Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

kinh hung nhayttfsd

Trên thị trường thế giới, Trung Quốc đang cạnh tranh mạnh trong nhóm A và các sản phẩm lắp ráp trong nhóm D. Thái Lan và các nước ASEAN đi trước (ASEAN-4) có lợi thế trong nhóm B và các sản phẩm lắp ráp trong nhóm D. Cả Trung Quốc và ASEAN-4 đang tiến lên khá cao ở thượng nguồn của chuỗi giá trị trong các ngành thuộc nhóm D. Nhật Bản và NIEs còn duy trì lợi thế so sánh trong nhóm E nhưng tăng cường mạng lưới sản xuất khắp cả vùng Đông Á, do đó Trung Quốc và các nước ASEAN cũng tham gia ngày càng sâu vào các ngành trong nhóm E. Nói chung các nhóm D và E gồm những ngành liên quan đến các loại máy móc, và như đã phân tích ở Chương 2, đang ngày càng đóng vai trò chủ đạo trong sự phân công ở khu vực Đông Á.

Nhóm A và nhóm B là những ngành Việt Nam đang có lợi thế so sánh. Nhưng trong hai ngành chủ lực là may mặc và giày dép, hiện nay Việt Nam mới tập trung trong công đoạn gia công (trong giai đoạn D của Biểu đồ 2.2 ở Chương 2) và chủ yếu dựa vào lao động giản đơn. Các giai đoạn cao hơn trong chuỗi giá trị hoàn toàn phụ thuộc nước ngoài. Việt Nam cần nỗ lực nội địa hoá các công đoạn có giá trị tính thêm cao. Nhưng dù sao các ngành này vẫn là nhóm thuộc các ngành Việt Nam có lợi thế so sánh tĩnh, nghĩa là những ngành đã và hiện đang có sức cạnh tranh.

Vấn đề quan trọng hơn là Việt Nam phải xác định được những lĩnh vực mà nhu cầu thế giới đang tăng, đồng thời xét ra Việt Nam có lợi thế so sánh động sẽ làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu trong tương lai không xa. Vấn đề khẩn cấp đối với Việt Nam hiện nay là xác định được những ngành hội đủ hai điều kiện này, và từ đó đưa ra các chính sách tạo ra các tiền đề, điều kiện để tiềm năng biến thành hiện thực.

Tôi cho rằng các ngành thuộc nhóm D và một phần trong nhóm E, đặc biệt là đồ điện gia dụng và máy móc liên quan đến công nghệ thông tin như máy tính cá nhân, điện thoại di động là những ngành có đủ hai điều kiện nêu trên.

Trước hết là về nhu cầu thế giới. Đồ điện gia dụng, máy tính, điện thoại di động đều là những mặt hàng có đàn tính thu nhập cao (thu nhập tăng có khuynh hướng làm cho nhu cầu các mặt hàng đó tăng cao). Mức độ phổ cập tại châu Á tăng nhanh nhưng còn thấp cho thấy tiềm năng về nhu cầu ở khu vực này rất lớn. Chẳng hạn, từ năm 2001 đến 2002, độ phổ cập của máy tính cá nhân (số chiếc đang sử dụng trên 100 người dân) tại Đài Loan tăng từ 25% đến 40%, tại Thái Lan từ 3% đến 4%, Trung Quốc và Philíppin từ 2 đến 3%. Về điện thoại di động, độ phổ cập năm 2002 tại Hàn Quốc là 68%, Malaixia 38%, Thái Lan 26%, Philíppin 19% và Trung Quốc 16%. Về đồ điện gia dụng, thống kê năm 1999 cho thấy ở Đài Loan, Hàn Quốc, và Malaixia mọi gia đình đã có tủ lạnh, nhưng tỷ lệ tại Thái Lan mới có 68%, Philíppin 37%, Inđônêxia 24% và Trung Quốc 6%. Về máy giặt, Trung Quốc mới có 2% gia đình có phương tiện này và con số đó cũng chỉ từ 5-8% tại các nước ASEAN (trừ Xingapo và Malaixia). Thống kê mới hơn sẽ cho thấy độ phổ cập tại các nước cao hơn nhưng rõ ràng là dư địa để nhu cầu tăng còn rất lớn tại châu Á. Tại Nhật Bản và các nước Âu - Mỹ độ phổ cập đã đạt 100% nhưng sẽ có nhu cầu thay thế sản phẩm cũ và các thị trường này đều lớn. Nhu cầu thế giới do đó sẽ tiếp tục tăng mạnh.

Vấn đề thứ hai là Việt Nam có lợi thế so sánh động trong những ngành này không. Có hai cách tiếp cận bổ sung nhau để trả lời câu hỏi này. Thứ nhất, ta thử xem trong quá khứ những nước có trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay đã bước vào giai đoạn phát triển các ngành này chưa. Nhiều ngành sản xuất các loại máy móc, nhất là các ngành đồ điện gia dụng đã bắt đầu phát triển nhộn nhịp tại Thái Lan từ khoảng 20 năm trước11. Sau khi kiểm chứng một số chỉ tiêu chỉ trình độ phát triển, tôi tạm kết luận là kinh tế Việt Nam đi chậm hơn Thái Lan khoảng 20 năm. Xem Chương 1. và tại Trung Quốc khoảng 10 năm trước cho thấy Việt Nam hoàn toàn có khả năng đẩy mạnh phát triển các ngành này vào giai đoạn hiện nay. Thứ hai, và quan trọng hơn, là xem các công ty đa quốc gia trong lĩnh vực trên đang đánh giá môi trường đầu tư của Việt Nam ra sao và hiện nay các dự án họ đang triển khai có đặc điểm gì. Về điểm này, ta thử khảo sát động hướng gần đây của các công ty Nhật Bản.

Theo điều tra vào cuối năm 2004 của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) về phương hướng lựa chọn môi trường đầu tư của các công ty lớn sản xuất hàng công nghiệp của Nhật Bản (Murakami và những người khác, 2005), Việt Nam được xếp thứ tư trong những nước được đánh giá cao (sau Trung Quốc, Thái Lan và Ấn Độ)22. Cuộc điều tra hằng năm của JBIC bắt đầu từ năm 1992. Vị trí của Việt Nam tăng dần đến năm 1997 nhưng sau đó giảm và tăng trở lại từ năm 2003. Xem chi tiết ở Chương 13.. Đặc biệt nếu lấy riêng các câu trả lời của các công ty ngành điện và điện tử thì Việt Nam xếp thứ ba. Điều tra thực tế của tôi tại các khu công nghiệp Thăng Long, Biên Hoà, Bình Dương và Khu chế xuất Tân Thuận trong mấy năm qua cũng cho thấy những công ty Nhật Bản trong ngành điện, điện tử có kinh nghiệm hoạt động tại Việt Nam đều đánh giá cao chất lượng lao động của ta; họ cho rằng về sự lĩnh hội các tri thức cơ bản và cách thao tác máy móc, lao động Việt Nam bằng hoặc hơn nhiều nước xung quanh. Phân tích động hướng đầu tư của Nhật tại Việt Nam gần đây cũng cho thấy rằng một khi khởi động phát triển các ngành này, Việt Nam không chỉ dừng lại ở khâu lắp ráp trong chuỗi giá trị ở Biểu đồ 2.2 của Chương 2 mà còn có thể tiến thẳng vào giai đoạn có giá trị gia tăng cao hơn. Nội dung đầu tư của công ty Denso (một thành viên trong tập đoàn Toyota. hay công ty Nissan Techno tại Khu công nghiệp Thăng Long cho thấy Nhật đã đưa sang Việt Nam công đoạn thiết kế là công đoạn có giá trị cao trong chuỗi giá trị vì đánh giá cao tiềm năng nguồn nhân lực có trình độ cao của lao động Việt Nam. Tại Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận, mới trong vòng hai năm nay Nhật đã đầu tư ít nhất là 60 dự án trong ngành công nghệ thông tin mà nội dung chủ yếu là ở khâu thiết kế.

Như vậy phương hướng chiến lược của công nghiệp Việt Nam đã khá rõ. Vấn đề là phải đưa ra được chính sách, chiến lược cụ thể để đón đầu dòng thác công nghiệp ở Đông Á, tạo ra một sự chuyển dịch mạnh mẽ cho cơ cấu công nghiệp Việt Nam, phát huy tiềm năng để hội nhập có hiệu quả vào trào lưu tự do hoá thương mại ở khu vực này.

8.2. Chiến lược, biện pháp nào?

Làm sao để có thể tham gia mạnh mẽ vào sự phân công ở Đông Á trong các ngành sản xuất các loại máy móc thuộc hai nhóm D và E? Ở đây ta không có điều kiện đi sâu vào vấn đề này, nhưng từ phân tích thực trạng của Việt Nam có thể tóm tắt ba điểm liên quan đến chiến lược, biện pháp như sau:

Thứ nhất, cần chuyển từ chiến lược, chính sách thay thế nhập khẩu sang chiến lược xúc tiến xuất khẩu. Hầu hết các ngành thuộc hai nhóm D và E đều đang sản xuất tại Việt Nam nhưng có một đặc tính chung là sản xuất chủ yếu cho thị trường nội địa, được bảo hộ bằng quan thuế ở cả sản phẩm cuối cùng và sản phẩm trung gian như bộ phận, linh kiện. Chính sách đánh thuế cao trên linh kiện, bộ phận để tăng tỷ lệ nội địa hoá đã làm tăng giá thành sản phẩm lắp ráp, sản phẩm này do đó phải được bảo hộ trong thị trường nội địa. Hơn nữa, chỉ sản xuất cho thị trường nội địa nên quy mô sản xuất quá nhỏ (xem Chương 9 về ngành điện, điện tử gia dụng), không phát huy tính quy mô kinh tế (economies of scale)11. Tính quy mô kinh tế là hiệu quả trong đó phí tổn sản xuất của một đơn vị sản phẩm (chẳng hạn một chiếc xe máy, một tủ lạnh, v.v...) giảm theo lượng tăng của quy mô sản xuất., càng làm cho giá thành tăng. Đó là cái vòng luẩn quẩn cản trở sức cạnh tranh. Trong quá khứ, nhiều nước châu Á cũng theo chính sách này nhưng phải tốn nhiều năm (đợi cho thị trường trong nước lớn mạnh) mới có sức cạnh tranh và chuyển sang xuất khẩu. Tuy nhiên, Việt Nam bây giờ không thể theo chiến lược này vì phải giảm thuế trong các chương trình tự do hoá thương mại, trước mắt là với ASEAN và sau này với Trung Quốc.

Như vậy, chính sách vừa giữ mức thuế quan cao đối với linh kiện, bộ phận nhưng vừa cho tự do nhập khẩu sản phẩm nguyên chiếc trong khuôn khổ AFTA đang đặt các ngành điện, điện tử gia dụng và các ngành máy móc khác của Việt Nam trước một thách thức rất lớn là không thể cạnh tranh được với hàng nhập từ ASEAN và Trung Quốc, và do đó nhiều công ty đa quốc gia có thể sẽ phải đóng cửa nhà máy tại Việt Nam, chuyển sang sản xuất tại Thái Lan và các nước có quy mô sản xuất lớn với các ngành công nghiệp phụ trợ đã phát triển (phần lớn những công ty đang sản xuất đồ điện gia dụng, xe hơi, v.v., tại Việt Nam cũng là những công ty sản xuất quy mô lớn tại Thái Lan). Để tránh trường hợp này, chính phủ nên khẩn cấp bỏ chính sách thuế quan cao đối với linh kiện, bộ phận để giảm giá thành lắp ráp sản phẩm nguyên chiếc và giữ chân các công ty đa quốc gia. Như đã đề cập ở trên, các công ty của Nhật đánh giá cao tiềm năng của Việt Nam, và theo tính toán của những công ty đã đầu tư tại nước ta trong ngành điện điện tử gia dụng, nếu vấn đề linh kiện, bộ phận được giải quyết, các sản phẩm nguyên chiếc của Việt Nam có khả năng xuất khẩu sang Nhật và các thị trường lớn khác, và dưới thể chế AFTA có thể xuất khẩu sang nhiều nước ASEAN. Trong trường hợp đó, quy mô sản xuất sẽ mở rộng nhanh chóng, kích thích sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ.

Để xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ, trong quá khứ cũng có nhiều nước đã áp dụng biện pháp nâng cao thuế suất linh kiện nhập khẩu nhưng phải đồng thời bảo hộ sản phẩm nguyên chiếc. Việt Nam ngày nay không thể bảo hộ sản phẩm nguyên chiếc thì phải theo một chiến lược khác. Chính sách tối ưu hiện nay là phải nhanh chóng tăng năng lực cạnh tranh để xuất khẩu được sản phẩm nguyên chiếc, từ đó quy mô sản xuất trong nước tăng nhanh, tạo điều kiện để các công ty cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ đầu tư lớn. Thật ra, nếu nhà nước có tín hiệu về sự thay đổi chính sách theo hướng đó thì công ty nước ngoài có thể sẽ đầu tư để xây dựng các cụm công nghiệp ngay từ bây giờ. Các loại máy móc gồm nhiều công đoạn nên thường có sự phân công hàng ngang giữa các nước trong việc sản xuất và cung cấp lẫn nhau các linh kiện, bộ phận. Tuy nhiên, công nghệ của nhiều loại trong nhóm D tương đối đã tiêu chuẩn hoá và ít sai biệt về độ sâu lao động hay tư bản. Do đó, doanh nghiệp có khuynh hướng nội địa hoá linh kiện, bộ phận một khi lượng sản xuất đạt quy mô kinh tế. Thêm vào đó, khi sản phẩm nguyên chiếc sản xuất cả cho thị trường thế giới thì các công ty lắp ráp phải thường xuyên thay đổi cơ năng, mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm. Điều này buộc họ phải luôn bảo đảm một sự cơ động, linh hoạt trong việc tổ chức quản lý dây chuyền cung cấp (supply chain management) của các sản phẩm phụ trợ và do đó phải tăng tỷ lệ nội địa hoá, chủ động tham gia xây dựng các cụm công nghiệp.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: