Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Hồi ký Trần Độ 2

Trần độ

Hồi ký Trần độ

Tập II

Tập II Chương 1

Trở về hậu phương lớn

Ngót mười năm ở chiến trường, sau khi hiệp định Pa-ri được ký kết, các anh ở Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh miền gợi ý tôi tranh thủ ra Bắc nghỉ ngơi một thời gian. Đầu năm 1974, sau khi hoàn thành một số nhiệm vụ cần thiết và bàn giao xong mọi công việc tôi lên đường trở ra Bắc.

Cuộc chia tay thật bịn rịn. Tôi lần lượt đến các cơ quan của Trung ương Cục, Quân ủy Miền, Bộ tư lệnh Miền và đặc biệt là các anh em trong cơ quan chính trị mà có thời gian tôi vừa là phó Chính ủy Miền vừa là Chủ nhiệm Chính trị, bắt tay từng người, lưu luyến. Khó mà nói hết được tình cảm hết sức cao đẹp và thiêng liêng của những người đồng chí ở nơi khói lửa chiến trường.

Lần này ra Bắc tôi không đi máy bay như hồi 1969 cùng anh Nguyễn Vãn Linh dự lễ tang Bác Hồ, mà là đi dọc Trường Sơn theo con dường chiến lược mang tên Hồ Chí Minh. Khi được tin này tôi rất thích thú, bởi nó rất phù hợp với nguyện vọng của tôi bấy lâu nay. Cách đây mười năm, khi đi B, tôi đã đi một con đường đặc biệt: Hà Nội - Quảng Châu bằng máy bay; Quảng Châu-Xi-ha-núc-vin bằng tầu thủy: Sau đó lên Nông Pênh rồi trở về căn cứ Trung ương Cục ở sát biên giới Việt Nam-Campuchia. Lần này ra Bắc lại được đi theo đường Trường Sơn, con đường chiến lược huyền thoại, thì đối với tôi là một niềm vui lớn. Vốn từ lâu, tâm trí tôi đã luôn hướng về con đường mà hàng vạn hàng vạn đồng đội của tôi đã lần lượt băng qua để từ hậu phương lớn vào tiền tuyến lớn. Tôi muốn tận mắt nhìn thấy và chia sẻ nỗi gian nan, vất vả với họ. Và quả thật, là người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, nếu ai chưa từng đặt chân tới tuyến đường lịch sử này sẽ là một thiệt thòi lớn. Tất cả những cuốn sách đã viết ra, những bộ phim đã hoàn thành, những lời ca ngợi của phương Tây... chỉ mới nói lên được một phần rất nhỏ tầm vóc thời đại của con đường.

Có thể nói đường mòn Hồ Chí Minh là hình ảnh thu nhỏ của cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình cửa Đảng. Cùng với 3 lần đánh thắng quân Nguyên, mười năm Lam Sơn tụ nghĩa dân tới "Bình Ngô Đại Cáo". Quang Trung đại phá quân Thanh... cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta thực sự là một cột mốc chói lọi trong trang sử vàng bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Chính ở thời điểm này, vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam và vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh được khẳng định như là yếu tố quyết định nhất trong mỗi thắng lợi của nhân dân ta.

Sau mười năm lăn lộn ở chiến trường ác liệt, trên đường trở về hậu phương lớn, tâm hồn tôi vẫn trong trẻo một niềm tin, phơi phới một niềm tự hào chính đáng về dân tộc anh hùng, về Bác Hồ vĩ đại, về Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh do chính Bác Hồ sáng lập, giáo dục và rèn luyện. Những khuôn mặt tôi gặp trên đường đi, từ những anh bộ đội trẻ măng đến các cô thanh niên xung phong đã hy sinh cả tuổi xuân để giữ vững con đường huyết mạch, đều để lại trong tôi những ấn tượng đẹp đẽ về thế hệ sinh ra và lớn lên sau Điện Biên Phủ. Chính họ cùng với thế hệ chống Pháp, đã làm nên kỳ tích của thế kỷ 20: "Một dân tộc nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ". Trong những năm ở chiến trường, nhìn những gương mặt gái, trai tuổi mới 18, đôi mươi ấy, nhiều lúc tôi không ngăn được nước mắt, đặc biệt là những lức tôi đến động viên họ trước khi bước vào một trận đánh, bởi tôi biết chắc trong số họ có những người sẽ không trở về. Cũng có nghĩa là những người mẹ ở miền Bắc sẽ nhận được những tờ giấy báo tử báo tin con mình đã hy sinh. Nỗi đau này là không gì so sánh được.

Đó là sự hy sinh vô giá. Bởi vậy, từ lâu tôi luôn nghĩ rằng, khi nói đến thắng lợi vĩ đại của cuộc chống Mỹ cứu nước, bên cạnh nguyên nhân là sự lãnh đạo của Đảng, phải nói đến nguyên nhân quan trọng khác là sự đóng góp to lớn của nhân dân, của hàng triệu chiến sĩ trên các mặt trận. Nhớ đến một câu nói nổi tiếng của Lê Nin: "Suy cho cùng thắng lợi của một cuộc chiến tranh tùy thuộc vào tinh thần chiến đấu của người lính ở chiến trường". Tất nhiên, để có tinh thần chiến đấu đó, những người lính phải có một hậu phương tuyệt vời như hậu phương miền Bắc của chúng ta với sự hy sinh thầm lặng của hàng triệu, hàng triệu người vợ, người mẹ anh hùng, trung hậu, đảm đang suốt ngày đêm lo toan mọi việc để chồng con yên tâm đánh giặc. Quên mất điều này là có tội. Chẳng những thế, sẽ dẫn đến những cách nghĩ không đúng về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. (Nhân dân biết ơn Đảng và Đảng cũng biết ơn nhân dân, vì chính nhân dân là cội nguồn của mọi chiến thắng).

***

Trở lại miền Bắc, sau mười năm ở chiến trường, thông thường thì người ta chỉ muốn nghỉ ngơi, thăm thú. Sau một tuần về quê thăm mẹ ở quê hương Tiền Hải, tôi đã đi thăm một số tỉnh ở Việt Bắc, Nam Hà, một số địa phương ở Thái Bình, gặp gỡ hỏi chuyện một số cán bộ cơ sở để nắm rõ tình hình miền Bắc trong mười năm qua...

Và tôi đã nhận ra ngay một điều là tình hình miền Bắc qua đài qua các nghị quyết được phổ biến, ít giống như những điều tôi vừa mất thấy, tai nghe, có điều còn khác rất xa. Và tôi đã sớm đi đến kết luận: ở miền Bắc đang có nhiều hiện tượng tiêu cực, không những trong xã hội, mà cả trong một số các tổ chức Đảng, trong bộ máy chính quyền.

Tôi giành thời gian nghiên cứu nghị quyết 22, xin được dọc một số báo cáo tình hình các mặt và tôi suy nghĩ, tìm hiểu để khẳng định thêm kết luận của mình. Tôi âm thầm suy nghĩ mà chưa vội nói với ai. Bởi trong thời điểm đó, người ta đang nói nhiều đến một tiền tuyến lớn anh hùng, một hậu phương lớn anh hùng, một miền Bắc xã hội chủ nghĩa ưu việt, với những năng xuất cao trong công nghiệp, những cánh đồng 5 tấn trong nông nghiệp và với một hình ảnh được khái quát nổi tiếng: "Ra ngõ gặp anh hùng".

Chỉ khi nào gặp một người bạn cũ thật thân thiết cả những người ở cương vị cao, tôi bộc lộ tâm sự về suy nghĩ của mình, thì ngay lập tức được sự cộng hưởng: Ông mới về chỉ mới thấy thế thôi. Trong một số lĩnh vực còn nghiêm trọng hơn nhiều, nhưng phải có thì giờ suy nghĩ rồi mới dám nói. à ra thế! Thế là còn vấn đề lớn hơn, đáng quan tâm hơn: đó là vấn đề dân chủ, dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Phải chăng đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Tôi nhớ hồi ở Việt Bắc, đọc tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" của Bác, tôi đã từng kinh ngạc về một nhận định thiên tài:

Những ai nói chúng ta không dân chủ thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta xét cho kỹ thì thật có như thế.

"Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muôn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau. Quần chúng với Đảng xa rời nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tối đẹp. Dưới thì có gì không dám nói ra.

"Họ không nói, không phải vì họ không có ý kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không nghe, không xét có khi lại bị trù" là khác."

"Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói "không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng". Trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm", sinh ra thói thậm thà thậm thụt" và những thói xấu khác..."[1]

Tác phẩm này Bác viết vào năm 1947, tính đến nay là ngót một nửa thế kỷ nhưng vẫn còn mang tính thời sự biết bao!

Thiên tài Hồ Chí Minh không những thể hiện ở những quyết sách lớn mang tầm chiến lược mà còn thể hiện ở những câu nói bình thường giản dị, mà sức sống của nó xuyên suốt cả chiều dài lịch sử. Ví như năm 1945, trong thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (tỉnh Nghệ An) ngày 17-9, Bác đã khẳng định: Lực lượng toàn dân là vĩ đại hơn hết, không ai chiến thắng được lực lượng đó." Một tháng sau, cũng trong năm 1945, ngày 17 tháng 10, trong thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Bác lại căn dặn:

"Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta..."

Hơn một nửa thế kỷ đã trôi qua, sau những chấn động của các sự kiện lịch sử trong thời gian gần đây, ta tưới thấm thía những lời cảnh cáo của Bác:

Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. không ai chiến thắng được lực lượng đó." "Chúng ta phải yêu dân, kính dân, thì dân mới yêu kính ta."

Suy ra, nếu không như thế thì ngược lại. Diễn biến tình hình Đông Âu, tình hình Liên xô vừa qua chứng minh rất rõ những dự báo của thiên tài Hồ Chí Minh.

***

Tôi phải trăn trở nhiều đêm với một câu hỏi: Có nên nói hay không nên nói thực trạng xã hội miền Bắc và những nhận định của mình với các đồng chí lãnh đạo cao cấp Liệu các anh có cho mình là "hâm" không? Hoặc xấu hơn, các anh có quy kết mình thằng thế này, thế nọ hay không?

Tôi tin là không, và nghĩ các anh sẽ hiểu mình. Đặc biệt là đối với anh Trường Chinh, người mà tôi có vinh dự được làm người giúp việc từ năm 1944, sau khi vượt ngục từ Sơn La về. Dạo đó, tôi giống như là "Chánh văn phòng" của Tổng Bí Thư, được anh Trường Chinh yêu mến, giao nhiều việc quan trọng, và việc nào cũng hoàn thành tốt. Chính tôi được chứng kiến từ đầu sự ra đời của bản "Đề cương văn hóa" do anh Trường Chinh soạn thảo. Sau đó anh Trường Chinh đề cử tôi mang "Đề cương văn hóa" sang phổ biến cho anh Lê Quang Đạo, lúc bấy giờ là Bí thư thành ủy Hà Nội, phụ trách văn hóa cứu quốc.

Anh Đạo bố trí cho tôi gặp các văn nghệ sĩ trong nhóm để tôi trực tiếp phổ biến bản đề cương. (Cuộc họp diễn ra vào ngày mồng 2 Tết năm 1945, trong nhà anh Tô Hoài. Tôi còn nhớ đó là một căn buồng tối om, có một cái giường bằng gỗ, có một tấm ván kê làm bàn. Chúng tôi được mẹ Tô Hoài kiếm cho mấy cái bánh chưng, chấm nước mắm mà ăn vẫn rất ngon). ở đây lần đầu tiên tôi đã gặp các nhà văn, nhà thơ mà khi còn ngồi ghế nhà trường tôi rất ngưỡng mộ: Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng... Trong lúc truyền đạt tôi đã cố gắng làm rõ những ý tưởng lớn mà tôi đã tiếp thu được qua những suy nghĩ mà anh Trường Chinh trao đổi với tôi trong quá trình chuẩn bị bản đề cương, đặc biệt là 3 nguyên tắc: Dân tộc, khoa học, đại chúng... Có lẽ bắt đầu từ đây, từ bản đề cương văn hóa này và từ cuộc tiếp xúc đầu tiên với các nhà văn nhà thơ trong thời kỳ hoạt động bí mật, mà tôi có duyên nợ với văn hóa văn nghệ, duyên nợ cho đến suốt đời.

Tháng 2 năm 1990, có chân trong ban dự thảo cương lĩnh đại hội VII, tôi đã đề xuất một số vấn đề văn hóa Việt Nam, với tên là "Một phác thảo cương lĩnh văn hóa Việt Nam những năm 1990". Rất tiếc là lúc này anh Trường Chinh vừa mới đi xa. Không biết nếu còn sống anh sẽ đánh giá thế nào về bản phác thảo đề cương của tôi, người học trò, người em của anh hôm nay, đặc biệt là các điểm 8 và 9:

Điểm 8: Phát triển nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở quan niệm dúng đắn về bản chất và chức năng thực sự của nghệ thuật như một tiếng nói bồi đắp lương tri và đạo đức cho xã hội. Thực hiện đầy đủ chính sách tự do sáng tạo và tự do phê bình.

Điểm 9: Ra sức bảo tồn mọi di sản văn hóa của dân tộc bao gồm cả nền văn hóa của từng dân tộc ít người. Kết hợp kế thừa văn hóa cổ truyền với giao lưu văn hóa thế giới, làm cho văn hóa dân tộc ngày càng dày thêm, giàu thêm.

Đây chính là vấn đề mà nghị quyết Trung ương 9 khóa VII vừa rồi của Đảng nâng lên thành một trong số 6 quan điểm chủ yếu quán triệt trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân để tiến tới Đại hội VII... Rõ ràng thực tiễn cuộc sống đã đi vào Nghị Quyết không cưỡng lại được, chứ không như ta thường nói đưa Nghị quyết vào cuộc sống.

Với chính sách mở cửa, kéo theo sự du nhập ồ ạt các nền văn hóa ngoại lai, đặc biệt là văn hóa phương Tây nếu không giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân tộc thì không tránh khỏi nguy cơ xuống cấp đạo đức về nhiều mặt. Ngay từ tháng 2 năm 1990, tôi đã khẩn thiết đưa vấn đề này vào cương lĩnh, vào các nghị quyết, nhưng không được coi trọng đúng mức. Kể ra như thế đã là chậm. Năm 1995 mới có nghị quyết 9 về 6 quan điểm chủ yếu thì càng chậm hơn, nhưng người ta nói: chậm còn hơn không. Cũng giống như sự kiện khoán hộ của Kim Ngọc. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc do Kim Ngọc làm bí thư đã đề ra khoán hộ từ tháng 9 năm 1966, nhưng liền sau đó bị kiểm điểm, bị cấm đoán. Đảng cấm, nhưng dân cứ làm, như một câu nói vui từng có thời lan truyền rộng rãi: đảng có sách, dân có cách", vì dân có thực tiễn cuộc sống của dân. Nhưng một Đảng luôn luôn tự cho mình là sáng suốt. Nghị quyết nào cũng là một nguồn ánh sáng rực rỡ" mà để dân phải làm chui một việc đúng thì thật là đau lòng.

Như ta biết, mãi hơn 20 năm sau, 1988, Đảng mới có Nghị quyết 10 cho phép nông dân thực hiện khoán hô. Và những gì xảy ra sau đó thì chúng ta đã biết. Chỉ hai năm Việt Nam đã từ một nước thiếu ăn triền miên trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 3 thế giới. Nhưng khi nói đến sự kiện này người ta chỉ nói đến "sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng" đến Nghị quyết 10, mà quên mất công lao hàng đầu chính là nhân dân, là sự năng động nhạy bén của cơ sở, tiêu biểu là sự năng động của đồng chí Bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc. Sự kiện này đã gây thắc mắc kéo dài trong nhân dân ở miền Bắc trước đây và lan rộng ra cả miền Nam sau ngày giải phóng. Thử bình tĩnh nhìn lại mà xem, nếu các năm 89, 90, 91 cứ tiếp tục cái cảnh hàng nghìn người đói khát, rách rưới từ các miền quê Thanh Hóa, Nghệ An kéo từng đoàn dài ra Hà Nội như các năm 1977 thì tình hình sẽ ra sao?

Vấn đề lương thực không chỉ căng thẳng ở miền Bắc mà cả ở miền Nam, vựa lúa của Đông Dương, từ thời Pháp đã xuất cảng gạo, chỉ sau giải phóng miền Nam ít lâu, dân Sài Gòn đã phải ăn bo bo và cũng ăn cơm độn mì như đồng bào miền Bắc. Nguyên nhân chủ yếu là chúng ta đã sớm áp đặt mô hình hợp tác xã vào nông thôn miền Nam, khiến người nông dân tài hoa của đồng bằng sông Cửu Long khó có thể phát huy được tính tích cực năng động vốn có của mình mà phải "noi gương nông dân miền Bắc đi làm theo kẻng", "cấy chay, cày gãi, bừa chùi cho xong việc để về sớm, mặc dù có nơi thu hoạch chỉ có 3 lạng thóc một đầu người. Và kết quả tất nhiên là đói, đói từ miền Bắc đói vào, đói lan tràn khắp nước. Thật là đau lòng khi ở một đất nước nông dân thì cần cù, sáng tạo, đất đai thì màu mỡ phì nhiêu mà phải liên tục nhập khẩu gạo. Có thể nói sự kiện khoán hộ là một trong những sự kiện điển hình nhất để lại dấu ấn khá đậm trong sư lãnh đạo của chúng ta. Chúng ta đừng quên mất lời dạy của Bác Hồ:

"Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính..."[2] Tôi tìm đọc lại những trang này trong cuốn "Sửa đổi lối làm việc". Đọc đi, đọc lại, càng đọc càng thấy Bác Hồ thật vĩ dại. Người như thấu hiểu mọi lẽ trên đời, hiểu hiện tạ i và đoán biết cả tương lai. Nếu như ta không biết những dòng này Bác viết từ năm 1947 cứ ngỡ là Bác đang nói với chúng ta hôm nay. Tôi cảm thấy những dòng chữ của Bác như những cặp mắt đang nhìn thẳng vào tôi và nghiêm khắc hỏi: "Anh vào Đảng từ hồi bí mật, đã trải qua hai cuộc kháng chiến, đứng trước cái chết, trước kẻ thù anh không sợ, liệu anh có dám nói ra những điều anh nhìn thấy không?

Những lời dạy của Bác Hồ như khuyến khích tôi, và tôi hạ quyết tâm sẽ viết những điều tôi đang suy nghĩ lên Bộ Chính Trị bằng hình thức một lá thư để các anh tham khảo. Tôi sẽ viết một cách chân thật, thẳng thắn, với tất cả tinh thần trách nhiệm của một đảng viên cộng sản.

Tháng 3 năm 1974, tôi nhận quân hàm Trung tướng. Như vậy là từ ngày nhận quân hàm Thiếu tướng đến ngày nhận quân hàm Trung tướng, thời gian kéo dài 16 năm. Đối với tôi đó là một ngày vui đáng ghi nhớ. Bởi ra đi làm cách mạng, ngay từ đầu đã bị tù đày, tra tấn, tôi và những người cùng lứa với tôi, có ai nghĩ là mai sau sẽ trở thành tướng lĩnh hoặc ông này, ông nọ. Đánh đổ đế quốc phong kiến, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa cộng sản, công nhân làm chủ nhà máy, nông dân làm chủ ruộng đồng, mọi người đều bình đẳng, ấm no, hạnh phúc... Đó là lý tưởng cao đẹp từng theo tôi suốt chặng đường hành quân đánh giặc 30 năm qua. Bây giờ được nhận quân hàm Trung tướng, đối với tôi là một vinh dự lớn. Đây là điều tôi ít khi nghĩ đến.

Cùng nhận quân hàm đợt này với tôi có các đồng chí Lê Trọng Tấn, Đàm Quang Trung ở Bộ tư lệnh Đại đoàn 312 cũ, các đồng chí Trần Văn Trà, Lê Đức Anh... ở Bộ tư lệnh B2 và nhiều đồng chí khác cùng đợt phong quân hàm năm 1958. Có những đồng chí tiến bộ vượt bực như đồng chí Lê Đức Anh, Đồng Sĩ Nguyên... Năm 1958 chỉ mới được phong Thượng tá, Đại tá, nay đều nhận quân hàm Trung tướng. Tôi chúc mừng tất cả. Điều này nói lên sự lớn mạnh vượt bực của Quân đội ta.

Tôi đang suy nghĩ về bức thư gửi Bộ Chính trị thì được tin Văn phòng Trung ương cho biết, Ban bí thư bố trí cho tôi đi tham quan Cộng hòa dân chủ Đức một thời gian. Tôi nghĩ cũng là một dịp tốt để có tầm nhìn bao quát hơn, giúp cho những nội dung tôi trình bày có thêm những căn cứ khoa học.

Rất may mắn là những điều tai nghe mắt thấy ở Cộng hòa dân chủ Đức càng thôi thúc tôi viết thư cho Bộ Chính trị. Những vấn đề nung nấu trong tôi từ ngày ra Bắc càng thêm chín mùi. Không viết được, chưa viết được, lòng dạ cứ không yên chút nào. Đêm nào nằm cũng suy nghĩ có đêm hầu như thức suốt, bất chợt nảy ra ý gì mới lại vội vàng trở dậy ghi chép, sợ sáng ra lại quên mất. Cứ như thế ròng rã hơn một tháng trời tôi mới viết xong bức thư 14 trang. Tôi không đề gửi Bộ Chính trị, sợ như thế nó to tát quá. Cân nhắc mãi tôi chỉ đề gửi các anh Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, để vừa mang tính chất chung, gửi cho các anh ấy tức là gửi cho Bộ Chính trị rồi, nhưng cũng vừa mang tính chất cá nhân, thân tình bộc lộ những suy nghĩ của mình như lời tâm sự của một đứa em đối với các anh lớn...

Rất may là tôi còn giữ được bức thư cho đến ngày hôm nay. Do đó, để cho trung thực, khách quan, có tính lịch sử, tôi xin chép ra nguyên văn bức thư ấy. Mặc dầu hiện nay tình hình chung đã khác trước nhiều, Đảng ta đã qua 4 lần Đại hội, tới là Đại hội VIII. Những suy nghĩ của mình cách đây hơn 20 năm không tránh khỏi những ấu trĩ, ngây thơ nhưng tôi không sợ mọi người cười chê, bởi tôi tin ở tấm lòng chân thật của mình, mà chân thật chính là một trong những tiêu chuẩn của cái đẹp. Tôi không có tham vọng gì trong bức thư này. Có chăng là sự mong muốn cháy bỏng của một người lính từ chiến trường trở về, làm sao cho đất nước ngày càng phát triển, dời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, Đảng ta ngày càng trong sạch, chính quyền ta ngày càng vững mạnh...

Kính gửi: Anh Ba, anh Năm, anh Sáu[3]

Vừa qua trong mấy tháng, tôi đã được đọc Nghị quyết 22, nghe báo cáo một số tình hình, đi thăm các tỉnh ở Miền Bắc Nam Hà, Thái Bình, được nghe chuyện cụ thể của một số cán bộ kể có ý muốn phản ánh các khía cạnh của tình hình. Tôi được Trung ương cho đi thăm nước Cộng hòa Dân chủ Đức, lúc về tôi qua Moscow vài ngày, Bắc Kinh vài ngày.

Qua tất cả cả các sự quan sát, thấy và nghe được tôi chưa chú ý đi sâu nghiên cứu có hệ thống được một vấn đề nào nhưng tổng hợp những điều đã thấy và nghe được, tôi có một số cảm giác, ấn tượng. Tôi không muốn chờ đợi mà tôi muốn báo cáo với các anh những cảm giác, ấn tượng là có tôi chút suy nghĩ sơ bộ với các anh. Tôi không có tham vọng đề đạt một ý kiến to tát nào. Vì tôi chắc Bộ Chính trị đã nắm tình hình và đã suy nghĩ rất nhiều đã được nghe nhiều ý kiến, đã có nhiều dự án.

Tôi chỉ muốn để các anh thấy thêm một số khía cạnh, có tác dụng làm phong phú thêm cho sự suy nghĩ, nói cách khác là tôi cũng nêu lên những thắc mắc, những mong mỏi, những câu hỏi để các anh suy nghĩ giải đáp trong lúc các anh cũng đang giải đáp những vấn đề đã đặt ra.

I

ở miền Bắc đang có nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội và cả trong các tổ chức Đảng, trong bộ máy chính quyền. Và những hiện tượng tiêu cực trong tổ chức Đảng và chính quyền tác động nhiều trong xã hội. Điều đó ai cũng thấy. Thế nhưng vấn đề là tại sao nó lại biến chuyển chậm chạp? Sự biến chuyển chậm chạp này đã tạo nên một tình trạng giảm sút lòng tin trong cán bộ, trong đảng viên, trong nhân dân và đáng lo ngại hơn cả trong thanh niên. Tôi đã gặp một số thanh niên, họ nói thực lòng Họ tin và họ phục vào lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc. Nhưng đứng trước hiện tại và tương lai họ giảm sút lòng tin

Giảm lòng tin vào những mục tiêu cụ thể của các sự nghiệp, giảm lòng tin vào lý tưởng, vào đường lối.

Những hiện tượng tiêu cực của xã hội (và trong Đảng trong chính quyền) làm vẩn đục sự trong sáng và đẹp đẽ của những lý tưởng, đầu độc những lòng say mê hăng hái có tính chất lãng mạn cách mạng, tạo nên một triết lý "sống tiêu cực tạo nên "một thế lực xã hội bao vây và xô đẩy những tâm hồn trung thực.

Tình trạng trên có những nguyên nhân và khuyết điểm là sự kém cõi trong sự lãnh đạo quản lý xã hội. Nhưng có phải nó còn đang phản ánh một cái mâu thuẫn gay gắt giữa những nhu cầu ngày càng cao do được kích thích bởi sự phát triển văn hóa và tình hình phát triển của thế giới với sự thiếu thốn của cơ sở Vật Chất của ta? Tức là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất phát triển nhanh mà sức sản xuất không theo kịp. Có phải một mặt ta phải khắc phục tình trạng quản lý kém và đồng thời phải tìm cách nhanh chóng nâng cao cơ sở vật chất của ta lên không?

Về mặt quản lý có nhiều vấn đề nhưng hình như ta đang có những hiện tượng:

- Đẻ ra nhiều tổ chức quá làm cho bộ máy ngày càng nặng nề cồng kềnh mà lại vướng víu lẫn nhau?

- Đã nhiều tổ chức mà ít luật pháp. ít điều lệ quy định cụ thể rõ ràng, để bắt buộc chức trách, để buộc mọi người phải tự giác tôn trọng.

- Tổ chức thiếu ổn định, thay đổi luôn tình trạng đó biểu hiện ở một vài hiện tượng cụ thể.

- Kỷ luật lao động lỏng lẻo.

- Tùy tiện, đẻ ra tình trạng mà ta gọi là "cửa quyền", bất cứ một nhân viên nhỏ nào cũng "sáng tác ra những quy tắc cụ thể của mình, gây rất nhiều chậm trễ rắc rối trong công việc.

- Mơ hồ, trống rỗng, không cụ thể, ví dụ về luật lệ giao thông: rất ít những biển có ký hiệu luật lệ cụ thể mà nhiều khẩu hiệu vớ vẩn:

"Cấm bóp còi inh ỏi".

"Cấm phóng nhanh vượt ẩu.

"An toàn là bạn, tai nạn là thù".

Thế nào là còi inh ỏi và không inh ỏi. Thế nào là phóng

nhanh? Trong khi đó có những ký hiệu cấm còi, cấm vượt, hạn chế tốc độ có tính chất quy ước quốc tế rồi?

Nhiều công việc chưa có nội dung, quy tắc cụ thể đã có nhiều tổ chức, nhiều hội đồng nên có thể nói hữu danh vô thực.

Nhiều phê phán, mà ít phạt nghiêm, thưởng phạt khen chê, không dứt khoát, không rõ ràng. Đãi ngộ vật chất người có công lẫn lộn với trao quyền chức cho những người không có năng lực.

Đội ngũ về hưu", về hưu về công tác lao động chức quyền xã hội lại vẫn là "vai vế trong Đảng thì có hợp lý hay không?

- Báo chí thường phản ảnh không thực chất tình trạng thực tế nhất là của các sinh hoạt đoàn thể (và đáng chú ý hơn là Đoàn thanh niên và đội Thiếu niên tiền phong).

Theo tôi thấy cần phải xác định và tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc, ví dụ:

- Khi nào có nội dung nhiệm vụ cụ thể xác định được các quy tắc quyền hạn quan hệ, có điều lệ cụ thể về hoạt động cụ thể hãy nên tổ chức.

- Phải làm thế nào có một sự tập trung có hiệu lực trong từng bộ phận và trong cái toàn thể để tránh tình trạng:

- Đường lối, nghị quyết hay nhưng tổ chức thực hiện (kế hoạch, chương trình) dở.

- Chủ trương cấp trên giải quyết nhanh linh hoạt dễ dàng, nhưg chuyển xuống đến bộ máy là cứ dằng dai kéo dài, thậm chí không giải quyết được. Cần phân biệt "cố vấn, nghiên cứu với chỉ đạo thực hiện.

Trước mắt tôi nghĩ không biết có nên giải quyết gấp, chấn chỉnh mấy mặt bằng luật pháp có hiệu lực.

Luật pháp về trật tự xã hội để củng cố trị an và củng cố quan hệ sản xuất.

- Trừng trị thật nặng những kẻ dựa vào chức quyền để làm giàu và những kẻ bất kể động cơ gì xâm phạm đến tự do thân thể danh dự và tài sản của người khác một cách bất hợp pháp.

- Tạo những điều quy chế có tính chất phổ cập thường xuyên ở các nơi công cộng và có lực lượng quần chúng tham gia tích cực xây dựng.

Nghiêm ngặt ban hành và tổ chức thực hiện, chấn chỉnh các phương tiện để duy trì tốt luật giao thông.

Tôi thắc mắc trong lịch sử, có những lúc những tên độc tài có thể biến chuyển tình hình xã hội trong một thời gian ngắn.

- Napôlêon trong mấy tháng chuyển một đội quân ô hợp thành một đội quân thiện chiến.

- Hitler trong mấy năm chuẩn bị nước Đức đi vào một cuộc chiến tranh lớn.

- Pierre đệ nhất của Nga cũng biến chuyển nước Nga lạc hậu trong vòng một số năm.

Tất nhiên ta không bắt chước bọn phát xít độc tài. Nhưng ta phải suy nghĩ xem bí quyết của chúng ở chỗ nào, mà có thể nhanh chóng thay đổi tình hình một xã hội?

Thông thường là ở thưởng phạt thật nghiêm khắc, có nhiều vụ thưởng phạt điển hình được truyền tụng, có những biện pháp mạnh, vừa có tính cổ vũ vừa có tinh cảnh cáo, tạo thành một sức mạnh "xã hội".

ở Đức hậu quả của các chếđộ Bismach, Friederich, Hitler còn lại phần tích cực là tính kỷ luật rất cao trong nhân dân Đức. Đó là một sự thật khách quan ta phải thừa nhận.

Cho nên ta cần có những luật pháp, những bộ luật và những lực lượng có hiệu quả thi hành những điều luật đó.

Đó là các cơ quan thanh tra kiểm soát, đó là các lực lượng Công đoàn, Thanh niên, Thiếu niên và cả Phụ nữ.

Muốn cho thật có hiệu lực, phải là một thanh Đảng nghiêm túc và có thể "công khai". Hiện ta đang có cuộc học tập vận động có tính chất thanh Đảng đấy! Nhưng tôi cảm thấy chưa đủ liều lượng. Cần tập trung:

- Đưa ra khỏi Đảng: những người lười biếng, những người lợi dụng chức quyền ăn cắp làm giàu, móc ngoặc với gian phi. Những người đã hết khả năng lãnh đạo.

- Cần có danh hiệu "Cựu Đảng viên cho những ai không có khuyết điểm nhưng hết khả năng công tác và lãnh đạo, đã về hưu... để có đãi ngộ mà không cần giao chức quyền, không cần tham gia sinh hoạt lãnh đạo để giảm bớt chất ì trong các tổ chức Đảng.

Nên thực hiện chế độ thẻ đảng viên. Cần có cuộc vận động tương tự trong Đoàn thanh niên và cũng nên có vận động phát huy đổi thẻ Đoàn viên với những nội dung có tác động tích cực thúc đẩy các yếu tố tích cực.

Tất nhiên có hàng loạt việc phải làm nhưng tôi "cảm thấy cần tập trung có trọng điểm, tập trung và biện pháp mạnh để thực hiện một sự kiên quyết nghiêm túc và có hiệu lực, có tác dụng cổ vũ nhân dân, củng cố lòng tin, nhằm biến chuyển nhanh chóng tình hình trong thời gian ngắn. Phải có những việc làm có tác động mạnh mẻ, sôi nổi về tinh thần và cổ vũ những yếu tích cực vừa ngăn chặn trấn áp mạnh mẽ những yếu tố tiêu cực. Nhưng dù sao đó cũng là một mặt có tính chất ở "thượng tầng kiến trúc. Còn vấn đề có ý nghĩa cơ bản ở "hạ tầng cơ sở" là vấn đề xây dựng kinh tế, vấn đề tạo cơ sở vật chất.

Tôi xin có mấy ý kiến như sau:

II

Về vấn đề này tôi không dám có những ý kiến gì nhiều. Vì thật ra là rất dốt, lại xa các công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội hàng mười năm nay. Nhưng cũng có những cảm giác và ấn tượng muôn trình bày với các anh.

Đi tham quan nước Đức, chỉ đi chơi có tính chất du lịch, chủ yếu là quan sát và đọc vài tài liệu giới thiệu đơn giản. Nhưng qua hệ thống đường xá qua cơ sở các thị xã, thị trấn, thành phố họ đã có và đang xây dựng, qua các di tích lịch sử về văn hóa và cả về công nghiệp của họ thì tôi có ấn tượng tương đối rõ ràng về cái gọi là:

Xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi đánh đổ chính quyền của tư bản chủ nghĩa và xây dựng xã hội không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.

Nó có hàng loạt vấn đề về quy luật đặt ra. Những quy luật cơ bản là những gì. Và những quy luật của công việc xây dựng xã hội chủ nghĩa là những gì.

Có lẽ khi Đảng ta đặt vấn đề "Bước đi ban đầu có lẽ đã phát biểu triển lên một quy luật rồi chăng?

Nếu chủ nghĩa tư bản có một thời kỳ tích lũy tư bản, hết sức tàn khốc mà cũng dài lâu mới có của cải vật chất để phát triển và mới có những cơ sở vật chất, những vấn đề tổ chức, về kỷ luật kỹ thuật cho tư bản chủ nghĩa phát triển và những cái đó lại là những vốn hết sức quan trọng tạo điều kiện cho việc xây dựng xã hội chủ nghĩa sau này, thì chủ nghĩa xã hội với những yêu cầu về phân phối của nó rõ đang đòi hỏi một cơ sờ vật chất thế nào đây.

Có phải nội dung của bước đi ban đầu là tạo một cơ sở vật chất tối thiểu, để làm đà cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa không? Và yêu cầu của cái cơ sở vật chất tối thiểu ấy là gì?

Ví dụ lấy con số về yêu cầu điện đầu người và thép đầu người thì con số: 1500 kW/giờ đầu người/năm và 100 kg gang thép đầu người là con số yêu cầu tối thiểu hợp lý chăng?

Chủ nghĩa tư bản tạo cơ sở vật chất bằng tích lũy tư bản tàn khốc. Vậy chủ nghĩa xã hội không qua tư bản chủ nghĩa phải tạo cơ sở vật chất bằng gì? Có lẽ cơ bản bằng tích lũy lao động tập thể.

Thế nhưng đặc điểm cơ bản và cũng là điều kiện tiên quyết cốt tử cho các nước thuộc địa tiến lên xã hội chủ nghĩa là có phe xã hội chủ nghĩa, có Liên Xô. Ngoài ra còn có thế giới thứ ba, có cách mạng khoa học kỹ thuật thế giới. Và riêng Việt Nam mình lại có hai miền, nhiệm vụ giải phóng dân tộc và dân chủ nhân dân chưa hoàn toàn xong. Tác động của chủ nghĩa thực dân mới về kinh tế miền Nam thế nào ta đánh giá chưa rõ (sẽ phát biểu phần sau). Vậy thì ta làm gì?

Yêu cầu gay gắt là trong một số năm ta phải làm những việc mà tư bản chủ nghĩa làm hàng mấy trăm năm. Ta làm thế nào và khai thác đặc điểm của thời đại ra sao? Tôi cũng thấy rõ Trung ương ta đang đặt vấn đề như vậy:

- Dựa vào phe xã hội chủ nghĩa.

- Khai thác cách mạng khoa học kỹ thuật.

- Lợi dụng cả tham vọng của những nước tư bản tương đối tiến bộ hoặc cả những bọn tư bản đế quốc mà tạm thời chưa phải là kẻ thù trực tiếp.

Nhưng qua những tài liệu tôi được đọc và báo cáo tôi được nghe. Tôi có "Cảm giác ta chưa thật mạnh bạo tập trung và dứt khoát, linh hoạt.

1 Còn nhiều lúng túng trong việc xác định quy luật của kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Ví dụ: Quy luật của Stalin phát biểu thì có phải đấy là quy luật, hay đấy là yêu cầu của chủ nghĩa xã hội.

Lại ví dụ về quy luật giá trị thì trên thực tế thị trường thế giới chủ nghĩa tư bản dùng giá trị sử dụng làm phương tiện để thu lợi nhuận, thì giá trị sử dụng hàng hóa của tư bản lại cứ phát triển tiến bộ, còn ta giá trị sử dụng là mục đích trực tiếp của sản xuất thì giá trị sử dụng hàng hóa lại không cao, riêng Việt Nam thì cứ theo "quy luật" thụt lùi trước tốt sau xấu? Đó là hiện tượng gì?

Riêng tôi còn thấy lúng túng nhiều trong việc nhận thức những cái gọi là quy luật này. Có điều rõ ràng là tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có thể phát huy nhiều, phát huy đầy đủ khi nào ta có một nền công nghiệp khá. Hiện nay ta vừa phải tạo cơ sở vật chất cho nền công nghiệp đó vừa phải rèn luyện con người và tổ chức xã hội chủ nghĩa cho phù hợp với nền công nghiệp đó

Cơ sở vật chất của chủ nghĩa tư bản nó buộc con người phải sống cho phù hợp và nó cuốn tổ chức xã hội phải phù hợp với cơ sở vật chất phát triển của nó. Nhưng chủ nghĩa xã hội ta lại chuẩn bị cho con người và tổ chức xã hội để đẩy mạnh công nghiệp hóa và có lẽ đó cũng là nhiệm vụ của vô sản chuyên chính chăng? Bây giờ yêu cầu cấp bách có nên đặt vấn đề ta cần phải có những chính sách hết sức táo bạo như kiểu Lênin định ra "Chính sách kinh tế mới, sau khi kết thúc nội chiến ở Nga với một nền kinh tế xơ xác tiêu điều không?

Tôi nói "như kiểu nghĩa là với một tinh thần mạnh dạn táo bạo và dứt khoát như vậy, chứ không phải theo nội dung của Lênin lúc đó, vì điều kiện lịch sử đã khác nhau hẳn. Ví dụ như thế này: Ta phát huy hết mức cái ưu thế về tài nguyên phong phú của ta, có những chính sách táo bạo mạnh dạn thu hút sự đầu tư của các nước anh em chủ yếu là các nước có kỹ thuật cao mà lại cần đến tài nguyên của ta. Thu hút mạnh dạn đầu tư của các nước tư bản chủ nghĩa chưa phải thù địch (như Thụy Điển, Pháp, Nhật). Có thể ta chịu thiệt đi một ít kể cả những thứ quý giá, kể cả một số mặt về lâu dài. Nhưng ta tập trung giải quyết mấy yêu cầu cốt tử của ta để đạt cho bằng được trong một thời gian ngắn, coi như ta phải bán tài nguyên quý đi để đạt được những yêu cầu cơ bản trước mắt là những yêu cầu cơ bản nền tảng cho lâu dài. Chứ nếu cái gì ta cũng muốn giữ cả vừa cứ nhập nhằng thì e rằng có khi thiệt (chứ không đến nỗi mất) cả chì lẫn chài. Tôi có những suy nghĩ đại khái như thế này.

Ta cần hết sức tập trung vào điện, thép, và dầu (Tôi chưa rõ ý nghĩa của cái "cơ khí là then chốt" lắm) bằng cách cho các nước đầu tư vào đứng ra làm, ta giữ vững chủ quyền về chính trị và kinh tế, làm sao sau một thời gian họ có lãi đến mức nào đó thì cái đó trở lại hoàn toàn thuộc (ta) về ta. Ví dụ như dầu có thể trao hẳn cho Nhật Bản làm cái gì đó với những điều kiện nào đó và đồng thời đòi Nhật phải giải quyết giúp ta những mặt khác. Còn những cái khác làm như đổi. Ví dụ nước anh em nào cần đồng, than... thì mời anh em đem kỹ thuật phương tiện và nhân viên đến xây dựng cơ sở khai thác và khai thác đi nhưng đổi lại, anh em làm cho tôi các cơ sở khai thác và chế biến quặng sắt, đúc thép, các cơ sở nhiệt điện, thủy điện... với yêu cầu ta đạt được mục tiêu của ta, bạn có lãi có lợi (và tất nhiên về chỗ đó: đồng, apatit, titan... ta chịu thiệt). Sau một thời gian bạn đã có lãi rồi thì tất cả vẫn là của ta. Ta còn có thêm Crom, chì, kẽm thậm chí cả cái thứ "đất nặng quý giá tôi nghĩ ta vẫn có thể đổi. Làm như vậy tôi tưởng tượng quang cảnh là tự các bạn mang xe cộ phương tiện vật liệu xây dựng, xây dựng nên những cơ sở hiện đại trên đất nước ta, có thể thu hút cả công nhân ta, huấn luyện cho công nhân ta. Sau 10, 15, 20 năm thì những thứ đó là của ta và trước mắt thì cũng là làm thay đổi quang cảnh của đất nước ta ngay.

Ta tập trung trí lực, tài lực lo những cái khác. Không sợ bị xâm phạm chủ quyền, ta được tập trung vào những yêu cầu chủ yêu của ta. Ta dám hy sinh cả những thị xã, thành phố để giữ gìn độc lập, thì ta cũng có thể chịu thiệt đi một số tài nguyên để mau chóng xây dựng đất nước.

***

Lại một suy nghĩ nữa về ta khai thác lợi thiên nhiên của ta.

Ví dụ: ta mời nước nào giỏi về tổ chức du lịch (tôi thấy CHDC Đức cũng khá giỏi về cái này) ta trao cho tổ chức du lịch ở Vịnh Hạ Long, ở rừng Cúc Phương. Họ xây dựng tổ chức khách sạn và họ thu tiền ta chỉ lấy một tỉ lệ thuế đủ cho họ thu lãi và thu vốn của họ. Sau mấy chục năm ta cũng sẽ thu hồi cố nhiên việc này phức tạp và cũng không biết có nước nào họ thích thế không? Ví dụ ta dùng hình thức kết nghĩa giữa các tỉnh của hai nước, ta đưa công nhân của ta sang họ. Ví dụ đưa sang với thời gian 10, 15, 20 năm với những điều kiện:

- Họ phải để thời gian huấn luyện 2, 3 năm.

- Số người đưa sang có tỉ lệ nam, nữ là người yêu (thương binh còn khỏe) người lớn tuổi...

- Có những quy chế đi lại trong thời gian làm việc.

- Quy chế đối với những gia đình lập trong thời gian đó (việc học tập của các cháu...)

Tôi không biết vấn đề nào có liên quan gì đến quốc thể không? Và đúng là giữa các nước xã hội chủ nghĩa chưa bao giờ có vấn đề như thế này. Nhưng nếu ta không câu nệ, có thể đưa sang trên dưới độ 1, 2 triệu người thì ta phát huy được lực lượng ta, ta tích lũy vốn, người, kỹ thuật cho ta sau này. Tạo công ăn việc làm được cho số người càng đông của ta.

Đây có thể là một ý nghĩ ngây thơ, nhưng riêng chủ quan với cách suy nghĩ của tôi, tôi cũng thấy thiết thực và có thể là một hình thức rất mới mẻ, rất mới mẻ của sự hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa chăng?

***

Tôi cứ tưởng tượng thế này. Hiện nay một số nước xã hội chủ nghĩa anh em khó có vẻ giúp ta như Cuba được, mà Cuba cũng lại nghèo và nước nhỏ. Cách giúp là "hai bên cùng có lợi mà bên bạn đã có lợi thì bên ta là phải thiệt.

Nhưng nếu thu hút được đầu tư của bạn vào thì có thể tạo nên nhiều cái lợi khác cho ta. Ví dụ nếu cùng một lúc có hàng chục, vài chục công trường lớn của bạn triển khai thì riêng những việc bạn phải làm đường, đem vật liệu vào xây dựng cũng là tăng thêm của cải cho ta.

Nếu trong vòng 5, 7 năm ta đưa sức điện của ta lên 10 tỷ kW-giờ và sau 10, 15 năm ta cố có lấy 50, 60 tỷ kW-giờ thì mới được. Trước mắt phải xây dựng thật nhiều điện chạy than và dầu, trong khi đó ta làm các công trình thủy điện và chạy nguyên tử. Nếu không có cách tập trung rất lớn thì không có cách nào giải quyết.

Tôi không biết hiện nay mỗi năm mình phải nhập bao nhiêu sắt thép nhưng nếu trong vòng 3, 5 năm mình có sắt thép không phải nhập. Sau đó lại có thể phát triển thêm việc xây dựng và đẩy mạnh chế tạo máy thì ta mới có đà để thúc đẩy các việc khác, nếu nói cơ khí là then chốt mà không có sắt thép thì có vẻ gay go.

Việc xây dựng cơ bản hiện nay đang phát triển rộng khắp mà thiếu sắt thép cũng gay go. Ngoài ra có thể thu xếp để đổi thế nào đó thu hút được việc chế tạo phân bón và phát triển công nghiệp hóa. Tôi nghĩ rằng khi ta đã có điện và thép đến một mức nào đó là ta có thể phát triển toàn diện sang các ngành khác và lúc ấy có thể có đà để có thể phát tiến nhanh chóng được.

Trên đây là nói về những vấn đề có liên quan đến những chính sách lớn có một tinh thần táo bạo và dứt khoát nhằm có cách để nhanh chóng đẩy mạnh mọi mặt khai thác và tạo ra những cơ sở vật chất cần thiết của thời kỳ bước đi ban đầu và tôi có thể quan niệm bước đi ban đầu có thể bao gồm một kế hoạch 5, 7 năm hoặc hai kế hoạch ngắn hơn.

Mặt khác cần có một chính sách cụ thể để sử dụng quy luật, quy luật giá trị, kết hợp với động viên tinh thần làm chủ của nhân dân để nâng cao chất lượng sản phẩm như:

- Chính sách khen thưởng rộng rãi và kỷ luật nghiêm ngặt đối với các hợp tác xã gia công.

- Chính sách thưởng phạt rộng rãi nghiêm minh với các xí nghiệp quốc doanh.

- Chính sách thu thập ý kiến người sử dụng (kiểu trưng cầu ý kiến) thường xuyên căn cứ vào đó mà xác định việc khen thưởng và kỷ luật.

Nói chung, trong bộ máy quản lý và điều khiển việc sản xuất cũng như trong bộ máy chính quyền của ta, việc thưởng và phạt có vẻ còn quá ít. Nên có những quy định về mặt này và có một thời gian thi hành rất kiên quyết dứt khoát. Dưới chính quyền vô sản chuyên chính phải quan niệm thưởng phạt là một biện pháp giáo dục quan trọng, sự thưởng phạt nghiêm tăng thêm tinh thần tự giác của nhân dân, cán bộ. ở nước cộng hòa dân chủ Đức, mọi người đều chấp hành khá nghiêm túc các quy định về trật tự vệ sinh công cộng và giao thông, trong đó có một tâm lý rõ rệt là ngại công an phạt, đồng thời với ý thức là cần tôn trọng tự do người khác. Thưởng phạt rõ rệt và quyết liệt mới là cách giáo dục tinh thần trách nhiệm, có hiệu lực nhất, mới góp phần hết sức quan trọng loại dần hiện tượng trì trệ, tùy tiện, làm ăn lơ mơ, đủng đỉnh. Đó là biện pháp quan trọng nhất để nâng cao kỷ luật lao động và từ đó nâng cao năng xuất lao động.

Có biện pháp thưởng phạt, mỗi khi thưởng và phạt có kèm vài câu nhắc nhờ thì sẽ có hiệu lực hơn 100 lần việc cứ họp suốt tuần, họp hết tài liệu nọ đến tài liệu kia. Tôi quan niệm giáo dục không phải chỉ là lên lớp học tập và có lẽ cũng không phải là chủ yếu là lên lớp và học tập.

Muốn tạo nên một tập quán xã hội, một tư tưởng xã hội thì phải tạo hành động quen thuộc thường xuyên hằng ngày, và muôn thế phải có quy tắc cụ thể và những quy tắc đó ai vi phạm nhất định phải trừng phạt.

Mọi người đi tàu hỏa hết sức "tự giác" đúng giờ đến ga khi làu chạy (mà không cần ai giáo dục mục đích ý nghĩa cả) là vì không đến đúng giờ thì bị "sự trừng phạt đau đớn ngay: lỡ tàu.

Phải làm cho bộ máy xã hội chạy một cách quyết liệt, lạnh lùng như đoàn tàu hỏa chạy vậy, buộc mọi người phải đúng giờ ra ga..

Tôi cảm thấy đây cũng là sự mong muốn của đa số đảng viên, cán bộ, thanh niên và nhân dân tôi gặp. Họ cũng muốn tôi phản ánh nhiều tình hình cụ thể với Bộ chính trị với ý định để Bộ chính trị nắm tình hình nhiều hơn.

Tuy các anh đã thấy được những tình hình cơ bản, nhưng hiện nay mọi người trung thực đều nóng lòng mong đón một cái gì đổi mới, chuyển biến gì mạnh mẽ, loại trừ mau chóng được một số mặt tiêu cực trong xã hội, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Tôi cũng muốn qua những ý kiến trên đây mà phản ánh với các anh một cách như vậy.

Chín Vinh

Tôi không hiểu lá thư tâm huyết của tôi có đến các anh không và nếu đến được thì các anh có bỏ ít thì giờ ra để đọc và suy nghĩ điều gì không. Nhưng tôi đã chờ đợi và chờ đợi. May sao sau đó luồng gió đổi mới từ Liên xô tới.

Đảng ta, đứng đầu là Tổng bí thư Trường Chinh, đã nhanh chóng tiếp nhận một cách sáng tạo, với quyết tâm lớn "Đổi mới hay là chết", đã vực dậy một đất nước hầu như đang lao xuống dốc không phanh...

Thực ra những vấn đề của đổi mới đã được nhiều cán bộ, đảng viên, các nhà trí thức, khoa học trong nước phát biểu nơi này nơi nọ, bằng các hình thức khác nhau, nhưng dường như nhiều đồng chí vẫn còn e ngại. Đây là một căn bệnh cực kỳ nguy hiểm, là nguyên nhân của nhiều sai lầm được lặp đi lặp lại, và tiếc thay, vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay...

Nhớ năm 1946, khi chính quyền non trẻ mới thành lập, tài ba như Bác mà vẫn kêu gọi tìm người tài đức trong thiên hạ để giúp nước. Báo Cứu quốc ngày 20-11-1964 đã đăng thông cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với nhan đề: Tìm người tài đức.

Thông cáo viết:

"Nước nhà cần phải kiến thiết kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài đức.

E vì chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các đia phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân thì phải báo cáo ngay cho chính phủ Báo cáo phải nói rõ: Tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó.

Hạn trong một tháng, các cơ quan đia phương phải báo cho đầy đủ.

Chủ tịch Chính phủ Việt Nam

Hồ Chí Minh[4]

Bác Hồ thì như thế, còn chúng ta ngày nay thì sao? Hơn lúc nào hết, muốn cho công cuộc đổi mới hiện nay giành được thắng lợi, ta cần nhớ và thực hiện đúng những lời dạy quý báu của Bác Hồ:

"Có nhiều đồng chí có bệnh tự tôn, tự đại, khinh rẻ người ta, không muốn biết, muốn học những ưu điểm của người khác... Họ quên rằng, chỉ đoàn kết trong Đảng, cách mạng cũng không thành công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Họ quên rằng, so với nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu... Nêu không có nhân dân giúp sức thì Đảng không làm được việc gì hết.

"Vì vậy ta cần phải hợp tác với những người ngoài Đảng. Ta không được khinh rẻ họ, chê bai họ. Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc, cô độc thì nhất định thất bại. "Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết dùng nhân tài, việc gì cũng ôm lấy hết, ôm lấy dĩ nhiên là làm không nổi. "Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết cách xử trí khôn khéo với các hạng đồng bào (như tôn giáo, quốc dân thiểu sô anh em tri thức, các quan lại cũ...) "Từ nay, mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chữa cái bệnh hẹp hòi đó để thực hiện chính sách đại đoàn kết. "Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi... mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ, địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ bên trong phá ra[5]

Tập II Chương 2

Đại hội năm

Đại hội IV của Đảng diễn ra suôn sẻ, tưng bừng như là một Đại hội mừng công. Những tràng vỗ tay dài như những đợt sóng liên tục vang lên trong hội trường Ba Đình. Hơn 1 nghìn đại biểu từ khắp các địa phương, các chiến trường tụ hội về đây, tay bắt mặt mừng. Những cuộc gặp gỡ cảm động, những vòng tay ôm nhau thân thiết. Nét mặt ai nấy rạng ngời một niềm vui, phơi phới tự hào. Không vui sao được, không tự hào sao được, bởi đây chính là ngày hội của những người chiến thắng. Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ: "Dân tộc ta sẽ có vinh dự là một dân tộc nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ" đã được thực hiện. Đây là chiến công chung cả toàn dân tộc nhưng lực lượng tiền phong đi đầu, vừa dẫn đường chỉ lối, vừa xông pha trận mạc chính là những người cộng sản mà tiêu biểu là những đại biểu đang có mặt trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV hôm nay.

Đối với tôi, những ngày đại hội thực sự là những ngày vui Không khí tưng bừng của đại hội, những cuộc gặp gỡ thân tình với bạn bè, đồng chí. Có người từ Điện Biên Phủ nay mới gặp lại tính ra đã hơn 20 nam, có người suốt 16 năm từ Đại hội Đảng lần thứ III. Đặc biệt là các đồng chí ở 321 : Lê Trọng Tán, Đàm Quang Trung, Hoàng Cầm... Những tướng lĩnh từng xông pha trăm trận, gặp nhau đông đủ ở đây Đoàn đại biểu Quân đội trong Đại hội với tư thế hiên ngang, quân phục mùa đông thẳng nếp, trên ngực lấp lánh huân chương, tạo nên vẻ đẹp hào hùng cho Đại hội với đầy đủ ý nghĩa là một đại hội của những người chiến thắng.

Trước đại hội, tôi có viết một bài tùy bút với tựa đề: "Sự nghiệp vẻ vang của nhiều thế hệ" nói lên những suy nghĩ của mình trước chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nhân đang nói về Đại hội IV, tôi muốn trích vào đây một số đoạn Có thể nói đây là những suy nghĩ bước đầu của tôi về thời kỳ mới của dân tộc.

Mùa xuân 1975 đến và qua đi để lại trong lịch sử của Việt Nam và của thế giới một mốc son chói lọi: ở Việt Nam, một thắng lợi trọn vẹn của độc lập, tự do, ở thế giới, một thắng lợi của chính nghĩa và nhân phẩm. Ngày tháng cứ qua đi, nhưng ý nghĩa của thắng lợi mùa xuân 1975 cứ còn vang mãi, vang xa mãi... Những nhiệm vụ mới, tình hình mới, những vấn đề mới cứ đặt ta dồn dập tới tấp, nhưng ý nghĩa của thắng lợi vẫn cứ như ánh sáng lấp lánh, chói lòa ngày càng rực rỡ.

Lịch sử đã sang trang. Từ sau mùa xuân 1975, toàn bộ cuộc sống của mọi người dân Việt Nam đều gặp một sự đảo lộn sung sướng: bỏ lại sau một cuộc sống của tiền phương lớn, hậu phương lớn và bước vào một cuộc sống hòa bình vững chắc trong độc lập, tự do, cả nước sum họp một nhà, giang sơn liền một giải. Đất nước chuyển mình vào một thời kỳ lịch sử mới.

Thời gian cứ qua đi. Có những sự việc đã quên đi, nhưng có những sự việc còn nhắc mãi, càng nhắc, sự việc càng lớn lên mãi. Ta quên đi những hận thù, những đau sót, những khổ nhục. Ta nhắc mãi những chiến công, những đóng góp, những hy sinh và những yêu thương. Thời gian cứ đi, nhưng những cảm xúc, những tình cảm, những suy tư cứ lớn lên mãi, dài mãi ra và dày dặn mãi lên, phong phú mãi lên.

Những giọt nước mắt tức tưởi trước đây chỉ rơi dè dặt dưới bụi dừa nước, trong hầm bí mật, nay nó sẽ rơi trước lăng Bác và long lanh dưới ánh nắng của khoảng trời Ba Đình lồng lộng. Những niềm vui sướng trước đây thường tắc nghẹn ở từng nơi hoặc chỉ bừng nở vội vàng, thì nay có thể tràn ngập khắp không gian đất nước, khắp cả Hà Nội, đồng thời ngập cả Sài Gòn, dạt dào sông Hồng, đồng thời rộn rã khắp Cửu Long...

Những xum họp trước đây ngắn ngủi, bất ngờ hoặc chỉ gián tiếp qua những tờ giấy mỏng, thì nay được hẹn trước, được thể hiện trong những vòng tay, những bông hoa, những kỷ vật, những buổi liên hoan và những cuộc kể lể tâm tình vô tận, nhắc đi nhắc lại nhiều lần về những dự kiến tương lai.

Bao nhiêu việc cấp bách đã đặt ra: nào công ăn việc làm cho hàng triệu người, nào những hậu quả đau đớn và bẩn thỉu của bọn xâm lược để lại trong mỗi gia đình, mỗi tâm hồn con người, nào cải tạo những nếp sống, những nếp suy nghĩ không phù hợp nữa, nào tổ chức lại mọi việc theo quy mô nhà nước, nào những nhu cầu cấp bách: sách học, cơm ăn, vải mặc, củi đốt, phân bón, giống má nguyên liệu cho những công trình cấp bách...

Nhưng lại còn phải nghĩ các bước đi cho 10 năm, 20 năm, cho 50 năm, cho 100 năm, bước đi của đất nước, của nền kinh tế, của những con người, những thế hệ. Muốn tính được bước đi đó, muốn giữ vững non sông đất nước, lại phải còn xem lại đất nước ta hơn 4000 năm qua ra sao, hơn 100 năm qua thế nào và nhất là hơn 30 năm qua ta đã làm những gì. Những điều đó tiếp tục trong tương lai ra sao? Hình thành trong đầu óc những lớp người hôm nay hai mươi tuổi, mười tuổi và cả những lớp người đến nay chưa ra đời nữa, ra sao? Tài nguyên đất nước có những gì? Trong thế giới hiện nay, đất nước ta đi lên ra sao? Kinh nghiệm nào hay, kinh nghiệm nào dở? Những thất bại và thành công? Phấn khởi, vui mừng, cảm động, náo nức và có những lo nghĩ, suy tư, những bực bội, những sốt ruột, vừa làm mở mang tâm trí, lại vừa quặn thắt nỗi lòng.

Nhưng dù sao một suy nghĩ bao trùm vẫn là một suy nghĩ cho riêng ta, riêng dân tộc ta, riêng giai cấp công nhân cách mạng, cho hiện tại, cho tương lai và cho chung cả nhân dân thế giới: Đó là suy nghĩ về "Sức mạnh Việt Nam", sức mạnh của cách mạng và sức mạnh của phản cách mạng, sức mạnh Việt Nam và sức mạnh đế quốc Mỹ trong thời đại này.

Có một điều cảm tưởng rõ rệt nhất và chung nhất là ta thấy được rõ hơn, cụ thể hơn, chi tiết hơn, sâu sắc hơn cái sức mạnh vật chất, tiền của đế quốc Mỹ, cái thâm độc, xảo quyệt của thực dân kiểu mới với các loại triết lý, học thuyết chống cộng phản động của nó. Nếu ta không phải là người đã trực tiếp tham gia cuộc chiến đấu và chiến thắng vĩ đại này, thì ắt là ta phải lóe mắt, ngợp đầu về những sức mạnh "không tưởng tượng được" của nền văn minh kỹ thuật của Hoa Kỳ, sẽ rùng mình kinh sợ trước những cái xảo quyệt, tàn bạo, và rồi tự hỏi "Làm thế nào để có thể sống sót, để có thể chống nổi những cái đó", chứ chưa kể đến đánh bại nó. Chính những bọn tay sai của Mỹ đã thật sự tin tưởng vào sức mạnh đó, chúng không giải thích nổi tại sao chúng lại thua và không giải thích nổi cái số phận "đuôi chó" của chúng. Rất nhiều người có lương tri sống trong những vùng địch chiếm và hoặc ở nơi này, nơi khác của thế giới đều chứng tỏ ra đồng tình với mục đích chiến đấu của chúng ta, cảm phục cuộc chiến đấu của ta, nhưng cũng đã từng "không tưởng tượng nổi" thắng lợi cuối cùng của ta. Thậm chí, có những người biết rõ Mỹ xâm lược và theo Mỹ là tay sai, là việt gian, nhưng cũng tự nhủ rằng: Mỹ nó mạnh thế, không thể không theo Mỹ và rồi tự an ủi bằng câu "gặp thời thế, thế thời phải thế với một tinh thần tiêu cực hoặc với một tiếng thở dài, xuôi tay cho "thế sự và "sức mạnh Hoa Kỳ".

Thế đấy! Thế mà ngày nay cả 50 triệu người của cả dân tộc ta đang vượt lên trên những hình bóng của thứ sức mạnh ghê gớm ấy, đang ca hát, đang khôi phục, đang xây dựng, nhân dân lao động đã vào cái gọi là dinh Độc lập, để tận mắt xem bọn tay sai sống trên nhung lụa như thế nào? Trẻ em nhảy nhót trên những xác xe tăng gục đổ, la hét và đùa vui. Cả dân tộc ta vụt đứng lên y hệt như một người có phép thần và đã khuất phục được một loài quỷ khát máu và tàn bạo mà mọi người không ai không kinh sợ. Không những thế, ta còn đem cái thân xác thất bại của loài quỷ đó phơi bày cho cả thiên hạ xem. Và những người trung thực bỗng thấy thêm lòng can đảm, thêm niềm tin nụ cười hướng đến tương lai để gạt bỏ những sự hù đọa của bọn hung nô của thời đại.

Quả thật, kẻ địch của ta đã có một sức mạnh ghê gớm. Nhưng nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam lại có sức mạnh lớn lao hơn, kỳ diệu hơn và đã thắng chúng một cách vẻ vang trọn vẹn, dứt khoát rõ rệt. Chúng cũng không thể cãi bài bây mà xí xóa thất bại của chúng được. Kể ra khó mà nói là kẻ địch yếu. Chúng có một loại sức mạnh của chúng. Nhưng Việt Nam lại có một loại sức mạnh của Việt Nam. Và, sức mạnh Việt Nam thắng sức mạnh của đế quốc Mỹ. Vậy sức mạnh Việt Nam phải cao siêu hơn, kỳ diệu hơn: đó là sức mạnh cách mạng, sức mạnh của thời đại, sức mạnh của chủ nghĩa Mác Lênin, sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn, của tinh thần đoàn kết sâu sắc. Sức mạnh đó biểu hiện tập trung vào sự lãnh đạo tài tình và niềm tin sâu sắc mạnh mẽ. Sức mạnh đó được tích lũy từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Trong những ngày hội của non sông, trên khắp nẻo đường của đất nước, trong các phòng họp, trên các công trường, đồng ruộng... Chúng ta đã gặp bao nhiêu gương mặt khác nhau. Có những gương mặt của niềm hân hoan trọn vẹn: Thắng lợi, sum họp, chung thủy, có những gương mặt của niềm vui chung và nỗi đau riêng.

Ta hãy đi tìm những gương mặt của nhiều thế hệ. Đây là những gương mặt của các đồng chí của "thời dựng Đảng" những người học trò và đồng chí đầu tiên của Bác Hồ. Hiện nay, đó là những gương mặt của các đồng chí lãnh đạo tuổi đã suýt soát bảy mươi. Những cụ già khác vào tuổi đó đều đã trải qua dưới nhiều chế độ áp bức và khủng bố, ngày nay được nhìn thấy độc lập, tự do, trông thấy con cháu đều thật sự "đã nên người" có kiến thức, có việc làm, biết tự hào, thì các cụ vẫn tự nhủ lòng "bây giờ nhắm mắt cũng yên tâm, vui lòng, hả dạ". Nhưng còn các đồng chí lãnh đạo của chúng ta thì ba bốn chục năm tranh đấu đã qua lại chỉ chứa chất thêm trong đầu bao nhiêu dự tính ngày càng phong phú, càng tha thiết cho những năm sấp tới Những dự tính đầy ứ và nóng bỏng, mà sức lực không còn như xưa, thời gian để thực hiện những dự tính thì còn quá ngắn. Phấn khởi và tự hào về thắng lợi càng dạt dào, tin tưởng vào tương lai càng vững chắc, thì những lo âu về vạch ra những dự tính, tìm những phương pháp và những con người đủ khả năng và tin cậy để thực hiện các dự tính đó lại càng nặng trĩu, càng gay gắt và càng sôi bỏng. Những gì các đồng chí đã cảm thụ và nhận thức được trong gông cùm, trong máu lửa vẫn cứ như những giọt thép chảy đốt cháy tâm can. Những người kế thừa cảm thụ nhận thức ra sao đây? những chân lý đơn giản: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!", xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa, đạo đức "Mình vì mọi người, mọi người vì mình", "đoàn kết là sức mạnh", lại cũng là những chân lý vĩ đại. Nói đơn giản vì ai cũng nói được. Nhưng nó vĩ đại bởi vì muốn thực sự nhận thức được nó và toàn tâm thực hiện nó, lại phải có phẩm chất, nghị lực phi thường.

Lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc đã được 50 năm qua làm cho rạng rỡ như bây giờ. Nhưng không phải và không thể cứ sống như bây giờ: hằng năm, vẫn còn những ngày tháng giáp hạt thiếu ăn, nhà ở của nhân dân còn thiếu thốn, chật chội, còn có chỗ tối tăm, bữa ăn chưa đủ định lượng, chưa ngon, đa số trẻ em còn chưa có chỗ học đàng hoàng và chỗ chơi tử tế, trong cuộc sống người ta còn ganh tỵ, hách dịch, việc làm còn trì trệ, thậm chí còn có người ăn cắp, hối lộ,. trốn việc, có người trù móc nhau, lừa lọc, tranh giành, bất mãn... nhìn rộng ra thì cả thế giới cũng đang tiến lên những con đường phong phú và phức tạp Xã hội chủ nghĩa trở thành một xu thế của lịch sử, đồng thời là ước mơ, khát vọng của loài người. Nhưng con đường đi lên xã hội chủ nghĩa lại không thể không trải qua những bước đi khác nhau: nhanh hay chậm, thành công hay thất bại, thậm chí cả việc vừa xã hội chủ nghĩa vừa lại là không phải xã hội chủ nghĩa, hoặc xã hội chủ nghĩa thật, cũng có xã hội chủ nghĩa giả. Kẻ thù của xã hội chủ nghĩa ra sức xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, chê bai, khoét sâu khuyết, nhược điểm, lợi dụng mâu thuẫn "Đâm bị thóc, chọc bị gạo" luôn tìm sơ hở để phản kích ác liệt.

Bác Hồ nói: "Các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước". Ngày nay, non nước ta đã được giữ vững, ta lại phải nhớ câu Bác Hồ dặn lại trước lúc Bác đi xa: "Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!" và "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết".

Lớp trẻ ta, bây giờ bắt đầu phải bảo nhau: Bác Hồ và các Bác đi trước đã có công giữ nước, nay chúng ta phải cùng nhau dựng nước to đẹp hơn mười lần xưa để Bác được vui lòng. Bác Hồ vẫn yên nghỉ nơi quảng trường Ba Đình theo dõi các bước đi của con cháu.

Chúng ta phải cùng nhau, nghĩa là phải là một khối đoàn kết nhất trí góp sức mỗi người một phần, cái phần đó mỗi người ta cố gắng cho nó được nhiều, được to, dù rằng so với lịch sử từ trước đến nay cũng như so với không gian của Tổ quốc, chỉ là phần rất nhỏ bé. Nhưng, chúng ta phải cùng nhau?

Trong sự quan hệ cùng nhau của nhiều thế hệ này, không khỏi không nảy sinh những mâu thuẫn. Những ưu tư và kinh nghiệm và những mong ước sâu xa của những lớp người đi trước, thì lớp đi sau cũng khó mà hiểu được cho hết ngay một lúc, còn những ước mơ táo bạo, những kiến thức mới mẻ, những sức lực dồi dào và những mong muốn phong phú của lớp người đi sau, thì lớp người đi trước cũng không thể nào hiểu hết được và cũng không thể nào hiểu được sâu sắc.

Nhưng đã là quan hệ cùng nhau thì chỉ có quyền cùng nhau bổ sung, cùng nhau bồi đắp cho nhau, chứ tuyệt nhiên không có sự chê bai và phủ nhận.

Ta thường nghe những dư luận:

- Đảng lãnh đạo chiến tranh giỏi, lãnh đạo kinh tế, văn hóa không giỏi.

Đảng lãnh đạo chính trị giỏi, chứ lãnh đạo khoa học kỹ thuật, chuyên môn không giỏi.

Phải trên một chân lý hiển nhiên là có Đảng lãnh đạo mới có nền kinh tế và văn hóa như ngày nay. Có Đảng lãnh đạo nước ta mới có một trình độ khoa học và kỹ thuật như ngày nay. Và trên cơ sở chân lý đó, có những yêu cầu nâng cao sức lãnh đạo của Đảng về các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật thì tạm coi là một ý kiến tích cực. Nhưng, từ những ý kiến đó mà đi tới một sự chê bai, châm chọc, thậm chí phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng thì là những ý kiến phản động mà kẻ thù của ta mong muốn gợi lên.

"Những luận điệu cứ muốn gạt bỏ những người già (mà thực tế không thể gạt được) là một luận điệu sai lầm. Nhưng những luận điệu cứ cho là trẻ con, non nớt, chưa làm được việc thì cũng quá cũ kỹ và trì trệ. Trong cuộc sống luôn có lớp người trẻ, lớp người già, có lớp người đi sau, lớp người đi trước. Và điều đó cứ làm bản thân tôi luôn luôn suy nghĩ. Đó cũng vì tôi thuộc loại người vừa đi trước vừa đi sau, già thì chưa quá già, mà trẻ thì cũng không còn trẻ nữa. Đã từ lâu không có cái thú làm cha, mà cũng đã từ lâu đã có cái thú làm ông. Các anh lớn gặp tôi thì nói "mày còn trẻ lắm" nhưng các thanh niên gặp tôi đã từ lâu, không gọi là chú nữa mà kêu là thưa bác, cả chung quanh họ hàng tôi đã là một đội ngũ cháu gọi bằng ông không đếm xuể nữa. Các cháu nhỏ nhìn tôi bằng con mắt tò mò như muốn tìm những gì thần bí cổ xưa trong các câu chuyện xảy ra từ lúc chúng chưa ra đời. Nhiều chuyện chúng nó nghe mà không hiểu. Cũng có nhiều chuyện các cháu làm bây giờ tôi cũng cứ băn khoăn "Không hiểu tại sao nó làm thế?"

Lớp người lớn tuổi đi trước thì nhìn vào cơ đồ sự nghiệp của nước nhà gây dựng được đến ngày nay, thấy ở đó biết bao xương máu, bao đắng cay, bao tâm huyết của bao nhiêu lớp người... mà tâm tư suy nghĩ không biết rằng những người kế thừa có tiếp tục phát triển được sự nghiệp như ý Bác Hồ mong muốn, xứng đáng với những vinh dự, vẻ vang đã đạt được hay không?

Lớp người mới lớn lên, có hoài bão có chí khí nhìn vào những cục diện lớn thì hoặc thiếu tự tin ở kinh nghiệm tài năng của mình, hoặc quá tự tin vào kiến thức và sức bật mạnh mẽ của mình mà tâm tư lo ngoại những "ông già" ngày càng chậm chạp, bảo thủ, không đưa được đất nước bay bổng trên những đôi cánh ước mơ vĩ đại.

Thường thường những người trẻ tuổi ít tự tin ở tài năng và kinh nghiệm quán xuyến toàn diện, nhưng lại nhiều tự tin vào lãnh vực cụ thể mà mình được học tập, nghiên cứu và hoạt động. Và trong mỗi lĩnh vực, những người trẻ tuổi đều có cảm giác bức bối chật hẹp chưa thỏa được lòng vùng vẫy: chật hẹp về đời sống, chật hẹp về điều kiện làm việc, chật hẹp về sự chỉ đạo cụ thể, vướng víu trong các mối quan hệ hiệp đồng... Vì vậy một tâm trạng chờ mong ao ước ở sự lãnh đạo chung, có được những bí quyết thần tình gì, hoặc có một cái gì mới mẻ hơn, gỡ được nhiều gút mắc vướng víu để tất cả được thoải mái vùng vẫy bay xa.

Không thể lấy những ngày tuổi trẻ của những năm cách đây 20 - 30 năm để hiểu được những ngày tuổi trẻ hiện nay, nhưng những người lớn tuổi lại có thể đo kinh nghiệm dày dạn của mình, hiểu được những tác động khác nhau đến tuổi trẻ, mà bản thân tuổi trẻ ngày nay khó nhận ra. Tuổi trẻ ngày nay đang lớn lên trong một hoàn cảnh lịch sử rất phong phú mà cũng rất phức tạp.

Tuổi trẻ nước ta sinh ra trong một nước mà nền sản xuất còn thấp, kinh tế còn nghèo, nhưng lại được tiếp thu những kiến thức khoa học rộng rãi, thật mới mẻ, được tiếp xúc hằng ngày với bao nhiêu lý thuyết khoa học thật và giả, bao nhiêu quan hệ rối rắm mới lạ. Đời sống vật chất và những điều kiện và đời sống tinh thần trước mắt không phù hợp chút nào với những kiến thức và những nhu cầu ngày càng cao càng nhiều về cả vật chất lẫn tinh thần, và cả những quan hệ ngày càng nhiều nội dung tế nhị và phong phú. Vì vậy trong các loại tâm tư, có cả những tâm tư về đời sống, về điều kiện làm việc và về quan hệ xã hội. Nhưng tất cả các loại tâm tư thì lại đều nhân danh lý tưởng, nhân danh sự nghiệp, cho nên nhiều khi những tâm tư đó cũng mâu thuẫn đối chọi nhau, vướng mắc nhau, không thoát ra được.

Ngay cả trong những lớp người lớn tuổi nhưng tâm tư cũng đủ loại, đủ kiểu như vậy. Những yếu tố tiêu cực như nấm độc cứ len lõi khắp nơi. Chỉ những chỗ nào, lúc nào ánh sáng của lý tưởng, của sự nghiệp chân chính chiếu rọi vào thì mới hạn chế được những nấm độc chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, của những thói tự cao tự đại và bảo thủ lạc hậu -ánh sáng đó là mặt trời, mặt trời chân lý, mặt trời của lý tưởng, của sự nghiệp. Dù sao nó cũng cứ vằng vặc sáng soi khắp chỗ, dù sao cũng có đội ngũ những con người chân chính giương cao, mây mù che lấp nó chỉ là những đám mây tạm thời giao động, không bền vững, luôn luôn bị ánh sáng chói lọi xé tan ra và những làn gió đấu tranh quét sạch đi, mây mù tan ra rồi lại tụ lại, bị gió quét đi rồi lại bay quẩn. Nhưng nó cũng chỉ là những đám mây, và mặt trời vẫn cứ là mặt trời".

Trong Đại Hội IV hầu như ai cũng thấy rõ một nỗi buồn vắng Bác, nhất là những đồng chí có mặt từ đại hội III. Dạo đó Bác đã 70 tuổi, nhưng còn khỏe mạnh và nhanh nhẹn lắm. Bác ngồi ghế Chủ tịch đoàn, một bên là đồng chí Trường Chinh, một bên là đồng chí Lê Duẩn. Trong không khí tưng bừng của Đại hội IV hôm nay, tôi càng nhớ một đoạn trong diễn văn khai mạc Đại hội III của Bác:

"Đảng ta có thể tự hào là người kế tục những truyền thống vẻ vang của dân tộc ta, là người mờ đường cho nhân dân ta tiến lên một tương lai rực rỡ". Và Bác nhấn mạnh:

"Tất cả những thắng lợi đó không phải là công lao riêng của Đảng ta. Đó là công lao chung của toàn thê đồng bào trong cả nước. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào."

Rất tiếc là người ta không hiểu hoặc cố tình không hiểu hết ý nghĩa những lời nói quan trọng có chủ ý giáo dục đó của Bác. Chính vì vậy, mà sau này có người nói không khí của đại hội 4 là không khí say sưa chứa đầy những chất men chiến thắng, ý nghĩ cho mình là những người "Khai quốc công thần" bộc lộ khá rõ ở một số người và tác hại của ý nghĩ ấy rất lớn ở vào những năm sau đó. Mặt khác, sự say sưa chiến thắng đã làm cho một số người nào đó vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt mang vào đại hội tinh thần tự mãn, duy ý chí và phải đúng mười năm sau, đến Đại hội VI mới bắt đầu khắc phục được. Bản thân tôi cũng chịu một phần trách nhiệm đó. Rất tiếc là không còn Bác cho đến hôm nay. Nếu còn thì trong Đại hội này, Bác lại sẽ nói: "Đây chỉ là thắng lợi bước đầu... như sau thắng lợi ở Điện Biên Phủ năm 1954. Sau này khi đi chúc của Bác được công bố toàn văn, chúng ta mới biết, Bác đã dặn dò rất kỹ những công việc phải làm sau chiến tranh:

"Ngay sau khi cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man."

Và Bác nhắc nhở dặn dò:

"Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm." Thực là những lời Bác dạy sáng suốt biết bao, nếu không nói đó là một nhà tiên tri vĩ đại. Trong đi chúc Bác còn dặn một điều cực kỳ quan trọng:

"Theo ý tôi việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng".

Tại Đại hội IV, tôi trúng cử ủy viên Trung ương. Lúc này tôi bước vào tuổi 53. Như người ta nói: "49 chưa qua, 53 đã tới" lẽ ra là năm hạn, nhưng tôi đã thấy có điều gì không xảy ra trong cuộc sống của mình. Cũng như cả cuộc đời tôi, từ năm 17 tuổi tham gia hoạt động cách mạng cho đến nay nói chung là suôn sẻ, thuận lợi. Có bị bắt vào tù, bị tra tấn dã man, nhưng đã dũng cảm vượt qua, chiến thắng trở về đội ngũ. Cuộc đời tôi hơn 35 năm qua là những năm tháng đẹp đẽ, thật sự đáng tự hào: 18 tuổi vào Đảng, 19 tuổi đã là tỉnh ủy viên dự khuyết Thái Bình, 23 tuổi là Chính ủy Mặt trận Hà Nội, 27 tuổi là Chính ủy Đại đoàn, 32 tuổi là Chính ủy quân khu, 35 tuổi dược phong hàm Thiếu tướng. Như vậy là vào quân đội, tôi không qua binh nhất, binh nhì, không qua cấp úy, cấp tá mà khi Quân đội có chế độ quân hàm năm 1958, tôi được nhận ngay quân hàm tướng.

Sau Đại hội IV, tôi chính thức được chuyển ngành sang làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, phụ trách bí thư Ban cán sự đồng thời kiêm nhiệm chức phó Ban Tuyên huấn Trung ương phụ trách văn hóa văn nghệ. Đây chủ yếu là do nguyện vọng của tôi. Còn một số đồng chí quen thân thì thành thật khuyên tôi nên ở lại tiếp tục phục vụ trong Quân đội. Nhưng cái duyên nợ với văn hóa văn nghệ đã lôi kéo tôi vào con đường mà sau này tôi mới nhận ra lắm chông gai.

Những ngày đầu mới ra cơ quan dân sự tôi cảm thấy thật bỡ ngỡ. Đặc biệt là đi đến đâu cũng nghe nói đến những hiện tượng tiêu cực, nào là lên án nhau, nặng lời với nhau, rồi thì hiện tượng bè phái, ê kíp... nghe nó lạ tai lắm. Lúc đầu tôi không tin đó là sự thật, bởi làm sao cùng làm cách mạng, cùng đồng chí với nhau, lại có thể xảy ra những chuyện như thế. Nhưng đến khi chuẩn bị cho đại hội V thì những điều ấy đã bộc lộ một cách rõ ràng ngay trước mắt tôi mà thể hiện tập trung nhất là vấn đề nhân sự

Lúc bấy giờ vào cuối năm 1981, Ban văn hóa văn nghệ Trung ương vừa thành lập, tôi được bổ nhiệm làm trưởng ban, trong lúc vẫn là Bí thư ban cán sự kiêm Thứ trưởng bộ văn hóa.

Từ lâu rồi, có lẽ từ khi sinh ra chủ nghĩa xã hội, cứ mỗi lần đại hội Đảng cầm quyền là mỗi lần vấn đề nhân sự lại nổi lên hàng đầu. Đây là dịp để sắp xếp lại bộ máy trên tất cả các ngành, các cấp, các địa phương.

Riêng về lĩnh vực Văn hóa - Văn nghệ thì ngay từ đầu tôi đã được ban tổ chức Trung ương mời sang trao đổi về việc sắp xếp ở Bộ Văn hóa, ở Ban Văn hóa văn nghệ, ở các hội văn học nghệ thuật. Ngoài ra, Ban văn hóa văn nghệ còn góp người cùng các Ban khác, dưới sự điều hành của Ban tổ chức Trung ương làm nhiệm vụ thẩm tra các vụ việc dính líu đến các Trung ương ủy viên hoặc những đồng chí dự kiến sẽ vào Trung ương khóa V.

Trước hội nghị Trung ương chính thức bàn về nhân sự, anh Nguyễn Đức Tâm có nói riêng với tôi là khối văn hóa văn nghệ, vấn đề nhân sự không có gì thay đổi. Tôi cũng tin là như thế. Vì tôi mới nhận nhiệm vụ Trưởng ban văn hóa văn nghệ chưa được một năm đang còn triển khai ổn định tố chức, biên soạn chức danh. Nguyễn Đức Tâm là bạn cùng thời học sinh với tôi hồi nhỏ, rất biết tôi mê văn học từ ngày còn trên ghế nhà trường, bây giờ ở cương vị Phó ban Tổ chức Trung ương nói như thế nên tôi rất tin. Vả lại, hồi đó, tôi vừa đi học một lớp nghiên cứu về văn hóa văn nghệ ở Liên xô về nên đang tập trung thời gian vào việc triển khai những điều thu hoạch được mà sau này nó là một trong những tiền đề của Nghị Quyết 05. Do đó, vấn đề nhân sự đối với tôi, đối với ban văn hóa văn nghệ, đối với Bộ văn hóa, tôi cứ nghĩ không có vấn đề gì.

Thế mà một hôm, đang ngồi làm việc thì tôi nhận được giấy mời họp của Tiểu ban nhân sự Đại hội 5. Địa điểm: 4 Nguyễn Cảnh Chân. Tôi tự hỏi: "Quái! Không biết còn vấn đề gì nữa?" Tôi có trao đổi với một số đồng chí xung quanh thì có đồng chí nói ngay: Sao anh đơn giản thế. Những việc làm vừa qua chỉ là những động tác thăm dò, còn bây giờ mới thực sự đi vào "giai đoạn quyết đấu, anh phải suy nghĩ thật kỹ, chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với mọi tình huống.

Thế là tôi lần lượt điểm lại những sự việc đã diễn ra vừa qua. Nổi lên là hình ảnh một người có tên Chú, cán bộ của Ban tổ chức Trung ương, phụ trách khu vực Văn hóa văn nghệ, có chân trong bộ phận giúp việc Ban nhân sự đại hội.

Đúng là thời gian qua, đồng chí này có đến làm việc với tôi nhiều lần trong đó có việc phải hoàn thành một bản nhận xét về tôi để trình bày ban nhân sự Đại hội. Mà không chỉ riêng tôi, nhiệm vụ của đồng chí này còn phải làm bản nhận xét đối với từng đồng chí trong ban lãnh đạo Bộ Văn Hóa như Nguyễn Văn Hiếu, Hà Xuân Trường, Nông Quốc Chấn... và một số đồng chí thứ trưởng khác. Riêng về tôi, trong quá trình làm việc, quan hệ giữa tôi và đồng chí Chú đã đến chỗ thân tình, đôi khi đến mức rủ rỉ với nhau như là tâm sự. Tôi không chủ quan khi nói rằng, đồng chí Chú rất mến và quý tôi. Nhưng quá trình đi tìm hiểu dư luận về tôi thì lại có ý kiến không giống như sự hiểu biết của đồng chí ấy về tôi. Do đó tôi cảm thấy đồng chí Chú có nhiều băn khoăn khi phải làm bản nhận xét về tôi.

Biết vậy tôi nói với đồng chí Chú : Anh cứ khách quan mà làm theo chức trách của mình, dư luận xung quanh thế nào về tôi anh cứ phản ánh với cấp trên đúng như thế. Không hiểu đối với những người khác, đồng chí Chú làm thế nào còn riêng đối với tôi, đồng chí làm "Rất dân chủ. Trước hết đồng chí ấy đến trao đổi thẳng thắn những điểm mà đồng chí dự kiến sẽ nhận xét về tôi rồi nghe tôi trao đổi lại một số ý, sau đó đồng chí Chú mới thảo bản nhận xét chính thức và đem đến đọc cho tôi nghe, hỏi xem tôi có ý kiến gì không? Do đã có trao đổi trước nên tôi hoàn toàn nhất trí. Tôi thấy đồng chí Chú tỏ ra rất băn khoăn trong quá trình làm bản nhận xét này. Nguyên do là khi đi nắm tình hình, có hai luồng dư luận khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau về tôi. Luồng thứ nhất là : Trần Độ lỏng lẻo về quan điểm trong lãnh đạo Văn hóa văn nghệ, cho nên không thể tiếp tục lãnh đạo văn hóa văn nghệ được. Luồng dư luận thứ hai thì lại đánh giá rất cao, về khả năng lãnh đạo văn hóa văn nghệ của Trần Độ: Nào là sắc bén, đúng đắn, được lòng nhiều anh em trong giới văn nghệ; Nào là chịu khó học tập, nghiên cứu, tìm tòi nên thường đề xuất được nhiều ý kiến mới mẻ.

Cả hai luồng ý kiến đó dẫn đến hai kết luận khác nhau: Một là đồng chí Trần Độ không thể lãnh đạo được Văn hóa văn nghệ, hai là đồng chí Trần Độ lãnh đạo văn hóa văn nghệ tốt. Điều đáng chú ý là người làm báo cáo không dứt khoát đứng về nhận định nào cả, mà chỉ nêu hai nhận định như vậy một cách khách quan...

Sau khi hoàn thành bản nhận xét, một hôm đồng chí Chú đến thăm tôi. Anh ngồi trầm ngâm một lúc rồi tâm sự:

- Tình hình nhân sự của đại hội V sắp tới rất phức tạp. Có những chuyện lớn lắm.

Đồng chí Chú nói:

- Riêng cái việc của anh thì xin trình bày thật với anh như thế này. Rõ ràng hai luồng dư luận về anh nói lên hai quan điểm khác nhau về văn hóa văn nghệ. Do đó, việc Trung ương có tiếp tục dùng anh hay không nói lên sự thắng bại của hai quan điểm đó... Nếu Trung ương chấp thuận những ý kiến của anh, chấp thuận phong cách lãnh đạo của anh thì chứng tỏ khuynh hướng lãnh đạo văn nghệ sắp tới sẽ có những biến chuyển mới.

Phải chăng cái giấy mời lên Nguyễn Cảnh Chân lần này là để biết rõ Trung ương còn tin dùng tôi hay không. Thú thật là đêm trước ngày đến dự cuộc họp về nhân sự ở Ban tổ chức Trung ương, tôi có thao thức suy nghĩ nhiều. Tôi mới 58 tuổi, đã ở Trung ương hai khóa liền tổng cộng 21 năm. Tôi lại vừa đi học ở Liên xô về, vừa mới nhận chức Trưởng ban văn hóa văn nghệ Trung ương với bao nhiêu dự định sẽ triển khai thực hiện. Tôi đang muốn có điều kiện đóng góp nhiều hơn cho Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, cũng như trong chiến tranh tôi đã đóng góp hết sức mình cho thắng lợi của toàn dân, trên cương vị người lính. Tôi không có tham vọng gì lớn.

Tôi say mê văn hóa văn nghệ vì tự nhận mình có ít nhiều khả năng về mặt này. Tuy chẳng tài ba gì cho lắm nhưng dù sao cũng đã được mọi người, kể cả tổ chức thừa nhận. Do đó thực sự là tôi chưa muốn nghỉ. Mới 58 tuổi, còn sức khỏe, còn khả năng mà lại nghỉ hưu trong lúc cuộc chiến đấu của toàn dân tộc đang còn tiếp diễn thì vô lý quá

Tôi bước chân đến cổng 4 Nguyễn Cảnh Chân, đồng chí thường trực quen biết tôi chạy ra mời đon đả:

- Các anh đến đủ cả rồi, mời anh vào?

Các anh nào nhỉ?

Tôi bước vào thì ồ, lạ chưa? Toàn là các khuôn mặt quen thuộc cả, đầy đủ toàn bộ các vị trong ban cán sự Bộ văn hóa mà tôi là Bí thư: Nguyễn Văn Hiếu, Hà Xuân Trường, Cù Huy Cận, Lê Thành Công, Nông Quốc Chấn, Mai Vi... Rõ ràng đây là một cuộc họp Ban cán sự mà tôi không hề biết...

Tôi im lặng bước vào phòng, không chào hỏi ai, không bắt tay ai, cố gắng giữ vẻ bình tĩnh, tìm một chỗ ngồi ở cạnh cửa sổ. ở Bộ văn hóa, mỗi lần có những cuộc họp gồm những nhân vật này, bao giờ tôi cũng ngồi ghế chủ trì, và những người vây quanh tôi bao giờ cũng vui vẻ, niềm nở.

Còn bây giờ mọi người nhìn tôi bằng những cặp mắt khác. Thì ra thời thế đổi thay thì nhân tình thế thái cũng đổi thay. Trong lúc tôi đang cố đoán xem ai đứng ra triệu tập cuộc họp này và mục đích cuộc họp là gì thì một cán bộ trong Ban tổ chức từ phòng bên bước ra vui vẻ nói:

- Xin các anh chờ cho ít phút nữa, anh Thọ đang có tý việc mắc bận.

Thì ra người chủ trì cuộc họp hôm nay là ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức - Lê Đức Thọ. Té ra người triệu tập một cuộc họp Ban cán sự của một Bộ mà Bí thư của Ban cán sự ấy không được biết.

Nói là chờ ít phút nhưng cũng phải đến nửa tiếng. Mỗi người cầm trong tay một chén nước để trước mặt nhưng hầu như không ai uống. Họ ngồi gần nhau, thỉnh thoảng rỉ tai nhau một chuyện gì đó, cặp mắt hướng về chiếc cửa thông sang buồng bên, nơi trưởng ban tổ chức xuất hiện. Hầu như ai cũng muốn mình là người đầu tiên được nhìn thấy Trưởng ban tổ chức Trung ương bước vào phòng.

Và cuối cùng thì Lê Đức Thọ bước vào phòng họp, dáng đi nhanh nhẹn, nụ cười mở rộng trên môi. Phải nói là anh Thọ có nụ cười khá hiền hậu cộng với cách ăn mặc giản dị làm cho người ta ngay cái phút đầu tiên cảm thấy dễ gần gũi. Không ai nghĩ rằng, đằng sau nụ cười ấy, bên trong sự giản dị ấy là một con người quyền uy, nắm trong tay sinh mệnh chính trị của hàng triệu cán bộ đảng viên.

Khi anh Thọ bước vào, tất cả đều đứng dậy. Riêng tôi vẫn ngồi yên. Làm sao mà phải thế. Động tác này chỉ có thể dành cho Bác Hồ, hoặc chí ít là Tổng Bí thư. Hà Xuân Trường chạy đến bắt tay trước, rồi dẫn anh Thọ đi một vòng bắt tay từng người.

Khi đến gần tôi, tôi mới đứng dậy, anh Thọ bắt tay tôi và hỏi vui:

- Thế nào, người bạn tù Sơn La của tôi dạo này có khỏe không?

Tôi vui vẻ đáp lại:

- Khỏe lắm!

Đối với tôi, anh Thọ là một người có nhiều kỷ niệm tốt đẹp nhưng cũng có những tình cảm trái ngược nhau mà bản thân tôi chưa phân tích một cách rõ ràng được. Về cơ bản mà nói, tôi phục và quý mến anh Thọ. Cho đến nay, khi tôi viết những dòng này, tình cảm quý mến vẫn hầu như nguyên vẹn, mặc dầu ở phần dưới đây, tôi sẽ kể lại toàn bộ sự việc Trưởng ban tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ không muốn tôi tiếp tục ở Trung ương khóa V như thế nào.

Thực ra ngay trước Đại hội V tôi đã nghe nói nhiều về quyền hành của Lê Đức Thọ, về sự bất bình của người này người khác khi bị Lê Đức Thọ đối xử thế này thế khác, nhưng tôi thì vẫn giữ nguyên những tình cảm quý mến anh, bởi tôi cho rằng những điều tiếng này nọ đối với anh Thọ là khó tránh khỏi khi anh ở cương vị một người phụ trách công tác tổ chức - một công tác cực kỳ phức tạp, liên quan đến sự tồn vong của một Đảng, động chạm đến quyền lợi sống còn đối với nhiều người. Nếu không có quan điểm toàn Cục, khách quan thì sẽ sinh ra oán trách khi sự phân công bổ nhiệm không vừa ý mình. Mà việc này thì làm sao tránh được.

Tôi biết anh Thọ vẫn thường quan tâm đến tôi. Gần đây khi nằm điều trị ở bệnh viện Chợ Rẫy, có cô cháu gái về đằng vợ anh Thọ là bác sĩ ở đó, kể cho tôi nghe câu chuyện chiếc áo anh Thọ mang từ Pa-ri về, một số người trong gia đình muốn xin anh cũng không cho. Anh bảo: Cái này để làm quà cho thằng Độ. Cô bác sĩ ấy nói: Cháu không hiểu do đâu mà Bác Thọ cưng chú đến thế. Tôi kể cho cô bác sĩ ấy biết rằng tôi và anh Thọ quen nhau ở nhà tù Sơn La từ năm 1942, đã trải qua những ngày gian khổ sống chết có nhau: Dạo đó, tôi là một thanh niên hăng hái, mới 18 tuổi, trẻ đẹp có học thức. Anh Thọ là người kết nạp tôi vào Đảng...

Cũng như năm 1945, sau Cách Mạng tháng 8, anh Thọ gọi tôi lên bảo:

- Bây giờ có hai việc, cậu tự chọn lấy, một là làm Chủ tịch tỉnh Phúc Yên. Hai là về Hà Nội làm lính chiến đấu.

Và tôi đã chọn cuộc đời làm lính, rồi sau đó trở thành Chính ủy đầu tiện của Mặt trận Hà Nội. Tiếp đó làm lính suốt 30 năm trời.

Cuộc họp hôm nay, chính người kết nạp tôi vào Đảng cách đây 35 năm, chủ trì kiểm điểm tôi, một cách làm đã trở thành quen thuộc của cơ quan tổ chức, nhằm mục đích hợp lý hóa một vấn đề nhân sự.

Khi mọi người đã ngồi yên chỗ, anh Thọ tuyên bố lý do cuộc họp ngay, không rào đón gì cả:

- Hôm nay tôi mời các đồng chí trong Ban cán sự Bộ Văn hóa lên để tiến hành việc kiểm điểm đồng chí Trần Độ.

Trong lúc tôi đang bị bất ngờ trước lời tuyên bố của anh Thọ thì anh Thọ vẫn tiếp tục bằng cái giọng đều đều:

- Tôi biết các đồng chí trong ban cán sự cũng đã họp, đã kiểm điểm đồng chí Độ rồi, nhưng gần đây có nhiều dư luận về đồng chí Độ, trong đó có những vấn đề thuộc về quan điểm, phong cách nên tôi mời các đồng chí lên đây tôi sẽ trực tiếp chủ trì để cuộc kiểm điểm đạt kết quả.

ông Lê Đức Thọ vừa dứt lời thì Hà Xuân Trường với quyển sổ đã cầm sẵn trên tay từ bao giờ:

- Tôi xin có ý kiến?

Thế là ông ta mở sổ ra, mắt thì nhìn vào sổ, tay thì vung lên nói luôn. Xem ra Hà Xuân Trường đã chuẩn bị rất kỹ và chờ đợi từ lâu cái giờ phút này.

Tôi nhớ hôm đó Hà Xuân Trường phát biểu khá dài, nhưng mạch lạc, từng điểm rõ ràng, có phân tích... Chứng tỏ bài phát biểu chuẩn bị khá công phu. Đặc biệt phần lên án khá nặng nề, nâng lên thành quan điểm hẳn hoi, cùng với những dẫn chứng rất cụ thể. Ví dụ : khi lên án Trần Độ có quan điểm sai lầm nghiêm trọng, nhất là muốn tách văn nghệ khỏi chính trị. Ông ấy dẫn chứng những câu tôi viết trong bài nào, những lời tôi nói trong cuộc nói chuyện hay hội nghị nào. Thậm chí có những câu, những lời bản thân tôi không còn nhớ tôi đã viết ở đâu, đã nói ở chỗ nào. Vì tôi viết khá nhiều, đi nói chuyện cũng khá nhiều và đọc diễn văn cũng khá nhiều. Chỉ biết rằng nói chuyện ở đâu, đọc diễn văn ở đâu tôi cũng đều được hoan nghênh. Bây giờ Hà Xuân Trường đem trích ra từng câu, từng chữ ở nơi này, nơi khác trong một mạch văn có trước có sau có thuận có nghịch... để đi đến kết luận: Là người lãnh đạo văn nghệ mà không giữ vững lập trường quan điểm của Đảng như đồng chí Trần Độ thì sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.

Tôi nhớ Hà Xuân Trường còn cho những lời phát biểu của tôi về vấn đề tự do sáng tác trong văn nghệ rất gần với quan điểm của Garôđi, người đang bị Đảng Cộng sản Pháp và các nước xã hội chủ nghĩa lên án.

Hà Xuân Trường vẫn tiếp tục phát biểu say sưa, hết quan điểm thứ nhất đến quan điểm thứ hai, thứ ba, quan điểm nào cũng đi đến kết luận là Trần Độ thường có những biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, thậm chí có đôi lúc chế giễu sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa văn nghệ, như cho Ban Tuyên huấn của Đảng chỉ thích làm nhiệm vụ một người lính gác cần mẫn, chỉ nhăm nhăm gọt đầu cắt đuôi các tác phẩm văn nghệ, để cuối cùng còn hai chữ lập trường rồi hoan hỷ coi như hoàn thành nhiệm vụ...

Chưa hết, bản "tham luận" của Hà Xuân Trường còn phê phán Trần Độ về chuyện tóc tai, quần áo, nếp sống, thẩm mỹ. Chẳng là vừa qua tôi cũng thường hay phát biểu các vấn đề này và rõ ràng là tôi không tán thành việc phê phán quần loe, tóc dài là mất lập trường, là kém đạo đức. Tôi nói: Bác sĩ Tôn Thất Tùng có bộ tóc rất dài, nhưng ai dám bảo Tôn Thất Tùng là kém đạo đức. Mà ngược lại đó là một con người làm việc rất giỏi, được phong là anh hùng lao động. Nhưng có những tên tướng cướp hẳn hoi tóc lại cắt rất ngắn, thậm chí có đứa để đầu trọc, thì lại là thằng có đạo đức hay sao...

Vấn đề quần loe, tóc dài một thời đã sôi nổi trong cuộc sống đời thường của đất nước và tốn biết bao thời gian để xử lý nó. Người ta không những lên án nó trong các cuộc họp, trong Nghị quyết, mà còn tổ chức những đội thanh niên cờ đỏ chân đường cắt tóc, cắt quần khách qua đường... Cho đến hôm nay, nhìn lại, ta cảm thấy buồn và có pha phút thương hại cho một thời ấu trĩ. Đau lòng hơn khi ta nghĩ đến việc một số người nào đó tưởng mình có quyền lực trong tay, muốn cả một cộng đồng phải sống theo một khuôn mẫu theo ý riêng mình.

Bây giờ ai muốn mặc quần loe, loe mười lăm, hai mươi phân chứ loe ba mươi phân, bốn mươi phân cũng mặc, nếu anh muốn, và cho như thế là đẹp. Tóc cũng vậy, nếu anh muốn thì cứ để quá gáy, hoặc dài hơn cũng tùy anh. Điều quan trọng là anh có được xã hội công nhận hay không.

Người phát biểu thứ hai là anh Nguyễn Văn Hiếu. Từ ngày về Bộ văn hóa, tôi và anh Hiếu luôn có mối quan hệ thân tình và hiểu biết lẫn nhau. Anh Hiếu là Bộ trưởng, tôi là Thứ trưởng. Về chính quyền tôi là cấp dưới của anh nhưng là Bí thư Ban cán sự, nên tôi được anh Hiếu luôn tỏ ra tôn trọng. Tôi biết đây trước hết là sự tôn trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng. Để đáp ứng lại, tôi cũng luôn luôn tôn trọng những ý kiến của Bộ trưởng, không bao giờ áp đặt, kể cả trong công tác cán bộ. Vì vậy mà khi thấy anh Hiếu giơ tay phát biểu trong một cuộc họp mà chủ đề là để kiểm điểm tôi, thực lòng tôi không thể đoán biết được anh Hiếu sẽ phát biểu như thế nào. Phải chăng đây là lúc có thể nói thẳng ra nhiều điều cần nói.

Khác với của anh Hà Xuân Trường, anh Hiếu nói từ tốn, điềm đạm, nhưng rất chân thành. Anh nói: "Ban cán sự chúng tôi cũng thường họp để kiểm điểm lẫn nhau. Nhưng cũng xin nói thật là những cuộc họp như thế chúng tôi chưa nói hết được những ý kiến của mình, tuy đôi lúc cũng muốn góp ý với anh Độ ý này ý khác, nhưng vì anh Độ là Bí thư, thường chủ trì các cuộc họp nên chúng tôi cũng ngại nói. Vả lại thực ra anh Độ sống với chúng tôi, làm việc với chúng tôi rất tốt, rất chân thành và biết tôn trọng lẫn nhau. Anh am hiểu sâu sắc nhiều vấn đề văn hóa và thường có những ý kiến sắc sảo, có những chủ trương sáng tạo, mạnh đạn, được nhiều người, nhất là lớp trẻ trong các giới văn học nghệ thuật hoan nghênh, ủng hộ. Cho nên có thể nói trong Ban cán sự, trong lãnh đạo Bộ không có vấn đề gì căng thẳng và nghiêm trọng cả." Giọng anh Hiếu toát lên một vẻ rất chân thành. Mắt anh nhìn bao quát cả phòng họp. Tôi ngồi nghe và cảm thấy càng quý mến anh nhiều hơn.

Tuy nhiên, do đây là một cuộc họp kiểm điểm có mục đích cụ thể, mà lại do người có uy quyền nhất trong Đảng chủ trì, nên anh cũng không thể không có một số ý kiến tỏ ra nghiêm khắc đối với người bị kiểm điểm. Tôi nghĩ như thế nên không hề ngạc nhiên hoặc phật lòng khi nghe anh nói: "Anh Độ có nhược điểm là hơi thiên về cảm tình, rộng rãi, độ lượng, đôi khi quá thoải mái làm cho công tác lãnh đạo có lúc chưa được nghiêm".

Sau anh Hiếu là anh Nông Quốc Chấn, thứ trưởng Bộ văn hóa. Tôi nhớ anh Chấn phát biểu có hai ý: "Thứ nhất là đối với anh Độ thì chúng tôi rất kính trọng vì quá trình tham gia cách mạng lâu, có nhiều cống hiến trước cách mạng cũng như trong Quân đội". Nhưng lại có ý kiến thứ hai là: "Chúng tôi chỉ phục thôi chứ chưa thật mến, vì phong cách của anh quá rộng rãi, khoan dung làm cho chúng tôi gặp khó khăn trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình...

Như vậy là cả anh Hiếu- Bộ trưởng, lẫn anh Chấn- Thứ trưởng không có phê phán về quan điểm, đường lối như Hà Xuân Trường.

Không khí đang hơi chùng lại thì đến lượt anh Cù Huy Cận, cũng là Thứ trưởng phát biểu ý kiến. Anh nói giọng khu bốn, sôi nổi, rất tự nhiên. Cũng như anh Hiếu và anh Chấn, anh Cận không có sổ tay chuẩn bị trước gì cả mà chỉ nói vo như trong một buổi gặp mặt nói chuyện bình thường. Anh nói: "Anh Độ mới về lĩnh vực văn hóa văn nghệ nhưng nắm bắt vấn đề rất nhanh, rất sâu do anh rất chịu khó học tập, nghiên cứu đặc biệt là rất say mê. Tôi thấy là người lãnh đạo phải như thế, chứ không thể cứ chung chung lĩnh vực nào cũng phán được nhưng lĩnh vực nào cũng chỉ lướt qua dăm câu, ba điều. Tôi đã nhiều lần nghe anh Độ phát biểu và lần nào tôi cũng học thêm được một điều gì mới mẻ. Điều này làm cho tôi vừa ngạc nhiên, vừa thú vị, bởi lúc đầu được tin anh Độ sẽ sang lãnh đạo văn hóa văn nghệ tôi đã nghĩ bụng: Không hiểu rồi ông Trung tướng từng xông pha trăm trận này sẽ làm ăn ra sao trong cái lĩnh vực này. Cho đến bây giờ thì điều hồ nghi ấy không còn trong tôi nữa". Cuối cùng anh Cận kết luận: "Tôi không nói anh Độ là người lãnh đạo văn hóa, văn nghệ tốt, nhưng có thể khẳng định rằng, anh Độ đang trên đường trở thành người lãnh đạo văn hóa văn nghệ tốt".

Kể từ khi nhận được giấy triệu tập lên Nguyễn Cảnh Chân, mà không biết lên để làm gì, rồi khi biết có cuộc họp ban cán sự Bộ văn hóa mà chính mình là Bí thư cũng không biết và cuối cùng nghe đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương tuyên bố mục đích cuộc họp là để kiểm điểm Trần Độ, tôi thấy một nỗi phiền muộn dâng đầy trong tâm hồn.

Sau 30 năm phục vụ trong Quân đội, tôi tự nguyện chuyển sang môi trường mới với hy vọng phục vụ Đảng được nhiều hơn trong một lĩnh vực mà tôi ưa thích. Hơn 4 năm qua, tôi đã đưa hết sức mình ra làm việc, tất nhiên không tránh khỏi vấp váp, thiếu sót mặt này mặt khác, nhưng nói chung là tôi đã toàn tâm toàn ý phục vụ hết mình.

Tôi còn nhớ trong phát biểu của mình, Cù Huy Cận còn nói đùa là: "Không biết có phải do tên anh là Độ hay không mà trong cuộc sống đời thường anh tỏ ra rất độ lượng, đầy lòng nhân ái, giải quyết việc gì cũng vừa có tình, có lý, mà chủ yếu là thuyết phục bằng tình cảm. Có lẽ vì thế mà một số người cho anh Độ là lỏng lẻo. Theo tôi thì đây là một đức tính cần có của một người lãnh đạo văn hóa văn nghệ. Thuyết phục con người bằng tình cảm chứ không phải bằng mệnh lệnh".

Lúc này tôi thấy cả Lê Đức Thọ và Hà Xuân Trường đều nhìn về phía Lê Thành Công. Và tôi thấy Lê Thành Công đứng dậy mở sổ ra phát biểu ngay: "Thời gian qua đồng chí Trần Độ có nhiều sai lầm thuộc về quan điểm..." Thế rồi Lê Thành Công nêu lên một loạt vấn đề mà ông cho là những sai lầm thuộc về quan điểm của tôi mà không thể nào nhớ hết.

Chỉ nhớ là ông ta nhắc lại vấn đề quần loe, tóc dài và quy cho tôi là tách rời thẩm mỹ với đạo đức. Còn những câu nói rất nghiêm túc của tôi, thì ông ta không nêu ra, chẳng hạn tôi thường dẫn một câu nói rất hay của Gocki là: "Đạo đức học tương lai chính là mỹ học". Tức là loài người bao giờ cũng có xu hướng vươn tới cái đẹp, đến một lúc nào đó, cái đẹp được thể hiện chính trong đạo đức của con người, hoặc nói như Sôlôkhốp "Đôi khi một cô gái mặt rỗ mà vẫn có sức hấp dẫn bởi cái đẹp bên trong của tâm hồn và trí tuệ". Cũng như thế đừng nên nhìn một người quần loe, tóc dài là một người xấu. Nhưng tôi nhớ nhất trong bài phát biểu của Lê Thành Công quy kết tôi có hai quan điểm sai lầm, mà có lẽ cho đến suốt đời tôi không thể nào quên được:

Quan điểm sai lầm thứ nhất là quan điểm "Văn hóa xóa thông tin". Ông ta phân tích là từ khi Tổng cục Thông tin sát nhập vào Bộ văn hóa thì đồng chí Trần Độ để cho văn hóa lấn át thông tin, bớt cả quyền hạn, bớt cả điều kiện làm việc, làm cho Thông tin chỉ là cái bóng mờ của Văn hóa, làm cho anh em thông tin rất bất bình.

- Quan điểm sai lầm thứ hai Lê Thành Công quy kết là quan điểm tách rời thẩm mỹ với đạo đức, cho rằng thẩm mỹ không dính dáng gì đến đạo đức và lại xoay quanh vấn đề quần loe, tóc dài...

Lê Thành Công phát biểu xong thì hội nghị giải lao. Tôi đến gần Nguyễn Văn Hiếu, kéo anh ra một góc hỏi nhỏ : "Anh nhận được giấy mời như thế nào?" Thế là anh Hiếu rút trong túi ra cái giấy mời đúng như là giấy mời của tôi: Ngày ấy, giờ ấy, đến 4 Nguyễn Cảnh Chân họp với Ban nhân sự. Tôi lại hỏi: "Thế anh có biết là mời tất cả ban cán sự không?" Anh Hiếu lại đáp: "Không hề biết một tý gì, chỉ khi lên đây mới té ra là họp Ban cán sự. Sau đó anh Hiếu rỉ tai tôi, nói rất khẽ: "Chắc chắn là Hà Xuân Trường và Lê Thành Công biết việc này, vì cách đây ba hôm, Hà Xuân Trường có nói riêng với tôi là sắp có cuộc họp kiểm điểm Trần Độ".

Thế là đã rõ như hai với hai là bốn. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là cuộc họp nhằm chuẩn bị nhân sự mới mà người phải thay là tôi.

Giờ giải lao kết thúc. Cuộc họp lại tiếp tục. Khi mọi người đã trở lại chỗ ngồi đông đủ, anh Thọ nói:

- Như vậy là các đồng chí trong ban cán sự đã phát biểu nhiều ý kiến, ưu điểm có, khuyết điểm có, bây giờ đề nghị anh Độ phát biểu ý kiến của mình, chủ yếu là xoay quanh những khuyết điểm thuộc về quan điểm, lập trường...

Quả thực lúc này tôi ở trong trường hợp khó nói, nhìn chung thì toàn bộ những ý kiến phê phán tôi trong hội nghị đều chưa đủ thuyết phục. Chính vì vậy mà tôi không muốn tranh luận. Vì một cuộc họp đã có sẵn mục đích, đã có chuẩn bị, lại do một người có quyền lực nhất nhì đất nước chủ trì thì dù tranh luận cũng vô ích. Cho nên khi nghe Lê Đức Thọ hỏi, tôi chỉ phát biểu rằng những vấn đề các đồng chí nêu ra còn phải tiếp tục có thời gian trao đổi mới đi đến kết luận ai đúng, ai sai dược.

Đặc biệt có một vấn đề rất đáng được bàn cãi cho ra môn, ra khoai, một vấn đề mà bấy lâu nay tôi suy nghĩ rất nhiều, có liên quan đến khuynh hướng lãnh đạo văn hóa văn nghệ sắp tới. Đó cũng là một ý kiến nữa Lê Thành Công phê phán tôi mà trên kia tôi chưa đề cập đến. Lê Thành Công nói: "Đồng chí Trần Độ thường bộc lộ một quan điểm hết sức sai lầm rằng tình hình đã hoàn toàn mới cho nên phải thay đổi cách lãnh đạo. Nếu nói hoàn toàn mới thì tức là đã phủ nhận tất cả những gì đã làm được lừ trước tới nay. Cũng do quan điểm sai lầm này mà đồng chí Trần Độ thường không chấp nhận những cái đã có, muốn tìm tòi những cái mới hẳn mà anh ấy gọi là tư duy mới, phong cách mới trong lãnh đạo văn hóa văn nghệ."

Riêng vấn đề này thì ngày hôm ấy tôi đã nói thẳng giữa hội nghị, cũng tức là nói thẳng với đồng chí Lê Đức Thọ là : đúng, tôi đang có suy nghĩ như thế và đang trong quá trình tìm tòi, phát hiện để trình bày với Đảng một quan điểm mới về lãnh đạo văn nghệ, chứ không thể cứ giữ cái cung cách làm ăn như trước đây được. Nếu cứ giữ cái cung cách như hiện nay thì nhiều tài năng sẽ bị thui chột, văn nghệ sẽ chỉ là sự minh họa đơn điệu, buồn tẻ, sẽ không có những tác phẩm hay, xứng đáng với tầm vóc vĩ đại của cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nhưng đây là một vấn đề lớn tôi đang tập trung suy nghĩ, mà trong phạm vi cuộc họp hôm nay không cho phép tôi nói hết được. Chỉ có điều tôi có thể nói ngay ở đây rằng tôi hoàn toàn không thể chấp nhận những ý kiến của đồng chí Hà Xuân Trường và Lê Thành Công. Đó là những ý kiến vừa không có sức thuyết phục về lý luận vừa không lành mạnh, biểu hiện rõ ràng nhất là những dẫn chứng chắp vá, trích dẫn cắt xén, không đúng với bối cảnh thực tế. Tóm lại đây là những vấn đề còn phải tiếp tục tranh luận mới có thể phân rõ đúng sai. Do đó, tôi đề nghị cần có một cuộc tranh luận hẳn hoi, mang tính khoa học, khách quan, chứ không thể nằm trong bối cảnh một cuộc kiểm điểm như hôm nay.

Còn những ý kiến của các đồng chí khác thì tôi xin tiếp thu để nghiên cứu, suy nghĩ. Với tư cách là người bị kiểm điểm, tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí. Riêng về vấn đề lỏng lẻo thì thực tình là cả về tình cảm và lý trí đối với anh chị em văn nghệ sĩ tôi có một sự quý mến đặc biệt, bởi lao động của họ là một loại lao động đặc biệt và tôi luôn cho rằng họ là vốn quý của dân tộc, riêng những người có tài năng còn là niềm tự hào của dân tộc. Ta thường nói, cách mạng tháng Tám của Việt Nam là một sự thần kỳ, cuộc chống Mỹ cứu nước của chúng ta là vĩ đại, đần tộc ta là một dân tộc anh hùng, nhưng ai là người nói lên những điều đó nếu không có "Vùng mỏ" của Võ Huy Tâm; "Xung kích" của Nguyễn Đình Thi; "Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, "Đất nước đứng lên" của Nguyên Ngọc; "Trước giờ nổ súng" của Lê Khâm, "Vượt Côn đảo" của Phùng Quán, "Dáng đứng Việt Nam" của Lê Anh Xuân; "Mẹ đào hầm" của Bùi Minh Quốc... Chúng ta có thể có rất nhiều Bộ trưởng, Thứ trưởng thậm chí có thể có nhiều thủ tướng và phó thủ tướng, nhưng chúng ta chỉ có mỗi một Xuân Diệu, một Nguyễn Tuân, một Chế Lan Viên... Không ai có thể thay thế được. Đó là nói trong lãnh vực văn học, còn trong các lãnh vực khác cũng thế, chúng ta có những nhân vật nổi tiếng như Văn Cao, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái... Có một hiện tượng rất đáng để chúng ta quan tâm là một số chính khách nước ngoài, một số nhân vật tầm cỡ thế giới khi sang đến Việt Nam là đòi gặp cho bằng được Nguyễn Tuân, Nguyễn Khắc viện, Xuân Diệu... Đó chính là họ muốn gặp nền văn hóa Việt Nam, gặp gương mặt Việt Nam trong chiến đấu và xây dựng.

Chính xuất phát lừ những suy nghĩ đó mà đối với giới văn nghệ sĩ tôi thường có sự khoan dung rộng rãi, tôn trọng nghề nghiệp của họ, không khe khắt xét nét họ về tác phong, cách sống và sẵn sàng tạo điều kiện tốt nhất để họ phát huy hết tài năng của mình, phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước, cũng tức là phục vụ Đảng. Nếu như vậy mà các anh cho tôi là lỏng lẻo thì tôi xin nhận khuyết điểm. Còn khuyết điểm đến mức nào thì thú thật đến bây giờ tôi cũng chưa đánh giá được.

Sau khi tôi phát biểu xong thì anh Thọ kết luận. Đại ý là trong lãnh vực lãnh đạo văn hóa văn nghệ có nhiều vấn đề mới đặt ra. Anh Độ chịu khó phát hiện, tìm tòi như vậy là tốt. Riêng vấn đề quan điểm này, quan điểm nọ thì không phải một cuộc họp hôm nay mà kết luận được, đúng như anh Độ nói là còn phải có quá trình tiếp tục trao đổi Thế nhưng rõ ràng anh Độ cũng tự nhận là có lỏng lẻo lỏng lẻo trong lãnh đạo sẽ dẫn đến đến lỏng lẻo về tổ chức, về sinh hoạt.

Và cái kết luận thứ hai của anh Thọ mới thực sự là vấn đề quan điểm; quan điểm sai lầm của Trần Độ về lãnh đạo văn nghệ. Anh nói:

- Tôi tán thành ý kiến của đồng chí Lê Thành Công là anh Độ nói tình hình đã hoàn toàn mới là không nên. Lịch sử phát triển của sự vật bao giờ cũng có sự kế thừa, dù mới đến đâu cũng phải dựa trên cái cũ. Nếu nói tình hình mới và cắt đứt hoàn toàn cái cũ là không đúng.

Anh Thọ vừa phát biểu xong thì Hà Xuân Trường giơ tay phát biểu: "Vâng! Vấn đề quan điểm này nọ thì phải tiếp tục trao đổi nhưng tôi muốn lưu ý anh Độ đến mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Đây là vấn đề cốt lõi trong lãnh đạo văn hóa văn nghệ của Đảng ta. Vấn đề này đã được Đảng xác định từ lâu là chính trị phải lãnh đạo văn nghệ phải phục vụ chính trị không thể mập mờ trong vấn đề này được".

Tất nhiên là với thái độ như vậy tôi không thể kìm giữ được mình. Tôi đứng dậy nhìn thẳng anh Hà Xuân Trường nói:

- Này! Tôi nói cho anh biết là tôi không đồng ý cách quy kết của anh đối với tôi như vậy đâu. Nhưng tôi sẽ trở lại vấn đề này với anh trong một cuộc thảo luận khoa học chứ không phải trong một cuộc họp như thế này.

Đây cũng là câu kết thúc cuối cùng của cuộc họp. Anh Thọ không nói thêm gì, hội nghị cũng không ai phát biểu gì thêm.

Nhưng ai cũng cho rằng, sau cuộc họp ấy, vấn đề ai sẽ là Trưởng ban văn hóa văn nghệ đã rõ ràng. Khoảng một tháng sau cuộc họp ấy, anh Thọ gọi tôi lên gặp riêng tại văn phòng Trung ương số 4 Nguyễn Cảnh Chân.

Trước đây khi chuẩn bị đi B, ngoài việc được ăn cơm với Bác Hồ, được các đồng chí trong thường trực Quân ủy, các đồng chí Thủ tướng Tổng cục Chính trị chiêu đãi chia tay, tôi cũng được anh Thọ mời cơm riêng trong không khí gia đình. Có thể nói anh Thọ thật sự quan tâm và thương yêu tôi. Anh hỏi thăm tình hình gia đình, vợ con, có gì cần đề đạt... Nhưng tôi nói với anh Thọ là tôi ra đi rất yên tâm và phấn khởi, mọi việc về chính sách đã được các anh bên Tổng cục lo cho chu đáo. Là người đã từng nhiều năm ở chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Pháp nên hôm ấy anh dành thời gian nói cho tôi khá nhiều kinh nghiệm trong sinh hoạt và chiến đấu... Hôm nay anh lại gọi tôi lên sau cuộc kiểm điểm và tôi biết rõ cuộc gặp này chắc không ngoài mục đích báo cho tôi biết là tôi sẽ không còn ở trong Trung ương nữa và tất nhiên cũng sẽ thôi giữ chức Trưởng ban văn hóa văn nghệ, theo cách thức mà cơ quan Tổ chức từ trên xuống dưới thường hay làm trước đại hội.

Hôm ấy tôi lên vẫn thấy anh Thọ niềm nỡ, thân mật. Sau vài câu hỏi thường tình về gia đình, sức khỏe, anh vào câu chuyện chính một cách rất tự nhiên.

- Cậu như thế là lỏng lẻo quá. Anh em người ta nói như vậy mà tớ cũng nhận thấy như vậy. Do đó nên không thể tiếp tục lãnh đạo văn hóa văn nghệ được. Mà không là Trưởng ban văn hóa văn nghệ thì cũng không có cơ cấu vào Trung ương. Hôm nay tớ thông báo cho cậu biết Bộ Chính trị không dự kiến giới thiệu cậu.

Anh Thọ vừa nói vừa nhìn thẳng vào mặt tôi và hỏi:

- ý cậu thế nào?

Tuy đã biết cái kết cục của cuộc kiểm điểm sẽ dẫn đến kết quả hôm nay, nhưng một lần nữa tôi bỗng cảm thấy hụt hẫng. Con người ta thường có tâm lý như thế. Tuy biết chắc một chuyện không may nào đó sẽ đến, nhưng vẫn hy vọng là có thể nó không đến. Trong trường hợp này hy vọng của tôi là có thể không còn giữ chức Trưởng ban văn hóa văn nghệ nhưng vẫn là ủy viên Trung ương và sẽ được chuyển sang phụ trách một lĩnh vực khác. Nhưng qua anh Thọ thì cùng một lúc tôi phải rút lui cả hai cương vị, có nghĩa là nghỉ hưu... Và đây quả là một điều tôi chưa từng nghĩ đến. Năm đó tôi chưa đến tuổi 60, sức khỏe đang hồi phục tốt, đang rất muốn làm việc, cống hiến, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ.

Tôi nói với anh Thọ:

- Tính đến nay, tôi đã 21 năm ở Trung ương, cũng có thể nghỉ để cho lớp trẻ hơn thay thế. Tôi không phải là con người tham quyền cố vị. Đã 40 tuổi Đảng, 30 năm tuổi quân, hai cuộc kháng chiến tham gia trọn vẹn, nghỉ cũng được rồi. Nhưng như anh phát biểu hôm kiểm điểm tôi là hiện nay đang có nhiều vấn đề mới đặt ra đối với sự lãnh đạo văn hóa văn nghệ và tôi đang cố gắng tìm tòi phát hiện những vấn đề mới ấy về đề xuất của Đảng... Vì vậy, tôi xin thẳng thắn phát biểu với anh, người làm công tác tổ chức của Đảng, nguyện vọng của tôi là còn muốn làm việc. Tuy nhiên quyền quyết định là ở các anh, tôi sẵn sàng chấp nhận ý kiến của tổ chức.

Mặc dù nghe tôi phát biểu một cách chân thành tha thiết như vậy, nhưng nét mặt anh Thọ vẫn không có một chút thay đổi. Xem ra việc đã được phán quyết rồi...

Cũng như chỉ mới cách đây một tuần, Trưởng ban Tổ chức Lê Đức Thọ đã gặp Bí thư Trung ương Đảng, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Song Hào. Kết quả là Song Hào thôi giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị để ra làm Bộ trưởng Bộ thương binh xã hội, lý do là vì có một số "sai lầm về quan điểm".

Sau lần gặp đó, ở Hội nghị Trung ương về công tác nhân sự để trực tiếp chuẩn bị cho Đại hội V, trong danh sách dự kiến của Bộ Chính trị về Trung ương mới không có tên tôi mà có tên Hà Xuân Trường. Nhưng có một điều bất ngờ đã xảy ra: Các tổ vẫn đề nghị tôi vào danh sách, đặc biệt là các đồng chí ủy viên Trung ương khóa IV thì rất nhiều đồng chí nhất trí ủng hộ tôi. Họ nói thẳng: "Tại sao lại rút tên Trần Độ - Trần Độ đang có sức khỏe, có năng lực - Nếu nói tiêu chuẩn của một ủy viên Trung ương là lòng trung thành với sự nghiệp của Đảng, là trình độ hiểu biết, là năng lực hành động thì Trần Độ rất xứng đáng". Đứng trước tình hình nhiều tổ, bất chấp dự kiến của Ban nhân sự, nhưng được núp danh nghĩa là dự kiến của Bộ Chính trị, cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương được chia nhau đi các tổ để giải thích vì sao Bộ Chính trị lần này không đề cử Trần Độ. Mặc dầu vậy, nhiều tổ vẫn giữ ý kiến đề cử Trần Độ vào danh sách.

Và thế là đích thân ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng, phải đến từng tổ để giải thích trường hợp này. Vẫn là cái lý do Trần Độ lỏng lẻo, không lãnh đạo Vãn hóa Văn nghệ được nên không thể có trong cơ cấu, nhưng đặc biệt lần này anh Thọ có nói thêm một chi tiết liên quan đến một câu phát biểu của Hoàng Ngọc Hiến mà chính bản thân tôi cũng không biết. Tôi còn nhớ rất rõ ý kiến của anh Thọ nói ở tổ tôi như sau: "Đúng, anh Độ là người có năng lực, tuổi còn ít, có sức khỏe, làm việc tốt, có nhiều cống hiến. Thế nhưng anh Độ đã bị kiểm điểm về lỏng lẻo trong lãnh đạo văn hóa văn nghệ, gần đây có người phát hiện ra một sai lầm còn lớn hơn: Cụ thể là ở một hội nghị, có một văn nghệ sĩ phát biểu công khai rằng thần tượng Đảng đã đổ rồi, thần tượng Bác Hồ đã đổ rồi, thế mà anh Độ có mặt ở đấy vẫn cứ cho qua không nói gì. Đến mức như vậy thì làm sao để anh Độ tiếp tục lãnh đạo văn hóa văn nghệ được".

Câu nói của anh Thọ có sức nặng đến mức như bà Định, xưa nay vẫn rất ủng hộ tôi, phải thốt lên "Chu cha? Thế thì hết biết", sau đó, bà Định còn láy đi, láy lại: Thật quá lắm, quá lắm..."

Riêng đối với tôi thì đây đúng là "Oan Thị Kính" vì Hoàng Ngọc Hiến phát biểu câu nói trên ở đâu, vào lúc nào tôi đâu có biết...

Mãi sau này tôi đi hỏi Hoàng Ngọc Hiến, hỏi lại chị Lê Minh và một vài người khác thì thực chất việc đâu có phải như thế... Mà ý của Hoàng Ngọc Hiến là ta không nên thần thánh hóa Bác Hồ, thần thánh hóa Đảng, bởi vì không làm như thế thì uy tín của Đảng vẫn còn đó, uy tín của Bác Hồ vẫn còn đó... Nếu cứ tìm cách thần thánh, linh thiêng hóa Đảng và Bác Hồ thì lợi bất cập hại.

Trong nội dung phát biểu này không hề có ý gì xúc phạm đến Đảng, xúc phạm đến Bác Hồ. Thế mà đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, trưởng ban Tổ chức Trung ương lại dựa vào cái câu nói đó để phê phán tôi và đưa tôi ra khỏi danh sách dự kiến vào Trung ương khóa V thì thực là một việc đau lòng. Đau lòng không phải là việc tôi sắp bị mất chức ủy viên Trung ương, mà đau lòng do cái cách làm việc của cơ quan tổ chức, quy kết, bất chấp sự thật, chỉ nhằm mục đích đạt cho bằng được ý của mình. Như vậy là trong Đảng ta còn có một quyền lực tối thượng nào đó, nhưng lại nhân danh Bộ Chính trị, nhân danh Đảng quyết định tất cả...

Trong lúc đa số Trung ương ủy viên đều yêu cầu đưa Trần Độ vào danh sách ủy viên Trung ương khóa V thì Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ vẫn tìm mọi cách kiên quyết gạt ra.

Nhưng do ý kiến đa số Trần Độ vẫn có tên trong danh sách và Trần Độ vẫn trúng cử ủy viên Trung ương chính thức.

Nhưng, như trên tôi có nói, Lê Đức Thọ là một con người quyết đoán không bao giờ chịu thua hoàn toàn. Không đưa được tôi ra khỏi Trung ương vì đây là thuộc quyền của Đại hội, thì Lê Đức Thọ dùng quyền của cơ quan tổ chức.

Sau Đại Hội V, chỉ chưa đầy một tuần, bổ nhiệm ngay Hà Xuân Trường - ủy viên Trung ương dự khuyết vào chức vụ Trưởng Ban văn hóa - văn nghệ Trung ương. Và kể từ đó, tuy trúng cử ủy viên Trung ương chính thức, nhưng tôi "bị treo giò", nghĩa là không được trao nhiệm vụ gì cả. Đây cũng là một trường hợp hiếm có...

Sau này có dịp đi các địa phương, gặp lại những bạn bè thân thiết cũ từng tham gia Đại hội V, họ kể lại cho tôi nghe là hồi đó chính họ cũng được một nhóm người đi vận động không bỏ phiếu cho tôi. Vận động một cách khá trắng trợn. Kể xong họ cười mỉa và nói: "Nhưng chúng tôi có chính kiến của chúng tôi chứ. Cái gậy chỉ huy mà không trung thực thì chỉ huy được một số người thôi, chứ không thể chỉ huy được tất cả".

ở Đại hội V còn có chuyện to hơn chuyện của tôi, có thể nói là chuyện "tầy đình", so với chuyện của tôi thì đúng như trên tôi đã nói "chẳng là cái đinh gì". Đó là chuyện anh Giáp và anh Linh ra khỏi Bộ Chính trị... Như trên tôi đã nói, vụ việc của tôi ở đại hội V thì tôi đã rõ ràng, còn việc của anh Giáp thì vẫn cứ bị cái án lơ lửng treo giò, bởi kết luận của Bộ Chính trị cuối cùng vẫn là chưa kết luận được.

Sau 30 năm chiến tranh, toàn dân tộc vẫn tiếp tục sống trong nghèo khổ, thiếu thốn. Tiềm lực thì lớn lao mà trí tuệ thì. hạn hẹp. Những người lãnh đạo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến tranh tưởng rằng vấn đề có thể tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ trong xây dựng hòa bình. Nhưng quy luật của cuộc sống là khắc nghiệt, nó có con đường đi của nó, loại ra ngoài mọi thứ duy ý chí.

Có người nói, nếu như Bác còn sống đến ngày giải phóng miền Nam thì tất nhiên là tốt đẹp rồi. Lòng nhân ái bao la của Bác, tầm mắt nhìn xa trông rộng của Bác (như ngay từ năm 1945, 1946 Bác đã chính thức mời Mỹ, Pháp đầu tư vào Việt Nam. Mời các cụ Bùi Bằng Đoàn, Huỳnh Thúc Kháng tham gia việc nước...) thì nhất định, sau giải phóng miền Nam sẽ không có những cảnh tượng đau lòng như ta đã thấy.

Sau này vào khoảng năm 1984, 1985 nhân dịp vào Sài Gòn công tác, anh Nguyễn Văn Linh lúc bấy giờ là ủy viên Trung ương Đảng, bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh có nhắn mời tôi đến chơi.

Từng làm việc với nhau suốt mười năm ở chiến trường, anh là Phó Bí thư Trung ương Cục, tôi là ủy viên, chúng tôi có nhiều kỷ niệm gắn bó thân thiết. Anh Linh hơn tôi gần chục tuổi, tham gia cách mạng trước tôi, nên bao giờ tôi cũng coi anh là người đi trước. Anh là một nhà lãnh đạo có uy tín lớn, luôn quan tâm đến mọi người, chín chắn trong tác phong công tác. Nhưng bao trùm lên tất cả là tấm lòng nhân ái, tình thương yêu đồng chỉ, đồng đội...

Trong buổi tối hôm ấy, khi nhắc đến Đại hội V, anh cười hỏi tôi:

- Làm sao mà lúc đầu không có tên anh trong danh sách vào Trung ương?

Tôi kể cho anh nghe toàn bộ sự việc xảy ra đặc biệt nói kỹ về quan điểm lãnh đạo văn nghệ không được anh Thọ chấp nhận nên đưa Hà Xuân Trường lên thay...

Anh Linh lắng nghe một cách chăm chú, ra chiều suy nghĩ, cuối cùng khi tiễn tôi ra về, anh mới thốt lên không ra vui cũng không ra buồn:

- Thì cả hai chúng ta đều bị phê phán là tự do. Anh thì tự do trong văn nghệ, còn tôi thì tự do trong kinh tế... Cả hai chúng tôi cùng cười.

Lúc này tôi và anh Linh đều là ủy viên Trung ương khóa V nhưng anh Linh vẫn được nhận trọng trách là Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, còn tôi thì vẫn chưa có một công việc nào rõ rệt.

Trước khi chia tay về nghỉ ở T78, tôi có nói với anh Linh:

- Hồi ở rừng, chúng ta sống dẹp biết bao nhiêu. Sống chết có nhau, yêu nhau như ruột thịt. Thế mà mới có hơn 5 năm sau hòa bình, có biết bao nhiêu là chuyện...

Anh Linh cười:

- Rồi mọi chuyện lại tốt đẹp thôi.

ít lâu sau, anh được bổ sung vào Bộ Chính trị. Đại hội VI anh được bầu làm Tổng bí thư; tôi lại trúng cử ủy viên Trung ương chính thức và trở lại phụ trách Trưởng ban Văn hóa văn nghệ.

Hai khóa Trung ương trước tôi rất ít phát biểu. Nhưng trong khóa V, tôi phát biểu khá nhiều, hầu như phiên họp nào tôi cũng chuẩn bị một bản tham luận. Trong bài phát biểu nhan đề: "Một vài ý kiến về những vấn đề chung của công tác tư tưởng và tổ chức" tại phiên họp Trung ương khóa IV, khóa V tuy còn mang nặng tính giáo điều và tư duy cứng nhắc, nhưng cũng có một số ý kiến về dân chủ tập trung và tổ chức cán bộ, cho đến nay tôi thấy vẫn còn có giá trị, xin trích lại dây để nhớ về một đại hội V buồn vui lẫn lộn:

"Ta đang ở trong một quá trình cách mạng sôi nổi, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, mà nội dung của nó là một sự chuyển biến sâu sắc, toàn diện triệt để mọi mặt trong xã hội như Nghị quyết Đại hội Đảng IV và V đã chỉ rõ, đồng thời phải làm nhiều việc để bảo vệ Tổ quốc

Vì vậy, những vấn đề cấp bách về tư tưởng và tổ chức của ta hiện nay cũng là những vấn đề cơ bản, những vấn đề then chốt trong quá trình cách mạng đó, nó vừa cấp bách vừa lâu dài vì nó cần tác động trong tất cả các mặt và trong suốt thời gian lâu dài của quá trình cách mạng.

Ta cần đề phòng một tình hình là điều đó sẽ dẫn đến sự đơn giản trong công tác tư tưởng, bất cứ một biểu hiện nào cũng quy về hữu khuynh, mỗi chỗ người ta cố tìm ra một khía cạnh của hữu khuynh. Như thế liệu có thể có hiệu quả trong tình hình cách mạng lúc này không? 1954 ở Điện Biên Phủ có cuộc vận động chống hữu khuynh, có hiệu quả lớn, nhưng lúc ấy mục tiêu nhiệm vụ rõ rệt, cụ thể, phạm vị có hạn. Nay không thể như vậy.

Đồng thời có sự hiểu phương hướng tăng cường, chuyên chinh vô sản thì chỉ là tăng cường kiểm soát, tăng cường nghiêm trị và tăng cường xử phạt như vậy cũng không đúng với tinh thần của học thuyết Lê-nin về chuyên chính vô sản.

Trong quá trình cách mạng hiện nay, luôn luôn có những hiện tượng mới mẻ xuất hiện và phát triển và có những cái gì cũ lạc hậu bị đào thải, những cái gì mới xuất hiện thì gặp khó khăn, có khi còn phải xuất hiện chui, hoặc bị coi là bất hợp pháp bị lên án.

Thí dụ rõ rệt nhất là xí nghiệp đánh cá Côn Đảo và việc khoán trong nông nghiệp. Hiện nay ở một số địa phương và đơn vị cơ sở, có những đồng chí phụ trách đứng trước tình hình làm những việc mà có thể trờ thành anh hùng hoặc vào tù.

Thứ hai là vấn đề dân chủ tập trung, tôi thấy không phải chỉ là ý thức mà là cơ chế. Cơ chế phải bảo đảm các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước nắm chắc được bản chất tình hình xã hội (thông tin) về các mặt, đồng thời bảo đảm sự huy động các nguồn trí tuệ trong xã hội để giải quyết các vấn đề do xã hội đặt ra. Không nên quan niệm dân chủ chỉ là nghe ý kiến của người trực tiếp sản xuất (nông dân và công nhân) mà phải là vấn đề phát huy các nguồn trí tuệ, trong đó có một nguồn trí tuệ quan trọng là các cơ quan khoa học, cán bộ khoa học, cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp các ngành. Các cấp khoa học vốn là của Đảng, do Đảng tạo ra, cán bộ khoa học cũng thế, phải có cơ chế làm việc thu hút các cơ quan này châu tuần chung quanh các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Các cấp của Đảng phải coi các cơ quan khoa học có liên quan là trợ thủ của mình. Phải tăng cường việc xây dựng nhiều cơ quan thông tin phục vụ cho công tác nghiên cứu.

Không thể có một cấp nào hay một người nào hiện nay có thể biết hết mọi vấn đề, phải có sự phối hợp và liên kết các cơ quan khoa học.

Về mặt khác, phải thúc đẩy tốc độ việc xây dựng pháp luật thể chế các mặt cho kịp với yêu cầu quản lý và đổi mới quản lý, phải nâng cao trình độ "lập pháp" ở tất cả các cơ quan nhà nước.

Đó là những nội dung quan trọng trong toàn bộ nội dung của vấn đề dân chủ kỷ luật.

Nên quan niệm tăng cường chuyên chính vô sản không phải chỉ là tăng cường kiểm soát, tăng cường nghiêm trị, tăng cường xử phạt. Đó là mặt cần thiết, nhưng không phải chỉ có thế. Tăng cường chuyên chính vô sản còn phải là "nâng cao kiến thức, bản lĩnh và năng lực lãnh đạo của Đảng, nâng cao trình độ tổ chức, năng lực tổ chức và hiệu quả của tổ chức, bao gồm việc định ra các loại chính sách, các thể lệ quy chế quản lý có hiệu lực, bảo đảm phát huy mọi tiềm năng ở mọi lĩnh vực để tăng hiệu quả rõ rệt ở các mặt kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội, khoa học giáo dục, tạo nên thành quả mới, lực lượng mới cho cách mạng. Như vậy, cũng cần quan niệm đúng đắn "chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch", thực chất là phải đẩy mạnh ba cuộc cách mạng như ý kiến đồng chí Tổng Bí thư phát biểu. Nhiều đồng chí phát biểu đã nêu lên những dẫn chứng về vấn đề này:

Thứ ba là tổ chức và về cán bộ: Nhất thiết cần nghiêm khắc phê phán và xử trí nghiêm minh những cán bộ, đảng viên hư hỏng thoái hóa biến chất. Đồng thời cũng cần có thái độ như vậy với một loại cán bộ cơ hội bất tài, bảo thủ và vô vị, có khi không có một khuyết điểm nào nhưng chỉ có một khuyết điểm là chỉ biết nhắc lại chỉ thị nghị quyết như con vẹt và không hề làm được việc gì có ích cho xã hội, đã như thế lại còn chiếm chỗ quan trọng trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, và có lúc là đầu mối cho mọi sự bất hòa xích mích của tổ chức.

Loại cán bộ đảng viên này tai hại cho sự nghiệp cách mạng không kém loại cán bộ đảng viên hư hỏng thoái hóa biến chất chút nào.

Mặt khác cần khẳng định mạnh mẽ một phương hướng tuyển chọn và bố trí cán bộ: Khuyến khích những người có kiến thức, trung thực, năng động, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm, đạt tới những hiệu quả cụ thể trong phạm vi công tác phụ trách. Thực tế trong xã hội cũng đang xuất hiện các loại cán bộ có những phẩm chất như vậy. Có thể nói chắc chắn rằng trong xã hội ta về tất cả mọi mặt, không thiếu nhân tài, nhân tài kinh tế, nhân tài quản lý, nhân tài quân sự, nhân tài sáng tạo khoa học và văn học.

Cần có những chính sách khuyến khích nhân tài, chiêu hiền đãi sĩ, dám nghe những điều nói ngược tai mới lạ để cho sĩ tử xa gần nô nức đem tài năng ra thi thố, giúp ích cho dân, cho nước. Cần có những chính sách thi cử, tuyển cử, ứng cử để thực hiện được việc phát hiện nhân tài và sử dụng nhân tài.

Đối với loại cán bộ mới, có tài, nên có thái độ độ lượng với điểm gọi là khiêm tốn. Thật ra, ai là có tài và khiêm tốn thì thật là tốt và hoàn toàn. Nhưng thông thường những người có tài năng cũng kèm theo một cá tính là tự tin một cách mạnh mẽ. Do tự tin mạnh, nên có những biểu hiện thiếu khiêm tốn, nhưng lòng tự tin lại là một đức tính nên khuyến khích, vì đó cũng là một mặt của tinh thần dám chịu trách nhiệm, không nên chỉ vì đi tìm cán bộ bằng cách cơ quan tổ chức nắm lý lịch rồi đi thăm hỏi và dò tìm.

Cần mau chóng có một đội ngũ cán bộ có năng lực thích hợp với tình hình cách mạng mới, chính sách đó được khẳng định sẽ tác động mạnh mẽ vào tâm lý thanh niên và là một việc góp phần rất hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa và một chính sách cán bộ đúng sẽ đập tan một tâm lý "chỉ cần biết sống" nghĩa là biết ngậm miệng, ăn tiền, biết tìm ghế, nịnh nọt để giữ ghế và chính sách đúng cũng tạo nên một tâm lý hăng hái trau dồi kiến thức, hăng hái sáng tạo, hăng hái cống hiến".

Đại hội V đối với tôi là một kỷ niệm không vui, nhưng rồi thời gian qua đi thì những sự việc nó cũng nhạt dần. Tôi cũng không mấy quan tâm đến nữa.

Chương 3

Nghị quyết 05

I

Ngẫm lại cuộc đời hoạt động cách mạng gần 60 năm của mình tôi có khá nhiều niềm vui lớn. Đầu tiên là niềm vui chiến thắng được những đòn tra tấn dã man của kẻ thù ở nhà lao Thái Bình lúc tôi vừa tròn 18 tuổi. Năm 1943, trong đoàn tù từ Sơn La về Hà Nội để lên tàu ra Côn Đảo, đến Hòa Bình tôi đã vượt ngục thành công và một hạnh phúc lớn bất ngờ đến với tôi, được Đảng phân công làm người giúp việc cho đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh và trong đó được là người thay mặt Đảng phổ biến "Đề cương văn hóa" cho nhóm văn hóa cứu quốc. Đối với tôi đây là một hạnh phúc kép. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, trong chiến hào Điện Biên phủ, tôi và anh Lê Trọng Tấn đã ôm chặt nhau, sung sướng nghẹn ngào khi được tin chính các chiến sĩ Đại đoàn 312 của mình đã bắt sống tướng Đờ Cát ngay trong hầm chỉ huy của nó.

Hơn mười năm sau, với cương vị Phó chính ủy Quân giải phóng miền Nam, tôi lại được hưởng niềm vui lớn khác của chiến thắng, lần trước là thắng Pháp, bây giờ là thắng Mỹ.

Rồi đến những ngày tưng bừng của Đại hội VI và sau đó là Nghị quyết 05.

Đã trên 60 tuổi rồi mà trong những ngày này tôi cảm thấy như mình đang được sống lại thời trai trẻ của những ngày đầu cách mạng lãnh đạo cướp chính quyền thắng lợi ở Phúc Yên, những ngày chiến đấu bảo vệ Hà Nội cuối năm 1946 và những ngày Điện Biên phủ anh hùng. Những ngày đó niềm vui, niềm hạnh phúc được làm việc, được cống hiến khiến tôi như trẻ lại chục tuổi. Đến bữa ăn bụng không thấy đói, đến giờ ngủ còn muốn thức mãi để viết, để làm việc, chuẩn bị cho công việc ngày mai, công việc cứ dồn dập đến, với những niềm vui tường như vô tận.

Trong những ngày này thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp Nghiêm Hà, thư ký của tôi, nhìn tôi tủm tỉm cười - Tôi cũng cười hỏi: Cậu cười cái gì? Hà trả lời tôi bằng một câu hỏi có vẻ khiêu khích - Sao dạo này anh vui thế? Chính vì có nhiều cuộc gặp mặt giữa các nhà văn, nhà viết kịch, các nghệ sĩ... Trụ sở Ban văn hóa văn nghệ Trung ương như một câu lạc bộ, thường xuyên mở rộng cửa đón tiếp các văn nghệ sĩ đến trao đổi ý kiến, bàn bạc mọi vấn đề liên quan đến công cuộc đổi mới của đất nước, tất nhiên là tập trung vào chủ đề đổi mới văn nghệ theo tinh thần nghị quyết của Đại hội VI.

Là người đã tham gia các chiến dịch lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, được tận mắt chứng kiến không khí sôi động của hàng vạn cán bộ chiến sĩ trước khi bước vào trận đánh mới, tôi bỗng có sự liên tưởng đến không khí của đời sống văn hóa văn nghệ của đất nước trong những ngày này, thực chẳng khác gì không khí chuẩn bị bước vào một chiến dịch lớn mà mục tiêu phía trước cần vươn tới là nghị quyết chuyên đề của Đảng về Văn hóa Văn nghệ.

Từ giữa tháng 6 năm 1987, hầu như toàn bộ tâm tư, tình cảm của những người làm công tác văn hóa nghệ thuật Việt Nam đều hướng tới mục tiêu đó cả guồng máy của Ban văn hóa văn nghệ Trung ương hầu như mở hết công suất để hướng mọi người vững bước đi lên đạt tới mục tiêu đó. May mà Ban văn hóa văn nghệ lúc này đã có sự đổi mới về cơ chế tổ chức, tuy chỉ mới là bước đầu nhưng thực sự đã phát huy tác dụng là một cơ quan tham mưu của Đảng về văn hóa văn nghệ -Toàn ban chỉ có trên dưới 30 người, gồm các chuyên viên trực tiếp với Trưởng ban, chỉ tập trung vào làm công tác nghiên cứu lý luận chứ không làm công tác quản lý sự vụ. Có lẽ hồi ấy đây là Ban duy nhất của Đảng không có các Vụ, các Phòng. Do cơ chế mới nên đã bắt đầu chấm dứt cái cảnh cứ động một tý là có cú điện thoại gọi đến bảo ban văn hóa văn nghệ cử cán bộ đến chỗ này chỗ khác xem tác giả bài báo vừa đăng có một vài ý "trái với đường lối quan điểm của Đảng" là ai? Lý lịch như thế nào? Hoặc một cuốn sách vừa xuất bản có vấn đề, Ban lại phải cử cán bộ đến điều tra xem tác giả là ai? Trách nhiệm của nhà xuất bản như thế nào? hoặc ở Hội nọ có tin ông A tằng tịu với bà B, Ban cũng phải cử người đi thẩm tra để làm rõ... Cứ suốt ngày chạy theo công tác sự vụ như thế thì chẳng còn thời gian đâu mà nghiên cứu lý luận nữa. Mà đối với văn hóa văn nghệ trước hết phải là đổi mới tư duy, đòi hỏi phải nghiên cứu thật sâu các mặt, các tác phẩm kinh điển, các bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo... làm cơ sở cho lý luận về đổi mới, trước hết có những căn cứ thật vững chắc để báo cáo có sức thuyết phục đối với Bộ chính trị, Ban bí thư. May sao cơ chế vừa mới hình thành đã kịp góp phần phục vụ cho việc chuẩn bị Nghị quyết 05 - Điều đáng mừng là các đồng chí trong Ban văn hóa văn nghệ của Đảng hồi đó đều vui vẻ từ bỏ các danh hiệu Vụ trưởng, Trường phòng để có thời gian làm tròn nhiệm vụ một chuyên viên giỏi có ích cho Đảng nhiều hơn. Có thể coi đây là một kinh nghiệm về đổi mới, phải đổi mới từ gốc, từ cơ chế, đổi mới từ trên xuống.

Về vấn đề này, ngày 26/2/1987, nhân danh trưởng ban văn hóa văn nghệ Trung ương tôi đã chính thức có công văn gởi lên Ban bí thư Trung ương, Ban tổ chức Trung ương trình bày chính kiến của mình.

1 - Ban văn hóa văn nghệ Trung ương là cơ quan chuyên môn giúp việc Ban bí thư thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ, chứ không phải là một cấp trung gian.

2- Chức năng chủ yếu của Ban là tham mưu, nghiên cứu chứ không phải là chức năng quản lý. Ban hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện đường lối, quan điểm về văn hóa văn nghệ của Đảng chủ yếu bằng phương thức nghiên cứu kiểm tra, thu thập thông tin, phân tích tình hình nhằm phát hiện các vấn đề về quan điểm, đường lối, chính sách, chứ không kiểm tra, điều tra vụ việc, giải quyết những vấn đề cụ thể về hành chính tổ chức.

3- Ban không chỉ đạo như một cấp đối với Bộ văn hóa, các Hội văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương, các Ban tuyên huấn và văn hóa văn nghệ các Tỉnh ủy Thành ủy mà chỉ có trách nhiệm giúp đỡ các Ban này thực hiện tốt đường lối chính sách, phương hướng công tác và các chỉ thị của Trung ương Đảng.

Tôi thường tâm sự với anh em: Mình đã quyết xả thân làm một nhà nghiên cứu văn hóa văn nghệ thì phải từ bỏ tham vọng làm một "ông quan cách mạng". Hai cái này không hề song song tồn tại trong một con người. Chính vì vậy mà tôi kiên quyết theo đuổi đến cùng chủ trương làm cuộc cách mạng về cơ chế tổ chức Ban văn hóa văn nghệ nhưng khi lên thay tôi sau Đại hội V, anh Hà Xuân Trường đã bỏ giở. Lý do chính để anh Hà Xuân Trường không thực hiện là "lo cho quyền lợi" của anh em. Bởi vì chức vụ nó liên quan đến hàng loạt chế độ như nhà cửa, tem phiếu, đi viện, đi công tác... Ví dụ đi công tác miền Nam, phải là Vụ trưởng mới có tiêu chuẩn đi máy bay, hoặc khi phân phối nhà, phải là Vụ trưởng mới có tiêu chuẩn 2, 3 phòng. Khi xuống công tác địa phương giấy giới thiệu phải là Vụ trưởng mới được đón tiếp chu đáo, còn nếu chỉ là chuyên viên thì thái độ sẽ khác đi, từ phòng nghỉ cho tới tiêu chuẩn phục vụ ăn uống...

Tôi cho rằng cái kiểu cơ chế đó đã góp phần làm hỏng con người, đánh giá không đúng con người. Thực tế chưa chắc một Vụ trưởng đã làm việc có hiệu quả, có chất lượng như một chuyên viên giỏi. Có lần tôi đã phát biểu công khai trước Ban bí thư: Các Ban của Đảng phải có những cán bộ nếu không phải là chuyên gia thì cũng phải thông thạo ở lĩnh vực mình phụ trách, có trình độ làm việc được với các chuyên gia để khi nghe người ta nói phải hiểu được người ta nói cái gì và khi nói thì người nghe cũng hiểu được anh nói cái gì. Điều đáng buồn là hiện nay đang có tình trạng có những cán bộ, nói không ai hiểu mình nói gì mà nghe cũng không hiểu được người ta nói gì. Như vậy thì làm sao nói Đảng có trí tuệ được. Đã mang danh là Đảng lãnh đạo thì dứt khoát phải có trình độ cao hơn, chứ không chỉ là chức vụ, cấp bậc. Những cán bộ như thế chỉ làm mất uy tín của Đảng.

Rất may là ý kiến đề xuất của tôi được anh Đỗ Mười và các anh bên Ban tổ chức ủng hộ, nhưng để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho anh em thì tôi thống nhất với anh Nguyễn Văn Hạnh là khi việc gì liên quan đến hưởng thụ vật chất đối với ngành tài chánh quản trị cứ để anh em mang danh hiệu trưởng phòng, Vụ trưởng. Còn chế độ làm việc thì dứt khoát là chế độ chuyên viên. Chế độ này đòi hỏi mỗi người phải tăng cường học tập để nâng cao trình độ, phải đọc nhiều. Bởi đọc nhiều mới có thông tin làm tham mưu cho Đảng. Muốn vậy, tôi chủ trương giảm bớt những cuộc họp không cần thiết. Thời gian làm việc cũng không phải là "8 giờ vàng ngọc" ngồi lỳ ở cơ quan, có buổi chỉ tán gẫu rất lãng phí, mà đề ra mỗi tuần chỉ cần gặp nhau vài lần. Tôi nhớ hồi đó quy định là vào sáng thứ hai, thứ tư và thứ bảy. Các buổi sáng đó, anh em trong Ban gặp nhau trao đổi những vấn đề mới phát hiện được, những thông tin mới nắm được, những đề xuất với Ban trong phạm vi chức trách của mình...

Đúng vào dịp này, toàn Ban lao vào nhiệm vụ chuẩn bị nghị quyết 05 như trên tôi đã nói. Mỗi đồng chí từ các hội thảo mang theo những ý kiến mới mẻ trở về, biến các buổi sáng gặp nhau trở thành những buổi trao đổi sôi nổi chưa từng có ở Ban văn hóa văn nghệ. Tôi phấn khởi lắng nghe ý kiến của anh em và nói với anh em là bây giờ trách nhiệm của chúng ta, là những chuyên viên làm tham mưu cho Đảng, đặc biệt trách nhiệm của mình là chưng cất ý kiến của hàng trăm anh em văn nghệ sĩ thành trí tuệ của Đảng, để Đảng đưa vào nghị quyết chỉ đường cho nền văn hóa văn nghệ đất nước bước sang một bước ngoặt mới.

Chính vì xác định tầm quan trọng đó mà chúng tôi chủ trương mở rộng các thành phần càng nhiều càng tốt, lắng nghe mọi ý kiến khác nhau, không chỉ riêng văn nghệ sĩ mà cả các nhà khoa học như Phan Đình Diệu, Hồ Ngọc Đại, Nguyễn Khắc Viện... Tính ra hơn 200 văn nghệ sĩ có mặt ở Hà Nội trong thời gian này đều như bị cuốn hút vào phong trào sôi nổi, rộng lớn nhằm góp ý cho Đảng những ý kiến tâm huyết nhất của mình, với niềm mong ước sâu xa nung nấu từ lâu là sự lãnh đạo của Đảng có sự đổi mới phù hợp với trào lưu đổi mới của Đảng trên tất cả các anh vực, dưới ánh sáng của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chính Đại hội VI là bà đỡ có tác dụng quyết định cho nghị quyết 05 ra đời.

Có thể nói, trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam, chưa có giai đoạn nào mà đời sống văn hóa văn nghệ của dân tộc lại sôi động, phong phú như những ngày chuẩn bị tiến tới nghị quyết 05, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI lịch sử. Không phải chỉ riêng chúng tôi, những "quan chức văn nghệ" phải ngày đêm lăn xả vào công việc như trên tôi đã nói, mà trong những ngày này, hàng trăm văn nghệ sĩ cũng "lăn xả" vào sự nghiệp đổi mới nền văn hóa văn nghệ nước nhà, sự nghiệp mà mấy chục năm qua họ đã em hết sức mình, kể cả xương máu để cống hiến, xây dựng. Có dự những cuộc hội thảo, những cuộc trao đổi của các anh chị em văn nghệ sĩ, được tận mắt nhìn những gương mặt của họ, nghe giọng nói chân thành của họ mới cảm nhận hết sự lo toan đáng trân trọng của họ đối với những bức xúc đang đặt ra đối với sự phát triển của nền văn nghệ. Trong các cuộc họp, Ban chúng tôi thường nói với nhau, chúng ta là những người làm tham mưu cho Đảng về công tác văn hóa văn nghệ phải tự nâng mình lên để xứng đáng với anh chị em văn nghệ sĩ, những người đã từng lao động gian khổ, sáng tạo nên những giá trị tinh thần cho đất nước và hiện đang trăn trở tìm một hướng đi đúng đắn trong giai đoạn phát triển mới của dân tộc.

***

Tuy nhiên một số đông anh em văn nghệ sĩ, kể cả anh Nguyễn Văn Hạnh không tin lắm là Bộ chính trị sẽ có riêng một nghị quyết cho sự đổi mới văn nghệ, hoặc nếu có thì cũng khó nói đúng được những vấn đề bức xúc gây cấn mà ý kiến của anh em nêu ra trong các cuộc thảo luận.

Trách nhiệm này thuộc Ban văn hóa văn nghệ của Đảng, mà tôi là Trưởng ban... Chưa bao giờ chức năng tham mưu được thể hiện một cách thiết thực quyết định như thời điểm này. Nghị quyết này rõ ràng không thể ra đời sớm hơn, nhưng không thể để chậm hơn.

Do đó thực sự chúng tôi đã có sự chạy đua với thời gian. Rất may mắn là dạo đó, tôi đang có mối quan hệ rất tốt đẹp với anh cả Trường Chinh và Nguyễn Văn Linh - một người được coi là tác giả của sự nghiệp đổi mới, là Tổng bí thư chuẩn bị cho Đại hội VI- một người được coi là tiếp tục giương cao ngọn cờ đổi mới với những bài viết "Những việc cần làm ngay" làm chấn động dư luận xã hội một thời.

Do có mối quan hệ thân tình với nhau hồi ở B2, nên sau Đại hội VI, hầu như không tuần nào tôi không lên gặp anh Linh -khi thì anh chủ động gọi tôi lên, khi tôi tự tìm đến- Bởi cả hai chúng tôi đều có điểm chung là sự nghiệp đổi mới của Đảng, của đất nước.

Trong một buổi làm việc, chọn đúng thời cơ thuận lợi, tôi nêu vấn đề cần có một nghị quyết của Bộ chính trị về văn hóa văn nghệ và được anh Linh chấp nhận ngay. Anh bảo Ban văn hóa văn nghệ phải chuẩn bị thật chu đáo các mặt, đặc biệt là dự thảo nghị quyết đưa ra lấy ý kiến rộng rãi của các giới văn học nghệ thuật. Tôi báo cáo với anh Linh những việc đã làm trong thời gian qua và nguyện vọng tha thiết của anh chị em văn nghệ sĩ, là Đảng cần có một nghị quyết để định hướng cho hoạt động văn hóa văn nghệ trong giai đoạn mới của cách mạng.

Trở về Ban, tôi báo tin vui là Tổng bí thư đã chấp thuận đề xuất của chúng ta, sẽ có nghị quyết chuyên đề và lên kế hoạch chuẩn bị gấp cho sự kiện trọng đại này. Có hai việc lớn phải tập trung vào làm cho tốt là chuẩn bị một báo cáo đánh giá đúng thực trạng tình hình văn nghệ trong thời gian qua, cả ưu điểm và tồn tại, cả về sáng tác và quản lý, phương châm là nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, nếu cần thì coi như là một bản báo cáo nội bộ và đề xuất phương hướng hoạt động trong thời gian tới - báo cáo này mang tính chất một tờ trình đối với Bộ chính trị và Ban bí thư để các anh nắm được vấn đề và suy nghĩ trước.

Việc lớn thứ hai là trên cơ sở báo cáo đó, chuẩn bị dự thảo nghị quyết, thật súc tích, cô đọng sao cho mọi ý kiến, mọi nguyện vọng của anh em văn nghệ sĩ thuộc các giới văn học nghệ thuật, sau khi đã "chưng cất" đều sẽ được đưa đầy đủ vào Nghị quyết.

Guồng máy của Ban văn hóa văn nghệ lại được tăng tốc Mệt nhưng vui - tôi như thấy khỏe hẳn lên. Nguyễn Văn Hạnh và tôi phân công nhau, Nguyễn Văn Hạnh ở lại Hà Nội tiếp tục theo dõi các cuộc hội thảo ở ngoài này, tổng hợp "chưng cất", trên cơ sở đó dự thảo tờ trình lên Bộ chính trị và Ban bí thư. Tôi bay vào thành phố Hồ Chí Minh tổ chức các buổi hội thảo ở miền Nam, và sơ bộ chuẩn bị dự thảo Nghị quyết.

Vào tuổi 40 tôi được tham gia vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Vào tuổi 60 tôi được tham gia vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, sự nghiệp đã đưa dân tộc ta bước sang một bước ngoặt mới, đến hạnh phúc và ấm no. Hai mươi năm trước tôi là một vị tướng, là một nhà quân sự, một nhà chính trị còn hôm nay tôi vẫn là một chiến sĩ của Đảng nhưng là chiến sĩ trên mặt văn hóa, như lời Bác Hồ đã dạy. Qua gần mười năm bước vào lĩnh vực mới này, tôi càng thấy ý nghĩa sâu sắc lời dạy của Bác. Không phải chỉ nơi chiến trường bom đạn mới gay go, gian khổ, mới cần sự dũng cảm của người lính, mà ở lĩnh vực mới này, sự gian khổ gay go cũng không kém, mà xét về mặt nào đó còn phức tạp hơn nhiều, cần có bản lĩnh của người chiến sĩ. Tôi tự thấy tôi là người không thiếu bản lĩnh, nhưng do tính phức tạp của môi trường mới mà chất lính trong tôi chưa hòa nhập được, nên tôi bị vấp ngã giữa đường. Chính vì vậy, mà tập hồi ký này có tên: "Đổi mới, niềm vui chưa trọn."

Nhưng đã là chuyện của 2 năm sau tôi sẽ kể lại với bạn đọc, còn bây giờ thì tôi đang vui. Vừa xuống sân bay đến chỗ Lê Ca Thuần ở 62 Trần Quốc Thảo tôi lại bắt gặp ngay cái không khí sôi nổi ở Hà Nội. Trong những ngày qua, anh em trong này thường xuyên nhận được thông tin từ Hà Nội, đang nóng lòng chờ đợi Ban Văn hóa Văn nghệ vào để được phát biểu ý kiến cửa mình. Và cũng như ở Hà Nội, các anh chị em văn nghệ sĩ ở thành phố Hồ Chí Minh đã biểu lộ tình cảm tha thiết của mình đối với sự nghiệp đổi mới nền văn nghệ nước nhà. Thật là phong phú và đa dạng. Cùng một chủ đề thôi: Tự do sáng tác, quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, vấn đề quản lý, xuất bản, phát hành... nhưng mỗi ngành có những ý kiến khác nhau, mỗi tuần có những ý kiến khác nhau, mỗi người có những ý kiến khác nhau. Tôi thấy ý kiến nào cũng đáng trân trọng, mà điều trân trọng trước hết là tấm lòng của anh em. Trong những ngày này, tôi lại càng không thể nào quên sự kiện đề dẫn của Nguyên Ngọc năm 1979. Tôi muốn nhắc lại để khẳng định rằng, sự nghiệp đổi mới văn nghệ không chỉ có từ sau Đại hội VI, từ Nghị quyết 05 mà đã có từ mười năm trước đó với ngọn cờ đầu Nguyên Ngọc. Dạo đó, với cương vị là Phó ban Tuyên huấn Trung ương, phụ trách văn hóa văn nghệ, tôi có được chứng kiến và tham gia vào sự kiện này, nhưng tôi chỉ đóng vai trò một anh lính mới, còn rụt rè, ngập ngừng.

Vào một ngày tháng 6 năm 1979, tôi không nhớ rõ là ngày nào, đang ngồi làm việc ở số 10 Nguyễn Cảnh Chân thì Nguyên Ngọc đến. Tác giả "Đất nước đứng lên", niềm tự hào của nền văn nghệ kháng chiến, đang có vẻ ốm, vẫn gầy gò với cái đầu to, vầng trán rộng- Hình như anh chưa kịp phục hồi sức khỏe sau nhiều năm ở chiến trường gian khổ - Anh đi B trước tôi 2 năm và kiên cường trụ vững hơn mười năm ở núi rừng Tây nguyên. Anh vừa được Ban bí thư chỉ định làm Bí thư Đảng Đoàn Hội nhà văn năm 1978. Hôm nay, anh đến với cương vị là cấp dưới lên báo cáo với cấp trên. (Theo quy định, Ban tuyên huấn của Đảng lãnh đạo cả các Hội văn học nghệ thuật, trong đó Hội nhà văn là một đầu mối quan trọng). Như vậy là ở chiến trường anh là cấp dưới của tôi, anh phụ trách văn nghệ Quân khu 5, còn tôi là Phó chánh ủy các lực lượng vũ trang giải phóng. Bây giờ anh vẫn là cấp dưới của tôi cũng theo ngành dọc. Nói thế thôi chứ trong tình cảm của tôi đối với Nguyên Ngọc chẳng hề có cấp trên cấp dưới gì cả Tôi quý trọng anh cả về tài năng và nhân cách. Điểm lại, trong giới văn học nghệ thuật, một con người trọn vẹn cả đức cả tài như anh không nhiều. Bởi vậy khi anh chính thức được bổ nhiệm cương vị Bí thư Đảng Đoàn Hội nhà văn tôi rất mừng - Đây là một trong những trường hợp "đặt người đúng chỗ" hiếm hoi trong cơ chế của chúng ta.

Tôi biết các anh bên Đảng Đoàn đang có những trăn trở về thực trạng văn học vốn nhiều vấn đề cần phải có sự thay đổi (dạo đó chưa có danh từ đổi mới) để tiếp tục đưa nền văn học tiến lên. Các anh đang có kế hoạch tổ chức một hội nghị nhà văn gồm các hội viên là các đảng viên, có tính chất nội bộ, để thông qua trước một văn kiện mang tên là bản "đề dẫn", trước khi tiến tới một hội nghị rộng rãi toàn thể hội viên. Tôi ủng hộ cách làm đó. Không hề ngại ngùng rào đón, Nguyên Ngọc thẳng thắn nói với tôi, chính Nguyên Ngọc là người trực tiếp soạn thảo bản "đề dẫn" đó. Sở dĩ anh nói như vậy là do anh đã lường trước được hậu quả có thể không suông sẻ sau khi đề dẫn được công bố, nếu có vấn đề gì thì anh sẽ tự mình đứng ra chịu trách nhiệm. Đó là một hành động dũng cảm và trung thực. Anh cho biết bản đề dẫn cũng có sự đóng góp hào hứng của các ủy viên Đảng đoàn: Chế Lan Viên, Nguyễn Khải...

Rất sòng phẳng, bản đề dẫn không phủ nhận những kết quả đáng khích lệ của tình hình văn học trong kháng chiến và mấy năm gần đây sau chiến tranh. Nhưng đồng thời cũng lên tiếng báo động về tình trạng trì trệ đã bắt đầu xuất hiện trong nền văn học nước nhà. Cuộc sống thì ngày càng phức tạp mà văn chương thì ngày càng nhạt nhẽo: "người viết vẫn cứ viết mà không thật tin ở chính điều mình viết ra". Bản đề dẫn đã thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân của tình trạng này là có những kẻ trung gian quan chức văn học và một số kẻ đầu cơ xu nịnh thỉnh thoảng lại cố tạo ra không khí căng thẳng và hô hoán lên: nào là có tà khí nào là "phản động", nào là có "chống Đảng" trong văn học.

"Đề dẫn" còn nêu thêm một nguyên nhân nữa, mà có lẽ đây mới là nguyên nhân căn bản: "Đó là sự thô thiển kéo dài trong công tác lý luận và phê bình văn học. Sự thô thiển trước hết ở một điểm rất căn bản: Quan niệm về chức năng của văn học".

Sự thô thiển ấy biểu hiện cụ thể ở hai vấn đề sinh tử đối với nhà văn, đối với sự phát triển của văn học:

Một là dung tục mối quan hệ giữa hiện thực và văn học - Nó tuyệt đối hóa hiện thực. Nó hạ thấp văn học xuống thành một thứ sao chép hiện thực, cái giá trị văn học cao nhất là làm sao cố sao chép cho đúng nguyên hiện thực. "Bởi vì hiện thực đó đã tốt đẹp đến mức không còn gì có thể tôi hơn, đẹp hơn. Quan niệm không Mác xít đó đã từng biểu hiện ở chủ trương tuyệt đối hóa thể người thật việc thật trong văn học, muốn lấy đó làm dòng chủ đạo, thậm chí dòng duy nhất của văn học ta."

Hai là: "Quan niệm thô thiển về chức năng của văn học cũng dung tục hóa mối quan hệ giữa văn học và chính trị, tuyệt đối hóa sự chi phối tất yếu của chính trị với văn học".

Bản "đề dẫn" đã thẳng thắn với thái độ khoa học, phê phán sự thô thiển đó và đã nêu cao vai trò sáng tạo của văn học, của chủ thể sáng tạo đối với hiện thực:

"Văn hóa bắt nguồn từ cuộc sống, thu hút không những nguyên liệu mà cả linh hồn các tác phẩm của mình từ đấy, nhưng đến lượt nó, nếu như nó muốn có ích, muốn phục vụ trở lại cuộc sống, thì ai phải sáng tạo ra một cái gì đó khác, mới mẻ, chưa từng có, cao hơn về chất so với cái nguyên liệu cuộc sống đã cung cấp cho nó. Âu cũng như con tằm ăn dâu phải đẻ ra tơ -nếu ăn lại nhả ra những cái lá dâu thì bản thân sự có mặt của nó là vô nghĩa ".

Đây thực sự là những ý tưởng mới mẻ, mạnh dạn, mà chính bản thân tôi hồi đó cũng chưa cảm nhận hết được. Tôi nghĩ bụng, có thể đây lại là trường hợp cấp dưới phải hơn cấp trên. Những vấn đề mà anh em đã nhìn ra, đầy trăn trở thì bản thân mình vẫn còn chưa thoát ra những quan niệm cũ được nhồi nhét từ mấy chục năm trước. Chính vì xuất phát từ suy nghĩ đó mà tôi nhất trí cứ để Đảng Đoàn Hội nhà văn tổ chức hội nghị, không phê phán góp ý gì vào bản đề cương. Chủ trương của tôi là cứ để anh em phát biểu, qua trao đổi vấn đề sẽ sáng ra, sẽ đi đến chân lý, đúng sai sẽ rõ ràng.

Có lẽ tôi rút được kinh nghiệm hồi Nhân Văn Giai Phẩm. Dạo đó tôi là một trong những chiến sĩ tiên phong đi hàng đầu trong việc phê phán Nhân Văn Giai Phẩm. ở vụ đề dẫn này, tuy ở góc độ có khác, nhưng cũng diễn ra gần giống như thế. Đó là sự quy chụp, một mệnh lệnh phát ra, tất cả im như thóc, Nguyên Ngọc bị xử trí, bị ép thôi chức Bí thư Đảng Đoàn...

Tôi có tham gia cuộc họp các nhà văn Đảng viên này từ đầu chí cuối và được tận mắt chứng kiến những con người cơ hội.

Hôm đó, sau khi Nguyên Ngọc giới thiệu xong bản đề dẫn mà những nội dung chủ yếu đều có chứa đựng trong dự thảo báo cáo nghị quyết mà tôi đang chuẩn bị (rõ ràng chúng tôi đang tiến hành một công việc mà cách đây mười năm nhóm Nguyên Ngọc, có cả Chế Lan Viên, Nguyễn Khải đã làm).

Về Chế Lan Viên riêng tôi cũng có một kỷ niệm. Đó là việc Bùi Minh Quốc đăng toàn văn bản đề dẫn trên báo văn nghệ Lâm Đồng, Chế Lan Viên đã nói móc là có một vị Trung tướng đã chuyển bản đề dẫn cho Bùi Minh Quốc. Bây giờ, trước hương hồn anh, tôi xin đính chính lại rằng: Tôi, Trần Độ không làm việc ấy. Ngoài những chuyện đó ra, nói chung tôi rất có cảm tình với Chế Lan Viên, một tài năng thơ rất sâu sắc thông minh và rất dí dỏm trong cuộc sống đời thường. Hai chúng tôi làm việc bên nhau suốt 8 năm trời trong ủy ban văn hóa giáo dục của Quốc hội và có nhiều điều rất tâm đắc với nhau.

Trong thời gian ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi đã tranh thủ vào các buổi tối nghỉ ở T78, sơ bộ chuẩn bị xong dự thảo Nghị quyết - không hẹn mà gặp, khi anh Nguyễn Văn Hạnh vào thành phố Hồ Chí Minh, thấy tôi khoe đã thảo xong Nghị quyết thì anh Hạnh cũng rút trong cặp ra, vui vẻ nói với tôi là anh đã chuẩn bị xong bản báo cáo. Thế là chúng tôi say sưa đọc cho nhau nghe, góp ý bổ sung cho nhau, sau đó cứ rì rầm trao đổi mãi.

Trong những năm tháng này, ngoài niềm hạnh phúc lớn phấn đấu cho sự nghiệp đổi mới của văn nghệ như trên tôi đã nói, tôi còn được niềm hạnh phúc riêng là được làm việc với Nguyễn Văn Hạnh. Có thể nói cuộc đời đã ưu ái dành cho tôi những người bạn, người đồng chí tuyệt vời hay như người ta nói: "ở hiền gặp lành". Trong chiến tranh tôi có Lê Trọng Tấn như trên tôi đã nói, còn trong những ngày này tôi có Nguyễn Văn Hạnh, chưa nói đến tình cảm, tư tưởng hai đứa như đồng nhất là một, chỉ riêng công việc thôi, có thể nói nếu không có Nguyễn Văn Hạnh thì tôi không thể nào hoàn thành được một khối lượng công việc khổng lồ để kịp Nghị quyết 05 ra đời vào tháng 12 năm 1987.

Tôi chỉ mới quen anh Hạnh từ năm 1981, trong dịp cùng sang Liên xô dự một lớp nghiên cứu về văn hóa văn nghệ. Tôi là đoàn trưởng còn anh Hạnh phụ trách Bí thư chi bộ. Chính thu hoạch của lớp học này cũng là một tiền đề quan trọng của nghị quyết 05 mà tôi sẽ kể tiếp ở phần dưới.

Khi thành lập Ban văn hóa văn nghệ tôi là Trưởng ban, còn anh làm phó cho tôi. Năm 1983 tôi bị cách chức Trưởng ban, Nguyễn Văn Hạnh còn ở lại một thời gian làm phó cho Hà Xuân Trường, nhưng sau thấy khó làm việc với Hà Xuân Trường, anh chuyển sang làm Thứ trưởng giáo dục.

Sau Đại hội 6, tôi lại trở về làm Trưởng ban thì người đầu tiên tôi nghĩ đến là anh Hạnh. Tôi báo cáo với anh Linh và trao đổi với Nguyễn Đức Tâm xin anh Hạnh về. Lúc đầu anh Hạnh có phân vân. Công tác bên giáo dục tuy là tay trái, nhưng dù sao cũng đã ổn định, cũng đã cuối đời rồi. Trở lại văn nghệ không hiểu rồi sẽ ra sao ở các lĩnh vực có nhiều gai góc này. Về sau tôi nài mãi, thuyết phục mãi, cuối cùng vì nể tôi, Nguyễn Văn Hạnh đã nhận lời - tôi mừng quá - thật như vớ được vàng khi nhận lời. Nguyễn Văn Hạnh tâm sự với tôi: Thật ra văn hóa văn nghệ mới là sở trường của tôi, mới là tay phải của tôi, nhưng cứ nghĩ đến cái hồi đại hội V mà khiếp - đấm đá nhau đến thế là cùng. Cho nên quả thật tôi rất ngại - nhưng vì tôi quý anh, thích phong cách làm việc của anh và cuối cùng cái quan trọng nhất là anh và tôi cùng chung một quan điểm, cùng chung một tư tưởng mà cả hai đều tin rằng chúng ta đúng - cuối cùng anh Hạnh cười: Về với anh cũng có nghĩa là xả thân vì sự nghiệp -ai ngờ lời dự đoán của Nguyễn Văn Hạnh lại nghiệm đến thế. Chỉ hơn hai năm sau, năm 1989, sóng gió đã ào ào dội xuống trên đầu hai chúng tôi. Lần thứ hai tôi bị cách chức Trưởng ban văn hóa văn nghệ, còn Nguyễn Văn Hạnh sau một thời gian miễn cưỡng với chức Phó ban tư tưởng văn hóa Trung ương rồi cũng chuyển công tác.

***

Để chuẩn bị cho Nghị quyết 05, với cương vị là ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương, tôi đã có nhiều buổi làm việc với Ban Bí thư Trung ương để phản ảnh những vấn đề mà chúng tôi đã "chưng cất" được qua hàng trăm ý kiến của anh chị em văn nghệ sĩ. Đồng thời, chúng tôi cũng nêu những chính kiến của mình và nói rõ đây là những vấn đề cốt lõi làm cơ sở cho dự thảo Nghị quyết của Bộ chính trị sắp tới.

Trước hết là nhận định tình hình văn nghệ hiện nay và sự đánh giá đội ngũ văn nghệ sĩ. Tâm trạng phổ biến của văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa là thấy mình vẫn hết lòng hết sức dùng văn nghệ làm vũ khí cách mạng sao cho có hiệu quả nhất vì lợi ích của cách mạng. Nhiều người với tâm hồn nghệ sĩ sâu sắc cảm thấy thật sự hiến thân cho sự nghiệp. Ngay ở một số người có nhiều tính toán thiệt hơn trong thu nhập, nhưng trong chiều sâu của tâm hồn có một cái gì rất thiết tha vì sự nghiệp. Đó là điểm đẹp, điểm sáng trong tâm hồn nghệ sĩ, chính vì vậy họ vẫn cảm thấy không được hiểu biết niềm tâm sự ấy và vẫn bị coi như mình ở trong một anh vực bạc bẽo, một lĩnh vực thấp kém hơn các lĩnh vực khác. Trong khi họ thấy họ đang cố gắng sáng tạo ra những giá trị tinh thần có thể trở thành những tài sản quý giá cho dân tộc, cho lịch sử, họ thấy rõ ý nghĩa vẻ vang của công việc của họ. Nhưng hình như xã hội chưa chấp nhận điều đó, tâm lý của nhiều người trong xã hội (kể cả trong cán bộ lãnh đạo) đều thấy văn nghệ là một lĩnh vực phức tạp, đều thấy mặt tiêu cực, ý nghĩa xấu (pejoratif) của khái niệm phức tạp. Trong những câu chuyện thân tình bộc lộ suy nghĩ thực chất của một số người thường chỉ thấy văn nghệ là xỏ xiên, là nguy hiểm, coi văn nghệ sĩ hầu như là một lớp người phức tạp, mà không coi văn nghệ sĩ là những chiến sĩ của Đảng, của ta.

Có nhắc đến tâm trạng của văn nghệ sĩ thì thường cho là "biết rồi khổ lắm nói mãi", là những "đòi hỏi tiểu tư sản" và vì vậy chả đáng quan tâm. Nhất là đa số cán bộ chính trị ít hiểu biết về đặc trưng đặc thù của văn nghệ sĩ, về hiệu quả tinh thần cao cả kỳ diệu của văn nghệ sĩ thì thấy hình như văn nghệ luôn luôn có thể phát huy tác dụng phá hoại. Tôi cho điều này không đúng với tinh thần chủ nghĩa Mác Lênin và trái với tinh thần nghị quyết của Đảng.

Từ đó có vấn đề thời sự đặt ra là việc đánh giá tình hình văn nghệ thời gian vừa qua (và đi liền đó là đánh giá văn nghệ sĩ trên thực tế). Tôi nghĩ rằng: văn nghệ vừa qua nói chung là tốt và lành mạnh, có một số biểu hiện lệch lạc và không lành mạnh, nhưng những biểu hiện đó đã được phê phán và vẫn đang bị phê phán trong một khung cảnh đấu tranh gay gắt và lâu dài. Đã là đấu tranh lâu dài thì không thể một vài cuộc phê phán mà xong ngay được. Còn phải đấu tranh bằng tác phẩm, bằng tiết mục, bằng lý luận phê bình và bằng nhiều phương pháp khác nữa. Vì vậy tôi không tán thành cách đánh giá cho rằng tình hình văn nghệ vừa qua là "bất trị là có cái gì như là chống đối dai dẳng, có cái gì như là hỗn loạn và cho là phải "lập lại trật tự trong văn nghệ".

Từ đó thì nhìn đội ngũ văn nghệ sĩ không thấy hết tấm lòng của anh em, ý thức của anh em đã được rèn luyện hàng chục năm, mà chỉ thấy như là một đám người lăm le phá hoại, lăm le làm rối trật tự, lăm le chống đối. Họ buồn ở chỗ họ không được coi là những người lao động. Tất nhiên, trình độ nhận thức hiện thực của văn nghệ sĩ là chưa kịp với yêu cầu của cách mạng, nhưng thực trong bản thân văn nghệ sĩ cũng đang có những yêu cầu phát triển khác trước và anh em muốn vươn lên mà còn bối rối. Sự lãnh đạo và quản lý của các cơ quan Đảng và Nhà nước chưa giúp được văn nghệ sĩ vượt qua được sự bối rối đó, không nên chỉ thấy trách nhiệm của văn nghệ sĩ trong tình trạng bối rối đó. Không phải là một số anh em ngoan cố không chịu thông suốt mà chính vì những bối rối trong lòng anh em chưa đạt được tháo gỡ sự phê phán, sự uốn nắn của ta chưa đạt được tính thuyết phục cao, chưa thuyết phục được hoàn toàn anh em.

Đặc biệt phải quan tâm thấy tình hình phát triển của đội ngũ văn nghệ sĩ, số văn nghệ sĩ do Đảng đào tạo rèn luyện hiện nay đã chiếm đa số tuyệt đối. Số anh em trước cách mạng Tháng Tám đã được rèn luyện thử thách đủ cho ta tin cậy.

Đây là điểm hết sức quan trọng cần làm rõ. Chính điều này là tư tưởng chỉ đạo cho việc định ra các chính sách và thái độ đối với văn nghệ.

Xin lưu ý các Đảng anh em Tiệp Khắc và Hungari có những kinh nghiệm quý báu sau những sự kiện đau xót trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội của họ. Ta chưa chú ý đúng mức đến việc tổng kết kinh nghiệm của họ, mà ta chỉ hiểu kinh nghiệm của họ theo cách chủ quan của ta (sẽ xin nói rõ ở phần sau). Chính văn nghệ sĩ có kêu ca phàn nàn nhiều về đời sống và điều kiện làm việc, nhưng điều họ quan tâm hơn cả và họ mong chờ sâu sắc hơn cả là chính sách tinh thần và thái độ tinh thần của Đảng đối với họ và với sự lao động của họ.

Vấn đề thứ hai là đánh giá về sự lãnh đạo của Đảng về văn nghệ và một số đề xuất phương hướng sắp tới cần phải như thế nào. Trong tác phẩm này tôi có nêu lên một số kinh nghiệm của nước ngoài để các anh tham khảo: Trước hết cần phải làm sáng tỏ khái niệm "buông lỏng và "nắm chặt".

Phải xác định quan điểm về mục đích và yêu cầu của sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa văn nghệ. Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho văn nghệ sĩ phát triển, phục vụ lợi ích của cách mạng, của nhân dân, và đồng thời phải bảo đảm cho văn nghệ phát triển mạnh mẽ, tạo các điều kiện thuận lợi về vật chất và về tinh thần cho sự phát triển đó.

Đảng đã nói "khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo", như vậy tăng cường và cải tiến không chỉ là chỗ "không buông lỏng và phải nắm chặt hơn" với ý nghĩa là phải kiểm soát chặt hơn, kỹ hơn.

Lãnh đạo văn nghệ muốn nó phát triển mạnh mẽ, phải có sự khoan dung, độ lượng để khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo, phải nâng cao tính thuyết phục, thu được tâm hồn người nghệ sĩ giúp họ hiểu thấu hiện thực cách mạng, hiểu thấu đường lối chủ trương của Đảng. Nắm chặt, không phải là "bịt miệng", không phải là cấm đoán, tất nhiên ta phải có sự kiểm soát cần thiết. Nhưng nắm chặt là phải nâng cao trình độ lãnh đạo có thái độ đúng đầy tính thuyết phục và thu hút, để thu hút tất cả văn nghệ sĩ chung quanh đường lối của Đảng. Muốn thế phải nâng cao trình độ hiểu biết của cơ quan lãnh đạo và quản lý. Những người và cơ quan lãnh đạo phải là niềm tin tưởng của văn nghệ sĩ, phải là nơi người ta đặt lòng yêu mến mong đợi, không phải là nơi để người ta sợ, người ta tránh.

Trong cuộc đấu tranh gay gắt giữa ta và địch, ở mỗi mặt trận khác nhau, phương thức đấu tranh diễn ra một cách khác nhau. ở quân sự là tấn công, phòng ngự, tiêu diệt địch. ở kinh tế, là phải kết hợp cả các biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế, phải có sự ganh đua về kinh tế làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển lớn mạnh, đẩy lùi đi tới thủ tiêu các yếu tố kinh tế không xã hội chủ nghĩa.

Trên mặt trận văn hóa tư tưởng cũng có biện pháp hành chính, dùng luật pháp để ngăn cấm và thủ tiêu các loại văn hóa tư tưởng phản động. Nhưng phương thức chủ yếu có tính chất quyết định phải là phương thức ganh đua có tính thuyết phục. Phải thu phục được cả về trí tuệ và tình cảm các tầng lớp trí thức một cách sâu sắc, làm họ trở thành những chiến sĩ thực sự trên mặt trận này, kể cả những người là đảng viên và những người ngoài Đảng.

Nếu không có chính sách và thái độ đúng đắn để thu phục được họ, mà chỉ có đe nẹt, cấm đoán, và ngăn chặn thì không thể có thắng lợi được. Một điểm thuận lợi cơ bản là các lớp trí thức của ta đều rất yêu nước, họ có thể có lúc bị mơ hồ về chính trị ở nhiều mặt, nhưng ta có thể tin cậy lớn vào lòng yêu nước thực sự của họ, từ lòng yêu nước đó họ sẵn sàng nghe theo tiếng gọi của Đảng và họ cũng tin Đảng ta là Đảng có tinh thần yêu nước cao nhất, thật nhất.

Họ có nhiều băn khoăn, nhưng điều băn khoăn lớn nhất và cơ bản nhất là họ muốn làm được cái gì có thể có ích cho dân tộc, cho xã hội chủ nghĩa, ta phải khích lệ mạnh mẽ mặt tích cực ấy của họ. Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận này, kẻ địch xảo quyệt và có nhiều kinh nghiệm, biết rõ được tâm lý của trí thức, biết được chỗ yếu của trí thức là dễ giao động và mơ hồ. Chúng thường khoét sâu vào những lý tưởng nhân đạo chung chung, vào tự do dân chủ chung chung, tự do sáng tạo, vào vấn đề nhân tài và tài năng. Chúng thường xoáy vào chỗ cộng sản là khô khan, là kỷ luật sắt, bóp nghẹt mọi sáng tạo của trí thức làm tổn thương đến tinh thần tự do sáng tạo vào nhân cách của trí thức.

Chính vì vậy Đảng ta phải là Đảng vô địch về tự do dân chủ, về sự tôn trọng nhân cách và tài năng mọi người. Không nên để kẻ địch các loại tranh lấy những ngọn cờ về tự do, dân chủ, tôn trọng nhân cách và tài năng. Điều này không thể chỉ biểu hiện bằng những lời nói tốt đẹp trong những dịp long trọng, và những cử chỉ tốt đẹp trong những trường hợp có tính chất đột xuất. Nó phải được thể hiện bằng một chính sách tốt đẹp được bảo đảm bằng một cơ chế làm việc thích hợp để thực hiện sự lãnh đạo và quản lý.

Phải nói thực rằng tình hình thực tế hiện nay là ý thức và tác phong lãnh đạo, phong cách làm việc của ta chưa biểu hiện được điều này. Và tình hình này đang tác động tiêu cực tới nhiệt tình của văn nghệ sĩ và của cả giới trí thức nói chung. Cần phải xem xét thực chất của vấn đề giải quyết cho thật chính xác. Không nên quá coi thường ý thức chính trị, ý thức trách nhiệm của văn nghệ sĩ và trí thức. Đối với văn nghệ sĩ mà ta không thu phục được tâm hồn họ, chỉ dựa vào biện pháp tổ chức và hành chính thì hiệu quả chỉ có hại. Lãnh đạo văn nghệ về cơ bản phải là một sự thuyết phục có chất lượng cao và một sự giúp đỡ có hiệu quả (nhất là về mặt tinh thần) không phải chỉ có "dạy dỗ", "răn đe", "uốn nắn". Muốn thuyết phục được phải có sự hiểu biết sâu sắc, phải biết nghe nhiều ý kiến và phải biết chấp nhận và đồng ý với những ý kiến có cơ sở của họ.

Nói cách khác, lãnh đạo văn nghệ phải có thái độ cởi mở. "Cởi mở khác với buông lỏng" và không thể xem tất cả cử chỉ thái độ cởi mở đối với văn nghệ sĩ đều là buông lỏng. Chỉ có "cởi mở" mới "nắm chặt" được mặt trận văn nghệ, mới làm cho các văn nghệ sĩ thật sự hào hứng và hăng hái với các mục tiêu của Đảng. Nếu "nắm chặt" chỉ bằng cách dạy dỗ răn đe, uốn nấn thì thực ra lại là "buông lỏng mặt trận văn nghệ. Vì người ta sẽ quay mặt đi. Tôi biết có những văn nghệ sĩ Đảng viên vẫn hùng hồn nói "chặt trước lỏng sau có nắm chặt mới mở rộng được Thực chất là cũng muốn Đảng chặt với người này chặt với người. khác, rộng với đồng chí ấy.

Về những kinh nghiệm của các nước bạn, chúng ta thường nhắc nhau kinh nghiệm của Tiệp Khắc và Hungari với ý nghĩa là: Mọi sự lộn xộn chính trị thường bắt đầu từ văn nghệ vì vậy phải nắm thật chặt, kiểm soát thật chặt văn nghệ. Nhưng tôi xin giới thiệu một vài tài liệu như sau:

Tôi thấy được một tài liệu lược dịch một cuốn sách của đồng chí Gyogy Aczel ủy viên Bộ Chính trị Đảng công nhân xã hội chủ nghĩa Hungary là phó chủ tịch hội đồng Bộ trưởng, nhan đề cuốn sách là "văn hóa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa", nội dung có tính chất tổng kết chính sách văn hóa mấy chục năm qua. Trong tài liệu lược dịch có những đoạn nhận định những kinh nghiệm của thời kỳ trước và trong năm 1956 như sau:

"Một số người lại muốn địa vị độc tôn, muốn khôi phục lại cái thời mà người ta có thể dùng quyền hành của Nhà Nước để bảo vệ uy tín của một tác phẩm nào đó, cả trong trường hợp mà chính tác giả lại chẳng có chút tài cán gì". "Điều này thường xảy ra ở thời trước là địa vị độc tôn của chủ nghĩa Mác được tuyên bố, nhưng không có trong thực tế và thường được "thiết lập" bằng cách dùng biện pháp hành chính để bịt miệng quần chúng. Và điều không thể tránh khỏi của tình hình trên là một thứ chủ nghĩa Mác giả hiệu ra đời, thứ chủ nghĩa Mác bằng trích dẫn, bằng lời nói xuông, và mọi tư tưởng tư sản, tiểu tư sản đều thấy cần núp sau các thuật ngữ, các trích dẫn Mác xít. Do đó, có sự rối loạn về tư tưởng, cũng cần nói thêm là nhiều nhóm muốn giành địa vị độc tôn không chịu lùi bước trong việc đàn áp các khuynh hướng mà họ không ưa... "Sự độc quyền này còn đưa đến kết quả là cổ vũ tính tự mãn trong nhiều trường hợp. Trong sinh hoạt chung về tinh thần và học thuật đã lan tràn phương pháp lấy trích dẫn thay thế cho lý lẽ thực tế. Đáng lẽ phải thảo luận xem xét kỹ càng và do đó mà phê phán các quan niệm tư sản phi Mác xít, thì người ta lại dùng phương pháp quen thuộc lúc đó chỉ việc "chụp mũ cho các quan niệm đó".

Qua những kinh nghiệm trên, Đảng Hungari đã đi tới những ý kiến có tính kinh nghiệm và cũng là những nguyên lý như sau.

"Năm 1958, trong khi thảo luận "các nguyên tắc chính sách văn hóa", Ban chấp hành Trung ương đã chấp nhận quan điểm: không lấy nghị quyết của Đảng và Nhà nước quyết định các vấn đề thị hiếu và phong cách. Nguyên tắc về tính phong phú, về nền nghệ thuật xã hội chủ nghĩa có thể có nhiều phong cách, nhiều dạng biểu hiện khác nhau, cần phải được coi trọng". "Rõ ràng trong công việc nâng cao ý thức, trình độ nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân và trong cuộc cạnh tranh về văn hóa trên thế giới, chỉ có những tác phẩm nghệ thuật ở trình độ cao mới đạt được thắng lợi... đồng thời, điều kiện để có tác phẩm nghệ thuật có trình độ cao có thể xuất hiện lại chính là một nền dân chủ lành mạnh."

"Tự do của văn hóa còn có nghĩa là mọi tài năng, mọi giá trị thực sự về nghệ thuật đều có chỗ đứng trong nền văn hóa xã hội chủ nghĩa chúng ta. Hiện nay ở Hungari không một tác phẩm có giá trị nghệ thuật nào lại bị giấu trong ngăn kéo. Chúng ta xuất bản, giới thiệu cho đưa lên sân khấu... mọi tác phẩm có giá trị nói về chủ nghĩa xã hội, thậm chí cả dưới dạng trừu tượng hơn, là nói về chủ nghĩa nhân đạo, những tác phẩm mang niềm tin đối với nhân loại".

ở Tiệp Khắc, qua bài nói của đồng chí M. Muller, Trưởng ban văn hóa của Trung ương Đảng có những ý đáng chú ý như sau:

- Cách nhìn đối với cán bộ nghệ thuật: kết hợp quan điểm không khoan nhượng trong đấu tranh tư tưởng với thái độ tôn trọng ân cần đối với những tài năng và lao động sáng tạo.

- Có những tác phẩm chỉ có nội dung nhân đạo, hoặc chỉ để giải trí, không có chiều sâu xã hội. Đối với những tác phẩm này, ta phải hài lòng, nhưng không cần bác bỏ.

- Các Hội nghệ thuật có vai trò quan trọng trên mặt trận sáng tác, là chỗ dựa của Đảng.

Các đồng chí Tiệp Khắc đánh giá rất cao thắng lợi sau năm 1968 trên mặt trận văn hóa ở chỗ đã thu phục lại được rất nhiều nghệ sĩ, và kết quả sáng tác mấy năm qua là hết sức rực rỡ.

Kinh nghiệm của Liên xô là loại kinh nghiệm già dặn và sâu sắc nó đã được thể hiện ở loạt bài của một giáo sư già lâu năm, có tuổi Đảng cao là giáo sư Nôvicốp thuộc viện hàn lâm khoa học xã hội của Trung ương Đảng (A.O.N).

ở Cộng hòa dân chủ Đức, ở Bungari tinh thần chính sách văn hóa cũng tương tự, đó là tinh thần cởi mở, quan niệm đấu tranh trên mặt tư tưởng văn hóa là thuyết phục, thu phục các trí thức văn nghệ.

Qua thực tế tình hình cụ thể trong nước và tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, tôi nêu ý kiến cần phải có những chính sách, thể chế, cụ thể hóa tinh thần chính sách đó và nhất là phải "nâng cao năng lực, kiến thức và bản lĩnh lãnh đạo". Nói chung các anh chăm chú lắng nghe ý kiến của tôi. Cuối cùng, các anh yêu cầu về soạn thảo thành một bản văn hẳn hoi, coi như một báo cáo của Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương về thực trạng nền Văn hóa Văn nghệ hiện nay và những đề xuất đổi mới hòa nhịp với sự nghiệp đổi mới chung của đất nước theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.

Trong quá trình chuẩn bị nghị quyết 05, chúng tôi được anh Đỗ Mười, lúc bấy giờ là Thường trực Ban bí thư hết sức ủng hộ. Sau Đại hội VI, anh Trường Chinh được cử làm Cố vấn và vẫn rất quan tâm đến Văn hóa Văn nghệ, thỉnh thoảng tôi vẫn đến thăm anh vừa để báo cáo với anh tình hình Văn hóa Văn nghệ vừa tranh thủ xin ý kiến của anh về phương hướng công tác sắp tới. Anh tỏ ra rất vui khi được biết tình hình Văn hóa Văn nghệ đang có những khởi sắc mới.

Nhớ một hôm, anh nhắn tôi lên chơi thăm anh ở Hồ Tây, trong câu chuyện, tôi có nhắc đến những bài phát biểu của anh trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI, rất được mọi người tán thưởng, anh đã ghé vào tai tôi nói nhỏ: "Thế mà bọn nó bảo mình là mị dân đấy, ví dụ như như câu "Lấy dân làm gốc". Đi dạo một đoạn quanh hồ, anh dừng lại, kéo tay ngồi xuống ghế đá, tiếp tục nói theo dòng tư tưởng: "Lấy dân làm gốc" chính là tư tưởng của Bác Hồ, quán xuyến trong toàn bộ lời nói việc làm của Bác Hồ và đã trở thành một chân lý vĩnh cửu rồi, chớ có phải tớ nghĩ ra đâu, xa hơn nữa, đây chính là tư tưởng của Mạnh Tử, được Bác Hồ tiếp thu, phát biểu trong những hoàn cảnh thích hợp để giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ.

Được vinh dự làm người giúp việc anh Trường Chinh từ hơn 40 năm trước, hơn ai hết, tôi hiểu anh là một lãnh tụ của cách mạng Việt Nam với trí thức uyên bác nhiều mặt, có nhân cách lớn - Nói đến đổi mới ở Việt Nam phải kể đến công đầu là anh, với khẩu hiệu đã đi vào lịch sử: "Đổi mới hay là chết". (Đúng ra là: Khi nào chết thì hãy đổi mới- Lời bình của người viết)

Chính nhờ tư tưởng đổi mới của anh mà Văn hóa Văn nghệ Việt Nam cũng đang trên đà đổi mới. Không có Nghị quyết Đại hội VI, không có Nghị quyết 05. Giữa tháng 9 năm 1987, sau khi làm xong nhiệm vụ lắng nghe, sàng lọc và "chưng cất" những ý kiến các anh chị em ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi và Nguyễn Văn Hạnh bay ra Hà Nội, mang theo 2 văn kiện đã được đánh máy sạch sẽ.

Ngay tối hôm đó, tôi đến thăm và làm việc với anh Nguyễn Văn Linh, báo cáo với các anh tình hình chuẩn bị các mặt cho hội nghị Bộ chính trị về văn hóa văn nghệ. Anh Linh tỏ ra rất vui khi nghe tôi báo cáo về các cuộc hội thảo trong Nam, ngoài Bắc, đóng góp nhiệt tình của anh chị em văn nghệ sĩ. Không kể những buổi trao đổi nhỏ của từng ngành, từng bộ phận, tính ra có đến hàng chục cuộc hội thảo chính thức, có hình thức tổ chức khá quy mô. Hơn 200 nhà hoạt động văn hóa và văn nghệ tiêu biểu, trong đó có nhiều giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhiều đồng chí làm công tác quản lý chủ chốt trong các ngành, nhiều người làm công tác nghiên cứu lý luận, phê bình giảng dạy có uy tín và nhiều kinh nghiệm, đã hào hứng tham dự và phát biểu trong các cuộc hội thảo...

Một số người không có điều kiện tham dự hội thảo đã viết ý kiến gửi đến Ban Văn Hóa Văn Nghệ, hoặc gặp các đồng chí có trách nhiệm để phát biểu: Thấm nhuần tinh thần Nghị quyết Đại hội VI, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, anh chị em đã mạnh dạn thẳng thắn phát biểu những suy nghĩ rất trung thực, xây dựng và tâm huyết - Các chuyên viên của Ban Văn hóa Văn nghệ đã tập trung sức lực làm việc ngày đêm chuẩn bị cho bản dự thảo Nghị quyết. Sau khi có dự thảo nghị quyết Ban lại tổ chức trình bày trong một số đồng chí có trách nhiệm quản lý, một số nhà văn hóa và văn nghệ để các đồng chí đóng góp cho bản dự thảo. Sau đó lại thảo luận, rà soát, sửa sang.

Anh Linh tỏ ý hài lòng về phong cách làm việc đó của Ban Văn hóa Văn nghệ, rồi cuối cùng anh nói một câu làm tôi hết sức vui mừng:

- Anh về nghiên cứu tổ chức cho tôi một cuộc gặp mặt các tầng lớp văn nghệ sĩ, để tôi có điều kiện trực tiếp nghe tiếng nói của anh em. Sau đó ta sẽ bàn các bước tiếp theo. Anh thấy có nên không?

Được lời như cởi tấm lòng, tôi nói với anh Linh. - Được như thế thì tốt quá anh ạ! Đây cũng là mong muốn của nhiều người. Có đồng chí sau khi phát biểu ở các cuộc hội thảo xong đều có vẻ băn khoăn là không hiểu những suy nghĩ của mình có đến được tai lãnh đạo không? Có đến được tai Tổng bí thư không?

Anh Linh nói:

- Thế thì Ban Văn hóa Văn nghệ khẩn trương về làm kế hoạch đi, còn bên này tôi sẽ báo cho Ban Bí thư và Văn phòng chuẩn bị.

Tin vui đồng chí Tổng Bí thư sẽ trực tiếp gặp mặt đối thoại với các Văn nghệ sĩ như một luồng gió mát thổi từ Nam chí Bắc làm phong trào văn hóa văn nghệ sau đại hội VI đang sôi nổi, càng thêm háo hức, có thể dùng một câu ví văn hoa là như diều gặp gió. Kể từ đây Trung tâm của phong trào lại hướng về cuộc gặp mặt này. Tuy chưa diễn ra như tôi dự đoán, cuộc gặp sẽ là một sự kiện lịch sử Một là từ trước tới nay chưa từng bao giờ có một cuộc gặp như thế. Hai là cuộc gặp có mục đích là trực tiếp chuẩn bị nghị quyết 05, cũng sẽ là nghị quyết lịch sử chưa từng bao giờ có. Một nghị quyết chuyên đề về văn hóa văn nghệ của Bộ chính trị.

Lại thêm một niềm vui nữa đến với tôi. Thực ra, ý định tổ chức một cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư và các văn nghệ sĩ chúng tôi cũng đã có ý nghĩ đến nhiều anh em và văn nghệ sĩ đã kêu gọi bảo tôi tận dụng lợi thế quen biết anh Linh rỉ rả với anh về cuộc gặp. Nhưng tôi phân vân là liệu có được chấp thuận không? Tính tôi luôn luôn biết tự kìm chế, lượng sức mình không muốn làm cái gì thái quá nhất là đối với cấp trên. Nhưng trước sự thôi thúc của nhiều người, tôi và anh Hạnh bàn nhau cứ mạnh dạn đề xuất xem sao. Và một trong những mục đích là làm việc với anh Linh lần này có mục đích đó. Nhưng may sao tôi đang định chọn thời cơ, lựa lời đặt vấn đề, thì chính anh Linh lại nói trước. Tôi cho đây là một sự kỳ diệu. Một sự gặp gỡ giữa lãnh đạo và quần chúng, giữa cấp trên và cấp dưới. Và tôi nghĩ, nếu như trong xã hội ta, trong Đảng ta, luôn luôn là sự gặp nhau như thế này thì mọi điều sẽ tốt đẹp biết bao.

Tôi bỗng nghĩ đến cơ quan của Đảng hai đầu đứng hai rào chắn, thường xuyên có lính gác. Ai muốn vào cổng lại phải qua một lần gác nữa. Nó thâm nghiêm quá. Còn đâu là ý nghĩ của những câu nói cửa miệng, trong các bài diễn văn, trong sách giáo khoa: Đảng sinh ra từ nhân dân - Đảng luôn gắn bó máu thịt với dân. Đảng sống trong lòng nhân dân... Tôi cũng nghĩ đến trụ sở các Huyện ủy, Tỉnh ủy, Thành ủy... đâu dâu cũng như những ốc đảo giữa đời thường, rất xa lạ với quần chúng nhân dân, người mẹ vĩ đại mà chính nhờ nó mà Đảng sinh ra, Đảng tồn tại...

Chính vì vậy mà khi lên làm Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ, sau việc thay đổi cơ chế làm việc thì điều đầu tiên tôi nghĩ đến là đưa trụ sở Ban khỏi khu "Trung Nam Hải" Nguyễn Cảnh Chân. Từ đó có thể nói, ngôi nhà xinh xắn 49 Phan Đình Phùng trở thành một địa chỉ thân thiết của các văn nghệ sĩ. Và từ ngôi nhà này nghị quyết lịch sử 05 của Bộ Chính trị khóa 6 đã ra đời.

Đêm đó, ở chỗ anh Nguyễn Văn Linh ra về, tôi đến thẳng nhà Nguyễn Văn Hạnh báo tin vui. Bởi vì một tin vui như thế này không thể không có người chia sẻ và người đó không ai khác phải là Nguyễn Văn Hạnh. Niềm vui của Nguyễn Văn Hạnh chẳng kém gì tôi. Bởi đây chính là điều mà hai chúng tôi đã từng bàn với nhau trong lớp nghiên cứu ở Liên xô năm 1981 mà trên kia tôi đã có nói. Dạo đó những bài giảng của các giáo sư Liên xô về văn hóa văn nghệ đối với chúng tôi thực sự là mới mẻ và hấp dẫn. Nó hấp dẫn vì sự mới mẻ nhưng điều chủ yếu là sự hấp dẫn về nội dung của nó, những điều mà khi ở trong nước chính tôi cũng đã lơ mơ cảm thấy, nhưng chưa đủ trình độ, cả về lý luận và thực tiễn, để phân rõ đúng sai chỗ nào. Thì đây, ở một đất nước đã gần 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, có một nền văn học vĩ đại có những tác giả nổi tiếng như Phéđêép, Pas-ter-nác, Erenbua, Sôlôkhốp, Akhimatwa, Ximônốp... có những tác phẩm từng làm say sưa chúng tôi một thời như "Thép đã tôi thế đấy", "Sông Đông êm đềm", "Đất vỡ hoang", "Những người Xô-viết chúng tôi", "Đợi anh về".

Chúng tôi không ngờ một đất nước như vậy một nền văn học như vậy lại có những vấn đề gai góc nảy sinh như trong các bài giảng do các giáo sư tài năng của Viện hàn lâm khoa học Liên xô trình bày. Nhưng khi ngồi lại với nhau để ôn tập các bài học, liên hệ với tình hình văn học ở đất nước, thì tất cả bỗng giật mình, là cũng đều có những hiện tượng như thế. Chỉ có điều là chưa nhìn ra được hay nói một cách khác, chưa ai trang bị cho mình có đủ trình độ, nhận thức để nhìn nhận ra vấn đề. Lần đầu tiên chúng tôi nghe chính thức trên giảng đường, các giáo sư Liên xô nêu ra những khuyết điểm trong lãnh đạo Vãn hóa Văn nghệ của Đảng Cộng sản Liên xô phê phán các quan điểm sai lầm của Jêđanốp, một trong những lãnh tụ của Liên xô hồi bấy giờ. Ai đời, đường đường là một nhà lãnh đạo lại nói công khai trước mọi người về một nhà thơ lớn như Akhơmatôva "vừa là một tu sĩ, vừa một con đĩ. Rồi cái chết của Fađêép, sự dối trá của Erenbua, với Ximônốp... Khiến cho bà Lê Minh ngồi ở dưới cứ khóc rưng rức. Lê Minh tâm sự, lúc đó bà nghĩ đến bố mình, Nguyễn Công Hoan, một nhà văn lớn Việt Nam, cũng từng bị đối xử chẳng ra gì. Rồi Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Văn Cao, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo... Những nhà văn hóa lớn của Việt Nam cũng cùng chung số phận như thế...

Chúng tôi nhớ nhất một nhà văn già, lúc đó cũng gần 70 tuổi, giảng rất nhiều bài, bài nào cũng hay, tâm sự với chúng tôi: "Các đồng chí là những người cộng sản; chúng tôi cũng là những người cộng sản, các đồng chí cất công sang dây nghiên cứu, chúng tôi sẽ không giấu giếm các đồng chí một điều gì về những khuyết điểm mà Đảng chúng tôi đã mắc phải; những kinh nghiệm mà chúng tôi trải qua, những thành công và những thất bại, chủ yếu là những thất bại do những sai lầm trong lãnh đạo gây ra, để các đồng chí đừng mắc lại những sai lầm như của chúng tôi, Nghe đến đây, Nguyên Ngọc ghé vào tai tôi nói nhỏ "Chúng tôi cũng đã mắc rồi, có thể là nặng hơn..."

Sớm thấy rõ giá trị của những bài giảng, tôi bàn với Nguyễn Văn Hạnh, Bí thư chi bộ lớp học, phải tổ chức phân công nhau ghi chép thật đầy đủ để có tài liệu về truyền đạt lại cho các đồng chí ở nhà. Những bài giảng về đặc trưng của Văn nghệ, trong đó nêu rõ một quan điểm rất hay về tài năng mà tôi còn tâm đắc mãi cho đến hôm nay. "Tài năng là của hiếm, tài năng là của chung mọi người. Vì là của hiếm, nên phải trân trọng nó. Vì là của chung của mọi người, chứ không phải của riêng ai nên phải quan tâm giải quyết cho tốt mối quan hệ giữa tài năng với nhân dân". Hoặc, quan điểm về đánh giá một tác phẩm, nghệ thuật không thể tùy tiện do một cá nhân nào, dù cá nhân đó là người có quyền cao nhất. Chỉ có hai yếu tố quyết định hàng đầu để đánh giá một tác phẩm đó là công chúng và thời gian.

Quả thật, lớp nghiên cứu này đã đem lại cho chúng tôi rất nhiều điều bổ ích và hứng thú. Bởi vì có những vấn đề nó đúng với mình quá. Đã diễn ra, đang diễn ra, và sẽ tiếp tục diễn ra những sai lầm thô thiển nếu không kịp thời có biện pháp ngăn chặn. Tuy nhiên không phải toàn lớp đều đồng nhất trong nhận thức. Tôi thấy Nguyên Ngọc thu hoạch rất nghiêm túc vì chính sự kiện "Đề dẫn" năm 1979 là một ví dụ sâu sắc về sự áp đặt một cách thô bạo đối với văn nghệ. Vì vậy, trong phát biểu ở tổ Nguyên Ngọc rất gay gắt, phê phán rất mạnh, và mong muốn khi trở về, phải làm sao có sự thay đổi trong lãnh đạo. Trong lúc đó có người lại có vẻ khó chịu, nói riêng với tôi là Nguyên Ngọc lệch lạc, phiến diện, thiếu khách quan, không nhìn thấy toàn cục... Riêng anh Phong Châu thì rất nhiều lần đến gặp tôi tha thiết đề nghị khi về nước phải làm sao những nhận thức thu hoạch được phải biến thành nhận thức của cơ quan lãnh đạo của các đồng chí lãnh đạo thì mới phát huy được tác dụng. Phong Châu còn nói "nếu có một nghị quyết của Bộ Chính trị chứa đựng được những quan điểm về văn hóa văn nghệ như chúng ta thu hoạch được ở đây thì quý vô cùng".

Tôi trao đổi với Nguyễn Văn Hạnh và Nguyễn Văn Hạnh hoàn toàn ủng hộ ý kiến Phong Châu.

Như vậy là ý định có một nghị quyết chuyên đề về công tác Văn hóa Văn nghệ và những quan điểm cơ bản về nghị quyết đó đã được manh nha từ lớp nghiên cứu của đoàn cán bộ của Đảng ta tại Liên xô năm 1981. Thế nhưng, như trên tôi đã nói, năm 1982, tôi bị mất chức Trưởng Ban nên chưa thực hiện được. Rồi cho đến hôm nay thì tất cả những nung nấu, hy vọng của số anh em dạo đó, đặc biệt là Nguyên Ngọc, Phong Châu đang trở thành hiện thực, sắp trở thành hiện thực, nhờ có không khí Đại hội VI của Đảng, nhờ có Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.

Chỉ mấy hôm sau, các đồng chí bên văn phòng sang chỗ chúng tôi làm việc tổ chức cuộc gặp mặt giữa Tổng Bí thư và các văn nghệ sĩ. Như thế đấy, vai trò của chức quyền quan trọng biếy chừng nào. Cũng vấn đề này thôi, nếu cứ theo thông lệ đề đạt từ dưới lên thì có khi hàng năm chưa chắc thực hiện được.

Nhưng điều quan trọng nhất là Tổng Bí thư đã nghe rõ được, đã cảm nhận được tiếng dội từ quần chúng, thấy rõ được tình hình bức xúc không thể chậm trễ. Tôi chắc là anh Linh đã đọc xong bản báo cáo nội bộ, tức là tờ trình, chuẩn bị cho nghị quyết Bộ Chính trị do anh Hạnh soạn thảo, và qua đó, anh thấy rõ tấm lòng tha thiết của anh chị em văn nghệ sĩ thế nào đối với nền văn học nước nhà... Các anh bên Ban Bí thư và Văn phòng đặt vấn đề là cuộc gặp chỉ nên gọn vài chục người. Tôi nói ngay là không được. Nếu như thế thì vẫn chỉ là gặp mặt mấy quan chức quen thuộc. Lúc bấy giờ có 7 hội. Mỗi hội ít ra là 2 người, một tổng thư ký, một phó tổng thư ký, vị chi là 14 người rồi. ở Bộ văn hóa, lãnh đạo Bộ 5, 6 người, các Cục Vụ nữa, ít nhất là trên dưới hai chục rồi, rồi các Bộ, Ban văn hóa Văn nghệ. Tôi nói: Tổng bí thư cần gặp nhất là những người đang trực tiếp lao động, sáng tạo, để nghe tâm tư, nguyện vọng của họ, những khó khăn và những đề nghị, đặc biệt là những người đang viết khỏe như Dương Thu Hương, Lưu Quang Vũ... lại đang có những tác phẩm làm sôi nổi trong dư luận...

Sau khi thống nhất với văn phòng như thế, rà soát lại các thành phần, đã có con số hợp lý khoảng 100. Đặc biệt tôi còn mở rộng thành phần ra một số nhà khoa học, nhà văn hóa như Phan Đình Diệu, Nguyễn Khắc Viện, Hồ Ngọc Đại... Nhưng chủ yếu vẫn là ưu tiên cho lực lượng đang hoạt động sáng tạo. Do đó, sau cuộc gặp xảy ra vấn đề tế nhị là các vị lão thành đến 49 Phan Đình Phùng kêu Ban Văn hóa Văn nghệ là tại sao lại không mời họ. Thậm chí Lưu Trọng Lư còn hét toáng lên: "Thành phần cuộc họp vừa rồi là không đáng. Phải tổ chức cuộc gặp khác nữa". Kể ra cũng hay hay thú vị.

Con đường dẫn đến nghị quyết 05, nếu có thời gian có thể viết thành cuốn sách dày vài trăm trang, nếu kể cả phần hậu nghị quyết 05 thì có thể lên đến hàng nghìn trang, mà có lẽ phần "Hậu nghị quyết 05" còn dài hơn nhiều. Dưới đây tôi chỉ chọn lọc những sự kiện điển hình nhất để thêm vào phần "Hậu nghị quyết 05" bằng chương V có tên là "Từ Đại hội nhà văn lần thứ 4 đến vụ án Cửa Việt

Xin trở lại cuộc gặp mặt lịch sử đối thoại hiếm có giữa Tổng bí thư với gần 100 văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa, trong suốt 2 ngày liền 6 và 7 tháng 10 năm 1987.

Mặc dầu vì điều kiện xa xôi, các anh chị ở miền Nam không ra dự được nhiều song trong một chừng mực nhất định, có thể nói là quây quần trong cuộc trò chuyện thân mật mà nghiêm trang với người lãnh đạo cao nhất của Đảng hôm nay, là một phần tinh hoa giới trí thức văn hóa nghệ thuật của đất nước. Các nhà văn có Nguyễn Khải, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Kiên, Nguyễn Đình Thi, Tế Hanh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Bằng Việt, Chính Hữu và Chu Văn, Dương Thu Hương... các nhà hoạt động sân khấu có Dương Ngọc Đức, Tất Đạt, Lưu Quang Vũ, Tào Mạt, Phạm Thị Thành, Hồ Ngọc, Thanh Hương, Nguyễn Đình Thi..., các nhà hoạt động âm nhạc có Huy Du, Phạm Tuyên, ái Vân, Xuân Thanh, Hoàng Văn, Đàm Linh, Trung Kiên, Vũ Tự Lân... Các nghệ sĩ tạo hình Nguyễn Tư Nghiêm, Phan Kế An, Đặng Thị Khuê, Dương Viên, Nguyễn Quân, Nguyễn Thụ, Thái Bá Vân, Phạm Viết Hồng Lam... Các kiến trúc sư có Tạ Mỹ Duật và Trọng Chi, Hoàng Nghĩa Sang, Ngô Hoàng Thúc... Các nhà hoạt động điện ảnh Trần Đắc, Hải Ninh, Trần Văn Thủy, Bùi Đình Hạc, Đoàn Lê và Lý Thái Bảo, Như Quỳnh và Đặng Nhật Minh... Các nhà nhiếp ảnh có Hoàng Tư Trai, Hoàng Kim Đáng, Đinh Ngọc Thông... Ngoài ra còn có các nhà hoạt động văn hóa nổi tiếng Nguyễn Khấc Viện, Phan Huy Lê, Nguyễn Hồng Phong, Vũ Khiêu, Nông Quốc Chấn, Phan Hữu Dật, Phan Đình Diệu... những tên tuổi gắn liền với những công trình sáng tạo văn hóa, nghệ thuật và khoa học đã đành. Những tên tuổi ấy cũng gắn liền với những tìm tòi, trăn trở trong nhiều năm qua về những vấn đề lớn, nóng bỏng của đất nước, của xã hội, của thời đại. Vâng, không phải chỉ của nghệ thuật. Bởi suy cho cùng, những trăn trở sâu xa nhất về nghệ thuật bao giờ cũng bắt nguồn từ những suy tư về xã hội, về dân tộc và thời đại. Và cuối cùng, cũng lại để hướng về đó. Chính vì thế mà cuộc đối thoại hôm nay giữa đồng chí Tổng bí thư của Đảng và các văn nghệ của Đảng về những vấn đề cấp thiết của văn hóa nghệ thuật, lại mang đậm những biến đổi rộng lớn đang diễn ra trong xã hội, những biến đổi mà sự khởi đầu được đánh dấu bằng Đại hội lần thử 27 Đảng cộng sản Liên xô và Đại hội lần VI Đảng cộng sản Việt Nam. Cuộc đối thoại hôm nay là nằm trong và là một bộ phận của tiến trình rộng lớn đó.

Có một con số có lẽ cũng rất đáng chú ý: Hai ngày làm việc, tổng cộng khoảng 15 tiếng đồng hồ, thì sau vài lời giới thiệu của Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh chỉ nói mấy lời mở đầu trong chừng 5 phút và trước khi kết thúc cuộc họp, đồng chí phát biểu đúng 50 phút. Còn thì, suốt hai ngày, đồng chí Tổng bí thư chăm chú lắng nghe ý kiến của anh chị em.

Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh hồi tưởng và nhận xét: Những lần trước đây gặp các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, thường các đồng chí ấy nói từ đầu đến cuối, hoặc gần như thế, còn chúng tôi thì nghe, rồi về. Lần này, ngược lại... chỉ riêng điều này thôi cũng đã là dấu hiệu của một sự đổi mới rồi... Lời mở đầu của đồng chí Tổng bí thư là một câu hỏi nhìn ngay thẳng vào sự thật. Đồng chí nói:

- Tôi có một băn khoăn: Hình như từ sau ngày giải phóng đất nước đến nay, có những thành tựu văn học nghệ thuật của chúng ta nghèo hơn trước, không biết có đúng thế không? Nếu không đúng như thế, thì tôi mừng. Còn nếu đúng như thế thì tại sao? Hay do lãnh đạo có sự kiểm duyệt, sự hạn chế gì? Nếu có tình hình ấy, tôi đề nghị đó là một chủ đề để chúng ta trao đổi. Tôi mong được nghe ý kiến của các đồng chí...

Nhà thơ Huy Cận nói về sự trưởng thành đội ngũ về những cản trở do sự thiếu hiểu biết của các cấp ủy địa phương đối với văn học nghệ thuật, về chức năng của nghệ thuật mà theo anh là "đưa con người trở về với cộng đồng", về vấn đề những vốn văn hóa nghệ thuật dân tộc bị mất mát v.v... Có lẽ vì anh đề cập cùng một lúc đến nhiều vấn đề quá, nên khó có vấn đề nào nói được thẳng và sâu. Nhà thơ Tế Hanh nói đôi ý nghĩ về con đường thơ ba mươi năm của ta...

Cuộc thảo luận sôi nổi hẳn lên với tham luận của nhà lý luận Hồ Ngọc khi anh trả lời thẳng câu hỏi của đồng chí Tổng bí thư, anh nói: "Vâng, văn nghệ ta Nghèo, vừa nghèo, vừa lạc hậu như đất nước ta hiện nay vậy". Đi tìm nguyên nhân cho tình hình đó, anh đề cập thẳng đến một vấn đề nóng bỏng và thật là rất "khó", khó bởi vì lâu nay ta vẫn thường né tránh nó như một thứ "húy kỵ", mặc dù dường như người làm văn nghệ nào cũng thấy có cấn cái, có chuyện không ổn ở đây: vấn đề mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, Hồ Ngọc cho rằng "vấn đề này ở ta chưa bao giờ được đề cập một cách công khai và được giải quyết một cách đầy đủ, đến nơi đến chốn... do đó, trong thực tiễn của đời sống văn học nghệ thuật đã đẻ ra biết bao nhiêu chuyện rắc rối, thậm chí đau lòng..." Anh nêu luận điểm: "Văn nghệ và chính trị là hai hình thái ý thức nằm chung trong một thượng tầng kiến trúc...", có mối "quan hệ biện chứng" với nhau, "rất phức tạp" là "mối quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất". Vậy mà, theo anh, chúng ta đã "đồng nhất", thậm chí đồng hóa văn nghệ với chính trị, coi văn nghệ là công cụ cửa chính trị, phục vụ chính trị một cách thô thiển, đơn giản, biến văn nghệ thành vũ khí tuyên truyền... "Anh cho rằng mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị cho đến nay "vẫn vướng mắc, cần được tháo gỡ không chỉ về mặt quan niệm, nhận thức... mà ở các khâu tổ chức: cán bộ Đảng hiện đang làm nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý văn nghệ..."

Những ý kiến của Hồ Ngọc có thể cần được thảo luận về nhiều mặt, nhưng rõ ràng anh đã đưa cuộc nói chuyện hôm nay vào trung tâm của vấn đề. Để đi đến chỗ đạt được điều đó hôm nay, không dễ. Có lúc, ngay hôm nay, khi đang trình bày ý kiến của mình, Hồ Ngọc thấy phải rào đón cẩn thận trước sau để tránh những sự "hiểu lầm" lắm khi cho là cố ý. Thấy rõ sự ngập ngừng của Hồ Ngọc, đồng chí Tổng bí thư nói:

- Còn rào đón thì chưa chuyển biến được đâu!

Nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện không rào đón. Bản tham luận của anh ngắn gọn, súc tích, vì nó đi thẳng ngay vào thực chất của tình hình và chỉ thẳng ngay nguyên nhân của nguồn gốc. Anh cho rằng văn nghệ sĩ là những người "nhạy cảm với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, với những gì mới chớm, họ nuôi dưỡng ước mơ cao hơn những người khác trước những điều tiêu cực, và tất cả những buồn vui hào hứng hay căm giận, tủi nhục của mọi người được họ đúc kết lại, diễn đạt ra những bài thơ, quyển truyện, vở kịch, cuốn phim, hay bức tranh, pho tượng..." Anh nói thẳng: "Trong những năm qua văn học nghệ thuật của ta chưa đóng được đầy đủ vai trò của nó. Vì bị trói buộc. Sự lãnh đạo văn nghệ trong mấy năm qua nhiều lúc còn thô sơ, tỉa cành bắt sâu trong một vườn hoa quý lại dùng dao búa làm rừng khai hoang... Những người làm báo, viết văn, làm phim thường xuyên được nhắc nhở: phải làm như thế này, không được làm như thế kia! Bị trói buộc bởi một loạt húy kỵ... Lâu lâu lại nổ ra một vụ án: bài báo này, quyển sách kia, cuốn phim nọ bị kết án là xét lại, là "chống Đảng", là "có tính kích động"... Mà "thông thường bản án nào cũng có kỳ hạn, mãn hạn tù, còn bản án văn học thì cứ mãi mãi treo lơ lửng trên đầu... một bản án chung thân, có khi còn hại đến cả con cháu...." Từ những nhận định thẳng thắn, nghiêm trang, anh đi đến một số những ý kiến cụ thể về những việc cần làm ngay" trong lĩnh vực lãnh đạo văn nghệ.

Chương 3

Nghị quyết 05

Nguyễn Khắc Viện vừa phát biểu xong đồng chí Tổng bí thư đã đứng dậy bắt tay thân thiết và đón nhận bản tham luận của anh.

Cũng như thế, sau khi Dương Thu Hương phát biểu những ý kiến thẳng có lúc như gay gắt, cũng được đồng chí Tổng bí thư đứng dậy và đón nhận bản tham luận của chị. Nhà văn Anh Đức, nhà viết kịch Tào Mạt không tự đóng khung ý kiến của mình trong những vấn đề "nghề nghiệp" của văn học nghệ thuật. Các anh nói nhiều và sâu về một yêu cầu lớn của nhân dân, của xã hội ta hiện nay, "yêu cầu dân chủ hóa". "Dân chủ là lời hứa của Đảng ta với nhân dân từ những ngày chống ngoại xâm. Đảng phải giữ lời hứa với dân". Cũng phải thấy rằng "chúng ta chưa có truyền thống dân chủ. Yêu nước, phải biết tự hào về những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhưng không cần làm một cuộc tự phê bình của toàn Đảng mà còn phải làm cuộc tự phê bình của toàn dân tộc thì chúng ta mới tiến lên được..." Chính trên cơ sở một nhận thức như vậy, mà các anh suy nghĩ về nhiệm vụ của văn học nghệ thuật hôm nay.

Họa sĩ Phan Kế An nói về những sai lầm hẹp hòi, thiển cận, cứng nhắc, đối với văn học nghệ thuật trong một thời kỳ bị ảnh hưởng nặng nề của những quan điểm "Mao ít" mà theo anh cho đến nay chúng ta vẫn còn chưa thật dũng cảm tự phê bình.

Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đặc biệt nhấn mạnh đến điều anh gọi là "sự bao cấp về tư tưởng" từng phổ biến suốt một thời. Đó là tình trạng "chỉ cần một người suy nghĩ cho mọi người, một cái đầu tối cao suy nghĩ cho mọi cái đầu. Một tình trạng độc đoán về tư tưởng như vậy tất yếu bóp chết mọi sáng tạo, làm khô kiệt văn học nghệ thuật.

Cùng diễn đạt ý đó, từ một góc độ khác nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh nói : "Vấn đề sinh tử của văn nghệ là tự do. Văn nghệ cũng như con chim, trói nó lại thì nó không hót. Hoặc nó hót vớ vẩn? Mà thả ra thì sợ nó bay mất. Lãnh đạo giỏi thì làm sao cho con chim văn nghệ bay bổng và hót vang trên bầu trời tự do của chúng ta..." Anh cũng nói đến một vấn đề sinh tử khác của văn nghệ: vấn đề nhân phẩm của người nghệ sĩ. Theo anh, có thời "lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ. Mà con người bị coi thường, khinh bỉ thì tự nhiên thấy mình như cũng hèn kém, nhỏ lại. Biết tôn trọng con người thì con người lại tự thấy mình cao lớn lên..."

Nhà thơ Bằng Việt tập trung nói một vấn đề lớn, theo anh, trong sự lãnh đạo văn học nghệ thuật: vấn đề chăm sóc rèn luyện để tạo nên những tài năng, những đỉnh cao. Anh nói: "Chúng ta mắc một chủ nghĩa bình quân hết sức nặng trong những năm qua. Chủ nghĩa bình quân vô hình chung khuyến khích cái trung bình, cái dễ dãi nhưng hợp thời, cái sơ lược nhưng mà vừa ý lãnh đạo. Hơi khúc mắc một tý là ta ngại "có vấn đề". Nếu văn học nghệ thuật không khơi dậy những "vấn đề" thì có nó làm gì?..."

Kiến trúc sư Tạ Mỹ Duật nói về ý nghĩa của kiến trúc mà ta thường lầm lẫn đánh đồng với xây dựng. Chúng ta đã "rất cẩu thả về cảnh quan", xây dựng nhiều, tốn kém mà ít hiệu quả và đơn điệu. Anh cũng lên tiếng báo động về tình hình các di tích lịch sử bị phá hoại nghiêm trọng. Đạo diễn Trần Đắc và đạo diễn Hải Ninh nói đến những quan niệm hẹp hòi, thiển cận đang hạn chế những khả năng lớn của ngành điện ảnh chúng ta. Anh Trần Đắc đề nghị "Trung ương lãnh đạo cho văn nghệ đổi mới" để phá vỡ những nề nếp hạn chế cũ, định kiến, cản trở một cách vô lý những tiềm năng của văn nghệ... Đồng chí Tổng bí thư nhắc anh Trần Đắc, mà cũng là nhắc tất cả anh chị em: Trong cuộc đấu tranh còn rất quyết liệt, gian khó hiện nay cho sự đổi mới : "Mình hãy tự cứu lấy mình đi, rồi trời sẽ giúp mình".

Nhà biên kịch Tất Đạt, nữ đạo diễn Phạm Thị Thành, hai nữ nghệ sĩ ái Vân và Xuân Thanh, thông qua thực tế sinh động của ngành sân khấu, mà cũng nói đến những vấn đề chung của văn học nghệ thuật ta hiện nay : Vấn đề tự do sáng tạo bị cản trở thậm chí có khi bị "chà đạp" vì những quan niệm ấu trĩ, thô bạo, sai trái; vấn đề một thứ chế độ kiểm duyệt" vô hình mà không có pháp luật; vấn đề đời sống và điều kiện lao động nghệ thuật của người diễn viên sân khấu bị bỏ bê đến tồi tệ...

Từ góc độ lý luận, nhà sử học Nguyễn Hồng Phong đề cập đến ba vấn đề thuộc số những vấn đề vừa là cơ bản, vừa là cấp thiết của văn học nghệ thuật: vấn đề Đảng lãnh đạo văn nghệ, vấn đề công chúng của văn nghệ; vấn đề giao lưu văn hóa nghệ thuật.

Đảng dứt khoát phải lãnh đạo văn nghệ. Nhưng Đảng là ai? Và lãnh đạo như thế nào?... Đảng lãnh đạo phương hướng, không nên đi quá sâu vào chuyên môn. Chúng ta nói văn nghệ phục vụ đại chúng. Nhưng nếu từ đó mà chủ trương văn nghệ phải lấy tiêu chuẩn là làm cho đa số quần chúng hiểu, đại đa số thích, thì ta chỉ có văn nghệ trung bình. Văn nghệ phục vụ đại chúng, nhưng là đại chúng phải có văn hóa, do đó phải là quần chúng tiên tiến. Có hai cái phục vụ: phục vụ trực tiếp và phục vụ gián tiếp.

Trong lịch sử, có hai cái chất về văn hóa: đóng cửa lùi về cổ sơ, và tha hóa, không giữ được bản sắc của mình. Trong thế giới này, phải có trao đổi với những nền văn hóa khác mình thì mới đổi mới được. Giao lưu văn hóa cũng là nhu cầu sống còn. Trong những khâu quan trọng nhất cần tháo gỡ để "giải phóng tiềm năng sáng tạo" của văn học nghệ thuật, nhà văn Nguyên Ngọc tập trung nói về chức năng, hay là vai trò xã hội của nền văn học nghệ thuật, mà theo anh là vấn đề then chốt hiện nay.

Nhà văn Nguyễn Đình Thi trình bày một số suy nghĩ của anh về vấn đề dân chủ, đặc biệt ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa và ở ta; anh cũng nói về sự đánh giá những thành tựu văn học của chúng ta, mà theo anh là "một nền văn học lớn"...

Tính chung, trong hai ngày có tất cả 26 người phát biểu ý kiến. ý kiến nào cũng tâm huyết, sâu sắc, có giá trị. Ngay hồi đó, tôi cũng đã nghĩ đến việc tập hợp trí cả lại để xuất bản thành một tập sách, đánh dâu một sự kiện lịch sử độc đáo của Đảng ta. Một sự kiện đẹp, vừa mang giá trị khoa học, vừa mang giá trị nhân văn cao cả mà sau này nhất định sẽ được nhắc đến như một "Diên Hồng văn nghệ. Trong lúc việc đó chưa làm được tôi muốn đưa vào tập hồi ký này hai bài phát biểu, một của Nguyên Ngọc, đại diện cho anh chị em phía Bắc, một của Nguyễn Quang Sáng, đại diện cho anh chị em phía Nam.

Nguyên Ngọc phát biểu: Từ sáng hôm qua đến giờ, nhiều đồng chí đã phát biểu rất sâu sắc về những vấn đề quan trọng. Tôi nhất trí với nhiều ý kiến trong số đó. Vì thời gian có hạn, tôi xin không nhắc lại những ý kiến đã nhất trí, chỉ nói thêm về một số vấn đề các đồng chí trước chưa nói, hoặc một số khía cạnh chưa được nói tới trong các vấn đề các đồng chí trước đã nêu ra.

Tôi nghĩ trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, văn học nghệ thuật ta đã làm tròn xuất sắc nhiệm vụ của mình. Cùng với các ngành khác, văn học nghệ thuật đã góp phần xứng đáng tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc, của Đảng để đánh thắng kẻ thù. Từ đó, cùng góp phần quan trọng xây dựng, phát triển và khẳng định những giá trị tinh thần và đạo đức mới tốt đẹp cho con người, cho xã hội. Về phần bản thân mình, văn học nghệ thuật ta cũng đã có một bước trưởng thành lớn về nhiều mặt, trong đó có lẽ đáng chú ý hơn cả là sự trưởng thành về đội ngũ... Những điều này không còn gì phải bàn cãi nhiều. Tuy nhiên, mặt khác cũng cần thấy rõ ràng trong suốt thời kỳ kéo dài hơn 30 năm ấy, văn học nghệ thuật ta đã phát triển trong những điều kiện rất đặc biệt, đó là những điều kiện hết sức khắc nghiệt của chiến tranh cho nên tất yếu nó có những hạn chế không thể tránh khỏi: những hạn chế ấy đã để lại những dấu vết hằn sâu. Ví dụ: "Do điều kiện chiến tranh, trong văn học nghệ thuật ta đã thường quen chỉ nói một chiều. Chỉ nói thắng lợi, không nói thất bại; chỉ nói thành tích không nói thất bại; chỉ nói sự đúng đắn không nói sự sai lầm... Tuy ai cũng biết rằng mỗi thắng lợi trong cuộc chiến đều đã phải trả bằng biết bao nhiêu tổn thất hy sinh, thất bại và cả sai lầm cay đắng... Sau Cách mạng tháng Tám 1945, lật đổ một chế độ xã hội cũ, chúng ta mong muốn bắt tay xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Nhưng lập tức chúng ta phải bước ngay vào chiến tranh chống ngoại xâm, cuộc chiến ấy cực kỳ ác liệt và kéo dài. Điều kiện chiến tranh buộc chúng ta hầu như lúc nào cũng phải giải quyết ngay những việc cấp bách nhất, còn những việc lâu dài, cơ bản thì cứ phải gác lại Trong công tác tư tưởng cũng vậy. Trong văn học nghệ thuật cũng vậy. Ví dụ như, trong giáo dục văn học nghệ thuật, suốt mấy mươi năm chúng ta đã nói rất nhiều, rất đậm về tình đồng chí, quan hệ đồng chí, điều đó là đúng và tốt quá. Song ta lại chưa kịp, chưa có thời gian... và cũng quên không nói về một cái sơ đẳng hơn, nhưng cũng gốc gác hơn của con người là tình bạn... Hoặc chúng ta đã nói quá nhiều, sâu về đất nước, về Tổ quốc, về Đảng, về nhân dân, về kẻ thù... nhưng gần như chúng ta quên hẳn một thời gian rất dài không nói gì với các cháu bé của chúng ta về cha mẹ, về gia đình... Trong việc xây dựng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho con người, chúng ta vừa đạt được những tầm rất cao, lại vừa có sự hụt hẫng ở một số mặt gốc rễ, cơ bản, lâu bền. Có thể nói chừng nào đã có xu hướng "thực dụng" ở đây. Đó là một sự phiến diện không nhỏ.

Điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh cũng dễ dẫn đến khuynh hướng đồng nhất tất cả với chính trị. Cả giáo dục, cả văn học nghệ thuật, thậm chí cả những phạm trù khoa học như sử học, đạo đức học, tâm lý học... đều nhất loạt bị đồng nhất với chính trị. Cuộc chiến tranh giải phóng ác liệt đặt lên hàng đầu sự mất còn của dân tộc lấn át hết mọi quan hệ khác. Trong văn học nghệ thuật điều ấy cũng in dấu rõ: Cái chung của cộng đồng, cái toàn dân tộc là quan trọng nhất; cái riêng hầu như chưa được biết đến, nói đến, chưa có quyền của cái riêng...

Tất cả những điều trên đây là dễ hiểu, có tính lịch sử, là đương nhiên của một "thời kỳ văn học nghệ thuật chiến tranh". Chỉ có điều, khi chuyển sang thời kỳ khác, thời kỳ xây dựng đất nước trong hòa bình, tức là trở lại cuộc sống bình thường, lâu dài, hằng ngày... của một đất nước, một xã hội, nếu chúng ta không kịp nhận ra và kịp thời khắc phục những hạn chế có tính lịch sử trước đây, thì những hạn chế đó sẽ trở thành những nhược điểm, thậm chí những khuyết điểm sai lầm, cản trở sự phát triển của văn học nghệ thuật.

Tiếc thay, vừa qua chúng ta đã phạm đúng điều này trong sự lãnh đạo văn học nghệ thuật. Thật ra, từ gần mười năm trước đây, có người cũng đã thấy và chỉ ra. Nhưng liền bị quy chụp là "phủ nhận thành tựu, là ảnh hưởng đủ thứ quan điểm tư tưởng sai trái này nọ. Và những ý kiến trăn trở ấy bị dập đi...

Theo tôi, chúng ta đã chậm trễ mất khoảng mươi năm. Trong văn học nghệ thuật mươi năm có thể là cả một thế hệ? Thế mới biết, lỗi ở chỗ này không nhỏ. Một nguyên nhân khác, theo tôi, là đẻ ra hệ tư tưởng bao cấp nặng nề thống trị trong suốt thời gian dài, kể cả "bao cấp về tư tưởng". Có những thời kỳ dài, tôi xin nói một cách hình ảnh, cứ hàng quý đến kỳ anh tuyên huấn cấp dưới lại khăn gói lên tuyên huấn cấp trên, anh một ít tư tưởng do cấp trên cấp phát cho, về để tiêu dùng cho mình và cho đơn vị mình trong suốt quý. Hết quý lại đi lĩnh suất khác. Nếu chẳng may đến kỳ rồi mà giao thông trắc trở chưa đi lĩnh được suất tư tưởng mới, thì đành lúng túng ngồi chờ vậy, chẳng thể tự mình nghĩ ra được và dám nghĩ ra cái gì khác. Bởi đã quen: quyền suy nghĩ là quyền của cấp trên?

Tôi e rằng tình trạng này đến nay vẫn cũng chưa hết hẳn đâu!

Trong văn học nghệ thuật, tình trạng này cũng nặng nề. Mãi gần đây, một hôm tôi được chứng kiến một nhà văn có tên tuổi hẳn hoi và đang giữ một cương vị khá quan trọng trong bộ máy lãnh đạo văn học ta, lên chỗ Ban văn hóa văn nghệ Trung ương của đồng chí Trần Độ, nằng nặc đòi: "Trung ương phải chỉ đạo cho chúng tôi nên xây là chính hay chống là chính chứ! Lúc này văn học nên ca ngợi cái tốt là chính, hay đấu tranh chống tiêu cực là chính? Phê bình đấu tranh đến mức nào? Tỷ lệ như thế nào?... Yêu cầu Ban của Đảng phải chỉ đạo cho chúng tôi?..."

Riêng tôi, hôm ấy, tôi nghĩ: nếu tự anh không biết được trước cuộc đời hôm nay anh cần ca ngợi cái gì, đấu tranh chống cái gì, anh yêu ai ghét ai, anh phải yêu như thế nào và ghét như thế nào... thì anh còn là nhà văn cái nỗi gì?" Quả thật thói quen chỉ có thể, chỉ được phép suy nghĩ điều cấp trên đã suy nghĩ; thói quen chỉ được, chỉ dám và chỉ biết suy nghĩ theo phép cấp trên đã thống trị lâu dài trong xã hội ta. Mọi cái "lạ" đều phải kiêng kỵ. Tình trạng đó tất nhiên làm khô cằn mọi sự sáng tạo, trước hết là sáng tạo văn học nghệ thuật.

Anh Huy Cận có nói những quan niệm thô thiển, hẹp hòi, cứng nhắc trong lãnh đạo, theo anh, ở các cấp ủy địa phương đã cản trở nhiều sự sáng tạo văn học nghệ thuật. Tôi nghĩ khác. ở nước ta hiện nay, số lượng văn nghệ sĩ làm việc ở Trung ương đông hơn ở các địa phương nhiều. Nếu sự thô thiển, hẹp hòi, cứng nhắc chỉ có ở các cấp ủy địa phương như anh Huy Cận nói, thì làm sao giải thích tình trạng nghèo nàn hiện nay của văn học nghệ thuật ta, không chỉ nghèo "ở các địa phương"? Phải tìm chỗ khác. Tôi nghĩ rằng trong sự lãnh đạo văn học nghệ thuật, chúng ta có sai ở một số vấn đề quan trọng cơ bản và sai ở ngay trong "hệ chính thống", chứ không phải ở bộ phận, ở cục bộ, ở địa phương. Tôi chỉ xin tập trung nói về một vấn đề theo tôi là nóng bỏng nhất và cũng là vấn đề cơ bản, lâu dài: vấn đề chức năng xã hội, hay là vai trò vị trí xã hội của văn học nghệ thuật.

Nhiều đồng chí đã nói về các vấn đề cơ chế, chế độ, chính sách, về sự đối xử với các văn nghệ sĩ v.v... tôi nghĩ những điều đó đúng, cần nói, cần giải quyết. Nhưng có lẽ dẫu sao những cái đó cũng chỉ là hệ quả tất yếu của những cái quan trọng hơn: ấy là quan niệm về chức năng xã hội và văn học nghệ thuật.

ở ta cho đến nay vẫn thống trị hai quan niệm phổ biến về chức năng xã hội của văn nghệ. Một là văn nghệ minh họa. Chức năng phản ánh của văn nghệ bị hiểu một cách thô thiển. Đại thể là: Đảng và nhân dân sẽ làm nên sự nghiệp anh hùng, văn nghệ hãy ghi chép lại đi, để ca ngợi, để cho mọi người biết, để cho con cháu mai sau hiểu. Hoặc cao hơn một chút nữa, thì: cuộc đấu tranh xã hội diễn ra phức tạp như thế đấy. Đảng, Nhà nước ta đã giải quyết như thế này, thế này... văn nghệ sĩ hãy theo sát, tìm hiểu và ghi chép lại, trình bày những bài học Đảng đã rút ra được ở đó, một cách văn chương, để mọi người dễ tiếp thu, thấm thía... Văn nghệ là đi sau chính trị. Chính trị giải quyết. Văn nghệ phản ánh...

Quan niệm thứ hai là : "Văn nghệ xướng ca" (và đương nhiên dẫn đến: "xướng ca vô loài!"). Đại thể văn nghệ là một thứ trang trí của xã hội. Khi no đủ, vui vẻ, gọi văn nghệ đến giải quyết, mua vui. Còn khi mệt, bận, cáu thì văn nghệ liệu mà tránh xa ra, đừng có quấy rầy!... Vai trò xã hội của văn học nghệ thuật bị hạ thấp. Mọi thái độ đối xử không đúng với nó bắt nguồn từ đó. Anh Nguyễn Đăng Mạnh có nói đến sự "bí mật", sự khó định nghĩa của văn học nghệ thuật. Quả có thế thật. Cho đến nay có lẽ vẫn chưa hoàn toàn giải thích sáng rõ được hết tại sao văn học nghệ thuật lại cần thiết đến thế cho con người, đã có mặt từ khi loài người là loài người, và tồn tại mãi với nhân loại như một điều kiện của chính sự tồn tại của loài người. Và hình như xã hội càng tiến lên, đặc biệt ngày nay khi nền văn minh cơ khí càng phát triển thì nhu cầu nghệ thuật của xã hội, của con người lại càng cấp thiết, bức bách hơn.

Phải chăng, trong rất nhiều lý đo, có một lý do sâu xa này: nghệ thuật là một phương thức tồn tại của con người, giữ cho con người mãi mãi là con người, không sa xuống thành con vật mà cũng không thành những ông thánh vô bổ và vô duyên. Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người. Cái cốt lõi của văn nghệ là tính nhân đạo.

Có một thời chúng ta sợ, coi việc nói đến những điều gọi là những "đề tài vĩnh cửu của văn học nghệ thuật là "tối kiêng kỵ", là "phi giai cấp", là "tư sản", "xét lại"... Song, mặc chúng ta kiêng kỵ và lo sợ, những đề tài như vậy vẫn cứ tồn tại. Có những câu hỏi cứ còn mãi, lặp đi lặp lại mãi, suốt đường dài của lịch sử con người, như những câu hỏi về sống và chết, tốt và xấu, thiện và ác, thật và giả, hạnh phúc và đau khổ... Đó là những câu hỏi quằn quại còn mãi. Chỉ có điều mỗi thời đại, mỗi giai cấp, đến lượt mình phải có câu trả lời riêng của mình cho những câu hỏi đó. Giai cấp vô sản và xã hội chủ nghĩa chúng ta cũng phải trả lời những câu hỏi đó, theo cách của ta. Và con cháu ta mai sau, đến lượt chúng cũng vậy.

Sau năm 1975, có lúc chúng ta đã ngây thơ tưởng rằng đánh giặc xong, chỉ còn nội bộ, nhân dân, đồng chí với nhau, mọi quan hệ sẽ dễ dàng tốt đẹp ngay... Mười năm qua, có lẽ một trong những sự giác ngộ quan trọng nhất của chúng ta là thấm thía hiểu ra rằng xã hội càng tiến lên thì cuộc đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, cái thật và cái giả, cái thiện và cái ác... không giảm, không mất đi, trái lại càng phức tạp, tinh vi, ác liệt hơn. Cái ác dường như cứ càng dữ dội, xảo quyệt... hơn mãi, và không những không biến đi, mà chừng như ngày càng mạnh hơn. Trong cuộc vận động quyết liệt đó, cái thiện vươn lên, thắng lợi một keo. Một bộ phận của cái thiện lại chuyển biến sang phía cái ác Cái ác lại mạnh hơn. Và cuộc đấu tranh lại bắt đầu... Mãi mãi... Ngẫm cho cùng, văn nghệ xưa nay chính là nói về cuộc đấu tranh đó.

Trong cuộc đấu tranh ấy, văn nghệ đặc biệt làm một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng: nhiệm vụ dự báo xã hội. Có thể coi văn học nghệ thuật như là một thứ giác quan đặc biệt, là cái ăng-ten nhạy cảm đặc biệt của xã hội. Có những ngày đang nắng chang chang, vậy mà mở cái radio ra cứ nghe rét rét trên các làn sóng, thì ra gió mùa đông bắc đã ở bên kia biên giới, cơn dông sắp đến. Văn nghệ là cái ăng-ten ấy, Pu-skin gọi thi sĩ là nhà tiên tri. Goóc-ki thì nói đến "chim báo bão". Còn Nguyễn Du của ta thì viết: "Bất tri tam bách dư niên hậu..."

Dự báo nghĩa là nói cái chưa có, mắt thường chưa thấy, tai thường chưa nghe... Người nghệ sĩ lớn là người có con mắt tinh đời, nhìn những thế lực đang hùng hùng hổ hổ thống trị xã hội mà đã sớm đoán ra và tiên báo sự tàn lụi của nó; nghe những mầm non của cái mới còn rất cô đơn, rất mơ hồ mà dám khẳng định nó sẽ làm chủ tương lai... Nhà văn càng lớn thì khả năng dự báo của họ càng xa, càng dài, càng chính xác.

Tôi nghĩ cũng nên nói rõ thêm rằng ngay chính bản thân người nghệ sĩ nhiều khi cũng không tự mình cắt nghĩa rõ được, trình bày rõ được sự "tiên tri" của mình dâu. Nhiều khi đó là một thứ dự cảm. Tâm hồn đặc biệt nhạy cảm của họ rung lên vì những chấn động nào đó mà chính họ cũng chưa hiểu được hết ý nghĩa... Nhà văn nổi tiếng G.G. Mác-két có nói rằng không nên đánh giá quá thấp vai trò của nghệ thuật, nhưng cũng không nên đề cao quá đáng vai trò đó. "Xưa nay nói cho cùng nghệ thuật cũng chưa bao giờ lật đổ được một chế độ chính trị nào". Quả là ở Châu Mỹ La Tinh đau khổ và sôi sục của ông, cho đến nay chưa có chế độ độc tài nào bị văn nghệ lật đổ! Nhưng ông nói văn nghệ lại làm một việc rất quan trọng; nó báo hiệu, nó gây men, nó chuẩn bị tư tưởng cho những biến đổi xã hội rộng lớn, những cuộc cách mạng. Trong ý nghĩ đó, nó đi trước. Tôi nghĩ khi nói chức năng phản ánh của văn nghệ là phải nghĩ như vậy. Phản ánh nhưng là báo trước, chuẩn bị tư tưởng trước, chuẩn bị tư duy mới cho xã hội, chứ không phải đi sau, ghi chép, minh họa. Anh Nguyễn Khắc Viện có lần nói: "Nhiệm vụ của kẻ sĩ trong mọi thời là gây dư luận", có lẽ cũng là trong ý này. Nguyễn Quang Sáng phát biểu ngắn hơn nhưng mỗi câu, mỗi chữ hàm chứa những vấn đề lớn, những vấn đề cốt lõi mà tất cả mọi người trong giới văn hóa nghệ thuật từng trăn trở mấy lâu nay. Cách nói của anh, giọng của anh đầy chất hóm hỉnh nhưng vô cùng thẳng thắn và bộc trực của người Nam Bộ.

" ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi có dịp gặp và làm việc với anh Mười. (Tên gọi thân mật của đồng chí Nguyễn Văn Linh trong thời hoạt động ở chiến trường miền Nam) Cho nên, hôm nay những điều tôi nói, đối với anh Mười không có gì mới (muốn có cái mới đâu có dễ), nhưng vẫn nói lại vì những điều ấy chưa thực hiện được, còn cay cú. Và đối với anh chị em ở đây cũng không có gì là lạ, nhưng vẫn nói để thấy, suy nghĩ của chúng ta giống nhau, chúng ta không cô đơn.

Như nhận xét của đồng chí Tổng bí thư, văn học nghệ thuật của chúng ta mấy năm qua vẫn còn nghèo. Đúng như vậy. Vốn đã nghèo lại càng nghèo, ở chỗ ta có tác phẩm hay mà không thấy (có vàng mà tưởng thau). Cái không hay lại khen bốc lên (thấy thau lại tưởng là vàng). Có anh nói: "Viết không biết, vẽ không vẽ, chỉ có khen với chê cũng không làm đúng". Chưa đánh giá đúng giá trị của những tác phẩm đã có, do đó thấy nghèo hơn. Tôi nghĩ, muốn có tác phẩm hay phải có ba điều kiện: một là tài năng, hai là tiền, ba là tự do. (Tôi nói đùa là phải có ba chữ T).

Những anh chị em đang ngồi ở đây và không có mặt ở đây là những người có tài năng, tài năng cộng với một cuộc sống của hai cuộc chiến tranh. Có một nhà văn nước ngoài tự hào đã có ba năm làm lính trong chiến tranh chống phát xít bảo vệ tổ quốc. Với nhà văn ấy, cái vốn ba năm chiến tranh của anh là ngôi sao của văn học, anh sẽ viết suốt đời. Anh hỏi tôi có bao nhiêu năm tham gia chiến tranh. Tôi đáp: Tôi hơn anh con số không ở sau, nghĩa là có ba mươi năm. Anh cười và bảo tôi có thể viết đến kiếp sau. Chúng ta có một cái vốn lớn và quý không phải người nghệ sĩ nào cũng có, nhưng tại sao chúng ta có ít tác phẩm hay?

Điều thứ hai tôi nói đến tiền là muốn nói đến phương tiện làm việc, muốn nói đến chế độ nhuận bút. Chế độ nhuận bút của ta vừa thấp đến vô lý, vừa bất hợp lý ở chỗ những tác phẩm được viết bằng tâm huyết, có khi viết bằng cả một cuộc đời thì tiền nhuận bút lại quá ít (ít đến nỗi không dám mua sách tặng cho bạn bè) còn cái dễ hơn, làm dễ dãi thì tiền được khá hơn. Tiền nhuận bút thấp kém đã ảnh hưởng đến sức sáng tạo và sức viết. Đó là một nguyên nhân.

Điều thứ ba quan trọng hơn, là tự do cho sáng tác. Khi đặt vấn đề tự do cho sáng tác mà có đồng chí hỏi gặng lại: "Chế độ ta không có tự do à?" thì rất khó trao đổi. Từ hôm qua đến nay, các đồng chí nói rất nhiều đến tự do sáng tác, chứng tỏ là tự do cho sáng tác có bị hạn chế.

Rõ ràng là người viết luôn luôn có một mối lo, nói là sợ thì quá đáng, nói sờ sợ thì đúng hơn. Sợ trên, sợ xung quanh và nỗi sợ ấy ở ngay trong bản thân mình. Trước khi đưa ra, tự mình đã cắt gọn cho trơn tru rồi. Có gì gai góc thì sợ "có vấn đề". Như tôi chẳng hạn, khi tin bộ phim "cánh đồng hoang" bị cấm trong quân đội, lập tức tôi nghĩ ngay lý lịch của mình (lý lịch của tôi không ngon lắm, nhưng không đến nỗi nào). Cái sợ ấy như là sợ ma vậy. Trong số bạn bè của tôi (một số thôi) tôi nghiệm thấy: người nào được cho là ngoan ngoãn, được xuôi chèo mát mái, thuận buồm xuôi gió thường không có cái gì hay, còn người gặp khó khăn, bị "để ý", bị coi như "có vấn đề, thì thường có cái hay.

Tự do cho sáng tạo phải như không khí dễ thở. Ta luôn luôn thở, thở một cách tự nhiên, thở mà không hay biết - Thở mà nghĩ là đang thở, phải thở thì tức là bệnh rồi, như bị hen vậy - Tự do sáng tác phải được thoải mái tự nhiên như thở.

Lúc ở thành phố Hồ Chí Minh, có lần tôi phát biểu với anh Mười, nói về sự quan tâm của cấp ủy đối với anh vực văn học nghệ thuật, tôi có nói: "Đối với văn nghệ, lâu lâu cấp ủy mới liếc qua một cái". Tôi nghĩ là anh Mười giận. Nhưng sau đó, trong một cuộc gặp gỡ với anh chị em văn nghệ sĩ thành phố, anh Mười có nhắc lại và nói: "Lần này thì tôi liếc tình". Và lần này, xa hơn cái "liếc tình" ấy, hôm nay như buổi kết hôn giữa anh với lãnh vực của chúng ta? "

Nhiều hy vọng!

Cuộc gặp gỡ giữa đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, với các văn nghệ sĩ trong hai ngày 6 và 7 tháng mười là một cuộc gặp gỡ lý thú. Có thể nói, đây là một cuộc gặp có tính chất lịch sử. Cuộc gặp được tổ chức theo chính sáng kiến của Tổng bí thư.

Không khí cuộc gặp là đặc biệt chân thành, cởi mở và tâm huyết. Mỗi người phát biểu đều như muốn dốc hết bầu tâm sự với đồng chí Tổng bí thư, với biết bao điều day dứt từ lâu muốn bày tỏ mà chưa biết bày tỏ cùng ai. Thực ra cũng đã có nói nơi khác, nhưng nói chỉ để mà nói chứ có ai nghe đâu, hoặc nghe để mà nghe chứ với cơ chế cũ thì liệu có làm được gì...

Còn trong cuộc gặp này, tiếng nói của họ được đồng chí Tỏng bí thư nghe chăm chú hầu như không bỏ sót một ý nào. Có thể, đây là lần đầu tiên giới văn hóa nghệ thuật cảm thấy tiếng nói của mình được Đảng đánh giá cao và tiếp nhận một cách trân trọng.

Do đó, khi đồng chí Tổng bí thư phát biểu kết thúc cuộc gặp, đã nói lên đầy đủ những điều then chốt và bản chất nhất làm cho anh chị em hết sức xúc động. Theo tôi, bài phát biểu ấy đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị, nên tôi đưa toàn văn vào tập hồi ký này để mọi người nhớ lại một thời của văn nghệ đổi mới.

"Thưa các đồng chí,

Trong hai ngày qua, tôi được may mắn dự cuộc hội thảo này, được nghe nhiều đồng chí phát biểu. Tôi rất hoan nghênh ý kiến của tất cả các đồng chí vì các ý kiến ấy đều thẳng thắn, đa dạng, phong phú và sâu sắc. Có lẽ những điều các đồng chí nói ra đã được ấp ủ từ lâu, rất tâm huyết. Có thể nói, hai ngày vừa qua, các đồng chí đã thổ lộ can tràng.

Nhiều đồng chí đã phát biểu. Nhiều cách nói khác nhau. Nhưng xét cho cùng, nội dung các ý kiến đều giống nhau, thống nhất với nhau về những điểm sau:

Thứ nhất, là về vai trò của văn hóa văn nghệ. Sự lãnh đạo của Đảng trong nhiều năm qua còn xem nhẹ, đánh giá thấp vai trò của công tác văn hóa văn nghệ và vị trí của các văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa trong đời sống xã hội. Đây là vấn đề nhiều đồng chí, bằng cách này hoặc cách khác, đã nói khá tập trung và đã đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể, sinh động.

Thứ hai, là các đồng chí đều nhận xét rằng sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ còn có tình trạng thiếu dân chủ, còn độc đoán, áp đặt.

Thứ ba là cơ chế tổ chức, quản lý và các chế độ, chính sách đối với văn hóa và văn học nghệ thuật còn nhiều điểm chưa đúng, còn nhiều điều bất công... Sự thiếu sót này là một trong những nguyên nhân làm cho dời sống của các đồng chí gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Những người làm công tác văn hóa, văn nghệ cũng là những người sản xuất, lại là những người sản xuất ra sản phẩm cao cấp cho xã hội. Trong thời gian qua, sự đầu tư cho lao động trí óc, lao động sáng tạo không đủ để các đồng chí tái tạo lại sức sản xuất.

Đó là mấy điểm lớn qua phát biểu của các đồng chí.

Có thể nói, các điểm ấy cũng là những nguyên nhân chính làm cho chưa phát huy tốt được khả năng của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức. Có lẽ, cho tôi tạm dùng một từ, tôi có cảm xúc trong hơn mười năm qua (từ khi nước nhà thống nhất, cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội), so với hai cuộc kháng chiến trước đó, thành tựu của văn học nghệ thuật của chúng ta còn nghèo. Trong hai cuộc kháng chiến, các đồng chí đã đóng góp rất nhiều, có công rất nhiều, có tài rất nhiều. Nhưng mười năm qua thì không được như thế. Tôi nói nghèo là vì như vậy.

Qua phát biểu của các đồng chí, tôi thấy rõ thêm nguyên nhân vì sao sang giai đoạn cách mạng này, sự đóng góp của các đồng chí còn ít. Gần đây, có một số tác phẩm tốt được sự hường ứng trong công chúng, nhưng còn ít quá. Đáng lẽ những tác phẩm như vậy phải có nhiều hơn. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là : với tinh thần đổi mới của Đại hội VI, ta phải truy cho ra vì nguyên nhân gì làm cho văn học nghệ thuật của chúng ta nghèo đi.

Trong lĩnh vực kinh tế xã hội, chúng ta không phủ nhận rằng chúng ta đã làm một sự việc tốt. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta mắc rất nhiều cái sai. Đáng lẽ đời sống nhân dân, đời sống người lao động chân chính không đến nỗi khổ như hiện nay nếu không có những sai lầm mắc phải. Như các đồng chí đã biết, Trung ương đang cố gắng sửa chữa các sai lầm. Muốn sửa sai thì phải tìm nguyên nhân. Có giải quyết, sửa chữa các sai lầm mới đổi mới được, đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để: đổi mới tư duy, đổi mới chính sách, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ... Người lãnh đạo mà bảo thủ, sai lầm, không chấp nhận đổi mới thực sự thì không thể lãnh đạo được. Các đồng chí có nói nhiều đến sự "cởi trói". Có như vậy mới phát huy hết khả năng trong lĩnh vực của các đồng chí. "Cởi trói" như thế nào? "Cởi trói" nói ở đây trước hết tôi nghĩ rằng Đảng phải cởi trói. Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách trong các quy chế, chế độ... Nghe các đồng chí phát biểu, tôi cũng không ngờ trong lĩnh vực này cũng có kiểu quản lý hành chính bao cấp, tới đây phải sửa và phải xây dựng những văn bản pháp quy nhằm bảo đảm sự phát triển cho ngành các đồng chí. Đảng và Nhà nước phải bắt tay mau lẹ vào công việc này. Một mặt khác, tôi nghĩ trong lãnh vực của các đồng chí, không thể có ai khác hơn là các đồng chí phải tự làm. Hồi sáng, nhân có ý kiến đồng chí nào đó phát biểu, tôi có nói chen vào "Hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu là trên ý nghĩa như vậy. Chính các đồng chí cũng đòi hỏi rằng trong lĩnh vực của các đồng chí, không được áp đặt mọi công việc như đặt con tàu chạy trên đường rầy, các đồng chí.cần được tự do lo liệu cho các công việc của mình. Nếu như trong lĩnh vực kinh tế hiện nay cần phát huy dân chủ cho người sản xuất thì ở lĩnh vực của các đồng chí, các đồng chí cũng phải làm chủ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #gautruckaka