Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

CHƯƠNG V: BỆNH HOẠN VÀ THI VĂN - Phần 2

2. BỆNH NAN Y

Khoảng đầu năm 1935, khi anh Trí từ Saigon trở về Qui Nhơn, trông Anh có vẻ trắng trẻo đẹp ra, nhưng nhìn kỹ thì bên má trái, có nhiều đám đỏ hồng hồng bằng đồng xu.

Ban đầu không ai để ý, nhưng một hôm Anh thay áo, Mẹ tôi trông thấy phía sau lưng có nhiều chỗ nổi dát đỏ như vậy, trông như dị ứng khi ăn phải các thứ tôm cá có độc mà vốn Anh không hề ăn được.

Bà cụ hỏi những vết đỏ có từ bao giờ, Anh bảo không hề lưu ý, nên không biết đích xác.

Thật ra, những vết đó khi ẩn khi hiện.


Hỏi anh Bửu Đông, anh cho là dị ứng, một thứ phong máu (allergie) gì đó, thế rồi cũng bỏ qua.

Tuy nhiên, mẹ tôi linh cảm có chuyện chẳng lành. Bà vặn hỏi mãi Anh kể chuyện một hôm cùng người bạn đi chơi Phan Thiết, gần tối băng qua một cánh đồng, thì gặp phải cơn mưa


giông dữ dội. Sợ hãi quá, cùng vào ẩn trong một chòi tranh đổ nát. Hồi lâu, mưa tạnh toan ra đi, thì thấy nhiều quả cầu lửa màu xanh từ dưới đất phọt lên, bay lơ lửng. Bấy giờ mới nhận ra đang ở trong nghĩa địa, cái chòi gần bên nấm mả mới.

Bà cụ hỏi anh về nhà có xông tắm gì không. Anh nói quên khuấy đi vì vội lên xe về Saigon.

Mọi người nghĩ là Anh bị mắc hơi dưới mộ.

Tuy lo thì cứ lo vậy thôi, không biết phải làm gì được vì đã lâu rồi.

Mấy tháng sau, những dát đỏ hơi sưng lên, như những đám ngứa sương sương mà người ta gọi là mề đay (Urticaires).

Mẹ tôi đâm lo, mời ông đông y sĩ có danh là Thầy phụ tử (nổi tiếng nhờ dám bốc một thang thuốc có một lượng phụ tử là đều cấm kỵ trong nghề thuốc).

Mẹ tôi tin ông giỏi vì đã cứu sống chị Như Lễ khỏi bệnh thương hàn đã "nhập lý" nhà thương Pháp chạy.

Ông đến bắt mạch cho anh Trí nói anh bị chứng phong. Chữ phong trong Đông y nhẹ thì gọi là phong sang (ghẻ ngứa v.v..) nặng là phong hủi, cũng đều là máu có chất độc. Đông y thường gọi Phong, lao, cổ, lại tứ chứng nan y.

Uống mười thang bổ huyết khu phong, vẫn không thuyên giảm.

Cuối năm, lại thấy hai tai Anh, thùy châu bắt đầu ửng đỏ. Triệu chứng phong đủ nặng, nhưng Anh vẫn cảm thấy bình thường. Cả nhà bắt đầu lo sợ, nhưng không ai nói gì cho Anh biết..


Cũng thời gian đó, con trai nhà triệu phú họ Tạ, cùng lứa tuổi với Anh đang có nhiều triệu chứng phong rõ ràng như hai tai dày, mũi lớn phồng và hai môi sưng vếu.

Cả nhà đều giấu nhẹm không cho anh Trí hay.

Anh Bửu Đông lấy máu ở tai, ở mũi đem về bệnh viện phân tích vì anh Đổng phụ trách phòng thử sâu (Bactériologie) cũng không có Hansen, một thứ trực khuẩn có tên gọi là


Mycobacté rium Léprac, gây ra bệnh cùi, nhưng lại khó lây, thầy dạy của BS Hansen đã thí nghiệm chích Hansen vào máu mà không việc gì.

Phần anh Trí vẫn vui vẻ, bạn bè thường quay quần lui tới ngâm vịnh thi ca, lúc bấy giờ tại số 20 đường Khải Định. Đông đảo nhất là từ giữa năm 1936 có vẻ như các bạn anh cũng không quan tâm gì.

Cuối năm ấy Anh hồ hởi xuất bản tập thơ Gái quê, và đi lại nhiều lần giữa Saigon, Quảng Ngãi, Huế.

Ở Saigon về, Anh cho biết bà Bút Trà mời Anh vào chủ biên tờ Phụ nữ Tân văn sắp xuất bản. Anh có vẻ vội vã nôn nóng lành bệnh.

Mẹ tôi phải mời một thầy ngoại khoa tiếng tăm ở Gò Bồi xuống chữa cho Anh.

Ông xem mạch cho và bán một tể thuốc, dặn dò cẩn thận phải uống đúng liều lượng, vì thuốc mạnh lắm.


Được nữa tháng, các vết đỏ biến mất gần hết, chỉ còn hai thùy châu ửng đỏ thôi.

Anh Trí rất tin tưởng, bắt đầu nói chuyện làm báo. Anh gởi thơ cho bà Bút Trà, hẹn ngày vào nhận việc.

Vì vậy, anh càng nôn nóng muốn rút ngắn thời gian uống thuốc để kịp vào Saigon.

Bỗng một hôm, đang ngủ, Anh cong người lên ngã xuống đất. Cả nhà hoảng sợ, nhưng Anh vẫn bình tĩnh, xem như không việc gì xảy ra. Hỏi kỹ, Anh thú nhận đã uống gấp đôi liều lượng quy định để cho mau hết tể thuốc.

Vội mời ông thầy Gò Bồi xuống, ông bảo phải đưa anh lên Gò Bồi để ông chăm nom, nhất là Anh bị thuốc công phạt nên trông tiều tụy rõ hơn.

Từ đó bệnh anh như cầm chừng lại. Anh ăn rất ít và gầy sút đi trông thấy.


Năm sau, tôi phải đổi lên Đà Lạt và ở luôn trên đó chỉ thỉnh thoảng năm, ba tháng mới về thăm, nên không theo dõi được diễn biến bệnh trạng.

Bấy giờ Anh lại trở về Qui Nhơn để uống thuốc một ông Đông y sĩ chính cống khác. Ông này bảo nội tạng anh hư hỏng nặng cần phải nghỉ ngơi để bồi dưỡng.

Thuốc ông cũng công hiệu. Trong sáu tháng, Anh có da thịt lại. Thấy Anh đi hơi khập khiễng, tôi hỏi thì Anh bảo đau nhức nơi đầu gối. Có lẽ suốt thời kì anh đau, đây là lần thứ nhất tôi nghe anh kêu đau vì nhức nhối.

Hậu quả, thuốc Gò Bồi đã làm anh đau nhiều chỗ nữa mà ông Đông y cho là độc dược luyện bằng nọc độc mai gầm, rắn hổ.

Kinh tế gia đình, bắt đầu bấn loạn. Mỗi tháng tôi phụ thêm 30 đồng mà vẫn không đủ.

Thuốc đắt mà giao tế cũng tốn kém rất nhiều. Khi thì xem mạch uống đôi ba thang, lại đổi thầy khác. Đó là chưa nói "chuyện phải chăng" với ông Lý Trưởng với Cò bót, vì lâu tiếng Anh Trí có bệnh truyền nhiễm.

Vậy mà hễ nghe nói có thầy hay ở đâu là mẹ tôi cho mời có khi chữa vài tuần, có khi vài tháng lại bỏ dở.

Gia đình tôi lại phải dọn về đường Oden d'hall để tránh dòm ngó của nhà chức trách.

Tuy anh không đau đớn lở lói, nhưng thân thể gầy sọm đi, nước da thâm nâu như tô lên thứ thuốc vẽ nước màu Sépia, chỗ đậm chỗ lợt. Người ta nhìn vào, không thể không nghi là bệnh


lạ. Nhất là bạn bè hay lui tới bàn tán về Anh có thể lên tiếng gây dư luận bất lợi.

Thế rồi, một võ sư kiêm thầy lang, được ông Quách Tấn giới thiệu đến cho thuốc.

Uống thuốc của ông võ sư mấy tháng anh Trí nói không thấy đau nhức gì (như thường lệ, Anh trả lời ai hỏi Anh về bệnh trạng). Nhưng anh lại không ăn uống gì khác, ngoại trừ món canh bầu anh ưa thích vì nhẹ ruột.

Một hôm ở Đà Lạt về, tôi thấy mẹ băn khoăn với mấy vị thuốc mã tiền, phượng vĩ là hai vị có khả năng trục huyết bầm. Cuối cùng thì cứ sắc cho anh uống.

Tôi mang mỗi thứ của thang thuốc vào Nha Trang, nhân dịp đi thăm bà con, để nhờ ông Bá Thảo Đường, thầy thuốc tàu quen biết xem lại.

Ông này bảo ngưng ngay, khi tôi tả bệnh trạng của Anh Trí. Ông nói : "Thuốc này chỉ chữa bệnh cấp thời các chứng bệnh bị đả thương, người yếu không thể dùng được, sợ khô hết huyết".

Những năm 1938, 1939 nhất là năm 1939 Anh đau dữ dội hơn hết. Tâm trạng Anh biến đổi nhiều mà tôi đọc được qua thơ anh. Giai đoạn này. Anh sống nửa mơ nửa thực, thường hay


xuất thần không biết gì. Có lẽ nhờ vậy mà Anh không cảm thấy đau đớn chăng?

Theo lời em Hành kể lại, thì có nhiều giờ Anh ngôi yên lặng trên ghế không cử động, nhưng khi bị gọi, thì Anh lại tỉnh táo như thường.

Anh đau ai cũng biết, nhưng không nghe Anh rên xiết vậy mà thơ anh lại có nhiều lúc hoảng hốt lạ lùng, như bị một ám ảnh nào đó phá phách xô đẩy Anh khủng khiếp, Anh viết trong bài:

HỒN LÀ AI

Hồn là ai, là ai tôi chẳng biết


Hồn theo tôi như muốn cột tôi chơi.


.......


Hồn đã cắn đã cào nhai ngấu nghiến


Thịt da tôi sượng sần và tê điếng.


Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên

Và Anh chống cự:

Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm


.......


Rồi bay lên cho tới một hành tinh


Cùng ngã nghiêng lăn lộn giữa muôn hình


Để gào thét một hơi cho rởn óc.


Cả thiên đàng trần gian và địa ngục...

Những khi di chuyển đó đây, trên bờ biển hiu quạnh, trong thôn xóm trơ vơ, Anh không khỏi có lần phải hoảng sợ vì nhiều hình ảnh ma quái bám sát bên Anh, những đêm dài vô tận mà Anh ghi lại trong bài:

CÔ LIÊU

Tôi ngồi dưới bãi đợi nường mơ


Tiếng rú ban đêm rạn bóng mờ


Tiếng rú hồn tôi xô vỡ sóng


Rung từng không khí bạt vì lo


Ai đi lẳng lặng trên làn nước.


Với lại ai ngồi khít cạnh tôi


Mơ sao, ngậm cứng thơ đầy miệng


Không nói không rằng nín cả hơi


Chao ôi, ghê quá trong tư tưởng


Một vũng cô liêu cũ vạn đời

Hoặc một nỗi cô đơn dằn dặt mà Anh than thở trong bài:

NHỮNG GIỌT LỆ

Trời hỡi ! Bao giờ tôi chết đi


Bao giờ tôi hết được yêu vì


Bao giờ mặt nhật tan thành máu


Và khối lòng tôi cứng tơ si


Tôi vẫn còn đây, hay ở đâu


Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu


Sao bông phượng nở trong màu huyết


Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu...

Có những lúc dồn ép cơn đau đến tột độ:

... Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút


Mỗi lần thơ đều dính não cân ta


Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt


Như mê man chết điếng cả làn da


Cứ để ta ngất ngư trong vùng huyết...

Và có những lúc Anh ngất đi, mơ hồn lìa khỏi xác, mà trong bài thơ: Hồn lìa khỏi xác. Anh kể lại:

... Há miệng cho hồn vảng lên muôn trượng


Chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây


Ánh sáng lạ sẽ tan vào hư lãngTrời liêng thiêng cao cả gợn nồng say.


Vì không giới nơi trần gian vắng lặng


Nên hồn bay vùn vụt tới trăng sao


Sóng gió nổi rùng rùng như địa chấn


Và muôn vàn thần phách ngả lao đao


Cả hơi hám muôn xưa theo ám ảnh


Hồn chơ vơ không biết lạc về đâu


Và vướng phải muôn vàn tinh khí lạnh


Hồn mê man bất tỉnh một hồi lâu


Rồi sảng sốt bay tìm muôn tử khí


Và muôn sao xa cách cõi hoang sơ


Hồn cảm thấy bùi ngùi như rướm lệ


Thôi, hồn ơi ! Phiêu lạc đến bao giờ ...

Tuy nhiên, trong những cơn mê loạn đó, Anh còn tìm được một lối thoát ra ngoài thực tại, để quên đi bệnh hoạn đang dày vò và để tìm lại cái tiên phong đạo cốt của Anh, của một trích tiên bị đày đọa.

Anh chưa từng viết trong "Mộng và thực":

Tôi đang đi trên con đường sáng lạng, tìm lấy chân lý ngàn năm, mà hào quang của tinh tú, của ngọc ngà châu báu, trời tuôn xuống không biết hằng hà sa số nào... Như có một ma lực vô song, xô đẩy tôi đến bờ huyền diệu để vào một cõi vô hình...

Trong bài:

SIÊU THOÁT

Mới thay cõi siêu hành cao tột bậc


Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao


Xa lắm rồi, xa lắm, hải đường bao


Ai tới đó mà chẳng nao thần chí


Tòa châu báu kết bằng hương kì dị


Của tình yêu rung động lớp hào quang


Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang


Sẽ quy tụ thâu về trong một mối


Và tư tưởng không bao giờ chắp nối...


Là vì sao ? Vì sợ kém thiêng liêng


Trí vô cùng lan nghĩ rộng vô biên


Cắt nghĩa hết những anh hoa huyền bí


Trời bát ngát không cần phô triết lý


Thơ láng lai, chấp chóa những hàng châu


Ta hiểu chi, trong ánh gió nhiệm màu


Những hạt lệ của trích tiên đày đọa.

Ở nơi Hàn Mặc Tử, tâm trạng biến đổi dễ dàng từ thực qua mộng, và phong thái thần tiên trong mối tình huyền hoặc với Thương Thương đã giúp sáng tác Duyên kỳ ngộQuần Tiên Hội. Lời thơ vẫn còn được xem rất thoát tục tinh khôi cho đến ngày nay.

Như một đoạn dưới đây, trích dẫn từ Quần Tiên Hội

Hoa khôi:

Liên hồ tây, bốn mùa xuân cả bốn


Ngát hương đưa trong gió sớm chơi vơi


Làn nước mát và chưa bao giờ bợn


Vết phong trần đưa lại ở xa khơi...

Cát tiên:

Đây mùi đạo vẫn còn thơm ngan ngát


Mà ai cho các chị nói tình yêu


Ai cho thỏa bao niềm mong rào rạt


Mà ai cho lòng ngọc tỏa phiêu phiêu

Huyền tiên:

Nương nương ơi, biết nhau từ độ ấy


Tóc xanh thêm và tình đậm đà thêm


Tao phùng duyên đến bao giờ lại thấy


Lòng nghiêng qua sóng mắt muốn xiêu xiêu

.......

Và những khi từ mộng quay về thực anh Trí cũng vẫn thong dong nhàn hạ mà bất cứ một nhà thơ lãng mạn nào cũng không thể nào tình tứ say sưa hơn.

Khi mà hiện tượng đau đớn hốt hoảng trong các bài rùng rợn như Cô liêu, những giọt lệ, hồn là ai, đã đi qua rồi, thì nhớ hương xa xôi lại trở về với Anh trong những vần thơ nhẹ nhàng tình tứ, mà chỉ cần nhìn vào một phiến ảnh thôi:

Bài thơ: Đây Thôn Vỹ Dạ là một chứng minh hùng hồn cho trường hợp đó.


Ý thơ dồi dào tế nhị như không hề bị ảnh hưởng của bệnh hoạn. Bức ảnh Hoàng Hoa gợi ý nhắc mời Anh về thăm mảnh vườn ai xanh mướt, có hàng cau tắm nắng sớm, có khóm trúc quí phái thanh cao nhất là khuôn mặt chữ Điền đoan hậu mà các cụ ngày xưa khen "diện phương tâm chính" và xứ Huế lâu đời vẫn đánh giá cao:"Mặt chữ điền tiền rửa cũng mua."

Anh lại còn hóm hỉnh hỏi: Có chở kịp trăng về tối nay để bầu bạn cho Anh bớt cô đơn?

Thời gian Anh sáng tác hai lọai thơ nói trên, không xa cách bao nhiêu, trong một hoàn cảnh không thay đổi.

Cũng trong túp lều tranh xơ xác, dưới cây phượng vĩ tàn tạ, trên bờ biển hoang vắng xa xôi, mà cảm ứng của hai trạng thái tâm hồn hoàn toàn khác biệt nhau.

Đó là điều lạ lùng, chỉ có Anh mới sống được như vậy.

Tâm trí Anh từ ngày đau nặng, vẫn mơ ước thoát khỏi cái "ta" ghê tởm.

Anh luôn bị cám dỗ bởi một giấc mơ huyền diệu hướng về trời, vượt ra khỏi không gian.

Ước mơ ngày càng mãnh liệt, và mỗi ngày lại gần hơn đến đỗi cảm thụ được trong bài:

NGOÀI VŨ TRỤ

... Ra không gian là vượt hẳn thượng tầng


Tấp tới đến ở ngoài kia vũ trụ


Nơi khí tượng bốc ngàn muôn tinh tú


Nơi không cho hồn lai vẵng quang chiêm


Sáng vô cùng, sáng lạng cả mọi miền


Không u ám như cõi lòng ma quỉ


Vì có Đấng hằng sống, hằng ngự trị


Nhạc liêng thiêng dồn trỗi khắp hư linh

.......


Tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thật


Mộng là mộng tràn trề muôn vạn ức


Tình thơm thơ như ngấn lệ còn nguyên


Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên


Và tấm gội ở trong nguồn ánh sáng


Ca những điệu ngọc vàng cao sang sảng


Lời văng xa truyền nhiễm đến vô song


Bầu hạo nhiên lồng lộng một màu trong


Không rung động bởi tơ huyền nao nức...

*

Cuối năm 1939, Anh gầy hẳn, nhưng đôi mắt còn linh hoạt như không đau yếu gì. Có nghĩa là Anh còn minh mẫn, cho nên Anh vẫn còn sáng tác mạnh.

Xem bài tặng chị Mai Đình, ý thơ sâu sắc, những từ ngữ Anh sử dụng diễn tả rõ ràng tâm trạng Anh.

Rồi đến thời kỳ Anh sáng tác Duyên kì ngộ, Quần Tiên Hội, thì lúc ấy Anh hoàn toàn thoát khỏi ràng buộc của bệnh hoạn.

Nhiều lúc Anh tỏ ra bình tĩnh, chờ đợi những gì sẽ xảy đến cho Anh, không còn buồn lo ray rứt gì nữa.

Khoảng tháng bảy năm bốn mươi tôi nghe có lệnh động viên những công chức còn trẻ. Có thể sẽ bị đưa qua Lào làm con đường chiến lược (Routes Stratégiques).

Tôi về Qui Nhơn đến thăm Anh một nơi hẻo lánh trên bờ biển. Anh ngồi trầm ngâm bất động nhìn ra khơi. Cây phượng vĩ đã gần hết hoa. Trên cát trắng một ít cánh hoa đỏ đang tàn héo.

Bỗng Anh quay lại trông thấy tôi, mỉm cười hỏi : "Về bao giờ đó ?" Giọng Anh vẫn đều đều, nghe như xa vắng từ đâu. Tôi nhớ lại câu hỏi của Anh. Khi tôi vào Saigon ghé lại con đường Espagne, chờ Anh về khuya. Anh cũng hỏi:"Vào bao giờ đó". Cũng vẫn giọng nói đó, thanh âm đó. Không khác đi, không vui mừng hay buồn bã mà hai hoàn cảnh rất xa vời khác biệt.

Ở Saigon là lúc Anh đang nở hoa trong lòng với Mộng Cầm.

Ở đây, Anh đang viết bài thơ :

TRÚT LINH HỒN

Máu đã khô rồi thơ cũng khô


Tình ta chết yểu tự bao giờ


Từ nay trong gió, trong mây gió


Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ


Ta còn trìu mến biết bao người


Vẻ đẹp xa hoa của một trời


Đầy lệ, đầy hương, đầy tuyệt vọng.


Ôi giờ hấp hối sắp chia phôi.


Ta trút linh hồn giữa lúc đây


Gió sầu vô hạn nuốt trong cây


Còn em sao chẳng hay gì cả,


Xin để tang Anh đến vạn ngày

Gió biển thổi vào nhè nhẹ, nhưng cũng lấy hết cánh hoa khô héo còn đeo đẳng trên cây.

Nhớ lại câu thơ Anh:

Sao bông phượng nở trong màu huyết


Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu

Thôi nhé ! Hoa phượng không còn rơi nữa đâu ! Và tôi cũng không cầm được nước mắt, vội lấy kính râm đeo vào.

Anh trông thấy nói lảng ra""Lúc này Anh không lần hạt được nữa, viết đã khó khăn lắm rồi". Trong Anh bình thản như kể chuyện kẻ khác. Không phải nói về Anh.

Da Anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng" tay bằng da thô sảm.

Toàn hình thể như một xác ướp Ai Cập trong Kim Tự Tháp. Đó là hình ảnh cuối cùng tôi trông thấy Anh.

Trước đó, tôi có đến thăm bác sĩ G.Quản đốc bịnh viện, mang biếu ông một ít hoa Đà lạt.

Ông giữ tôi lại nói chuyện.


Ông nói Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông quả quyết bệnh cùi không thể lây lan được, đã có chứng minh của B.S Daniel Sen, thầy dạy của nhà bác học Arnauer Hansen.

Ông ấy buồn rầu nói tiếp : "Anh ấy (anh Trí) không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dầu kinh nghiệm ở các trại cùi, không có ai chỉ đau có mấy năm mà chết được. Anh ấy bị nội tạng hư hỏng." Rồi giận dữ : "ces Charlatans I'ont tué (Bọn lăng băm đó, đã giết chết Anh ấy)."

Tôi ngỏ lời cám ơn và cáo từ. Ông nói : "Tôi rất tiếc". Có vẻ như ông trách gia đình tôi không đưa Anh đi bệnh viện sớm hơn để chạy chữa.

(Tôi nghĩ ông nói đúng, vì tôi biết có nhiều người chạy chữa công khai, không có mặc cảm thể thống tiếng tăm nên đã lành bệnh. Có lẽ mẹ tôi quá tế nhị về điểm này. Cũng có thể mẹ


tôi không nỡ để Anh có cảm nghĩ về bệnh nan y của Anh bị ruồng rẫy).

Khi tôi nói với Anh Trí, tôi có thể bị đổi qua Lào, chắc còn lâu mới trở về được. Và hỏi Anh về số bút tích của Anh mà tôi dồn lại ở nhà, sẽ giao cho ai lo xuất bản. Anh mỉm cười phó thác:"Thôi em đừng lo, em lo nhiều rồi. Anh không muốn làm phiền em... À, mà còn chút


này, là cho Anh một pho tượng Đức Mẹ ban ơn bằng thạch cao. Anh ước ao lâu lắm rồi"

(Đức Mẹ ban ơn có hình dáng cúi xuống đưa hai tay như nâng đỡ). Có lẽ Anh nhớ về câu thơ của Anh.

...Toan ngất đi trong cơn mê khoái lạc


Mẹ dấu yêu liền vội đến tay nâng...

Tôi nói : "Ở Việt Nam không có mẫu tượng đó, phải gởi mua ở Pháp. Để có dịp đi Saigon tìm thử".

Thấy tôi buồn bã, Anh cười triết lý : "Đằng nào thì cũng phải đến đó. Cầu nguyện cho Anh với... Nghĩ lại mình cuồng dại quá, đã bỏ phí nhiều thì giờ vô ích, chạy theo những cái mà mình phải bỏ lại." Rồi Anh cười vui vẻ.

Anh càng bình tĩnh, lòng tôi càng chua xót, không cầm được nước mắt, vội vã ra về như chạy trốn, mà lòng tan nát. Nhớ lại mấy câu thơ Anh viết :

Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại !


Ta đi thuyền trên mặt nước lòng ta


Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại


Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta.

*

Tháng 9 năm ấy, tôi nhận được thư chú Hiếu báo tin : Anh Bửu Dõng đã đưa anh Trí vào nhà thương Quy Hòa, có mẹ tôi và em Hành đi theo.

Anh Dõng và thầy Hứa Chánh văn phòng bệnh viện ra tiễn và trao hồ sơ bệnh lý cho tài xế. Anh Trí còn đùa : "Tập hồ sơ mỏng quá". Anh Dỏng cười : "Cậu có đau gì đâu mà ghi cho nhiều."

Thế là hết !

Về sau tôi còn hỏi anh Dỏng : "Có thật đã tìm thấy vi trùng Hansen không ?"

Anh nói : "Cậu Trí vô phương rồi, không còn hy vọng gì nữa,... mà.... không có vi trùng ai cho vào nhà thương Quy Hòa."

Sau lễ đình chiến, tôi xong công tác sở, trở về Đà Lạt, nhận được điện tín nhà báo tin Hàn Mặc Tử qua đời hôm lễ.

Đánh điện về sở, tùy phái mang về nhà cho tôi đã chiều tối. Tôi không thấy xúc động bằng khi tôi đến thăm Anh ở Gành Ráng.

Hình ảnh tàn tạ của Anh, từ đó tôi mang theo mãi, nên không thể hình dung những gì khác hơn được nữa.

Ngôi trên chiếc ghế đã bên bờ hồ, tôi cố nhớ lại một bài thơ nào của Anh, một cử chỉ, một lời nói của Anh cho thấy mối quan hệ giữa Anh và gia đình, nồng nàn nhạt tẻ ra sao, thật khó mà tìm thấy rõ rệt.

Có điều không quên được một lần, Anh biểu lộ hớn hở vui mừng một cách bộc trực, khi mẹ và tôi đồng ý giao tiền cho Anh in tập Gái quê thì Anh ôm tôi hôn thắm thiết rồi đi tìm hôn mẹ tôi náo động cả lên.

Làm sao mà giận Anh được. Đối với Anh thơ là trên hết. Đêm nay Đà Lạt tháng chạp, trời quang sáng, nhưng sương xuống nhiều trăng mờ đi, tôi nhớ đến bài thơ Đà Lạt trăng mờ:

Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu...

Quả thật, Anh đã đi vào cõi thiêng liêng, không còn bận bịu gì ở trần thế.

Theo tôi, thì Anh đã chết lâu từ ngày ngoài bờ biển và đã vào cõi thiêng liêng của riêng Anh rồi.

Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi,


Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng.


*


Anh Trí mất đi, để lại cho tôi một bổn phận thiêng liêng quá lớn đối với bạn bè thân hữu, mà ân tình, ân nghĩa còn ràng buộc lâu dài.

Nhân viết lại hồi ký này, tôi ước ao gởi đến những thân hữu của Anh còn sống hay đã quá vãng, đã từng giúp đỡ viếng thăm Anh tôi, trong nhiều năm bệnh hoạn nghèo nàn, đặc biệt là những người bạn cũ con đường Khải Định Quy Nhơn một tấc lòng tri ân trong tập sách này cho đến đời sau mãi mãi.

Nhớ đến em Phạm Hành, tôi chân thành kính cẩn tạ ơn chú Phạm Thân tôi đã để em ở lại bên cạnh Anh Trí, thay thế tôi mấy năm làm việc xa nhà.

Tôi xin dành trọn một chương sau đây để ghi nhớ công ơn và tình nghĩa của em Hành tôi.


*

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com