÀNH VÀ ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
Phụng Vụ Chúa nhật V Mùa Chay (năm C) chọn lời sấm trên đây của tiên tri Isaia làm bài đọc I và trình thuật về người nữ ngoại tình (Ga 8,1-11) làm bài Tin Mừng. Việc kết hợp hai bài đọc cho ta một cái nhìn mới về câu chuyện Tin Mừng. Thiên Chúa là Đấng luôn mở cho con người cánh cửa đi về phía tương lai. Ngài đã mở cánh cửa hi vọng cho dân lưu đày, và Ngài cũng mở cánh cửa hi vọng cho người nữ ngoại tình, “Tôi không lên án chị đâu! Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Niềm tin vào Thiên Chúa của hi vọng, Thiên Chúa của tương lai không cho phép ta tuyệt vọng trong bất cứ hoàn cảnh nào, không cho phép ta khoá chặt mình trong những mặc cảm tội lỗi, nhưng luôn mời gọi ta đứng dậy và đi về phía đằng trước. Hơn ai hết, thánh Phaolô đã cảm nghiệm sâu sắc chân lý này khi ngài viết, “Tôi chỉ chú ý đến một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích để chiếm được phần thuởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Phil 3,13-14). Đồng thời, trong mối quan hệ với người khác, ta cần học với Chúa cách ứng xử này, là không bao giờ khóa chặt anh em mình trong những định kiến về họ hoặc những lỗi lầm của họ, nhưng phải mở cho họ một cánh cửa đi về phía tương lai. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người biết đối xử với nhau như thế.
Cuộc xuất hành mới mà tiên tri Isaia loan báo cho dân lưu đày còn giúp người Kitô hữu ý thức về cuộc xuất hành nội tâm của chính mình. Dân Israel đã được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập nhưng rồi họ lại tiếp tục rơi vào tình trạng nô lệ khác khi họ rời bỏ Thiên Chúa của giao ước để chạy theo các thần ngoại lai. Vì thế họ cần một cuộc xuất hành mới, ban tặng tự do mới, tự do đích thực. Mỗi Kitô hữu cũng có kinh nghiệm tương tự trong đời sống. Đã được trở nên tạo vật mới trong bí tích Thánh Tẩy nhưng ta lại tiếp tục làm nô lệ cho những đam mê và dục vọng xấu. Vì thế ta cần phải tham dự vào cuộc xuất hành mới được hoàn thành trong Chúa Giêsu chịu đóng đinh, cuộc xuất hành ban tặng cho ta sự tự do nội tâm đích thực. Mùa Chay là thời gian đặc biệt hằng năm để ta ý thức và sống lời mời gọi này.
Sách Isaia II
chương 49-55
***
isaiahI. NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ (Isaia 52,13 – 53,12)
Đây là bài ca thứ tư về Người Tôi tớ đau khổ trong sách Isaia. Vậy Người Tôi tớ này là ai? Phải chăng là tiên tri Giêrêmia vì tiên tri Giêrêmia được mô tả như con chiên bị đem đến lò sát sinh (Gier 12,19), và người tôi tớ đau khổ cũng vậy (Is 53,7). Kinh nghiệm của Giêrêmia cho thấy một tiên tri phải chấp nhận đau khổ mới có thể chu toàn sứ mạng.
Phải chăng Người Tôi tớ là dân Israel? Người tôi tớ đau khổ bị giết chết (Is 53,8-9) nhưng rồi sẽ được trường tồn và được thấy hậu duệ của mình. Israel cũng thế, coi như đã chết trong cảnh lưu đày nhưng sẽ trỗi dậy như trong thị kiến của Ezekiel về cánh đồng xương khô cũng như trong Is. 26.
Truyền thống Kitô giáo vẫn đọc bài ca về Người Tôi Tớ Đau Khổ như lời tiên tri về cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Chính vì thế, cùng với trình thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, bài ca này được chọn làm bài đọc I trong Phụng Vụ Thứ Sáu Tuần Thánh. Những chi tiết trong bài ca về Người Tôi Tớ được tái diễn nơi Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn của Người một cách cụ thể. Hãy đọc kỹ bài ca này và chiêm ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá để khám phá mầu nhiệm cứu độ.
Chúa Kitô chịu đau khổ vì chúng ta và thay cho ta, nhờ đó ta được chữa lành: “Chính Người đã mang lấy bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng Người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, bị nhục nhã ê chề” (53,4)
“Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho ta được chữa lành” (53,5)
Bài ca về Người Tôi tớ đau khổ còn trình bày một cách nhìn mới về đau khổ. Truyền thống lâu dài trong Kinh Thánh vẫn coi đau khổ là hình phạt tội lỗi. Thiên Chúa thuởng phạt nhãn tiền tùy theo đời sống tốt lành hay xấu xa của mỗi người. Quan niệm này vẫn là quan niệm quen thuộc vào thời Chúa Giêsu, được thể hiện qua thái độ của những người Pharisêu, kể cả các môn đệ của Chúa (x. Ga 9,2).
Nhưng trong bài ca về Người Tôi Tớ, Người Tôi Tớ phải chịu đau khổ không do tội lỗi của mình mà do Ngài gánh chịu đau khổ của chúng ta (Is 53,4). Như thế, đau khổ có giá trị cứu độ: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính, và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53,11).
Cách nhìn này cũng soi sáng cho linh đạo Kitô giáo về đau khổ. Người Kitô hữu được mời gọi kết hợp với Chúa Kitô trong đau khổ: “Điều quan trọng là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người” (Phil 3,10). Đồng thời, đón nhận đau khổ là cách thế để ta cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Col 1,24).
II. CHAY TỊNH (58,1-14)
Sau khi Giêrusalem bị thất thủ năm 586 trước Công nguyên, dân Israel có thói quen giữ bốn ngày chay vào các tháng tư, năm, bảy và mười. (x. Zacaria 8,18). Tiên tri Isaia cho rằng việc giữ chay này không có giá trị nội tâm nào. Ngài không chống đối nghi thức giữ chay nhưng cho rằng chay tịnh đích thực phải liên kết với công bằng xã hội. Câu 6-7 đưa ra những nét chính yếu của tôn giáo đích thực: giải thoát người bị áp bức, nuôi dưỡng kẻ đói nghèo, cho người vô gia cư nương nhờ… Những điều được nói đến ở đây làm ta liên tưởng đến dụ ngôn Ngày Phán Xét Chung (Mt 25,31-46).
Giáo huấn của tiên tri Isaia cũng giúp người Kitô hữu nhìn lại việc giữ chay, vốn là đòi hỏi được nhấn mạnh trong mùa Chay. Chay tịnh đích thực phải bắt nguồn từ trong tâm hồn như Chúa Giêsu dạy, “Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi bí ẩn” (Mt 6,17). Hơn thế nữa, trong ánh sáng của mầu nhiệm thập giá, ta hiểu rằng chay tịnh là sự tập luyện sống mầu nhiệm hủy mình ra không của Chúa Giêsu (x. Phil 2,5-11) để tình yêu được triển nở trong ta. Chính vì thế, trong mùa Chay, việc giữ chay thường được gắn liền với việc cầu nguyện và làm việc bác ái. Hiểu như thế, chay tịnh không chỉ là một nghi thức phải giữ hay một lề luật phải chu toàn nhưng là phương thế huấn luyện đời sống Kitô hữu, không chỉ giới hạn trong mùa Chay nhưng cần trải dài trong suốt hành trình ơn gọi làm người và làm môn đệ Chúa Giêsu.
Sách Isaia III
(chương 56-66)
TỔNG QUÁT
isaiah_0Chương 40-55 được viết tại Babylon khi dân Do thái sắp được hồi hương, còn các chương 56-66 được viết sau đó, phản ánh những vấn đề của cộng đồng Do thái thời hậu lưu đày. Vào thời kỳ này, cộng đồng Do thái bao gồm những người từ nơi lưu đày trở về, lại có những người không bị lưu đày và vẫn ở lại quê hương, và cả những người ở lại Babylon chứ không trở về quê nhà. Tình hình xã hội bất ổn và phức tạp, đời sống khó khăn… tất cả đều ảnh hưởng đến đời sống đức tin của dân, nhiều người không còn trung thành với niềm tin truyền thống của cha ông, và việc thờ cúng ngẫu tượng có cơ hội phát triển mạnh.
Có lẽ tác giả của những chương này là các môn đệ của Isaia đệ nhị. Các môn đệ này tạo thành một nhóm đặc biệt trong cộng đoàn thời hậu lưu đày, và họ cho rằng mình có trách nhiệm thực hiện sứ mạng của Người Tôi tớ được nhấn mạnh nhiều trong Isaia đệ nhị.
TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGHÈO (61,1-11)
Chương 61 được coi là chương trọng tâm trong Isaia đệ tam. Những câu mở đầu rất giống những bài ca về Người Tôi tớ trong Isaia chương 42 và 49: “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi…” Nhà tiên tri xem mình là người thi hành sứ mạng của Người Tôi tớ. Các tù nhân ở đây là những người bị lưu đày bên Babylon. Năm hồng ân là năm sabát, theo truyền thống là năm tha nợ và giải thoát nô lệ (x. Đnl 15, so sánh với Lêvi 25). Việc xức dầu ở đây có lẽ mang tính hình tượng, vì thông thường các tiên tri không được xức dầu, dù 1V 19,16 kể rằng Elia đã xức dầu cho Elisê.
Trong văn mạch của Isaia đệ tam, bản văn này làm nổi bật mối quan tâm đối với người nghèo, mối quan tâm đã được nhấn mạnh trong chương 58 và 59. Tuy nhiên tầm quan trọng của bản văn này vượt qua khung cảnh lịch sử, và được coi như bản tóm tắt về sứ mạng của mọi môn đệ trong mọi thời đại. Trong Phụng vụ Lễ Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh, cùng với bản văn này, Hội Thánh công bố Tin Mừng Luca 4,17-19, kể lại việc Chúa Giêsu vào hội đường Nadarét, đọc bản văn này trước cộng đoàn và công bố, “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe.”
Mỗi người Kitô hữu cũng có thể đọc và suy niệm bản văn này từ hai góc độ: góc độ của người nghèo đón nhận Tin Mừng, và góc độ của sứ giả loan báo Tin Mừng. Từ góc độ của người nghèo, chỉ khi nào ta đủ khiêm tốn để nhận ra tình trạng nghèo nàn của mình trong đời sống tâm linh, bị giam cầm trong ngục tù tội lỗi, và tâm hồn tan nát vì khổ đau… lúc ấy ta mới khám phá Lời Chúa thực sự là Tin Mừng cho chính mình. Từ góc độ sứ giả loan báo Tin Mừng, bản văn này giúp ta ý thức lại sứ mạng của người Kitô hữu, sứ mạng tiên tri, sứ mạng công bố ơn tha thứ và ơn hoà giải của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta gặp gỡ.
TỐ CÁO HÀNG NGŨ LÃNH ĐẠO
(56,9 – 57,21)
Các nhà chú giải không hoàn toàn nhất trí về nguồn gốc và ý nghĩa của bản văn này. Một số học giả cho rằng bản văn này đã có từ trước lưu đày vì giống những lời sấm trước lưu đày chống lại việc thờ ngẫu tượng. Nhưng những học giả khác lại cho rằng bản văn nhắm đến hàng ngũ lãnh đạo thời sau lưu đày.
Rõ ràng bản văn lên án những người lãnh đạo lúc đó bằng những từ hết sức mạnh mẽ như “đui mù,” “chó câm,” “chó đói”: “Những người canh gác Israel đui mù hết, chẳng hiểu biết gì; cả bọn chúng là lũ chó câm, không biết sủa… lũ chó đói, ăn chẳng biết no… Thế mà chúng lại là mục tử, mục tử chẳng biết phân biệt gì.” Những từ ngữ trên mang tính cực đoan nhằm diễn tả tình trạng tồi tệ lúc đó. Những hình ảnh mà bản văn sử dụng để nói về các nhà lãnh đạo như “người canh gác” (Ez 3,17; 33,1-9), “mục tử” (Ez 34), giúp người đọc đối chiếu trách nhiệm của người lãnh đạo tôn giáo và thực trạng đang diễn ra.
Bản văn này không chỉ là lời tố cáo hàng ngũ lãnh đạo đương thời nhưng còn là lời cảnh giác đối với tất cả những ai có trách nhiệm lãnh đạo trong Giáo Hội. Nhà lãnh đạo phải là người canh gác cho dân để phát hiện những mối nguy hiểm đang rình rập và gây nguy hại cho đời sống tinh thần của dân. Nhà lãnh đạo phải là người dám nói lên tiếng nói của sự thật và lên án những gian dối; nếu không, họ sẽ bị kết án là “chó câm”! Nhà lãnh đạo phải là người biết quên mình để phục vụ hạnh phúc của dân chứ không thể lợi dụng dân mà thoả mãn bản thân; bằng không họ chỉ là “chó đói.”
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com