huy123
Câu 22: Phân tích nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ 1986 đến nay?
Hội nghị Trung ương 4 khoá X (2-2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn
như:
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền
vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ có địa vị bình
đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương
mại toàn cầu, thiết lập một trât tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi
để đấu tranh bảo vệ quyền lợi dianh nghiệp Việt Nam tranh các cuộc tranh chấp
thương mại với các nước khác, hạn chế được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ
động và tichá cực xác định lộ hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng những ưu đãi
mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực
nhưng phải hội nhập từng bước, dần dând mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý.
- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các
nguyên tắc, quy định của WTO: bảo đảm tính đồng bộ của hệ thông spháp luật; đa
dnạg hoá các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình
thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các sắc thuế
công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà
nước: Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính không còn phù hợp; đẩy
mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; thực hiện
công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong
hội nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu
hút đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; các doanh nghiệp
điều chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng dắn chiến lược sản 123
phẩm và thị trường; điều chỉnh quy hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp nâng
cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm.
- Giải quyết tốt các vấn đề văn hoá, xã hội và môi trường trong quá trình hội
nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập; xây
dựng cơ chế kiểm soát và chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ
văn hoá không lành mạnh, gây phương hại đến đến sự phát triển đất nước, văn hoá
và con người Việt Nam; kết hợp hài hoà giữa giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá
truyền thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá tiên tiến trong quá trình giao
lưu với các nền văn hoá bên ngoài.
- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục,
bảo hiểm, y tế; đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo; có các biện pháp cấm, hạn
chế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế
trên lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập: Xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có các phương án
chống lại âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước
và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoai: Tạo cơ chế phối hợp
chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân
dân nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại
song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia
đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi.
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối
với các hoạt động đối ngoại: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách
hành chính.
Câu 8: Phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ và xây dựng miền Bắc (1954-1964
)
Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng sau tháng 7/1954 là phải vạch ra được
đường lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nước, vừa phù
hợp với xu thế chung của thời đại.
Tháng 9/1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và
chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình
hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh
chuyển sang hòa bình; nước nhà tạm chia làm 2 miền; từ nông thôn chuyển vào
thành thị; từ phân tán chuyển đến tập trung.
Hội nghị lần thứ 7 (3/1955) và Hội nghị lần thứ 8 (8/1955) nhận định: Muốn
chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành
độc lập và dân chủ. Điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững
và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Tháng 12/1957, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã xác định đường lối tiến
hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng: “Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn
Đảng, toàn dân ta hiện nay là: củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần từng bước
lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ
sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình”.
Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền
Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết
về cách mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định: “Hiện nay cách mạng Việt
Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm 2 nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm
vụ chiến lược đó tuy có tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau…
nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà,
tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Nhiệm
vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam”. “Con đường phát triển
cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân”
. Đó là con đường “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng
chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ
quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của
nhân dân”
. “tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn có khả năng hòa
bình phát triển, tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần dần thay đổi cục diện
chính trị ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Khả năng đó hiện nay rất ít, song Đảng
ta không gạt bỏ khả năng đó, mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó”.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở
đường cho cách mạng miền Nam đi lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính
là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được
điều chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 – 10/9/1960.
Đại hội đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn mới. Cụ thể là:
- Nhiệm vụ chung: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ
vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng
thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, thiết thực góp
phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á
và thế giới”.
- Nhiệm vụ chiến lược: “cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có 2
nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước”.
- Mục tiêu chiến lược: Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách
mạng ở miền Nam thuộc 2 chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải
quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia
cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước
giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục
tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc”.
- Con đường thống nhất nước nhà: Trong khi tiến hành đồng thời 2 chiến
lược cách mạng, Đảng kiên trì con đường hòa bình thống nhất theo tinh
thần Hiệp định Genéve, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hòa
bình thống nhất Việt Nam. Vì đó là con đường tránh được sự hao tổn
xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
“Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với
mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra
chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta kiên quyết
đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc”.
Câu 6: Phân tích đường lối xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng của Đảng (1945-1946).
Trước tình hình mới, trung ương Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân tích tình thế, dự đoán chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức mạnh mới của dân tộc để vạch ra chủ trương, giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do vừa giành được. Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng là:
Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng Việt Nam là lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là “ Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”, nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập
Về xác định kẻ thù, Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông Dương và chỉ rõ “ kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng” Vì vậy, phải “ lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”, mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt-Miên-lào,…
Về phương hướng, nhiệm vụ, Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện là: “ củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”. Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “ Hoa-Việt thân thiện”.
Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ thị đã xác định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược. Đã chỉ ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam sau cách mạng tháng tám là xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước. Đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Những nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc được đảng tập trung chỉ đạo thực hiện trên thực tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt, sáng tạo, trước hết là trong giai đoạn từ tháng 9/1945 đến cuối năm 1946
Câu 19: Phân tích quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển văn hóa thời kỳ hiện nay?
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quan điểm này chỉ rõ chức năng, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn
hóa đối với sự phát triển xã hội.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
- Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển:
- Văn hóa là một mục tiêu của phát triển:
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” chính là mục tiêu văn hóa.
- Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy
nhân tố con người và xây dựng xã hội mới:
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc:
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước.
Nói chung, bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân
tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh
tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển.
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam:
Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là
sự hòa quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc anh em cùng
sống trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc
riêng của mình, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam có nền văn hóa chung nhất.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự phát triển chung của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng:
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà.
Thực hiện quốc sách này, chúng ta chủ trương:
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế
quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Bồi dưỡng các
giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh sinh viên đặc biệt là lý tưởng
sống, ối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh sáng tạo của con người
Việt Nam.
- Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở
- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.
- Phát triển mạnh mẽ hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô
đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng
kinh tế động lực và cho việc xuất khẩu lao động.
- Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng,
trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân
lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành.
- Bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các
cấp học, bậc học
- Thực hiện xã hội hóa giáo dục. Huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của
xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Tiếp cận chuẩn mực
giáo dục tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt
Nam;
- Phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, tập trung nghiên cứu
cơ bản định hướng ứng dụng, đặc biệt là các lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu
và thế mạnh. Đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế
kết hợp công nghệ
- Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh hội nhập quốc
tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Năm là, văn hóa là một mặt trận ; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên
những giá trị văn hóa mới, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã
hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh.
Câu 18: Phân tích quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hóa thời kỳ trước đổi mới?
Trong những năm 1943 – 1954:
Đầu năm 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Đông
Anh, Phúc Yên) đã thông qua bản Đề cương văn hóa Việt Nam do Trường Chinh
trực tiếp dự thảo. Đây là lần đầu tiên kể từ ngày thành lập, Đảng họp bàn và có chủ
trương kịp thời về văn hóa văn nghệ Việt Nam vào thời điểm chuẩn bị Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền. Đề cương xác định lĩnh vực văn hóa là một trong 3 mặt
trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) của cách mạng Việt Nam và đề ra 3 nguyên tắc của
nền văn hóa mới: dân tộc hóa (chống lại mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa), đại
chúng hóa (chống lại mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại hoặc xa
rời quần chúng), khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa phản tiến
bộ, trái khoa học). Nền văn hóa mới Việt Nam có tính chất dân tộc về hình thức, dân
chủ về nội dung. Có thể coi Đề cương văn hóa Việt Nam là bản tuyên ngôn, là
cương lĩnh của Đảng về văn hóa trước cách mạng tháng Tám mà ảnh hưởng của nó
còn tác động sâu rộng đến mãi sau này.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trình bày 6 nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa:
Một là, cùng với diệt giặc đói là phải diệt giặc dốt.
Hai là, chế độ thực dân đã hủ hóa dân tộc Việt Nam bằng những thói xấu, lười
biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Vì vậy, một nhiệm vụ cấp bách là
phải giáo dục lại nhân dân ta, làm cho dân tộc ta trở thành một dân tộc dũng cảm,
yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng
cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính.
Như vậy, nhiệm vụ đầu tiên về xây dựng văn hóa của nước Việt Nam độc lập
là: chống nạn mù chữ và giáo dục lại tinh thần nhân dân. Đây là 2 nhiệm vụ hết
sức khiêm tốn nhưng lại vĩ đại ở tầm nhìn, độ chính xác và tính thời sự của nó.
Cuộc vận động thực hiện đời sống mới: Đầu năm 1946, Ban Trung ương cuộc
vận động Đời sống mới được thành lập với sự tham gia của nhiều nhân vật có uy tín
như: Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Tấn Gi Trọng, tổng
thư ký là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Tháng 3/1947, Hồ Chí Minh viết tài liệu Đời
sống mới giải thích rất dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong chủ trương văn hóa
quan trọng này gồm 19 câu hỏi và trả lời. Làm được 19 điều này là thiết thực giáo
dục lại tinh thần của nhân dân vào lúc đó và còn có ý nghĩa cho đến tận ngày nay.
Đường lối văn hóa kháng chiến được dần dần hình thành tại chỉ thị của Ban
chấp hành Trung ương Đảng về Kháng chiến kiến quốc (11/1945), trong bức thư về
Nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay
của Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh (16/11/1946) và tại báo cáo Chủ nghĩa
Mác và văn hóa Việt Nam (trình bày trong Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai,
tháng 7/1948). Đường lối đó gồm các nội dung: xác định mối quan hệ giữa văn hóa
và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động văn hóa cứu quốc, xây dựng nền văn hóa
dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng, mà khẩu hiệu
thiết thực lúc đó là Dân tộc, Dân chủ (nghĩa là yêu nước và tiến bộ); tích cực bài trừ
nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ
cách học nhồi sọ; giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới; phát triển
cái hay trong văn hóa dân tộc đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ bại, ngăn ngừa sự xâm
nhập của văn hóa thực dân, phản động. Học cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới,
hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến kiến
quốc 9 năm và cho cách mạng Việt Nam.
Trong những năm 1955 – 1986:
Đường lối xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa được hình thành bắt đầu từ Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) mà điểm
cốt lõi là chủ trương tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa đồng thời với
cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất và cách mạng về khoa học kỹ thuật. Đó là chủ
trương xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, con người mới. Mục tiêu là làm cho
nhân dân thoát nạn mù chữ và thói hư tật xấu do xã hội cũ để lại, có trình độ văn hóa
ngày càng cao, có hiểu biết cần thiết về khoa học, kỹ thuật tiên tiến để xã hội chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa.
Đại hội IV và Đại hội V tiếp tục đường lối phát triển văn hóa của Đại hội III,
xác định nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất
dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân. Nhiệm vụ văn hóa quan trọng của giai đoạn
này là tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước, phát triển mạnh khoa học, văn hóa
nghệ thuật, giáo dục tinh thần làm chủ tập thể, chống tư tưởng tư sản và tàn dư tư
tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, xóa bỏ ảnh hưởng của tư tưởng,
văn hóa thực dân mới ở miền Nam.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com