Chương 40: Mỹ nhân bị vứt bỏ
Ngay từ khi còn nhỏ, Henry đã hiểu rõ có một "bức màn vô hình" bao phủ gia đình mình. Những lần hiếm hoi bố mẹ đưa ông tới thăm họ hàng bên ngoại hoặc bà nội, cả nhà đều bịt kín mặt bằng khăn choàng. Xe ngựa thì dừng ở một con hẻm xa tít rồi họ mới lẳng lặng đi bộ vào.
Cậu bé Henry ngay từ nhỏ đã được dạy không được kể về họ hàng người da đen với bất kì ai, phải làm như mình là người da trắng hoàn toàn. Bài học đó được dạy ngay khi ông mới biết nhận thức thế giới. Ông sớm nhận ra sự căng thẳng trong ánh mắt cha mẹ, nỗi sợ hãi mơ hồ bao trùm cả căn nhà khi ngỡ rằng có ai đó tình cờ nhìn thấy họ chung chạ với những người da đen.
Thế nhưng, sau cánh cửa khép kín, không có sự xấu hổ nào. Bố mẹ ông luôn ôm Henry vào lòng và thủ thỉ:
- Con phải yêu thương ông bà, các cô bác, bởi họ yêu thương con bằng tất cả trái tim. Người ngoài khinh miệt họ nên chúng ta phải che giấu, nhưng con phải nhớ rằng họ vẫn là máu mủ, là gia đình của chúng ta.
Bà nội Sally Hall là một người phụ nữ mang trong mình ba phần tư dòng máu châu Âu, nước da sáng hơn phần lớn nô lệ da đen khác. Dù tuổi già đã phủ lên bà bao nếp nhăn, Henry vẫn có thể hình dung được rằng thời trẻ bà từng là một thiếu nữ đẹp lạ thường.
Ông nội của Henry là một người đàn ông da trắng giàu có, quyền lực, thậm chí sau này lớn lên Henry mới biết ông nội từng là tổng thống. Mối quan hệ giữa ông và bà nội bắt đầu từ khi bà chỉ mới mười bốn, còn ông thì đã ở tuổi ngoài bốn mươi. Henry không biết đó là tình nguyện hay sự ép buộc, nhưng ông nhận thấy trong suốt mấy mươi năm của mối quan hệ ẩn trong bóng tối đó, ông nội chưa từng để bà nội thiếu thốn bất kì một thứ gì, chưa từng để bà bị người nào trong nhà khinh miệt. Ông nội không thể trao cho bà nội danh phận hợp pháp nhưng trong căn nhà đó, bà không phải chịu cảnh làm hạ nhân tầm thường. Với thời buổi ấy, một nô lệ được chủ nhân yêu thương, thậm chí trân trọng, là điều hiếm hoi và may mắn đến mức khó tin. Cho dù bà có tự nguyện hay bị cưỡng ép thì cũng không còn quan trọng nữa.
Họ sinh rất nhiều con cái, tất cả đều lấy họ mẹ - con của nô lệ không được phép mang họ của người cha da trắng nếu không muốn biến thành bê bối lớn - chỉ có một người còn sống tới tuổi trưởng thành, nhưng không có bất kì người con nào phải sống kiếp nô lệ - dù trên danh nghĩa thì họ ở vị trí đó - mà được đối xử ngang hàng với người anh cùng cha khác mẹ da trắng Fred Harrington. Đó là một điều lạ thường vào cái thời đó, bởi con cái của nô lệ và chủ nô thường không được cha chúng coi là con người mà chỉ như một loài súc vật nào đó có thể bán đi để cho đỡ mất mặt.
Năm cha của Henry 21 tuổi, thực hiện lời hứa với bà nội, ông nội đã gửi đứa con trai lai da đen tới miền Bắc, giải phóng nó khỏi kiếp nô lệ, và đó cũng là người duy nhất ông thả tự do trong hàng trăm nô lệ phục vụ ở đồn điền nhà Harrington. Trước khi Benjamin Hall rời đi, ông khuyên con trai hãy tận dụng vẻ ngoài giống hệt người da trắng của mình để hoà nhập vào xã hội, và cha của Henry đã làm đúng như thế, đi học và làm việc trong cộng đồng người da trắng với sự hậu thuẫn tiền bạc của người cha giàu có, cũng như dạy con của mình ẩn thân theo cách đó. Nếu như không sống với thân phận da trắng, Henry sẽ không bao giờ trở thành một luật sư nổi danh ở New York, sở hữu nhà ở quận trung tâm, có kẻ hầu người hạ. Ngài Harrington không bao giờ thừa nhận công khai thầy giáo trung học họ Hall ở Pennsylvania là con đẻ của mình nhưng cho tới tận khi qua đời, trên giường bệnh, ông vẫn dặn con trai Fred hãy lưu tâm tới Sally và gia đình người em cùng cha khác mẹ này.
Henry chỉ gặp ông nội một vài lần trong những chuyến đi thăm gia đình ngắn ngày trong bí mật khi còn nhỏ, nhưng ông vẫn nhớ cái cách ông nội đã ôm mình trong vòng tay và họ cùng nhau đi thăm thú điền trang Harrington. Khi ông nội qua đời, một phần trong khối tài sản khổng lồ được dành cho bà nội và những người con cháu cả đời không thể bước ra ánh sáng. Tuy không nhiều - hầu hết tài sản để lại cho con trai hợp pháp Fred Harrington - nhưng nhờ số tiền đó, gia đình Hall có thể lo cho đứa con duy nhất tới học ở những ngôi trường tư thục đắt đỏ nhất nước Mỹ.
Lớn lên trong một gia đình có gốc gác li kì như thế, Henry sớm nuôi dưỡng tinh thần đấu tranh vì quyền bình đẳng của con người. Giống như cách cha của Henry đã giúp đỡ hàng chục nô lệ đào tẩu tới miền Bắc trong suốt thời kì Nội chiến, ông cũng chiến đấu trên mặt trận pháp lí, với tri thức từ những tấm bằng cấp danh giá mà làn da trắng đã ban cho. Henry hiểu mình tuyệt đối không thể để lộ bí mật này nếu như không muốn mất đi mọi thành công, địa vị, danh tiếng mình khổ công gây dựng, mất đi cả quyền kết hôn với cô gái mà ông yêu thương.
Nhưng giờ thì Winston Whitmore, sói già thủ đoạn của New York, đã biết được bí mật này.
Suốt hai ngày sau đó, Henry Hall như bị nhốt trong một nhà ngục vô hình, nơi bốn bức tường đều khắc chữ BÍ MẬT bằng máu. Ông không ăn được, không ngủ được, những đêm dài trằn trọc mồ hôi lạnh thấm ướt cả gối. Ban ngày, ông vẫn khoác bộ âu phục chỉn chu, đi ra phố bằng dáng vẻ của một luật sư thành đạt, nhưng trong đầu thì cuộn xoáy như một cơn bão. Mỗi lời Winston thốt ra, mỗi nụ cười châm biếm kia, đều như nhát dao cứa đi cứa lại trong trí óc.
Ông hình dung cảnh những kẻ đồng nghiệp hả hê, cảnh tờ báo giật tít lớn: Luật sư danh tiếng Henry Hall mang dòng máu nô lệ da đen. Ông hình dung Clementine nhìn mình bằng ánh mắt ghê sợ. Ông hình dung cả xã hội quay lưng lại, đóng sập cánh cửa mà ông và cha mình đã liều chết để mở ra.
Winston đã cho ông ba ngày. Giờ chỉ còn chưa đầy một buổi chiều nữa là hết hạn. Henry ngồi bất động hàng giờ liền bên bàn làm việc, ngón tay siết chặt cây bút máy tới mức gãy đôi, mực loang lổ khắp trang giấy. Khi kim đồng hồ điểm gần trưa, ông đứng bật dậy. Ánh mắt đờ đẫn, nhưng ông đã có câu trả lời.
Chiều hôm đó, Clementine bận việc tại Hiệp hội Quyền Bầu cử. Henry tự mình vào bếp, làm một chiếc bánh ngọt, mùi bơ và vani thoảng khắp gian nhà như gợi lại chút bình yên mong manh. Ông đặt chiếc bánh vào hộp gỗ, bọc cẩn thận bằng giấy sáp, rồi khoác áo choàng ra ngoài, tới căn nhà thuê của bạn gái. Lính gác thấy ông thì lập tức mở cửa, không hỏi thêm một lời.
Người hầu bưng khay trà tiến vào, khẽ cúi đầu thưa:
- Thưa ngài Hall, tiểu thư đã ra ngoài từ sáng, ngài có muốn quay lại sau không?
Henry ngẩng lên, giọng đều đều nhưng hơi khàn:
- Không, tôi sẽ đợi.
Người hầu gật đầu, đặt khay xuống bàn rồi lặng lẽ lui ra. Căn phòng khách rộng thênh thang chìm trong thứ yên tĩnh khó chịu, chỉ còn lại tiếng đồng hồ treo tường gõ nhịp chậm rãi.
Còn lại một mình, Henry rút trong túi ra một cái khăn bịt nửa mặt lại, mắt nhìn chằm chằm vào chiếc đồng hồ bằng gỗ gụ. Kim giây nhích từng nấc, mỗi tiếng tích... tích... vang lên như dội thẳng vào tim. Dù căn phòng rất mát mẻ, mồ hôi vẫn rịn ra nơi thái dương, lăn chậm xuống gò má.
Đúng ba giờ mười phút chiều, từ phía cổng vọng lại tiếng ồn ào dữ dội. Có tiếng kim loại chát chúa, tiếng quát tháo, rồi tiếng kêu thất thanh. Henry không nhúc nhích, mắt vẫn dán vào đồng hồ như chờ đợi điều đó. Chẳng mấy chốc, cửa chính bật mở. Một nhóm đàn ông lực lưỡng, mặt che kín, cầm súng lục và dao bước vào sau khi vừa hạ xong toán lính gác. Không cần phí lời, một kẻ rút bình thủy tinh trong áo khoác, mở nắp, làn khói trắng đục lập tức lan khắp sảnh. Chỉ vài nhịp thở, những hầu gái ngất xỉu.
Henry đứng dậy, đối diện những kẻ lạ mặt. Thoáng chốc, trong mắt ông ánh lên nỗi xấu hổ pha lẫn quyết liệt.
- Các anh không tấn công bằng vũ khí chứ?
- Không, thưa ngài, chúng tôi chỉ đem theo để uy hiếp thôi.
- Cảm ơn - Ông gật đầu
Từ trong túi áo khoác, Henry lấy ví, đếm và rút ra một xấp dày, đưa về phía người đàn ông đứng giữa:
- Như đã thoả thuận.
Người kia nhận lấy, kiểm tra nhanh rồi gật đầu. Không một câu dư thừa, cả nhóm cúi chào ngắn gọn, quay lưng bỏ đi. Tiếng giày đinh nện trên sàn gỗ lạnh lẽo xa dần sau cánh cửa lớn.
Chỉ còn một mình. Henry thở dài, bước nhanh lên cầu thang. Bàn tay ông siết chặt chai thủy tinh giấu trong túi áo, cùng loại với thứ mà bốn gã kia vừa dùng.
Đến trước cánh cửa phòng, ông ngập ngừng thoáng chốc rồi đẩy vào. Cửa không khóa, có vẻ như cô bé đã bớt phòng bị như khi tới đây lần đầu. Charlotte nằm ngủ say trên giường, gương mặt thanh tú, trong sáng như thiên thần nhỏ. Ánh nắng cuối chiều lọt qua rèm cửa phủ xuống mái tóc mềm mại khiến toàn bộ khung cảnh trở nên yên bình lạ thường. Henry đứng lặng, nhìn xuống gương mặt thiếu nữ, trái tim thắt lại. Một cô gái rất đẹp, xinh hơn cả Clementine, dù là người yêu thì Henry vẫn phải nhận xét công tâm là vậy. Ông hiểu tại sao Winston Whitmore quỵ luỵ vợ của mình. Thế nên ông càng cảm thấy nhục nhã, đau đớn trước điều mình sắp làm.
Henry mở nắp bình. Một làn khói trắng đục tỏa ra. Khi hơi thuốc phả lên mặt Charlotte, cô khẽ nhăn mày, đôi môi mấp máy, rồi lại chìm vào giấc ngủ nặng nề. Henry cúi người bế cô bé lên khỏi giường. Charlotte nhẹ bẫng trong vòng tay ông, hơi thở đều đặn, không hay biết gì. Từng bước, ông ôm lấy phu nhân nhà Whitmore và lặng lẽ đi ra khỏi ngôi nhà phố.
Bên ngoài, cỗ xe ngựa đã chờ sẵn. Henry hít một hơi thật sâu, nhìn quanh một lượt con phố yên ắng không bóng người rồi bước nhanh ra ngoài. Thật may, khu dân cư này gồm toàn là giới nhà giàu nên thích sống yên tĩnh, ít quan tâm tới chuyện hàng xóm.
Khi đã đặt cô bé xuống chiếc ghế bọc da, Henry khom lưng, đưa tay khẽ vuốt mái tóc mềm mại rũ xuống gối Charlotte. Trong ánh sáng lờ mờ lọt vào, ông thấy gương mặt ấy ngây thơ, bình yên đến đau đớn. Một cảm giác không đành lòng trỗi lên trong trái tim nhưng Henry nhanh chóng dập nó xuống. Ông đóng cửa xe và quay lại nhà, bế ra bé gái Cecilia.
—------------------------
Charlotte choàng tỉnh, đôi mắt mở ra trong bóng tối dày đặc. Trước tiên là cái lạnh. Từng luồng gió đêm lùa qua váy áo, rít vào da thịt khiến cô run lên. Cô khẽ cựa mình, cảm giác dưới lưng cứng và sần sùi. Khi ngẩng đầu lên, cô nhận ra mình đang nằm trên một chiếc ghế đá.
Cổ họng nghẹn lại, mùi đất ẩm và lá mục xộc thẳng vào mũi. Cảnh vật xung quanh lờ mờ: hàng cây cao trơ trọi, bóng đèn dầu xa xa lập lòe, vài tiếng côn trùng vang lên khe khẽ. Không còn bức tường thân quen, không còn căn phòng riêng với tấm rèm nhung che cửa sổ.
Cô bé chậm rãi xoay đầu, ánh mắt tìm kiếm trong hoảng loạn mơ hồ: Cecilia đâu? Chẳng thấy con gái đâu cả, cũng không có người hầu hay Clementine, chỉ có công viên rộng thênh thang, vắng lặng đến đáng sợ.
Một cơn choáng váng ập đến. Charlotte nắm chặt hai tay, cố ôm lấy chính mình, móng tay bấu vào da thịt. Tâm trí cô trống rỗng, chỉ vang lên một nhịp nghĩ lặp đi lặp lại: Con đâu? Con gái đâu rồi? Cecilia đâu mất rồi? Sao cô lại ở đây?
Charlotte cố gắng đứng dậy nhưng đôi chân mềm nhũn như không còn là của mình. Mất một lúc lâu mới loạng choạng vịn được vào lưng ghế. Cả người run rẩy như vừa bị dìm xuống nước lạnh. Charlotte vốn không quen bước ra ngoài. Cả cuộc đời cô bé chỉ quanh quẩn trong những ngôi nhà lớn, có người hầu kẻ hạ, đi đâu cũng có người đưa rước. Thế giới ngoài kia luôn là một bức tường mờ mịt, xa lạ. Giờ phút này, đối diện với khoảng tối vô biên, không thấy con gái đâu cả, không thấy những người hầu, cô chỉ thấy nỗi sợ siết chặt ngực.
Nước mắt ứa ra, Charlotte ngồi sụp xuống ghế đá, hai tay ôm đầu, cố ép mình nhớ lại xem chuyện gì đã xảy ra trước đó nhưng không nhớ nổi gì cả. Cô bé đi ngủ như bình thường mà chẳng hiểu sao tỉnh dậy lại lưu lạc ở đây. Chị Clementine bỏ cô đi rồi sao? Trước đây, Charlotte không muốn ở chung nhà với chị, cô không tin tưởng vào ai sau những gì đã trải qua, nhưng thời gian ở chung chị cũng tử tế nên cô bé bớt lòng nghi ngại đi, giờ thì khi đột ngột bị đẩy ra đường tới một nơi xa lạ, cô sợ hãi hơn bao giờ hết.
Cơn nấc nghẹn làm ngực Charlotte đau nhói, tim đập dồn dập như muốn vỡ tung. Một lát sau, khi cơn khóc kiệt quệ dần, gió đêm bất ngờ lùa qua, lạnh buốt đến tận xương. Cô rùng mình, run cầm cập, bỗng nhận ra nếu cứ ngồi đây mãi, cô sẽ chết cóng trước khi ai đó tìm thấy. Cắn chặt môi, Charlotte chậm rãi lau nước mắt bằng mu bàn tay, gượng đứng lên, chân mềm nhũn nhưng vẫn cố nhấc lên từng bước. Phải về nhà chị Clementine... tìm Cecilia. Dù chị có ghét bỏ, dù chị có đuổi đi, thì cũng không thể lấy mất con của cô.
Cổng công viên hiện ra trong bóng tối. Bước chân nặng nề, Charlotte lò dò đi ra, tay lần vào cánh cổng sắt lạnh lẽo. Khi thoát khỏi khoảng đất u ám, cô chợt thấy con đường phía ngoài dài hun hút, im lìm dưới bầu trời không trăng, không phải vùng trung tâm New York, có lẽ là ngoại ô. Đèn dầu thưa thớt hắt ánh sáng vàng đục xuống nền đường ẩm ướt. Không có bóng người, không có tiếng xe ngựa, chỉ có gió thổi rít qua hàng cây. Mỗi ngọn đèn cách nhau cả một khoảng xa hun hút, giữa là những mảng tối đặc sệt. Charlotte cảm giác như chỉ cần bước vào bóng tối kia là sẽ vĩnh viễn biến mất, không ai tìm ra.
Charlotte hoảng sợ tột độ. Cô vốn nhát gan, sợ bóng tối, giờ đây đứng một mình giữa khoảng trống mênh mông, nước mắt lại trào ra. Nhưng không có ai để giúp, không có nơi nào để bấu víu, cô chỉ còn cách cắn răng mà đi.
Run rẩy, khép nép, Charlotte lò dò bước dưới ánh đèn mờ nhạt. Gió đêm mỗi lúc một lạnh, thấm qua lớp vải mỏng, khiến thân hình nhỏ bé co quắp lại. Đi được chưa đầy nửa tiếng, chân đã mỏi rã rời. Charlotte quen sống trong nhung lụa, đi đâu cũng có xe ngựa đưa đón, chưa từng phải đi bộ lâu thế này. Cô dừng lại, dựa vào một bức tường thấp, thở hổn hển, nước mắt lăn dài.
Bất chợt, từ xa vang lên tiếng lộc cộc của vó ngựa. Một cỗ xe chạy ngang qua. Cửa sổ xe mở hé, một người đàn ông thò đầu ra, gọi với giọng lịch sự:
- Cô gái, có cần đi nhờ xe không?
Charlotte giật nảy, run lẩy bẩy. Thay vì đáp lời, cô hoảng loạn lắc đầu, lùi lại. Người đàn ông thấy vậy liền ra hiệu cho xe dừng, định bước xuống giúp đỡ. Nhưng Charlotte bật thét một tiếng nhỏ, khàn đặc, rồi quay người chạy thục mạng, váy quệt vào mặt đường ẩm ướt. Hơi thở gấp gáp, lồng ngực như muốn nổ tung nhưng cô vẫn cố chạy, cứ như thể chỉ cần dừng lại thì sẽ bị nuốt chửng ngay. Tiếng vó ngựa xa dần, im lặng lại bủa vây.
Cô khụy xuống bên lề đường, bàn tay run rẩy ôm lấy ngực. Nước mắt lẫn với mồ hôi, ướt đẫm má. Không được tin ai... không ai thật lòng muốn giúp mình... ý nghĩ ấy xoáy chặt trong đầu Charlotte, biến mọi bóng người thành đe dọa.
- Cecilia... con gái mẹ... - Cô thì thầm như để giữ cho ý nghĩ không vụt tắt.
Bàn chân rã rời, mỗi bước đi như giẫm vào lưỡi dao, nhưng Charlotte vẫn lê mình tiến về phía ánh đèn mờ xa xa. Cứ đi được vài chục bước, cô lại dừng lại, dựa vào tường rào hoặc gốc cây thở hổn hển, hai vai run lên vì vừa lạnh vừa sợ. Khi đến một chỗ rẽ, cô loạng choạng dừng lại. Một con đường nhỏ tối om mở ra, dẫn sâu vào khu phố nghèo. Từ xa có ánh sáng bập bùng, có lẽ là ngọn đèn trước hiên quán rượu hay cửa tiệm nhỏ.
Charlotte khựng lại, bàn chân như bị thôi miên bởi mùi thơm nồng nàn bốc ra từ quán ăn nhỏ. Đó là mùi bánh mì hơi khét, hòa lẫn với mùi hành tỏi xào ngậy mỡ từ một nồi hầm đặt ngay cạnh cửa. Bụng cô bé réo lên từng cơn, đau thắt như muốn lộn ngược ra ngoài. Charlotte run rẩy đưa tay giữ bụng, ngón tay lạnh cứng bấu vào lớp vải mỏng, đôi mắt dõi theo khay bánh mì đặt trước tiệm. Lần đầu tiên trong đời, cô thấy những ổ bánh cục mịch, vỏ nứt toác, không mềm mại trắng muốt như trong bữa ăn ở dinh thự. Màu chúng xám đục, bề mặt lấm lem bột, trông chẳng hề ngon lành. Cạnh đó, người bán hàng tay áo xắn cao, miệng huýt sáo, vừa bẻ bánh nhét vào túi giấy cho khách.
Charlotte bặm môi. Cô chưa từng cúi đầu trước đồ ăn kém sang, nhưng cái đói cồn cào khiến cổ họng cô khô rát. Mùi mỡ và men bánh quẩn quanh làm tim cô đập gấp gáp, chân gần như muốn bước vào. Nhưng rồi, ký ức về những bữa tối trên bàn trải khăn trắng, với dao nĩa bạc sáng bóng, khiến cô nghẹn lại. Đây không phải đồ dành cho mình...
Mà ngay cả nếu dẹp được sự kiêu hãnh thì cô cũng chẳng có gì để trả. Làm gì có xu nào trong chiếc váy này. Với một tiếng thở dài nặng nề, Charlotte xoay lưng, bước đi loạng choạng. Bóng cô bé nhỏ bé, gầy guộc trôi dần ra khỏi quán ăn sáng ánh đèn, để lại phía sau mùi bánh mì vẫn ám lấy tâm trí, càng khiến cái đói thêm cắn xé dữ dội.
Ở khúc rẽ khuất ánh đèn, một chiếc xe ngựa sơn đen lặng lẽ nằm đó, mui xe kéo rèm nặng nề như hoà lẫn vào bóng tối. Bên trong, chỉ có tiếng thở dồn nén và tiếng cựa quậy khe khẽ của một đứa trẻ sơ sinh.
Winston vòng tay chắc nịch ôm lấy Cecilia, mắt không rời bóng dáng chập choạng phía xa. Ánh sáng leo lét từ ngọn đèn đường hắt lên khuôn mặt Charlotte thất thểu đến mức khiến trái tim ông nhói buốt. Ông đã mấy lần đặt tay lên chốt cửa xe, chỉ muốn lao ra, nhưng mỗi lần đều bị bàn tay rắn rỏi của James đè chặt xuống.
- Bố - James hạ giọng, ánh mắt sắc lạnh nhưng bình tĩnh, khóa chặt ánh nhìn của cha - Kiên nhẫn đi. Con biết bố thương em ấy, con cũng vậy, nhưng phải để Charlotte tự nếm trải.
Winston nghiến răng, quai hàm gồng cứng, ngực phập phồng. Ánh mắt ông dõi theo vợ đang loạng choạng rời xa tiệm bánh.
- Em ấy còn chưa từng chịu đói một bữa... - Giọng Winston khàn đặc, rớm sự phẫn nộ lẫn thương xót - Con bảo bố ngồi đây nhìn vợ mình khổ sở thế này sao chịu nổi?
- Chính vì thế. Em ấy phải biết rời khỏi vòng tay chúng ta thì sẽ không sống nổi. Chỉ khi nếm đủ khổ, Charlotte mới hiểu sự bảo bọc này đáng giá đến mức nào. Nếu không, cô bé sẽ luôn tìm cách bỏ trốn.
Lời lẽ lạnh lùng nhưng đôi mắt James cũng ánh lên sự giằng xé. Chẳng phải anh không xót. Anh thấy từng bước run rẩy kia đâm vào tim mình nhưng sự kiên định trong anh vẫn không lay chuyển.
Winston cúi đầu nhìn đứa trẻ sơ sinh trong vòng tay, gương mặt ông vặn vẹo. Một tiếng thở dài bật ra, nặng nề như muốn bóp nghẹt lồng ngực. Ông biết thằng con trai này thủ đoạn và tàn nhẫn đến cùng cực nhưng lý lẽ của nó lại chặt chẽ đến mức ông không thể phản bác.
—----------------------------
Chuyện tình của ông bà nội Henry do mình lấy cảm hứng từ câu chuyện của Thomas Jefferson và Sally Hemings. Ông Jefferson là Tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ, người viết Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, mà Sally là nô lệ của ông ấy. Ông quan hệ (hoặc hiếp dâm) với bà khi bà 14 tuổi, họ có với nhau sáu đứa con. Phòng bà ở ngay sát vạch phòng Jefferson, có địa vị khá cao, mặc dù vẫn phải làm việc nhưng không vất vả và con cái sinh ra chỉ cần phụ việc vặt vớ vẩn linh tinh, còn được học nghề. Ông Jefferson đích thân dạy con chơi đàn.
Khi chúng 21 tuổi, giữ lời hứa với Sally, ông thả cho các con tới miền Bắc làm người tự do và 3/6 người đã thành công "passing" vào cộng đồng người da trắng vì nhìn họ như Tây trắng. Các anh em trai và cháu trai của Sally cũng được Jefferson trả tự do và những người nào còn làm việc cho ông thì được trả lương (có tí quan hệ cái nó khác hẳn). Các bạn gõ tên bà Sally lên mạng là ra.
Jefferson nổi tiếng là vỡ nợ nặng cuối đời, nên ông không có khả năng để lại của cải đáng kể cho con cháu (khác với trong truyện mình viết). Khi ông mất, gia sản còn lại phần lớn phải đem bán để trả nợ, thế nên các con của ông với Sally không được thừa kế đồng nào. Họ đều tự lập nhờ những nghề được học khi còn nhỏ ở điền trang của bố. Hậu duệ của họ vẫn còn sống trên khắp nước Mỹ tới ngày nay.
Hậu duệ dòng chính của Jefferson (qua con gái ông) trong suốt thế kỷ 19–20 thường chối bỏ việc Jefferson có con với Sally. Họ cho rằng đây là "tin đồn của kẻ thù chính trị". Chỉ từ 1998, khi kết quả ADN được công bố, nhiều hậu duệ mới dần chấp nhận và có các cuộc gặp gỡ, hội ngộ giữa hai nhánh gia đình. Con cháu bà Hemings từ lâu vẫn truyền miệng trong gia đình rằng họ là dòng dõi Jefferson. Tuy vậy, hậu duệ nhà Hemings vẫn không được đưa vào chôn cất trong nghĩa trang nhà Jefferson vì sự kì thị dòng không chính thống.
Mình không thể khẳng định đây là một cuộc tình tự nguyện từ phía Sally, điều này ngay cả giới sử gia Mỹ vẫn còn tranh cãi vì nô lệ thời đó không có quyền từ chối chủ nô, nhưng mình tin ông Tổng thống đã thật sự yêu thương Sally Hemings, vì nếu không yêu thương thì không đối xử với bà và con cái bà đặc biệt như thế. Thường thời đó con cái của nô lệ với chủ nô sinh ra là mối nhục và người cha hay bà vợ cả thường tìm cách tống khứ đi. Frederick Douglass đã bị chính bố mình đem bán và ông nói việc có cha da trắng chỉ làm đời ông thêm khốn đốn. Trong truyện, vì đây là ngôn tình, nên nó được làm lãng mạn lên, nhưng trong lịch sử, nó là ấu dâm và nhiều khả năng là hiếp dâm, nên đọc thì đọc chứ đừng tô hồng về tình yêu này. Sally Hemings có thật sự yêu Jefferson không thì không ai biết nhưng chắc chắn là bà không thể tự do rời đi mà vẫn đảm bảo được tương lai cho bản thân và con cái mình. Bà ấy có thể tốt số hơn những nô lệ cùng thời khi được đối xử tử tế nhưng chắc chắn không ai được phép khen ngợi hành động của Jefferson.
Jefferson đã viết trong Tuyên ngôn Độc lập rằng "We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal", nhưng đó là white men. Phụ nữ và người da đen phải đấu tranh hàng trăm năm mà vẫn chưa hoàn toàn đạt được vị thế tương đương.
2. Cha của Henry giúp đỡ các nô lệ đào tẩu, ở đây nghĩa là ông đã tham gia mạng lưới Đường sắt ngầm (Underground Railroad), một mạng lưới bí mật gồm các tuyến đường, nhà an toàn giúp nô lệ miền Nam bỏ trốn tới các bang tự do ở miền Bắc. Những người giúp đỡ là người da đen và da trắng theo chủ nghĩa bãi nô. Họ tổ chức nơi ẩn náu, lộ trình bí mật, cung cấp thức ăn, giấy tờ giả và hướng dẫn để nô lệ có thể vượt biên giới tới các bang tự do, hoặc xa hơn nữa là Canada (nơi luật pháp bảo vệ người da đen mạnh hơn).
Mình muốn các bạn hiểu bối cảnh và các tình tiết lịch sử chứ không chỉ đọc ngôn tình đơn thuần, tại mình thích thế ))) và mình nghĩ rằng các bạn nên biết về một thời cực kì tàn nhẫn của nước Mỹ để hiểu tại sao phân biệt chủng tộc ngày nay lại nhạy cảm như vậy và không nên lấy ra làm trò đùa, cho dù đùa theo kiểu nào đi nữa.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com