4; Chia đôi non nước, dáng người bên kia.
Tôi đã vẽ nàng trên tấm canvas tốt nhất, bằng những thức màu đẹp nhất. Tôi chọn tranh sơn dầu, bởi nàng hẳn sẽ thú vị lắm khi ngắm chân dung mình qua nét cọ của dân châu Âu. Nhưng tôi vẫn chưa vẽ xong. Tôi còn không biết là sẽ lâu tới vậy, đến bức La Joconde cũng chỉ vẽ trong mười bốn năm thôi [26], nhưng con số mà tôi dành ra đã vượt quá mười bốn năm mất rồi.
Angleterre có từng nhìn qua bức họa một lần. Cậu ta có hơi ngạc nhiên rằng tôi đang vẽ chân dung của một người phụ nữ đang đứng ở chiến tuyến đối lập, một người mà theo cậu ta nói – "căm thù chúng ta hết nấc" – bằng cái giọng quý tộc Anh mà tôi vốn ghét, nhưng tôi không phản bác vì nghe ra sự tự giễu trong đấy. Trong khoảng dừng cọ, tôi chợt nghĩ có lẽ Angleterre đang nhớ tới quãng thời gian trước đó cùng với Amérique, lúc mà Hoa Kỳ còn là mười ba thuộc địa của Anh Quốc, Amérique khi ấy còn là một thằng nhóc tí xíu chẳng hiểu sự đời đã được cậu ta mang về dinh thự của mình, nuôi nấng và hết mực yêu thương, mặc cho sự bất bình tới từ Chính phủ Anh. Nhưng rồi cái gì đến cũng phải đến, khi thằng nhóc đó đủ lớn, hai bên chĩa súng vào nhau, và thế là hết. Anh anh em em cái gì suốt chừng ấy thập kỷ chỉ còn là hai viên đạn bay ra khỏi nòng, mang theo khói thuốc súng bay lượn trên mũi nhọn của lưỡi lê. Đạn chẳng trúng Angleterre hay Amérique, nhưng quá đủ để xé rách tất cả những yêu thương mong manh còn tồn tại giữa cả hai.
Và thế là thế.
Tôi chỉ trả lời cậu ta gọn lỏn, rằng, tôi biết chứ. Tôi biết dù thái độ nàng có hòa hoãn và vui tươi hơn chút thì đâu đó trong nàng vẫn âm ỉ ngọn lửa được thắp bởi dòng máu nóng tuôn trào suốt hàng ngàn năm trong huyết quản. Đức Napoléon từng bảo chúng tôi đừng động tới Trung Hoa kẻo đánh thức con sư tử đang say ngủ, nhưng con sư tử ấy cũng bị người dân của nàng đánh đuổi hết lần này tới lần khác suốt cả ngàn năm đấy, không phải sao? Tôi từng buồn cười trước sự cứng đầu của Espagne khi cậu ấy đối chọi với những người trong chính phủ của mình về cái lý tưởng hòa bình mà cậu ấy luôn đau đáu, rằng hàng trăm năm xung đột đã quá mức chịu đựng cho dân lành rồi, im đi thôi và trở nên vô can bằng con đường hòa hoãn đi. Một chữ ký vào bản hiệp ước rồi mọi thứ sẽ xong, chẳng ai hại ai nữa. Có điều, nếu bắt tay nhau mà dễ dàng đến vậy, hẳn trong quá khứ sẽ không có một France từng quay mũi kiếm đâm thẳng vào lồng ngực cậu ấy rồi. Ừ, là tôi đấy, cái con người mà Espagne coi là đứa bạn thân thiết nhất trên đời.
Suy cho cùng, tất cả chúng tôi được sinh ra bởi nguyện vọng của dân chúng và tồn tại cùng với cái thứ gọi là lịch sử tới chừng nào quốc gia sinh chúng tôi ra vẫn còn hiện hữu trên cuộc đời, nhưng bản thân chúng tôi cũng chẳng khác gì con người cả. Ngoài hình dáng giống con người, tuổi trẻ và vẻ đẹp vĩnh hằng, tất cả những dịch bệnh, nội chiến, xâm lăng, bom đạn, đủ thứ, tất cả những gì mà quốc gia gánh chịu đều sẽ ghi dấu trên cơ thể chúng tôi như những vết sẹo. Một số phai đi theo năm tháng, một số thì không, cứ hằn đấy và có khi rỉ máu trở lại. Đó là số mệnh mà Chúa ban cho tất cả những ai gọi là quốc gia, nhưng chuyện khỉ gió nhất là ông bố già đó cũng lại ban cho chúng tôi tất cả cảm xúc của một con người.
Tức là thể nào cũng có xung đột thôi. Và rằng dù tôi có phản đối đến thế nào, tôi vẫn phải kéo tấm khăn trắng phủ lên bức chân dung đang vẽ dở và mặc quân phục vào, dẫn tàu viễn dương vượt biển trở lại xứ nóng An Nam.
À không, gọi là Việt Nam mới đúng chứ. Khi ấy là năm 1946, tôi trở lại vùng đất này sau trọn vẹn tám mươi hai năm để tham dự vào cái cuộc chiến giữa voi và hổ mà tôi chắc chắn rằng linh cảm mình sẽ bị nàng cho xơi kẹo đồng năm ấy rồi sẽ trở thành sự thật [27].
Chung Liên phá ra cười. Cười ngặt nghẽo. Phải lâu lắm rồi nàng mới cười hỉ hả như vậy, chắc từ hồi mới độc lập rồi. Lúc đó mặt ai chẳng tươi như hoa vừa nở, khi các bà các cô thi nhau mặc áo dài ùa ra đường vẫy cờ. Nàng nghe được qua đài đấy. Còn trong phủ nàng thì chẳng còn ai nữa, mà nàng khi về thì đã thả sạch kẻ ở đi rồi, trừ mấy người vẫn còn muốn ở lại. Cũng có kẻ đã thành người thiên cổ cả rồi, dù có xót xa nhưng cũng chẳng phải lần đầu Chung Liên nhìn thấy chuyện này. Nàng cũng đâu thể khóc suốt mấy ngàn năm được.
Chung Liên giữ tờ giấy trên ngọn lửa bếp, tủm tỉm cười. Lưỡi lửa nhuốm vào góc giấy, uốn lên, cháy quăn thành tro. Nàng thả tờ giấy vào cái thau đồng, bình thản nhìn nó cháy hết.
"Cụ đừng lo. Thằng đại điểm quần thần [28] ấy sang bên thằng Mĩ ấy mà." Nàng cười với ông giáo đang lui cui pha ấm chè. "Mà cái thằng đã làm đánh thuê thì chỉ là con chó cho người sai khiến, nó chẳng nhấc được sóng gió gì lên đâu."
"Cô Liên dù sao cũng đừng chủ quan. Chừng nào cô ra biên giới?"
Nàng nhận chén trà của ông giáo bằng hai tay, mỉm cười. "Ngày mai con tới chào đức Từ Cung, rồi con đi luôn."
"Vậy tối nay cô ở nhà dùng cơm với tôi, đừng ra ngoài nữa."
Chung Liên cười hì hì, hai mắt cong thành hai vầng trăng non. "Vâng, vâng, con xin nghe cụ."
Tôi đón Đại tướng Navarre tại sân bay Gia Lâm. Ngài ta đi cùng với tướng Bodet và Gambiez [29]. Trước đấy, chúng tôi có gửi điện báo sang Pháp cho ngài ta giữa lúc cái bãi lầy này càng lúc càng lún và viễn cảnh phải dâng Đông Dương cho Amérique lửng lơ như thanh gươm treo bằng lông ngựa [30]. Đây là lối thoát danh dự cho nước Pháp, hoặc là không, và tôi càng lúc càng ngả lòng sang vế sau dù niềm kiêu hãnh của một đế quốc lâu đời không cho phép điều đó. Nhưng không phải chính Angleterre hùng mạnh cũng từng phải cút khỏi mắt cậu ta hay sao? Họ là anh em mà còn vậy, còn tôi thì chẳng có tí liên hệ gì với Vietnam từ ngày nàng theo tàu Prothos trở về. Một lá thư cũng không, trước đó thì chỉ có một bức chân dung vẽ mãi không xong mà thôi.
Đêm hôm qua, tôi nằm mơ thấy nàng. Nàng mặc áo dài, ngồi trên chiếc ghế đan từ mây và liễu gai, chống cằm ngóng ra bên ngoài khung cửa. Nàng vẫn đẹp như những ngày đi cùng tôi khắp mọi xó xỉnh Paris, không, còn đẹp hơn thế. Tôi như thấy lại nàng lúc ở rạp Faubourg năm đó, ửng hồng hai má như hoa táo, cười thành tiếng, rực rỡ như ngồi giữa mùa xuân. Ở nàng có sự hóm hỉnh và uyên bác, có nét đẹp đằm thắm mà bí ẩn của thiếu nữ phương Đông pha lẫn sự quyến rũ của phụ nữ phương Tây khiến tôi say mê. Trong mộng, tôi tưởng như mình đã trở về dinh thự của mình ở Paris, ngồi trước bức tranh vẽ dở, dùng cọ tỉ mẩn họa lên từng đường nét của nàng, rằng tôi biết tôi thèm cái cảm giác yên bình đó biết bao, dù trước kia tôi từng nói với Autriche [31] rằng hòa hoãn không có trong từ điển của anh lớn.
Trong một khoảnh khắc, tôi đã thở dài thườn thượt giữa cơn mộng mị, và tự nhận ra có lẽ mình đã già rồi [32].
Nàng để lại chiếc cúc ngọc đẽo hoa sen chín cánh của mình ở chỗ đức Từ Cung. Đã quá lâu rồi nàng không còn mặc Nhật Bình nữa, giữ lại cũng chẳng để làm gì. Nàng đã nói với đức Từ Cung rằng nếu thiếu thốn quá thì Người cứ bán quách nó đi, song Người chỉ cười thật hiền mà cũng thật buồn với nàng mà thôi.
"Sáu năm rồi không gặp, phu nhân càng lúc lại càng thắm thiết, còn ta càng lúc lại càng già rồi."
Đức Từ Cung vẫn gọi nàng là phu nhân như thuở trước. Trong một thoáng, nàng tưởng như ngày nhà Nguyễn vẫn còn, mình mặc Nhật Bình màu xích quỷ, cài chiếc cúc ngọc vào cung nói chuyện với Người. Khi ấy, trên dưới trong ngoài triều đình đều gọi nàng là phu nhân, cái danh Trấn Quốc phu nhân đã tồn tại từ thời Ngô vương hãy còn tại thế. Không cần mở mắt thì Chung Liên cũng biết Gia Long không ưa nàng, nhưng biết sao được, ở lại thì hoặc theo Lê đế, hoặc theo Quang Trung. Âu cũng là lựa chọn mà thôi, nếu chọn lại thì nàng vẫn thế. Dẫu nàng không ghét France đi nữa thì cũng là xúc cảm dành riêng cho một mình anh ta, chẳng thể đánh đồng với chính phủ Pháp, mà nàng cũng chẳng thể hạ mình đi sang tận đấy cầu cạnh xin quân để giúp họ Nguyễn chiếm đất về. Nói ra nghe mới nực cười làm sao.
"Lần này phu nhân đi, nhớ cẩn thận." Đức Từ Cung vuốt lên mặt ngọc nhẵn nhụi, giữa nắng ban ngày mà vẫn như ngồi trong tăm tối. "Sau này nếu còn có duyên, phu nhân nhớ về thăm ta. Bởi từng người rồi từng người cũng đã đi mất rồi."
Chung Liên cũng chỉ mỉm cười, nàng không đáp gì cả, bởi nàng nhận ra đức Từ Cung chỉ đang muốn nói lại vài chuyện xưa cũ. Nàng có đáp hay không cũng thế, bởi đức Từ Cung đang muốn có người lắng nghe mình mà thôi.
"Phu nhân nhớ hồi Vĩnh Thụy muốn lấy Nam Phương không? Lúc ấy ta có hỏi phu nhân rằng người nghĩ thế nào."
"Thiếp đến giờ vẫn chỉ có thể nói với Thái hậu, chuyện này thiếp vốn dĩ không biết được." Chung Liên bình thản đáp. Nàng có hơi hiểu ra vì sao France ngày ấy lại nói anh ta không thích những lời như đoán trước ấy, bởi không may mắn. Nàng ngày ấy cũng chỉ mơ hồ cảm thấy Nguyễn Hữu Thị Lan sau này sẽ có thân phận không tầm thường chứ cũng chẳng nghĩ nhiều lắm.
Lúc Bảo Đại muốn lấy Nam Phương làm hậu, nàng có hơi ngạc nhiên, song nghĩ lại thì lúc ấy có lẽ thực sự nàng cũng chẳng ngạc nhiên gì mấy.
Đức Từ Cung mỉm cười.
"Phu nhân thế mà đến giờ vẫn giấu ta. Ngày ấy ta thấy rõ trong mắt phu nhân đã chán chường lắm rồi, bởi thế ta cũng không hỏi nữa."
"Nếu Thái hậu nghĩ thế, có lẽ thiếp đã nghĩ thế thật."
"Khi ấy có phải phu nhân đã biết gì trước rồi không? Mà thôi, ta không hỏi nữa. Chỉ mong trước lúc xuôi tay, ta được gặp Bảo Long thêm một lần..."
Chung Liên nhìn ra ngoài song cửa. Nàng cố né tránh ánh mắt của đức Từ Cung, dù biết là không phải phép.
Nắng ngoài giàn hoa bên song cửa vẫn ươm vàng.
"Hồi theo hầu tiên hoàng gần ba năm ở bên Pháp, thiếp có quen biết một người bạn, là người cũng tồn tại giống như sự tồn tại của thiếp vậy." Nàng kể, chợt nhớ tới lời đề nghị vẽ chân dung. "Nếu Thái hậu hỏi là cảm được gì, thì chắc là người đó cảm được chứ không phải thiếp. Ngày đó, bọn thiếp đã từng thấy Ngài Hoàng [33] từ xa, lúc Ngài vẫn còn son rỗi..."
Giờ thì Chung Liên cũng phải thừa nhận, rằng anh ta nói đúng. Linh cảm là một thứ rất phiền phức, nhưng ai cũng sẽ phải cần tới nó. Người ở hậu phương cần, người đi chinh chiến cần, mà sự tồn tại như nàng lại càng cần.
Chung Liên thoáng rùng mình khi cơn ớn lạnh chạy dọc ống tay. Hôm nay Huế không lạnh, nhưng nàng lại như trở về đêm tháng Tám ở cảng Marseilles, khi những viễn cảnh kỳ lạ cứ nhảy nhót trong tâm trí. Lúc ấy, nàng đã lờ mờ thấy người khoác điển phục của Hoàng hậu An Nam.
Còn bây giờ, nàng chỉ thấy có người ăn đạn từ nòng súng đen ngòm, nhưng không phải màu áo lính của bên mình [34].
Khi nhìn thấy Castries đứng chình ình một đống ở giữa sân bay, tôi biết ngay lại là trò của lão Navarre. Ừ thì ngài ta có mắt nhìn người rất tốt, nhưng tôi còn sống nhăn cả bao nhiêu thế kỷ đây, chẳng lẽ năm mươi con người này chỉ chừa tôi ra là thấy cái thế thua bày sẵn hay sao? Nhưng mà biết sao được, BOSS nói phải giữ được Lào, nên tôi đành theo mà thôi. Cũng chẳng phải lần đầu tôi chiến đấu dưới trướng mấy cái quyết định ngu ngốc.
"Anh thấy sao, France? Tuyệt vời lắm có đúng không? Hãy cảm ơn anh hùng tôi đi nào." Amérique khoác vai tôi đầy suồng sã. Tôi nhìn gương mặt điển trai của cậu ta, có một nỗi xúc động muốn đấm thằng này một cú vào giữa mặt rồi lên máy bay đi về nhà, để lại con nhím chết tiệt [35] này cho mấy tên ngốc đã mạnh mồm tuyên bố rằng sẽ cho người ta ăn bụi [36] muốn làm sao thì làm.
"Rồi, rồi, cảm ơn ngài." Tôi ngao ngán đáp, quá hiểu vì sao Angleterre hiện giờ chỉ cần nhìn thấy Amérique là bắt đầu càu nhàu. Có lẽ sau khi đấm Amérique một cú cho mình thì tôi sẽ đấm thêm một cú thay cho Angleterre nữa.
"Nào nào, lên dây tinh thần đi. Hãy nhìn tới tương lai và chiến thắng vang dội địa cầu đi nào..."
"Ừ, biết đâu chiến thắng vang dội địa cầu là của bên kia, còn cậu sẽ là thằng ngu ngồi vào bàn đàm phán." Tôi hất cánh tay Amérique ra đầy bực dọc, sẵn sàng chờ một cơn cáu điên cùng cái giọng bò rống của tên trẻ nghé này vang khắp cái sân bay. Rồi sau đó, có lẽ tôi sẽ nghe chỉ trích suốt một tuần liền chăng?
Nhưng đáp lại tôi chỉ có nụ cười bất đắc dĩ của cậu ta, khi cặp mắt xanh biếc liếc nhanh về phía mấy ngài đeo lon cấp tướng rồi quay lại.
"Chuyện nhà nước muốn thì phải thỏa hiệp thôi. Tôi cũng chẳng hơn gì anh đâu, dù England nói rằng tôi ngu ngốc, hiếu chiến, ngạo mạn, béo ú và tôi toàn cáu lên sau khi nghe ảnh nói thì, tôi biết hết mà. Tôi thế nhưng theo chủ nghĩa hòa bình nhé." Thế rồi, cậu ta toét một nụ cười, hỏi tôi. "Vietnam đẹp lắm không?"
"Đẹp lắm."
"Tốt. Với thẩm mỹ của tên râu dê như anh thì chắc chắn cô ấy rất đẹp rồi." Amérique huýt sáo. "Thế tranh thủ lúc các vị ấy còn đang tán dương nhau, anh em mình nói chuyện tí đi. Ví dụ như bây giờ anh muốn làm gì nhất ấy."
"Về Pháp." Tôi đáp. Thực lòng đến không thể thực lòng hơn.
"Rồi sao nữa? Lại vẽ tranh?"
"England nói với cậu à?"
"Ừ. Anh vẽ tới đâu rồi? Chừng nào xong?"
"Cũng hòm hòm."
"Vẽ xong anh định làm gì? Đem triển lãm sao? Cần tôi tìm chỗ giúp không?" Cậu ta hỏi tiếp với một vẻ hào hứng đến nổi cả da gà, nhất là cách phát âm đầy thân tình ấy.
"Khỏi." Tôi ngước cổ lên nhìn trời. Nền trời xám xịt như báo hiệu cho một đợt giông tố sẽ ùa xuống chỗ này và rồi xoáy tất cả thành một đám hoang tàn. "Tôi sẽ gửi nó cho Liên, cô ấy phải chờ nó tận ba mươi năm rồi. Nếu cô ấy còn nhớ, hay khi ký kết rồi mà Liên vẫn coi tôi là bạn, có lẽ chúng tôi sẽ nhảy với nhau một bản tango."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com