NGÀY THỨ BA: sau hết, người ta chết rồi đi đâu?
NGÀY THỨ BA
Giải điều thứ ba, là sự sau cùng hết, người ta chết rồi đi đâu ?
Nhu sĩ rằng:
Vốn loài người ta, trong sách có nói: khí tụ tắc sanh, khí táng tắc tử, dữ cầm thú vô dị, nghĩa
là, lồi người ta, khí nhóm lại thì sống, khí tan ra thì chết, chẳng khác chi cầm thú vậy. Lại ông
Ôn công rằng: Nhơn tử tắc hình thể tiêu diệt dữ thảo mộc đẳng, kì thần phiêu như phong hỏa,
nghĩa là, người ta chết thì hình thể tiêu mất cũng như cỏ cây vậy, còn thần hồn thì bay đi như
gió như lửa vậy.Lại nơi khác rằng: Nhơn tử cốt nhục qui vu thổ, huyết qui vu thủy, hồn khí qui
vu thiên, nghĩa là người ta chết, xương thịt trở về đất, máu trở về nước, hồn khí trở về trời.
Tây sĩ rằng:
Cứ như đều ấy, khi chết đọan thì mọi sự tan đi mất; chẳng còn tội, chẳng còn phước, chẳng
còn thưởng chẳng còn phạt; chết đoạn người ta cũng như muông chim, cây cối vậy; chúc ấy
kẻ khi trước đã gia công sửa tánh tu đạo, bây giờ sẽ phàn nàn vì đã mất công chẳng ích gì;
mà kẻ ngỗ nghịch, buông tuồng theo tính mê đắm, khi ấy vui mừng, vì chết rồi thì thôi. Như
quân đi chiến trận về không thưởng không phạt, thì còn ai lo thắng bại làm chi ?
Lại rằng: chết đoạn, cốt nhục qui vu thổ, hồn khí qui vu thiên cả. Vậy kẻ tu nhơn tích đức trọn đời hồn
khí cũng về trời; kẻ làm ngụy làm giặc, tà dâm trộm cướp giết người, hồn khí cũng về trời
bằng nhau. Nhu đạo Nhu sĩ nói làm vậy, thì để mặc thiên hạ tung hoành, ai muốn làm thể
nào thì nên thể ấy sao ? Dầu lành dữ cũng chẳng hề chi, chết đọan cũng chẳng sợ chi, vì ai
ai cũng về trời cả. Nói thể ấy có phải lẽ mà nghe đặng chăng ?
Thày Pháp sư giải câu ấy rằng:
Bên đạo chúng tôi dạy đời sau bất sanh bất tử, bạch nhựt phi thăng, đằng không nhi khứ,
nghĩa là, chẳng sống chẳng chết, ban ngày bay lên trên không mà đi, vì đã có bài thiên dược
trường sinh tồn kì thiên niên bất tử là, có bài thuốc thần linh trọn sống ngàn đời chẳng chết.
Tây sĩ rằng:
Nếu vậy, nhơn sao các đấng thượng cổ, đế vương, đã thăng hà hết? Ấy những đấng vua thiếu chi sự khôn ngoan, mà sao chẳng tìm đặng bài thuốc ấy ? thiếu chi vàng bạc, mà sao chẳng mua đặng bài thuốc ấy ? Lại những người đã mời các thày chữa cũng đã chết hết chẳng còn sót một người, thì làm sao ? Nào đều bất sinh bất tử ở đâu ?
Thày Pháp sư rằng:
Hoặc người ta chẳng tu đức tu tiên cho đặng sống lâu, hoặc khi ốm đau chẳng tìm được thày
hay cao tay mà chữa, hoặc đã đến khi mạng trở định mà thôi; vì chúng tôi chữa bịnh chẳng
có chữa mạng đâu.
Tây sĩ rằng:
Kìa ông Thái thượng Lão quân, Trương Lương, Trương Nghi, Trương Bửu, Trương Đậu,
Trương Lịnh, Trương Lỗ, Trương Giác và các sư đã truyền đạo thái bình bùa chú, đều đã chết
hết. Chớ thì các ông ấy chẳng có tu đức tu tiên cho đặng sống lâu sao ? Hay là chẳng gặp
thày nào hay cao tay mà chữa sao ? Ấy các thày những thờ phượng Ngọc Hoàng, sao chẳng
càu khẩn Ngọc Hoàng đổi thiên mạng cho đặng sống lâu mãi ? Sao chẳng dùng bài thuốc
tiên dược trường sinh bất tử ? Chớ thì bài thuốc ấy để cho ai, mà chẳng chữa lấy mình cho
đặng sống lâu, thì làm sao ? Nói thể ấy có phải lẽ mà nghe đặng chăng ?
Thày Pháp môn rằng:
Hễ ai tu đạo nào thì tin đạo nấy, lấy lời trong sách đại thánh đã truyền lại làm cứ làm thật thì
thôi, Phước phận thì tại trời, trời cho ai nấy đặng, nào có tại ta muốn mà đặng sao ? Thày
đừng nói nữa. Nào có phải tôi đã lập nên đạo, mà tra tôi lắm làm chi ?
Tây sĩ rằng:
Đã vậy từ này đừng khoe bởi gặp thày hay cao tay khéo chữa mới sống; bởi chẳng gặp thày
hay cao tay khéo chữa thì chết. Đã biết rằng mạng tại trời, thì thôi.
Thày Hòa thượng giải câu ấy rằng:
Trong mình người ta có ba giống: đến khi chết đọan, da tan đi mất; xác thịt xương cũng tan đi
nữa; còn thần hồn, nếu có rước thày niệm kinh bảo đàng cho, mới đặng thăng thiên vào nước
Phật hưởng phước; chẳng vậy thì phải sa hỏa ngục khốn nạn.
Tây sĩ rằng:
Niệm kinh bảo đàng là thể nào ?
Thày Hòa thượng rằng:
Khi người ta gần chết thì niệm rằng: Phật tánh hỡi, Phật tánh hỗi hãy ra lỗ chóp trên đầu chớ
ra cửa con mắt, lỗ tai, mũi, miệng cùng âm môn mà lạc, như lời trong sách Bí truyền rằng:
Đầu dã thiên dã; nhược tử đáo thiên hải ngoại không, thăng thiên dã; nhược xuất nhãn nhĩ tị
khẩu âm môn, bất thành tiên dã, nghĩa là đầu là trời, bằng chết mà ra chốn biển trời ngoài
không, thì là lên trời; bằng ra nơi con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, miệng, âm môn, thì thẳng nên tiên.
Vậy thì chết đoạn mà linh hồn đi đàng, thì phải xưng mình là con Phật, mới khỏi vào hỏa
ngục cùng ba nẻo đàng dữ; phải có sắc Phật mới đặng đi cầu âm không, đến suối Huỳnh
Tuyền, đến giếng có cây dừa, mới đặng qua sông Đài Hà, qua đò Tự Nhiên , mới đến bãi cát
Trường Sa, mới qua ngã tư có cầu đồng ván sắt hiệu là Âm Không. Có kệ thơ rằng:
Sống thì lành dữ mặc thân ta
Thác thì trừ khử nghiệp gian tà
Chơn tình nhớ lấy kinh niệm Phật
Dầu vào hỏa ngục lại đặng ra
Tây sĩ rằng:
Linh hồn là tính thiêng liêng, không hình, không tượng, khi vào trong xác cùng khi ra khỏi xác
là cách mầu nhiệm, chẳng phải ra cửa nào mới khỏi đâu. Nếu vậy kẻ hiền lành nhơn đức khi
chết mà hồn chẳng ra nơi chóp; thì sa hỏa ngục; mà kẻ tội lỗi độc dữ gian tà cả đời, đến khi
chết, linh hồn nó ra nhằm nơi lỗ chóp thì đặng thăng thiên sao ? Nói vậy có hiệp lẽ công bình
sao ?
Tây sĩ lại hỏi rằng:
Những linh hồn sa hỏa ngục đã phải chịu hình khổ khốn nạn làm vậy, có lẽ nào cứu đặng
cho ra khỏi chăng ?
Thày Hòa Thượng rằng:
Cũng có thế đặng, vì đức Phật rất nhơn lành, chẳng muốn cho ai phải khốn nạn, cho nên
người đã truyền nhiều cách cho người ta khỏi tội. Dầu người ta yếu đuối chẳng có sức giữ
đặng các sự người răn mặc lòng, song đã có chúng tôi giữ thế cho người ta. Tây sĩ hãy xem
kinh Đại Thừa Diệu Tiên Liên Hoa. Hễ ai đọc kinh ấy thì mới đặng lên trời hưởng phước ai ai
đọc kinh Nam vô A di đà Phật thì khỏi các tội từ bây giờ về trước, cùng khỏi sa hỏa ngục nữa.
Bằng những kẻ đã chết rồi, nếu con cháu có rước chúng tôi làm chay làm tiếu, thì đức Phật
đã cho chúng tôi phép phá ngục cho các linh hồn trong ấy đặng ra,
Tây sĩ rằng:
Các kẻ có tội trong hỏa ngục có đặng ra như vậy hết chăng ?
Thày Hòa thượng rằng:
Đều đặng thảy thảy, có một kẻ khinh dể phép Phật, thì người chẳng tha mà thôi
Tây sĩ rằng:
Phép phá ngục là làm sao ?
Thày Hòa thượng rằng:
Kẻ làm việc ấy phải ăn chay, niệm kinh, đơm tế nhiều ngày, chữa tội ông bà cha mẹ, mà
ngày sau hết làm lễ phá ngục cho linh hồn tổ tiên đặng ra, Vì vậy cắm bốn cột giữa nhà, lấy
giấy mà dán xung quanh, cùng làm bốn cửa bốn bên, lại làm một cửa ở giữa, đặt hình hỏa
ngục, rồi thì tế Thập Điện Diêm Vương là mười vua cai trị âm phủ; lại tế năm vua ở năm cửa,
Đông phương thanh đế, Tây phương bạch đế, Nam phương xích đế, Bắc phương hắc đế,
Trung phương huỳnh đế, đi xung quanh ba làn, niệm kinh rưới linh thủy rồi gieo hai đồng tiền
lấy sấp ngửa, làm dấu các vua đã chịu sự tế cúng lễ. Đoạn thày thứ nhứt cầm gậy phá các
cửa ngục cho các hồn trong ấy đặng ra khỏi. Mà lễ phá ngục này đạo Phật đã truyền tỏ
tường trong sách Huỳnh đồ Vĩnh quyết.
Tây sĩ rằng:
Thày nói đạo Phật truyền lễ này tỏ tường, nhơn sao trong sách kinh bốn mươi hai chương,
chẳng thấy Thích Ca chép lời gì về lễ ấy sốt mà sách Đăng Tâm rằng: Lương Võ Đế lập vi
trai hội, là từ Lương Võ đế bày ra lễ ấy. Thế thì từ Thích Ca cho đến Lương Võ Đế đã cách
nhau 1500 năm, mới lập ra lễ làm chay làm hội để mà phá ngục; mà thày nói rằng : Phật
giáo truyền lễ này tỏ tường thì đều ấy đã chẳng hiệp
Lại điều phá ngục là làm sao ? Kìa xem vua chúa thế gian lập ngục ra giam cầm kẻ có tội,
dầu ai muốn phá, có phá đặng chăng ? Phương chi Đấng phép tắc vô cùng lập ngục giữa trái
đất này là chốn rất sâu hiểm, con mắt xem chẳng thấy; mà các thày cũng là người thế gian
có xác thịt biết đi đàng nào mà xuống phá ngục đặng ? Vả lại, đám này đã có mời thày phá,
đám khác lại mời phá, muốn phá khi nào thì phá, chúc ấy còn đí gì mà gọi là ngục nữa? Nếu
vậy những linh hồn trong ấy đã đặng ra hết, thì còn ai ở trong ngục ấy, mà năm khác con
cháu còn làm chay chữa tội làm chi nữa, hay là có thày nào lại xây ngục lại chăng ?
Thày Hòa thượng rằng:
Bên đạo Tây sĩ cũng thường có làm lễ càu hồn phá ngục đi xông quanh mồ rảy nước thánh,
thì nào ai bắt nét, nào ai chê đều ấy ? Cũng một đều mình làm thì đặng, mà nhạo báng kẻ
khác làm sao ?
Tây sĩ rằng:
Trong đạo chúng tôi làm lễ càu hồn thì có, song chẳng có lễ phá ngục đâu. Vậy có hai thứ
linh hồn, một là linh hồn mắc tội trọng đã giam cầm trong hỏa ngục, thì chúng tôi chẳng dám
càu cho những linh hồn ấy đâu, vì chẳng có lẽ nào mà đặng khỏi. Hai là linh hồn mắc tội
nhẹ, hay là đền chưa đủ, mà phải giam cầm trong luyện khổ, thì chúng tôi có ý làm lễ càu
khẩn cùng Thiên Chúa thứ tha, bớt phần phạt cho những linh hồn nơi ngục tạm ấy mà thôi.
Cũng như sự đời nay vua chúa lập ngục ra có thứ tù trọng tội đã phải bỏ vào ngục khám
đường, giam cầm cho đến chết, thì chẳng ai vào kêu cho tù ấy nữa đâu. Còn thứ tù tạm,
giam vạ mọn vì mắc tội nhẹ, hay là mắc công nợ trả chưa đủ, thì con cháu có thế chạy chuộc
cho lại đặng ra khỏi. Ấy lễ chúng tôi càu hồn cũng như làm vậy: nào chúng tôi có dám phá
ngục như các thày đâu ?
Nhu sĩ rằng:
Ba đạo đã giải rồi, thì đạo Tây sĩ giải câu ấy làm sao ?
Tây sĩ rằng:
Trong đạo chúng tôi dạy bốn đều cả thể sau hết, gọi là tứ chung: một là sự chết, hai là sự
phán xét, ba là hỏa ngục, bốn là thiên đàng.
Vậy trước hết sự chết, bởi tội tổ tông, nên Chúa đã đoán định cho loài người ta phải chết, dầu
ai ai, đấng bực nào, dầu khôn khéo thể nào mặc lòng, thì cũng chẳng ai khỏi đặng.
Hai là sự phán xét, là hễ người nào khi tắt hơi vừa đoạn, dầu xác còn nằm trên giường, tức thì thánh
thiên thần bổn mạng đem linh hồn người ấy đến trước tòa Thiên Chúa rất oai nghi công
thẳng, chịu Người phán xét về mọi việc mình; những sự tư tưởng kín nhiệm trong lòng, mọi lời
đã nói, mọi việc đã làm dầu lành dầu dữ , từ khi có trí khôn cho đến khi ấy, bao nhiêu tội, bao
nhiêu phước, thảy thảy đều bày ra hết chẳng sót sự gì cả, cũng chẳng chữa lỗi mình mà đổ
cho ai đặng; mỗi một người đều phải gánh lấy của mình là những việc lành dữ, đã làm khi
còn sống,
Ba là Hỏa ngục, vì thuở tạo thiên lập địa, Chúa đã dựng nên trên chốn ấy cách xa nước
Thiên đàng, song phân làm bốn từng; một là Lâm bô, hai là Hài sở, ba là Luyện ngục, bốn là
ngục Vĩnh khổ.
Lâm bô là từng ở ngoài và ở trên hết, là nơi linh hồn các thánh tổ tông xưa khi
sinh thì (chết) đọan còn phải ở đó, đợi trông Chúa Cứu Thế ra đời chuộc tội cho thiên hạ, đoạn các
thánh ấy mới đặng lên Thiên đàng;
Hài sở là nơi những linh hồn con trẻ mới sinh ra mà chết khi chưa đặng chịu phép rửa tội;
Luyện ngục là nơi giam cầm của linh hồn kẻ có đạo, khi
chết hoặc còn mắc tội nhẹ, hoặc đền tội trọng chưa đủ, thì phải chịu lửa nung đốt cho đến khi
sạch hết tội vạ mới đặng ra khỏi đó mà lên Thiên đàng;
Ngục Vĩnh khổ là nơi rất sâu hiểm, giam cầm các ma quỉ và các kẻ vong ân bội nghĩa,
chẳng thờ phượng Thiên Chúa, chẳng giữ luật phép Người răn dạy.
Ngục này những lửa sinh lửa diêm, cùng muôn muôn vàn vàn hình
khổ rất khốn nạn vô cùng. Những kẻ bị giam cầm trong ấy phải thiêu đốt đời đời, cũng chẳng
hề có bao giờ chết đặng cho khỏi sự khốn ấy.
Bốn là Thiên đàng là chốn rất sang rất trọng, rất thanh nhàn, rất vui vẻ, gồm no mọi sự phước đức,
Thiên Chúa đã dựng nên để thưởng các Thiên thần cùng các Thánh nam nữ là những người khi còn sống ở đời
này đã thờ phượng Thiên Chúa và giữ luật Người cho trọn, thì khi chết đoạn linh hồn lên trên
ấy chầu chực Thiên Chúa, hưởng phước vô cùng. Ấy là tứ chung thì làm vậy.
Còn việc cả thể sau hết nữa là khi thiên địa cùng tận là ngày tận thế, thì Thiên Chúa cho mọi
người đã chết từ tạo thiên lập địa cho đến ngày ấy đều sống lại thay thảy: những linh hồn kẻ
lành ở thiên đàng, những linh hồn kẻ dữ ở hỏa ngục, đều phải nhập vào xác cũ mình, tựu
đến một nơi gọi là đồng Giôsaphát mà chịu phán xét chung trong một khi ấy; đọan linh hồn
và xác kẻ lành lên thiên đàng sáng láng tốt lành, vui vẻ vô cùng; còn linh hồn và xác kẻ dữ
phải phạt xuống hỏa ngục khốn nạn đời đời kiếp kiếp.
Nhu sĩ rằng:
Khi nãy đã nói: hễ ai chết đọan thì Thiên Chúa đã phán xét, kẻ lành cho lên Thiên đàng
hưởng phước, kẻ dữ bỏ xuống hỏa ngục chịu phạt rồi. Nhơn sao thày lại nói rằng sẽ có ngày
Thiên Chúa lại gọi lại khắp mọi người sống lại, đến một nơi mà chịu phán xét làm sao nữa ?
Chớ thì trước khi Thiên Chúa chưa xét đoán nên sao ? Ấy chính việc Người đã làm, nào có
phải việc ai làm, mà phải làm đi làm lại nhiều lần, thêm việc thể ấy làm chi ?
Tây sĩ rằng:
Việc Thiên Chúa làm thì có nhiều ý sâu nhiệm. Vì một là khi phán xét lần trước, mới có một
linh hồn đặng hưởng phước hay là chịu phạt mà thôi, xác thì còn ở dưới đất này. Ngày ấy mới
cho xác cũ sống lại, vì xác kẻ lành xưa đã giúp linh hồn làm nhiều việc phước đức, đã thờ
phượng Thiên Chúa hết lòng, thì bây giờ cho linh hồn hiệp với xác, cả và hai đều đặng
thưởng. Lại xác kẻ dữ xưa cũng đã giúp linh hồn làm việc tội lỗi, chẳng thờ phượng Thiên
Chúa cho nên, thì bây giờ lại cho xác hiệp với linh hồn, cả và hai đều chịu phạt; làm vậy mới
hợp phép công bình.
Hai là phán xét lần trước, kẻ lành, kẻ dữ đặng thưởng hay là chịu phạt,
thì thiên hạ chưa biết rõ, vì việc lành phước đức nào mà người kia đặng thưởng dường ấy, vì
những tội lỗi xấu xa nào mà kẻ nọ phải phạt dường ấy, lần này thì cả và thiên hạ muôn đời
đặng rõ biết Chúa là đấng công bình vô cùng; vì kẻ làm việc lành phước đức, khi ở đời này,
những chịu người ta khinh dể nhạo báng, bắt bớ làm khốn cực chẳng khi đừng mà khi ấy
đặng phần thưởng vui vẻ thanh nhàn thì càng thêm sang trọng sáng láng cho kẻ lành hơn; lại
kẻ dữ khi còn sống ở đời này làm những việc gian dâm tà nghịch, phạm tội lỗi xấu xa ô uế,
nên khi ấy phải hình khổ; thì càng thêm xấu hổ khốn cực cho kẻ dữ hơn. Ấy là ý Thiên Chúa
định có ngày phán xét chung thì làm vậy.
Trong ba ngày nay, chúng tôi đến trước mặt quan mà trình qua các lẽ trong đạo chúng tôi tắt
vậy, để quan lớn xét cho, thì chúng tôi lấy làm ơn trọng lắm. Song bởi chúng tôi chưa thuộc
tiếng nói cùng lễ phép trong nước cho đủ, hoặc đang khi nói có điều gì chẳng lịch sự ra thất lễ
thì trước là xin quan lớn rộng xét thứ tha cho chúng tôi, sau xin các thày miễn chấp vì chẳng
có mấy khi đặng gặp các thày mà đàm đạo thể ấy. Vậy các thày đã cứ trong sách các thày,
tôi đã cứ lẽ sách đạo tôi mà nói; dầu đạo bên nào chơn giả, thì để mặc lượng quan lớn quyền
hành cân xét cho.
Bấy giờ quan lớn mới phán đoán rằng:
Trong đều thứ ba, là sự sau cùng hết, người ta chết rồi đi đâu, có lẽ thày Nhu sĩ, thày Hòa
thượng, thày Pháp sư nói thì ta cùng đã có nghe nhiều lần, mà thật trong lòng ta chưa biết
thể ấy là nhằm hay là chẳng nhằm; còn sự Tây sĩ nói bốn sự sau, là người ta sinh ra rồi phải chết,
chết rồi phải chịu phán xét, phán xét rồi kẻ lành đặng thưởng lên thiên đàng,
kẻ dữ phải phạt xuống hỏa ngục; lẽ ấy rất công bình chính trực, chẳng còn nghi hoặc đặng
nữa. Như vua trị nước , nếu chẳng dùng phép công bình, dùng quờn thưởng phạt thì trị nước
làm sao đặng ? Huống chi Thiên Chúa đã sinh nên trời đất thần người muôn vật đời đời; nếu
chẳng dùng phép công bình, chẳng dùng quờn thưởng phạt kẻ lành dữ thì cai trị làm sao
đặng ? Ấy là lẽ nhãn tiền phải có như vậy chẳng sai, cho nên trong đếu thứ ba này, ta đoán
đạo Thiên Chúa dạy phải rõ ràng chắc thật hơn các đạo thảy thảy. Lại ta đã biết rõ sự thật ở
đâu thì ta cũng tin tưởng noi giữ theo đó cho đến cùng.
CHUNG (Hết)
"Hội Đồng Tứ Giáo" chấm dứt 3 ngày tranh luận.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com