Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

39. Sáu thế kỷ

Đây là lần thứ năm trong đời Trần Minh Hiếu trải qua một lễ tang lớn như thế.

Lần đầu tiên là khi dì hắn mất. Lúc ấy hắn mười lăm tuổi, năm 1478.

Sau đó là cha hắn mất. Năm 1483.

Đám tang tiếp theo hắn tham gia là của Lư Thanh Vũ vào năm 1484.

Tiếp đến là đám tang người em họ của hắn vào năm 1488.

Và đến lần này. Năm 1492, vợ hắn mất vì bệnh.

Minh Hiếu ngồi lặng người bên chiếc giường vợ hắn nằm. Anh Tú không còn thở nữa, tim không đập, lồng ngực không nhấp nhô. Nhìn anh quá đỗi bình thản, đến nỗi Minh Hiếu chẳng suy sụp gì cả. Hắn cứ như một đứa trẻ, không cảm nhận được sự sống và cái chết. 

Hắn không hề có cảm giác là anh đã chết. 

Cho đến khi hắn cúi xuống hôn lên đôi môi của xác chết vẫn còn vương hơi ấm, anh không hôn lại. Không chỉ không hôn lại, anh cũng không thở. Hắn rơi nước mắt, khóc như kẻ mất hồn. Bàn tay của Anh Tú nằm yên trong tay hắn, lặng lẽ. Những lời hắn vừa hát cứ như không tồn tại, vì âm nhạc không chạm đến được một tình yêu rõ ràng vừa nhắm mắt rời đi.

Từ giờ sẽ không còn điều gì như từ trước tới giờ nữa.

Giá như bất kỳ ai hiểu điều đó có nghĩa là gì. Không phải là từ giờ sẽ không còn anh nữa. Không phải là sẽ không còn người vợ đẹp mà hắn yêu hết lòng, và cũng yêu hắn nhiều không kém. Không phải là sẽ không còn những buổi sáng cùng đi dạo, hay những cái hôn lên đầu mũi mỗi đêm trước khi ngủ. 

Chỉ đơn giản là từ giờ trở đi, sẽ không còn bất kỳ thứ gì của từ trước tới giờ nữa.

Minh Hiếu từng tự tin rằng hắn thích nghi rất nhanh. Hắn là kẻ thức thời nhất mà thời đại này từng thấy. Hắn luôn có thể sống sót.

Hắn biết hắn vẫn sẽ luôn như vậy, nhưng chắc chắn sẽ có ai đó hiểu, hắn mong là thế. Hiểu rằng sống sót không có nghĩa là sống. Nho đen không ngọt thì không phải nho đen. Bánh mì nướng không lạt thì không phải là bánh mì nướng. Cà phê chanh không chống say thì không phải là cà phê chanh.

Sống mà không hạnh phúc thì không phải là sống.

Minh Hiếu cúi xuống nhìn thân thể bất động của vợ hắn. Hắn cho rằng cứ như anh thật chẳng phải là sung sướng hơn nhiều hay sao, có thể nhắm mắt lại, không bao giờ phải tỉnh dậy mà nhận ra trái tim đã bị khoét khỏi lồng ngực. Không bao giờ phải nhìn vào gương và nhìn thấy đúng một nửa của chính mình còn tồn tại, nửa còn lại đã bị gặm mất, nham nhở.

Hắn khóc. Khóc như một đứa trẻ, rúc vào ngực anh, đau đớn cố hít lấy mùi hương trong lồng ngực anh, sợ rằng chỉ vài giờ nữa thôi, mùi của anh sẽ phai đi, và anh sẽ biến mất mãi mãi, chỉ còn tồn tại trong ký ức, trong thuốc phiện và nước mắt mà hắn trộn lẫn lên với nhau, đặt vào đầu lưỡi, nhai như nhai một viên thuốc bổ để có thể gắng gượng.

Hắn sợ sẽ quên mất mùi cam thảo, mùi chanh, mùi muối biển của anh. Hắn sợ rằng hắn mất đi từng phần của anh như mất đi từng phần của chính mình.

Minh Hiếu ôm lấy cơ thể nhỏ của anh, siết chặt vào lòng, ngồi yên như một bức tượng.


Hắn lặng lẽ nhìn khi hai hòn sỏi lạnh ngắt được đặt lên trên đôi mắt đã nhắm lại của anh để cầu nguyện cho anh bước đi đúng con đường của thần thánh ở thế giới bên kia. Minh Hiếu siết chặt lấy bàn tay của chính mình trước bụng. Hắn nhìn chằm chằm vào cơ thể Anh Tú nằm trên chiếc quan tài. Làn da anh trắng tái nhợt. Hắn tự nhủ đây là lần cuối hắn nhìn thấy anh.

Vị mục sư nắm lấy mảnh vải voan đắp kín từ mũi chân Anh Tú lên đến ngực, nhấc lên kéo qua đầu anh. Tấm vải liệm che kín đi khuôn mặt như có ma lực của người mà vị chính trị gia yêu đến nỗi sẵn sàng đánh đổi cả Ngân Hàng để tiếp tục ở bên thêm vài năm.

Minh Hiếu siết chặt chiếc thánh giá gỗ trên cổ, ghì xuống. Sợi dây đứt phựt cùng với một âm thanh nhỏ khô khốc, những hạt gỗ rơi xuống sàn, bắn lên như một điệu nhảy, rồi lăn dần ra xa. Hắn tiến lại gần, kéo vải liệm xuống, đặt chiếc thánh giá gỗ xuống dưới hai bàn tay anh.

"Đời này ta nợ anh tình yêu." Hắn thì thầm. "Ta nợ anh cuộc sống."

Hắn nhìn anh lần cuối, không rơi nước mắt. Một ngày qua hắn khóc đã đủ nhiều bằng cả phần còn lại của cuộc đời. Hắn sẽ không khóc nữa. 

Bộ đồ cuối cùng anh mặc trong đời là một bộ đồ thêu chỉ vàng, vải lanh, vải lụa trắng đan xen với nhau nhiều lớp. Những mặt bạc mỏng dính, to bằng mu bàn tay trẻ con lấp lánh trên hai dải áo dài suốt từ vai tới tận đùi. Anh khoác áo cappa đen dài bên ngoài, cổ đeo vòng bạc. Trên ngón tay anh có chiếc nhẫn cưới của Minh Hiếu tặng. Hắn đã trang trí cho cái xác của anh bằng rất nhiều vàng bạc, như một hình thức yêu chiều một người chết. Cuối cùng là một chiếc thắt lưng bản nhỏ, dát vàng, dát bạc, điểm nhấn là một viên hồng ngọc.

Anh rất đẹp kể cả khi anh đi.

Minh Hiếu sờ vào bàn tay của vợ hắn, bàn tay cứng đờ, lạnh ngắt. Hắn không hiểu. Hắn không hiểu họ đã làm gì sai.

Hắn đã tưởng có thể ở bên anh lâu hơn.

Lễ đưa rước bắt đầu. Quan tài được đưa vào xe ngựa, các nicô bắt đầu bước. Đám trẻ con đầu đội khăn trắng rền rĩ bước theo sau. Cứ như một buổi di cư của một đám quạ đầu trắng.

Minh Hiếu bước đi sau cùng trong nhóm người thân. Hắn cứ ngẩng lên nhìn trân trân vào chiếc xe ngựa, mơ hồ nhớ lại những kỷ niệm mà hắn cho là đáng giá. 

Não bộ của hắn hoạt động rất có chọn lọc - hắn từng khẳng định là như vậy.

Hắn muốn nhớ mọi điều về vợ hắn, nên hắn nhớ không sót một ly. Từng câu nói, ánh mắt, từng cái đưa tay, từng bộ đồ anh mặc vào hôm đi lễ ngày Chủ Nhật. Hắn tự hỏi tại sao hắn lại để mất anh. Hắn căm thù, muốn gào thét lên, rồi khóc thật lớn, muốn hồi sinh anh lại như bọn phù thuỷ dùng cấm thuật. Nhưng hắn không làm được như thế, thay vào đó cứ nhìn trân trối chiếc xe ngựa mang theo cơ thể cứng đờ của vợ hắn.

Hắn tưởng rằng trời sẽ mưa, nhưng không. Trời âm u, rên rỉ một điệu nhạc buồn bã.

Trong một giây thật khủng khiếp, mọi việc cứ như đảo lộn lại.

Đám trẻ đang rền rĩ khóc cho cha chúng, kêu gào tên của cha chúng. Người đi sau chúng, đôi môi run rẩy, đội khăn voan đen, là Bùi Anh Tú, suy sụp, sợ hãi, đau khổ vì mất chồng. Kẻ đang nằm trong quan tài là Trần Minh Hiếu.

Hắn cứ tưởng rằng đây là đám tang của hắn. Hắn tưởng rằng nắp quan tài mở, và trong buổi chiều tối âm u ấy, mưa đổ lớn, hắn rơi từ trên trời xuống cùng với cơn mưa, ngã vào trong quan tài, bị vùi xuống hàng tấc đất.

Hắn nhắm chặt mắt, rồi mở ra lần nữa. Vợ hắn vẫn nằm trong quan tài, và người đang bước đi là hắn. Người khóc than là hắn.

Ngày 10 tháng 4 năm 1492, lễ chuyển linh cữu Bùi Anh Tú vào hầm mộ gia tộc họ Trần được hoàn tất. Minh Hiếu lặng lẽ đứng nhìn những con chim bồ câu - không phải màu trắng, mà lông xanh, lốm đốm - bay qua bay lại, rồi đậu lại trên các đỉnh nhọn thấp của toà nhà hầm mộ.

Hắn đứng nhìn tình yêu đã chết.


Tháng 8 năm 1493, Trần Cửu Lưu sang Phù La, đem theo Trần Thanh Sinh vừa được hai tuổi, tá túc tại dinh thự của một Giáo Hoàng để tập tễnh từng bước bước vào Giáo Hội.


Tháng 2 năm 1494, Trần Cửu Lưu 18 tuổi, trở thành một người ai cũng yêu thích. Trần Minh Hiếu nhận được tin ấy thì gửi thư nói cậu bé đẩy nhanh kế hoạch trở thành một phần của Giáo Hội, không có thời gian chờ đợi. Ở Sơn Thu, cậu con trai cả của hắn, Minh Nhật, đã được 10 tuổi, lần đầu được cha đem vào phòng họp Hội đồng khi bàn bạc các kế hoạch và chiến lược. Mọi cuộc họp hắn tham gia, cậu bé cũng được tham gia.

Vấn đề lớn nhất có lẽ là Trần Thân Lân. Cậu bé giao tiếp ít hơn, chẳng mấy khi nói chuyện. Minh Hiếu đã có một vài tác động nhỏ đến đứa trẻ để nó tập trung học về kinh tế và kế toán. Thân Lân thường hay một mình mang theo đuốc, lẻn xuống hầm mộ tìm mộ phần của Anh Tú, ngồi thừ người ra ngắm nhìn bức tượng thạch cao. Minh Hiếu xuống đó một lần vào một buổi sáng thứ 6, và hắn ôm lấy đứa trẻ, lòng đau nhói.


Những năm sau ấy là những năm yên bình.

Đến đầu năm 1498, chiến tranh nổ ra một lần nữa. Trần Minh Hiếu lại cứng rắn áp dụng những chiến lược riêng của bản thân trong mọi cuộc chiến trước. Hắn đóng cổng thành, chỉ mở một cổng nhỏ để lái buôn và các thương nhân, học giả qua lại. Hắn cho người tới Phù La đón hai cậu con trai về. Các con của Anh Tú sẽ an toàn đằng sau hắn, chứ không phải cách hắn cả vạn dặm.

Trong khi Phù La, Mỹ Lai, Viễn Ny và nhiều thành phố khác kiệt quệ nhân lực, lâm vào cảnh đói khát, lầm than, Sơn Thu mở thêm một cuộc triển lãm và chiêu mộ nhân tài mới. Khi các lãnh đạo các cấp của các thành phố ấy gửi thư tới, Minh Hiếu không mở ra đọc. Tới khi sứ giả đến tận nơi truyền lời khiển trách rằng tại sao có thể vui sướng trên sự vất vả của người dân các thành phố bạn, hắn mới nhẹ nhàng xin lỗi vì quá nhiều thư, đọc không xuể. Hắn không gửi binh, nhưng gửi lương thực, vũ khí, thuốc thang cho một phe của chiến tranh. Phe còn lại, hắn gửi thầy thuốc, nhà thơ, các nhân tài chiến lược và một toà pháo đài nằm trên một đầm lầy. Hắn vẫn giữ cổng thành đóng chặt, không mở.

Cùng lúc ấy, hắn cùng Phạm Anh Quân và nhiều học giả đương thời mở ra thêm vài học thuyết và lý luận triết học. Minh Hiếu mời thêm vài người giỏi về dạy các con hắn, đồng thời tuồn thêm tiền bạc đi vỗ về các Giáo Hoàng vì đột ngột đón người về trong thời chiến. Bạc vàng trong Ngân Hàng tụt giảm không phanh, nên hắn mở cửa giao thương ở biên giới, chào đón các vị khách ngoại quốc và cho xuất khẩu sang nước ngoài trở lại các sản phẩm như cá tuyết, gỗ thông, nho đen, rượu vang hảo hạng. Hắn bù lỗ thành công.

Năm 1499, năm cuối cùng của thế kỷ 15, dịch bệnh nổ ra.

Dịch bệnh tới trong chiến tranh. Các binh sĩ khắp nơi đều mắc phải. Minh Hiếu ngay lập tức chớp thời cơ, tung ra đề nghị cầu hoà, xen vào giữa cuộc chiến của các phe phái dưới danh nghĩa bằng hữu, nêu ra những cái tên thuộc gia tộc hắn, gia tộc phe này và phe kia đã và đang sống hỗ trợ lẫn nhau tại Sơn Thu. Đồng thời, hắn nói rằng Sơn Thu đã tìm ra bài thuốc chống lại dịch bệnh, và cái giá của thuốc là hoà bình và thương mại. Hắn mưu cầu hoà bình thêm lần nữa.

Chiến tranh kết thúc trong sự ngờ vực, bất mãn của nhiều phe phái. Nhưng ít nhất nó đã kết thúc.

Dù dịch bệnh hoành hành khắp nơi, trong Sơn Thu tuyệt nhiên không ai nhiễm bệnh. Đó là do chính sách chủ động cách ly thành phố của Minh Hiếu, vì căn bệnh lây lan qua tiếp xúc da thịt. Hắn mua máu từ người bị bệnh, mua lại vài cái xác bệnh tật được bảo quản kỹ càng, đem về cùng với các nhà bác học của hắn nghiên cứu.

Thuốc và các biện pháp phòng tránh, dừng lây lan đã được phát hiện ra. Sơn Thu cho bán thuốc và lãi một khoản lớn. 

Đó là khi vấn đề xảy ra. Khi dịch bệnh tạm chấm dứt, Minh Hiếu đã bất cẩn. Hắn mở cổng thành, đón 780 binh sĩ còn sống sót sau chiến tranh trở về. Hai người trong số đó nhiễm bệnh. Cuối cùng, Sơn Thu trở thành ổ bệnh khổng lồ.

Minh Hiếu ngay lập tức tìm ra hướng giải quyết. Trước tiên, hắn gửi cả bốn đứa con trai tới Phù La, để chúng tá túc trong nhà một người cô mà hắn quen biết và tin tưởng, bắt chúng tránh xa khỏi dịch bệnh. Hắn sẽ không bao giờ để gia đình của mình chết nữa. Hắn mở cửa nhà thờ, đón toàn bộ con bệnh vào trong, phát thuốc thang, phân phối lương thực miễn phí. Hắn không quên phổ cập cho nhân dân rằng đó là vì Sơn Thu có tiền, Ngân Hàng có tiền, nhà họ Trần có tiền, để không còn ai có thứ lý lẽ ngu ngốc như Sa Van La khi xưa. Khi người dân không chịu tin vào việc đốt những vết lở loét do nhiễm bệnh bằng lửa để chặn sự lây lan, cho rằng hắn đang lừa để thiêu sống các con bệnh, Minh Hiếu đã tới tận nơi, cho họ diện kiến hắn.

Hắn lấy máu một người bệnh rưới lên cánh tay chính mình rồi tự đốt cánh tay ấy. Khi lớp da bên ngoài cháy xém, hắn tắt lửa. Dưới mắt nhìn của hàng ngàn dân, hắn không hề nhiễm bệnh sau đó vài ngày hay vài tuần. Họ không biết đó là do hắn không thể bị bệnh.

Dịch bệnh bị đẩy lùi. Sơn Thu bước vào quá trình tái phát triển. Hắn không lỗ nhiều, thậm chí còn có thêm nhiều khoản lãi.

Đêm hôm ấy, một đêm cuối năm 1499, Minh Hiếu bước vào trong căn phòng lâu lắm rồi hắn đã không vào: phòng của vợ hắn.

"Anh à." Hắn lẩm bẩm, nằm lên giường của Anh Tú. Mùi hương của anh không sót lại chút gì. "Ta lại làm được rồi. Lại giải quyết tất cả mọi thứ. Ta đã đón Minh Nhật và Thân Lân về lại Sơn Thu. Hai đứa kia ta đã lại gửi cho các Giáo Hoàng và viết thư nhờ giúp đỡ."

Không ai trả lời. Chẳng ai núp vào hắn và bảo: "Em tuyệt quá. Anh yêu em.". Cũng chẳng ai bảo: "Nếu em mệt thì lại gần đây, anh ôm em ngủ.".

Nước mắt hắn ứa ra không ngừng được. Hắn không nức nở, nhưng cũng không thể dừng khóc.

Hắn ngồi yên trên chiếc giường của vợ hắn, nhìn quanh trong căn phòng đã bỏ trống 5 năm, đầy bụi bẩn. Hắn khóc như trẻ con.

"Ta mệt." Hắn lẩm bẩm. "Ta nhớ anh. Ta mệt mỏi với tất cả những thứ này."

Trong một chốc, hắn tưởng hắn thấy Bùi Anh Tú lại gần trong áo ngủ camicia lụa dài tới gót chân, ôm lấy hắn bằng vòng tay mềm mại, bắp tay mầm mẫm, trắng trẻo đầy yêu thương. Hắn tưởng hắn nghe thấy anh nói.

"Có anh ở đây rồi." Giọng anh thoang thoảng mùi muối biển. "Em không cần phải lo mọi thứ một mình. Gần đây em ngủ ít lắm phải không?"

Hắn gật đầu, nước mắt chảy xuống cổ.

Anh Tú ôm chặt hơn, quỳ trên đầu gối, kéo chồng anh vào lòng.

"Hai năm rồi." Anh lẩm bẩm. "Hai năm chẳng mấy hôm ngủ được một đêm tử tế." Anh cười khúc khích một vẻ đau xót, chiều chuộng. "Đừng nói với anh em sắp bảo em ngủ 8 tiếng trong một tuần nhé?"

Minh Hiếu không trả lời, cắn môi cười, lắc lắc đầu.

"Đừng khóc." Anh hôn lên trán hắn. Là nụ hôn ấy. Là nụ hôn hắn đã không được nhận trong suốt năm năm. "Anh biết em cũng biết mệt mà. Ngủ đi. Hôm nay ngủ đi. Em giỏi lắm. Em ngủ đi. Anh ở đây."

Hắn lặng lẽ ngẩng lên nhìn khuôn mặt đẹp, nhẵn nhụi, trắng trẻo và hiền từ của Anh Tú. Hắn biết rằng đó chỉ là ảo giác, chỉ là một giấc mơ, chỉ là hắn tưởng tượng ra. Nhưng thế thì đã sao?

Hắn đã không ngủ tròn giấc trong hai năm rồi.

Anh Tú nhích nhích người, nằm xuống khi hắn nằm xuống. Anh hôn lên môi hắn. Minh Hiếu mỉm cười.

"Ta yêu anh." Hắn thì thầm.

"Được rồi. Chồng anh cũng biết mệt chứ." Anh nở một nụ cười đau xót.

Hắn ngủ. 

Khi hắn tỉnh dậy đã là giữa trưa. Chẳng ai gọi hắn dậy, chẳng ai biết hắn ở đây. Hắn đã ngủ từ 11 giờ đêm tới 10 giờ sáng.

Đã lâu rồi hắn không được ngủ một giấc dài 6 tiếng, vì hắn luôn bất an và hắn tự giật mình dậy, cuối cùng lại trèo vào bàn làm việc, vắt óc suy tính cho cái mạng của hàng chục, trăm vạn người, bốn đứa con trai, nghệ thuật của thế giới, di sản gia tộc, một cái Ngân Hàng luôn cần hắn chăm lo.

Thế nhưng khi ngủ ở đây, Minh Hiếu không bất an. Đã lâu rồi hắn không ngủ say như vậy.

Hắn biết vợ hắn không ở đó. Hắn biết Anh Tú không ở đó. Hắn nhớ anh. Càng nhớ, càng đau lòng.


Năm 1500, Trần Cửu Lưu chính thức trở thành một trong số những Giáo Hoàng trẻ nhất lịch sử. Trần Lưu Thanh Sinh được người mẹ nuôi - hay Anh Tú vẫn thường trêu chồng anh là người 'vợ hụt' khi anh còn sống - đưa về Sơn Thu. Minh Hiếu dang rộng vòng tay đón cậu con trai trở về.

Minh Hiếu mệt. Hắn không muốn sống nữa.

Hoặc ít nhất hắn muốn thoát vai. Hắn không muốn làm vị chính trị gia này nữa.

Chính khách Trần Minh Hiếu mà không có mỹ nhân họ Bùi thì chỉ là một cái xác sống. Các con hắn còn sống, nên hắn không cam tâm tự tử. Nhưng hắn không muốn làm vị chính khách ấy nữa.

Hắn tự nói với chính mình rằng, khi nào Trần Minh Nhật - con trai cả của hắn - đủ mười tám tuổi, hắn sẽ để lại cho cậu bé cái chức trưởng tộc. Minh Nhật đủ tài giỏi và mưu lược để giữ được chức chủ quản thành bang. Thân Lân 16 tuổi cũng là đủ tuổi trưởng thành, sẽ là kế toán trưởng kiêm quản lý tài sản và các hoạt động ngoại thương, ngoại giao. Thanh Sinh 11 tuổi cũng đã bắt đầu đủ lớn để nhận thức được trách nhiệm của mình rồi.

Khi ấy, hắn sẽ tự tử. Hắn sẽ đặt dấu chấm cho cái tên Chủ quản Ngân Hàng Sơn Thu Trần Minh Hiếu.

Có lẽ hắn vẫn sẽ sống. Nhưng khi ấy sẽ là danh nghĩa khác.


Năm 1502, thế giới chứng kiến cái chết của một kẻ tráng lệ.

Vị chính khách tài giỏi nhất lịch sử đã qua đời.

Cái guồng quay quay nhanh đột ngột. Chỉ một ngày sau khi cha mất, chàng thanh niên Trần Minh Nhật đứng dậy, bước lên cái ghế mà cha anh từng ngồi. Trần Thân Lân lập tức trở thành cánh tay phải của anh trai mình. Trần Lưu Thanh Sinh giật mình thức dậy khỏi giấc mộng của một đứa trẻ, và được người thầy của cậu là Phạm Anh Quân hứa sẽ đào tạo cậu trở thành trụ cột văn hoá, di sản xuất sắc của gia đình. Trần Cửu Lưu quay về từ kinh đô, đem theo các đồng minh của Giáo Hội tham gia tang lễ, rồi ở lại Sơn Thu để hỗ trợ các em nuôi.

Bốn chàng trai đã sẵn sàng để gồng mình lên gánh vác những thứ cha chúng để lại suốt cuộc đời.

Những thế lực bên ngoài lập tức chĩa mũi dùi vào gia tộc họ Trần. Nền hoà bình mong manh mà Trần Minh Hiếu một tay dang ra giữ lấy trên vai bắt đầu lung lay.


Các thế lực đối địch tiếp tục thất bại và thất bại trong guồng quay lịch sử. Bốn cây cột trụ mà Trần Minh Hiếu dựng lên quá chắc chắn. Sẽ hiếm có ai có thể tự tin đào tạo được ra những đứa trẻ tuyệt như hắn làm. 

Năm 1510, một cuộc chiến nhỏ nổ ra. Phe đối địch bắt được Trần Thân Lân và xích tay anh vào hầm ngục được canh gác bởi những người lính gốc La-tinh cổ không thể bị thuyết phục và suy chuyển.

Họ không biết rằng kẻ họ bắt được là người thành thạo tiếng và văn hoá La-tinh cổ nhất trong lịch sử gia tộc họ Trần.

Anh chặt đứt tay trái bị xích của mình bằng một hòn đá, cầm máu bằng vải thô, và lập một kế hoạch thoát khỏi những con quỷ La-tinh. Lạ lùng thay, chúng bị anh thuyết phục chỉ sau một tiếng đồng hồ. Anh chạy về đến dinh thự thì ngất. Trần Minh Nhật tìm thấy em trai mình vào sáng hôm sau và đem anh vào cấp cứu.

"Em làm thế nào mà thoát được?" Minh Nhật hỏi, ngồi ở đuôi giường, luôn chú tâm giữ khoảng cách. Ở cái tuổi 24 chẳng sợ trời chẳng sợ đất, không ai đoán được trong đầu Thân Lân có gì. Anh không muốn mạo hiểm thử.

"Tôi chặt đứt tay."

"Cái đó anh đã biết." Minh Nhật đáp lại. "Em làm thế nào mà thoát được bọn La-tinh?"

"Tôi nói chuyện với chúng, cãi nhau với chúng. Chúng là những kẻ có lý lẽ đấy chứ?" Thân Lân bật cười khô khốc. "Anh không nói chuyện với chúng bao giờ hay sao?"

"Chẳng có ai đủ vốn từ cãi vã với chúng."

"Tôi thì có." 

Minh Nhật chau mày. Từ khi Anh Tú mất vào lúc anh 8 tuổi, Trần Thân Lân bị ám ảnh với những gì anh truyền đạt lại. 

Trên đời, Thân Lân chỉ yêu Bùi Anh Tú và vừa yêu, vừa nể sợ Trần Minh Hiếu. Ngoài ra anh ta chẳng sợ thứ gì. Anh kiềm chế cảm xúc tốt. Chẳng ai đoán được anh.

Minh Nhật không phải ngoại lệ.


Năm 1511, trong cơn nóng giận, Trần Minh Nhật đã hấp tấp tạo ra một cuộc chiến ba chiều theo thế gọng kìm, mà người ở chính giữa hai đầu chiếc kìm ấy lại chính là anh. Tất cả chỉ vì vụ bắt cóc Trần Thân Lân một năm trước.

Anh mất dần từng mảnh đất của Sơn Thu, từng quyền lợi của Sơn Thu. Anh nghĩ rằng anh sắp mất cả gia tộc mà cha anh đã phát triển.

Đó là khi một người đàn ông lạ mặt xuất hiện. Ông ta đeo mặt nạ, thứ mặt nạ tinh xảo từ Viễn Ny, mặc áo choàng cappa xanh đen bên ngoài áo mantle dài tay, tay cầm một chiếc gậy gỗ, hông đeo kiếm bạc. Anh nhận thấy ông ta có gì đó quen thuộc. Có thể vì ông ta đôi khi đưa tay lên chỉnh chiếc kẹp tóc bằng bạc.

Người đàn ông chỉ khoảng 30 tuổi hoặc hơn thế, anh nghĩ vậy. Ông ta có quá nhiều kinh nghiệm và kiến thức đối với một người mới sống 30 năm. Nhưng giọng nói thì lại khá trẻ, dịu dàng, ôn tồn nhưng có gì đó nghiêm khắc, khiến anh nhớ về người cha quá cố của anh.

Ông ta đến với vai trò cố vấn. Những lời khuyên của người đàn ông vực anh dậy. Vực cả gia tộc dậy, cho anh những thứ anh thiếu để đặt Trần Thân Lân vào sợi xích ràng buộc của đạo đức, để cứu lấy gia tộc, và phục hưng lại thành phố.


Năm 1513, khi các vấn đề của Sơn Thu cuối cùng cũng kết thúc, Minh Nhật tới cảm ơn người đàn ông đeo mặt nạ.

"Không." Ông ta nói từ tốn. "Chẳng cần hậu tạ thứ gì. Đời này vàng bạc ta đã có đủ."

"Vậy ngài còn muốn gì khác nữa không?"

"Không."

"Ngài có vui lòng giữ chức vụ quân sư-"

"Không." Người đàn ông ngắt lời. "Ta sẽ đi. Ta đã tự thề sẽ chẳng bao giờ sống cuộc sống của một chính trị gia nữa."

"Vậy tại sao ngài lại đến đây giúp chúng tôi?"

Người đàn ông cúi mình đầy cung kính và trêu đùa, nửa như một chàng quân nhân, nửa như một hiệp sĩ, lại không khác gì một người điếm nhún gối làm vui.

Cái vẻ ấy thực quen thuộc.

Trần Minh Nhật quỳ xuống. Anh khóc.

"Cảm ơn người." Anh nói. "Cảm ơn người. Con xin lỗi vì đã để người lo lắng."

Người đàn ông đeo mặt nạ rời đi, không nói thêm tiếng nào.


Năm 1589, những bước đầu trong quá trình sụp đổ của gia tộc họ Trần xuất hiện.

Trần Minh Hiếu đã quá mệt mỏi với việc xen vào dòng chảy lịch sử ấy. Hắn muốn quên hết đi. Hắn muốn quên đi thế giới từng có Bùi Anh Tú. Hắn muốn sống trong một thế giới có anh, hoặc đừng gợi nhớ nếu đã chẳng có anh.

Nên hắn không tham gia nữa.


Năm 1635, gia tộc họ Trần sụp đổ hoàn toàn. Không còn một di sản nào của phu nhân hắn tồn tại.


Năm 2024, bức tranh khoả thân đầu tiên của Bùi Anh Tú được tìm thấy ở một di tích bến cảng Sơn Thu.

Trần Minh Hiếu rơi nước mắt lần đầu sau hơn 500 năm dài. Hắn lẩm bẩm một mình:

"Tìm thấy anh rồi..."

Lần này, mọi thứ sẽ kết thúc. Không còn phải đợi chờ gì nữa. Chỉ đến khi bức tranh ấy được phục chế hoàn toàn thôi.



------------------------------------

Chương sau END nha cả nhà, có thể sẽ có 1 2 3 phiên ngoại gì gì đó cho vợ chồng họ còn húp nhau kakaka, nhưng mà đến đây end gồi

Tính ra em thấy khổ ông ý quá, người ta làm cứ như ổng không biết mệt ấy huhu, tui chạy 3 4 cái deadline 1 lúc là tui gục gồiii, cái khúc cuối thế kỷ 15 ổng khổ quá trời

Em đặt khá là nhiều tâm huyết vào đây, mong là mọi người có thể thưởng thức toàn tâm toàn ý nhé, đồng hành cùng nhau nốt chương này và một chương nữa hoiiiii

Cảm ơn mọi người, nhớ bình luận và vote ủng hộ em nhé <3

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com