Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

happywaydkh1

CHỨC NĂNG SINH LÝ, BIỂU HIỆN BỆNH LÝ CỦA

KHÍ, HUYẾT, TINH, TÂN, DỊCH

1. Khái niệm.

+ Khí, huyết, tinh, tân, dịch đều là cơ sở vật chất quan trọng không thiếu được trong hoạt động sống của cơ thể.

+ Tinh khí là tiên thiên; ăn uống, không khí là hậu thiên (do sự hóa sinh của lục phủ ngũ tạng) vì chịu sự chi phối của lục phủ ngũ tạng. Đồng thời cũng là cơ sở vật chất để tư dưỡng lục phủ ngũ tạng và các tổ chức duy trì hoạt động bình thường của toàn cơ thể.

1.1. Khí:

Khí là chỉ công năng sinh lý hoặc động lực, chỉ tác dụng dinh dưỡng của vật chất tinh vi. Khí có tác dụng hóa sinh huy động cố nhiếp huyết dịch, ôn dưỡng tổ chức toàn thân, nâng cao sức đề kháng cơ thể chống lại ngoại tà, duy trì hoạt động của tổ chức tạng phủ.

+ Dựa vào tác dụng sinh lý khác nhau, chia khí ra các loại sau:

- Nguyên khí, còn gọi là chính khí hay chân khí: là khi biểu hiện tập trung năng lực hoạt động sinh mệnh của cơ thể. Nói chung nguyên khí đầy đủ, người khoẻ mạnh không dễ mắc bệnh, hoặc khi mắc bệnh chỉ cần điều trị đúng mức cũng có thể nhanh chóng chiến thắng bệnh tà mà khỏi bệnh. Vì vậy, nguyên khí quyết định sức khoẻ của con người, khí của tạng phủ huy động hoạt động của cơ thể. Ví dụ: tâm khí,can khí, thận khí, phế khí...

- Trung khí: thực chất là khí của tỳ vị, tác dụng xúc tiến chức năng tiêu hóa hấp thu và duy trì vị trí bình thường của nội tạng ở trong khoang bệnh, khi trung khí bất túc chức năng trên giảm sút.

- Tôn khí: là khí của tâm phế, tác dụng huy động công năng tuần hoàn hô hấp. Tôn khí bất túc thì hô hấp và nhịp tim giảm.

- Vệ khí và doanh khí: vệ khí là phần khí đi phần ngoài mạch nhưng thông với mạch tỏa ra ở sườn, ngực, bụng và hai bên. Chức năng ôn dưỡng tạng phủ, tuần hành giữa bì phu và cơ nhục ôn dưỡng da cơ có tác dụng cố biểu chống lại mọi sự xâm phạm của ngoại tà. Doanh khí (dinh khí) có tác dụng dinh dưỡng toàn thân, sinh hóa huyết dịch phân bố tuần hành ở trong mạch. Vệ khí và doanh khí phối hợp dinh dưỡng có thể chống lại ngoại tà.

+ Lâm sàng bệnh của khí có 3 loại:

- Khí hư:

Triệu chứng khí hư nói chung là chỉ khí của ngũ tạng bất túc. Lâm sàng phần nhiều thấy khí của tỳ phế lưỡng hư; biểu hiện chính là: loạn ngôn, thiếu khí, âm thanh nhỏ nhẹ, chóng mặt, mệt mỏi, tự hãn, ăn không ngon, có thể sa nội tạng, mạch hư nhược, lưỡi nhợt bệu, rêu mỏng; điều trị dùng phép bổ khí là chủ yếu.

- Khí trệ (khí uất):

Khí cơ của tạng phủ không lưu thông, sự vận hành bị trở ngại, là xuất hiện triệu chứng của khí trệ, thường gặp phế khí trệ, tỳ vị khí trệ và can khí uất trệ. Khí trệ mức độ nhẹ thường thấy triệu chứng chung là: ngực, sườn, bụng, chướng đầy, đau; vì khí phế trệ nên đau ngực, đầy ngực, khí đoản, đàm nhiều. Tỳ vị khí trệ nên bụng chướng đầy, đau, kinh nguyệt không đều hoặc thống kinh, khí trệ ở kinh mạch nên cơ nhục tứ chi và các khớp đều đau mỏi, khi điều trị phải dùng pháp lý khí.

- Khí nghịch:

Thường theo chiều thuận từ phế khí và tỳ khí đều hạ hành (đi xuống dưới), ngược lại khí của phế vị không giáng xuống mà nghịch lên sẽ xuất hiện triệu chứng khí nghịch, ngoài ra can khí sơ tiết thăng phát thái quá cũng dẫn đến can khí nghịch lên:

Phế khí nghịch tất sinh suyễn khái.

Vị khí nghịch tất sinh ách nghịch, nôn thổ.

Can khí nghịch tất sinh huyễn vựng, thốt đảo hoặc thổ huyết.

Điều trị phải dùng pháp "giảng phế vị khí nghịch", điều trị can khí nghịch lên phải dùng pháp "chấn tiềm". Tóm lại: khí là một thành phần có vai trò rất to lớn trong hoạt động chức năng thần kinh và các loại năng lượng của hoạt động bên trong cơ thể. Nói cách khác, khí thực chất là cơ sở vật chất, khi khí hóa (chuyển hóa) cho ra năng lượng thúc đẩy, duy trì mọi hoạt động sống của cơ thể.

1.2. Huyết:

+ Huyết: là vật chất ăn uống thông qua quá trình hóa sinh của tỳ vị mà thành. Chức năng của huyết là tuần hoàn không ngừng để dinh dưỡng toàn thân, để duy trì mọi hoạt động sinh lý bình thường của cơ thể. Sở dĩ mắt có khả năng nhìn, chân có khả năng bước, tay có khả năng co duỗi... là do có sự hoạt động của các cơ quan tổ chức của toàn cơ thể (tạng phủ, cân cốt, da lông...); nếu không có sự tư dưỡng của huyết dịch thì không để duy trì chức năng sinh lý bình thường. Nếu như huyết dịch vận hành trở ngại, cơ phu không đủ huyết dịch làm cho tê mỏi, huyết dịch đến tứ chi không đủ, tay chân không nóng ấm, thậm chí liệt bại, không bước được.

Huyết và khí có quan hệ rất mật thiết với nhau, thông thường khí huyết đầy đủ, khí huyết như một âm, một dương hỗ tương tồn tại "khí vi huyết chi soái, huyết vi khí chi mẫu", nghĩa là sự vận hành của huyết phải dựa vào sức huy động của khí, khí hành tắc huyết hành, khí trệ tắc huyết ứ. Mặt khác, công năng hoạt động của một cơ quan, tổ chức lại phải nhờ vào sự tư dưỡng của huyết dịch đưa lại (huyết vi khí chi mẫu) hay huyết là cơ sở vật chất. Chứng bệnh của huyết chủ yếu biểu hiện: xuất huyết, huyết hư và huyết ứ.

+ Xuất huyết: là hỏa nhiệt tà thực bức huyết vong hành hoặc khí hư bất năng nhiếp huyết hoặc can bất tàng huyết, tỳ bất thống huyết hoặc thận âm hao tổn, hư hỏa nội sinh thương phạm mạch lạc hoặc tinh thần kích thích, tình chí uất hoá hỏa đều có thể dẫn đến xuất huyết. Vì vậy, điều trị chứng xuất huyết không chỉ đơn thuần sử dụng thuốc chỉ huyết mà phải phân tích từng nguyên nhân cụ thể để kết hợp điều trị.

- Nếu do vị hỏa mà thổ huyết phải thanh nhiệt, giáng hỏa.

- Nếu do tỳ hư mà kinh nguyệt quá nhiều hoặc rong kinh phải dùng phương pháp bổ trung ích khí.

+ Huyết hư: do mất máu quá nhiều hoặc quá trình sinh huyết kém đều có thể dẫn đến huyết hư. Lâm sàng thường biểu hiện: sắc mặt vàng nhợt, môi, lưỡi, móng tay chân không hồng nhuận, nhợt nhạt, đầu choáng, mắt hoa, tâm quý, gầy gò, mệt mỏi, vô lực, tay chân hay tê, mạch tế nhược. Điều trị phải dùng pháp bổ huyết nhưng dựa trên lý luận "khí vi huyết chi soái", vì vậy khi dùng pháp bổ huyết thường phải kết hợp với phương pháp bổ khí.

+ Huyết ứ: do nhiều nguyên nhân, có thể do ngoại nhân (chấn thương) huyết tích tụ ở tổ chức cơ quan, có thể do khí trệ huyết đính, có thể do hàn ở mạch huyết ngưng thành ứ và có thể do nhiệt thịnh bức huyết vong hành "huyết dịch ly khai mạch đạo", tích thành ứ, cũng có thể do nhiệt cực thương âm, thương huyết làm cho huyết uất thành ứ. Tùy thuộc vào vị trí của huyết ứ mà có triệu chứng khác nhau. Nếu huyết ứ ở tâm gây tâm quý, tâm thống, huyết ứ ở phế có thể khái lạc đàm huyết, đau tức ngực, huyết ở bào cung thì xung nhâm không điều hòa làm cho kinh nguyệt không điều hòa, huyết ứ ở chi thể thấy chi thể mỏi, tê bại hoặc vận động không linh hoạt...

Điều trị chứng huyết ứ phải dùng pháp khử ứ hoặc phương pháp bổ khí hoạt huyết.

1.3. Tinh:

+ Tinh là chỉ sinh tinh thực nam, nữ, là nguồn gốc của sinh mệnh.

+ Hai là chỉ chất dinh dưỡng do ăn uống chuyển hóa sinh tinh. Nghĩa là, tinh chỉ cơ sở vật chất của sự sinh trưởng và phát dục của cơ thể. Bình thường tinh của lục phủ ngũ tạng được tàng trữ ở thận, trong đó có một bộ phận được chuyển hóa thành tinh sinh thực.

Tóm lại: tinh là cơ sở của sinh mệnh, là vật chất cơ bản cấu tạo nên cơ thể và duy trì các loại hoạt động sinh mệnh của cơ thể. Tinh có quan hệ trực tiếp đến quá trình sinh trưởng, phát dục, lão hóa và tử vong của con người. Nếu như tinh khí đầy đủ thì cơ thể cường tráng, khoẻ mạnh, tinh lực đầy đủ, sức đề kháng cơ thể cao; còn tinh khí hư tổn, cơ thể suy nhược, tinh lực không đủ, phát dục chậm, già trước tuổi, sức đề kháng cơ thể giảm yếu.

1.4. Tân dịch:

Tân dịch là chỉ toàn bộ phần dịch thể và nước bình thường trong cơ thể, là một trong những vật chất chủ yếu duy trì hoạt động cơ thể sống. Nguồn gốc của tân dịch là do ăn uống dinh dưỡng thông qua sự vận hóa của tỳ, vị, sự điều tiết của phế, thận, bàng quang, tam tiêu... mà phân bố toàn thân và bài xuất ra ngoài cơ thể.

+ Người ta hay gọi tân và dịch hoặc gọi chung là tân dịch, nhưng mỗi loại đều có khu vực riêng khác nhau:

- Tân thường phân bố ở giữa da, cơ và tổ chức cơ quan có tác dụng nhuận trạch dinh dưỡng các cơ quan và tổ chức.

- Dịch thường phân bố ở khớp xương, não tủy, ngũ quan, có tác dụng lưu thông và nhuận trạch.

- Ngoài ra; mồ hôi, dịch, tụy, nước mắt, mũi, dịch vị, các tuyến nội tiết đều gọi là tân dịch.

- Tân dịch và khí huyết có quan hệ mật thiết với nhau, có thuyết cho rằng "tân huyết đồng nguyên" tân dịch hao tổn thường dẫn đến khí huyết hư nhược, nếu nôn nhiều, ỉa chảy, đại hãn (ra mồ hôi nhiều) sau đó tân dịch bị tiêu hao thường xuất hiện thở nhanh, nhịp tim nhanh, mạch vi tế, tứ chi lạnh là triệu chứng của khí huyết hao tổn.

- Sau mất máu nhiều thường thấy miệng khát, tiểu ít, đại tiện táo là triệu chứng tân dịch không đầy đủ. Trên lâm sàng, mất máu, mất tân dịch thường đi đôi với nhau. Từ lâu (thương hàn luận) đã sớm đề ra những bệnh nhân chảy máu thì không thể phát hãn mà phải dưỡng huyết để sinh tân, bảo vệ tân tức là bảo vệ huyết.

Tất cả đều chỉ tân dịch và khí huyết luôn có quan hệ mật thiết.

+ Bệnh lý của tân dịch thường do hai yếu tố: chủ yếu là hỏa nhiệt thương tân, thứ yếu là tân dịch hao tổn.

- Hỏa nhiệt thương tân phần nhiều do cảm phải lục dâm tà khí và tà khí hóa hỏa dẫn đến thương tân.

Triệu chứng chung: sốt cao, tâm phiền, nói sảng, loạn ngôn, đại khát, đại hãn, đại tiện bí kết, môi khô, lưỡi khô mất gai, mạch hồng sác hoặc trầm sác. Điều trị phải dùng thanh nhiệt tả hỏa hoặc pháp tả hạ để bảo tồn tân dịch trong bệnh ôn nhiệt. Bảo tồn tân dịch là nguyên tắc trọng yếu.

Tổn thương tân dịch cũng có thể do nhiệt ở tạng phủ quá thịnh có thể phát sốt, đại tiện táo, mắt đỏ, miệng khô mà khát, rêu lưỡi vàng khô. Lâm sàng cần phân biệt giữa hỏa nhiệt tổn thương tân dịch ở tạng phủ và trong bệnh ôn nhiệt để điều trị.

- Tân dịch hao tổn thuộc trạng thái hư gồm: phế âm hư, vị âm hư, thận âm hư làm tổn thương tân dịch.

- Hỏa nhiệt thương tân thuộc thực chứng.

Triệu chứng tân dịch hao tổn gồm: sốt cao triều nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt, ăn uống kém, miệng khô, muốn ăn nóng hoặc nặng về nửa đêm, mệt mỏi, gầy gò, lưỡi đỏ ít tân, rêu lưỡi mỏng hoặc không rêu, mạch tế sác.

Phương pháp điều trị: phải dùng "dưỡng âm nhuận táo".

1.5. Đàm (ẩm).

Đàm là sản vật chuyển hóa bệnh lý, cũng có thể là nguyên nhân của nhiều loại chứng bệnh. Khái niệm về đàm tương đối rộng, không đơn thuần là dịch đàm của đường ho (khái lạc).

Cổ nhân cho rằng: "tỳ vi sinh đàm chi nguyên, phế vi trữ đàm chi quan". Thận dương bất túc, thủy khí bất hóa nên tụ thành đàm. Bệnh lý về đảm ẩm thường ở phế nhưng cũng có ở tâm, ở cơ biểu và ở kinh lạc.

YHCT cho rằng: "tích thủy thành ẩm, ẩm ngưng thành đàm", thủy dịch đình lưu tích tụ có thể do ảnh hưởng của bệnh tà, cũng có thể do phế khí hư, khí không thông, không giáng được mà lưu tụ lại thành đàm, thành ẩm, ngoài ra tỳ không kiện vận được hoặc do ăn uống quá nhiều, thủy dịch không vận hóa bình thường, thủy thông lưu trệ ở phế.

- Đàm ở phế; khái thấu, khí suyễn, không nằm yên, ngực đầy, đau, điều trị ngoài thuốc trừ đàm còn phải tìm thuốc chữa nguyên nhân.

- Đàm ở tâm; tâm quý, tân sổ không đều, ngoài ra có thể thấy điên đảo, hôn quyết, trúng phong... bệnh thần kinh tinh thần có thể do đàm mê tâm khiếu mà dẫn đến. Điều trị phải tuyên khiếu trừ đàm.

- Đàm ở cơ biểu kinh lạc: loa lịch (lâm ba kết hạch), hạch thư (thũng lưu), giáp trạng tuyến sưng to, đàm thấp lưu trú (cốt kết hạch, kết hạch tính), điều trị phải "trừ đàm thông lạc".

1.6. Tam tiêu:

"Tam tiêu thuộc lục phủ chi nhất", bao gồm thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu.

+ Về chức năng và hình thái của tam tiêu, đại đa số các tác giả cho rằng: thượng tiêu chỉ tâm, phế, tương đương các chức năng của vùng ngực. Trung tiêu chỉ tỳ, vị, tương đương các chức năng của cơ quan vùng bụng trên. Hạ tiêu chỉ can, thận, bàng quang, đại trường, tiểu trường tương đương các chức năng của cơ quan vùng bụng dưới. Chức năng của tam tiêu:

- Thượng tiêu như "vụ", chỉ tác dụng (quản lý xuất nhập, phân bố chuyên chở) các vật chất dinh dưỡng của tâm và phế (vụ còn có ý nghĩa như xương mù).

- Trung tiêu như âu (bọt nước, trắng như sữa), chỉ tác dụng vận hóa của tỳ, vị.

- Hạ tiêu như độc (rãnh, nước), chỉ tác dụng bài tiết của bàng quang và thận.

+ Trong học thuyết "ôn bệnh" phần biện chứng tam tiêu là lấy tam tiêu làm cương lĩnh cho biện chứng luận trị và phân loại chứng hậu.

- Thượng tiêu bệnh (thời kỳ đầu của bệnh truyền nhiễm).

- Trung tiêu bệnh (thời kỳ toàn phát, khí phận chứng hậu, triệu chứng của khí phận).

- Hạ tiêu bệnh (xuất hiện triệu chứng, huyết phận chứng hậu, tác nhân gây bệnh là tà khí vào huyết phận).

Tóm lại: chức năng của tam tiêu là chỉ tổng hợp chức năng sinh lý của nhóm tạng phủ nào đó trong khoang ngực, bụng. Bệnh tật của tam tiêu có liên quan đến sự chuyển vận các chất dinh dưỡng ở tạng phủ (chú ý hệ bạch mạch, hệ thống dưỡng chấp chi phối cho các tạng phủ và cơ quan)

1.7. Tử cung:

Gọi là bào cung, bao gồm tử cung và phần phụ của nó, tác dụng chủ về kinh nguyệt và sinh sản, có liên quan mật thiết với thận và đặc biệt là hai mạch xung, nhâm. Ba bộ phận (bảo đảm cho thai sản, kinh nguyệt và sinh dục được bình thường). Thận tinh đầy đủ, mạch xung nhâm thịnh, kinh nguyệt, sinh dục bình thường. Thận tinh hư tổn, mạch xung nhâm hư, kinh nguyệt không điều hòa, thậm chí không có thai.

2. Sự liên quan ngũ tạng.

Sự liên quan ngũ tạng: giữa tạng với tạng và giữa phủ với tạng có liên quan chặt chẽ với nhau. Trên lâm sàng thường biểu hiện chủ yếu là mối quan hệ giữa tạng với tạng.

2.1. Tâm:

+ Liên quan giữa tâm và phế: tâm chủ huyết, phế chủ khí, "tâm phế tương hữu" cả hai đều làm nhiệm vụ tuần hoàn huyết dịch trong cơ thể "tâm huyết túc, tắc phế khí xung bái", phế khí thịnh vượng thì tuần hoàn bình thường, trái lại phế khí bất túc ảnh hưởng đến tuần hoàn huyết dịch, chức năng của tâm không tốt sẽ ảnh hưởng đến hô hấp.

+ Liên quan giữa tâm và thận: "Tâm cư thượng tiêu thuộc hỏa. Thận cự hạ tiêu thuộc thủy". Trong điều kiện bình thường hai tạng liên hệ hỗ căn, duy trì mối quan hệ hiệp đồng. "Tâm thận tương giao, thủy hỏa tương tế". Nếu như quan hệ đó bị phá vỡ sẽ phát bệnh lý, tâm phiền thất miên, đầu choáng tai ù, tai điếc, lưng gối đau mỏi, đó là hội chứng tâm thận bất giao".

+ Liên quan giữa tâm và can: tâm chủ huyết mạch toàn thân, can có chức năng trữ tàng điều tiết huyết dịch, hai tạng liên quan mật thiết, nếu như tâm huyết bất túc thì huyết hao can hư, huyết bất dưỡng, cân, đau cân cốt, co quắp, co giật...

+ Liên quan giữa tâm và tỳ: sự vận hoá của tỳ nhờ vào sức huy động của tâm dương và tư dưỡng của tâm huyết, còn chức năng của tâm cũng nhờ vào sự chuyển vận, vận hóa thủy cốc tinh vi của tỳ để tư dưỡng.

+ Tâm chủ tuần hoàn (vận hành) huyết dị. Tỳ có chức năng thống nhiếp huyết dịch.

Vậy nên tâm tỳ có quan hệ mật thiết, trên lâm sàng thường thấy:" hội chứng tâm tỳ lưỡng hư, hoặc tâm tỳ suy tổn".

Các triệu chứng: mất ngủ, hay quên, hồi hộp, sắc mặt vàng tối, ăn kém, đại tiện nát.

2.2. Can:

+ Can và tỳ: can khí thái vượng hoặc tỳ khí hư đều dễ xuất hiện "can mộc thừa tỳ, can vị bất hoà"; đau sườn, đau bụng, bụng trướng...

+ Can và phế: bình thường phế là tạng khắc can: khi bệnh lý thông thường can phản khắc phế.

Ví dụ: phế khí hư không thể chế can để can khí thượng nghịch (nghịch lên) làm cho phế khí túc giáng khó khăn, ngực đầy chướng khó chịu; mặt khác can hỏa quá thịnh tắc chế ước phế, xuất hiện triệu chứng: dễ giận dữ, đau ngực sườn, ho khan hoặc ho có đờm, có máu (mộc hỏa hình kim).

Can và thận: can thận có liên quan mật thiết "can thận đồng nguyên", can dựa vào thận thủy (thận âm) để tư dưỡng, thận thủy bất túc, can âm bất túc, âm hư bất năng liễm dương - can dương thượng nghịch, đau đầu choáng váng, huyết áp cao...

2.3 Tỳ:

+ Tỳ và phế: phế khí dựa vào sự vận hóa thủy cốc tinh vi của tỳ để tu dưỡng. Lâm sàng đối với bệnh phế khí hư có lúc dùng pháp điều trị: "bổ tỳ ích phế" hay "bồi thổ sinh kim".

+ Tỳ và thận: sự vận hóa của tỳ phải nhờ vào sự giúp đỡ mệnh môn hỏa của thận thủy (thổ khắc thủy), nếu tỳ hư chức năng vận hóa kém không thể chế được thủy phát bệnh, thủy phiếm loạn sinh chứng thủy thũng.

+ Phế và thận: phế chủ khí, thận chủ nạp khí. Thận có thể giúp cho sự túc giáng của phế khí tốt nếu thận dương hư bất năng nạp khí tất sinh khó thở. Lâm sàng có thể thấy hen suyễn do thận hư nên phải dùng pháp bổ thận để nạp khí.

Tóm lại:

+ Về mặt tiêu hóa và hấp thụ: vị chủ thu nạp, tỳ chủ vận hóa, tiểu trường phân biệt thanh trọc, đại trường truyền đạt tinh thô, ngoài ra còn có sự tham gia sơ tiết của can và mệnh môn hỏa của thận.

+ Về mặt hoạt động hô hấp: phế chủ về trao đổi khí của cơ thể, thận chủ nạp khí giúp đỡ cho sự thăng giáng của phế.

+ Về tuần hoàn huyết dịch: tâm chủ huyết (chức năng tuần hoàn), phế triều đi bách mạch tham gia tuần hoàn, can tàng huyết có thể điều tiết lượng huyết. Tỳ thống huyết làm cho huyết vận hành trong mạch không cho lạc đường.

+ Về mặt tạo huyết: hậu thiên cơ bản là tỳ vị, tỳ vị là nguồn gốc hóa sinh huyết dịch. Thận là tiên thiên, việc tạo huyết còn phải ôn dưỡng thận.

+ Về mặt chuyển hóa nước: tỳ chủ vận hóa thủy thấp, phế chủ thông điều thủy đạo, thận chủ bài tiết nước, tam tiêu chủ khí hóa, bàng quang chủ về trữ niệu và bài niệu.

+ Về hoạt động thần kinh: một phần chức năng của tâm, chức năng hoạt động tình chí, tư duy; bao gồm hoạt động thần kinh và tinh thần.

+ Chức năng vận động: thận chủ cốt vận động hợp đồng các động tác tinh vi, can chủ cân co duỗi khớp, tỳ chủ cơ nhục toàn thân và tứ chi.

+ Sinh dục nội tiết: quan hệ giữa các tạng can, thận và xung nhâm.

NGUYÊN NHÂN SINH BỆNH

1. Đại cương.

1.1. Khái niệm về nguyên nhân phát bệnh:

YHCT cho rằng: "chính khí tồn nội, tà bất khả can", "tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư" nghĩa là nói sở dĩ bệnh tật phát sinh chủ yếu là do chính khí hư, bệnh tà mới có thể tụ lại và phát bệnh, nếu chính khí đầy đủ, sức đề kháng cơ thể mạnh thì không dễ dàng sinh được bệnh.

1.2. Phân loại về nguyên nhân sinh bệnh:

+ Người xưa cho rằng: tất cả bệnh tật đều có nguyên nhân của nó. Từ hơn hai nghìn năm trước Công Nguyên trong "Nội kinh" đã chia nguyên nhân sinh bệnh làm hai loại lớn: "Nội nhân" và "Ngoại nhân".

+ Thời kỳ sau Công Nguyên thuyết tam nhân cho rằng:

Lục dâm sinh ra bệnh ngoại cảm gọi là "ngoại nhân", còn thất tình, lao thương, ẩm thực dẫn đến bệnh nội thương gọi là "nội nhân". Ngoài ra những nguyên nhân không nằm trong hai loại trên như kích thương, đả thương, trùng thương (rắn, rết, côn trùng đốt) gọi là "bất nội ngoại nhân". Cách phân loại này tồn tại thời gian khá dài trên lâm sàng.

Phương pháp phân loại như trên không phù hợp với biện chứng, không phù hợp với quy luật phát triển của sự vật. Cách phân loại này vô hình dung đã không chú ý đến sự biến đổi của khí hậu ngoại giới (môi trường), ngoại thương, trùng thương, lao động quá mức, tinh thần kích thích căng thẳng, ăn uống không điều hòa... đều là nhân tố ngoại lai dẫn đến bệnh; tất cả đều tương ứng với ngoại nhân, còn sự biến đổi về nhân tố tinh thần của con người và sức đề kháng của cơ thể mới là nhân tố phát sinh bệnh lý.

+ Học thuyết thường dùng của YHCT:

Là "vận chứng cứu nhân", nghĩa là thông qua biện chứng để truy chẩn, truy cứu căn nguyên, cũng là một mặt của biện chứng. Vì vậy, nguyên nhân sinh bệnh khác nhau dẫn đến diễn biến bệnh lý trong cơ thể cũng khác nhau, cho nên nắm vững quy luật dẫn đến bệnh lý khác nhau của nguyên nhân sinh bệnh và đặc điểm lâm sàng của nó có ý nghĩa quan trọng.

2. Nguyên nhân sinh bệnh.

2.1. Lục dâm:

+ Lục dâm là biểu hiện quy luật biến hóa của khí hậu bốn mùa, của tự nhiên: phong, hàn, thấp, thử, táo, hoả lúc bình thường gọi là lục khí (vẫn tồn tại có lợi cho sự sống). Khi trái thường lục khí trở thành nguyên nhân sinh bệnh gọi là lục dâm. Lục dâm gây bệnh đầu tiên vào cơ biểu hoặc miệng, mũi.

+ Lâm sàng biểu hiện: ngoại cảm, nhân tố của khí hậu và vi sinh vật cũng có vai trò trong ngoại phong. Do điều kiện lịch sử cổ nhân chưa nhận thức được vi khuẩn, vi sinh vật.

+ Đặc điểm: phát bệnh theo mùa.

- Xuân bệnh đa phần thuộc phong.

- Hạ bệnh đa phần thuộc thử.

- Thu bệnh đa phần thuộc táo.

- Trưởng hạ (giao khí của hạ thu) đa phần thuộc thấp.

- Lục dâm cũng có thể đơn độc gây nên bệnh. Ví dụ: thương phong, trúng thử... có khi phối hợp với nhau để gây bệnh. Trên lâm sàng thường thấy phong hàn thấp cũng có tác động ở chứng lý.

- Ngoài ra còn phải chú ý là trong quá trình bệnh nội thương xuất hiện một loại bệnh lý: nội phong, nội hàn, nội thấp, nội nhiệt, nội táo. Các yếu tố nội thương này kết hợp với tà khí của lục dâm dẫn đến bệnh ngoại cảm khác nhau, vì vậy biểu hiện lâm sàng của hai loại này cũng khác nhau.

2.2. Nội dung cụ thể của lục dâm:

+ Phong:

- Ngoại phong thắng di chuyển biến hóa thoạt đến thoạt đi, bệnh đột ngột dễ tổn thương đến cơ thể nhất. Bốn mùa đều có thể gây bệnh cho nên cổ nhân nói "phong vi bách bệnh chi trưởng".

- Đặc điểm của phong là:

Khởi phát đột ngột, biến hóa nhanh, bệnh không kéo dài như phong chẩn (ma chẩn) thương phong...

Triệu chứng di chuyển như phong tý chứng (đau khớp di chuyển), đau không cố định gọi là phong hành.

Phong tà thường xâm nhập vào cơ biểu phế vệ: phong tà lưu lại cơ phu tất gây tiên phong phong tà phạm phế sẽ gây triệu chứng ác phong; phát sốt, tự hãn, ngứa họng, khái thấu, mạch phù. Nếu ngoại phong đơn thuần không thể gây bệnh được trên thực tế ngoại phong thường phối hợp nguyên nhân khác.

Phong hàn nằm trong "biện chứng bệnh ôn nhiệt".

Phong nhiệt cũng nằm trong "biện chứng bệnh ôn nhiệt".

Phong thấp xâm phạm vào cơ biểu, kinh lạc thấy đầu choáng, khớp toàn thân đau mỏi, đau di chuyển, không cố định hoặc phát sinh thấp chẩn mụn ngứa. Nội phong: can phong thường do tâm, can, thận có bệnh mà dẫn đến, đặc điểm lâm sàng của can phong.

- Đa phần đột nhiên phát bệnh.

- Nhẹ: biểu hiện đầu choáng, mắt hoa, tính tình bất định; tay chân quờ quạng, tê dại, miệng méo xệch.

Nặng: đột nhiên thốt thảo, bất tỉnh nhân sự, tay chân không cử động hoặc co giật.

- Nếu như do nội phong thường thấy 3 trường hợp sau:

- Nhiệt cực sinh phong: phần nhiều thấy ở bệnh ôn nhiệt và hay ở trẻ nhỏ, do nhiệt thương tân dịch doanh huyết, công năng của tâm và can bị ảnh hưởng, có thể thấy xuất hiện kinh quyết, thần hôn loạn ngôn, liên hệ YHHĐ là chứng sốt cao co giật.

- Âm hư phong động: thường gặp can thận âm hư dẫn đến can dương thượng nghịch và can phong động; nhẹ thì đau đầu chóng mặt, nặng thì đột nhiên thốt đảo, gọi là trúng phong, thường gặp ở bệnh nhân cao huyết áp, chảy máu não...

- Huyết hư sinh phong: chủ yếu do huyết hư thận âm hư mà dẫn đến triệu chứng đầu choáng, mắt hoa, tai ù, tứ chi tê dại, thậm chí co giật, hôn mê; thường gặp ở triệu chứng thiếu máu hoặc do đường máu và can xi máu thấp (theo YHHĐ).

+ Hàn tà:

- Ngoại hàn: hàn tà gây bệnh thường vào mùa đông nhưng có thể do ôn khí hạ thấp khi thay đổi thời tiết. Đặc điểm là hàn tà dễ tổn thương dương khí, cơ thể bị hàn tà xâm phạm, dương khí ngoại vệ hao kiệt (sợ lạnh), xuất hiện ác hãn, phát sốt không có mồ hôi, mạch phù khẩn.

- Hàn tà từ biểu vào lý dễ hóa nhiệt. Nhìn chung sau khi hàn tà từ kinh thái dương chuyển vào kinh dương minh (bàng quang, tam tiêu, vị, tiểu trường) xuất hiện các triệu chứng: sốt cao, phiền khát, đại hãn đó là thực nhiệt. Đặc tính của hàn là ngưng trệ, khi hàn vào cơ thể thường lưu lại ở cơ phu, kinh lạc, cân cốt, khớp xương hoặc trong tạng phủ làm cho khí huyết không thông, huyết ứ khí trệ mà thành chứng đau, hàn tà lưu lại ở trường bị gây nôn mửa, đau bụng, tiết tả. Hàn tà thường hợp với phong tà, thấp tà để gây bệnh, biểu hiện "thường thấy".

+ Phong hàn sẽ mô tả trong chứng "ôn nhiệt".

- Trúng hàn (hàn tà trực trúng tạng phủ), mình lạnh, tay chân lạnh toát (hàn chiến), sắc trắng nhợt, khi nặng đột nhiên thất đảo, bất tỉnh nhân sự, mạch trầm tế.

- Hàn tý: hàn là lưu trệ ở kinh lạc và cân cốt gây nên các khớp xương và cơ nhục đều đau mỏi, đau cố định, gặp lạnh đau tăng, gặp nóng giảm đau.

- Nội hàn: tức là lý hàn có phần hư thực.

- Hư chứng: do âm khí thịnh ở trong cơ thể, âm thịnh sẽ sinh nội hàn, lâm sàng thấy sợ lạnh, thích nóng, tay chân không ấm, nôn khan, nôn mửa nước trong, ăn kém, tiện nát, bụng đau, ruột thắt "phúc trống trường ố", tiểu tiện trong dài, lưỡi nhợt, rêu trắng nhuận, mạch trầm trì.

- Do ăn quá nhiều thức ăn sống lạnh dẫn đến hàn trầm tích lắng đều là nội hàn, triệu chứng thường thấy là đau bụng, ăn kém, tiện bế, nặng bụng, cảm giác lạnh mà đau đớn nhiều, rêu lưỡi trắng dày và trắng nhờn, mạch trầm trì có lực đó là chứng thực hàn.

+ Thử: tà gây bệnh thường vào mùa hạ.

- Bệnh sốt mùa hạ gọi là thương thử hoặc cảm thử hoặc trong những ngày hè nắng nóng hoạt động quá lâu mà sinh bệnh gọi là trúng thử.

Đặc điểm:

- Bệnh do thử tà phần nhiều. Có triệu chứng khát nước, sốt cao, phiền táo, đa hãn.

- Thử tà gây hao khí, thương tân làm cho thân thể mệt mỏi, vô lực, miệng ráo, môi khô, tiện bế, tiểu ít.

- Bệnh thử thường kiêm thấp, mùa hè thiên khí triều thấp, mặt khác con người ngày hè thường thích ăn sống lạnh dễ tổn thương tỳ, vị mà sinh nội thấp. Bệnh do thử thường gây ngực bĩ, nôn khan hoặc buồn nôn, ăn uống không ngon.

- Bệnh do thường gặp: thương thử, trúng thử.

Thương thử (cảm thử nhẹ) phát sốt, phiền khát, hãn xuất, đau đầu, nôn khan, buồn nôn, phúc tả, khí súc, tứ chi vô lực, mạch chứng hồng mà sác.

Trúng thử: ngày nắng nhiều hoặc nhiệt độ cao làm việc quá lâu cảm thử quá nặng biểu hiện đột nhiên thốt đảo, thần chí bất thanh, sốt cao không có mồ hôi hoặc ra mồ hôi lạnh, thở thô, mặt đỏ, lưỡi hồng, môi đỏ, mạch hồng đại mà vô lực.

+ Thấp tà:

- Ngoại thấp: gây nên bệnh đa phần có quan hệ với ảnh hưởng khí hậu, hoặc mưa ẩm liên miên (âm vũ liên miên) hoặc là tiếp cận với nơi ẩm thấp kéo dài, ngâm nước, nằm hầm, sống trong đường hầm điều kiện bảo vệ không tốt, thợ lặn... tất cả yếu tố trên đều có gây chứng thấp. Ngoài ra, khi tỳ vị yếu cũng dễ dàng cảm phải ngoại thấp.

Ngoại thấp thương nhân phần nhiều từ cơ phu (biểu) mà xâm nhập vào (thông qua đường da lông), xâm phạm vào cơ, cân, mạch, khớp xương rồi đi sâu vào tạng phủ. Sau khi thấp tà đi vào cơ thể còn có thể hoá hàn hoặc hóa nhiệt, sự chuyển hóa này chủ yếu thường phụ thuộc vào trạng thái cơ thể, chức năng của tạng phủ trong cơ thể. Vấn đề này có quan hệ đến nguyên tắc điều trị và dung dược. Ví dụ: nếu gặp phải trạng thái cơ thể vốn sẵn có tỳ dương hư dễ chuyển hóa thành thấp khi gặp ngoại thấp. Trái lại, nếu gặp trạng thái cơ thể ngoài bệnh sẵn có vị nhiệt sẽ chuyển hóa thành nhiệt, hoặc khi dùng quá nhiều thuốc hàn lương trạng thái cơ thể dễ hóa hàn, trái lại dùng thái quá thuốc ôn táo trạng thái cơ thể dễ hóa nhiệt.

- Đặc điểm bệnh do thấp tà:

Thấp tà nặng: người bệnh thường nặng đầu như kéo xuống, thân thể nặng trĩu, tứ chi như vô lực, phát bệnh thường bắt đầu từ phần dưới cơ thể, người bệnh cảm thấy nặng chân không muốn bước, thậm chí có phù nề.

Thấp do âm hàn ngưng trệ kèm có thể làm trở ngại sự lưu thông khi có, khi có tắc trở đa phần bệnh nhân cảm thấy ngực bĩ, phúc quản chướng đầy đó là chứng khí trệ.

Thấp trọc: đái trắng (đục lâm trọc hạ lỵ), thấp chẩn, nổi mụn nước đều thuộc về thấp chứng.

Thấp nhiễm tứ tiếp cận liên miên gây nên một số bệnh thấp không phải dễ chữa, thường lâu ngày không khỏi.

Rêu lưỡi trắng nhuận hoặc nhờn, mạch hoãn hoặc như là đặc trưng của bệnh thấp.

- Khi thấp là thương nhân (làm tổn thương đến cơ thể) thường hợp với phong và hàn. Vì thế bệnh do thấp tà được chia theo 3 loại:

Thương thấp tà chỉ thấp tà từ biểu vào, cũng có thể gọi là biểu thấp, biểu hiện: sợ lạnh, sốt nhẹ không cao, căng đầu, nặng đầu, thân thể nặng nề, chi mỏi, ngực bĩ, miệng không khát, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch phù hoãn. Thời kỳ mở đầu thường do tiếp xúc với mưa dầm ẩm thấp.

Thấp tý - tý chứng (còn gọi là trước tý) là thấp phạm vào kinh lạc dẫn đến toàn thân đau mỏi nếu các khớp đau đớn là nặng, đau có điểm cố định, da cơ tê dại, vận động khó khăn.

Thấp nhiệt là thấp kết hợp với nhiệt nói chung thấp nhiệt thường sốt không cao, miệng khát, tự hãn, tâm phiền, ngực đầy, tiểu tiện ngắn đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch hoạt sác hoặc nhu sác.

Ví dụ: thấp nhiệt nội uẩn trong tỳ vị có thể xuất hiện hoàng đản, thấp và nhiệt tương kết ở đại trường có thể gây hạ lợi nục huyết, thấp nhiệt có thể lưu trú ở bàng quang gây đái buốt, đái dắt, đái đỏ gọi là lâm chứng, bạch đới, nếu thấp nhiệt tụ trệ ở bì phu có thể sinh mụn nhọt, nhọt bọc thấp chẩn.

- Nội thấp: thường do ăn uống không điều hòa tổn thương đến tỳ vị dẫn đến tỳ dương không đầy đủ, công năng vận hóa thất thường, từ đó sinh nội thấp tích tụ mà phát bệnh. Biểu hiện lâm sàng hoặc là tiết tả hoặc là phù thũng hoặc là đàm ẩm có thể gọi "thấp thũng, đầy đều thuộc tỳ".

+ Táo tà:

- Ngoại táo (thu táo): "Khí hậu can táo đích thu thiên" dễ sinh bệnh táo, khí hậu chuyển lạnh mà khô ráo dễ sinh chứng lương táo, táo hóa nhiệt sẽ thành chứng ôn táo.

- Đặc điểm của táo tà khi gây bệnh:

+ Táo tà dễ thương phế: phế táo sẽ ho khan không đàm hoặc long đàm có dây máu mũi, mũi họng khô, hung thống phát sốt.

+ Táo tà dễ thương âm thương tân, bệnh do táo thường biểu hiện miệng, mũi, lưỡi, môi, da khô ráo, miệnh khát thích uống, phát sốt vô hãn, đại tiện khô ráo, mạch tế sác.

- Ngoại táo được phân 2 loại: lương táo và ôn táo.

Lương táo: sợ lạnh nhiều hơn phát sốt, rêu lưỡi trắng, mạch phù.

Ôn táo: phát sốt nhiều hơn sợ lạnh, miệng khát hoặc mắt đỏ, họng đau, ho đờm có dây máu, tiểu tiện ngắn đỏ, đầu và rìa lưỡi đỏ, mạch phù sác.

- Nội táo: nguyên nhân sinh nội táo chia làm 3 loại:

Nôn mửa, phúc tả, phát hãn, xuất huyết quá nhiều.

Bệnh ôn nhiệt lâu ngày thương tân.

Điều trị thái quá thuốc phát hãn, tả hạ hoặc ôn táo.

Biểu hiện lâm sàng của nội táo là da khô, lông ráo, sắc không tươi nhuận, họng khô, môi nứt, mắt đục sáp (mục sáp) lỗ mũi cảm giác nóng, táo ở lâu trong cơ thể sinh triều nhiệt tự hãn, tâm phiền thất miên, khát uống nước ít một, đại tiện táo kết, tiểu tiện ít, lưỡi đỏ ít tân, rêu trắng, mạch tế sác hoặc sáp.

+ Hoả tà: hỏa là nhiệt là chỉ mức độ khác nhau.

Nhiệt cực có thể hóa hỏa, ngược lại phong, hàn, thấp, táo, thử vào lý cũng có thể hóa hỏa. Ngoài ra khi công năng tạng phủ không điều hòa, tinh thần bị kích thích cũng có thể hóa hỏa, vì thế cũng có thể nói chứng hỏa phần nhiều thuộc lý chứng. Lâm sàng phân hai loại: thực hỏa và hư hỏa.

- Thực hỏa: đa phần do ngoại cảm phải tà khí lục dâm phát sinh hóa hỏa, đặc điểm lâm sàng là khởi bệnh đột ngột, biến hóa nhanh, mạnh.

Hỏa nhiệt nhiều sẽ thương tân, hỏa chứng thường sốt cao, sợ nóng ráo, khát uống nước mát, đa hãn, mặt đỏ, mắt đỏ, miệng khô, môi ráo, đại tiện táo kết, tiểu tiện ngắn, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.

Hoả thường có biểu hiện viêm ở trên: triệu chứng bên ngoài của nó tùy thuộc ở vào tạng phủ khác nhau mà biểu hiện khác nhau (tạng phủ bị bệnh). Ví dụ: tâm hỏa thượng viêm thường thấy tâm phiền mất ngủ, thần chí bất thanh, loạn ngôn, điên đảo (ý bệnh), nói lảm nhảm. Vị hỏa thượng viêm răng, lợi sưng đau, thổ huyết, nục huyết, đau đầu. Cảm hỏa thượng viêm dễ cáu gắt, nổi giận, mắt đỏ sưng đau, đau đầu.

Hỏa là loại tà khí dương nhiệt có thể bức huyết vong hành nên thường xuất huyết, nôn ra máu, đổ máu cam, bì phu ban chẩn. Hoả chứng thường chất lưỡi ráng đỏ, rêu lưỡi vàng táo, ít tân mạch hồng sác.

- Hư hỏa: đa phần do nguyên nhân nội thương mà dẫn đến. Ví dụ: tạng phủ (phế thận can) chức năng mất điều hòa, khí huyết không thông hoặc bệnh lâu mất điều dưỡng, tinh khí hao tổn hoặc tình chí bất thư đều dẫn đến phát sinh hư hoả.

Đặc điểm lâm sàng của hư hỏa: khởi bệnh từ từ, quá trình bệnh kéo dài, triệu chứng chủ yếu là triều nhiệt tự hãn, ngũ tâm phiền nhiệt, gò má đỏ về buổi chiều "hậu ngọ quyền hồng", hư phiền thất tinh, lưỡi đỏ, ít tân, rêu lưỡi xanh lục hoặc không rêu, mạch tế sác.

3. Lệ khí.

YHCT xếp những bệnh truyền nhiễm cấp tính, bệnh có tính chất truyền nhiễm rất mạnh vào "dịch lệ". Dịch lệ là do một số lệ khí của lục dâm khác nhau hoặc dịch tà gây nên, tóm lại nó là phạm vi của bệnh truyền nhiễm gọi chung là dịch lệ. Biểu hiện lâm sàng thường giống nhau (thuyết "Ngũ dịch chi chí tỷ tương nhiễm dễ, vô vấn đại tiểu, bệnh trạng tương dĩ".

Theo YHCT bệnh dịch là mối nguy hại rất lớn đối với nhân loại thường phát sinh truyền lan có liên quan đến sự biến đổi khí hậu trái thường, điều kiện vệ sinh kém, kích thương, trùng độc thương.

4. Thất tình.

Gồm: hỉ, nộ, ưu, tư, bi, khung, kinh, 7 loại hoạt động tình chí gọi là thất tình.

Bản chất hoạt động của thất tình là một loại phản ứng sinh lý của cơ thể con người đối với hoàn cảnh ngoại giới. Trong điều kiện bình thường, cơ thể không có bệnh nhưng tình chí hoạt động quá độ, công năng của tạng phủ mất điều hòa, kinh lạc trở tắc, khí huyết bất hòa sẽ có thể dẫn đến âm dương thất điều trong cơ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát sinh bệnh tật.

Tình chí bất hòa không chỉ dẫn đến chính khí hư nhược dễ cảm phải ngoại tà, đồng thời bản thân sự biến hóa của bảy tình chí cũng có thể dẫn đến bệnh lý. Bảy tình chí chủ yếu dẫn đến chứng bệnh về khí của ngũ tạng, ví dụ: lo lắng quá độ hại tỳ tất sẽ xuất hiện vị quản chướng đau, ăn uống kém, chức năng tỳ vị mất điều hòa. Còn như nộ quá hại can, can khí uất kết hoặc can khí thượng nghịch có thể hóa hỏa tất sẽ có đau đầu, đầu choáng, mắt đỏ, tai ù, tai điếc, tính tình cáu gắt, đắng mồm, sườn đau...

5. Ăn uống không điều hòa.

Ăn tục, uống tục (bạo ăn, bạo uống) quá nhiều thức ăn sống lạnh, quá nhiều mỡ, chất béo (nhiễm trùng ngộ độc thức ăn theo YHHĐ):

+ Ăn quá nhiều thức ăn sống lạnh tổn thương dương khí của tỳ vị gây nên tỳ vị hư hàn, nôn mửa ra nước trong, phúc thống thiện án, thích ấm nóng, khát không muốn uống, tiêu hóa bất lương, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trì...

+ Ăn quá nhiều thức ăn có vị ngọt béo, sinh nhiệt, sinh thấp, sinh đàm tạo thành nhiều loại nguyên nhân gây bệnh ở tạng phủ.

+ Ăn uống quá lượng sẽ thành thực trệ nôn khan hoặc nôn mửa, ợ chua, phúc thống, cự án, đại tiện nhiều, nhầy mũi, mạch hoạt.

6. Lao thương.

Lao thương quá độ dẫn đến khí huyết bất hòa, sức đề kháng cơ thể (chính khí) giảm sút, tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên nhân phát sinh một số bệnh.

Tóm lại: YHCT cho rằng bệnh tật phát sinh có nguyên nhân của nó và mỗi loại bệnh cũng đều có nguyên nhân để nó tồn tại: " Bách bệnh chi sinh, các hữu sở nhân". Nhiều diến biến phức tạp, nhiều phương pháp đều qui về tam nhân: lục dâm (ngoại nhân), thất tình và trạng thái hoạt động tinh thần (nội nhân) và bất nội ngoại nhân.

Những nguyên nhân dẫn đến thất tình chính là kích thích hoạt động tinh thần của môi trường, xã hội mang lại mà kích tích tinh thần lại chính là yếu tố ngoại nhân. Mặt khác lao thương quá độ dẫn đến bệnh lý (là nguyên nhân bệnh) ứng với ngoại nhân nhưng hậu qủa tạo nên chính khí có thể giảm sút, rối loạn chức năng tạng phủ (tạng phủ lại nội nhân). Bệnh tật là "quá trình tà chính tương tranh" cũng là phản ứng của chính khí với tà khí. Trong điều kiện trị một mặt phải chú ý ngoại tà, mặt khác phải coi trọng chính khí. "Tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư", "Chính khí tồn nội, tà bất khả can". Khi biện chứng luận trị thầy thuốc phải coi trọng điều kiện sinh hoạt, hoạt động tinh thần và điều kiện ẩm thực (ăn uống) của người bệnh để nâng cao chính khí, nâng cao sức đề kháng cơ thể thể hiện quan điểm "Chính thịnh tà khứ, tà khứ chính phục", theo luận trị YHCT phương Đông thì cả hai mặt đều phải coi trọng.

Chương III

BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ HỘI CHỨNG TẠNG PHỦ

THƯỜNG GẶP TRÊN LÂM SÀNG

BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ VỀ BỆNH ÔN NHIỆT

(BỆNH TRUYỀN NHIỄM)

1. Đại cương.

1.1. Khái niệm:

Bệnh ôn nhiệt thường chỉ những triệu chứng ngoại cảm do lục dâm và lệ khí gây nên, bệnh cấp tính mà triệu chứng chủ yếu mở đầu là sốt cao. Trong biện chứng bệnh ôn nhiệt của YHCT bao gồm 3 loại lớn; có lục kinh, tam tiêu và vệ, khí, doanh, huyết. Đặc điểm lâm sàng cũng có giai đoạn kéo dài, cũng có giai đoạn ngắn. Trong phần này chủ yếu là trình bày biện chứng về vệ, khí, doanh, huyết. Đương nhiên cũng có phần liên quan hoặc tương tự với lục kinh và tam tiêu, sẽ giới thiệu thêm.

1.2. Biện chứng luận trị:

Vệ, khí, doanh, huyết là một bộ phận cấu tạo nên cơ thể, vì vậy sau khi cơ thể cảm nhiễm chứng ôn nhiệt sẽ làm thay đổi chức năng của vệ, khí, doanh, huyết. Sự ảnh hưởng thường theo qui luật nhất định, qui luật của 4 giai đoạn hay 4 thời kỳ; nông, sâu, nặng, nhẹ thoái lui. Mọi nguyên tắc điều trị bệnh ôn nhiệt đều phải dựa theo 4 thời kỳ phát bệnh. Trước hết biện chứng luận trị phải chú ý một số đặc điểm:

+ Phân biệt vị trí phát bệnh: phần vệ của bệnh ôn nhiệt tương ứng với biểu chứng của bát cương, còn phần khí, doanh, huyết tương ứng với lý chứng của chẩn đoán bát cương. Bệnh tà ở phần khí thường có triệu chứng phế, tỳ, đại trường, vị và đởm. Bệnh tà ở phần doanh thường có triệu chứng của tâm và can. Bệnh tà ở phần huyết thường có triệu chứng của tâm, can và thận.

+ Đặc trưng của các giai đoạn:

- Triệu chứng đặc trưng của vệ khí: phát sốt, sợ rét, đau đầu, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù hoặc phù sác.

- Triệu chứng đặc trưng của phần khí: sốt cao, không sợ lạnh, vã mồ hôi (phát hãn), miệng khát, thích uống, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hồng sác hoặc trầm thực.

- Triệu chứng đặc trưng của phần doanh: phát sốt, càng giữa đêm sốt càng cao, phiền táo, thần chí không minh mẫn, mê sảng, loạn ngôn, miệng không khát, có thể thấy xuất huyết mờ ở dưới da, lưỡi ráng đỏ, rêu ít hoặc không có rêu, mạch tế sác.

- Triệu chứng đặc trưng ở phần huyết: cũng như triệu chứng của doanh phận thần chí bất thanh (bán hôn mê), táo quá phát cuồng, xuất huyết rõ, nặng có thể thấy nôn ra máu, đái máu hoặc đại tiện có máu, chất lưỡi ráng đỏ hoặc tía mà khô, không có rêu, mạch trầm tế sác.

1.3. Quy luật chuyển biến của bệnh:

Nhìn chung quy luật chuyển biến là vệ, khí, doanh, huyết theo tuần tự nông vào sâu, nhưng có khi bệnh phát triển không theo quy luật chung đó: tà khí vào thẳng phần khí hoặc doanh huyết không qua phần vệ và cũng có thể cả vệ khí doanh huyết cùng phát bệnh hoặc không thấy triệu chứng của vệ của khí mà phát bệnh đã thấy triệu chứng của doanh và huyết. Sở dĩ có những quy luật trái thường là do tương quan giữa tính chất của tà khí và tính phản ứng của trạng thái cơ thể người bệnh khác nhau, tính chất nặng nhẹ, tiên lượng bệnh phụ thuộc nhiều vào sức đề kháng (chính khí), yếu tố nội nhân của cơ thể.

1.4. Xác định phương pháp trị liệu:

Bệnh ở phần vệ giải biểu, phần khí phải thanh khí, bệnh ở phần doanh phải thanh doanh tiết nhiệt, bệnh ở phần huyết phải lương huyết giải độc.

2. Nội dung biện chứng luận trị của bốn giai đoạn.

2.1. Bệnh ở phần vệ:

Giai đoạn khởi phát thường phát sốt, sợ rét, đau đầu, đau mình, chi thể, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù. Vì phát bệnh theo mùa nên tính chất của bệnh tà và đề kháng cơ thể khác nhau, nên lâm sàng có những điểm khác nhau.

+ Biểu chứng phong ôn: sốt nhiều, rét ít, không sợ rét nhưng có ho khái thấu, chảy nước mũi hoặc tắc ngạt mũi, miệng hơi khát, đầu và rìa lưỡi hơi hồng, mạch phù sác. Thường gặp ở hai mùa đông, xuân do ngoại tà là phong ôn xâm nhập phế vị, ôn tà thuộc nhiệt nên phát sốt nặng, rìa lưỡi và đầu lưỡi đỏ, mạch sác. Nhiệt tà thương tân nên miệng khát tương đương biểu nhiệt của biện chứng bát cương.

- Pháp trị: tân lương giải biểu thường dùng ngân kiều tán gia giảm, nếu sợ lạnh dùng liều thấp kinh giới, đạm đậu xị, nếu sốt cao tăng liều kim ngân hoa, liên kiều. Nếu miệng khát gia thiên hoa phấn, khái thấu gia hạnh nhân hoặc thay bài "tang cúc ẩm", nếu khái huyết gia bạch mao căn, sơn chi tử, tây thảo căn, bỏ kinh giới, đậu xị; nếu đau họng hầu, đau sưng trước tai thì thêm huyền sâm, bản lam căn, tức ngực, chướng bụng thì thêm hoắc hương, uất kim; nếu xuất huyết ngoài da, sốt tăng bỏ kinh giới, đạm đậu xị, bạc hà thêm đan bì, sinh địa, đại thanh diệp.

- Chỉ định điều trị: sốt truyền nhiễm, cảm mạo, viêm kết mạc cấp, viêm amiđan cấp, viêm phế quản cấp tính, quai bị (viêm tuyến nước bọt), viêm não, màng não cấp tính thời kỳ đầu (biểu hiện phong ôn biểu chứng).

+ Biểu chứng thử ôn:

- Triệu chứng: có triệu chứng đặc trưng của phần vệ, mình nặng, tức thượng vị , không có mồ hôi hoặc ít mồ hôi, rêu lưỡi trắng nhờn, chất lưỡi hồng nhợt, mạch nhu sác. Đa phần bệnh phát sinh vào mùa hạ vì ngày nắng hạ thường bị thương thử (cảm nắng) lại bị nhiễm lạnh hoặc ngâm nước lạnh thành chứng hàn thử thấp. Hàn uất ở cơ biểu tất sẽ sợ lạnh vô hãn, thử là hoả tà, vì vậy phát sốt, mạch sác, thử làm tổn thương tân dịch, vì vậy mà chất lưỡi hồng, thử nhiều kiêm thấp nên toàn thân tân quản nặng nề, đau tức, mạch nhu.

+ Phương pháp điều trị: giải biểu thanh thử thường dùng "hương nhu ẩm". - Chỉ định: các bệnh truyền nhiễm, cảm mạo, viêm não thời kỳ đầu.

+ Ôn thấp biểu chứng (biểu chứng ôn thấp):

- Triệu chứng: có triệu chứng đặc trưng bệnh ở vệ khí, đầu nặng, đầu choáng, chi thể nặng nề, các khớp đau mỏi, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch nhu hoãn, bệnh thường phát vào tiết tính thủy do thấp nhiệt tà xâm phạm phần biểu mà phát bệnh, đặc tính của thấp là nê trệ nên có triệu chứng trên.

- Phương pháp điều trị: giải biểu hoà thấp thường dùng "tam nhân thang" gia phong lan. Thường được chỉ định ở giai đoạn đầu của ruột cảm phải hàn tà, viêm gan truyền nhiễm, viêm đường tiết niệu, cảm sốt truyền nhiễm và cảm mạo.

+ Biểu chứng thu táo:

- Triệu chứng đặc trưng: miệng khô, ho khan, họng mũi khô, rêu lưỡi trắng mỏng mà khô, mạch phù mà tế. Thường bệnh phát vào mùa thu do táo tà xâm phạm vào phế vệ, táo tà đặc biệt dễ làm tổn thương phế, tổn thương tân dịch (phế thuộc táo kim). Triệu chứng ho khan, hầu, họng, mũi khô, trong thu táo thường sợ lạnh nhiều, mạch phù mà khẩn gọi là lương táo, nếu sốt cao, miệng khát, mạch phù mà sác là ôn táo.

- Phương pháp điều trị: phải ôn táo kèm theo tán hàn giải biểu, tuyên phế nhuận táo thường dùng tang hạnh thang. Lương táo, ôn táo khi truyền vào vệ khí đều chuyển thành nhiệt táo, điều trị phải thanh phế nhuận táo thường dùng "thanh táo cứu phế thang". Thường được dùng trong thời kỳ đầu bệnh truyền nhiễm, cảm mạo, bạch hầu, ma tý tiểu nhi...

+ Biểu chứng phong hàn: tương đương với biểu hàn trong chẩn đoán bát cương cũng chính là hội chứng thái dương trong biện chứng lục kinh, thường phát bệnh vào mùa hè (mùa đông) do tà khí phong hàn phạm vào phần vệ.

- Phương pháp điều trị: khi điều trị phải dùng tân ôn giải biểu. Chứng biểu thực hàn phải dùng bài thuốc "ma hoàng thang" hoặc bài kinh phòng giải biểu thang. Nếu biểu chứng hư hàn phải dùng bài thuốc quế chi thang điều hoà vệ biểu.

- Chỉ định trong các bệnh: cảm sốt truyền nhiễm, cảm mạo và các triệu chứng biểu phong hàn đều có thể dùng được 5 nhóm bệnh trên về lâm sàng thường gặp nhiều hơn là biểu chứng phong ôn; rêu lưỡi từ trắng chuyển thành vàng là chỉ tiêu chính đánh giá bệnh từ biểu chuyển vào phần lý. Biểu chứng thử ôn nếu không kết hợp với hàn tà bệnh biến nhanh, quá trình bệnh ở phần vệ rất ngắn. Sau đó ít gặp hơn là phong ôn, thấp ôn thu táo, quá trình chuyển biến chậm là biểu chứng phong hàn.

2.2. Bệnh ở phần khí:

Bệnh ở phần khí là giai đoạn thứ hai của bệnh ôn nhiệt, triệu chứng đặc trưng là: phát sốt tương đối cao, không sợ lạnh, miệng khát, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác. Bệnh tà xâm phạm vào phần khí, tà khí thịnh còn chính khí cũng thịnh, khí hữu dư thành hoả vì vậy phần khí nóng. Ngoài ra, ôn thấp từ phần vệ chuyển vào phần khí đều biến thành chứng nhiệt ở khí phận. Trên lâm sàng có thể không phân biệt riêng lẻ phong, hàn, lương, táo...thường gặp các hội chứng sau:

+ Khí phận nhiệt thịnh (nhiệt ở phần khí):

- Triệu chứng đặc trưng là: sốt rất cao, khát nhiều, vã mồ hôi, mạch hồng đại, rêu lưỡi vàng mà khô đỏ, có thể có co giật, nói mê sảng, do khí phận nhiệt thịnh, vì vậy có sốt cao, mặt đỏ. Lý nhiệt hại tân bức tân dịch nên vã mồ hôi (đại hàn), sốt rất cao kết hợp với đại hãn làm tổn thương tân dịch nên sinh khát nước nhiều, nhiệt vào tâm thần nên nói loạn ngôn, mê sảng, co giật, đó là nhiệt cực sinh phong.

- Phương pháp điều trị: phải thanh nhiệt sinh tân, thường dùng bạch hổ thang, nếu có tức ngực, nặng mình mẩy, khát không uống nhiều, rêu lưỡi nhờn là có thấp trọc kèm theo phải trọng dụng các vị thuốc phương hương hóa thấp như phong lan, hoắc hương, có nói sảng phải gia thêm liên kiều, mạch đông, trúc diệp, nếu co giật phải thêm địa long, câu đằng, nếu nhiệt tà quá thịnh, vã mồ hôi nhiều, khát nhiều, mạch hồng đại, vô lực là nhiệt làm tổn thương tân khí phải thêm thuốc ích khí sinh tân tây dương sâm hoặc dùng "vương thị thanh thử ích khí thang"

+ Đàm nhiệt tụ phế (đàm nhiệt trở phế):

- Triệu chứng đặc trưng có bệnh ở phần khí: ho tức ngực, nhiều đờm, màu rêu vàng dính, khí suyễn, mạch hoạt sác. Do nhiệt tà thương phế thiêu đốt tân dịch mà thành đàm vàng, đàm nhiệt trở phế, phế không tuyên giáng được nên suyễn ho đau ngực.

- Phương pháp điều trị: thanh phế tiết nhiệt, hoá đàm bình suyễn thường dùng ma hạch thạch cam thảo, tham gia ngưu bàng tử, đông qua tử, liên kiều, hoàng cầm, nếu miệng khát thêm lô căn, thiên hoa phấn, nếu tiện bế bụng chướng gia thêm đại hoàng, qua lâu nhân (dùng trong viêm phế quản cấp tính phế viêm).

+ Vị trướng thực nhiệt (nhiệt ở vị trướng):

- Triệu chứng chính là sốt cao hoặc sốt về chiều, đại tiện táo hoặc vàng lỏng, bụng dưới trướng đầy, đau bụng cự án, phiền táo loạn ngôn, tay chân nhiều mồ hôi, lưỡi đỏ, rêu vàng khô hoặc lá gai lưỡi xám đen, mạch trầm xác hữu lực. Do tà nhiệt vào lý đình trệ ở đại trường nên trướng vị tích nhiệt, lý nhiệt thịnh thương tân, tân dịch hao tổn gây sốt cao hoặc sốt về chiều, tay chân nhiều mồ hôi, lưỡi đỏ, rêu vàng khô hoặc gai lưỡi xám đen, nhiệt động tâm thần nên loạn ngôn, táo kết ở trướng nên phần bụng dưới trướng đầy, bụng đau cự án hoặc đại tiện táo kết hoặc lỏng vàng.

- Phương pháp điều trị: tả hạ tiết nhiệt thường dùng bài thuốc "đại thừa khí thang", nếu bụng trướng đau nhiều thêm liều hậu phác, chỉ thực. Nếu đại tiện táo kết tăng liều đại hoàng, mang tiêu. Nếu miệng khô, lưỡi khô thêm sinh đại, mạch môn, nên dùng một hoặc hai thang sau khi đại tiện cải thiện tốt tùy theo mà phối hợp phương thuốc cho phù hợp. Bài thuốc thường dùng trong bệnh truyền nhiễm, viêm não thời kỳ toàn phát.

+ Khí phận thấp ôn (lý nhiệt kiêm thấp)

- Triệu chứng chủ yếu là bệnh ở khí phận, mình nặng, ngực tức, bụng trướng đầy, khát mà không muốn uống, tinh thần mệt mỏi, tai ù, tiểu tiện ngắn sác, đại tiện bất thường, lưỡi đỏ, rêu vàng trắng nhưng dầy nhờn, mạch huyền hoãn có thể kèm theo phúc tả hoặc xuất hiện vàng da, phát ban trắng đỏ, hoặc thần hôn loạn ngôn (nói sảng). Do thấp nhiệt trở trệ ở khí phận, nổi mụn trắng có nước ở trên da giống như hạt vừng, do thấp nhiệt nội uẩn, hàn xuất không hết mà sinh ra đa số xuất hiện ở cổ, trán, mặt và bụng, ngực, mụn mọng nước, căng, sáng bóng là thuận, khô dính xám là nghịch, thần hôn loạn ngôn mà lưỡi đỏ, rêu vàng trắng, dầy nhờn là thấp nhiệt kiêm đàm tụ che lấp tâm khiếu khác với nhiệt nhập tâm bào mà sinh hôn mê.

- Phương pháp điều trị: phải thanh khí hóa thấp thường dùng bài thuốc "cam lộ tiêu độc ẩm", nếu như có sốt cao, miệng khát, phiền nhiều có thể thêm thạch cao, tri mẫu, nếu sốt không cao, miệng không khát là thấp nhiều, nhiệt ít thêm phong lan. Nếu có hoàng đản thêm nhân trần, kê cốt thảo, điền có hoàng, nếu lỵ tật phải dùng bài cát cầm liên thang, nếu thần hôn loạn ngôn phải dùng xương bồ uất kim thang (thạch xương bồ, uất kim, chế sơn chi, liên kiều, cúc hoa, hoạt thạch, đan bì, đạm trúc diệp, ngưu bàng tử, trúc lịch, nước gừng sống, ngọc khu đan) để thanh nhiệt hóa thấp, giáng đàm khai khiếu.

Quá trình bệnh thấp ôn tương đối dài, bệnh tình phức tạp, đàm nhiều thấp là âm tà, tính nó dính trệ dễ tổn thương đến dương khí khi điều trị không nên dùng thuốc quá hàm lượng hoặc dùng thuốc hư nhờn nhiều. Trường vị có hàn đều có thể ngưng thành lịch hay gặp trong bệnh viêm gan truyền nhiễm hoặc lỵ cấp tính.

+ Khí vệ đồng bệnh:

- Triệu chứng: đặc trưng của phần vệ là toàn thân đau mỏi, lạnh và sợ lạnh. Sở dĩ gọi biểu lý đồng bệnh vì biểu tà chưa được giải hết lại tiếp tục chuyển vào phần lý. Đông y cho rằng "hữu thất phân ác hàn (ố hàn) thì hữu nhất phân biểu chứng" nghĩa là ý nghĩa quan trọng của chẩn đoán biểu chứng là sợ lạnh.

- Phương pháp điều trị: khi khí vệ đồng bệnh dùng pháp thanh khí giải biểu. Ví dụ: bệnh thân cảm nhiễm biểu hiện lâm sàng có biểu nhiệt và lý nhiệt, có thể dùng hợp phương bạch hổ thang và ngân kiều tán, nếu như bệnh nhân có triệu chứng biểu hàn và lý nhiệt có thể dùng bài thuốc sài cát giải cơ thang (sài hồ, cát căn, khương hoạt, bạch chỉ, hoàng cầm, bạch thược, cát cánh, cam thảo, thạch cao, sinh khương, đại táo), các phương pháp trên đều là biểu lý song giải.

+ Bán biểu, bán lý:

- Triệu chứng: chính là hàn nhiệt vãng lai, ngực sườn đầy tức, nôn khan, chán ăn, tâm phiền, miệng đắng, họng khô, mắt hoa, rêu lưỡi trắng, mạch huyền, chủ yếu bệnh tà xâm phạm đởm kinh, tà khí và chính khí giao tranh ở giữa biểu và lý. Bệnh thiếu dương cũng được mô tả trong biện chứng lục kinh.

- Phương pháp điều trị: phải dùng phép hoà giải, thường dùng bài thuốc tiểu sài hồ thang (sài hồ, hoàng cầm, chế bán hạ, sinh khương, cam thảo), nếu miệng khát bỏ bán hạ gia thêm thiên hoa phấn, trúc nhự, nếu hàn nhiều gia thêm quế chi, nhiệt nhiều gia thêm hoàng liên, nếu kèm theo đại tiện, bế bụng, trướng đau phải gia thêm đại sài hồ thang.

Liên hệ y học hiện đại: các bệnh truyền nhiễm, viêm đường mật, ngược tật (sốt rét, sốt miền ngược) đều có thể chỉ định được bằng phương thuốc trên, nếu ngược tật gia thêm thảo quả, thường sơn.

2.3. Bệnh ở phần doanh:

Thường do bệnh từ phần khí hoặc phần vệ chuyển vào, nhưng cũng có khi ngay từ đầu đã có triệu chứng của phần doanh, tà khí vào thẳng phần doanh, vì vậy không thấy triệu chứng của vệ và khí. Có thể nhiệt truyền thẳng vào khí, doanh phận vào tâm và can nên xuất hiện sớm triệu chứng nhập tâm bào và nhiệt động can phong.

+ Bệnh ở doanh phận: sốt cao về đêm, không khát nhiều, tâm thần mê sảng, loạn ngôn hoặc xuất hiện ban chẩn lờ mờ, lưỡi ráng đỏ, không rêu, mạch tế sác. Do nhiệt tà vào phần doanh và âm doanh bị tổn thương vì thế nên phát sốt cao về đêm, lưỡi ráng đỏ, không có rêu, mạch tế sác. Nhiệt trưng âm doanh thăng lên, vì vậy nên không khát nhiều. Nhiệt nhập tâm thần nên phiền táo không yên hoặc loạn ngôn, nhiệt nhập mạch lạc nên ban chẩn lờ mờ.

- Phương pháp điều trị: thanh doanh tiết nhiệt thường dùng bài thuốc thanh doanh thang. Chỉ định dùng trong viêm não, viêm não màng não và các bệnh truyền nhiễm có triệu chứng ở phần doanh.

+ Doanh vệ đồng bệnh (doanh nhiệt kèm theo biểu chứng): bệnh doanh phần kèm theo đau đầu, đau mình, sợ lạnh gọi là vệ doanh đồng bệnh, khi điều trị dùng thanh doanh tiết nhiệt kết hợp với tân lương giải biểu. Ví dụ: dùng bài thuốc thanh doanh thang và ngân kiều tán kết hợp.

+ Khí doanh đồng bệnh: bệnh có triệu chứng của phần doanh kèm theo có triệu chứng của phần khí có rêu lưỡi trắng vàng, chất lưỡi ráng là doanh khí đồng bệnh. Khi điều trị phải thanh khí lương doanh có thể dùng bài thuốc bạch hổ thang cộng thanh doanh thang gia giảm.

+ Nhiệt nhập tâm bào:

- Triệu chứng chính: rối loạn ý thức ở mức độ khác nhau, nói khó, phản ứng chậm, có ảo thính, ảo giác, thần hôn loạn ngôn, nếu nặng thì hôn mê, đại tiểu tiện không tự chủ, chất lưỡi ráng, mạch hoạt tế sác, có thể có bệnh nhân co giật. Do nhiệt nhập tâm bào gây bế trở tâm khiếu gọi là "bế chứng".

- Phương pháp điều trị: thanh doanh tiết nhiệt, thanh tâm khai khiếu, thường dùng thanh doanh thang gia thêm tử tuyết đan hoặc dùng an cung ngưu hoàng hoặc dùng chỉ ngọc đan, nếu có co giật thì thêm địa long, câu đằng...Ba bài thuốc an cung ngưu hoàng hoàn, tử tuyết đan, chỉ ngọc đan đều có tác dụng thanh tâm khai khiếu. Nếu xếp theo thứ tự về tác dụng thanh tâm thì ngưu hoàng hoàn > tử tuyết đan > chỉ ngọc đan, ngược lại về tác dụng khai khiếu thì chỉ ngọc đan > ngưu hoàng hoàn và tử tuyết đan. Ngoài ra an cung ngưu hoàng hoàn còn có tác dụng hóa đàm giải độc, tử tuyết đan chấn kinh tức phong nhưng thuốc này thường là hiếm (nói chung bất lợi), còn trong thực tế thuốc thanh nhiệt đều có thể gia thêm xương bồ là thuốc khai khiếu để thay thế và kết hợp châm cứu phối hợp.

- Chỉ định trong các chứng: viêm não, viêm màng não, thiếu máu, nhiễm trùng, ngộ độc thức ăn, trúng thử và các biểu hiện chứng nhiệt nhập tâm bào.

+ Nhiệt động can phong (nhiệt cực sinh phong):

- Triệu chứng: sốt cao, vật vã không yên, co giật hoặc tứ chi co quắp, cổ cứng, lưỡi lệch, lưỡi rụt, mạch huyền sác, chất lưỡi đỏ (khí phận) hoặc ráng (doanh phận), có 50% bệnh nhân hôn mê, các triệu chứng trên cũng có thể biểu hiện ở doanh huyết và khí phận nhưng huyết phận và doanh phận thường gặp nhiều hơn.

- Phương pháp điều trị là: thanh nhiệt tức phong, thường dùng các thuốc điều trị doanh phận, khí phận, huyết phận nhưng gia thêm các vị thuốc có tác dụng tức phong thanh nhiệt: địa long, câu đằng, bạch cúc hoa, bạch thược, đó là các thuốc chỉ kinh tán. Chỉ định trong viêm não, viêm màng não và các loại bệnh truyền nhiễm ở giai đoạn toàn phát.

2.4. Bệnh thuộc huyết phận:

Bệnh ôn nhiệt khi có triệu chứng huyết phận là bệnh nguy do bệnh tà còn mạnh là chính khí đã hư suy.

+ Bệnh phần huyết (nhiệt ở phần huyết): sốt cao, xuất huyết (nôn ra máu, đái ra máu, chảy máu cam, đại tiện ra máu), dưới da có nhiều ban điểm màu đen tím, mê sảng, vật vã, loạn ngôn hoặc co giật, chất lưỡi ráng tím, không rêu, mạch tế sác, do nhiệt bức huyết vong hành, nhiệt cực sinh phong (co giật), huyết nhiệt tích thịnh (sốt cao).

- Phương pháp điều trị: lương huyết thanh nhiệt giải độc, thường dùng bài thuốc tê giác địa hoàng thang (tê giác hiếm có thể dùng nước mài của sừng trâu từ 1 - 2 lượng để thay thế), nếu xuất huyết nhiều thêm hạn liên thảo, tiên cước thảo, nếu nổi ban mầu tím đen thêm huyền sâm, thanh đại diệp, nếu lưỡi ráng đỏ xanh tía, tức ngực, bụng đau (cự án) trằn trọc không yên là huyết nhiệt có ứ, thường dùng phương pháp trên gia thêm thuốc hoạt huyết khư ứ: đào nhân, đan sâm. Ban và chẩn đều là những nốt xuất huyết màu hồng trên mặt da. Ban, chẩn hồng nhuận, nổi rõ rồi biến mất dần đi là thuận, nếu tím xám xung quanh nhanh chóng có vòng tròn kín là nghịch. Ban chẩn tím xám đen, ấn căng da không biến mất, lưỡi ráng đỏ là tiêu chuẩn đánh giá bệnh tà vào huyết phận.

- Chỉ định dùng: thương hàn tổn thương ruột, viêm phế, thiếu máu do nhiễm độc và các loại xuất huyết, bệnh biểu hiện tác nhân gây bệnh vào huyết phận đều có thể dùng phương thuốc trên.

+ Biểu lý nhiệt độc (nhiệt độc nội thịnh):

- Triệu chứng chính: sốt cao, đau đầu kịch liệt, nhìn không rõ, toàn thân đau mỏi dữ dội, khó thở, trằn trọc không yên, thần chí bất thanh hoặc co giật, xuất huyết nhiều, nôn ra máu, đái, ỉa ra máu hoặc đổ máu cam, ngoài da xuất hiện các nốt xuất huyết màu tím đen, lưỡi ráng đỏ, rêu lưỡi vàng có gai dày, mạch hồng đại, sác hoặc trầm tế mà sác, đa phần là do ôn dịch nhiệt độc lưu lại ở biểu lý, bệnh có cả ở vệ khí doanh huyết.

- Phương pháp điều trị: thanh giải khí huyết nhiệt độc ở biểu và lý, thường dùng bài thuốc ôn bại độc ẩm. Nếu bệnh nhân có biểu hiện mạch trầm tế càng nhiều thì nhiệt độc nội uẩn càng sâu phải dùng thuốc liều cao. Điều trị cả huyết phận và khí phận. Nếu biểu hiện sốt cao, miệng khát, phát ban hoặc chảy máu mũi, lưỡi ráng, rêu vàng, mạch sác hoặc tế sác, điều trị phải tham khảo thêm "ngọc nữ tiễn" gia giảm bỏ ngưu tất, thục địa gia thêm lượng nhỏ sinh địa, huyền sâm. Chỉ định trong bại huyết, viêm não và các bệnh truyền nhiễm giai đoạn toàn phát nặng.

3. Triệu chứng tổn thương âm, tổn thương dương của bệnh ôn nhiệt.

Bệnh ôn nhiệt: thường dễ tổn thương âm dịch, nhẹ thì thương tân, nặng thì thương âm, thậm chí vong âm nên khi điều trị phải chú ý bảo vệ tư dưỡng âm dịch. Y học cổ truyền cho rằng: "tồn đắc nhất phân âm dịch, tiễn hữu nhất phân sinh cơ". Phương pháp bảo vệ tân dịch nói chung "vệ phận bất tuyên quá hãn, phận khí (vị trường thực nhiệt) tuyên cấp hạ", nếu không biểu hiện thấp nhiều thì không được dùng các thuốc khô táo hoặc ôn táo.

+ Nếu tổn thương tân dịch thường ở phần vệ và khí: biểu hiện mồm khô, miệng khát, rêu lưỡi khô, mạch sác có thể thấy triệu chứng sốt cao, mất nước.

Điều trị phải dùng đối pháp lập phương hay đối chứng trị liệu, trong phương thuốc phải có: lô căn, thiên hoa phấn để sinh tân khi sốt lui mà miệng vẫn khô, lưỡi vẫn táo, ăn kém, ho khan phải dùng bài thuốc ích vị thang (sa sâm, mạch trong, sinh đại, ngọc trúc và nước đường) hoặc bài sa sâm đông thang.

+ Tổn thương dịch thể: đa phần bệnh ở cuối thời kỳ toàn phát, bệnh ở phần huyết, người bệnh gầy gò, mệt mỏi, mình nóng, mặt đỏ, lòng bàn tay, bàn chân càng nóng, miệng khô, lưỡi ráo, môi se, nứt nẻ, họng đau, tai ù, đau lưng, mỏi gối, chân phù nề không muốn bước. Chất lưỡi đỏ nóng và khó vận động, lưỡi khô, mạch tế sác vô lực là triệu chứng của chân âm bị tổn thương. Một số nữa bệnh nhân có nhịp tim nhanh (tâm quí, loạn nhịp), khi nhiều mồ hôi lạnh, mạch kết lại (triệu chứng ở mạch tâm hư tổn), có thêm viêm cơ tim, tay chân co quắp, lưỡi rụt là âm hư long động (hay để lại di chứng gần như viêm não, màng não).

- Phương pháp điều trị: phải tư âm thường dùng bài thuốc phục mạch thang gia giảm. Nếu tân hư và âm hư phong động phải dùng tam giác phục mạch thang. Nếu như đêm sốt, sáng lạnh, ăn được mà vẫn gầy gò là tà còn lưu ở phần âm, phải dùng bài thuốc thanh doanh miết giáp thang để tư âm thanh nhiệt.

- Triệu chứng của vong âm: do chân âm bị tổn thương mà nhiệt tà vẫn chưa hết hoặc "ngộ hãn, ngộ hạ" (ra nhiều mồ hôi ở dưới) làm cho âm dịch tiêu hao (mất nước điện giải), mình nóng vã mồ hôi, mồ hôi mặn không dính, mặt đỏ, mồm khô, khát nước, có thể chảy máu chân răng, chất lưỡi ráng đỏ và khô rụt, mạch hư sác vô lực, đa phần gặp ở thời kỳ cuối của các bệnh truyền nhiễm nặng. Phải dùng ngay bài thuốc phục mạch thang gia giảm, gia cát sâm, long cốt, mẫu lệ, đồng tiện (ngũ tuế dĩ hạ tiểu đồng tích trung đoạn niệu), giữ bãi nước tiểu trẻ em 5 tuổi có tác dụng tư âm giáng hỏa, lương huyết tán ứ. Ngoài ra còn phải phối hợp với các loại thuốc: tư âm ích khí, liễn hãn cố thoát.

- Triệu chứng của vong dương: có thể gặp khi bệnh ở khí phận hoặc ở doanh huyết, do nhiệt độc vào sâu (tà khí thịnh, chính khí hư suy). Bệnh nhân sốt cao, "đột nhiên đại hãn lâm li" mồ hôi ra liên tục không ngừng, mồ hôi lạnh như dầu nhạt mà nhờn dính, tay chân lạnh, thân thể lạnh, hơi thở yếu, lưỡi nhợt, rêu trắng nhuận, mạch vi muốn tuyệt. Như vậy là dương khí đột nhiên biến mất, tính mạng nguy kịch.

- Phương pháp điều trị: phải dùng pháp hồi dương cứu nghịch, bổ khí cố thoát, thường dùng bài thuốc tứ nghịch thang gia cát lâm sâm, hoàng kỳ, long cốt, mẫu lệ, ngũ vị tử và phối hợp với châm cứu trị liệu. Ngoài ra do bệnh ôn nhiệt làm thương âm thương dương gây nên tạng phủ hư nhược, mất điều hoà chức năng tạng phủ, nên sau khi khỏi bệnh đa phần bệnh nhân có trạng thái hư nhược, có thể có đàm trở thanh khiếu, tắc trệ kinh lạc dẫn đến mê man bất tỉnh, tiếp xúc khó khăn, tai ù, tai điếc, hoặc di chứng rối loạn đại tiểu tiện.

Vì vậy, điều trị giai đoạn sau phải kết hợp biện chứng tạng phủ chặt chẽ để kết hợp dùng thuốc bổ ích khí huyết, âm dương của tạng phủ hoặc phải hóa đàm khai khiếu, thông lạc kết hợp hoặc phải phối hợp châm cứu trị liệu.

Tóm lại: bốn điểm trọng yếu về lý luận biện chứng luận trị của bệnh ôn nhiệt là vệ, khí, doanh, huyết và phương pháp điều trị theo bốn giai đoạn phát triển phát triển của bệnh.

1. Tâm và tiểu trường.

+ Chức năng chủ yếu của tâm:

Tâm chủ huyết mạch và chủ về thần chí vì thế phản ứng bệnh lý trên lâm sàng thường cũng biểu hiện chủ yếu ở hai mặt "thần chí và huyết mạch".

+ Trên lâm sàng triệu chứng huyết mạch thường là: tâm dương hư, tâm âm hư và tâm huyết ứ trệ... biểu hiện triệu chứng của thần chí là: đam mê tâm khẩu và đàm hoả nội bế...

+ Triệu chứng thường thấy ở tiểu trường là: "tâm đa nhiệt vụ tiểu trường": dẫn đến nhiệt nhập tâm bào thuộc phạm vị bệnh "ôn nhiệt" (sẽ mô tả ở phần sau).

1.1. Tâm dương bất túc:

+ Bao gồm: tâm khí hư, tâm dương hư, tâm dương hư thoát đều có triệu chứng chủ yếu là: hồi hộp, đoản khí (khi gắng sức tăng lên), tự hãn, lưỡi nhợt, rêu trắng.

- Thiên về tâm khí hư: kèm theo gầy gò vô lực, sắc mặt trắng nhợt hay thở dài (hỷ xuất trướng khí) lưỡi mềm, bệu, mạch hư.

- Thiên về tâm dương hư: kèm theo tứ chi lạnh, vùng tim đầy tức, đau, mạch tế nhược hoặc kết đại.

- Tâm dương hư thoái: kèm theo ra mồ hôi nhiều, tứ chi quyết lạnh, miệng môi xanh tím, thở yếu, thậm chí hôn mê, mạch vị muốn tuyệt (ảnh hưởng đến thần chí)

- Phương pháp điều trị: tâm khí hư phải bổ tâm khí, an thần, có thể dùng bổ khí: tứ quân tử thang gia toan táo nhân, viễn chí, ngũ vị tử.

- Tâm dương hư phải thông tâm dương, dùng qua lâu giới bạch quế chi thang.

(Qua lâu giới bạch tửu thang, qua lâu giới bạch bán hạ thang, qua lâu giới bạch quế chi thang chỉ thực)

Qua lâu thực Qua lâu thực Chỉ thực

Giới bạch Giới bạch Hậu phác

Rượu trắng Bán hạ chế Quế chi

Rượu trắng Qua lâu Giới bạch

1.2. Tâm âm bất túc (thực chất là tâm nhiệt):

Trên lâm sàng thường có hai hội chứng:

+ Hội chứng tâm nhiệt (hội chứng nhiễm trùng):

- Nói lảm nhảm.

- Tâm phiền trằn trọc khó ngủ, ít ngủ.

- Mặt đỏ, mắt đỏ, khát nước.

- Mũi chảy máu cam.

- Tiểu tiện vàng đỏ.

- Lưỡi đỏ, mạch sác.

Phương pháp điều trị: thanh tâm lợi niệu; hoàng liên, mộc thông, sa tiền tử (bài thuốc được dùng trong các chứng tâm thần; ảo giác, ảo thính, hoang tưởng).

+ Tâm hư:

- Hồi hôp, lo sợ, hay quên.

- Ngủ không say, hay mê, sợ hãi, mê vui vẻ.

- Di mộng tinh, đau vùng trước tim.

- Tự đổ mồ hôi, từ hãn hoặc ra mồ hôi trộm (đạo hãn).

- Chất lưỡi nhợt nhạt.

- Mạch tế nhược.

Điều trị: ôn tâm dương; nhục quế, hắc phụ tử, phá cố chỉ...

1.3. Hội chứng tiểu trường:

+ Hư hàn:

- Đau bụng dưới.

- Thích xoa bóp.

- Tiểu tiện trong dài.

- Phân trắng.

- Mạch tế nhược.

- Rêu lưỡi trắng mỏng.

+ Thực nhiệt:

- Đau bụng dưới, đầy bụng.

- Tiểu tiện thường đỏ.

- Hay đau tinh hoàn.

- Rêu lưỡi vàng, chất đỏ.

- Mạch hoạt sác.

Trên thực tế lâm sàng ít thấy hội chứng tiểu trường riêng mà thường nằm trong hội chứng tỳ vị hư hàn.

2. Phế và đại tràng.

Chức năng sinh lý của phế là chủ khí, chủ hóa giáng, khi biến đổi bệnh lý phần nhiều là bệnh hệ thống hô hấp.

+ Biểu hiện chứng thực hàn gồm:

- Đàm trọc trở phế.

- Phế hàn khái thấu (ho do lạnh).

+ Biểu hiện chứng thực nhiệt có:

- Phế nhiệt khái thấu.

+ Các triệu chứng phế hư gồm có:

- Phế khí hư.

- Phế âm hư.

- Phế tỳ lưỡng hư.

- Phế thận lưỡng hư.

+ Bệnh đại trường thường thấy là đại trường thấp nhiệt.

2.1. Đàm trọc trở phế (đàm ẩm phạm phế):

+ Triệu chứng chủ yếu:

- Khái thấu khí suyễn.

- Trong họng có đàm.

- Đàm dính mà nhiều.

- Ngực sườn đầy tức.

- Đau không nằm ngửa được.

Rêu lưỡi trơn nhớt, mạch hoạt, nếu kèm theo hàn có triệu chứng phế hàn và kèm theo nhiệt có triệu chứng phế nhiệt.

- Đàm trọc trở phế, phế khí không thông, xuất hiện khí suyễn, đàm dính đặc và nhiều. Ngực sườn đau tức không nằm ngửa được.

- Rêu lưỡi trơn nhớt, mạch hoạt là chứng hậu của đàm kiêm hàn, đàm lỏng mà nhiều bọt, lưỡi nhợt, rêu nhờn, mạch hoạt hoãn, nếu kèm theo nhiệt thì có đàm nhiều, đặc, vàng có phát sốt, lưỡi đỏ, rêu vàng mạch hoạt sác.

- Phương pháp điều trị: tả phế trục đàm.

- Thường dùng bài thuốc: đình lịch đại táo tả phế thang hoặc bài thuốc tam tử bình suyễn thang gia giảm, ngoài ra còn căn cứ vào triệu chứng có kiêm hàn hay kiêm nhiệt mà gia giảm.

+ Liên hệ với Y học hiện đại hay gặp trong:

- Khí phế thũng.

- Viêm phế quản thể hen mãn tính.

- Viêm màng phổi do lao.

- Có tràn dịch màng phổi là đàm trọc trở phế.

Giãn phế quản cũng thuộc đàm trọc trở phế có thể dùng đình lịch đại táo tả phế thang gia thêm tang bạch bì, bách bộ, bách cập, qua lâu, tử uyển...

2.2. Phế hàn khái suyễn:

+ Triệu chứng: ho kịch liệt, khó thở, đờm dính trắng nhiều hoặc đờm lỏng khó khạc; trường hợp nặng thì ho tức ngực, khó nằm yên hoặc kèm theo phát sốt, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch khẩn hoặc phù khẩn. Do phế có hàn tà hoặc hàn đàm, phế khí bất năng tiềm giáng làm cho khái thấu đa đàm; trường hợp nặng hơn thì đau ngực, khó thở, không nằm ngửa được, do hàn tà tất sẽ kèm theo phát sốt, sợ rét, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch khẩn đó là hình mạch và lưỡi của hàn chứng.

- Phương pháp điều trị: ôn phế trừ hàn, trục đàm dùng bài thuốc tiểu thanh long thang gia vị bài thuốc còn được dùng trong các bệnh theo YHHĐ, bao gồm: viêm phế quản cấp mãn tính, viêm phế quản thể hen, hen phế quản. Do hàn tà dùng tiểu thanh long thang, nếu do phế khí thũng mà đàm nhiều nội trở (chủ yếu là đàm nhiều) phải dùng thuốc linh quế truật thảo thang gia giảm. Nếu khó thở phải dùng bài thuốc tiểu thanh long thang hoặc bài thuốc tam ảo thang gia địa long, bán hạ để trừ đàm định suyễn.

2.3. Phế nhiệt khái suyễn:

+ Triệu chứng:

- Ho, thở gấp.

- Đờm vàng, đặc dính.

- Hoặc đàm ho có máu.

- Khí vị tanh, đau họng, đau ngực, sợ lạnh, phát sốt, lưỡi đỏ, rêu vàng nhờn, mạch sác hoặc hoạt sác.

+ Biện chứng bệnh lý: phế nhiệt khái thấu là phế có thực nhiệt, đàm nhiệt quánh làm phế khí không tuyên thông gây khái suyễn (ho khó thở). Nếu đàm nhiệt hở tắc mạch phế không thông thấy ngực đầy tức, hoặc nhiệt thịnh huyết ứ có thể nôn ra máu, thường sợ lạnh phát sốt, lưỡi đỏ, rêu vàng nhờn, mạch sác hoặc hoạt sác là chứng thực nhiệt.

- Phương pháp điều trị: thanh phế hóa đàm, chỉ khái bình suyễn dùng bài thuốc ma thạch cam thang. Có thể dùng thêm thuốc trừ đàm bài nùng (tiêu mủ).

Ví dụ: triết bối mẫu, chế xuyên sơn giáp, tạo giác thích, bồ công anh, ngư tinh thảo...

Liên hệ với YHHĐ: viêm phế quản cấp và mãn tính, bài thuốc còn được chỉ định hen phế quản cấp và triệu chứng phế nhiệt. Dùng bài ma hạnh thạch cam thang gia giảm. Nếu như lưỡi hồng, rêu vàng mà khô, thân nhiệt tăng về chiều là phế nhiệt thương tâm, phải dùng bài tả bạch tán gia giảm, nếu khó thở gia ma hoàng, khổ hạnh nhân; ho nhiều gia triết bối mẫu, qua lâu. Trong thời kỳ đầu của phế viêm thuộc chứng phế nhiệt cơ thể dùng ma hạnh thạch cam thang hợp với bài thuốc phượng vĩ kinh thang thêm ngũ tinh thảo nếu giãn phế quản là thuộc chứng phế nhiệt gia thêm bách bộ bạch cập.

1.4. Phế khí hư:

+ Triệu chứng:

- Khái thấu khí đoản nặng, khó thở.

- Đàm nhiều xanh lỏng, mệt mỏi, nói nhỏ yếu.

- Sợ lạnh, tự hãn, sắc mặt trắng sáng.

- Lưỡi nhợt mềm, bệu mạch hư hoặc nhược nếu kèm theo đau ngực, hai bên lưỡi có ban điểm ứ huyết là khí hư huyết ứ.

- Phế khí hư: khí bất túc làm ho khí đoản, âm thanh nhỏ nhẹ, yếu, khí hư tất sinh đàm, đàm nhiều trong lỏng. Phế khí bất túc bì mao sơ hở mà có sợ lạnh, tự hãn, chất lưỡi nhợt mềm, bệu, mạch nhược là triệu chứng của hư, sắc mặt trắng sáng là phế khí bất túc.

- Phương pháp điều trị: ích phế trừ đàm thường dùng các thuốc: hoàng kỳ, ngũ vị tử, bán hạ, quất hồng, đẳng sâm, tử uyển, hải nhũ thạch, trích thảo... nếu phế khí hư kèm theo huyết ứ phải dùng thêm thuốc hoạt huyết tiêu ứ như tam lăng, nga truật. Nếu trong đàm có máu gia thêm bách thảo sương hoặc huyết dư cháy để chỉ huyết.

Liên hệ với YHHĐ: phế khí hư hay gặp trong viêm phế quản mãn tính, lao phổi, khí phế thũng nếu bệnh nhân hen phế quản phải dùng thêm thuốc bổ khí, kiện tỳ, ích phế, bổ thận.

1.5. Phế âm hư (âm hư phế táo):

+ Triệu chứng:

- Khái thấu vô đàm hoặc ít (ho khan không có đàm).

- Đàm ít mà dính, có khi có máu.

- Triều nhiệt, đạo hãn, tự hãn.

- Thủ túc tâm nhiệt (lòng bàn tay, lòng bàn chân nóng).

- Gò má đỏ, mất ngủ, miệng khô, họng ráo.

- Nói nhỏ, yếu, lưỡi mềm bệu, chất hồng.

- Rêu ít, mạch tế sác.

- Phế âm hư: tân dịch không đầy đủ dẫn đến khái thấu vô đàm hoặc đàm ít mà dính. Tân dịch không đủ để nhuận dưỡng mạch phế, nên khi ho làm cho đàm có máu, âm hư sinh nội nhiệt; nên triều nhiệt thủ túc tâm nhiệt, miệng khô, họng ráo, âm hư thủy bất chế hoả, nội hoả long động bức tân dịch tiết ra ngoài mà sinh tự hãn. Tâm thần không yên mà sinh mất ngủ, lưỡi mềm hồng, ít rêu, mạch tế sác. Âm hư kèm theo gò má đỏ là triệu chứng thường thấy ở phế âm hư.

- Phương pháp điều trị: tư âm dưỡng phế.

- Bài thuốc: bạch hợp cổ kim thang gia giảm. Nếu giãn phế quản phải dùng thêm; bách bộ, bách hợp, bạch cập, ngũ vị tử, hải nhũ thạch, chỉ sác...

1.6. Phế tỳ lưỡng hư, phế thận lưỡng hư:

+ Phế tỳ lưỡng hư (tỳ phế khí hư).

Thuộc về khí hư:

- Ho lâu ngày.

- Đàm nhiều xanh lỏng.

- Sắc mặt xanh nhợt, mệt mỏi, gầy gò, vô lực.

- Ăn uống kém.

- Bụng chướng, đại tiện lỏng, nát, lưỡi mềm mỏng, sắc nhợt, rêu trắng, mạch tế hư đại.

+ Phế thận lưỡng hư:

Phần nhiều thuộc âm hư:

- Khái thấu đàm thiểu (ít).

- Vận động thì khí đoản "động tắc khí đoản".

- Mặt trắng, gò má đỏ.

- Triều nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt.

- Gầy gò, mất ngủ, tự hãn, khô miệng.

- Đau lưng, di tinh.

- Lưỡi hồng, rêu ít, mạch tế sác.

Phế tỳ, thận phế đều có tác dụng tương sinh tương hỗ, một tạng bị hư suy sẽ dẫn đến hai tạng đều suy nên xuất hiện chứng bệnh của hai tạng. Ví dụ: phế tỳ khí hư, ho lâu ngày, đàm nhiều, xanh lỏng, phế hư. Còn gầy gò, mệt mỏi, ăn uống kém, bụng trướng, tiện lỏng... là tỳ hư. Phế thận lưỡng hư phần nhiều thuộc âm hư. Ngoài triệu chứng phế âm hư còn có triệu chứng thận âm hư. Miệng khô, lưng đau, gối mỏi, di tinh.

- Phương pháp điều trị: bổ tỳ ích phế dùng bài thuốc hương sa lục quân gia giảm, nếu là phế thận lưỡng hư phải tư bổ phế thận phải dùng bài thuốc lục vị địa hoàng hoàn gia thêm thiên hoa phấn, mạch môn đông, sa sâm.

1.7. Đại trường thấp nhiệt:

+ Triệu chứng:

- Đau bụng, tiết tả "lỵ cấp hậu trọng".

- Đại tiện có niêm dịch, nục huyết (dây máu theo phân).

- Trĩ hậu môn.

- Rêu trắng dày, hoặc vàng nhờn, lưỡi đỏ hồng.

- Mạch trầm sác.

Thấp nhiệt tụ ở đại trường là tà chính tương tranh làm cho đau bụng tiết tả, thấp nhiệt thiên thịnh làm thương tổn đến khí huyết, trọc khí hạ hãm làm cho "lỵ cấp hậu trọng", tà thực (tà khí thực), phạm vào mạch làm cho mục huyết thấp nhiệt trệ ở huyết mạch làm cho trĩ hậu môn và tiện huyết.

- Phương pháp điều trị: thanh lợi thấp nhiệt. Nếu như thấp biểu tiết tả dùng bài thuốc "cát căn cầm liên thang" hoặc thấp biểu lỵ tật, trĩ dùng bài thuốc "bạch đầu ông thang". Nếu trĩ hoặc đại tiện ra máu có thể dùng thêm: quỉ hoa, địa du, kim ngân hoa, đông qua nhân, trắc bá diệp, kinh giới sao, chỉ sác...

Phế chủ giáng khí, phế khí đại hư phải kiện tỳ thăng đề, phế đại trường tương quan biểu lý, phế thực biểu phải tả đại tràng, có lợi cho sự hoá giáng của phế khí, còn như tâm khí bất túc mà dẫn đến tiện bế, không phải dùng tả pháp mà phải bổ phế khí để nhuận tràng.

2. Thận và bàng quang.

2.1. Thận vi tiên thiên chi bản:

Công năng sinh lý: chủ tàng tinh, chủ thủy thận nội tạng có nguyên âm, nguyên dương. Khi bệnh lý phần nhiều là hư, thường chia hai loại; thận âm hư và thận dương hư, trong đó bao gồm sinh dục, tiết niệu, thần kinh, nội tiết... còn triệu chứng hay gặp ở bàng quang là thấp nhiệt

+ Triệu chứng thận âm hư:

- Đau choáng mắt hoa.

- Tai ù, tai điếc.

- Răng đau hoặc lung lay, mất ngủ, môi miệng khô.

- Ngũ tâm phiền nhiệt, đạo hãn (ra mồ hôi trộm).

- Lưng gối đau mỏi, xương đùi, xương ống chân đau, di tinh.

- Lưỡi hồng khô hoặc rêu xanh, tiểu tiện ngắn, đỏ, miệng khô về đêm tăng, mạch sác hoặc huyền sác là "âm hư hoả vượng".

- Thận âm hư: tân dịch bất túc, tường hoả vượng thịnh nên thấy ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô (thuộc âm).

- Âm hư tắc dương vượng: đầu chóng, mắt hoa, tai ù, tai điếc, mất ngủ. Thận chủ cốt, thận âm bất túc làm cho gối mỏi, đau trong xương đùi cổ chân "xỉ vi cốt chi hư" cốt tủy không thông, răng lung lay mà đau.

Thận âm hư: tinh tân bất cố làm cho tự hãn, di tinh "âm hư nặng tắc hư hoả vượng" vì thế xuất hiện lưỡng quyền hồng (gò má đỏ, môi đỏ, tiểu tiện ngắn đỏ...) đó là chứng hậu nội nhiệt tân hao. Lưỡi hồng không rêu, mạch tế sác là âm hư. Nếu âm hư hoả vượng phải tư âm giáng hoả trọng dụng "tri bá bát vị hoàn". Hay gặp trong suy nhược thần kinh, lao phổi, bệnh đái đường, viêm đường tiết niệu, chảy máu tử cung...

2.2. Thận dương hư:

+ Triệu chứng:

- Sắc mặt ảm đạm. - Tay chân không ấm.

- Phát dễ thoát lạc (tóc dễ rụng). - Đoản khí, suyễn.

- Sợ lạnh. - Tinh thần ủ rũ.

- Tai ù, tai điếc. - Răng lung lay.

- Lưng gối đau mỏi. - Tiểu tiện ít.

- Phù thũng hoặc tiểu tiện về đêm nhiều.

- Đại tiện lỏng nát, tự hãn.

- Chất lưỡi bệu mềm, rêu trắng nhuận.

- Mạch hư phù hoặc trầm trì vô lực.

- Nếu mệnh môn hỏa suy có thể xuất hiện:

- Dương nuy, hoạt tinh, ỉa chảy mãn tính.

- Tứ chi lạnh hoặc đoản khí, khí suyễn vã mồ hôi, mạch ở lưỡng xích nhược hoặc vi tế trầm trì, trường hợp tiểu tiện nhiều, đái són, đái nhiều về đêm, sau khi đái nước tiểu còn sót lại, hoạt tinh tảo tiết, lưỡi mềm, rêu trắng, mạch hư trì nhược là: "thận khí bất cố".

+ Giải thích bệnh lý: thận khai khiếu ra tai, kỳ hoa tại phát (vẻ đẹp của râu tóc, móng tay chân), thận khí bất túc làm cho tai ù, tai điếc, tóc râu dễ rụng. Thận chủ cốt, thận dương bất túc làm cho lưng gối đau mỏi, răng lung lay "thận hư bất năng nạp khí quy thận" gây nên đoản khí mà suyễn.

- Thận dương hư khiến toàn thân dương khí đều hư nên chỉ thể không nóng ấm, tự hãn (dương hư biểu bất cố), tinh thần không thoải mái, đại tiện lỏng nát (dương hư thủy phiếm), (thận hư thủy phiếm) tất sinh nước tiểu ít mà phù thũng lại thêm mệnh môn hoả suy tất sinh hư hàn càng nặng làm cho tứ chi quyết lạnh, dương nuy, hoạt tinh, ỉa lỏng sáng sớm là triệu chứng mệnh môn hoả suy.

- Mệnh môn hoả suy: thận bất năng nạp khí sinh ra khí đoản, khí suyễn và mồ hôi ra nhiều (tự hãn)

Lại nói "thận khí bất cố tắc thu nhiếp bất lực: nên sinh ra hoạt tinh, táo tiết. Chứng tiểu tiện lượng nhiều hoặc đái són là thận dương hư, rêu lưỡi trắng nhuận còn dương hư thủy phiếm thì lưỡi mềm bệu và mạch trầm vô lực, nếu trầm trì là hàn năng hơn thiên.

- Phương pháp điều trị: phải bổ thận dương thường dùng phương thuốc kim quỉ thận khí hoàn gia vị. Nếu mệnh môn hoả suy thì lấy ỉa lỏng làm chủ chứng phải trọng dụng bài tứ thần hoàn, nhược bằng khí đoản, khí suyễn có thể dùng "hắc duyên đan gia vị". Nếu thận khí bất cố phải bổ thận để cố sáp niệu, nếu di niệu, di tinh là chính phải dùng bài thuốc cố tinh hoàn.

Liên hệ y học hiện đại: hay gặp trong nhược năng vỏ thượng thận, nhược năng tuyến giáp trạng, suy nhược thần kinh... thận dương hư phải dùng phương pháp điều trị trên. Viêm thận mãn tính cũng thuộc thận dương hư phải dùng bài thuốc ôn bổ thận dương kèm theo lợi thủy.

Dùng kim quĩ thận khí hoàn gia ngưu tất, sa tiền, còn như hen phế quản là thận dương hư không nạp được khí phải dùng kim quĩ thận khí hoàn gia hồ đào nhục, ngũ vị tử, nếu mệnh môn hoả suy không nạp khí phải dùng hắc duyên đan. Còn như chứng bệnh đái đường, đái nhạt, viêm thận mãn tính, di niệu do thận khí bất cố phải dùng bài thuốc sá truyền hoàn để diều trị. Ngoài ra còn phải kết hợp châm cứu; thận du - tam âm giao.

2.3. Thận âm dương lưỡng hư:

+ Triệu chứng chủ yếu:

- Sắc mặt ảm đạm. - Tâm phiền.

- Rụng tóc, răng đau . - Tự hãn.

- Khô miệng. - Sợ lạnh.

- Chi lạnh, di tinh. - Lưỡi nhợt, co ngắn.

- Dạ đa tiểu tiện (đái đêm nhiều). - Rêu mỏng.

- Mạch trầm tế nhược.

+ Giải thích: bệnh lý do âm dương hỗ căn, âm hư lâu ngày dẫn đến dương hư, trái lại dương hư cũng dẫn đến âm hư, nếu thận âm dương đều hư tất nhiên sẽ dẫn đến hai loại chứng hậu.

Khi biện chứng cụ thể cần phải căn cứ vào tình hình cụ thể, chẳng những phân biệt là âm hư nặng hay nhẹ mà còn là dương hư nặng hay nhẹ để chọn dùng thuốc điều trị cho phù hợp.

- Phương pháp điều trị: phải âm dương cùng bổ, phải dùng hợp phương bài thuốc; hữu qui ẩm, tả qui ẩm gia giảm. Nếu dương hư nặng hơn thêm hai loại: ba kích, nhục quế, còn âm hư nặng hơn gia qui bản, miết giáp, đan bì...

2.4. Tâm thận bất giao:

+ Triệu chứng chủ yếu:

- Tâm quí. - Đầu choáng.

- Tâm phiền. - Mất ngủ, hay quên.

- Tai ù, tai điếc. - Lưng gối đau mỏi.

- Lưỡi thon hồng. - Mạch tế hoặc tế sác.

- Tâm và thận tương hỗ chế ước, hỗ tương tự sinh, tương tắc tương thành, nếu tâm thận thất điều, xuất hiện các triệu chứng trên.

- Phương pháp điều trị: phải dưỡng tâm thận dùng bài lục vị hoàn gia: ngũ vị tử, toan táo nhân, bán hạ chế. Nếu có đái són thêm: liên tu, nếu hư hoả vượng, mất ngủ nặng thêm: hoàng liên, nhục quế tâm (hoàng liên vị đắng vào tâm thanh tâm hoả là chủ dược lại cho quế vào thận để dẫn hoả quy nguyên) tác dụng chính để giao thông tâm - thận gọi là phương thuốc giao tần hoàn (hoàng liên 8g, nhục quế 4g). Liên hệ với YHHĐ hội chứng và bệnh suy nhược thần kinh thường thuộc tâm thận bất giao.

2.5. Bàng quang thấp nhiệt:

+ Chủ chứng: phát sốt, đái són, dắt buốt, đau hoặc đái dầm dề, nếu dột nhiên trung đoạn (đái ngắt quãng), nước tiểu đục hoặc có máu hoặc bên trong có sa thạch (có sạn sỏi), rêu lưỡi vàng hoặc vàng nhờn, mạch sác.

+ Bệnh lý: bàng quang thấp nhiệt, nhiệt thịnh ở trong gây phát sốt, nếu sợ lạnh là kèm theo biểu chứng, bàng quang thấp nhiệt ở dưới (do rối loạn bài niệu gây nên). Nếu thấp nhiệt nội ẩn lâu ngày tất sinh sỏi niệu (sa thạch), thấp nhiệt quá thịnh tất sinh nục huyết.

+ Triệu chứng đặc trưng thấp nhiệt: rêu lưỡi vàng, mạch sác.

- Phương pháp điều trị: thanh nhiệt lợi thấp, phải dùng bài thuốc bát chính tán gia: hải kim sa đằng, diệp hạ châu, kim tinh thảo, nếu có sa thạch phải dùng thêm kim tiền thảo, hải kim sa, nếu niệu huyết phải dùng lương huyết, chỉ huyết, sinh địa, đại tiểu kế, bạch mao căn, tía châu thảo...

Liên hệ YHHĐ: viêm đường tiết niệu, sỏi tiết niệu, viêm tiền liệt tuyến đều thuộc về thấp nhiệt ở bàng quang nên có thể dùng bài thuốc bát chính tán hoặc phải thêm nhĩ châm (vùng thận và bàng quang). Nếu lâu ngày thận khí hư phải dùng kim quĩ thận khí hoàn gia: ngưu tất, sa tiền tử.

+ Đặc điểm biện chứng luận trị của thận và bàng quang:

- Bệnh thận ít thực chứng không có biểu chứng, thận hàn là do dương hư mà dẫn đến, thận hỏa vượng là do âm hư. Vấn đề căn bản trong điều trị là phải bổ thận dương, tư thận âm.

- Thận chủ tàng tinh: phép bổ dương thường trên cơ sở bổ âm mà gia thêm thuốc. Ví dụ: tên phương thuốc bổ thận dương "kim quĩ thận khí hoàn" tức là trên cơ sở bài lục vị địa hoàng hoàn của phép bổ tư thận âm. Thêm chế phụ tử, nhục quế để ôn thận dương còn như dương hư quá nặng cũng có thể chuyển hướng phù dương để phối âm nhưng chỉ tạm thời không nên dùng lâu sẽ chuyển sang âm hư.

- Bàng quang và thận tương quan biểu lý, vì vậy chứng bàng quang hư phải bổ thận dương để trị bản, còn trị bàng quang thấp nhiệt có thể trực tiếp thanh lợi ở bàng quang.

3. Chứng trị can và đởm.

Chức năng sinh lý của can chủ yếu sơ tiết và tàng huyết, khi bệnh lý chủ yếu biểu hiện triệu chứng của sơ tiết thất thường mà dẫn đến.

+ Can uất, can hoả vượng.

+ Can dương thượng nghịch (khang), can âm bất túc.

Can mất khả năng sơ tiết hoặc can hoả thịnh đều ảnh hưởng đến chức năng tàng huyết, xuất hiện các triệu chứng xuất huyết còn chứng bệnh thường gặp của đởm là đởm nhiệt.

3.1. Can uất (can khí uất kết, can khí bất thư):

+ Triệu chứng: hay cáu gắt giận dữ, tinh thần uất ức, đầu choáng, hai bên sườn đau hoặc đau nhói, ợ hơi, ăn kém, miệng đắng hoặc nôn mửa, đau bụng ỉa lỏng kinh nguyệt không đều, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch huyền; nếu can uất lâu ngày dẫn đến huyết ứ, tất sẽ thấy hòn khối (chỉ can tỳ sưng to), rìa lưỡi có điểm ứ huyết, mạch huyền hoặc sáp.

+ Giải thích bệnh lý: can khí uất kết không sơ tiết được nên tính tình hay cáu gắt giận dữ, khí huyết uất trệ ở can kinh làm cho đau hai bên mạn sườn, can khí không sơ tiết triệt để, can khí hoành nghịch xâm phạm vào tỳ vị nên có thể xuất hiện đau sườn, đau bụng, ỉa lỏng, ợ hơi, ăn uống không tiêu, nôn mửa...

Phụ nữ do can kinh khí huyết thông không ảnh hưởng đến hai mạch xung nhâm mà dẫn đến kinh nguyệt không đều. Mạch tượng của can thường thấy mạch huyền.

- Phương pháp điều trị: phải sơ can lý khí.

Thường dùng sài hồ xơ can thang, nếu có huyết ứ kèm theo thì trong sơ can lý khí phải gia thêm thuốc hoạt huyết thường dùng tiêu giao tán gia: đan sâm, bồ hoàng, ngũ linh chi.

- Liên hệ Y học hiện đại: dùng tiêu giao tán trong viêm gan mãn tính, nếu viêm gan kéo dài hoặc thời kỳ đầu của sơ gan mà kèm theo huyết ứ có thể thêm thuốc hoạt huyết.

Nếu trong bệnh lao phổi có triệu chứng can uất (ví dụ: dễ giận dữ, đau sườn, miệng đắng, mạch huyền), nói chung đều là có âm hư, có thể chọn dùng: tiểu sài hồ thang, bỏ các thuốc ôn táo thêm hà thủ ô, nữ trinh tử, sa sâm để dưỡng can.

Kinh nguyệt không đều thuộc chứng can uất dùng bài thuốc tiêu giao tán gia giảm (sài hồ, bạch thược, cam thảo, bạch truật, xuyên qui, can khương, bạc hà).

3.2. Can dương thượng cang (can dương cang thịnh, âm hư, can vượng, can dương quá thịnh):

+ Chủ chứng: đau đầu, huyễn vựng, dễ cáu gắt, đau sườn, nhìn sự vật không rõ (mắt mờ, đắng miệng, hai bên lưỡi hồng, rêu trắng, mạch huyền.

Nếu như thấy đau đầu dữ dội, huyễn vựng, tai ù, tai điếc, mắt đỏ, đau hai bên đầu, giận dữ, lưỡi hồng, rêu vàng hoặc vàng dày mà khô, mạch huyền sác hữu lực đó là can hoả thịnh.

Can dương quá vượng dẫn đến can phong nội động tức là dẫn đến trúng phong (chảy máu não). Xuất hiện triệu chứng: thất ngôn, mồm méo, mắt xếch hoặc hôn mê, co giật, bán thân bất toại. Nếu do nhiệt cực (sốt cao) mà dẫn đến can phong nội động trong bệnh ôn nhiệt (bệnh truyền nhiễm) nằm trong phương pháp điều trị bệnh ôn nhiệt.

Giải thích bệnh lý: do can dương thăng phát thái quá, dương thiên thịnh ở mắt, ở đầu nên thấy đầu choáng, mắt hoa, huyễn vựng (huyết áp cao), miệng đắng, sườn đau, hai bên rìa lưỡi hồng, mạch huyền là triệu chứng thường thấy ở kinh can đởm. Còn can hoả thịnh (can hoả tích thịnh, kinh can thực hoả) ngoài triệu chứng của can dương khang thịnh còn thấy triệu chứng của hoả nhiệt. Ví dụ: hoả vượng ở trên là do đầu đau dữ dội kèm theo mắt đỏ, tai ù, do can hoả thịnh ảnh hưởng đến chức năng tàng huyết "nhiệt bức huyết vong hành" xuất hiện nôn máu, máu cam... can hoả thượng cang dẫn đến đau một bên đầu, đầu lưỡi và rìa lưỡi hồng đỏ, rêu vàng, mạch huyền sác là triệu chứng của hoả nhiệt. Cả hai thể bệnh trên đều có thể xuất hiện triệu chứng của can phong nội động dẫn đến triệu chứng trúng phong.

+ Phương pháp điều trị:

- Nếu do can dượng thịnh phải bình can tức phong, tiềm dương dùng bài thuốc "long đởm tả can thang". Nếu chảy máu não thuộc triệu chứng bế chứng (hôn mê, bất tỉnh nhân sự, hai tay nắm chặt hoặc hàm răng cắn chặt mạch huyền hoặc khẩn) phải chọn pháp khai khiếu (thiên nhiệt phải dùng pháp lương khai, thiên hàn phải dùng thuốc ôn khai bài thuốc: sài hồ, hoàng cầm, long đởm thảo, đương qui, sinh địa, trạch tả, sa tiền tử, thông thảo) kết hợp với châm cứu điều trị, sẽ nói rõ hơn về kỹ thuật trong điều trị chứng trúng phong.

- Liên hệ YHHĐ: cao huyết áp nếu như thuộc về can dương thịnh dùng (thạch quyết câu đằng ẩm) để bình can tức phong tiềm dương. Nếu rêu vàng, mạch sác là kèm theo nhiệt phải dùng thêm hoàng cầm liên tử tâm để thanh nhiệt. Ngoài ra có thể dùng các thuốc: câu đằng, tật lê, thạch quyết minh, tần cửu, trạch tả, trần bì, bán hạ chế, bạch chỉ để bình can tức phong trừ đàm. Nếu cao huyết áp thuộc can hoả vượng phải dùng pháp thanh can tả hoả dùng "long đởm tả can thang" bỏ sài hồ (hoặc liều nhỏ, giảm tác dụng, thăng phát) gia thạch quyết minh, ngưu tất để tăng cường sức giáng hoả đi xuống. Trong viêm tai giữa cấp tính có mủ, nhọt ống tai ngoài và trong đều có thể dùng long đởm thảo tả can thang để điều trị.

Các bệnh bạch huyết thuộc can hoả vượng mà có xuất huyết có thể dùng đương qui lô hội hoàn (qui, long đởm thảo, chi tử, hoàng liên, hoàng cầm, hoàng bá, đại hoàng, thanh đại, lô hội, sa hương, mộc hương).

- Bệnh về mắt, về tiêu hóa do can hoả vượng (chảy máu tiêu hóa) có thể dùng: long đởm thảo, sơn chi tử, hoàng cầm, đại hoàng, sinh địa, hạn liên thảo, trắc bá diệp để thanh can tả hoả, chỉ huyết. Nếu có triệu chứng xuất huyết như trên cấm dùng thuốc thăng đề.

3.3. Can âm bất túc:

+ Chủ chứng: huyễn vựng, đau đầu, tai ù, tai điếc, quáng gà, mất ngủ hay mơ hoặc tay chân tê dại, lưỡi hồng, ít tân (khô), rêu ít hoặc không rêu, mạch huyền tế hoặc tế sác.

+ Giải thích bệnh lý: can dựa vào sự tư dưỡng của thận thủy, can âm bất túc thường do thận âm bất túc "tinh bất hóa huyết, huyết bất dưỡng can" mà dẫn đến can âm bất túc, cũng có thể dẫn đến can dương thiên vượng (nhưng đây là hư chứng) không phải can dương thiên vượng do thận âm bất túc đó là thực chứng chú ý phân biệt còn can hoả thịnh thuộc chứng hoả nhiệt càng không giống nhau. Tuy nhiên các hội chứng trên đều có đau đầu, huyễn vựng, tai ù, tai điếc...Nhưng đau đầu không thành cơn mà triền miên không ngừng, huyễn vựng mà không muốn nhắm mắt, can hoả, tai ù đột nhiên xuất hiện, tay chân tê dại do thận âm bất túc, (không đủ để dưỡng can) mà dẫn đến.

- Phương pháp điều trị: phải tư thận dưỡng can bài: kỷ cúc địa hoàng hoàn (lục vị cộng kỷ tử, cúc hoa). Cao huyết áp thuộc can âm bất túc có thể dùng lục vị địa hoàng hoàn gia qui bản hoặc miết giáp, mẫu lệ, ngọc mễ tu. Trong viêm võng mạc trung tâm thuộc chứng can âm bất túc, có thể dùng kỷ cúc địa hoàng hoàn để dục âm tiềm dương. Trong viêm gan mãn tính hoặc viêm gan kéo dài, ấn các gian sườn thấy đau âm ỉ vùng mạn sườn, lưỡi hồng không rêu hoặc ít rêu, ít tân, mạch tế hoặc tế sác là can âm bất túc có thể dùng nhất quán tiễn để dưỡng can âm hay tư âm dưỡng huyết sơ can.

Sa sâm 12g Quy thân 12g Câu kỷ tử 12g

Sinh địa 12 Mạch môn đông 12g Xuyên luyện tử 6g

3.4. Đởm nhiệt (can đởm thấp nhiệt):

+ Chủ chứng: đau tức sườn phải, vàng da, tiểu ít, màu vàng đỏ, miệng đắng, họng khô, hàn nhiệt vãng lai hoặc nôn khan, bụng trướng, ăn kém, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền sác.

+ Giải thích bệnh lý: đởm nhiệt làm cho can đởm không sơ tiết được, hạ sườn phải đau ngày càng nặng (tăng dần) kinh đởm có nhiệt xuất hiện miệng đắng, họng khô, hàn nhiệt vãng lai (lúc rét lúc nóng) nhiệt mà kém thấp, thấp nhiệt uất trưng (tụ) sinh vàng da tiểu ít mà vàng đỏ. Can khí phạm vị (can, vị bất hoà) làm nôn khan và bụng trướng, kém ăn, lưỡi hồng, rêu vàng, mạch huyền sác là triệu chứng của nhiệt.

+ Phương pháp điều trị: thanh nhiệt lợi thấp (đởm).

- Thường dùng: sơn chi tử - uất kim - chỉ xác.

- Hoà hoàng cầm - huyền minh phấn - kim tiền thảo.

- Nếu đại tiện bí kết thêm đại hoàng, chỉ thực, nếu đau kịch liệt dữ dội gia mộc hương hành khí, bồ hoàng, ngũ linh chi hoạt huyết chỉ thống, nếu vàng da rõ rệt thêm nhân trần, đại hoàng. Bài thuốc thường được dùng điều trị viêm túi mật cấp tính và sỏi mật, nếu viêm túi mật mãn tính phải dùng thêm tô tử, uất kim, hoàng cầm, bạch thược, kim tiền thảo, huyền minh phấn, bồ hoàng, ngũ linh chi, cam thảo.

- Điểm chủ yếu về biện chứng luận trị của bệnh can đởm là: bệnh can phần nhiều là chứng dương vượng, lâu ngày không khỏi dễ dàng tổn hại đến can âm gây chứng hậu can dương vượng. Phép trị dưỡng can âm bình can dương. Can hư chứng phần nhiều thuộc về âm hư "can thận đồng nguyên" phép chữa phải tư thận dưỡng can"

4. Hội chứng tỳ vị.

Chức năng sinh lý chủ yếu của tỳ là chủ vận hóa và thông huyết. Khi tỳ bị bệnh phần nhiều là hư thấp (dương hư). Bệnh ở vị đa phần là thực nhiệt hư chứng hay gặp là vị âm hư. "Tỳ vị vi hậu thiên chi bản", tỳ vị hư sẽ ảnh hưởng đến ngũ tạng đặc biệt là với tâm phế thận (chứng phế tỳ lưỡng hư) là hội chứng thường gặp trên lâm sàng.

4.1. Tỳ dương hư (tỳ vị hư hàn, tỳ dương bất túc):

+ Chủ chứng:

- Sắc mặt vàng nhợt.

- Phần bụng hoặc vị quản chướng đau.

- Đau mà thích nóng, ấm.

- Miệng ứa nước trong (khẩu phiếm thanh thủy).

- Ăn uống kém, không ngon.

- Đại tiện lỏng, bạc màu.

- Ỉa chảy hoặc lỵ tật kéo dài, chi thể gầy gò, vô lực, tứ chi không ấm, tiểu tiện trong dài hoặc đái ít, phù thũng, cơ nhục teo mềm, lưỡi nhợt, rêu trắng nhuận, mạch hoãn hoặc nhợt.

+ Giải thích bệnh lý: tỳ dương hư (hư hàn). Vận hoá giảm yếu, mặt vàng, kém nhuận, ăn kém, không ngon... là do tỳ chủ cơ nhục tỳ dương bất túc, làm cho tứ chi không ấm mà gầy gò vô lực, cơ nhục teo mềm tỳ dương hư vận hóa thủy thấp rối loạn, tiểu tiện trong dài hoặc niệu ít mà sinh phù thũng. Nếu có lưỡi nhợt, mềm, rêu trắng nhuận, mạch hoãn hoặc nhược là chứng dương hư.

+ Phương pháp điều trị: ôn trung kiện tỳ, thường dùng bài thuốc phụ quế lý trung thang gia giảm. Liên hệ với YHHĐ: tỳ dương hư, thường bao gồm: viêm dạ dày mãn tính, rối loạn chức năng thần kinh, dạ dày, ruột, rối loạn chức năng vị trường, viêm ruột mãn tính, lỵ tật mãn tính, rối loạn dinh dưỡng đều dùng bài thuốc phụ tử lý trung thang gia giảm để điều trị. Viêm ruột mãn tính có thể dùng thêm xích thạch chi, thạch lựu bì. Lỵ tật mãn tính phải dùng mộc hương, bạch thược, đương quy.

4.2. Tỳ vị khí hư (tỳ vị hư nhược hoặc trung khí bất túc):

+ Chủ chứng:

- Sắc mặt vàng, gầy gò, ăn kém.

- Đau bụng thích ấm (thiện án).

- Bụng trên chướng ợ hơi, ợ chua.

- Đại tiện lỏng trắng.

- Lưỡi nhợt mềm hoặc có hằn răng.

- Rêu lưỡi trắng, mạch hư, hoặc tiếng nói nhỏ, khí đoản, trường hợp bệnh nặng trung khí hạ hãm, sa dạ dày, sa thận, thoát giang, sa tử cung... là khí phận càng hư gọi là trung khí hạ hãm (hoặc tỳ khí hạ hãm). Nếu nhũ tỳ vị khí huyết đều có các triệu chứng sốt nhẹ, thậm chí sốt cao, hoặc tỳ vị khí hư, can khí phạm vị, đau bụng, bụng sườn đầy tức, nôn, ợ chua hoặc đau bụng ỉa lỏng, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch huyền là hội chứng "can vị bất hòa".

+ Giải thích bệnh lý: tỳ vị khí hư (gầy gò, kém ăn, bụng đau, thích ấm, đại tiện lỏng trắng, mạch hư. Nếu tỳ vị khí hư nặng, sức thăng đề bất túc dẫn đến sa nội tạng đoản khí, nói nhỏ, do tỳ vị khí hư ăn uống kém nặng hơn sẽ dẫn đến khí huyết đều hư, tỳ bất thống huyết nên sinh chảy máu, cũng có thể không xuất huyết mà phát nhiệt, mối quan hệ giữa can với tỳ là quan hệ khắc chế và bị khắc chế (can mộc khắc tỳ thổ). Khi can khí hoành nghịch khắc tỳ vị sẽ xuất hiện triệu chứng của tiêu hóa. Khi bản thân chức năng tỳ vị hư nhược cũng có thể dẫn đến can khí phạm vị xuất hiện triệu chứng can vị bất hòa, tức là can khí mạnh hoặc là tỳ vị hư.

+ Phương pháp điều trị: kiện tỳ ích phế (tỳ vị khí hư), dùng bài "tứ quân tử thang" gia giảm, hoặc bài thuốc "tiểu kiến trung thang". Nếu trung khí bất túc phải bổ khí thăng đề dùng "bổ trung ích khí thang" gia giảm. Nếu can vị bất hòa phải sơ can kiện tỳ dùng bài thuốc dùng bài thuốc gia vị giao tán. Trong bệnh loét ruột, tỳ vị hư nhược dùng " tứ quân tử thang" gia sài hồ, hải phiêu tiêu hoặc hoàng kỳ kiến trung thang, nếu trung khí hạ hãm dùng bổ trung ích khí, phải kết hợp thêm châm cứu.

Nếu chảy máu dùng "quy tỳ hoàn" gia các thuốc chỉ huyết. Nếu can bị bất hòa trong viêm gan mãn tính, có rối loạn chức năng thần kinh, rối loạn chức năng đại tràng có thể dùng bài thuốc tiêu dao tán thêm đẳng sâm. Một số trường hợp có sốt rõ, biện chứng có tỳ vị hư nhược thiên về khí hư dùng bổ trung ích khí thang, nếu khí huyết đều hư phải dùng quy tỳ thang, phương pháp đó gọi là "cam ôn trừ nhiệt" pháp (phương pháp dùng vị thuốc ngọt và ấm để trừ chứng bệnh sốt cao).

4.3. Tỳ vị thấp khốn (tỳ hư thổ khốn, thấp khốn tỳ dương):

+ Chủ chứng: ăn uống giảm yếu, bụng đầy trướng, thậm chí buồn nôn, hoặc nôn khan, thích uống nóng, nặng đầu, chỉ thể gầy yếu, mệt mỏi không muốn hoạt động hoặc phù thũng, tiết tả (ỉa lỏng, nữ giới thường có khí hư), bạch đới nhiều, rêu lưỡi dày, chất lưỡi nhợt, mạch hoãn.

+ Giải thích bệnh lý: tỳ vị thấp khốn, tức là thấp trọc trở ngại đến chức năng chuyển hoá của tỳ nên xuất hiện triệu chứng ăn kém, bụng trướng đầy, nôn hoặc nôn khan. Tỳ chủ tứ chỉ nên khi tỳ hư thấy chi thể mệt mỏi, gầy yếu, thấp trở ở trong, chất thanh dương bất thăng làm cho đầu nặng như cùng. Thấp tụ ở dưới làm cho đau bụng ỉa lỏng, bạch đới nhiều, miệng nhạt hoặc dính, rêu lưỡi dày nhờn, mạch hoãn là chứng thấp nặng. Nếu như chất lưỡi bệu mềm mà mạch hư là đặc trưng của hư chứng. Ngoài thấp khốn còn tỳ hư, phần nhiều là tỳ hư bất năng hoả thấp.

+ Phương pháp điều trị: phải vận tỳ hóa thấp, thường dùng bài thuốc "vị linh tán", nếu chất lưỡi mềm bệu, mạch hư, tỳ hư thấp khốn phải kiện tỳ trừ thấp dùng "ngũ linh tán" và "tứ quân tử thang" gia giảm.

Liên hệ YHHĐ: viêm dạ dày mãn tính, viêm ruột mạn tính, lỵ tật mãn tính thuộc về khí hư thấp khốn phải đều có thể dùng phương thuốc trên gia giảm. Viêm gan mãn tính, phù thũng nhiều, phải lựa chọn nguyên nhân tỳ hư bất năng hóa thấp, sau đó là thấp tự tiêu có thể dùng "sâm linh bạch truật tán" để kiện tỳ trừ thấp.

4.4. Thấp nhiệt nội uẩn (tỳ uẩn thấp nhiệt):

+ Triệu chứng: củng mạc và toàn thân vàng, kèm theo ngứa toàn thân (bì phu phát tiên), thượng vị tức trướng, không muốn ăn uống, thân thể gầy gò, tiểu tiện ngắn vàng, miệng khô đắng, phát sốt, đại tiện lỏng nát, rêu lưỡi vàng, nhờn, mạch nhu sác.

+ Giải thích bệnh lý: thấp nhiệt nội uẩn ở tỳ vị ảnh hưởng đến tác dụng sơ tiết của can đởm, dịch đởm ứ bị phù làm vàng da, da ngứa. Thấp nhiệt nội uẩn làm vận hoả thất thường, không tư ẩm thực (ăn uống kém, đại tiện lỏng nát, tiểu tiện ngắn và đỏ hoặc thấp nhiệt nội uẩn mà thiên ở nhiệt làm miệng khô đắng, phát sốt, mạch nhu sác, rêu vàng, nhờn.

+ Phương pháp điều trị: thanh nhiệt lợi thấp bài thuốc nhân trần cao thang hoặc nhân trần trữ linh tán gia giảm. Liên hệ với YHHĐ thường gặp trong viêm gan truyền nhiễm có vàng da, viêm túi mật cấp tính.

4.5. Tâm tỳ lưỡng hư (tỳ thận dương hư):

+ Triệu chứng: sắc mặt vàng tối, hồi hộp hay quên, mất ngủ, gầy xanh, vô lực, ăn kém, bụng trướng, đại tiện lỏng nát, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch tế nhược. Nếu là tỳ thận dương hư thì tinh thần mệt mỏi, khí nhược, loạn ngôn, đởm ố mà khí suyễn, tứ chi vô lực, chi lạnh, đại tiện lỏng nát, (ngũ canh tả), ỉa lỏng vào lúc sáng sớm, lưng lạnh, sợ lạnh. Toàn thân phù thũng hoặc cổ trướng, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch tế nhược.

+ Giải thích bệnh lý: do tỳ hư sinh đàm, thận chủ nạp khí nên thận hư khí suyễn. Thận chủ thủy, tỳ có chức năng vận hóa thủy thấp nên tỳ thận dương hư sẽ sinh ra chứng phù (phù thũng, bụng có nước). Đặc trưng của dương hư lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch hư nhược.

+ Phương pháp điều trị: bổ ích tâm tỳ "qui tỳ thang" gia vị, tỳ thận đều hư phải ôn bổ tỳ thận dùng bài thuốc " chân vũ thang gia vị"

- Tâm phế mãn tính có khí suyễn đàm nhiều, phù thũng "chân vũ thang" gia bán hạ, ma hoàng, nhục quế tâm.

- Nếu phù tim hoặc xơ gan cổ trướng là tỳ thận dương hư dùng hợp phương chân vũ thang + ngũ linh tán. Nếu viêm ruột lỵ tật mãn tính phải dùng phụ tử lý trung thang hợp phương với bài thuốc tứ thần hoàn gia giảm.

4.6. Vị hoả thịnh, vị âm hư:

+ Triệu chứng: phát sốt, tiện bế, răng đau, chân răng chảy máu, máu cam, nôn máu, phiền táo không yên, miệng khô, miệng đắng, lưỡi hồng, rêu vàng, mạch sác. Vị âm hư ăn uống kém thậm chí không ăn được. Nếu nhiệt, cực nhiệt, tiện bế, lưỡi đỏ, có ít rêu hoặc không rêu, mạch tế hoặc tế sác đó là vị hỏa thịnh. Vị hỏa thịnh (dương thịnh tắc nhiệt) vì vậy nên có triệu chứng trên. Vị hỏa thịnh theo kinh mạch dương minh thượng xung xuất hiện triệu chứng ở răng mũi. Vị âm hư cũng có thể xuất hiện triệu chứng nhiệt "âm hư sinh nội nhiệt" khác với thực nhiệt là: vị hoả thịnh làm thương âm, vị âm hư có thể sinh nhiệt (thực hỏa khác hư hỏa),

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #dungdkh