Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Hoang Sa Truong Sa

Theo đó, có ý kiến cho rằng Việt Nam chưa có chiến lược phát triển quốc phòng, an ninh, nhất là trên biển. Hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng chống phá nước ta thông qua nhiều hình thức: phản động nước ngoài kết cấu với phản động trong nước kích động, lôi kéo nhân dân ở các vùng trọng điểm, chống lại Nhà nước; ở vùng sâu, vùng xa, việc truyền đạo trái phép diễn ra phức tạp, làm ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, tình hình biển Đông đang diễn ra rất phức tạp, chưa có biện pháp cụ thể để kiểm soát mọi vấn đề về biển Đông. 

Với những tháng còn lại trong năm, đại biểu đề nghị cần có giải pháp quyết liệt trong vấn đề biển Đông, bảo vệ biển đảo và toàn vẹn lãnh thổ; chú trọng phát triển kinh tế biển, hỗ trợ ngư dân bám biển, tăng cường an ninh, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Cần xem xét thành lập công ty để cùng với ngư dân vươn xa bảo vệ biển, làm chỗ dựa cho ngư dân, mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển nền quốc phòng vững mạnh, nhất là công nghiệp quốc phòng; có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực quốc phòng. Tăng cường cơ sở vật chất cho quốc phòng-an ninh, nâng cao tiềm lực quân sự của đất nước bằng cách kết hợp quốc phòng với kinh tế, gắn với dự án phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. 

Quan tâm, chăm lo các lực lượng hải quân, cảnh sát biển, kiểm ngư, bộ đội biên phòng để duy trì được hiệu lực của luật pháp trên biển; tiếp tục củng cố các cơ sở pháp lý theo luật pháp quốc tế về chủ quyền và quyền chủ quyền đối với biển đảo Việt Nam cũng là góp ý của đại biểu.

Báo cáo cũng cho biết, có ý kiến đề xuất cần tăng cường đối thoại và đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ với các nước láng giềng, trong đó có giải pháp quyết đoán hơn trong mối quan hệ với Trung Quốc, phân biệt hành vi xâm phạm và xâm lược để xử lý phù hợp; phát huy các nhân tố tích cực trong quan hệ quốc tế để giữ gìn hòa bình và ổn định trên biển Đông, thực hiện phòng thủ tốt theo Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị. 

Đồng thời, cần thông tin kịp thời, đầy đủ về công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền trên biển Đông cho các tầng lớp nhân dân và cán bộ, đảng viên; tăng cường tuyên truyền sâu rộng, phát huy tinh thần yêu nước và củng cố lòng tin của nhân dân đối với đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực quốc phòng, an ninh. 

Đặc biệt, để chuẩn bị cho sự kiện kỷ niệm 40 năm Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974, và 35 năm cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979, đề nghị Chính phủ nên chỉ đạo tổ chức những chương trình, sự kiện lớn trong năm 2014 tạo nên cuộc sinh hoạt chính trị rộng rãi trong nhân dân, giúp thế hệ trẻ hiểu hơn lịch sử dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước và ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia.

"Nguy cơ hiện hữu rõ ràng"

Những ngày gần đây, Manila mạnh mẽ và liên tục cáo buộc Bắc Kinh xâm phạm lãnh hải sau khi 3 tàu Trung Quốc, trong đó có một tàu khu trục của Hải quân Trung Quốc “án ngữ” cách 5 hải lý với một tàu căn cứ lỗi thời của Philippines chốt ở một rạn san hô trên Biển Đông để bảo vệ tuyên bố chủ quyền đối với khu vực kể từ năm 1999.

Giới chức Philippines khẳng định, 3 tàu của chính phủ Trung Quốc đã xâm phạm Bãi Cỏ Mây (Thomas 2) lần thứ 2 vào ngày 8/5 và hộ tống một đội tàu cá gồm 30 chiếc vào khu vực này đánh bắt. Hai ngày sau đó, Manila chính thức gửi công hàm phản đối tới Bắc Kinh.

“Trung Quốc phải rút đội tàu khỏi khu vực này vì theo luật pháp quốc tế họ không có quyền án ngữ ở đây”, ông Raul Hernandez, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Philippines, nhấn mạnh sau khi cáo buộc tàu Trung Quốc án ngữ ở đây là hành động khiêu khích và bất hợp pháp.

Tuy nhiên, bỏ ngoài tai tất cả những sự phản đối, chỉ  trích và lên án, tàu hải giám và tàu cá Trung Quốc vẫn tiếp tục ở lại trong khu vực, phát ngôn viên của hải quân Philippines, Đại tá Edgardo Arevalo cho biết.

"Sự hiện diện của các tàu Trung Quốc trong khu vực là mối nguy hiểm hiện thời và rõ ràng", một sĩ quan cao cấp của hải quân Philippines giấu tên nhấn mạnh đồng thời cho biết Bắc Kinh đang cố gây sức ép để ép Manila từ bỏ Bãi Cỏ Mây.

Trong khi đó, các quan chức Philippines khác nhấn mạnh, họ quan ngại đội tàu Trung Quốc sẽ chặn các nguồn cung cấp hậu cần cho khoảng một tá thủy quân đang đồn trú trên tàu căn cứ chốt tại bãi ngầm Thomas 2 và làm leo thang căng thẳng đối với một trong những vấn đề an ninh quan trọng nhất châu Á.

Tàu căn cứ tại Bãi Cỏ Mây của Philippines thực tế là tàu đổ bộ  BRP Sierra Madre lỗi thời và bị Mỹ bỏ rơi. Nó được xem là tiền đồn quân sự cô đơn nhất ở châu Á. Thủy quân Philippines trên tàu này phải sống trong điều kiện hết sức thiếu thốn khi lương thực, thực phẩm phải dựa hoàn toàn vào sự tiếp tế từ đất liền và chỉ được trang bị một máy phát điện.

Trong khi đó, khu vực bãi ngầm Thomas 2 – là cửa ngõ chiến lược vào Bãi Cỏ rong, cách đảo Palawan của Philippines 80 hải lý về phía tây, được cho là chứa đựng nguồn dầu mỏ và khí đốt tự nhiên dồi dào.

Manila nhấn mạnh, Bãi Cỏ rong nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Năm 2010, Philippines trao cho tập đoàn Anglo-Philippines quyền thăm dò khí đốt tại Bãi Cỏ rong nhưng cuối cùng không thể thực hiện vì bị Bắc Kinh điều đội tàu tới quấy rối, ngăn chặn.  

Tàu đổ bộ BRP Sierra Madre, dài 100 m, được Mỹ đóng từ năm 1944 và được Hải quân Philippines tiếp quản từ năm 1976.

Bắc Kinh trắng trợn tuyên bố, Bãi Cỏ rong thuộc phần lãnh thổ của quần đảo Trường Sa bao gồm 250 đảo nhỏ, trải rộng trên 430.000 km2 mà "Trường Sa là của Trung Quốc". Do đó, "Bãi Cỏ rong nghiễm nhiêm cũng là của Trung Quốc và Philippines hoàn toàn không có quyền thăm dò dầu khí hay bất cứ hành động nào trong vùng lãnh thổ của nước này.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hồng Lỗi nhấn mạnh: “Không có gì phải tranh cãi khi các tàu Trung Quốc thực hiện tuần tra các vùng biển này”.

Trước đó, hồi tháng 3, Malaysia cũng lên tiếng phản đối vụ 4 tàu Trung Quốc xâm nhập bãi ngầm James, cách Sarawak trên đảo Borneo khoảng 80 km. Thủy thủ Trung Quốc thậm chí bắn nhiều phát súng lên không  trong suốt thời gian vờn quanh bãi ngầm. Tháng trước, một tàu hải giám lại xâm phạm bãi ngầm James một lần nữa để khẳng định yêu sách chủ quyền của Trrung Quốc.

Rủi ro tính toán sai lầm

Căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines chứng tỏ các tranh chấp trên Biển Đônggiữa các quốc gia và vùng lãnh thổ có tuyên bố chủ quyền chồng chéo đối với khu vực đang ngày càng nóng lên nhanh chóng.

 Ian Storey một học giả tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore bình luận căng thẳng tại Bãi Cỏ Mây có thể còn nguy hiểm hơn tranh chấp tại bãi cạn Scarborough năm ngoái.

“Thật khó có thể tưởng tượng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực để đoạt quyền kiểm soát nhưng nhiều khả năng, Bắc Kinh sẽ phong toả đường tiếp tế hậu cần cho nhóm lính đồn trú của Philippines tại đây, trên chiếc tàu cũ. Nguy cơ leo thang hoặc tính toán sai lầm là hoàn toàn hiện hữu”, ông Ian Storey cho biết.

Căng thẳng xung quanh Bãi Cỏ Mây dẫn đến khả năng Mỹ buộc phải can thiệp để bảo vệ các đồng minh ở Đông Nam Á. Giới quan sát đang trông đợi để thấy phản ứng rõ ràng hơn của Washington trước vấn đề này khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Chuck Hagel sẽ tới Singapore tham dự Đối thoại Shangri-La cùng với các đối tác châu Á-Thái Bình Dương cuối tuần này. Biển Đông là vấn đề quan trọng nằm trên bàn nghị sự của diễn đàn an ninh khu vực trên.

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang nỗ lực để đàm phán với Trung Quốc về việc thiết lập các quy tắc ứng xử trên Biển Đông nhằm hạ nhiệt căng thẳng trong khu vực. Tuy nhiên, Trung Quốc nhấn mạnh, họ sẽ “đàm phán khi thời điểm chín muồi”.

Các Bộ trưởng Ngoại giao của các thành viên ASEAN dự kiến sẽ họp nhóm tại Thái Lan vào tháng 8 để thống nhất quan điểm về các quy tắc ứng xử trên Biển Đông trước khi họp với quan chức Trung Quốc vào cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9 tại Bắc Kinh. 

"Nguy cơ hiện hữu rõ ràng"

Những ngày gần đây, Manila mạnh mẽ và liên tục cáo buộc Bắc Kinh xâm phạm lãnh hải sau khi 3 tàu Trung Quốc, trong đó có một tàu khu trục của Hải quân Trung Quốc “án ngữ” cách 5 hải lý với một tàu căn cứ lỗi thời của Philippines chốt ở một rạn san hô trên Biển Đông để bảo vệ tuyên bố chủ quyền đối với khu vực kể từ năm 1999.

Giới chức Philippines khẳng định, 3 tàu của chính phủ Trung Quốc đã xâm phạm Bãi Cỏ Mây (Thomas 2) lần thứ 2 vào ngày 8/5 và hộ tống một đội tàu cá gồm 30 chiếc vào khu vực này đánh bắt. Hai ngày sau đó, Manila chính thức gửi công hàm phản đối tới Bắc Kinh.

“Trung Quốc phải rút đội tàu khỏi khu vực này vì theo luật pháp quốc tế họ không có quyền án ngữ ở đây”, ông Raul Hernandez, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Philippines, nhấn mạnh sau khi cáo buộc tàu Trung Quốc án ngữ ở đây là hành động khiêu khích và bất hợp pháp.

Tuy nhiên, bỏ ngoài tai tất cả những sự phản đối, chỉ  trích và lên án, tàu hải giám và tàu cá Trung Quốc vẫn tiếp tục ở lại trong khu vực, phát ngôn viên của hải quân Philippines, Đại tá Edgardo Arevalo cho biết.

"Sự hiện diện của các tàu Trung Quốc trong khu vực là mối nguy hiểm hiện thời và rõ ràng", một sĩ quan cao cấp của hải quân Philippines giấu tên nhấn mạnh đồng thời cho biết Bắc Kinh đang cố gây sức ép để ép Manila từ bỏ Bãi Cỏ Mây.

Trong khi đó, các quan chức Philippines khác nhấn mạnh, họ quan ngại đội tàu Trung Quốc sẽ chặn các nguồn cung cấp hậu cần cho khoảng một tá thủy quân đang đồn trú trên tàu căn cứ chốt tại bãi ngầm Thomas 2 và làm leo thang căng thẳng đối với một trong những vấn đề an ninh quan trọng nhất châu Á.

Tàu căn cứ tại Bãi Cỏ Mây của Philippines thực tế là tàu đổ bộ  BRP Sierra Madre lỗi thời và bị Mỹ bỏ rơi. Nó được xem là tiền đồn quân sự cô đơn nhất ở châu Á. Thủy quân Philippines trên tàu này phải sống trong điều kiện hết sức thiếu thốn khi lương thực, thực phẩm phải dựa hoàn toàn vào sự tiếp tế từ đất liền và chỉ được trang bị một máy phát điện.

Trong khi đó, khu vực bãi ngầm Thomas 2 – là cửa ngõ chiến lược vào Bãi Cỏ rong, cách đảo Palawan của Philippines 80 hải lý về phía tây, được cho là chứa đựng nguồn dầu mỏ và khí đốt tự nhiên dồi dào.

Manila nhấn mạnh, Bãi Cỏ rong nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Năm 2010, Philippines trao cho tập đoàn Anglo-Philippines quyền thăm dò khí đốt tại Bãi Cỏ rong nhưng cuối cùng không thể thực hiện vì bị Bắc Kinh điều đội tàu tới quấy rối, ngăn chặn.  

Tàu đổ bộ BRP Sierra Madre, dài 100 m, được Mỹ đóng từ năm 1944 và được Hải quân Philippines tiếp quản từ năm 1976.

Bắc Kinh trắng trợn tuyên bố, Bãi Cỏ rong thuộc phần lãnh thổ của quần đảo Trường Sa bao gồm 250 đảo nhỏ, trải rộng trên 430.000 km2 mà "Trường Sa là của Trung Quốc". Do đó, "Bãi Cỏ rong nghiễm nhiêm cũng là của Trung Quốc và Philippines hoàn toàn không có quyền thăm dò dầu khí hay bất cứ hành động nào trong vùng lãnh thổ của nước này.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hồng Lỗi nhấn mạnh: “Không có gì phải tranh cãi khi các tàu Trung Quốc thực hiện tuần tra các vùng biển này”.

Trước đó, hồi tháng 3, Malaysia cũng lên tiếng phản đối vụ 4 tàu Trung Quốc xâm nhập bãi ngầm James, cách Sarawak trên đảo Borneo khoảng 80 km. Thủy thủ Trung Quốc thậm chí bắn nhiều phát súng lên không  trong suốt thời gian vờn quanh bãi ngầm. Tháng trước, một tàu hải giám lại xâm phạm bãi ngầm James một lần nữa để khẳng định yêu sách chủ quyền của Trrung Quốc.

Rủi ro tính toán sai lầm

Căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines chứng tỏ các tranh chấp trên Biển Đônggiữa các quốc gia và vùng lãnh thổ có tuyên bố chủ quyền chồng chéo đối với khu vực đang ngày càng nóng lên nhanh chóng.

 Ian Storey một học giả tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore bình luận căng thẳng tại Bãi Cỏ Mây có thể còn nguy hiểm hơn tranh chấp tại bãi cạn Scarborough năm ngoái.

“Thật khó có thể tưởng tượng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực để đoạt quyền kiểm soát nhưng nhiều khả năng, Bắc Kinh sẽ phong toả đường tiếp tế hậu cần cho nhóm lính đồn trú của Philippines tại đây, trên chiếc tàu cũ. Nguy cơ leo thang hoặc tính toán sai lầm là hoàn toàn hiện hữu”, ông Ian Storey cho biết.

Căng thẳng xung quanh Bãi Cỏ Mây dẫn đến khả năng Mỹ buộc phải can thiệp để bảo vệ các đồng minh ở Đông Nam Á. Giới quan sát đang trông đợi để thấy phản ứng rõ ràng hơn của Washington trước vấn đề này khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Chuck Hagel sẽ tới Singapore tham dự Đối thoại Shangri-La cùng với các đối tác châu Á-Thái Bình Dương cuối tuần này. Biển Đông là vấn đề quan trọng nằm trên bàn nghị sự của diễn đàn an ninh khu vực trên.

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang nỗ lực để đàm phán với Trung Quốc về việc thiết lập các quy tắc ứng xử trên Biển Đông nhằm hạ nhiệt căng thẳng trong khu vực. Tuy nhiên, Trung Quốc nhấn mạnh, họ sẽ “đàm phán khi thời điểm chín muồi”.

Các Bộ trưởng Ngoại giao của các thành viên ASEAN dự kiến sẽ họp nhóm tại Thái Lan vào tháng 8 để thống nhất quan điểm về các quy tắc ứng xử trên Biển Đông trước khi họp với quan chức Trung Quốc vào cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9 tại Bắc Kinh. 

Ngày 27/5 vừa qua, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị phản đối mạnh mẽ việc tàu sắt Trung Quốc đâm một tàu cá Việt Nam hôm 20/5.

Tàu sắt Trung Quốc đâm tàu cá Quảng Ngãi hôm 20/5. Ảnh: Trí Tín

"Hành động của các tàu Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, đe dọa đến tính mạng và gây thiệt hại về tài sản của ngư dân Việt Nam. Hành động này cũng đi ngược lại Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc, trái với tinh thần Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây phức tạp thêm tình hình trên biển", phát ngôn viên ngoại giao Việt Nam nêu rõ.

"Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc xử lý nghiêm khắc các hành vi của các tàu nói trên, bồi thường thỏa đáng cho ngư dân Việt Nam, và không để tái diễn các vụ việc tương tự", ông Nghị nêu rõ.

Trong khi đó, tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 28/5, khi các phóng viên quốc tế đặt câu hỏi về phản ứng của Trung Quốc trước việc tàu sắt nước này đâm tàu cá Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi lại trắng trợn nói tàu cá Việt Nam "đánh bắt trong vùng biển Hoàng Sa của họ", đồng thời nhấn mạnh tàu sắt Trung Quốc đâm tàu cá Việt Nam là "thực thi nhiệm vụ trên biển".

Ông Hồng Lỗi ngông cuồng khi nói ngư dân Việt Nam "đánh bắt trái phép trong vùng biển Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam) của nước này".

Ông Hồng Lỗi trong buổi họp báo thường kỳ hôm 28/5

Ngày 20/5, tàu cá số hiệu QNg 90917 TS của tỉnh Quảng Ngãi cùng 15 ngư dân đã bị các tàu của Trung Quốc ngăn cản, tấn công khi đang đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.

Theo mô tả của ngư dân tàu QNg90917 TS thì chiếc tàu Trung Quốc mang số hiệu 264 đã đâm thẳng vào tàu cá Quảng Ngãi gây hỏng mạn tàu, be phải tàu bị gãy dài 17 m; be phía sau gãy 6,8 m; 4 đà ngang, ca bin cũng gãy, ba bóng đèn (mỗi bóng 1.000 W) vỡ toác... Ước tính tổng thiệt hai 100 triệu đồng, chưa kể chi phí nhiên liệu tốn thêm hàng chục triệu đồng vì hành trình trở về cảng mất thêm nửa ngày. (theo báo Vnexpress)

Ngư dân tàu QNg90917 TS nói tàu sắt 264 của Trung Quốc lớn gấp bốn lần nên khi bị nó đâm vào làm tàu cá hư hỏng nặng.

Tàu cá QNg 90917 TS là loại hành nghề lưới rút có công suất 340 CV, công nghệ hiện đại, được trang bị hệ thống thiết bị ánh sáng cao áp, giàn kéo lưới bằng máy, cần cẩu để nhấc giàn chì lưới nặng hàng tấn. Theo ngư dân tàu cá Quảng Ngãi, nếu tàu công suất nhỏ hơn thì có thể họ đã bỏ xác ở vùng biển Hoàng Sa.

Trong diễn biến khác, kênh truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV hôm 27/5 nói hải quân Trung Quốc hoàn tất cuộc tập trận ở Biển Đông vào hôm 24/5 vừa qua, với sự góp mặt của 5 binh chủng của 3 hạm đội hải quân nước này gồm Nam Hải, Đông Hải và Bắc Hải, cùng nhiều chiến hạm, tàu ngầm và lực lượng không quân hải quân Trung Quốc.

Trung Quốc tập trận bất thường ở Biển Đông- Ảnh chụp màn hình

Tuy nhiên, truyền thông Trung Quốc không nói rõ vị trí cụ thể trên Biển Đông - nơi diễn ra cuộc tập trận cũng như số lượng quân nhân và đơn vị, thiết bị tham gia.

Đây được cho là cuộc tập trận chung đầu tiên của ba hạm đội Trung Quốc gồm Nam Hải, Đông Hải và Bắc Hải kể từ năm 2010 đến nay.

Trả lời phỏng vấn TS về vấn đề này, Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược, Bộ Công an nói:

"Xưa nay, mọi việc làm của Trung Quốc đều có động cơ, mục đích chính trị nhất định. Đặc biệt, Trung Quốc huy động cả ba hạm đội Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải tham gia tập trận ở Biển Đông trong bối cảnh hiện nay càng không phải chuyện bình thường.

Theo tôi, Trung Quốc tập trận quy mô lớn như vậy có nhiều mục đích, thứ nhất họ muốn huấn luyện quân. Thứ hai, họ muốn gửi thông điệp ngầm tới các nước có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, cũng như các nước không có tranh chấp chủ quyền Biển Đông như Nhật Bản, Philippines, xa hơn nữa là Ấn Độ, Mỹ rằng các nước nên coi chừng sức mạnh quân sự Trung Quốc".

Trung Quốc càng hung hăng, các nước càng cứng rắn

Với sức mạnh quân sự ngày càng gia tăng, Trung Quốc ngỡ rằng họ có thể sử dụng thế của kẻ mạnh để bắt nạt, dọa dẫm các nước láng giềng nhỏ bé hơn đang có tranh chấp lãnh thổ với họ ở Biển Đông và biển Hoa Đông. Tuy nhiên, thời gian chứng minh, Trung Quốc càng hiếu chiến, các nước đối đầu với họ càng trở nên cứng rắn và quyết liệt.

Trung Quốc đang là cường quốc số 1 của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương và là siêu cường số 2 thế giới. Vì thế, chẳng ai có thể phủ nhận sức mạnh của quốc gia đông dân nhất thế giới này. Bản thân Trung Quốc cũng hiểu rõ họ có sức mạnh vượt trội so với các nước láng giềng xung quanh họ. Tuy nhiên, Bắc Kinh lại dường như đánh giá thấp ý chí và tinh thần của những nước nhỏ. Dù Trung Quốc đã cố gắng tận dụng lợi thế sức mạnh “cơ bắp” của họ để uy hiếp, dọa dẫm nhằm buộc các nước nhỏ phải khuất phục, nhượng bộ trước họ nhưng kết quả mà họ nhận được là sự “bẽ bàng”.

Cường quốc Châu Á đã phải đối diện với sự thách thức ngày càng lớn và quyết liệt từ các nước láng giềng có tranh chấp với họ. Các nước này tỏ rõ quyết tâm sẽ không lùi bước trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải với Trung Quốc.

Philippines sẵn sàng chiến đấu “đến người cuối cùng”

Sau vụ va chạm giữa tàu chiến Philippines với tàu hải giám Trung Quốc ở bãi cạn Scarborough hồi tháng 4 năm ngoái, hai nước này đã rơi vào một cuộc tranh chấp căng thẳng chưa từng có ở Biển Đông.

Trong suốt nhiều tháng qua, Trung Quốc đã dùng rất nhiều cách để gây sức ép và uy hiếp Philippines nhằm buộc nước này phải nhượng bộ trong cuộc đối đầu mới nhất ở vùng tranh chấp. Ngoài việc liên tiếp tung ra những lời cảnh báo, đe dọa, Bắc Kinh còn phô trương sức mạnh của mình để thị uy đối phương. Trung Quốc liên tiếp đưa tàu thuyền đến các vùng tranh chấp để quấy nhiễu tàu thuyền đối phương. Thậm chí nước này còn chiếm hẳn bãi cạn Scarborough, ngăn không cho tàu thuyền Philippines tiếp cận vào nơi đây.

Đáp lại những động thái ngày một leo thang trong tranh chấp biển đảo của Trung Quốc , Philippines đã thể hiện sự cứng rắn, sẵn sàng đối đầu trực diện với nước láng giềng chứ không hề e ngại gì. Một trong những động thái cứng rắn nhất của Philippines trong thời gian vừa qua chính là vụ Lực lượng Bảo vệ Bờ biển nước này đã xả súng như mưa vào tàu cá của Đài Loan, khiến một ngư dân thiệt mại. Theo các nguồn tin, Philippines đã bắn gần 50 phát đạn vào tàu Đài Loan sau khi con tàu này bị cáo buộc xâm phạm vào lãnh thổ của Philippines và có hành động hung hăng. Đây được xem như phát súng cảnh cáo mà Manila muốn nhằm vào Bắc Kinh.

Philippines cũng tiếp tục đẩy nhanh tiến trình đưa cuộc tranh chấp với Trung Quốc ra tòa án quốc tế và thúc giục ASEAN tìm kiếm một lập trường chung trước những hành động hiếu chiến của Trung Quốc ở Biển Đông.

Song song với những bước đi như trên, Manila cũng đang mạnh tay đầu tư cho việc nâng cao sức mạnh quân sự và thắt chặt quan hệ với các nước có cuộc đối đầu giống như họ với Trung Quốc. Mới đây, Tổng thống Philippines vừa thông báo sẽ đổ thêm 1,8 tỉ USD vào việc tăng cường năng lực cho Hải quân nước này để đối phó với Trung Quốc.

Sự cứng rắn và thách thức của Philippines còn thể hiện qua những phát biểu không hề kiêng dè của giới lãnh đạo nước này.

Trong khi thông báo về khoản đầu tư mới cho Hải quân Philippines , Tổng thống Aquino hôm 21/5 cũng tuyên bố: "Chúng ta đã đưa ra một thông điệp rõ ràng cho thế giới. Đất nước Philippines là của người Philippines và chúng ta có năng lực cũng như sức mạnh để chống lại những kẻ bắt nạt đang xâm nhập vào sân sau của chúng ta”.

Vài ngày sau, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Voltaire Gazmin đã thề sẽ chiến đấu với Trung Quốc “đến người cuối cùng”. Trong khi đó, Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã thẳng thừng lên án việc Trung Quốc đòi chủ quyền dựa trên đường 9 đoạn bao trùm gần toàn bộ Biển Đông là “quá đáng”.

Sau sự kiện Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Philippines bắn chết một ngư dân của Vùng lãnh thổ Đài Loan, Trung Quốc có vẻ như hơi choáng váng trước sự tự tin và có phần thách thức của nước láng giềng nhỏ bé bên cạnh mình. Một tờ báo của Trung Quốc mới đây đã đi phân tích, tìm kiếm lý do về việc tại sao một nước “yếu hơn như Philippines ” lại “quá tự tin” như vậy khi đối đầu với họ.

Nhật Bản quyết liệt đối phó với Trung Quốc

Trung Quốc và Nhật Bản đang có cuộc tranh chấp nóng bỏng ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư thuộc biển Hoa Đông. Bắc Kinh đang lấn tới ngày một mạnh mẽ trong quyết tâm phá vỡ sự nguyên trạng ở đây, giành lại quyền kiểm soát quần đảo tranh chấp từ tay Tokyo .

Tuy nhiên, quyết tâm của Trung Quốc đang vấp phải ý chí sắt đá của nước láng giềng Nhật Bản. Chính quyền Tokyo cho thấy, họ sẽ “chơi đến cùng” với Bắc Kinh trong cuộc tranh chấp ở biển Hoa Đông này. Sự quyết liệt của Nhật Bản đã được thể hiện rõ nét trong suốt nhiều tháng qua.

Hồi năm ngoái, Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Nhật Bản từng đâm thủng tàu Trung Quốc và bắn súng vòi rồng vào con tàu này khi nó xâm nhập vào vùng biển tranh chấp. Sau đó, Nhật Bản còn tiến hành bắt giữ tất cả 14 người đi trên tàu Trung Quốc. Sự quyết liệt của Nhật Bản cho thấy, họ sẽ không để cho Trung Quốc dễ dàng bắt nạt họ.

Sau diễn biến trên Bắc Kinh đã có nhiều hành động mạnh mẽ, từ cảnh báo Nhật Bản “phải trả giá” cho đến đe dọa “chiến tranh” nhưng điều đó chẳng khiến Tokyo nao núng. Không những thế, Nhật Bản liên tục có những hành động “ăn miếng trả miếng” đầy thách thức với Trung Quốc. Bắc Kinh liên tiếp đưa tàu thuyền lượn lờ quanh vùng tranh chấp thì Tokyo cũng triển khai tàu thuyền để đối phó. Tàu thuyền hai bên đã không ít lần có những cuộc đối đầu, rượt đuổi đầy nguy hiểm ở gần Senkaku/Điếu Ngư. Trung Quốc leo thang đưa máy bay, chiến đấu cơ đến vùng trời ở khu vực tranh chấp thì Nhật Bản cũng đáp lại bằng việc triển khai các máy bay chiến đấu hiện đại đi chặn máy bay đối phương.

Trong mấy ngày liên tiếp trong tháng 5 này, Nhật Bản liên tục phát hiện tàu ngầm Trung Quốc lượn lờ gần đảo Okinawa của họ và Tokyo đã không ngừng chỉ trích, lên án hành động của Trung Quốc. Nhật Bản còn thách thức Trung Quốc khi công khai ủng hộ Philippines trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông bằng việc cấp thêm tàu tuần tra hiện đại cho quốc gia Đông Nam Á.

Triều Tiên dám "nắn gân" đồng minh lớn Trung Quốc

Trung Quốc và Triều Tiên vốn được coi là một trong những cặp đồng minh gắn bó bền vững hàng đầu thế giới. Trung Quốc vừa là đồng minh lớn nhất cũng vừa là nhà tài trợ lớn nhất của Triều Tiên. Quan hệ giữa hai nước này được gắn bó bởi lợi ích sống còn. Bình Nhưỡng cần Bắc Kinh trong cuộc đối đầu với các cường quốc. Trong khi đó, Bắc Kinh cần Bình Nhưỡng với tư cách là vùng đệm an toàn cho Trung Quốc. Những tưởng mối quan hệ Trung-Triều sẽ không bao giờ có thể rạn nứt nhưng mới đây, người ta đã chứng kiến những mâu thuẫn rõ nét nổi lên giữa hai nước này. Tất cả xuất phát từ việc Triều Tiên không hề kiêng dè đồng minh lớn của mình mà sẵn sàng hành động theo kiểu “vuốt mặt không nể mũi”.

Hôm 5/5 vừa rồi, những người Triều Tiên không rõ danh tính mặc quân phục đã bất ngờ bắt giữ một tàu cá cùng với các ngư dân Trung Quốc. Không những thế, những người Triều Tiên còn đòi một số tiền chuộc lớn. Chưa hết, thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc bị bắt giữ còn tố cáo, nhóm người Triều Tiên đã giữ tàu và các ngư dân của họ suốt hai tuần, đánh đập và rút ruột nhiên liệu trên tàu.

Động thái đầy thách thức trên của phía Triều Tiên không chỉ khiến chính phủ Trung Quốc bực tức mà còn gây ra một làn sóng nổi giận của báo chí và người dân nước này. Trước đó, báo giới và nhiều người dân Trung Quốc từng tỏ ra mất kiên nhẫn trước việc Bình Nhưỡng có tham vọng theo đuổi vũ khí hạt nhân, gây ra mối đe dọa cho khu vực.

Đây không phải là lần đầu tiên Triều Tiên bắt giữ tàu thuyền Trung Quốc. Hồi năm ngoái cũng từng xảy ra một vụ việc tương tự và nó đã khiến Bắc Kinh cảm thấy vô cùng mất mặt.

Sau những cuộc đối đầu trên, giờ đây, có lẽ Trung Quốc đã hiểu ra một điều, dù có sức mạnh và thực lực vượt trội, họ cũng chẳng thể dễ dàng uy hiếp hay bắt nạt các nước láng giềng nhỏ xung quanh mình.

Căng thẳng ở Châu Á dễ bùng phát thành xung đột

Philippines hôm 23/5 cảnh báo, tranh chấp lãnh thổ ở Châu Á “đang gây ra tình hình căng thẳng nghiêm trọng có thể leo thang thành xung đột” khi nhiều nước cùng đối đầu với Trung Quốc.

Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario tại một hội nghị ở Tokyo đã nói, việc “Trung Quốc đòi chủ quyền dựa trên đường 9 đoạn bao trùm gần toàn bộ Biển Đônglà quá đáng”.

Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Voltaire Gazmin mới đây đã thề sẽ chiến đấu với Trung Quốc “đến người cuối cùng” khi phát hiện một tàu chiến và một nhóm tàu đánh cá Trung Quốc xuất hiện ở gần bãi cạn Second Thomas thuộc Biển Đông. Bãi cạn này là một nhóm đảo và rạn san hô nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Namnhưng hiện do Philippines chiếm đóng. Manila đã lên án hành động của Trung Quốc là “khiêu khích và bất hợp pháp”.

Ở biển Hoa Đông, Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Nhật Bản cho biết, họ đã phát hiện 3 tàu của chính phủ Trung Quốc lượn lờ suốt 9 giờ đồng hồ hôm 23/5 ở vùng lãnh hải xung quanh quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư đang nằm trong sự kiểm soát của Tokyo. Các tàu hải giám Trung Quốc xuất hiện ở khu vực thuộc phạm vi 12 hải lý so với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trước lúc 9h30 sáng theo giờ địa phương và chỉ rời đi vào khoảng 6h30 chiều cùng ngày.

Trong lần bùng phát đối đầu mới nhất vì tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông hiện nay, Trung Quốc đang tăng cường năng lực hải quân ở Thái Bình Dương và nước này cũng thường xuyên bị các nước láng giềng chỉ trích vì lập trường ngày càng hiếu chiến trong khu vực, đặc biệt là trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ đa phương.

Trung Quốc tuyên bố đòi chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông, thậm chí ở cả những vùng lãnh hải cách rất xa đại lục chính của họ và tiến sát gần đến bờ biển của các quốc gia Đông Nam Á.

Căng thẳng trong khu vực Biển Đông và biển Hoa Đông leo thang từng ngày khi Trung Quốc ngày càng trở nên hiếu chiến và hung hăng trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải. Manila cảnh báo, tình hình căng thẳng cao độ này rất dễ bùng phát thành xung đột.

4. Quần đảo Hoàng Sa: Hoàng Sa là một quần đảo san hô nằm giữa biển Đông. Từ lâu, Hoàng Sa cũng như Trường Sa đã thuộc lãnh thổ Việt Nam với tên Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa. Quần đảo Hoàng Sa nằm ngang vĩ độ với Huế và Đà Nẵng. Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo trong vùng biển rộng khoảng 15.000km2, trực thuộc Đà Nẵng.

5. Quần đảo Trường Sa: Cách quần đảo Hoàng Sa khoảng trên 200 hải lý về phía đông nam. Quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 100 đảo nhỏ, bãi ngầm, bãi san hô nằm trải rộng trong một vùng biển khoảng 180.000km2, trực thuộc Khánh Hòa. Chiều đông-tây của quần đảo Trường Sa là 325 hải lý, chiều bắc-nam là 274 hải lý. Cách Cam Ranh 248 hải lý, cách đảo Hải Nam, Trung Quốc 595 hải lý.

Đảo và quần đảo nước ta có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt trong các ngành kinh tế biển như vận tải biển, đóng tàu, ngư nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản, chế biến thủy hải sản và các ngành liên quan, có vai trò lớn lao trong công cuộc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ta.

Nhìn chung, các thành tạo địa hình bờ biển và đảo trên đây có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển kinh tế biển. Đây là điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho khai thác - chế biến hải sản, giao thông vận tải đường biển, du lịch - thể thao - nghỉ dưỡng, v.v... Ngoài ra, một số thành tạo địa hình có giá trị thẩm mỹ còn được sử dụng trực tiếp cho khách tham quan phong cảnh. Mặt khác, các thành tạo địa hình bờ biển và đảo còn là kho lưu trữ các loại tài nguyên khác của biển như thổ nhưỡng và sinh vật.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA

Thứ ba, 27 Tháng 4 2010 02:12

Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam từ lâu đời. Nhưng do hai quần đảo này nằm ở vị trí chiến lược trọng yếu trên Biển Đông, đồng thời lại là nơi có tiềm năng to lớn về tài nguyên, đặc biệt là dầu lửa, nên từ đầu thế kỷ XX nhiều nước đã và đang tìm mọi cách xâm chiếm.

Có thể nói hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các đảo vô chủ cho đến thế kỷ XVII, tức là khi Nhà nước của Việt Nam tiến hành những hoạt động xác lập và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo theo quy định của của luật pháp đương đại.  Việc chiếm hữu của Nhà nước Việt Nam là thật sự, rõ ràng và đã thiết lập được một cơ chế Nhà nước thích hợp để kiểm soát, quản lý, bảo vệ hai quần đảo và thực hiện trên thực tế quyền tài phán ở đó.

Qua nghiên cứu các tài liệu được tìm thấy trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể thấy rằng : Nhà nước Việt Nam trước kia là người đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và tiến hành quản lý, khai thác với danh nghĩa Nhà nước đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là những quần đảo chưa hề thuộc chủ quyền của bất kỳ một quốc gia nào; việc chiếm hữu và thực hiện chủ quyền của Nhà nước Việt Nam từ trước đến nay đối với hai quần đảo là thực sự liên tục và hoà bình, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế đương thời và hiện đại.

Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836) Bộ Công dâng sớ tâu lên vua: Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực biển nước ta, hết sức hiểm yếu. Sách Đại Nam nhất thống chí viết : "Phía Đông có bãi cát nằm ngang (đảo Hoàng Sa) liền với biển xanh làm hào bao che". Trong sách "Hải Lục" của Trung Quốc viết năm 1842 cũng nhận xét: "Vạn lý Trường Sa gồm những bãi cát nổi trên biển dài mấy ngàn dặm, làm phên dậu bên ngoài của nước An Nam".

Trong bản đồ Biển Đông (Sinensis Oceanus) của anh em Van Langren người Hà Lan in năm 1595 cũng như trong bản đồ "Indiae Orientalis" của nhà hàng hải Meccato in năm 1633, đã vẽ hải quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thành một dải liền nhau, hình lá cờ đuôi nheo nằm trải dài ngoài khơi dọc theo bờ biển miền Trung Việt Nam, trong đó có rất nhiều chấm nhỏ biểu thị các hòn đảo, bãi cát với hàng chữ Isle de Pracel (quần đảo Pracel). Trong bản đồ này trên bờ biển ở khu vực Đà Nẵng hiện nay có ghi dòng chữ Costa de Pracel (bờ biển Pracel).

Trong một công trình của mình, nhà nghiên cứu M.G. Dumoutier đã đề cập đến một tập bản đồ Việt Nam vẽ vào cuối thế kỷ 15 gồm 24 mảnh, trong đó có mảnh thứ 19 đã thể hiện rõ ràng ở ngoài khơi tỉnh Quảng Nghĩa có một bãi cát trải dài 500 - 600 hải lý mang tên Bãi Cát Vàng.

Tác phẩm Phủ biên tạp lục của nhà bác học Việt Nam Lê Quý Đôn (1726 - 1784), viết năm 1776, đã ghi chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc phủ Quảng Nghĩa): ''Phủ Quảng Nghĩa, ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn có núi gọi là cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, trước có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến; phía ngoài nữa có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để đi lấy, đi ba ngày đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải''.[1]

Việt Nam đã củng cố sự chiếm hữu và xác lập chủ quyền của mình thông qua các hoạt động quản lý và khai thác thực tế: Việc tổ chức các đội Hoàng Sa để tiến hành khai thác với tư cách Nhà nước, đội Hoàng Sa sau này được tăng cường thêm đội Bắc Hải để khai thác quần đảo Trường Sa, được duy trì và hoạt động liên tục từ thời các chúa Nguyễn (1558-1783) đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và Nhà Nguyễn sau đó.

Vua Gia Long, người sáng lập đời nhà Nguyễn và các vua kế tiếp như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều quan tâm củng cố chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo. Năm 1815, vua Gia Long cử Phạm Quang Ảnh dẫn đội Hoàng Sa ra quần đảo Hoàng Sa tiến hành khảo sát và đo đạc đường biển, công việc này còn được tiến hành tiếp tục trong nhiều năm tiếp theo. Sau đó, trong các năm 1834, 1835, 1836 vua Minh Mạng đã cử các tướng Phạm Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật ra Hoàng Sa đo đạc từng đảo, khảo sát tình hình biển chung quanh, vẽ bản đồ và xây miếu, dựng bia. Vua Thiệu Trị đã trực tiếp phê duyệt kế hoạch hoạt động hàng năm của đội Hoàng Sa do Bộ Công đệ trình. Vua Tự Đức đã phong cho những chiến sĩ đội Hoàng Sa hy sinh danh hiệu "Hùng binh Trường Sa".[2]

Sau khi thiết lập chế độ bảo hộ đối với Việt Nam theo Hiệp ước ngày 6 tháng 6 năm 1884 trong đó công nhận quyền bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam, Pháp đã nhân danh Việt Nam cai quản hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; chủ yếu tiến hành các cuộc tuần tiễu trong vùng, dùng tàu của lực lượng hải quan ngăn chặn việc buôn lậu. Bên cạnh những việc đó, chính quyền Pháp đã cho tiến hành hàng loạt các hoạt động nghiên cứu, điều tra, khảo sát về hải dương, địa chất và sinh vật ở khu vực hai quần đảo.

Nhằm củng cố chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo, trong những năm đầu của thập kỷ 30 của thế kỷ XX, các đơn vị hải quân của chính quyền Pháp đã lần lượt đến đóng quân trên các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa. Hành động này đã được công bố và ghi nhận trong công báo nước Cộng hoà Pháp ngày 26 tháng 7 năm 1933. Cùng trong năm 1933, quần đảo Trường Sa đã được quy thuộc vào tỉnh Bà Rịa theo một Nghị định của Thống đốc Nam kỳ J.Krautheimer.[3] Ngày 15 tháng 6 năm1938, Toàn quyền Đông Dương Brévie đã ban bố Sắc lệnh xác lập đơn vị hành chính trên quần đảo Hoàng Sa, Cũng trong năm 1938, Pháp đã cho dựng bia chủ quyền, xây dựng xong đèn biển, trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở quần đảo Hoàng Sa; xây dựng trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở quần đảo Trường Sa.

Năm 1939, Pháp đã phản đối việc Nhật Bản tuyên bố một số đảo trên quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Nhật Bản.[4] Năm 1947, Pháp đã yêu cầu quân đội Trung Hoa dân quốc rút quân khỏi các đảo của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ đã chiếm đóng trái phép từ cuối năm 1946 và Pháp đã cho quân ra thay thế quân đội Trung Quốc, đồng thời cho xây dựng lại trạm khí tượng và đài vô tuyến điện.

Năm 1950, Pháp chính thức giao quyền quản lý hai quần đảo cho chính quyền Việt Nam. Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco, Thủ tướng của chính quyền Bảo Đại lúc đó là Trần Văn Hữu đã ra tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo,[5] lời tuyên bố này đã không vấp phải bất kỳ một sự phản đối nào từ hội nghị.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ  năm 1954 được ký kết, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Phần lãnh thổ phía Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 (bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) trở vào tạm thời được đặt dưới sự quản lý của các chính quyền miền Nam Việt Nam. Năm 1956, khi rút quân khỏi Việt Nam, Pháp đã chuyển giao sự quản lý phần lãnh thổ phía Nam Việt Nam cho chính quyền Sài Gòn. Theo đó, chính quyền Sài Gòn đã tổ chức việc đưa quân ra tiếp quản hai quần đảo, đồng thời tổ chức lại về mặt hành chính (coi mỗi quần đảo là một xã thuộc một huyện trong đất liền), cho xây dựng các bia chủ quyền tại các đảo chính, duy trì các trạm khí tượng và đăng ký chúng vào danh mục các trạm của Tổ chức khí tượng thế giới OMM, cho một số nhà kinh doanh ra khai thác phân chim ở Hoàng Sa đồng thời liên tục cử các nhà khoa học ra hai quần đảo nghiên cứu.

Lợi dụng sự xáo trộn về chính trị vào năm 1956 khi Pháp rút khỏi Đông Dương và năm 1974 khi chính quyền Sài Gòn đang nguy cấp, quân đội Trung Quốc đã dùng vũ lực lần lượt chiếm đóng phần phía Đông (1956) và sau đó là phần phía Tây quần đảo (1974), xâm  chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Chính quyền Sài Gòn đã kịch liệt phản đối và đã thông báo cho các nước và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về sự kiện này.[6] Vào thời gian đó, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ra tuyên bố lập trường ba điểm về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo, bao gồm việc các bên phải cùng nhau thương lượng để giải quyết vấn đề. Ngày 14 tháng 3 năm 1988, quân đội Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm một số bãi, đá tại quần đảo Trường Sa.

Sau khi thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã tiếp tục thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 11 tháng 12 năm 1982, Việt Nam ra quyết định tổ chức quần đảo Hoàng Sa thành huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và tổ chức quần đảo Trường Sa thành huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 28 tháng 12 năm 1982, Quốc hội Việt Nam ra Nghị quyết tách huyện đảo Trường Sa ra khỏi tỉnh Đồng Nai và sáp nhập vào tỉnh Phú Khánh (nay là tỉnh Khánh Hoà). Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội Việt Nam ra quyết định tách huyện Hoàng Sa khỏi tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ, sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương.

Từ thực tế lịch sử và căn cứ vào các nguyên tắc, tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế, chúng ta có thể khẳng định rõ ràng rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã từ lâu và luôn luôn là lãnh thổ của Việt Nam. Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu hai quần đảo đó từ khi chúng chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ một quốc gia nào đối với hai quần đảo này. Đây là sự thực được chứng minh bởi các bằng chứng rõ ràng về việc thực hiện chủ quyền của Nhà nước Việt Nam  ở  hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua các thời kỳ lịch sử.

[1] Phủ biên tạp lục là cuốn sách do Lê Quý Đôn (1726 - 1784), một nhà bác học Việt Nam biên soạn năm 1776.

[2] Hoạt động của đội Hoàng Sa đã được ghi lại trong "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn.

[3] Nghị định 4762 ký tại Sài Gòn ngày 21/12/1933.

[4] Bộ Ngoại giao Nhật tuyên bố kiểm soát Trường Sa với lý do Nhật phát hiện đầu tiên năm 1917. Ngày 4/4/1939, Pháp đã ra tuyên bố phản đối về vấn đề này.

[5] Hội nghị ký hiệp ước hoà bình với Nhật bản sau chiến tranh thế giới thứ 2 - Sanfrancisco được tổ chức tại Califonia từ ngày 4 - 8/9/1951 với sự tham gia của 51 quốc gia. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không tham gia hội nghị này. Tại hội  nghị, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao của Chính quyền Bảo Đại Trần Văn Hữu tuyên bố; ".. và cũng vì cần phải dứt khoát lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt mầm mống tranh chấp sau này, chúng tôi khảng định chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".

[6]  Ngay sau khi Trung Quốc cho máy bay ném bom xuống các đảo này, quan sát viên của Việt Nam ở Liên hợp quốc yêu cầu Hội đồng bảo an xem xét vấn đề này.

Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Bức xúc của một nhà khoa học trước việc Trung Quốc bất chấp lẽ phải, chà đạp lên sự thật lịch sử về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Quyết định của Quốc vụ viện Trung Quốc thành lập thành phố cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam trực tiếp quản lý ba quần đảo, trong đó có quần đảo Tây Sa và Nam Sa, tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, là hành động ngang ngược, bất chấp lẽ phải, chà đạp lên sự thật lịch sử về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo ấy.

Luận điểm đầu tiên của chính quyền tỉnh Quảng Đông khi công khai khảo sát Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa vào năm 1909, là cho rằng quần đảo "Tây Sa" là đất vô chủ (res nullius), hải quân tỉnh Quảng Đông cắm cờ trên đảo và bắn 21 phát súng đại bác tại một số đảo ở Hoàng Sa năm 1909.

Sau khi dùng vũ lực một cách bất hợp pháp cưỡng chiếm Hoàng Sa vào trung tuần tháng giêng năm 1974, Trung Quốc đã cố gắng tìm kiếm tài liệu để cố gán ghép bằng cách cắt xén, nếu cần thì xuyên tạc với sự đóng góp của các nhà học giả như Sử Lệ Tổ đưa ra luận điểm cho rằng "các đảo Nam Hải từ cổ xưa đến nay là lãnh thổ Trung Quốc", do nhân dân Trung Quốc "phát hiện sớm nhất", "kinh doanh sớm nhất", do chính phủ các triều đại Trung Quốc "quản hạt sớm nhất" và viện dẫn nhiều tài liệu lịch sử mang tính suy diễn để dẫn chứng (Quang Minh Nhật Báo, 24-11-1975).

Những luận cứ cố gán ghép

+ Những tư liệu phương Tây xác nhận về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:

- Nhật ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam .

Le mémoire sur la Cochinchine của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels.

An Nam Đại Quốc Họa Đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838 khẳng định Cát Vàng (Hoàng Sa) là Paracels và nằm trong vùng biển của Việt Nam.

The Journal of the Asiatic Society of Bengal , Vol. VI đã đăng bài của giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels).

The Journal of the Geographycal Society of London (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels...

Để minh chứng cho sự xác lập chủ quyền của mình ở Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, Trung Quốc lại cũng đưa ra những luận điểm được coi là "vững mạnh nhất" như sau:

1.

Trung Quốc khẳng định các đảo Nam Hải đã thuộc phạm vi quản hạt của Trung Quốc từ năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường năm 789. Đúng sử sách Trung Quốc như sách Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát có chép những thay đổi về qui chế hành chính từ đời Hán đến đời Tống, trong đó có việc Quỳnh Sơn, một quận của đảo Hải Nam thời đó (xin nhấn mạnh) - sau thuộc thành phố Hải Khẩu - được đặt thành "phủ đô đốc" vào năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường, tức năm 789.

Nhưng qua các sách Đường Thư, Thái Bình Hoàn Vũ Ký, Dư Địa Kỷ Thăng(1221), Quảng Đông Thông Chí (1842) thì vào năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường tại đảo Hải Nam chỉ thấy có chuyện kể viên đô đốc nhà Đường là Lý Phục mang quân sang lấy lại đảo Hải Nam sau hơn 100 năm dân bản địa nổi dậy làm chủ đảo và xin vua Đường đặt phủ đô đốc ở quận Quỳnh Sơn, không hề có chuyện "sáp nhập bất kỳ đảo ở biển Nam Trung Hoa vào đảo Hải Nam".

2.

Trung Quốc phái thủy quân đi "tuần tiễu", Trung Quốc đã viện dẫn các sự kiện để chứng minh. Trước hết về luận cứ "phái thủy quân tuần tiễu cương giới biển", luận chứng của nhóm Hàn Chấn Hoa chỉ dựa vào một đoạn trong sách Vũ Kinh Tổng Yếu, song những đoạn văn này hoàn toàn không chứng minh được lập luận "Trung Quốc phái thủy quân tuần tiễu quần đảo Tây Sa bắt đầu đời Tống".

Nhóm Hàn Chấn Hoa đã cố gán ghép hai đoạn văn vào với nhau gồm đoạn văn nói về lộ trình "Từ đồn Môn Sơn đến các nước Đại Thực, Phật Sư Tử, Thiên Trúc" tiếp liền vào đoạn văn đầu viết về "đặt dinh lũy thủy quân tuần tiễu ở hai cửa biển Đông và Tây". Điều này không đúng với nguyên bản Vũ Kinh Tổng Yếu. Đây chỉ là sự cố gán ghép "đầu Ngô mình Sở" để cố minh chứng việc tuần tiễu thủy quân đời Tống qua đất "Cửu Nhũ Loa Châu" mà nhóm này cho là Tây Sa.

Còn việc tuần tiễu của Ngô Thăng, trước hết tìm hiểu vị trí các địa danh trên, chúng ta được biết Quỳnh Nhai là thủ phủ Quỳnh Châu ở phía bắc đảo Hải Nam, Đồng Cổ là quả núi cao 339m ở phía đông bắc đảo Hải Nam, Thất Châu Dương là phía đông đảo Hải Nam, Tư Canh Sa là bãi cát phía tây đảo Hải Nam. Đây chỉ là cuộc tuần tiễu của Ngô Thăng quanh đảo Hải Nam, chứ không đến Tây Sa, nên nhớ rằng Thất Châu Dương ở phía đông đảo Hải Nam nên không hề là Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, vốn cách Hải Nam hơn 350 hải lý về phía đông nam.

3.

Các đảo Nam Hải đã được vẽ vào bản đồ Trung Quốc. Các tác giả bộ sưu tập do Hàn Chấn Hoa chủ biên cũng rất "công phu" đưa ra 13 bản đồ và chia làm hai loại. Một loại là bản đồ Trung Quốc thời Minh Thanh có vẽ các đảo Nam Hải. Một loại khác là bản đồ Trung Quốc thời Minh Thanh và các nước phiên thuộc, cũng có vẽ các đảo Nam Hải.

Bằng chứng thuyết phục

Có rất nhiều bản đồ chính thức của Trung Quốc từ đời Nguyên, Minh đến Thanh, trong đó có bản đồ ấn bản gần thời điểm có tranh chấp như bản đồ Đại Thanh Đế Quốc trong Đại Thanh Đế Quốc toàn đồ, xuất bản năm 1905, tái bản lần thứ tư năm 1910 đã vẽ cực nam của lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam, không vẽ bất cứ hải đảo nào khác ở biển Đông.

Bản đồ Hoàng Triều Nhất Thống dư địa tổng đồ trong cuốn Hoàng Thanh Nhất Thống dư địa toàn đồ xuất bản năm Quang Tự 20 (1894) đã ghi rõ cực nam lãnh thổ Trung Quốc là Nhai Châu, phủ Quỳnh Châu, Quảng Đông ở 18 độ 30 phút Bắc, trong khi Tây Sa hay Hoàng Sa được Trung Quốc đặt tên, có đảo ở vị trí cao nhất là 17 độ 5 phút. Điều này chứng tỏ Tây Sa hay Hoàng Sa chưa hề là lãnh thổ của Trung Quốc.

Trong khi đó, ngay tài liệu của chính người Trung Quốc như Hải Ngoại Ký Sựcủa Thích Đại Sán đã cho biết Chúa Nguyễn sai thuyền khai thác các sản vật từ các tàu bị đắm ở Vạn Lý Trường Sa, tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời: từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.

Thời kỳ Đại Việt, từ thời kỳ Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn, nguồn tư liệu về Hoàng Sa hầu như chỉ còn lại tư liệu của chính quyền họ Trịnh ở Bắc Hà, chủ yếu là Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư, năm 1686, trong Hồng Đức Bản Đồ hay Toản Tập An Nam Lộ trong sách Thiên Hạ bản đồ và Phủ Biên Tạp Lục,năm 1776 của Lê Quý Đôn.

Trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư hay Toản Tập An Nam Lộ, năm 1686 có bản đồ là tài liệu xưa nhất, ghi rõ hàng năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở Bãi Cát Vàng. Còn tài liệu trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.

Sang thời kỳ triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:

Dư Địa Chí trong bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều điểm tương tự như trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.

Đại Nam Thực Lục phần tiền biên, quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.

Đại Nam Thực Lục Chính biên đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); đệ nhị kỷ (khắc in xong năm 1864); đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

- Tài liệu rất quí giá là châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại kho lưu trữ trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc... Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình hoãn kỳ vãng thám, sau đó lại tiếp tục.

- Trong bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần hai và khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản...

Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ Bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.

Về những tư liệu của Trung Quốc và phương Tây minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:

Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong quyển 3 của Hải Ngoại Ký Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.

- Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Trung Quốc.

Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía nam của Trung Quốc.

Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1-1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu “Hoàng Sa Tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée), lại là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: