Phần 1: Dẫn nhập
Một trong những bộ phim hay nhất được sản xuất ở Hàn Quốc (HQ) trong thời kỳ điện ảnh bùng nổ vào những năm 1990 và 2000 là Raybang 라이방, một bộ phim không thể ra đời nếu không có Chiến Tranh Việt Nam (CTVN) và trên thực tế là một sự liên hệ không trực tiếp tới vai trò của HQ trong cuộc chiến tranh đó cũng như những vấn đề xoay quanh sự can dự của HQ. Tiêu đề bộ phim, Raybang, là phiên âm tiếng Hàn của nhãn hiệu kính râm Ray-Bans của Mỹ, nổi tiếng ở HQ trong thời kỳ CTVN, khi nhiều binh lính gửi về nhà những bức ảnh họ đeo loại kính râm đó, được mua tại các trạm đổi quân (PX) của quân đội Mỹ2. Trong bộ phim, ba tài xế taxi tìm cách thoát khỏi cuộc sống khó khăn về kinh tế và cuối cùng quyết định cướp một phụ nữ giàu có trong khu phố của họ. Với tiền cướp được, họ định thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ và bế tắc bằng cách làm lại từ đầu ở Việt Nam (VN). Một tài xế có chú là người thu gom rác thải của quân đội và từng tham chiến ở VN. Người chú này ăn mặc như thể là ông ta vẫn tại ngũ, khuyên bảo đứa cháu và liên hệ với những cựu chiến binh khác. Chưa bao giờ kết hôn và làm một công việc ít được kính trọng về mặt xã hội, ông ta là hình tượng đặc trưng của các cựu chiến binh trong xã hội HQ đương thời: cô lập, những đóng góp của họ cho sự tăng trưởng kinh tế của HQ không được công nhận và chỉ được chấp nhận nếu họ tách bản thân khỏi những trải nghiệm của chiến tranh (là điều mà ông chú không thể và sẽ không làm). Raybang là sự thừa nhận nhẹ nhàng đối với những nỗ lực và hy sinh không được thừa nhận của đa số những người đàn ông và phụ nữ chăm chỉ thầm lặng, những người chưa bao giờ có ý định làm điều tốt. Trong bộ phim, kính râm của họ đóng vai trò phân chia ranh giới giữa thế giới bên ngoài và những yêu cầu của nó với không gian nội tại tràn ngập những giấc mơ của họ. Các yếu tố khác trong bộ phim, như sự bất mãn của một trong số những người đàn ông, một cựu sinh viên, của truyền thông quốc nội cũng như các phân tích về kinh tế và chính trị của ông chú, không chỉ cho thấy mức độ hiểu biết cao về vị trí của họ trong xã hội HQ mà còn củng cố sự quan trọng của hình ảnh đa giá trị của VN trong trí tưởng tưởng của dân chúng HQ.
Câu chuyện về sự can dự của HQ trong CTVN cũng cho thấy sự hiểu biết về sự tương tác giữa những quan điểm lịch sử chuyên nghiệp với quan điểm của công chúng hay nghiệp dư. Tôi sẽ chứng minh rằng quan điểm lịch sử chuyên nghiệp chính thống về sự can dự của HQ đã vay mượn mọi thứ từ quan điểm công chúng/nghiệp dư, vốn đã dự báo chúng. Với ngoại lệ là một số rất nhỏ các nhà sử học chuyên nghiệp (những người mới chỉ bắt đầu công bố về chủ đề này gần đây), nhận thức chuyên nghiệp, chính thống và công chúng về CTVN hầu như là trùng khớp, ngay cả khi tín hiệu được truyền tải trong chúng có thể khác biệt. Nhận thức lịch sử về sự tham gia của HQ dường như thoát khỏi định nghĩa về đặc trưng của sử học HQ thời hậu chiến tranh Triều Tiên: trên phương diện lịch sử thành văn, nhà sử học (bất kể là chuyên nghiệp hay nghiệp dư) đều sẽ cố gắng quy trách nhiệm cá nhân (sự kiện) nhằm đạt được một đánh giá đạo đức đối với một phần cụ thể của lịch sử. Bất chấp tầm quan trọng của CTVN trong lịch sử HQ, điều đó không xảy ra giống như đối với lịch sử của chiến tranh ở HQ. Trái lại, chính trị chịu đựng (sự khai thác cho các mục tiêu chính trị đối với nỗi đau khổ của con người) đã được xác định và ngăn chặn tranh luận, tôi sẽ bổ sung. Đây là hiện tượng mà tôi muốn tìm hiểu và đưa ra những cái nhìn sâu sắc về sự kết nối của sử học công chúng, cá nhân, chuyên nghiệp cũng như chính thống.
Bài báo này chủ yếu đề cập đến những trải nghiệm của binh lính HQ đã tham chiến ở VN. Do vậy, nó chỉ đề cập tới trải nghiệm của nam giới. Mặc dù vậy, CTVN là cuộc chiến mà phụ nữ cũng tham gia nhiều như nam giới. Hơn nữa, không chỉ có người VN chiến đấu mà cả phụ nữ HQ cũng tham gia, như một bộ phim mới đây (Sunny 님은 먼 곳에) đã cho thấy3. Phụ nữ HQ đến VN với những lý do cũng giống như nam giới: thoát khỏi đói nghèo, thỏa mãn khát khao thay đổi và phiêu lưu, nắm bắt cơ hội thành công và giàu có, hay bởi vì bị công việc bắt buộc. Những phụ nữ HQ đến VN là nghệ sĩ giải trí, ca sĩ, vũ công, nhạc công, gái bán hoa, nữ doanh nhân và thương nhân. May mắn là chủ đề này không hoàn toàn bị bỏ qua4, có nhiều nghiên cứu vẫn đang được hoàn thành về chủ đề này nhằm bác bỏ huyền thoại cho rằng phụ nữ ở VN, giống như huyền thoại cho rằng họ trong tình thế xung đột, là những người quan sát thụ động hoặc nạn nhân. Tuy vậy, bài báo này không làm việc đó.
Cần phải nói là sự bóc lột và đau khổ của một nhóm nhất định cho các mục tiêu chính trị là một hiện tượng phổ biến. Không chỉ trong lịch sử Triều Tiên (sự đau khổ của phụ nữ giải trí đã trở thành mối quan tâm quốc gia), mà đặc biệt là trong bối cảnh hậu thuộc thực dân. Các ví dụ về sự phản ứng của người Mỹ đối với CTVN, người Hà Lan phủ nhận những sự kinh hoàng của thời kỳ thực dân ở Indonesia hay người Nhật không thừa nhận các tội ác trong Thế Chiến II – một danh sách đầy đủ các trường hợp sẽ dài bất tận. Những trường hợp đó được thống nhất bằng một cơ chế ưu tiên (và công khai thừa nhận) sự đau khổ của thủ phạm và phụ thuộc vào sự chấp thuận (câm lặng) của công chúng.
Việc các đơn vị quân đội của HQ tham gia CTVN là sự kiện hầu như đã bị quên lãng trong trí nhớ của dân chúng HQ, ngay cả khi lợi ích tài chính của cái được gọi là wŏllam p'abyŏng 越 南派兵 (việc gửi quân đến VN) đã giúp kinh tế HQ tăng trưởng đáng kể vào cuối những năm 1960 và 1970. Sự miễn cưỡng của truyền thông đại chúng trong việc phản ánh về sự can dự của HQ trong CTVN – ước tính là tổng cộng khoảng 350.000 lính HQ được triển khai trong thời gian mười năm, chưa bao giờ có ít hơn 50.000 lính trong suốt thời kỳ đó – gắn liền với một tập hợp phức tạp những nhận thức về VN, CTVN và vai trò của HQ trong cuộc chiến đó. Sự miễn cưỡng này cũng được thể hiện trong sự thiếu vắng các nghiên cứu lịch sử đối với phần quan trọng của lịch sử HQ thời hậu chiến5. Trong những thập kỷ gần đây, HQ đã xem xét VN với sự quan tâm mới, coi đó là một quốc gia để đầu tư, để thu hút lao động được đào tạo với giá rẻ và nhập khẩu cô dâu. VN cũng được coi là một sự phản chiếu, cả với tương lai một quốc gia thống nhất của HQ cũng như hoài niệm về một quốc gia đang phát triển. Tuy vậy, sự xuất hiện của các hồi ký lịch sử về VN – một quốc gia có 350.000 lính HQ tham chiến và hơn 5.000 đã chết – lại ít ỏi một cách đáng ngạc nhiên.
Sự kiểm duyệt nhà nước trong nghiên cứu lịch sử về CTVN chỉ giải thích một phần của hiện tượng này6. Sự ngạc nhiên tiềm tàng đối với chính quyền HQ vẫn còn rất lớn: những vụ thảm sát do lính HQ gây ra ở VN đã được biết đến. Nếu như HQ đã trải qua những cuộc thảm sát của Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Triều Tiên, chính quyền HQ sẽ cảm thấy tình thế khó xử khi họ bị chính quyền VN cáo buộc về các tội ác tương tự7. Kết quả là sự kiểm duyệt đối với các nghiên cứu học thuật xuất hiện và CTVN vẫn là một trong những chủ đề bế tắc nhất trong giới học thuật HQ8. Sự kiểm duyệt đã được dỡ bỏ hơn một thập kỷ, nhưng CTVN vẫn tiếp tục vắng mặt trong trí tưởng tưởng của dân chúng HQ. Lĩnh vực duy nhất mà trong đó CTVN và sự can dự của HQ được nhớ đến là nghệ thuật, nhất là văn học và điện ảnh, mặc dù cũng không phải là phong phú. Trong bài báo này, tôi sẽ chi tiết hóa các quan điểm văn chương và điện ảnh về sự can dự của HQ trong CTVN trên nền quan hệ đương thời giữa HQ và VN. Bối cảnh này – được tạo nên từ công nhân nhập cư, cô dâu nhập khẩu, doanh nhân và nhà đầu tư thường trú, cựu chiến binh, ngôn ngữ phổ thông và sách hướng dẫn văn hóa, cũng như người Bắc Triều Tiên đang chuyển tiếp – đặt sự vắng mặt của những hồi ức chung ở HQ về CTVN vào một khía cạnh phức tạp và thú vị, thứ bị lảng tránh nhiều hơn là được làm rõ. Khía cạnh này cũng cho thấy câu hỏi về khả năng định nghĩa nhiệm kỳ tổng thống của Park Chung-Hee's 박 정희, và của lịch sử hiện đại HQ, vẫn tiếp tục bế tắc, trong khi đồng thời lại có thể tiếp cận được. Đa số cựu chiến binh tham chiến ở VN vẫn còn sống, tuy vậy ngoài những hoạt động của họ (hiện giờ là trên web) trong các hội cựu chiến binh vốn ít được công chúng chú ý tới, họ hầu như không hiện hữu trong xã hội HQ như là một nhóm xã hội đáng chú ý.
Sự tắc nghẽn cần được tháo gỡ là vai trò của chiến tranh VN, giống như một sự gia tốc về kinh tế ở các nền kinh tế đang phát triển của Châu Á trong những năm 1960 và 1970, được thể hiện trong sự lảng tránh ở HQ về sự can dự của HQ trong cuộc chiến tranh này. Sự phong phú của văn học và điện ảnh Hoa Kỳ về CTVN tương phản sâu sắc với sự vắng mặt của chúng ở HQ9. Australia, vốn gửi chưa đến 4.500 quân đến VN, cũng tạo ra cái được gọi là văn học CTVN10. Văn học HQ đã chỉ tạo ra một số ít tiểu thuyết hay tường thuật về CTVN, mặc dù trong số những tiểu thuyết đó, The Shadow of Arms của Hwang Sok-yong là một tác phẩm bậc thầy của văn học HQ thời hậu chiến. Tương tự, điện ảnh HQ, bất chấp việc đã trải qua sự bùng bổ trong hai thập kỷ qua và bất chấp việc gắn liền với các phim có bối cảnh lịch sử, đã không sản xuất nhiều phim về CTVN. Hơn nữa, không có nhiều phim thực sự xuất sắc trong số các phim có liên quan đến CTVN và chiến tranh, không có bộ phim nào có thể so sánh với The Shadow of Arms của Hwang. Đáng chú ý là văn học Mỹ về CTVN chủ yếu đề cập đến trải nghiệm của cá nhân binh lính trong và sau chiến tranh, trong khi phần HQ thì thể hiện sự nhận thức mạnh mẽ về tình hình quốc tế rộng lớn hơn, khiến cho cá nhân binh lính tự nhận thức là "lính đánh thuê cho Hoa Kỳ"11. Sự nhận thức này tương phản với hồi ức được lựa chọn. Sự can dự của HQ trái ngược với bản thân HQ, tại đó những quan điểm tương tự hầu như vắng mặt hoàn toàn. Đây là sự xung đột giữa nhận thức về hoàn cảnh của binh lính HQ ở VN (cả bởi bản thân cũng như bởi quốc gia đã cử họ đi) và sự đóng góp quan trọng của anh ta đối với sự phát triển kinh tế và xã hội ở HQ, mặt khác là sự lãng quên mà anh ta nhận được ở HQ sau cuộc chiến tranh, đó sẽ là trung tâm của bài báo này.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com