Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Thư Của Côrinto I & II

Thư thứ nhất Côrintô
(chương 1 – 7)

***

I. ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN GIÁO HỘI (1,10 – 6,20)

1. Những chia rẽ trong cộng đoàn (1,10 – 4,21)

Đời sống Kitô hữu được đặt nền trên sứ điệp của thập giá. Sứ điệp này hàm chứa trong Tin Mừng mà thánh Phaolô rao giảng, và Tin Mừng đó nối kết mọi người thay vì gây chia rẽ. Chính vì thế, sự kiện có những chia rẽ trong cộng đoàn Côrintô là điều không thể chấp nhận. Trong phần này, thánh Phaolô than phiền về những chia rẽ trong cộng đoàn (1,10-17), trình bày nghịch lý của thập giá như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1,18 – 2,5), và giúp cộng đoàn Côrintô nhận diện sự khôn ngoan của thập giá khác với sự khôn ngoan thế gian.

Trước hết, thánh Phaolô than phiền về tình trạng chia rẽ trong cộng đoàn (1,10-17). Một số người cho mình là môn đệ của Phaolô, một số người khác lại tự hào mình là môn đệ của Apollo hay Kêpha…. Thế nhưng mọi người đều đã chịu Phép Rửa nghĩa là đã trở nên những chi thể trong cùng một thân mình Chúa Kitô (12,12-30). Chúa Kitô không chỉ là một mẫu mực cho ta noi theo trong đời sống luân lý nhưng Người là Đấng làm cho ta nên một lòng, một trí (x. Phil 2,1-2). Như thế, việc chia rẽ là điều không thể chấp nhận.

Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Chúa Kitô đã không sai tôi đi làm Phép Rửa nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng” (1,17) và Tin Mừng đó là thập giá Chúa Kitô. Thập giá phân chia nhân loại thành hai khối: những người khước từ thập giá và như thế đi trên đường dẫn đến hư vong, còn những ai đón nhận sứ điệp thập giá sẽ cảm nghiệm quyền năng cứu độ của Thiên Chúa. Như thế thập giá chính là sự xét xử của Thiên Chúa. Người Do thái mong đợi những dấu lạ và người Hi Lạp kiếm tìm sự khôn ngoan thế gian; vì thế họ coi thập giá là điên rồ và ngu xuẩn. Thế nhưng trong ánh sáng Tin Mừng, sự khôn ngoan thế gian trở thành điên rồ “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất” (Mc 8,35). Ngược lại, chính thập giá mà thế gian cho là điên rồ và yếu đuối lại là nguồn ơn cứu độ, vì sự điên rồ và nỗi yếu đuối của Thiên Chúa hơn hẳn mọi khôn ngoan và sức mạnh thế gian. Bản thân thánh Phaolô kinh nghiệm điều này khi ngài xin Chúa cất cái dằm khỏi thân xác ngài, và Chúa trả lời, “Ơn Cha đủ cho con” (2 Cr 12,9). Người Kitô hữu phải xác tín vào chân lý này: “Đối với loài người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể” (Mt 19,26).

Để cụ thể hoá, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Côrintô nhìn lại chính hoàn cảnh của họ (1,26-31). Thế gian ca tụng những người giàu sang, quyền thế, quý phái. Nhưng các tín hữu Côrintô đâu thuộc hạng người này. Cho nên khi Thiên Chúa chọn họ, Ngài không chọn vì họ là những người quyền quý cao sang; đúng hơn, Chúa chọn họ để hạ nhục những kẻ hùng mạnh và quyền thế, để không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Chúa.

2. Những tội lỗi khác trong cộng đoàn (5,1 – 6,20)

Trường hợp loạn luân (5,1-13): Điều đáng quan tâm ở đây là tính kiêu ngạo đã làm mờ mắt một số người. Họ nghĩ rằng mình có sự hiểu biết vượt trên những lề luật luân lý và những cấm đoán liên quan đến đời sống gia đình. Vì thế họ phạm tội loạn luân mà lại còn tự hào tự đắc (5,2). Thánh Phaolô phản ứng rất mạnh trước trường hợp này: phải loại trừ kẻ làm điều ấy ra khỏi cộng đoàn… phải nộp con người đó cho Satan (5,2.5). Đồng thời ngài dùng hình ảnh men và bánh để nói về đời sống Kitô hữu. Cũng như người Do thái loại mọi thứ men ra khỏi nhà để cử hành lễ Vượt Qua, thì các Kitô hữu cũng phải loại trừ khỏi cộng đoàn mọi thứ gian tà và độc ác, để sống trong tinh tuyền và chân thật (5,8).

Kiện nhau ở toà đời (6,1-11): Thật đáng xấu hổ khi các Kitô hữu kiện cáo nhau ở toà đời. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng khi có những tranh chấp xảy ra, cần phải giải quyết ngay trong cộng đoàn (6,1-6). Nền tảng của đời sống Kitô hữu là bí tích Thánh tẩy. Ân sủng Thiên Chúa ban trong bí tích Thánh tẩy giúp cho các Kitô hữu đối xử với nhau cách thân ái như chính Chúa đối xử với họ (x. Mt 5,45). Vì thế, người Kitô hữu thà bị lừa gạt hơn là trả thù người khác (x. Mt 5,21-26, 38-42; Rm 12,14, 19-21).

Tội tà dâm (6,12-20): Trước hết, thánh Phaolô cảnh giác các tín hữu về việc lạm dụng tự do. Giáo huấn của thánh Phaolô về tự do xem ra đã bị hiểu sai, và người ta nhân danh tự do để biện minh cho những hành động tội lỗi, cụ thể là tội tà dâm. Để thuyết phục tín hữu về việc tránh xa tội tà dâm, thánh Phaolô nhấn mạnh ba nền tảng: (1) thân xác chúng ta sẽ được phục sinh, (2) qua bí tích Thánh tẩy, chúng ta trở nên phần thân thể của Đức Kitô, (3) thân xác con người là đền thờ Chúa Thánh Thần.

II. TRẢ LỜI CHO NHỮNG VẤN NẠN CỦA CÁC TÍN HỮU CÔRINTÔ (7,1 – 11,1)

1. Những lời khuyên về đời sống hôn nhân và độc thân (7,1-16)

Kitô hữu phải đón nhận luật yêu thương của Chúa Giêsu như luật tối thượng. Mọi chọn lựa và quyết định của Kitô hữu phải được đặt nền trên tình yêu và trách nhiệm. Trong ý hướng đó, ta mới hiểu đúng những lời khuyên của thánh Phaolô về đời sống vợ chồng. Vợ chồng có bổn phận đối với nhau, thuộc về nhau (câu 3-5). Bổn phận ở đây không chỉ mang tính lề luật và tiêu cực nhưng là cách thể hiện tình yêu và giúp nhau sống trung tín với giao ước hôn nhân.

1 Cr 7,15 được coi như nền tảng cho điều mà ta gọi là đặc ân thánh Phaolô (cho phép ly dị trong một vài trường hợp có khác biệt và bất đồng tôn giáo). Tuy nhiên, cần hiểu cho đúng ý hướng của thánh Phaolô. Vào thời đó, thói quen trong xã hội đòi hỏi những người vợ và nô lệ phải theo tôn giáo của chồng và của chủ. Điều này khiến cho những người vợ Kitô hữu có chồng là ngoại giáo lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Thánh Phaolô đưa ra hướng giải quyết là: bao lâu người chồng ngoại giáo chấp nhận cho người vợ Kitô hữu giữ đạo thì đời sống hôn nhân cứ tiếp tục. Nhưng nếu người chồng ngoại giáo không muốn sống với người vợ là Kitô hữu thì đôi bạn có thể tách ly, vì đối với Kitô hữu, cam kết trong bí tích Thánh tẩy là cam kết quan trọng nhất và không thể để cho lời cam kết này bị đe doạ.

Về đời sống độc thân, xem ra thánh Phaolô đánh giá cao hơn (câu 25,26). Lý do là ngài xác tín rằng các Kitô hữu đã bắt đầu ngay từ bây giờ cuộc sống trên thiên quốc, mà trên thiên quốc sẽ không còn đời sống hôn nhân, nên hôn nhân không hẳn là cần thiết cho các Kitô hữu. Tuy nhiên có một số tín hữu đã đi đến chỗ quá khích đến nỗi xem hôn nhân là tội lỗi (x. 1 Tim 4,1-5). Thánh Phaolô khẳng định ngược lại rằng hôn nhân không phải là tội lỗi, và đó là bậc sống của phần lớn nhân loại. Vì thế thà kết hôn còn hơn là lờ đi những nhu cầu tự nhiên của thân xác và có nguy cơ “bị thiêu đốt” (câu 9). Dù sống đời hôn nhân hay độc thân, đều phải trung thành và tỉnh thức. Ở đây cần phải nhớ lại giáo huấn của Chúa Giêsu về độc thân như một ơn ban chứ không chỉ là nỗ lực của con người (x. Mt 19,11-12).

2.Vấn đề thịt cúng và đức ái mục tử (8,1-11,1)

Trong các vấn đề tạo nên sự chia rẽ giữa các tín hữu Côrintô, có vấn đề ăn của cúng, tức là ăn những thức ăn được dâng cho các thần ngoại giáo. Những người tự cho mình là hiểu biết lý luận rằng: vì chỉ có một Thiên Chúa và không có thần nào khác, cho nên ăn của cúng chẳng có tai hại gì. Thế nhưng họ đã vô tình hay cố ý gây tổn thương cho những người không hiểu biết được như thế.

Chính ở đây, thánh Phaolô đưa ra những lời khuyên rất tinh tế. Theo ngài, tuyên xưng rằng chỉ có một Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Chúa vẫn chưa đủ; còn cần phải nhạy bén trước những nhu cầu của người khác. Thánh Phaolô nhắc nhớ cộng đoàn Côrintô rằng có nhiều người trong cộng đoàn mới trở lại, và trước đây họ vẫn dâng của cúng cho các thần ngoại giáo. Sự hiểu biết của họ còn giới hạn, tinh thần đức tin còn yếu, do đó phải tránh những gì gây xúc phạm cho họ. Đây là điều ta cần quan tâm không chỉ trong vấn đề ăn của cúng mà còn trong mọi lãnh vực khác của đời sống.

Từ đó thánh Phaolô đưa ra những nguyên tắc cho đời sống Kitô hữu (9,1-10,22). Những nguyên tắc này được rút ra từ chính ơn gọi tông đồ của thánh nhân và từ mẫu gương của Israel được ghi lại trong Thánh Kinh. Trong 9,1-27, thánh Phaolô đưa ra những suy tư về đời sống tông đồ, lấy chính cách sống của ngài làm gương cho những người tự hào mình hiểu biết mà gây xúc phạm cho người khác: “Tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (câu 19). Đồng thời, thánh nhân nhắc lại kinh nghiệm của dân Israel trong Thánh Kinh để cảnh giác các Kitô hữu.

Thư thứ nhất Côrintô
(chương 8 – 12)

***

images (1)_3I. CỬ HÀNH BỮA TỐI CỦA CHÚA (11,17-34)

Sự kiện: những lạm dụng trong cộng đoàn khi cử hành Thánh Thể (11,17-22). Các tín hữu Côrintô không tụ họp để cử hành bữa tối của Chúa cho đúng nghĩa. Cụ thể là có sự chia rẽ trong cộng đoàn (câu 18). Đồng thời, đức ái bị vi phạm trầm trọng khi mỗi người chỉ lo ăn bữa riêng của mình, hậu quả là người thì đói, kẻ lại say sưa (câu 21).

Nền tảng giáo thuyết: bài tường thuật việc Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể (11,23-27). Trước khi tường thuật việc Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể, thánh Phaolô nhấn mạnh đây là điều ngài đã nhận lãnh và bây giờ ngài truyền lại (câu 23). Khẳng định này nói lên tầm quan trọng của truyền thống trong Giáo Hội. Tiếp đó, khi vào bài tường thuật, cũng như Tin Mừng nhất lãm, thánh Phaolô nhấn mạnh đến sự phản bội của các môn đệ. Sự phản bội này cùng với những yếu đuối của con người đã dẫn đến việc Chúa Giêsu bị nộp (câu 23). Phải chăng những lạm dụng của cộng đoàn Côrintô cũng là một thứ phản bội mệnh lệnh của Chúa?

Trong phần chính của bài tường thuật, thánh Phaolô nhấn mạnh cụm từ “vì anh em” (câu 24), và như thế, làm nổi bật ý nghĩa đích thực của cử hành Thánh Thể. Bất cứ khi nào các tín hữu họp nhau để cử hành bữa tối của Chúa, là họ thi hành mệnh lệnh của Chúa “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (câu 24 & 25). Và khi làm như thế, họ vừa nhớ lại cái chết của Người, đồng thời trông mong Người ngự đến trong vinh quang. Ba chiều kích thời gian hoà chung với nhau: quá khứ (bữa Tiệc Ly và sự chết của Chúa), hiện tại (cộng đoàn cử hành) và tương lai (Ngày Chúa quang lâm). Chính vì thế, các tín hữu phải lo chuẩn bị để cử hành Thánh Thể cách xứng đáng.

II. CÁC ĐẶC SỦNG VÀ ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN (12,1 – 14,40)

Thánh Phaolô nhấn mạnh, tuy có nhiều ân huệ thiêng liêng nhưng chỉ có một nguồn gốc là Thánh Thần và một mục đích là phục vụ ích chung: “Có nhiều hoạt động khác nhau nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thánh Thần tỏ mình ra nơi mỗi người một cách là vì ích chung” (câu 6 & 7). Đây là tiền đề dẫn thánh Phaolô đến chỗ so sánh cộng đoàn như một thân thể (12,12-31).

Hình ảnh thân thể vừa diễn tả tính duy nhất vừa trình bày tính đa dạng của cộng đoàn. Thân thể cần đến sự đa dạng của các chi thể, đồng thời mỗi chi thể lại tuỳ thuộc vào sự phối hợp của các chi thể khác, có thế toàn bộ thân mình mới hoạt động được. Hình ảnh này được thánh Phaolô vận dụng để trình bày về Hội Thánh:“Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (câu 27). Ân huệ Thiên Chúa ban xuống trên Giáo Hội rất đa dạng, từ ơn làm tông đồ cho đến ơn nói tiếng lạ, nhưng tất cả các ân huệ đều phải phối hợp với nhau nhằm phục vụ ích chung. Lưu ý một điều là trong khi các tín hữu Côrintô đề cao ơn nói tiếng lạ và coi đó như ân huệ quan trọng nhất, thì thánh Phaolô lại xếp ơn này vào hàng cuối cùng!

Từ đó, thánh Phaolô viết đoạn văn nổi tiếng: Bài ca đức ái (13,1-13). Cần nhớ rằng thánh Phaolô mô tả đức ái như ân huệ của cộng đoàn, và là con đường nền tảng, tuyệt hảo. Ngài đã viết trong thư Rôma, “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta” (5,5). Đó là ân huệ căn bản và lớn lao nhất. Không có tình yêu, mọi ân huệ khác đều vô nghĩa. Để cụ thể hoá, thánh Phaolô nói đến ba ân huệ: nói được các thứ tiếng, nói tiên tri, làm việc bác ái, nhưng nếu không có đức ái thì tất cả đều vô ích (câu 1-3):

“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, nhưng nếu không có đức ái, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và biết được hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin mạnh mẽ đến chuyển núi dời non, nhưng nếu không có đức ái, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, nhưng nếu không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.

Sau đó ngài mô tả những đặc tính của tình yêu đích thực (câu 4-7):

“Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả”.

và sự bền vững của đức ái (câu 8-12):

“Đức ái không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi… Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức ái, cả ba đều tồn tại nhưng cao trọng hơn cả là đức ái”.

Đức ái là ân huệ thiết yếu làm cho cộng đoàn xứng với danh nghĩa là Kitô hữu. Đức ái là chuẩn mực để đánh giá những ân huệ khác, vì mọi ân huệ được ban cho là nhằm xây dựng cộng đoàn (14,1-5). Từ đó thánh Phaolô áp dụng vào đời sống cụ thể của cộng đoàn (14,6-19) và đưa ra những quy luật thực tiễn (câu 26-39).

Thư thứ nhất Côrintô
(chương 13 – 16)
***

tải xuống_9SỰ PHỤC SINH (15,1-58)

1. Sự phục sinh của Chúa Kitô (15,1-11)

Một lần nữa, thánh Phaolô nhấn mạnh truyền thống đức tin Kitô giáo, “Tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận” (câu 3). Truyền thống đó được Phaolô trình bày trong 15,3b-5, với bốn yếu tố chính : Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, Người đã được mai táng (nhấn mạnh Chúa Giêsu đã chết thực sự), Người đã sống lại, Người đã hiện ra (chứ không phải là ảo giác của con người, vì thế Phaolô liệt kê một số lần hiện ra của Đấng Phục Sinh).

2. Sự phục sinh kẻ chết (15,12-34)

Trong 15,12-19 thánh Phaolô phê phán những người phủ nhận sự phục sinh kẻ chết, và như thế cũng chối bỏ sự phục sinh của Chúa Kitô. Ngài nhấn mạnh rằng sự phục sinh của các tín hữu đặt nền tảng trên sự phục sinh của Chúa Kitô, và nếu Chúa Kitô không sống lại thì quả thật, các tín hữu là những người đáng thương nhất (câu 14-19).

Tiếp theo, trong 15,20-28 thánh Phaolô trình bày xác tín của ngài. Chúa Kitô đã sống lại rồi, và sự sống lại của Người mở đường cho tất cả những ai đã qua đời. Nếu tội lỗi của Adam đã đem sự chết vào thế giới, thì sự phục sinh của Chúa Kitô đem sự sống đến cho nhân loại.

Để tiếp tục phản bác những người phủ nhận sự sống lại, thánh Phaolô dựa vào một tập quán của dân Côrintô lúc đó mà lý luận (15,29-34). Lúc đó người ta có tập quán chịu phép Rửa thay cho kẻ chết. Thánh Phaolô dựa vào tập quán này để chứng minh rằng họ đã tin có sự sống lại nên mới làm như thế. Như vậy, Phaolô chỉ dựa vào tập quán có sẵn mà biện luận chứ không phải ngài truyền dạy chúng ta phải rao giảng Tin Mừng và làm phép Rửa cho các âm hồn như một vài người lầm tưởng.

3. Cách thức sống lại (15,35-58)

Những người theo phái hoài nghi tiếp tục đưa ra vấn nạn: nếu có phục sinh thì những người đã chết lấy thân xác nào mà sống lại? Để trả lời vấn nạn này, thánh Phaolô mượn hình ảnh đơn sơ trong đời sống nông nghiệp để nhấn mạnh rằng “Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống” (15,36); từ đó, ngài đưa ra những suy tư sâu sắc về sự phục sinh. Thân xác được chôn táng là thân xác bị hư hoại, còn thân xác phục sinh là thân xác bất hoại, thân xác thiêng liêng, thân thể có thần khí.

Thực ra, mầu nhiệm phục sinh được xây nền trên đức tin hơn là những dữ kiện thường nghiệm. Vì thế thánh Phaolô nói, “Tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này: không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi… Vì tiếng kèn sẽ vang lên, và những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi” (15,50.52).

Thư thứ hai Côrintô
(chương 1 – 7)

***

saint paul CorinthI. CHÚC TỤNG CHÚA NGAY TRONG ĐAU KHỔ (1,3-11)

Theo thói quen ngày xưa, người viết thư thường bắt đầu bằng việc dâng lời tạ ơn vì Chúa đã ban sức khoẻ cho mình. Thế nhưng thánh Phaolô lại nhắc đến những đau khổ phải chịu, “chúng tôi đã phải chịu đựng quá mức, quá sức chúng tôi, đến nỗi chúng tôi không còn hi vọng sống nổi” (câu 8-9). Tuy nhiên chính những đau khổ này lại thúc đẩy thánh nhân lên tiếng chúc tụng Chúa là Đấng “hằng sẵn sàng nâng đỡ, ủi an” (câu 3). Tâm tình này của thánh Phaolô soi chiếu một luồng sáng mới cho đời sống đức tin của ta.

Người môn đệ Chúa Giêsu xác tín rằng những đau khổ phải chịu chính là cơ hội thông hiệp vào cuộc khổ nạn của Thầy chí thánh, và nhờ thông hiệp với Người trong đau khổ, ta cũng được thông hiệp với Người trong vinh quang : “Cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi” (câu 5). Đồng thời, khi được thông hiệp vào cuộc khổ nạn của Chúa, những đau khổ ta phải chịu sẽ mang giá trị cứu độ : “Chúng tôi có phải chịu gian nan thì đó là để anh em được an ủi và được cứu độ.” (câu 6).

Niềm xác tín vào sự an ủi đỡ nâng của Chúa sẽ giúp ta vững bước trên đường phục vụ. Đồng thời xác tín đó cũng thúc đẩy ta trở thành người mang sự nâng đỡ và an ủi đến cho anh chị em mình : “Thiên Chúa luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (câu 4); “Chúng tôi có được an ủi thì cũng là để anh em được an ủi, khiến anh em có sức kiên trì chịu đựng cùng những nỗi thống khổ mà chính chúng tôi phải chịu” (câu 6).

II. BÍ QUYẾT CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ (4,7 – 5,10)

1. Mang trong mình cuộc thương khó của Chúa Kitô

“Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng tôi” (câu 7). Sau khi chứng minh sự ưu việt của Giao ước mới so với Giao ước cũ (3,1-18) và tự hào rằng mình là người phục vụ Giao ước mới, thánh Phaolô đã khẳng định như thế. Khẳng định này toát lên tâm tình khiêm tốn, cậy trông.

Tất cả được khơi nguồn từ mầu nhiệm Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá. Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, và Người đã mạc khải quyền năng cùng sự khôn ngoan của Thiên Chúa không phải bằng thứ quyền lực thế gian mong đợi, nhưng là qua thập giá. Thập giá bị người Do thái và dân ngoại coi là điên rồ và ngu xuẩn, nhưng lại là sức mạnh cứu độ cho những kẻ tin (1Co 1,18).

Khởi đi từ mầu nhiệm này, thánh Phaolô chia sẻ xác tín của ngài về đời tông đồ. Có thể đã có những lời phê bình chỉ trích nhắm vào ngài (vd. 2Co 10,10 : Trong thư thì nghiêm khắc và hùng hổ, nhưng khi có mặt thì nhu nhược, nói chẳng ra hồn). Thánh Phaolô không bực bội vì những lời chỉ trích đó, trái lại ngài vận dụng lời chỉ trích đó để chứng minh quyền năng Thiên Chúa hoạt động nơi những yếu đuối của con người tự nhiên. Đồng thời ngài kể ra những đau khổ phải chịu trong đời tông đồ (câu 8-9), không phải để than trách nhưng để làm nổi bật bí quyết của người tông đồ : “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để sự sống của Chúa Giêsu được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (câu 10), và “Dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới” (câu 16).

2. Mang trong mình niềm hi vọng bất diệt

“Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (4,17). Sở dĩ thánh Phaolô nói được như thế là vì ngài xác tín vào sự sống vĩnh cửu : “Quả thật, chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu trên trời, không do tay người thế làm ra (5,1). Xác tín đó mạnh mẽ đến nỗi Phaolô kêu lên rằng, “Ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa… Điều chúng tôi thích hơn là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (5,6-8).

Niềm hi vọng vào đời sống vĩnh cửu ban tặng cho người môn đệ Chúa một tầm nhìn mới và một lối sống mới. Đó là không bám víu vào những thực tại sẽ qua đi nhưng biết gắn bó với những thực tại vĩnh hằng : “Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (4,18). Đồng thời, niềm hi vọng đó thúc đẩy ta sống cuộc sống hiện tại với tinh thần trách nhiệm, vì “tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước toà Đức Kitô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác” (5,10). Làm sao để trong mọi hoàn cảnh và mọi công việc, mục đích chính của ta phải là làm đẹp lòng Chúa : “Dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Người” (5,9). Đó là cách sống tốt đẹp nhất và sẽ dẫn ta đến kết thúc tốt đẹp nhất.

Thư thứ hai Côrintô

(chương 8 -13)

***

1 bac ai kito giaoI. LẠC QUYÊN CỨU TRỢ THEO TINH THẦN KITÔ GIÁO (8-9)

Cứu trợ, giúp đỡ những người đang lâm cảnh hoạn nạn là việc tốt lành được khuyến khích ngay trên bình diện tự nhiên như người Việt Nam thường nói, “Lá lành đùm lá rách.” Đương nhiên người Kitô hữu được khuyến khích thực hiện công việc tốt lành này, và trong thực tế, đây là một trong những nét nổi bật của Giáo hội suốt dòng lịch sử. Vậy đâu là động lực, thái độ cần có khi làm việc bác ái này?

1. Động lực

Động lực sâu xa nhất là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng “vốn giàu sang phú quý nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Co 8,9). Đó là lô-gích của tình yêu đích thực, tình yêu cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, tình yêu hiến dâng mạng sống trên thập giá. Niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy các Kitô hữu sống tình yêu đó ngay trong cộng đoàn, và tình yêu đó làm nên sự hiệp thông, chia sẻ, bình đẳng trong cộng đoàn tín hữu: “Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em lúc anh em lâm cảnh túng thiếu” (8,14).

2. Thái độ

Nếu niềm tin vào Chúa Kitô là động lực thúc đẩy thì niềm tin đó cũng định hướng cho cung cách thi hành việc bác ái: hăng hái, vui vẻ, quảng đại. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Khi người ta hăng hái dâng cái mình có thì Thiên Chúa chấp nhận, còn nếu không có thì thôi” (8,12); “Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương” (9,7).

3. Hiệu quả

Những việc bác ái được thực hiện trong tinh thần trên sẽ đem lại những hiệu quả phong phú, không những đáp ứng nhu cầu của những người đang lâm cảnh túng thiếu, mà còn là cách thế tôn vinh Chúa: “Việc phục vụ cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. Việc phục vụ này là một bằng cớ cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và tuyên xưng Tin Mừng của Đức Kitô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với họ và với mọi người” (9,12-13).

Giáo huấn của thánh Phaolô về việc bác ái soi sáng cho ta điều gì khi thực hiện các việc bác ái? Còn cần phải chấn chỉnh và sửa đổi những gì?

II. TỰ HÀO VÀ KHIÊM TỐN CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ (12,1-10)

Để trả lời cho những người cáo buộc và lên án ngài, thánh Phaolô nhắc lại mạc khải và thị kiến ngài đã có khoảng năm 42-45. Ngài nói về mình nhưng dùng ngôi thứ ba, “Tôi biết có một người môn đệ Đức Kitô…” (12,2) như để nhấn mạnh rằng bản thân ngài hoàn toàn không xứng đáng với ân huệ đó. Sau đó thánh nhân kể lại kinh nghiệm thần bí ngài đã trải qua: ngài đã được Thiên Chúa chiếm lấy đến độ ngài không còn ý thức về chính mình và về thân xác của mình: “có ở trong thân xác không, tôi không biết; có ở ngoài thân xác không, tôi cũng không biết” (12,2). Và thánh Phaolô nhấn mạnh, “Về một người như thế, tôi sẽ tự hào; còn về bản thân tôi, tôi chỉ tự hào về những yếu đuối của tôi” (12,5).

Cũng vì thế, cùng với việc nhắc lại thị kiến cao cả đã lãnh nhận, thánh Phaolô cũng nhắc đến cái dằm trong thân xác (2Co 12,7; x. Phil 1,29). Ta không biết chắc chắn cái dằm này là gì, nhưng điều chắc chắn là ý thức về cái dằm đó làm cho Phaolô khiêm tốn. Cái dằm đó như khí giới của Satan và sự hiện diện của nó giúp Phaolô ý thức sự yếu đuối của mình. Đã ba lần ngài khẩn khoản nài xin Chúa cất cái dằm đó đi (như Chúa Giêsu cầu nguyện ba lần trong vườn Cây Dầu, x. Mt 26,39.42.44), nhưng Chúa trả lời, “Ơn của Thầy đã đủ cho anh vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (12,9).

Từ kinh nghiệm thiêng liêng đó, Phaolô reo lên, “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (12,10). Kinh nghiệm này của thánh Phaolô nói với ta điều gì?

***

Ghi chú

“Tôi đã không trở nên gánh nặng cho anh em; nhưng vốn là người xảo quyệt, tôi đã dùng mưu mà lừa gạt anh em” (2Co 12,16) (CGKPV)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #bunbo