Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

12.

Mashima và Yumi dừng tại một máy bán hàng tự động để mua nước để uống trên đường đi ra sông Sumida. Từ Ginza đi ra chỉ mất khoảng hai chục phút đi bộ. Anh mua và cô đều mua trà matcha nóng. Cầm trên tay lon trà rồi anh mới tự cười mình không biết uống giờ này liệu có thao thức cả đêm hay chăng.

Yumi rảo bước chầm chậm, bỏ lại phía sau lưng cô những màu sắc lung linh của chốn đô thị mà cô hết lòng trìu mến. Còn anh, cứ mỗi bước chân rời xa Ginza, đại dương thêm nhỏ lại, mực nước thấp dần, và cuối cùng cạn hẳn. Họ giờ đây cô độc với chính mình, không còn nơi ẩn nấp. Vì thế mà những câu chuyện giờ đây có phần trần trụi hơn, khó chia sẻ hơn. Mashima biết rằng Yumi đang lưỡng lự về việc có nên nói hết với anh phần chính yếu của vấn đề hay không. Về những bức vẽ ở Hokkaido. Về chuyện cô còn lại gì nếu từ bỏ hội họa.

"Kami-sama."

Yumi đột ngột thốt lên.

"Hả?" Anh bất ngờ hỏi, vội ngước lên nhìn theo dáng hình cô phía trước.

"Kami-sama. Cha tôi chính là thánh thần, ít nhất là trong ấn tượng của riêng tôi. Người duy nhất được phép phán quyết chuyện đúng sai. Tôi đã ước một điều. Ước gì cha chưa từng đem tôi đến với hội họa, tôi sẽ không phản bội lại cha. Ngày tôi báo cho cha rằng tôi sẽ thi vào Geidai, theo đuổi những màu sắc của mình với tất cả nhiệt huyết và hy vọng, cha chỉ lẳng lặng quyết định một điều.

Cha quyết định rằng, ông sẽ ngừng yêu thương tôi. Không hẳn. Nói như vậy thì không đúng. Phải là, cha quyết định rằng, tôi không còn có mặt trong giấc mơ của ông nữa. Ông xây giấc mơ của mình như xây một ngôi nhà lớn, không chỉ cho mình ông mà còn cho những người khác. Dưới mái nhà đó, những người nương nhờ sẽ được đặt dưới sự phán quyết của ông, được nhờ giấc mơ của ông mà có được thịnh vượng và hạnh phúc. Chỉ duy một điều được yêu cầu, những người này phải làm việc chăm chỉ cho giấc mơ đó, để nó mãi mãi lớn thêm. Một giấc mơ chung, một di sản. Đại loại vậy. Đó là những gì tôi nghĩ. Đáng lẽ tôi cũng được ở trong vòng tròn ấm cúng và dễ dàng đó, như Hana bây giờ. Nhưng như ông đã nói, tôi là kẻ phản bội. Vì cái gì cơ chứ? Taichi, tôi không đeo đuổi một giấc mơ, cái tôi đeo đuổi là những màu sắc. Một sự ám ảnh. Một sự vô nghĩa. Có lẽ cha đã nhìn thấu điều đó từ lâu.

So với giấc mơ của ông, "giấc mơ" của tôi thật còm cõi và ích kỷ. Tôi lên Geidai, cứng đầu, kiêu hãnh và không ngoảnh lại. Đó là năm đầu tiên. Được rồi, Kami-sama đã từ bỏ mình, thì mình cũng từ bỏ Kami-sama. Không có vấn đề gì hết. Ở đây mình sẽ tìm thấy những màu sắc tuyệt vời nhất, thậm chí một màu sắc cho riêng mình. Ai quan tâm đến kết cục sẽ ra sao cơ chứ? Đó là năm đầu tiên.

Tôi đã suy nghĩ thật đơn giản, Taichi-kun. Thứ nghệ thuật này ngày đó với tôi chỉ như một trò chơi với màu sắc. Không có một ý nghĩa to lớn nào khác trong những bức vẽ, chúng nông cạn nhưng chân phương, một niềm vui ngô nghê và đơn giản. Vẽ vẫn đem đến niềm vui. Bước chân vào khoa Mỹ Thuật tại Geidai, mọi sinh viên đều buộc phải học tất cả các bộ môn, nhưng chủ yếu thì có Mỹ thuật Nhật Bản, Sơn dầu, Điêu khắc và Thiết kế. Đến năm thứ ba chỉ được chọn một trong bốn, đối với những người muốn trở thành họa sĩ, hầu như chỉ có hai lựa chọn hoặc là Mỹ thuật Nhật Bản hoặc là Sơn dầu. Vào năm thứ nhất, kẻ đầu óc đơn giản là tôi dường như không bao giờ nắm được sự phức tạp của vấn đề. Ấy vậy nên tôi gặp khó khăn với những khái niệm về các trường phái hội họa, kể cả những phần về kỹ thuật cơ bản như tạo bố cục tác phẩm tôi cũng mất thời gian để tiếp thu. Những bài kiểm tra, những cuộc thi tuy ít nhưng cứ tuần tự theo đó mà diễn ra. Sinh viên đạt học bổng như tôi thường thu hút ít nhiều luồng dư luận của chúng bạn. Ai cũng muốn xem kẻ xuất sắc như vậy thì có gì đặc biệt. Nhưng "sáng tác" không phải là một hành động đơn giản như việc tôi vẽ những gì tôi muốn vẽ. Không, nó phức tạp hơn thế. Để sáng tác, nhất là sáng tác một bức họa, anh phải có chủ đề, mọi người đều vẽ về một chủ đề này. Nhưng như thế không đủ, anh còn cần phải thể hiện được nhận thức của riêng anh về chủ đề để từ đó đưa nó vào phối cảnh, tạo ra bố cục, cuối cùng mới đến màu sắc. Mối liên hệ giữa bố cục và màu sắc lại có hàng tá những quy luật riêng anh cần phải học. Nhưng kẻ đầu óc đơn giản như tôi trong tận thâm tâm chưa bao giờ quan tâm đến những mánh khóe đó. Tôi chỉ muốn đuổi theo những sắc màu, đến bất cứ đâu có thể. Tôi muốn tạo ra những màu mới, những cách biểu đạt mới. Bằng cách nào tôi không rõ nhưng tôi muốn làm điều đó một cách thiết tha nhất và chính trực nhất. Đó là điều duy nhất tôi thực sự muốn trong cuộc đời mình. Cho nên anh cũng đoán tôi không làm tốt trong những cuộc thi. Những tác phẩm xuất sắc nhất luôn được đặt ở hàng trên cùng. Tác phẩm của tôi bao giờ cũng nằm ở hàng cuối. "Một mớ hỗn độn", "không rõ đây là bảng trộn màu hay là một tác phẩm", "giống hệt những bức vẽ của một đứa trẻ". Những lời nhận xét của các giảng viên sau mỗi bài kiểm tra khơi dậy những lời đàm tiếu về khả năng của tôi. Người ta bắt đầu nghi ngờ về suất học bổng tôi được nhận. Còn có tin đồn rằng tôi là con cháu của ai đó trong trường.

Kẻ đầu óc đơn giản cuối cùng đến một lúc nào đó cũng cần phải thôi đơn giản. Tôi bắt đầu tự bó buộc mình vào những quy tắc và quy ước được dạy, tạm dừng việc bôi màu lên khung vẽ hay cái thói quen vẽ đi vẽ lại cảnh hoàng hôn. Sao chép phong cách của những trường phái lớn trong quá khứ bắt đầu trở thành thú vui. Tính toán tỷ lệ bố cục tranh tĩnh vật không còn gây khó dễ. Phối màu tả thực bắt đầu giúp tôi giết thời gian. Dung hòa và thích ứng, tiếp thu và mài giũa từng kỹ năng sẽ giúp cho mục đích của tôi sau này, tôi đinh ninh như vậy. Tôi thấy tự hào về bản thân mình. Điểm số của rồi thì cũng tăng và những lời đàm tiếu cũng theo đó mà biến mất. Vào năm thứ hai, số lượng những bài kiểm tra, những cuộc thi bắt đầu nhiều hơn đến gấp đôi, kéo theo những đòi hỏi của giảng viên cũng cao hơn. Hệ lụy theo sau đó là sức sáng tạo bị làm cho đến cạn kiệt. Thầy cô muốn những chủ đề trừu tượng hơn, những nhận thức mới lạ hơn và bố cục thì luôn phải độc đáo. Một nguồn sống từ chính nội tại cháy bỏng nhưng cùng lúc phải tinh tế. Đem vào năng lượng đó vào trong nghệ thuật của mình. Chắt lọc rồi gắn vào vào phối cảnh. Nâng tầm nó lên thành thông điệp gửi tới những người khác. Nhưng đừng quên tính đa nghĩa! Và cũng đừng quên những quy luật! Ôi! Tôi như kẻ mò mẫm đi mãi, đi mãi hòng tìm một lối ra nhưng cuối cùng lại phải dừng bước trước một bức tường khổng lồ chặn lối. Nội tại? Nội tại của tôi chẳng có gì hết, tôi cay đắng nhận ra điều này. Quay cuồng trước những lựa chọn, như một con chó bị bỏ rơi, tôi lại quay về lối cũ. Nếu bỏ qua tất cả những đòi hỏi ấy đi, để trả lời cho câu hỏi nguyên thủy và cũ rích nhất "tôi muốn vẽ điều gì?" thì có lẽ đó là dáng hình của mẹ buổi sáng ngày hôm ấy. Khi bà đứng trước bồn rửa bát và băn khoăn về cuộc đời nhỏ bé của mình. Nếu tôi có cách nào đó để người xem vào trong không gian riêng tư ấy, nơi tôi đứng, từ chân cầu thang nhìn xuống, và thấy trọn đôi vai gầy trĩu nặng của mẹ.... Nếu tôi có thể khiến họ nghe được câu nói nhỏ xíu đó của bà.... Nếu tôi có thể.... Liệu tôi có thể? Và thế là tôi vẽ. Vẽ đi vẽ lại. Tôi chọn màu sắc thật cẩn thận. Tôi muốn một sự mô tả gần nhất với những gì tôi còn nhớ. Sau nhiều đêm thức trắng, cuối cùng cũng đến ngày bức vẽ hoàn thiện. Một cảm giác mãn nguyện bí mật dâng lên trong ngực tôi. Những giọt nước mắt lén lút rơi. Tôi không dám tự hỏi mẹ sẽ cảm thấy gì khi nhìn vào bức tranh này. Nhưng nếu thánh thần rủ lòng thương ban xuống một ân huệ cho điều đó xảy ra, liệu mẹ có hiểu nỗi lòng của tôi không? Ngày thi đến, tôi đem tranh của mình đi nộp rồi hồi hộp đợi kết quả. Nhưng rốt cuộc thì chẳng có gì như mong đợi, tôi không lọt nổi vào nhóm hai mươi tác phẩm xuất sắc nhất. Bức tranh lạc quẻ đứng giữa hàng loạt những tác phẩm tinh vi của chúng bạn. Những sự kết hợp, những bố cục, những chất liệu được sử dụng đều vượt trên sự tưởng tượng của tôi. Thật sinh động, sâu thẳm và cao vời. Còn tôi, sự trừu tượng tôi đem đến cho mọi người chỉ được có thế. Ai đó nói rằng đó là một cảnh trong truyện tranh. Có người lại đoán tôi sao chép lại một cảnh phim nào đó. Người ta xem và nhíu mày. Không ai bị cuốn vào khung cảnh buổi sáng buồn bã đó, không ai nghe thấy tiếng thầm thì nhỏ xíu của mẹ. Cuối cùng, chẳng có ai xúc động. Năm thứ hai kết thúc như vậy đấy."

Hai người dừng lại khi ra đến bờ sông Sumida, đủng đỉnh ngắm nhìn cảnh tượng diễm lệ trước mặt. Chút trà còn lại trong lon đã nguội lạnh tự bao giờ. Mashima hít một hơi đầy lồng ngực đón cơn gió mát từ lòng sông thổi đến. Anh mỉm cười, cố thu vào tầm mắt cảnh dòng sông đang phản chiếu lại những đốm sáng lung linh của thành phố.

"Yumi-chan, gió mát ghê nhỉ. Này nhé, chị hãy thử tưởng tượng rằng cơ thể mình được tạo nên bởi những hạt cát. Cứ mỗi cơn gió lớn nổi lên, một chút cát bị gió mang đi. Khi làn gió mang đi hạt cát cuối cùng, chị sẽ biến mất. Một cái chết dễ chịu không đau đớn."

"Đừng nghĩ về cái chết mỗi ngày nữa, Taichi."

"Cầu Kachidoki kìa." Mashima hướng mắt về phía cây cầu hai nhịp nổi tiếng. Những ánh đèn nhiều màu cùng cảnh nền thành phố với những tòa nhà cao ốc lung linh xa xa làm cho nó muôn phần xinh đẹp hơn. Hàng đèn từ trên cầu rọi xuống dòng sông khiến cả một vùng nước phát sáng.

"Đẹp nhỉ..." Yumi xuýt xoa khen, lấy hai tay xoa vào nhau cho đỡ lạnh.

Ánh sáng từ phía cầu chiếu đến khiến họ có thể nhìn rõ cả quãng đường phía trước mà chẳng cần đèn đường. Cách đó không xa, vài đứa trẻ đang chơi đùa trong khuôn viên công viên Hatoba, tiếng cười của đám trẻ chợt phá tan không gian im ắng ngự trị từ lúc họ rời Ginza. Đây đó trên những hàng ghế băng những nhân viên công sở trở về từ chỗ làm đang ngồi ăn vội bữa tối. Khu Tsukiji này về đêm lại yên ắng lạ thường, khác với cảnh buôn bán tấp nập ban ngày tại khu chợ cá.

"Thế rồi sao? Đến năm ba mọi chuyện có khá hơn không?" Mashima xoay bước về phía con đường lát đá dọc bờ sông, anh đi cắt qua công viên Hatoba để hướng về phía đường bậc thang Sumidagawa - nơi mà mỗi mùa xuân đến lại nhộn nhịp thập khách tứ phương kéo đến thưởng ngoạn cảnh hoa anh đào nở bên dòng Sumida. Thu đến, cây cối dọc con đường này được phủ màu lá đỏ mơ màng. Nhưng giờ thì đã vào những ngày chuyển mùa vào đông, lá đỏ ở đây cũng đã rụng gần hết. Dưới lòng sông, thi thoảng lại có một vài du thuyền chở khách thăm sông chạy vụt qua.

Yumi giữ im lặng khá lâu. Cô chăm chú bước theo anh. Đến khi họ ra gần tới đường bậc thang Sumidagawa cô mới bắt đầu cất lời.

"Đến năm thứ ba, sinh viên mỹ thuật nào cũng phải lựa chọn theo một trong bốn bộ môn chính yếu chúng tôi đã được giới thiệu từ năm thứ nhất. Thiết kế được chọn nhiều nhất, điều này thì cũng dễ hiểu. Còn tôi chẳng khó khăn gì mà chọn Sơn dầu. Chỉ có bộ môn này mới cho tôi cơ hội được phóng túng với màu sắc. Nhưng chọn sơn dầu cũng đồng nghĩa với việc sẽ có một khoản chi không nhỏ để sắm màu vẽ và các dụng cụ khác như cọ và vải vẽ - chúng không hề rẻ, luôn phải dùng với số lượng lớn và cần mua mới thường xuyên. Nếu muốn vẽ đẹp phải mua màu loại tốt, mà loại tốt thì rất đắt. Những khoản này không được học bổng chi trả, vậy nên để có thể tốt nghiệp ra trường, tôi cần phải kiếm tiền từ giờ cho đến hết năm thứ tư. Điều này tôi đã không lường trước, nên khi bị đẩy vào tình thế như vậy, suýt chút nữa tôi không kịp trở tay. So với những sinh viên khác, họ đã bắt đầu đi làm từ năm thứ hai thì tôi chậm chạp hơn nhiều. Loay hoay một hồi đi hỏi chỗ nọ chỗ kia, may mắn sao có nơi chịu nhận tôi vào làm thêm từ hồi đầu năm nay. Công việc chính phải làm là vẽ minh họa bìa sách cho một nhà xuất bản địa phương nằm gần trường đại học. Mỗi ngày ai đó sẽ đưa cho tôi một tập bản thảo với một ghi chú ngắn về nội dung của cuốn sách cần vẽ ảnh bìa và một vài gạch đầu dòng những gì họ muốn tôi vẽ. Những chỉ dẫn đó hết sức ngắn gọn và trực quan, chẳng có gì giống như những đề bài mà các giảng viên đáng kính ở trường đại học giao cho chúng tôi. Việc của tôi là vẽ đúng những gì họ muốn, không hơn không kém. Sự sáng tạo, tính nội tại, sự trừu tượng, tất cả đều trở thành vô dụng. Đáng lẽ tôi nên cảm thấy vui mừng vì có thể vứt bỏ những quy cách học thuật mà điều duy nhất chúng đem lại cho tôi là sự thất bại và nhụt chí. Đến lúc ấy tôi mới hiểu rằng mình mới thật ấu trĩ. Nếu ở trường đại học tôi như một kẻ chới với giữa biển rộng, thì nay tôi lại ở vào cảnh chim lồng cá chậu. Tôi vẫn được thỏa chí sáng tạo ở trường nhưng khối lượng công việc và những áp lực đầu đời dần dần vắt kiệt sức lực. Những chủ đề mà thầy cô giao không còn khiến tôi hứng khởi như trước, không phải vì tôi không còn yêu hội họa, chỉ là tôi quá mệt mỏi mà thôi. Đúng vậy, tôi vẫn cầm cọ vẽ, nhưng niềm vui hội họa từng đem lại cho tôi dường như đã không còn. Vẽ không còn vui nữa khi phải vẽ để kiếm tiền. Dù chỉ là nhất thời đi chăng nữa. Tôi tự hỏi mình những ngày tháng này sẽ còn kéo dài bao lâu? Liệu nếu cứ như thế này tình yêu tôi dành cho hội họa có bị phôi phai đi hay chăng? Rồi tôi lại nghĩ theo hướng tích cực hơn. Lỡ như sau này tôi không thể bán được tranh của mình, thì chí ít tôi cũng biết thêm một nghề để kiếm sống ở thành phố rộng lớn này. Bị giằng co giữa những suy nghĩ đó, tự bao giờ tôi đã tự hạ thấp những thước đo của mình xuống, chỉ để cho lòng tôi vơi bớt đi những trăn trở. Sức sáng tạo cứ thế bị bòn rút. Xuân qua rồi hè đến trong chớp mắt. Tự bao giờ tôi bắt đầu học được cách làm quen với cách làm việc rập khuôn như ý người ta muốn. Đến công ty, nhận bản thảo, vẽ nháp, gửi bản nháp cho cấp trên duyệt, bắt đầu vẽ rồi chỉnh sửa bất cứ điểm nào nếu cần. Một ngày tôi có thể cho ra được năm bìa sách theo cách đó. Kể cả khi tôi bắt gặp những cuốn sách thực sự tốt và tôi có những ý tưởng hay hơn nhiều so với những ý tưởng của tổng biên tập thì tôi cũng ngoan ngoãn câm miệng để làm cho xong việc. Một khi tôi đã mất đi niềm vui với hội họa thì thứ còn lại tôi không thể mất nữa đó chính là tiền. Nếu tôi không giữ được tháng lương của mình thì mọi việc sẽ thật vô nghĩa. Cứ thế, sự giằng co ấy ngấm ngầm xảy ra trong sự lơ đãng của tôi. "Vẽ" từ lúc nào đã bắt đầu mang những ý nghĩa khác. Và vào một buổi sáng, tôi sợ hãi nhận ra. Rằng tôi đang đánh đổi. Rằng đã rất lâu rồi tôi không còn nghĩ đến những sắc màu thân yêu của mình nữa. Sự hoảng loạn ngay lúc ấy có lẽ chưa đủ, thánh thần dường như đã định là phải vào chính buổi sáng ngày hôm đó tổng biên tập gửi đến một ý tưởng vô cùng tồi tệ. Cuốn sách cần vẽ bìa kể một câu chuyện về một họa sĩ cô độc ở Tokyo và hành trình của anh ta tìm kiếm chính mình thông qua nghệ thuật. Cuốn sách có một cái kết hạnh phúc - qua bao nhiêu thăng trầm và khổ đau, anh ta tìm được cách yêu bản thân mình, được những người xung quanh đón nhận và nghệ thuật của anh chạm đến trái tim của nhiều người. Tôi không rõ mục đích của tác phẩm nhưng rõ ràng tôi có thể vẽ một ảnh bìa đẹp hơn nhiều so với cái ý tưởng minh họa cho nhân vật chính theo kiểu truyện tranh, với tạo hình nam nhân vật có mái tóc rối bù cùng đôi mắt kính cận đầy tính rập khuôn đến mức thiển cận ấy. Cái yêu cầu rằng trên gương mặt anh ta phải hiển lộ một nụ cười đầy hy vọng đi kèm một số hiệu ứng tươi sáng để đem lại một cảm giác tươi mới cho người đọc như một giọt nước làm tràn ly. Như thế thì này thật là nông cạn. Không biết có phải do câu chuyện của cuốn sách có chút ít liên quan tới mình hay không, lần đầu tiên kể từ ngày đi làm, tôi đưa ra sáng kiến về cái mà tôi muốn thể hiện cho bìa sách đó. Thay bằng việc mô tả nhân vật chính trong một khung cảnh có thể cho biết trước cái kết của câu chuyện, tôi muốn vẽ một điều gì thoát ra khỏi điểm nhìn của nhân vật chính để biến nó thành điểm nhìn của độc giả - của những người cầm trên tay cuốn sách này và quyết định có nên mua nó hay không. Để chí ít bức tranh bìa tôi vẽ có thể trở thành một lý do khiến họ bỏ tiền mua cuốn sách ấy. Tôi muốn vẽ cảnh thành phố trải dài liên tục trên hai trang bìa, một nửa dùng hai màu đen trắng, nửa còn lại dùng toàn bộ màu sắc của quang phổ, ẩn dụ cho sự chuyển mình từ nơi đơn độc, lạnh lẽo ra đến nơi có sự ấm áp, tươi tắn của ánh sáng. Nó có thể là hành trình cho bất kỳ ai nhưng sự đại diện của hội họa nằm ở điểm nhấn vào cách sử dụng màu sắc. Nỗi tức giận được nhen nhóm từ sự hoài nghi vào chính mình làm tôi bị mờ mắt. Người ta hẳn phải biết rằng những nỗ lực đi ngược lại với những nguyên lý bán hàng sẽ chỉ mang lại nỗi thất vọng. Tôi quê mùa chẳng biết. Tổng biên tập không đồng ý với ý tưởng của tôi nhưng lần này tôi dở chứng, không chịu chùn bước, bìa sách được hoàn thành chỉ trong một buổi chiều. Với nó, hy vọng nghệ thuật của mình có thể lay động được lòng người, thậm chí thay đổi cả thế giới. Nhưng ngược lại với niềm hy vọng con trẻ đó, tổng biên tập nổi giận và xé nát bức vẽ ngay trước mặt tất cả mọi người. Tôi chưa thấy một con đàn bà nào cứng đầu và hỗn xược như cô. Không rõ giới tính của tôi thì có lầm lỗi gì, tôi chỉ biết vội vã đổ tội cho bức vẽ ngây ngô giờ đã thành từng mảnh tan nát trên nền nhà. Có lẽ nó không có cái sức mạnh đó. Tất cả chỉ là ảo tưởng. Nghệ thuật không cứu được gì cả. Thậm chí đó đã là nghệ thuật hay chưa? Rồi tôi tự hỏi chàng họa sĩ trong câu chuyện đó đã làm thế nào vậy? Phải làm sao để có thể được như anh ta? Phải làm sao để có thể tìm được nơi chốn trong cuộc đời này mà vẫn có thể làm điều mình muốn? Phải làm sao? Phải làm sao? Phải làm sao mới được? Tôi cần tiền nhưng tôi cũng muốn vẽ theo ý muốn của tôi. Tôi muốn tất cả. Đừng nói là tôi đã sai! Đừng nói là tôi ngu ngốc! Tôi biết chứ! Mới hai mươi hai tuổi đầu nhưng tôi biết chứ! Chỉ xin anh, làm ơn! Đừng nói gì hết!!!"

Yumi gập người lại, gào thét đến khàn cả tiếng. Rất có thể cô đang khóc, anh không có cách nào biết được. Gió từ phía lòng sông Sumida thổi tới cuốn bay những chiếc lá khô trên mặt đường, tung chúng lên cao. Mashima nghĩ nếu anh được làm từ cát thì chỉ cần một cơn gió này thôi cũng có thể khiến anh biến mất. Anh khép hai mi mắt run rẩy của mình, lắng nghe những âm thanh dường như được đưa tới từ bên kia bờ sông. Tiếng nước văng vẳng phía xa, đại dương không đến được nơi đây. Phải rồi, đại dương đã cạn, những đầm lầy đã bỏ anh mà đi. Ấy thế mà Mashima vẫn thấy mình như đang bị nhốt dưới tận cùng biển cả, khô quắt, chới với và đau đớn.

"Tôi muốn tất cả. Nhưng cuối cùng thì chẳng có gì. Kể cả công việc hèn mọn nhất tôi có thể tìm được. Tôi bị đuổi việc như thế đấy." Yumi đứng thẳng dậy, miệng nhoẻn cười với đôi mắt híp lại thành hai đường cong cong. Cô chỉ cười như vậy khi muốn giấu đi đôi mắt mình.

Mashima cúi đầu, vô dụng kiếm tìm một lời để an ủi Yumi. Anh không tìm được lời nào, một kẻ giỏi ăn nói như anh những lúc cần nhất lại chỉ biết câm như hến.

Những đứa trẻ chơi đùa chạy va vào anh và cô rồi lại chạy đi.

Trên lòng sông dường như đang phát sáng, chốc chốc những con tàu chở khách lại chạy vụt qua.

Gió không ngừng thổi. Anh ước trời có thể lặng gió dù chỉ vài giây. Anh cần suy nghĩ.

Trong một đêm thu dịu dàng như đêm nay, Mashima thấy khốn khổ. Lồng ngực anh như bị đốt cháy. Rát bỏng. Như kẻ lữ hành chân không bước từng bước trên những triền cát sa mạc. Như kẻ lặn biển không thể thở được nhưng cũng không thể chết. Như kẻ đến bước đường cùng phía trước và sau lưng đều là vực thẳm. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com