Side story. Từ 78,6 giờ ánh sáng đến vô tận (3)
Tôi vẫn đều đặn tới thăm mộ Fourth, mỗi lần ghé thăm, tôi sẽ tìm mua một loại hoa khác nhau, với hy vọng rằng có một loại hoa nào đó Fourth thích.
Thời gian chúng tôi gặp nhau quá ngắn ngủi để tôi có thể biết nhiều hơn về cậu ấy, về những thứ cậu ấy thích, về công việc cậu ấy thường làm những lúc rảnh rỗi, về những bức vẽ cậu ấy giấu cho riêng mình.
Vào ngày cuối cùng trước khi tôi rời khỏi Daegu sau khi kết thúc đợt tình nguyện, tôi dành thời gian suốt buổi chiều hôm ấy để dọn cỏ nơi nghĩa trang tập thể.
Tôi mang theo táo và nhành hoa anh đào đến thăm Fourth, tôi không rõ cậu ấy có thích chúng không vì tôi đang đặt vào đấy sự chủ quan của mình, chỉ là tôi nhớ người tôi yêu thích hoa anh đào, thế nên tôi tự mặc định rằng Fourth cũng thích.
Tôi tình cờ gặp Yoomi ở đó. Cô ấy mỉm cười gượng gạo chào tôi, hỏi rằng hôm nay tôi lại đến thăm Fourth nữa à.
Tôi gật đầu thành thật. Đặt nhành đào lên mộ, tôi nhắm mắt thì thầm lời cầu nguyện.
"Ồ mùa hoa đào nở rộ sắp tới rồi nhỉ."
Yoomi đột nhiên lên tiếng sau khi trông thấy nhành đào tôi mang theo.
Tôi mỉm cười nhìn cô, "Đúng là thế thật."
"Fourth nhà chúng tôi rất thích hoa anh đào."
Yoomi trầm giọng nói.
"Thằng bé luôn mơ đến một ngày mùa xuân, khi cơ thể nó khỏe mạnh hơn, nó có thể tham gia lễ hội hoa ở Seoul vì nó nghe nói hoa ở đó rất đẹp."
Tôi chợt rùng mình khi nghe Yoomi bộc bạch, cũng không ngoài dự đoán của tôi.
Tôi biết rằng dù ở đâu, cuộc đời hay bất kỳ dòng thời gian nào, Fourth vẫn luôn như thế.
Sẽ có những thói quen cậu ấy làm trong vô thức, những sở thích ngay từ thuở chào đời đã tồn tại, những người cậu ấy yêu thương và vô tình lướt ngang trong đời.
Dù ở đâu đi nữa, Fourth vẫn luôn là đứa trẻ tốt bụng, tinh tế và biết quan tâm. Là Fourth của tôi, Fourth mà tôi yêu nhất.
.
.
.
.
Mùa đông năm tiếp theo, tôi vô tình gặp lại Yoomi ở trên phố Seoul trong lúc chờ tàu sau khi tan làm.
Yoomi nói với tôi cô ấy đã chuyển đến Seoul sống được hơn nửa năm nay, làm nghề điều dưỡng ở một bệnh xá gần trung tâm thành phố.
Tôi để ý thấy đôi mắt Yoomi đã bớt đi màu buồn ảm đạm của lần gặp cuối vào năm ngoái, nụ cười cô ấy cũng tươi tắn hơn, đôi mắt sáng lấp lánh như chứa hàng ngàn vì sao. Cô ấy bảo muốn mời tôi một bữa thay cho lời cảm ơn vì đã giúp đỡ gia đình lẫn đứa cháu trai của cô ấy.
Kể từ lần gặp đó, chúng tôi lại tình cờ có thêm nhiều lần gặp khác.
Sau này tôi mới biết, nơi cô ấy sống khá gần với cơ quan tôi. Bởi thế thi thoảng chúng tôi lại mời nhau một chầu cà-phê, ăn tối hoặc đơn giản hơn là đi dạo dưới ánh đèn đường của con phố lúc về đêm.
Chủ đề chính mà chúng tôi nói với nhau luôn luôn là Fourth.
Không rõ là do tôi mở đầu hay cô ấy nuông chiều theo ý muốn của tôi, chúng tôi cứ thế, luyên thuyên kể về Fourth mà quên mất rằng chúng tôi mới là những người ở bên cạnh nhau.
Như thể hai linh hồn đang cố gắng dựa dẫm, xoa dịu nhau để quên đi nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn in hằn trong trái tim chứa đầy những vết cắt.
Thời gian đó, bản thân tôi cũng không mù mờ tới nỗi không biết rằng Yoomi yêu mình, nhưng tình yêu của tôi rất tiếc đã chẳng thể dành cho bất kỳ ai khác.
Tôi vẫn luôn cứng đầu và cố chấp như thế đấy, kể cả khi tôi có lẽ sẽ một mình, cô đơn đến hết phần đời còn lại, ôm trong mình một tình yêu lớn không có lời hồi đáp, tôi cũng can tâm tình nguyện.
.
.
.
.
Sự kiên trì của Yoomi có lẽ đã đạt được thành công ban đầu khi tôi chấp nhận xem cô như tri kỷ. Chẳng ai hiểu tôi hơn cô ấy, còn tôi thì ngược lại, chẳng biết chút gì về cô.
Ngay từ đầu, mối quan hệ của chúng tôi không phải là cho đi và nhận lại, khi mà tôi luôn chủ động đóng chặt cánh cửa trái tim mình và từ chối tất cả những yêu cầu xâm nhập.
Tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc thay thế người tôi yêu bằng bất kỳ ai khác chỉ vì tôi quá cô đơn hay cần người bên cạnh.
Thế mà, vào mùa thu năm tiếp theo, trong một lần thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm, tôi đã suýt mất mạng bởi lưỡi hái tử thần kề cận.
Ở những giây phút đặc biệt ấy, tâm trí tôi lại tràn ngập ký ức về cái hôm tôi ôm chặt Fourth trong vòng tay, còn cậu ấy thì không ngừng nấc nghẹn rằng mình không muốn chết.
Không phải tôi yếu hèn hay sợ hãi, khao khát sống của tôi cũng không mạnh mẽ tới mức giúp tôi vượt qua được cuộc phẫu thuật mang tính thập tử nhất sinh kia.
Chỉ là tôi nhớ đến lá thư của Fourth, rằng tôi phải sống thay cho phần cậu ấy nữa, và nhất định phải sống thật hạnh phúc.
Tôi biết đó là những gì Fourth muốn.
Cậu ấy chưa từng có ý nghĩ vị kỷ rằng giữ tôi cho riêng mình, cậu ấy chỉ cầu mong tôi có được những người yêu thương tôi thật lòng, sống một cuộc đời trọn vẹn. Chúng tôi đã luôn bước song hành trên những đường thẳng chẳng bao giờ có điểm cắt nhau.
Dù cho tôi có cố chấp chờ đợi, giữa chúng tôi không thể nào tồn tại cái gọi là hy vọng hay cơ hội.
Ấy thế mà, Yoomi lại là người ngỏ lời muốn cùng tôi tiến tới hôn nhân trước.
Cô ấy luôn nghĩ rằng tôi yêu Fourth, đứa cháu trai của cô ấy, vì thế nên cô tìm cách ở bên cạnh, an ủi và cố gắng xoa dịu tôi. Tôi biết dù điều này khiến tôi càng trở nên dị hợm và thiếu đứng đắn hơn, nhưng tôi cũng chẳng có ý phản bác hay đính chính.
Chỉ là tôi chấp nhận nó như một điều hiển nhiên, kể cả khi tôi từ chối cô với suy nghĩ vô cùng thành thật rằng cô sẽ không thể hạnh phúc nếu chọn ở bên tôi.
Tôi từ chối Yoomi không dưới năm lần, theo trí nhớ của tôi là vậy. Nhưng cô vẫn kiên trì bày tỏ. Cô nói rằng cô chấp nhận trở thành người thay thế, chấp nhận một người không yêu cô chỉ vì cô yêu người đó hơn tất thảy mọi thứ trên đời.
Kẻ như cô người ta gọi là khờ dại, mù quáng, còn kẻ như tôi, người ta gọi là ích kỷ.
.
.
.
.
Tôi đã kết hôn cùng Yoomi vào mùa xuân năm tiếp theo.
Hôn lễ chỉ có gia đình Yoomi, một vài người bạn đồng nghiệp của hai chúng tôi. Nó diễn ra tại một nhà thờ nhỏ trong thành phố Seoul, chúng tôi thề nguyện, trao cho nhau lời hứa tốt đẹp, sẽ cùng người kia đi hết chặng đường sau này bằng tình yêu thương và sự thấu hiểu.
Nhưng tôi biết, tất cả chỉ là lừa lọc. Như thể công việc tình báo đã ăn sâu trong máu tôi, khiến tôi trở thành một kẻ dối trá mà chẳng còn thấy xấu hổ với lương tâm chính mình.
Tôi biết rất rõ, một trong số những điều khiến tôi chọn cách nhận lời Yoomi đó là vì tôi muốn thực hiện lời hứa với Fourth, có một mái nhà bình yên và sống thật hạnh phúc.
Ngoài ra thì, Yoomi là một trong số ít những người tôi cảm thấy không đe dọa tới trái tim đã khép chặt của tôi.
Từ đầu tới cuối, tôi đều thành thật với cô chẳng giấu giếm nửa lời, rằng tôi không thể yêu cô theo cách cô muốn, nhưng tôi thương cô, và tôi tin, tình thương ấy giúp tôi gắn kết với cô cho quãng thời gian chung sống sau này.
Gary Titicharaoenrak, là tên tôi đặt cho đứa con trai đầu lòng của mình.
Tôi biết thằng bé rất ghét tôi, kể từ lúc nó bắt đầu có nhận thức về thế giới quan và những mối quan hệ xung quanh, nó đã ngầm hiểu giữa bố mẹ nó chưa hề tồn tại tình yêu từ hai phía.
Vài năm sau đó, Love Titicharaoenrak, con gái thứ hai của tôi chào đời.
Tính cách của Love đơn giản hơn, cũng một phần là do Yoomi luôn cưng chiều con bé. Nó nhìn cuộc đời bằng một lăng kính màu hồng, không oán trách, không giận hờn. Chỉ cần thấy giữa tôi và Yoomi không có bất hòa, nó đã cho rằng chúng tôi đang rất hạnh phúc.
Khi bọn trẻ bắt đầu lớn hơn một chút, tôi cũng dần e ngại những công việc mang tính chất nguy hiểm ở cục tình báo. Tôi đã từng suýt chết một lần, tôi vẫn còn ám ảnh mãi cái khoảnh khắc sinh tử ấy trong thần thức. Thế nên tôi xin từ chức và quay về ngôi trường sĩ quan năm xưa tôi học, chính thức trở thành một giảng viên ở đó.
.
.
.
.
Khi Gary dần bước sang tuổi trưởng thành, tôi không mong thằng bé sẽ chọn con đường giống như tôi. Thay vào đó, tôi hướng nó theo nghiệp kinh doanh.
Bởi cùng năm đó, bố tôi qua đời, ông để lại cho tôi một phần trong khối gia sản khổng lồ của ông, xưởng đóng tàu và một mảnh đất lớn ở Daegu.
Dù cho suốt cuộc đời của bố tôi, giữa tôi và ông luôn tồn tại nhiều hơn một khoảng cách đủ lớn khiến không ai trong chúng tôi có sẵn can đảm để chủ động vượt qua nó. Dù ông có căm ghét tôi đến bao nhiêu đi nữa thì máu mủ tình thâm vẫn là điều chẳng cách nào chối bỏ.
Kể từ lúc chiến tranh chính thức kết thúc, ngôi trường sĩ quan của chúng tôi cũng mất dần mục đích hoạt động ban đầu. Tận khi lứa sinh viên cuối cùng tốt nghiệp, chúng tôi chẳng còn nhận thêm ai và đưa ra quyết định đóng cửa trường.
Cũng tốt, tôi có thể toàn tâm chăm lo sản nghiệp mà bố để lại.
Tôi vận hành xưởng tàu đến khi tôi bước sang cái ngưỡng ngoài sáu mươi, đi hơn hai phần ba chặng đường đời, tôi quyết định mình muốn nghỉ ngơi. Khi ấy Gary cũng đã đủ trưởng thành, cứng cáp để tiếp tục công việc này thay cho tôi, Love thì vừa tốt nghiệp đại học.
.
.
.
.
Yoomi từ lúc kết hôn với tôi, cô ấy nghỉ công việc điều dưỡng, dành toàn bộ thời gian của mình để chăm lo, vung vén cho gia đình. Tôi luôn biết ơn cô vì điều này, đồng thời nhận thức được việc đời tôi đã làm nhiều chuyện có lỗi với cô.
Tôi quá ích kỷ và nhỏ nhen, cứng đầu, cố chấp. Tôi chưa từng dành một chút gì gọi là sự quan tâm chân thành tới người phụ nữ bên cạnh tôi.
Đến một ngày khi tôi chợt nhận ra mái tóc của cô ấy đã bạc đi theo thời gian, gương mặt cũng xuất hiện thật nhiều những nếp nhăn, tôi ý thức được chặng đường của chúng tôi đi qua đã rất dài rồi, còn tôi thì thậm chí một chút về cô, tôi còn chẳng biết rõ.
Tôi đã dành hơn một nửa cuộc đời mình để đuổi theo một vì sao, một hình bóng chẳng còn tồn tại trên thế gian này nữa. Dẫu cho tôi biết, lằn ranh giữa chúng tôi là không thể vượt qua được.
Tôi ôm theo tình yêu đầy hoài niệm của mình như một cơn mưa rào năm mười chín tuổi, đi qua đời tôi một cách thật đột ngột rồi gieo lại đó những hạt mầm ươm chồi ra hoa.
Cả nỗi ám ảnh về mãi mãi tuổi mười bảy gieo vào trái tim tôi những vết đâm đau đớn tận cùng.
Để một lúc chững lại, tôi hiểu rằng tình yêu và sự ám ảnh đó đã trở thành một phần máu thịt trong tôi, thứ mà tôi sẽ không bao giờ buông tay hay tình nguyện để mặc cho nó đứt lìa.
.
.
.
.
Bước sang ngưỡng sáu mươi, trái tim của Yoomi cũng dần trở nên yếu ớt. Giống như Fourth mà tôi từng gặp vào cái năm tôi ba mươi lăm còn cậu ấy thì mười bảy, cậu ấy đã nói lời từ biệt tôi cũng vào một ngày cuối xuân đầy ảm đạm.
Gary càng hận tôi hơn sau khi Yoomi mất.
Nó luôn nghĩ rằng tôi mới là nguyên nhân chính đẩy người mẹ thân yêu của nó vào cảnh khổ sở, một cuộc đời hy sinh quá nhiều thứ nhưng chẳng được đáp lại dù chỉ một lần.
Tôi chẳng có lời bào chữa nào, nếu đây là một phiên tòa, tôi sẽ lập tức chấp nhận hình phạt. Bởi vì tôi đúng thật là kẻ tồi tệ và ích kỷ nhất mà có lẽ Yoomi từng gặp trong đời này.
Không rõ là lần thứ bao nhiêu, tôi tham gia tang lễ đưa tiễn người thân yêu của mình rời khỏi thế gian này.
Đầu tiên là anh trai tôi, là đứa trẻ mười bảy tuổi mà tôi trót thương trong mùa hạ năm ấy, là người bố mà tôi luôn xa cách nhưng đồng thời vẫn dành cho ông sự tôn trọng bậc nhất, tiếp đến là người phụ nữ đã cùng tôi đi qua hơn một nửa chặng đường đời.
Ngoài ra còn rất nhiều người đồng đội của tôi đã bị bỏ lại nơi chiến trường, những người dân đất nước tôi hy sinh bởi chiến tranh.
Cuộc đời tôi đã đi qua không ít những cái chết, trẻ có mà già cũng có.
Tôi tự hỏi rằng liệu khi nào sẽ tới lượt mình, rồi liệu cái ngày đưa tiễn tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng sẽ có ai rơi nước mắt vì tôi hay không.
Tôi vô thức nhớ tới lời hứa năm nào mà người tôi yêu đã từng viết vào trong nhật ký.
Cậu ấy nói rằng tôi phải sống, sống thật trọn vẹn, tới khi chúng tôi tồn tại trong cùng một dòng thời gian, dẫu cho cậu ấy có là một đứa trẻ mới chào đời hay tôi trở thành một cụ ông lú lẫn.
Nhưng chẳng phải tôi đã từng có một mùa hạ vô cùng đáng nhớ cùng một cuộc đời khác của cậu ấy hay sao.
Ít nhất thì chúng tôi cũng từng tồn tại cùng một dòng thời gian, ở một khoảnh khắc nào đó trong đời, bằng cách này hay cách khác.
.
.
.
.
Khi bước sang tuổi xế chiều, tôi chỉ muốn nghỉ ngơi nhiều hơn, cả ngày lười biếng chẳng làm gì, trồng cây hoặc nuôi cá kiểng. Tới tận lúc những suy nghĩ ấy nảy nở trong đầu, tôi cuối cùng cũng nhận thức được mình đã thật sự trở thành một cụ ông lú lẫn.
Càng đi tới chặng đường cuối cùng trong đời, tôi lại càng nảy sinh nhiều ảo giác. Tôi cứ nhớ nhớ quên quên giữa thực tại và quá khứ.
Tôi quyết định xây một căn nhà ở Daegu, trên thửa đất mà bố tôi để lại cho tôi.
Trong sân vườn, tôi trồng một cây hoa anh đào lớn vì nó là loài hoa mà người tôi yêu vô cùng ưa thích, là cách để nhắc tôi hãy luôn nhớ về cậu ấy.
Tôi chính thức dọn về Daegu sống vào mùa hạ của năm bảy mươi tuổi.
Gary thỉnh thoảng đến thăm tôi, nhưng tôi cứ ngỡ như nó vẫn còn là một thằng bé lên năm lên bảy. Tôi đã thật sự trở thành một ông già bị lẫn rồi.
Rảnh rỗi, tôi lại lôi tấm ảnh của Fourth ra ngắm nghía.
Hồi trẻ tôi không dám đặt nó trong ví hay mang theo bên mình, vì tôi sợ đánh mất nó hoặc không cẩn thận sẽ làm nó bị hư hỏng. Đó là bảo vật của tôi, là thứ mà tôi luôn nâng niu, gìn giữ kỹ càng.
Cùng năm đó, tôi sắp xếp cho Gary đi xem mắt một cô gái, con của đối tác làm ăn.
Không phải tôi muốn thúc ép nó bước vào cuộc hôn nhân không tình yêu hay vì vụ lợi, đơn giản là do khi tôi hỏi Gary đã có ý định kết hôn chưa, nó đều lắc đầu rằng chưa để ý tới người nào.
Thế nên tôi nghĩ mình có thể chọn thay nó, một người con gái phù hợp và xứng đôi với Gary.
Hôn lễ rất nhanh diễn ra vào mùa xuân năm tiếp theo, thời tiết ấm áp rất thích hợp cho tình yêu đơm hoa kết trái. Phía sui gia cũng vô cùng ưng ý với Gary nhà chúng tôi.
Tôi chỉ mong rằng Gary sẽ không đi vào vết xe đổ của tôi.
Phải sống một cuộc sống hạnh phúc, bên cạnh người nó yêu thương đến hết đời.
.
.
.
.
Cuộc sống của tôi ở Daegu vẫn trôi qua trong bình lặng.
Rảnh rồi thì tôi làm vườn, hẹn vài người bạn đi câu cá hoặc chỉ đơn giản là ở nhà uống trà và đọc sách. Sở thích sưu tầm sách cổ của tôi dần được hé mở vào năm tôi bước sang tuổi sáu mươi.
Tôi chợt nhận ra ở những quyển sách cổ xưa ấy đem tới cảm giác mà chẳng phải bất kỳ loại sách nổi tiếng hay đang thịnh hành trên thị trường ngày nay có thể mang lại.
Một phần ý chí trong tôi thúc ép việc tôi cần phải đọc, đọc thật nhiều sách, như cách giữ cho đầu óc tôi không bị lú lẫn, hoặc nếu may mắn hơn, tôi có thể vô tình tìm được một phương thức nào đó giúp tôi lần nữa chạm tới thế giới của người tôi yêu, như cái hồi mười chín của tôi đã từng.
Tôi đến thăm mộ đứa trẻ đó gần như mỗi tuần, nó trở thành một thói quen khó bỏ trong tôi, kể cả khi tôi chẳng bận rộn việc gì, tôi đang vui hay thậm chí là bất an, tôi sẽ lại tìm tới đó.
Tôi ngồi hàng giờ đồng hồ ở ngôi mộ, trò chuyện với Fourth như thể chắc rằng cậu ấy đang nghe tôi nói.
Đôi khi tôi than phiền về vấn đề thời tiết cứ nóng dần lên mỗi ngày, hoặc căn bệnh xương khớp hành hạ tôi.
"Cháu từng băn khoăn rằng làm người lớn có khó không, ta cũng không biết phải nói thế nào, khi đi đến gần hết chặng đường đời, ta vẫn cảm thấy vô cùng mơ hồ. Nếu trở thành người lớn có thể tự do làm những thứ mình thích, thì làm trẻ con như cháu có được sự vô lo.
Cháu không cần quá bận tâm những điều mình làm liệu có gây tổn thương cho ai không, bởi cháu chỉ là một đứa trẻ chưa trưởng thành và suy nghĩ chưa chín chắn, kể cả khi điều đó có xảy ra đi nữa, cháu vẫn có thể dùng tuổi tác để bao biện, nhưng ta tin rằng Fourth sẽ không bao giờ làm như thế đâu, đúng không?
Và cả việc cháu không cần phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với tất cả mọi thứ."
Tôi bật cười cay đắng.
"Khi cháu là một đứa trẻ, cháu có thể sai và dễ dàng nhận được sự tha thứ từ người trưởng thành. Cháu có thể vấp ngã và đứng dậy làm lại vì cháu vẫn còn một chặng đường tương lai dài đằng đẵng phía trước chờ cháu đi qua. Cháu có gia đình sẵn sàng yêu thương và chở che cháu dù cháu có phạm sai lầm."
Tôi chạm khẽ những ngón tay lên phần bia mộ cũ kĩ, đôi mắt tôi không ngăn được cảm giác có những dòng nước ấm nóng sắp sửa tuôn ra.
"Ta có phải là một người lớn thất bại không?"
Tôi tự thì thầm với chính mình.
"Nếu chúng ta gặp lại nhau một lần nữa, xin hãy nói cho ta biết với."
Tôi nghe mọi người xung quanh nói rằng đã từ lâu, rất ít người tới viếng thăm ngôi mộ này.
Một phần vì những người lớn trong gia đình cậu nhóc lần lượt qua đời do tuổi già và bệnh tật. Một phần vì người anh trai ruột của Fourth đã rời đi nơi khác sinh sống.
Tôi là người duy nhất ở lại đến thời khắc này.
Tôi muốn hoàn thành lời hứa của mình với cậu ấy, tôi muốn chăm sóc và bảo vệ cậu, dù cho giờ đây chúng tôi đã chẳng còn hít thở chung một bầu không khí hay gặp gỡ nhau trong cùng một thế giới.
.
.
.
.
Cho đến cái ngày tôi chẳng còn sức mà tới thăm mộ của cậu nhóc ấy nữa, cũng là lúc tôi cảm nhận được ranh giới sinh tử đang ngày một tiến lại gần tôi.
Tôi đã tưởng rằng càng đi đến cuối chặng đường, tôi sẽ càng lú lẫn và quên mất mọi thứ. Nhưng ngược lại, khi chạm tới ngưỡng cuối cùng của sinh mệnh, tôi lại thấy đầu óc mình minh mẫn tới lạ.
Thậm chí tôi đã chuẩn bị tất cả cho chuyến hành trình sắp tới, khi tôi trút hơi thở cuối cùng và nói lời từ giã thế gian.
Tôi viết cho người tôi yêu một lá thư, đặt trong chiếc hộp gỗ cùng bức ảnh tôi luôn trân quý và chiếc huy hiệu tôi mang theo bên mình kể từ thời điểm tôi gia nhập cục tình báo đến tận giờ, nó chứa đầy kỷ niệm và như một minh chứng của một chặng đường dài tôi đã đi qua.
Tôi đã từng nghe nói về chuyện có vài nghiên cứu mới, chỉ ra rằng trên trái đất này tồn tại những hiện tượng siêu nhiên đặc biệt mang tên lỗ hổng thời gian.
Tôi nhớ về sự kiện tôi và Fourth gặp được nhau thông qua quyển nhật ký, thế giới của chúng tôi chạm vào nhau sau khi xảy ra một trận địa chấn với điều kiện đủ là có một vật đóng vai trò chất dẫn.
Một người bạn từng hoạt động ở viện khoa học từng chia sẻ với tôi rất nhiều thứ mới mẻ liên quan tới dự án nghiên cứu của ông về lỗ hổng thời gian. Ông ấy nói rằng nó hoàn toàn có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, bất cứ đâu trên trái đất.
Chẳng một ai tận mắt chứng kiến viễn cảnh những con tàu đột nhiên mất tích trên biển hay nó có bị cuốn vào một khoảng không gian đen ngòm nào đấy, thứ trực tiếp dịch chuyển nó đến một vị trí thời không khác.
Không ai trong chúng tôi biết về điều này, chỉ tới khi nó đã xảy ra rồi, chúng tôi mới có thể đưa ra kết luận. Đó là lý do tôi không chắc chắn với lần đánh cược này của mình.
Nhưng tôi vẫn nhớ như in vào 8 giờ tối, ngày 28 tháng 8 năm 1953, trong lúc tôi đang có một chuyến tham quan ngôi trường cũ, cơn địa chấn lớn đột ngột diễn ra.
Tôi còn nhớ rất rõ ngày hôm ấy tôi mặc một chiếc áo khoác dạ, đeo huy hiệu trên ngực áo.
Nếu, tôi chỉ đặt giả thiết là nếu, cậu ấy cũng đứng ở cùng vị trí với tôi vào đúng thời điểm này, cầm theo chiếc huy hiệu mà tôi đã mang - thứ đóng vai trò là một vật dẫn - thì liệu dòng thời gian của chúng tôi có thể chạm vào nhau thêm lần nữa không.
Như đã nói, không một ai biết được câu trả lời chính xác. Nhưng tôi vẫn quyết định đánh cược.
Thế nên tôi gói gọn những gì tôi muốn trao lại cậu ấy vào chiếc hộp gỗ cứng cáp và nhờ Gary, người sẽ còn một chặng đường tương lai phải đi qua, chuyển cho cậu ấy giúp tôi.
.
.
.
.
Vào những ngày cuối cùng của cuộc đời, tôi nằm trên giường, khuôn ngực phập phồng một cách nặng nề.
Từng ký ức lại tràn về trong tâm thức tôi, như thể đó là lần sau cuối tôi được dịp nhìn nhận lại cả một chặng đường tôi đã đi qua.
Từ lúc tôi còn là một đứa trẻ thiếu vắng tình thương của gia đình. Trưởng thành hơn một chút và trở thành đối tượng bị cô lập, bắt nạt ở trường.
Khi tôi tuyệt vọng khóc trong thư viện cả đêm vào cái năm tôi mười bảy tuổi. Là tôi của những tháng ngày tươi đẹp nhất đời người nhưng chỉ luôn đơn độc một mình, không ai lắng nghe tôi, không ai ở bên cạnh, không ai cần đến.
Tôi nhớ về cơn mưa mùa hạ năm mười chín tuổi.
Tôi nhớ có một điều kỳ diệu đã xảy ra mang tôi trở lại với thế gian này, không còn cảm giác lạc lõng và cô đơn nữa. Người ấy là luồng gió mát giữa buổi trưa khô khốc, là tia lửa nhỏ trong màn đêm giá lạnh.
Là mối tình đầu của tôi, cũng là người tôi yêu tới hết đời này.
Người đã đến với thế giới của tôi bằng phép màu, ôm lấy tôi khi tôi rơi vào tình cảnh tuyệt vọng nhất, níu lấy tay tôi trong khoảnh khắc tôi chuẩn bị buông xuôi tất cả mọi thứ.
Lớn hơn một chút, tôi nhớ về những mối quan hệ từng ghé ngang đời tôi.
Người bạn cùng phòng lúc tôi sống ở Nhật, là bữa cơm ấm áp tại quê nhà của cậu bạn ấy. Hay người bạn thân Winny mà tôi lâu ngày không gặp, là anh chàng tên Satang với gương mặt lạnh lùng nhưng sở hữu một trái tim ấm áp.
Là chuyến tàu cuối ngày mà tôi cật lực đuổi theo, là những nỗi nhớ không tên tôi gửi lại chốn thành phố xa lạ.
Đôi mắt tôi nóng dần lên, giọt nước cứng đầu vương lại trên mi, từng mảng ký ức về khoảnh khắc mà một phần linh hồn của tôi chết lịm đi còn trái tim đau nhói bởi vết đâm chí mạng, đó là lúc tôi nói lời chào tạm biệt với tuổi mười bảy đẹp đẽ nhất của cậu nhóc mà tôi thương nhiều hơn cả thế giới.
Tôi nhớ về Fourth cùng nụ cười xinh đẹp và ánh mắt lấp lánh như chứa cả bầu trời sao, đôi môi líu lo không ngừng nói về những hoài bão lẫn bâng khuâng mơ hồ ở ngưỡng cửa trưởng thành.
Bức thư từ biệt mà Fourth gửi cho tôi luôn được tôi giữ gìn trong một góc thật kín đáo nơi kệ tủ và khóa chặt lại. Tôi xem nó như một bí mật mà tôi chỉ muốn cất cho riêng mình, một thế giới mà tôi không thể sẵn lòng chia sẻ cùng ai.
Tôi cũng chẳng còn hờn trách số phận vì đã tham lam muốn níu cậu ấy ở lại của cái tuổi mười bảy mãi mãi, thay vào đó, tôi thầm cầu nguyện khi Fourth bắt đầu một cuộc sống mới, cậu ấy sẽ chỉ bước đi trên một con đường trải đầy tình yêu thương và niềm hạnh phúc.
Ở cuộc đời đó, cậu ấy chính là Fourth mà tôi đã gặp gỡ tại nút giao của tuổi mười chín, là mối tình đầu sâu đậm của tôi.
Tôi từng nghĩ giá mà tôi nói với Fourth điều này sớm hơn, rằng tôi có phép tiên tri và tôi đã nhìn thấy một cuộc đời khác của cậu ấy.
Cậu ấy sẽ có rất nhiều người bạn tốt, được sống trọn với ước mơ của mình, một gia đình hạnh phúc yêu thương cậu và hơn hết là cậu sẽ sinh ra cùng cơ thể khỏe mạnh, suôn sẻ bước sang tuổi trưởng thành rồi trải nghiệm cảm giác khi làm một người lớn.
Fourth sẽ có câu trả lời cho những thắc mắc của mình, sẽ không còn lo lắng nếu một ngày cậu đột ngột biến mất khỏi thế giới này thì liệu còn ai nhớ đến cậu không.
Đến tận khi Fourth bỏ tôi mà đi, tôi mới cảm thấy ân hận.
Giá như tôi biết tới sự tồn tại của cậu ấy sớm hơn, giá tôi có thể dành nhiều thời gian cho cậu ấy... Có lẽ tôi sẽ đỡ đi phần nào niềm tiếc nuối vì để lạc mất cậu ấy thêm lần nữa.
Nhưng mà nghĩ lại thì bây giờ cũng đã là năm 2003 rồi, thế có nghĩa Fourth đáng thương của tôi đã bắt đầu một cuộc đời mới và tôi thì có thể yên tâm rằng mình hoàn thành lời hứa với người tôi yêu.
Có lẽ chính vì điều đó mà tâm trạng tôi trở nên dễ chịu hơn nhiều phần.
Cuối cùng là tôi nghĩ tới gia đình hiện tại của mình, những người luôn yêu thương tôi vô điều kiện, ở bên cạnh tôi hơn nửa đời người, mái nhà bình yên sẵn lòng chờ đợi tôi trở về. Những người mà tôi cảm thấy có lỗi vô cùng bởi sự ích kỷ và cố chấp của bản thân.
Tôi muốn xin lỗi Yoomi vì đã khiến cô phí hoài tuổi xuân mình cho một kẻ không ra gì như tôi.
Xin lỗi Gary và Love vì luôn khiến bọn trẻ sống trong một cảm giác bất an như thể sẽ có một ngày nào đó, tôi rời bỏ gia đình này ra đi, biến mất khỏi thế giới mà chẳng để lại chút vết tích.
Tôi đã sống là một gã tồi tệ suốt một chặng đường dài, thậm chí cho đến lúc cơ thể tôi kiệt quệ và tâm trí tôi chỉ muốn nghỉ ngơi, tôi vẫn không thể nguôi ngoai cảm giác tội lỗi này.
Tôi hé mở mi mắt nặng trĩu để nhìn về phía những tấm rèm mỏng nơi cửa số, khoan khoái tận hưởng mùi hương cỏ và đất sau cơn mưa đặc trưng của mùa đông tràn ngập trong không khí.
Bên cạnh giường, Gary đang chăm chú vào quyển sách cầm trên tay, xa hơn một chút là Gin, cháu nội của tôi, đang tỉ mỉ lau chùi bộ ấm trà mà tôi vô cùng yêu thích.
Khung cảnh vẫn bình yên như bao ngày.
Nhưng hôm nay đặc biệt hơn một chút, vì thần trí tôi tỉnh táo đến lạ trong khi cơ thể lại cảm thấy nhẹ hẫng như thể đã trút hết mọi ưu phiền.
Điều này có nghĩa là đã tới lúc, tôi phải nói lời từ biệt với cuộc hành trình dài đằng đẵng này rồi.
Tôi cần được nghỉ ngơi thôi.
End side story.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com