Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Sát Phá Lang (END)

Cố Quân nhẹ nhàng mơn trớn thắt lưng Trường Canh, không khiến người ta cảm thấy có cảm giác xâm lược, lại khiêu khích vừa đủ, độ ấm trong lòng bàn tay từ từ xuyên thấu qua quần áo, như là cọ lên một ngọn lửa không phỏng người, không nhẹ không nặng dán trên người Trường Canh.

Trường Canh thật sự quá muốn y, lúc còn ở đại doanh Giang Bắc vẫn tâm tâm niệm niệm muốn thân mật một lần, nhưng liên tục khúc chiết không ngừng mà kéo dài tới bây giờ. Bất kể trong lòng chứa bao nhiêu xuân thu, thân thể Trường Canh dẫu sao mới ngoài hai mươi tuổi, khi chưa nếm loại tư vị đó thì cũng đành, mới ăn tủy biết ngon đã bị Trần cô nương chặn ngang một gậy, nếu không phải công việc bề bộn, sợi tơ trong lòng không dám nới lỏng, đã nhịn đến phát điên từ lâu rồi, hoàn toàn không chịu nổi khiêu khích.

Lúc này bị Cố Quân chạm nhẹ, nửa người đã tê dại, Trường Canh thở gấp mấy hơi, cơ hồ hơi ù tai mà nói khẽ: "Nghĩa phụ, người muốn mạng của con sao?"

Cố Quân: "Vết thương lại không đau nữa?"

Đau thì vẫn đau, nhưng mà là kiểu đau trước khác nay khác, thương của Nhạn vương điện hạ thường ngày là đau bình thường, khi làm nũng đòi hôn là "đau vô cùng", cho đến lúc này, dù vết thương một lần nữa nứt ra máu chảy thành sông, thế cũng nhất định là mình đồng da sắt không biết đau hay ngứa gì hết.

"Không đau thì được," Cố Quân thủng thỉnh túm bàn tay Trường Canh đang luồn vào trong quần áo mình, lôi ra ném đi, mỉm cười nói, "Thế đến tính nợ với ta đi."

Trường Canh: "..."

Cố Quân ung dung gối một tay ra sau đầu, vô cùng thả lỏng mà nằm trên giường, một tay còn rất ôn nhu đỡ thắt lưng Trường Canh, giọng cũng không nghiêm khắc lắm, nhưng nội dung lại khiến người ta toát mồ hôi.

Cố Quân: "Nói xem, khi ngươi dẫn theo Từ đại nhân tên thư sinh trói gà không chặt này xông vào hang ổ thổ phỉ, trong lòng rốt cuộc nghĩ thế nào?"

Trường Canh: "Tử Hi..."

"Không cần Tử Hi," Cố Quân nhàn nhạt nói, "Ngươi có thể tiếp tục gọi 'nghĩa phụ'."

Trường Canh cười ngượng ngùng, hôn y lấy lòng – đây là Trường Canh gần đây mới phát hiện, Cố Quân rất thích nụ hôn dính rịt như vậy, cắn nhẹ vài cái, lại dùng ánh mắt dè dặt kia chăm chú nhìn y một lúc, trên cơ bản bất kể mình nói gì Cố Quân đều ưng thuận.

Nhưng hiện giờ hình như chiêu này hết tác dụng rồi.

Cố Quân hơi nhướng mày: "Cũng không cần khách khí như vậy, vết thương của ta không đau."

Nhạn vương trí kế bách xuất rốt cuộc vô kế khả thi, đành phải ngoan ngoãn nói tiếng người: "Ta không ngờ họ thật sự sẽ nổi dậy."

Cố Quân nở nụ cười hết sức dung túng, dùng mu bàn tay cọ má Trường Canh, kế đó không chút lưu tình nói: "Vớ vẩn, ngươi nhất định đã nghĩ tới."

Yết hầu Trường Canh nhích nhẹ: "Ta... Ta và Từ đại nhân lúc ấy đang trên đường đến tổng đàn, không biết họ sẽ chọn thời cơ này..."

"À," Cố Quân gật đầu, "Sau đó ngươi thấy, cơ hội ngàn năm một thuở, chẳng dễ gì có thể tự tìm chết một lần, liền vội vàng xông tới."

Trường Canh nghe y nói, cảm thấy tình hình không đúng lắm, vội thông minh thừa nhận sai lầm: "Ta sai rồi."

Cố Quân buông tay, trên mặt không rõ hỉ nộ, đôi mắt hoa đào nửa mở nửa khép, Trường Canh nhất thời không rõ y đang nghĩ gì, không tự chủ được căng thẳng hẳn.

Song đợi cả buổi, Cố Quân lại không nổi giận, chỉ đột nhiên hỏi: "Là vì hôm đó ta hỏi ngươi 'Khi nào có thể ổn định lưu dân, khi nào có thể giành lại Giang Nam', đã tạo áp lực cho ngươi sao?"

Khi y nói câu này, trên trán hằn một nếp nhăn như có như không, mà thần sắc gần như cô đơn, biểu cảm như vậy, Trường Canh mới thấy đúng một lần trên hồng đầu diên đêm Trừ tịch năm xưa, Cố Quân lúc ấy dùng ba chén rượu tế ngàn vạn vong hồn, trên mặt cũng là sự thanh tịch bình đạm như thế, cả đế đô đèn đuốc sáng trưng đều không chiếu sáng nổi khuôn mặt nghiêng của y.

Trường Canh nhất thời cơ hồ hơi hoảng, nói năng lộn xộn: "Ta không phải... ta... Tử Hi..."

Lúc trẻ, Cố Quân rất không thích nói với người ta về cảm giác của mình – không vì điều gì khác, chỉ bởi y cảm thấy trưng hết hỉ nộ ai lạc lên mặt, chẳng khác nào tùy thời vén quần áo lên cho người ta nhìn da thịt mình, hết sức bất nhã, người ta cũng chưa chắc thích xem, điều này không liên quan đến tính tình dễ chịu hay chăng, đơn giản là vì gia giáo, ban ngày một đám người ngồi chè chén với nhau, chẳng có gì bất đồng, tới khi say mèm mới có thể hiện ra khác biệt – có kẻ sẽ gào khóc ầm ỹ, có kẻ cùng lắm là gõ nhịp hát hò thôi.

Lời không hợp cảnh lăn qua lăn lại vài lần trên đầu lưỡi Cố Quân, nổi lên lại chìm xuống, rốt cuộc, y mở miệng như hơi thăm dò: "Trên đường ta từ kinh thành chạy tới đây..."

Trường Canh rất giỏi xem sắc mặt, chớp mắt khi cảm giác được y muốn nói gì, đồng tử khó mà ức chế hơi co lại, nhìn Cố Quân vừa kích động vừa chờ mong.

Cố Quân chắc cả đời chưa từng nói lời nào khó khăn như vậy, suýt nữa lâm trận lùi bước.

Trường Canh: "Ngươi trên đường thế nào?"

Cố Quân: "... Lòng như lửa đốt."

Trường Canh sửng sốt nhìn y.

Năm đó khi thủy quân Giang Nam bị diệt sạch, Huyền Thiết doanh mất quá nửa, Cố Quân mới được Lý Phong vội vã thả khỏi đại lao, từng nói bốn chữ "lòng như lửa đốt" chưa?

Chưa từng.

Cố Quân tựa hồ vĩnh viễn chắc chắn, vĩnh viễn không bối rối, nếu bối rối, quá nửa cũng là giả vờ thôi.

Y mạnh đến hơi giả dối, khiến người ta luôn có cảm giác không thật, hoài nghi một ngày nào đó y sẽ như hoàng thành cửu môn nguy nga, đột nhiên đổ sụp.

Cố Quân như bị mở một miệng cống đóng chặt đã lâu, bốn chữ ấy vừa ra thì câu kế tiếp liền trôi chảy hẳn: "Nếu chuyến này ngươi thực sự có chuyện gì... bảo ta phải làm thế nào đây?"

Trường Canh nhìn y, thở mạnh cũng không dám.

Cố Quân: "Trường Canh, ta thực sự không còn sức đi... đặt ai khác ở trong lòng nữa."

Trường Canh chấn động.

Cố Quân còn sức để bình định nam bắc, còn sức để non sông chưa yên chết không nhắm mắt, còn sức cả đêm không ngủ tranh luận với Chung lão tướng quân chuyện biên chế của thủy quân Giang Bắc.

Nhưng độc không còn sức để yêu một người nữa.

Mấy năm nay, bên cạnh Cố Quân ngoại trừ một bằng hữu vào sinh ra tử như Thẩm Dịch, hình như cũng chỉ còn lại một hầu phủ đất rộng người vắng, chút tâm huyết chắt bóp ra đều dồn hết vào thiếu niên mẫn cảm nghĩ nhiều năm đó tiên đế giao vào tay này.

Xã giao trên quan trường, không tránh khỏi tâng bốc lẫn nhau, tâng đến Cố soái, đại để đều là một câu "cúc cung tận tụy, chí công vô tư". Nhưng kỳ thực Cố Quân không hề chí công vô tư thuần túy, chỉ là nghĩ kỹ lại thì y thật sự không có gì để "tư" cả.

Nỗi tịch mịch này, thời thiếu niên Cố Quân không hề có cảm xúc sâu sắc lắm, khi đó y là An Định hầu của Huyền Thiết tam bộ, dù có muôn vàn tủi hờn oán phẫn, một bầu rượu nóng dốc xuống, là hôm sau lại có thể hăng hái bò dậy quên sạch sành sanh. Mà nay tuổi tác lớn dần, suy nghĩ nhiều hơn, y lại phát hiện sự tiêu sái năm xưa không biết từ khi nào đã tiêu mòn không ít, đặc biệt là dạo gần đây, y cảm thấy mình đặc biệt dễ mệt, do mệt mỏi trên người, trong lòng cũng thường hay không vui theo.

Nếu không phải còn một Nhạn vương lúc thì tính toán chu toàn, lúc lại điên điên khùng khùng khiến y nhọc lòng bận tâm, thì cuộc sống không khỏi cũng chẳng còn ý nghĩa gì.

Vẻ mệt mỏi và cô đơn thoáng qua trên mặt Cố Quân, chẳng qua chớp mắt đã bị y thu lại, y nhẹ nhàng đặt Trường Canh ngay ngắn xuống.

Y kéo một tấm chăn mỏng để bên cạnh đắp cho Trường Canh, thở dài nói: "Nằm yên đi, lưng cũng thẳng không nổi mà còn muốn chuyện đó, ngươi có đứng đắn không vậy?"

Trường Canh nắm tay y, tay Cố Quân vĩnh viễn chẳng ấm nổi, vĩnh viễn như mới lấy ra khỏi cát phong nhận, khô khốc, lạnh cứng: "Tử Hi, nằm với ta một lúc được không?"

Cố Quân chẳng rằng chẳng nói cởi áo ngoài nằm ngay bên cạnh, cách lớp chăn mỏng ôm lấy Trường Canh, không bao lâu liền thiếp đi.

Trường Canh bấy giờ mới len lén mở mắt ra, chỉ cảm thấy mỗi một sợi lông trên người đều run rẩy muốn kéo người bên gối lại triền miên thỏa thích một phen, song nhất thời lại không đành lòng phá hoại bầu không khí yên tĩnh ấm áp này, đành phải không hề nhúc nhích bị dục hỏa thiêu đốt, vừa khó nhịn vừa hạnh phúc mà chịu đựng.

Cố Quân nhặt y từ Nhạn Hồi tiểu trấn về đến bây giờ đã sắp mười một năm rồi, trong mười một năm, Cố Quân thường niên ở biên cương và sa trường, bên nhau thì ít mà xa cách thì nhiều... nhưng chưa từng một ngày rời khỏi tâm hồn y.

Nhiều lúc Trường Canh không biết mình nên yêu người ấy như thế nào, luôn cảm thấy dốc hết sinh mệnh cũng khó mà đền đáp nổi, nhưng bỗng nhiên, y ý thức được rằng, thay vì nói Cố Quân là việc tốt đáng chờ mong duy nhất đời này y gặp được, nên nói tất cả khó khăn từ khi ra đời y bắt đầu gặp phải, đều là để tích đủ vận may gặp người này.

Vừa nghĩ như thế, khúc mắc nhiều năm lại buông ra như kỳ tích.

Nhạn vương bị thương ở Giang Bắc, sự vụ lớn nhỏ do Từ Lệnh ra mặt xử lý, Từ đại nhân là một kẻ mềm cứng đều không nghe, bên cạnh không biết lại đào đâu ra công tử Đỗ Lãng của Đỗ tài thần, Đỗ công tử nói không nhiều, nhưng rất khó lừa gạt, độ khó trong việc đút lót cũng quá cao – nhà họ nứt đố đổ vách, Hoàng thượng cũng làm bao nhiêu phiếu nợ họ, tí chút quà vặt căn bản không dám cầm đến trước mặt vị này.

Cuối tháng Chín năm ấy, Từ Lệnh nhờ Nhạn vương đứng sau chỉ vẽ và đại doanh Giang Bắc dốc sức ủng hộ, bình định bạo dân phản loạn, một lần nữa thu xếp cho nạn dân Giang Bắc, sau đó do Diêu Trấn tạm thay chức Tổng đốc Lưỡng Giang, Từ Lệnh về kinh phục mệnh, mang theo tấu chương của Nhạn vương.

Đến đây, vụ đại án oanh động cả nước đã hạ màn.

Bản thân Nhạn vương còn lề mề vừa dưỡng thương vừa dạo bộ về kinh thành, chưa từng lộ diện, mà cuộc vận động "hành lang vận hà" oanh oanh liệt liệt do y khởi xướng đã bám rễ, bản tấu của y vào cung chỉ giữ lại hai ngày thì đại triều hội đã đến, Sở quân cơ dốc sức ủng hộ, hai viện hiếm khi không một tiếng động, mấy đại thế gia vội vàng dồn thế lực nội bộ lại, nhất thời không rảnh để ý chuyện khác, Phương Khâm tạm thời ngủ đông, Hoàng đế Long An cùng ngày liền có ý kiến phúc đáp.

Sở quân cơ sớm đã nắm được trong lòng biểu hiện ra sức hành động khó tin, chỉ hai ngày đã đưa ra một phương án hoàn chỉnh, khiến người ta cơ hồ hoài nghi họ đã chuẩn bị sẵn.

Chưa đầy một tháng, thành lập Ban vận hà ngoài lục bộ, Ban vận hà toàn quyền thay mặt triều đình bàn bạc với Đỗ Vạn Toàn và các nhân sĩ thương hội, Đỗ tài thần kia lắc mình biến thành đại hoàng thương chân chính, sớm đã âm thầm điều phối sẵn các loại tư nguyên, vật liệu liên tục đưa đến vùng mở xưởng, cả triều trên dưới không ngủ không nghỉ suốt một tháng ròng, làm rất nhiều quan văn bình nhật chỉ biết dựa bàn phải mệt lử, cả Đại Lương đều bị một ngọn lửa lớn đốt lên, giống như muốn bù lại hết cái sự ngồi không ăn bám của hai triều.

Rốt cuộc, trước khi rét đậm đến, gom lưu dân Lưỡng Giang tới các lán của nhà xưởng bước đầu dựng thành.

Nhạn vương Lý Mân thì vừa mới về đến kinh thành.

Sở dĩ chậm như vậy, là vì lúc trước tuy Cố Quân vội vã chạy qua chạy lại giữa kinh thành và Giang Bắc, nhưng tiền tuyến còn rất nhiều việc chưa xử lý xong, trong lúc này vừa vặn để Trường Canh dưỡng thương đến khi hoạt động thường ngày không còn ảnh hưởng, hai người mới trở về.

Trên đường về vừa hay gặp cảnh bận rộn dọc tuyến vận hà.

Công xưởng đang dựng chung quy không được đẹp lắm, bụi đất mịt mù, đi ra đi vào bất kể là công tượng khổ lực hay văn quan và hoàng thương được điều xuống, ai nấy đều lấm lem mặt mày, nhưng cũng coi như có trật tự.

Thợ một ngày lo hai bữa cơm, qua buổi trưa, một đám lưu dân trai tráng khỏe mạnh mới buông đồ đao liền tụ lại một chỗ, từ trong xe lớn bọc sắt ra ngoài kiếm bánh hoa màu.

Cố Quân từng vi phục giấu tên mà dạo qua một vòng, thấy bánh kia bẻ ra bên trong rất được, kê là kê, mì là mì, cầm rất nặng tay, không cách nào so với của ngon vật lạ trên Khởi Diên lâu kinh thành năm xưa, thậm chí cả cơm canh đạm bạc cũng chẳng phải, nhưng khi một đám hán tử vừa làm việc xong xúm lại, mỗi kẻ cầm một miếng lương khô, chấm nước tương đốc công đem ở nhà tới mà ăn với nhau, lại làm người ta vững lòng.

Gần đến kinh giao, Cố Quân cưỡi ngựa đi theo xe của Trường Canh, dọc đường tán gẫu tới việc này, Trường Canh liền cười nói: "Công tượng nọ kia có thể là mời ở nơi khác đến làm đốc công, dẫn dắt mọi người làm việc, còn lại phần lớn lao động đều là Đỗ công trực tiếp trưng từ số lưu dân chiêu an, tương lai họ từng khuân gạch ở đâu, thì sẽ bưng bát cơm ở đó. Vì việc này, ta nghe nói Đỗ công cầu Ban vận hà một thánh chỉ đảm bảo, lấy danh nghĩa triều đình để cam đoan, trừ phi là tự mình muốn đi, bằng không công xưởng sẽ không đuổi người, cả đời là người của nơi này."

Không ai mong ngóng được cắm rễ lần nữa hơn người trôi giạt khắp nơi, để những lưu dân này tự tạo gia đình mới của mình, họ có thể làm việc vừa ổn định vừa nhanh nhẹn, rất ít trộm dùng mánh khóe, Đỗ Vạn Toàn chỉ cần nuôi cơm, ngay cả tiền công cũng bớt được đáng kể, còn thường xuyên có lão thái thái ở sau lưng gọi ông ta là "Đỗ thiện nhân", lúc lạy Bồ Tát luôn có phần của ông ta, người này cũng thật sự tinh ranh quá thể.

"Chuyện tốt," Cố Quân nghĩ một chút, lại hỏi, "Như vậy trừ người nhà không giảm tô ra thì cũng hơi giống quân hộ – chỉ là dân gian không thể so với trong quân, nếu có ai không làm việc đàng hoàng hoặc làm điều phi pháp thì sao?"

"Sở quân cơ ra điều lệ," Trường Canh nói, "Trước khi đi ta có dặn dò Giang Hàn Thạch rồi, đã phát xuống cùng thánh chỉ luôn, tổng cộng mười ba điều, trong đó có khá nhiều quy định chi tiết, mỗi tối kết thúc công việc, sẽ có người phụ trách tới giảng giải cho họ, nếu vi phạm chứng cứ xác thực, phân chi địa phương của Ban vận hà có thể làm chủ đuổi đi... Thế nào, ngươi còn lo lắng vạn nhất tương lai có nghiệp quan cấu kết, ức hiếp lao công à?"

Cố Quân nghệt ra, kế đó bật cười nói: "Sao cơ, việc đó cũng có biện pháp à?"

"Có," Trường Canh nói, "Lão nhân làm trong xưởng từ mười năm trở lên, chỉ cần hơn một nửa chịu đứng ra bảo đảm, là người đó có thể ở lại, hơn nữa có thể kiện lên Ban vận hà trên một cấp – Kỳ thực, cho dù là như vậy, thời gian dài cũng vị tất không có vấn đề, đến lúc đó lại chậm rãi sửa đổi, đâu thể nào một lần là xong ngay được."

Cố Quân: "Ngươi dự mưu bao lâu rồi?"

"Việc này không phải ta nghĩ đâu," Trường Canh cười nói, "Chỉ là lúc mới tiếp xúc với Đỗ công có một ý tưởng mơ hồ, thời gian dài vừa trải đường vừa không ngừng thương lượng cọ xát với họ, hơn một năm mới mò ra một chút. Đám người Đỗ công, cả đời vào nam ra bắc, Tây Dương cũng đi rất nhiều chuyến, kiến thức rộng rãi, phản ứng cũng nhanh, nhưng mà thiếu một cái thang, ta dựng thang cho, là ông ta có thể gánh vác."

Thư sinh có sự cổ hủ và tình hoài của thư sinh, thương nhân có sự giả dối và thủ đoạn của thương nhân, trên bản chất không có tốt xấu, chỉ xem người thượng vị muốn dẫn dắt theo hướng nào thôi.

"Đúng rồi, Tử Hi, ta còn nghe Đỗ công nói, người Tây Dương có một loại xe rất to rất dài," Trường Canh thò đầu ra cửa sổ xe ngựa, khá hưng phấn nói, "Lắp trên đường ray, chạy cực nhanh, nhưng khác với đại điêu và cự diên, có thể kéo rất nhiều đoạn đằng sau, chẳng phải là muốn chở bao nhiêu cũng được sao? So với vận hà thủy lộ thì tốt hơn nhiều, chỉ là chiếm chỗ hơi nhiều, trên tuyến dài không dễ tính toán, vừa vặn có thể mượn cơ hội trưng đất dựng xưởng để chừa chỗ cho thứ ấy. Nói tới thật sự phải cảm tạ đảng Dương Lữ chịu khó mua nhà mua đất, giúp ta bớt không ít việc. Đỗ công định bắt đầu dọc tuyến vận hà trước, mời người dựng một cái thử xem – Hiện giờ tiền tuyến Giang Nam giằng co như vậy, lương thảo, tử lưu kim và hỏa cơ từ kinh thành vận đến vận đi không khỏi phiền toái, nếu có một ngày có thể dựng thành..."

Cố Quân đối với quốc kế dân sinh chưa chắc có kiến giải gì, với quân vụ phòng ngự lại cực kỳ nhạy bén, chỉ nghe một âm đã hiểu ý, vội nói: "Ngươi nói kỹ hơn xem."

Nhưng Trường Canh không tiếp tục, vẫy tay gọi y, giống như định rỉ tai, Cố Quân giục ngựa chạy lên một chút, hơi khom lưng hỏi: "Sao thế, hiện giờ có việc gì còn chưa thể tiết lộ à?"

"Cũng không phải là không thể nói, chỉ là..." Trường Canh hơi do dự.

Cố Quân nhất thời hơi hoang mang, chưa kịp ngộ ra nguyên nhân giữ bí mật việc này là gì, đúng lúc này, Trường Canh bỗng nhiên từ trong xe nhô đầu ra, nhanh chóng chiếm một chút lợi trên môi y.

Cố Quân: "..."

Trường Canh nhìn quanh một vòng, thấy có xe ngựa cản không ai để ý, liền thì thào: "Tối về nhà nhường ta một lần nữa, ta sẽ cho ngươi xem bản vẽ."

Cố Quân cầm cương nhẹ nhàng ngả ra sau: "Nhường ngươi bao nhiêu lần rồi? Không phải cậy có thương tích làm nũng thì là chơi xấu với ta – không có cửa đâu!"

Trường Canh cái gì cũng tốt, duy chỉ có một điểm là ham muốn khống chế quá mạnh, đặc biệt là đối với Cố Quân, chỉ hận không thể làm thay cả những việc như mặc quần áo đút cơm. Bình nhật y đều cố gắng kiềm chế, cố hết sức không khiến Cố Quân khó chịu... Nhưng lên giường rồi lại không để ý được nhiều như vậy.

Trường Canh nhỏ giọng rủ rỉ: "Nghĩa phụ à, hầu hạ không tốt, thì con có thể dụng tâm học mà."

Cố Quân: "... Nhi tử, kỳ thực con không cần vất vả như vậy."

Đã qua nơi Bắc đại doanh đóng quân, Cố Quân liền không mặc giáp, chỉ vận trường bào thường phục, cổ tay áo còn rộng hơn thắt lưng.

Trường Canh giơ tay nắm tay áo y, không nói một lời lắc qua lắc lại.

Trên đường đi qua một thôn trấn, họ tình cờ trông thấy một đứa bé ba bốn tuổi khóc lóc ỉ ôi kéo tay áo người lớn đòi ăn kẹo, từ đó về sau Trường Canh chẳng biết dây nào bị chập, mà học theo y hệt, hơn nữa rất có vẻ như muốn phát dương quang đại.

Lúc y còn nhỏ, trên đời không có một ống tay áo để y kéo, hiện giờ dẫu đã đội trời đạp đất rồi, cũng luôn như là có tiếc nuối, muốn bù lại hết trên Cố Quân.

Cố Quân vừa cười vừa nổi da gà: "Đã nói không được là không được, buông tay ra – điện hạ, ngươi không cần thể diện nữa hả?"

Trường Canh không chịu buông, trông như rất muốn kéo y thành "đoạn tụ" ngay giữa nơi đông người luôn vậy.

Lúc Thẩm Dịch và Giang Sung dẫn người ra khỏi thành đón, từ xa đã trông thấy Nhạn vương ngồi trong xe thò đầu ra nói chuyện với Cố Quân, Cố Quân mặc thần tuấn của mình lờ đờ bước, khóe mắt có một chút nét cười, khóe môi lại căng lên không thèm để ý.

Nhạn vương đầu tiên nói câu gì đó, Cố Quân gõ mu bàn tay y một cái, buộc y không tự chủ được phải buông lỏng tay ra.

Nhạn vương tựa hồ chưa từ bỏ ý định, lại nói câu nữa, Cố Quân kéo màn xe xuống, giống như định để mắt không thấy lòng khỏi phiền.

Đợi đến lần thứ ba Nhạn vương vén màn xe thò đầu ra, Cố Quân rốt cuộc không nhịn được bật cười, xua tay như thể sợ y rồi, tựa hồ đã thỏa hiệp.

Giang Sung thấy thế sửng sốt.

Thẩm Dịch thở dài nói: "May mà Đại soái không có con ruột, bằng không sẽ khủng khiếp lắm, nhất định phải cưng ra một Hỗn Thế Ma Vương hậu sinh khả úy cho xem. Ta thấy y đối với Nhạn vương điện hạ đã không nói nổi ba tiếng 'không' rồi, chuyện gì cầu hai lần không thành, tới lần thứ ba hỏi lại, y nhất định sẽ đồng ý."

Giang Sung vẫn chưa định thần lại: "Ta cho rằng Hầu gia lâu ngày không ở kinh thành, giữa y với Nhạn vương chỉ có danh phận nghĩa phụ tử thôi, nhưng xem ra tình cảm thật sự rất sâu đậm."

Thẩm Dịch vừa nghe hai chữ "tình cảm" đã nghĩ lệch đi, tâm tình mới cảm khái Cố Quân không làm được nghiêm phụ lại rẽ qua lối khác, bụng mắng: "Cái tên Cố Tử Hi thấy sắc mờ mắt này, cả đời chẳng lúc nào đứng đắn, ban ngày ban mặt mà làm trò gì thế không biết?"

Cố Quân "thấy sắc mờ mắt" hơi ngứa mũi, nghiêng đầu hắt xì một cái, vừa quay mặt lại liền nhìn thấy Giang đại nhân vẻ mặt "thấy hai bên hòa thuận, lòng ta rất được an ủi", và Thẩm đề đốc trên trán toàn "chú ý ảnh hưởng, có mất mặt không".

Nhạn vương một lần nữa đoan chính lại còn chưa kịp xuống xe thì đã bị mời vào cung.

Thẩm Dịch liên tục trừng mắt nhìn Cố Quân lên án, Cố Quân ban nãy ưng thuận chuyện nhục như mất nước lúc này đang hối hận, liền bực bội hỏi: "Nhìn gì mà nhìn?"

Lão học cứu Thẩm đề đốc nghĩa chính ngôn từ chỉ trích: "Không phải ta nói, ngươi nhiều lúc thật chẳng ra thể thống gì!"

Cố Quân: "Ta làm sao?"

Thẩm Dịch: "Y như tên sắc quỷ bị hồ ly tinh câu hồn vậy."

Cố Quân: "..."

Đúng là oan tình như "mùa đông sấm dội" "mùa hè tuyết rơi"(1), còn trăm miệng cũng chẳng biện bạch nổi... Thật muốn cắt bào đoạn nghĩa với tên họ Thẩm luôn.

Cũng may y còn chưa kịp hạ độc thủ với Thẩm đề đốc thì Thẩm Dịch đã dùng chính sự chặn miệng y: "Ta tính ngươi sẽ về trong mấy ngày này, nên cũng không phái người truyền tin, có hai việc quan trọng phải nói với ngươi – Thứ nhất, Gia Lai Huỳnh Hoặc của Bắc man phái người đến rồi."

Cố Quân biến sắc.

Từ sau khi Huyền Thiết doanh nghỉ ngơi một hơi, bình định Tây loạn, liên tục như hổ rình mồi dõi về hướng Bắc, đã giảm bớt áp lực phòng vệ của Bắc cương trên diện rộng – Huyền Thiết doanh là ác mộng cả đời Gia Lai Huỳnh Hoặc, có họ ở đó, Lang vương mười tám bộ không dám manh động.

Nhưng Bắc cương xưa nay cằn cỗi, nuôi ít bò dê còn phải xem sắc mặt ông trời, trận chiến này Đại Lương còn mất bao tiền của, nói chi Gia Lai Huỳnh Hoặc toàn nghĩ chuyện báo thù mà xem nhẹ sản xuất.

Cứ thế mãi, họ không duy trì nổi là lẽ đương nhiên.

Cố Quân: "Đến đàm hòa?"

"Ừ," Thẩm Dịch gật đầu, "Việc này chưa kịp lên đại triều hội, Hoàng thượng triệu mấy người chúng ta vào cung thương nghị điều kiện của đối phương – Ngươi có biết cảm giác của ta là gì không?"

Lông mày Cố Quân giật nhẹ.

Thẩm Dịch nói: "Giống năm đó lão Lang vương dâng thêm tử lưu kim, đề nghị lấy thân làm con tin. Từ ngữ rất hay, vừa khiêm cung vừa chân tâm thật ý, điều kiện đưa ra rất sảng khoái, Tử Hi, ngươi tin bọn họ chứ?"

Cố Quân trầm ngâm chốc lát, chậm rãi nói: "Không tin lắm, người man không giống với người Tây Dương, người Tây Dương chỉ là tham lam, người man lại là kẻ thù truyền kiếp – đặc biệt là Gia Lai Huỳnh Hoặc."

Thẩm Dịch vội hỏi: "Sao lại nói vậy?"

"Từ khi Gia Lai tiếp chưởng mười tám bộ lạc, ngoại trừ báo thù Trung Nguyên thì hắn chưa từng làm việc gì khác," Cố Quân nói, "Bây giờ họ đến đàm hòa, chỉ có hai khả năng, hoặc là Gia Lai bị ai trong mười tám bộ soán vị đoạt quyền, hoặc là hắn đang ấp ủ mưu mô nào đó."

Thẩm Dịch: "Cũng không thể loại trừ khả năng mười tám bộ lạc thật sự không trụ được nữa..."

"Không, còn chưa tới mùa đông đâu, ta không tin giờ mà họ đã sơn cùng thủy tận," Cố Quân nói, "Ngươi hãy nghe ta nói, Gia Lai là con chó điên, chó điên sẽ không để ý mình ăn là thịt hay cỏ, nó chỉ biết cắn người – Đúng rồi, Hoàng thượng nói sao?"

"Hoàng thượng..." Thẩm Dịch dừng lại, hạ giọng nói: "Đây là chuyện thứ hai ta muốn nói với ngươi, có thể Hoàng thượng gần đây không được khỏe lắm."

Cố Quân sửng sốt.

"Hiện giờ đại triều hội đổi thành mười lăm ngày một lần, vào mùng một và mười lăm, có việc quan trọng khác cần bàn đều đem lên tiểu triều hội, giao cho Sở quân cơ chủ trì truyền lên Tây noãn các, chờ Hoàng thượng trả lời. Ta cảm thấy Hoàng thượng gần đây ngày càng không chịu nổi một đám người om sòm trên đại triều hội," Thẩm Dịch nhỏ giọng nói, "Đại triều hội mùng một tháng này, nội thị vừa nói tan triều, Hoàng thượng đứng dậy giẫm lên long bào của mình, suýt nữa đương trường lăn từ trên ngự tọa đại điện xuống, được điện tiền thị vệ ba chân bốn cẳng đỡ lấy, kết quả là chỗ này..."

Thẩm Dịch chỉ cẳng chân mình: "Gãy luôn, đến giờ vẫn chưa xuống giường được, ta cảm thấy y vội vàng triệu Nhạn vương vào cung có thể cũng là vì nguyên nhân này."

Cố Quân giật mình: "Ngã một cái mà có thể gãy xương luôn sao? Yếu quá!"

"Các Thái y không dám nói gì, ấp úng không ra nổi một nguyên cớ, sau đó mời Trần cô nương tới xem, Trần cô nương nói là nhiều năm lao tâm lao lực, lại thêm ăn uống không điều độ, xương xốp cả ra, mới dễ gãy – Có người đồn tiên đế năm xưa chính là..."

Chẳng trách các Thái y đều nói năng thận trọng, cũng chỉ có Trần Khinh Nhứ động chút là chạy đến quan ngoại mới dám nói thật vài câu.

Xã tắc này cũng quá hao mòn người.

Thẩm Dịch nhìn thoáng qua bốn phía, thấy nhân mã ra đón Nhạn vương đều đã đi theo Giang Sung, Cố Quân để thân vệ lại Bắc đại doanh, bên cạnh chỉ có mấy gia tướng, liền hạ giọng rỉ tai Cố Quân: "Do chuyện Lữ gia, quý phi cũng bị liên lụy, trực tiếp tước phi vị, ngoài mặt thì không sao, nhưng kỳ thực cơ bản là biếm vào lãnh cung rồi, Thái tử thì còn nhỏ, mẫu tộc cũng không có trợ lực gì, nếu Hoàng thượng thật sự... Ngươi nói y vội vã gọi Nhạn vương vào cung là có ý gì? Gửi gắm ấu chúa hay là..."

Cố Quân nhìn y một cái, Thẩm Dịch tự động ngậm miệng.

Năm đó khi hoàng thành sắp thất thủ, Lý Phong từng nhắc tới chuyện truyền ngôi – không phải cho Thái tử, mà là cho Nhạn vương.

Với tình hình sắp sửa nước mất nhà tan, Thái Sơn đổ sụp năm đó, tiểu Thái tử quả thật cũng chẳng cáng đáng nổi một gia quốc họ Lý, mà hiện giờ tuy giang sơn chưa thu về, nhưng Bắc man đã phái người cầu hòa, nghỉ ngơi vài năm, tất có sức đánh một trận, Hoàng thượng còn có thể truyền cho em không truyền cho con sao?

Cố Quân chợt nhớ tới câu nói chẳng ăn nhập gì mà Lý Phong đột nhiên nhắc tới trong cái lần Ngự lâm quân mưu phản – "Nhạn vương hồi nhỏ từng bị man nữ ngược đãi"-

Lý Phong không giống như là người sẽ chủ động hỏi, thế rất có khả năng là Trường Canh chủ động nói với hắn, sẽ là trong trường hợp nào?

Trường Canh và Lý Phong tuy là huynh đệ nhưng không thân, Cố Quân hiểu chú sói con Trường Canh kia, người không thân thì ngay cả cọng lông cũng chẳng cho vuốt, tuyệt không thể chủ động phơi bày vết thương thơ ấu để được thông cảm, trừ phi... Trong đầu Cố Quân chợt lóe linh quang, đột nhiên nghĩ đến một khả năng: Đúng rồi, Nhạn thân vương trưởng thành đội mũ đã mấy năm, vì sao không ai quan tâm chung thân đại sự của y, dù người khác không tiện nhắc tới, chẳng lẽ Lý Phong cũng quên?

Thế câu nói không đầu không đuôi của Hoàng đế Long An ngày đó rất có thể còn nửa câu sau – "Trong lòng y có khúc mắc, không muốn cưới vợ sinh con"!

Nếu Nhạn vương không có con nối dõi, nghĩa là tương lai vô luận thế nào cũng không ai có thể lung lay địa vị của tiểu Thái tử, cho nên hắn có thể sẽ giao trọng trách gửi gắm ấu chúa cho Trường Canh.

Mà Lý Phong liên tục cho tiểu Thái tử tiếp xúc với mình, một mặt là để làm dịu mối quan hệ, một mặt cũng là trải sẵn đường cho nhi tử!

Ôi tâm tư của những người này...

Thẩm Dịch: "Ngươi nói Hoàng thượng liệu có khả năng truyền ngôi cho Nhạn vương không?"

"Suỵt – đừng nhắc tới nữa," Cố Quân nói, "Không được xen vào, hãy nhớ chúng ta làm gì."

Thẩm Dịch vội đáp: "Thực ra ta còn một việc... Ừm, là việc tư."

Cố Quân sửng sốt nhìn Thẩm Dịch: "Việc gì?"

Thẩm Dịch vò đầu bứt tai một lúc: "Ngươi với Trần cô nương có thân lắm không?"

Trích trong bài Thượng da.

Thượng da,

Ngã dục dữ quân tương tri,

Trường mệnh vô tuyệt suy.

Sơn vô lăng,

Giang thủy vi kiệt,

Đông lôi chấn chấn,

Hạ vũ tuyết,

Thiên địa hợp,

Nãi cảm dữ quân tuyệt!

Bản dịch thì Thi Viện có, các bạn tự tìm xem nhé.

Cố Quân còn chìm trong sứ giả Bắc man và cái chân gãy của Lý Phong, nhất thời chưa nhận ra, mù tịt tiếp lời: "Trần cô nương? Không thân lắm – nàng ta không hay để ý tới người khác, sao vậy?"

Thẩm Dịch nghe vậy bất bình nói: "Người ta không ngại mệt nhọc ở vùng Tây Bắc chết tiệt kia làm quân y cho ngươi lâu như thế, mà ngươi chỉ được một câu không thân lắm?"

Bốn chữ "bạc bẽo phụ tình" đã hiện rõ trên mặt Thẩm đề đốc.

Cố Quân: "... Hả?"

Thẩm Dịch nhìn y đầy phẫn nộ.

Hai người một không trong trạng thái bình thường, một kích phẫn không thôi, kẻ hỏi một đằng người trả lời một nẻo mà nhìn nhau một lúc lâu, Cố Quân mới hơi có phản ứng, "Hả" một câu, nhìn Thẩm Dịch bằng ánh mắt quỷ dị: "Ý ngươi là sao?"

Thẩm Dịch thường ngày lải nhải luôn mồm đột nhiên ngậm miệng, mặt căng lên, trông cứ như thể liệt sĩ thà chết không mở miệng, tráng liệt nghênh đón ánh mắt không có hảo ý của Cố Quân, thành một cái hồ lô không miệng.

Cố Quân vẻ mặt vô tội nhướng mày, chìa một ngón tay chọc ngực Thẩm Dịch: "Ta nói Thẩm đại nhân, thánh nhân chưa từng dạy ngươi là 'phi lễ chớ nghe ngóng' hả? Ban ngày ban mặt, hai tên độc thân xúm lại dò la chuyện của đại cô nương, có ra thể thống gì không?"

Y nhớ tới quở trách không chút khách khí của Thẩm Dịch vừa nãy, lập tức thừa cơ thọc lại một nhát: "Xấu xa!"

Thẩm Dịch: "..."

Cố Quân không dưng bắt được cái thóp to đùng của Thẩm Dịch, tâm tình khoan khoái cực kỳ, thắt lưng cũng không mỏi không đau gì nữa, nghênh ngang phóng ngựa đi, còn huýt một đoạn nghe hệt như tài thổi sáo của y.

"Cố Tử Hi!" Thẩm Dịch nghiến răng nghiến lợi đuổi theo, "Ngươi... ngươi..."

Ngươi là đồ khốn nạn!

Để tránh ban ngày ban mặt nhục mạ thượng cấp ngay ngoài đường, Thẩm Dịch dùng hết sức lực mới nuốt được câu sau xuống.

Cố Quân lôi y ra trêu chọc chán chê, hai người đã bỏ rơi gia tướng, cùng đi vào hoàng thành, bấy giờ mới nghiêm mặt nói: "Trần cô nương nhân phẩm không thể chê, cũng rất có bản lĩnh – người như ngươi, ta đoán nàng ấy một lần đánh dăm ba cái hẳn không thành vấn đề."

Tuy câu này rất muốn ăn đập, nhưng Thẩm Dịch lúc này lại không cảm thấy bị mạo phạm, ngược lại nghe ngon lành – Đặc biệt là khi Cố Quân kể tới chuyện nhiều năm trước y gặp Trần Khinh Nhứ lần đầu tiên trên tặc thuyền, Thẩm Dịch nghe mà bóp cổ tay thở dài, chỉ hận không thể chui vào cảnh đó.

"Về phần tính tình nàng ta thế nào, yêu ghét cái gì... Ta cũng không tiện tìm hiểu quá rõ, có thể Trường Canh còn quen thân với nàng ta hơn." Cố Quân dừng một chút, "Có điều về gia thế của nàng, ta phải cho ngươi biết một chút."

"Trần gia phủ Sơn Tây, ta biết," Thẩm Dịch tiếp lời, "Nhiều đời xuất thần y, hành y tế thế, gia phong rất thanh chính."

Cố Quân khẽ xì một tiếng: "Ngươi nghe ngóng rõ quá đấy, tính toán đến nhà cầu hôn rồi à?"

Thẩm Dịch nghiêm mặt nói: "Ba mai sáu sính đương nhiên không thể thiếu."

Cố Quân: "..."

Vị huynh đệ này là một kẻ kỳ lạ, năm xưa đọc cả rổ sách, bị truyền thống thế gia độc hại rất sâu. Song người ta chỉ nói "lễ giáo" với bên ngoài, nghiêm với người ngoài mà thôi, đóng cửa lại tự mình xấu xa với mình, chả ảnh hưởng tới ai, đều là một đám đứng đắn rởm tự hiểu lẫn nhau.

Chỉ có vị Thẩm gia này bất đồng, trong mắt người ngoài, y bỏ Hàn lâm nhập Linh xu, sau đó lại tự sa sút thành một anh chàng nhà binh, có thể nói là "ly kinh phản đạo" đến nổi danh – Bên trong lại là một kẻ chân chính đứng đắn "phi lễ chớ nhìn, phi lễ chớ nghe", đứng đắn đến mức cả ngày đi chung với một đám lão binh lưu manh, thế nhưng gần bùn không hôi hơn mười năm.

Đoạn thời gian này Trần Khinh Nhứ ở lại kinh thành, trải qua phong ba lớn nhỏ, vị Trần gia nhân của Lâm Uyên các đại khái tiếp xúc rất nhiều với Thẩm Dịch, nhưng dưới rất nhiều tiếp xúc này, họ Thẩm lại không dám giáp mặt nói gì với nàng, chỉ dám sau lưng chạy đi hỏi thăm Cố Quân.

Nghe chừng, có thể cả mối liên hệ của Trần gia nhân và Lâm Uyên các y cũng chưa biết rõ, đến nay còn cảm thấy Trần Khinh Nhứ chỉ đơn thuần một lòng một dạ đền đáp quốc gia thôi!

Cố Quân thầm thở dài, loại đầu đất Thẩm Dịch này, thực chẳng giống thủ hạ mình tí nào.

"Thế ta nói một chuyện ngươi không biết, không được truyền ra ngoài – Trần gia phủ Sơn Tây không phải nhà hành y bình thường, họ là trụ cột vững vàng của Lâm Uyên các," Cố Quân thấp giọng nói, "Ta từng nghe Chung lão đề cập một câu, Trần cô nương hình như là gia chủ Trần gia thế hệ này, nếu thật là như vậy, nàng ta không thể gả cho ngươi làm Đề đốc phu nhân đâu."

Thẩm Dịch lập tức nghệt ra.

Cố Quân nghĩ ngợi một tẹo: "Hay là thế này, ta đi tìm người giúp ngươi nói một chút, xem trong lòng nàng ấy nghĩ sao..."

"Không, khoan đã," Thẩm Dịch vội nói, "Làm vậy đường đột quá!"

Cố Quân: "..."

Y cảm thấy mình như một tên thái giám vội trước cả Hoàng thượng, nhưng mà theo tính nết Thẩm Dịch, rất có thể cả đời cũng chẳng cưới được vợ, vì thế rất giàu kinh nghiệm chỉ vẽ: "Việc này không thể không sốt ruột đâu Quý Bình huynh à, sơ sẩy để cho người khác nhanh chân đến trước, tới lúc đó ngươi chẳng còn chỗ nào mà nói lý lẽ đâu."

Thẩm Dịch lại cân nhắc chốc lát, lắc đầu nói: "Thế cũng khoan đã, để ta nghĩ thêm."

Cố Quân nghe thế lắc đầu, y quá hiểu, một nam nhân nếu nghe một câu thân phận bối cảnh nhà gái liền sinh ra do dự, quá nửa cũng chỉ là mức độ "có chút ý định", chưa đến đặc biệt không phải ai đó thì không thể. Nhưng mà loại sự tình này, cảm thụ của người trong cuộc thế nào, y cũng không tiện đánh giá nhiều, chỉ nói một câu vô thưởng vô phạt: "Thế thì được rồi, ngươi hãy suy nghĩ trước, có chỗ nào cần ta thì cứ việc nói."

Câu này Thẩm Dịch không nghe thấy, y hãy còn chìm trong suy nghĩ của chính mình, nghiêm túc phân tích với Cố Quân: "Tình huống này quả thật ta chưa biết, nhưng ngươi vừa nói như vậy, ta cũng cảm thấy không thích hợp lắm."

Cố Quân: "Ồ."

Thẩm Dịch: "Vậy thì hết cách rồi, đành phải đợi đánh giặc xong, ta trả ấn từ quan, không làm tướng quân nữa."

Cố Quân: "..."

Xém tí nữa y đã rớt xuống ngựa.

Thẩm Dịch vẫn tự mày chau mặt ủ: "Chỉ là giặc còn chưa đánh, mà đã đi cầu hôn trước, cứ cảm thấy không may mắn – Người như chúng ta, nếu vướng bận quá sâu, trên chiến trường dễ trói tay trói chân, ngược lại nguy hiểm, vạn nhất có việc gì, chẳng phải làm lỡ làng người ta? Ôi... Ta chỉ sợ đánh giặc xong lại đi, thì thời gian với người đều không chờ ta... Thật là khó lưỡng toàn – Tử Hi, ngươi nói phải nghĩ cách gì để mấy kẻ khác tránh xa ba thước đây?"

"... Điều này thì ngươi không cần lo lắng, theo ta được biết, Trần cô nương tự có bản lĩnh này." Cố Quân dừng một chút, híp mắt lại, chợt bật cười.

Thẩm Dịch chẳng hiểu gì hết: "Cười gì?"

Cố Quân: "Cười ngươi, tài văn đỗ đạt, hôm sau lại đi ngược đường với hàn lâm, chỉ thích vào Linh Xu viện; vào Linh Xu viện mới có chút thành tích, đang có người phỏng đoán ngươi phải thành người nối nghiệp Phụng Hàm công, ngươi lại giã từ Linh Xu viện, lấy thân phận hộ giáp sư vào Huyền Thiết doanh, từng bước một đi đến hôm nay, quân công lớn lao, nhìn chung đã đi vào thần lộ một bước lên trời trong mắt người ta... Giải vây cho kinh thành, cứu giá có công, không chừng lập tức có thể phong hầu bái tướng, người khác đều cảm thấy ngươi mưu tính thỏa đáng, ngươi thì ngược lại, muốn vì cưới vợ mà từ quan trả ấn."

Thẩm Dịch tiếp tục mặt mày ủ ê mà cười – Y vốn là lòng không chí lớn, mấy năm nay vẫn tuân theo tâm vú em, trông kẻ này, nom kẻ kia, đi theo đuôi Cố Quân mà thôi. Đáng tiếc bên cạnh An Định hầu tinh phong huyết vũ quá, bất cẩn nổi danh, đạt được không hề là thứ y mong muốn, bởi vậy cũng không có gì mà không bỏ được.

Có người dễ thay lòng, dăm ba năm là hoàn toàn thay đổi, cũng có người như nước lặng, đi mười vạn tám ngàn dặm, mà bản tâm chẳng đổi thay.

Cố Quân nhìn y, đột nhiên hơi cảm khái, một chút tích tụ do vừa nghe thấy việc cung đình cũng không cánh mà bay, thân thiết bá vai Thẩm Dịch vỗ một cái.

"Sau này ngươi có việc gì cần Trần cô nương thì cứ sai ta đi," Thẩm Dịch hoàn toàn không nhận thấy nỗi lòng An Định hầu lên xuống, còn ở đó ưu sầu ưu tư, bất tri bất giác đã lại dông dài, "Cơ mà... ôi, ngươi nói không danh không phận, ta cứ đi tìm người ta hoài, liệu có ổn lắm không? Về sau liệu người ta có cảm thấy ta không đứng đắn? Tử Hi à, ngươi hãy nói xem – Thôi ngươi không cần phải nói nữa, ngươi vốn cũng chẳng mấy đứng đắn, ta cảm thấy..."

Thẩm tướng quân tiến vào quá trình tự hoài nghi mình lặp đi lặp lại.

Cố Quân: "..."

Bản tâm tuy không cần sửa, nhưng tật lải nhải không dứt này sửa được thì tốt.

Cố Quân nghe Thẩm Dịch lải nhải đau hết cả đầu, rốt cuộc hết nhịn nổi quất mông ngựa của Thẩm Dịch một phát, thừa cơ chạy trốn mất.

Cùng lúc đó, tin tức "Nhạn vương còn ở ngoại thành đã bị mời vào cung" như mọc cánh, chẳng mấy chốc đã bay vào mấy cái tai dỏng thẳng trong kinh thành, Phương Khâm đang ở nhà, mấy phụ tá vây cánh ngồi xung quanh – Lần này Giang Bắc rối loạn, Phương Khâm có cảm giác như làm mướn không công.

Đảng Lữ Dương với Phương Khâm mà nói hơi giống một cái răng sâu – Tuy mọc trong miệng mình, nhưng thường xuyên nhiễm trùng làm đau, chẳng những không thể giúp cho việc nhai, ngược lại thường xuyên cản trở, nhổ đi không phải chuyện xấu. Nhưng hắn không liệu được Nhạn vương có nhiều hậu chiêu như vậy, trước mắt cái răng sâu nhổ ra liên lụy quá rộng, Nhạn vương không ở kinh thành, nhưng đã nhân khi mình chưa định thần lại tiên hạ thủ vi cường, bỏ tuyến vận hà vào túi.

Hiện giờ Ban vận hà đã thành lập, các nơi nhà xưởng mọc lên như nấm, đã là sự thật không thể đảo ngược, với khứu giác nhiều năm chìm nổi chốn quan trường của lão hồ ly Phương Khâm, hắn biết bước tiếp theo, thuế ruộng, dân thương một loạt cải cách sẽ không thể nghịch chuyển. Hắn định "bọ ngựa bắt ve, chim sẻ đứng sau", không liệu được Nhạn vương sớm đã "Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương" từ lâu, đi một bước tính mười bước, rốt cuộc vẫn là cờ sai một chiêu.

Lúc trước Hộ bộ Phương Khâm mới dẫn dắt bị bệnh trầm kha khắp nơi, từng có một tuần trăng mật với Sở quân cơ của Nhạn vương. Khi đó giang sơn thất thủ, cất bước khó khăn, trăm phế chờ hưng, chưa ai đấu đá nhau, cả triều đều là bạn cùng chung hoạn nạn, họ từng cùng nhau sứt đầu mẻ trán tìm kiếm một đường xoay chuyển gian nan cho gia quốc này, các bên đều kính trọng khâm phục tài hoa của đối phương, nào biết mỗi người đi một ngả nhanh như vậy.

Phương Khâm đôi lúc khó lòng kiềm chế hâm mộ Giang Hàn Thạch, nếu hai người đổi chỗ, hắn tự thấy sẽ lợi hại hơn hạng Giang Sung Từ Lệnh nhiều, nếu hắn không họ Phương, dù hắn chỉ là một tiểu quan thất phẩm mười năm gian khổ học tập mà thi đỗ...

Nhưng thế sự trêu người – trước mắt nghĩ những điều này cũng vô dụng, Nhạn vương quyết tâm phải trừ sạch thế lực cũ, qua vụ Giang Bắc nổi loạn, đồ đao đã lộ ra, hiện giờ, họ đã là thế như nước với lửa.

Một trợ tá dè dặt mở miệng: "Đại nhân, ta nghe nói năm đó khi người Tây Dương xâm phạm, Hoàng thượng từng nhắc tới chuyện truyền ngôi cho Nhạn vương, lúc này lại vội vội vàng vàng triệu y vào cung... Cho dù sau khi thiên hạ thái bình Hoàng thượng không còn ý đó, trọng thần gửi gắm khi Thái tử tuổi nhỏ cũng chạy không thoát, chúng ta phải chăng nên sớm có tính toán."

Phương Khâm định thần lại, híp mắt.

Một kẻ khác nói: "Vốn lần trước Dương Vinh Quế lấy danh nghĩa Nhạn vương tạo phản, trong lòng Hoàng thượng vị tất không có khúc mắc, nhưng y ra khổ nhục kế như vậy, lại mượn cơ hội bị thương tạm lánh mũi dùi, yên lặng thời gian dài... Hiện tại Hoàng thượng hiển nhiên đã thôi nghi ngờ, y nhân thời cơ này về kinh nhậm chức, chỉ sợ phải bắt đầu động tác lớn."

Trong lòng Phương Khâm kỳ thực hơi do dự, hắn khẽ vuốt râu: "Bắc man phái sứ giả tới, Giang Nam còn đang chuẩn bị chiến tranh, trong hai ba năm chỉ sợ còn phải đánh giặc, dọc tuyến vận hà đang trên đà phát triển, toàn cảnh lưu dân mới ổn định, lúc này nếu động tới Nhạn vương, liệu có hại đến quốc tộ hay không – Nếu thật là như vậy, ta chỉ sợ phải gánh bêu danh tội nhân thiên cổ."

Trợ tá cười nói: "Đại nhân trung tâm với triều đình, khiến người ta cảm phục, chỉ là triều đình rời Nhạn vương vị tất không đi tiếp được, thương giả thấp hèn, gọi là 'nghĩa thương' cũng đều thoát không được bản tính hám lợi, chỉ cần không ảnh hưởng lợi ích của họ, trong triều ai định đoạt có can hệ gì? Có Phương đại nhân ưu quốc ưu dân, cho dù không có Nhạn vương, chúng ta vẫn có thể ổn định lưu dân, đánh giặc tiếp như thường – Nhưng ngài nên hiểu rõ, Nhạn vương dã tâm rành rành, thân tại cao vị, sớm muộn phải nghĩ cách sắp xếp vây cánh của y vào, chèn ép chúng ta, còn để y vô pháp vô thiên tằm ăn rỗi như vậy, một ngày kia tính mạng gia đình chúng ta sẽ khó giữ được."

Mọi người lập tức nhao nhao phụ họa.

"Nhạn vương tuy có tài, làm việc lại quá cấp tiến, tiếp tục để mặc y, chỉ sợ mới là hại nước hại dân."

"Phương đại nhân không thể thoái nhượng nữa, nếu mặc cho y thượng vị, chỉ sợ mới là thật sự không dung được chúng ta..."

Phương Khâm thở dài, đưa tay dằn tạp âm cả phòng xuống, quay người nói với tâm phúc bên cạnh: "Đi đón 'người kia' tới."

Một cơn lốc đang ấp ủ lại lần nữa hội tụ.

Trường Canh hoàn toàn không hay biết gì rời khỏi thâm cung trở về hầu phủ, chẳng biết Lý Phong đã nói gì với y, thoạt nhìn tâm trạng y không tệ, vừa về nhà đã tìm Cố Quân mà dính lấy, bám chặt không buông, ăn cơm thôi mà cũng tâm viên ý mã.

Cố Quân không hỏi Lý Phong triệu y vào cung nói gì, thông qua sắc mặt và lời nói cũng có thể đoán ra đại khái, dùng đũa đập văng cái tay không lo bưng bát cầm đũa đàng hoàng mà bò lên đùi mình của Nhạn vương, giống như vô tình nhắc tới: "Ngươi định khi nào về triều làm việc lại?"

Trường Canh cọ mu bàn tay một chút, gắp thức ăn cho Cố Quân để lấy lòng, nhìn y lơ đãng nói: "Nghỉ ngơi vài ngày rồi về, Hoàng thượng nói y hiện tại tinh lực không tốt, muốn ta mau chóng phục chức – Tử Hi, ngươi ăn nhiều vào."

Cố Quân xua tay: "Muộn quá rồi, lót dạ chút là được, ăn nhiều khó chịu – ngươi có nghe chuyện Gia Lai Huỳnh Hoặc phái người tới chưa?"

"Ừm," Trường Canh gật đầu, chặn bàn tay y muốn lấy chén trà, múc một bát canh cho y, "Việc này thương nghị thế nào, còn cần Cố soái định đoạt."

"Dã thú lúc trọng thương, thường sẽ giả bộ hấp hối, dụ kẻ địch buông lỏng phòng bị, sau đó lồng lên cắn, phải cẩn thận." Cố Quân nói đến đây, nhìn Trường Canh một cái, thổi lá rau trong canh ra, húp một hơi hết sạch.

Trường Canh ngây ra, bỗng nhiên cảm thấy câu này của Cố Quân không chỉ nói đến người man, tựa hồ còn đang nhắc nhở y điều gì.

Khoảng thời gian này Trường Canh sống quá xuôi chèo mát mái, trước tiên là hoàn mỹ giải quyết chuyện Giang Bắc, đạt thành tất cả mục tiêu định trước, không nhanh không chậm thu quan, trên đường về lại có Cố Quân làm bạn – Ngoại trừ tháng ngày ở Nhạn Hồi lúc nhỏ, Đại Lương liên tục binh hoang mã loạn, Cố Quân rất ít có cơ hội ở bên cạnh y lâu như vậy, khiến người ta có ảo giác phải thiên hoang địa lão, hoàn toàn không cảm nhận được sự vắng vẻ giá lạnh cuối thu đầu đông.

Trường Canh từng bất an vô cùng, đối với hết thảy xung quanh đều cẩn thận chặt chẽ, chút xíu dấu chân ngựa cũng có thể kinh động y, khi đó tuy từ sáng đến tối thần kinh căng lên, nhưng quả thật cũng tính toán không bỏ sót gì, rất ít phạm sai lầm, mà lúc này chìm trong ôn nhu hương nhiều ngày, qua một câu của Cố Quân, y mới giật mình phát giác mình hơi đắc ý quá.

Trường Canh ổn định tâm thần, im lặng nhớ lại chốc lát cảnh tượng Lý Phong triệu y vào cung, nhận thấy một chút ý tứ bất đồng – Đương kim cửu ngũ chi tôn co mình trong một nơi nồng nặc mùi thuốc, cung thất nặng nề và cung nhân im lặng đều có vẻ già nua như vậy, khắp phòng lan tràn vị đắng khi gần đất xa trời, mà Lý Phong đang lúc tráng niên, chưa thật sự già lọm khọm, nhìn thấu phàm trần, thế trong lòng hắn sẽ là mùi vị gì?

Có người khi thể nghiệm sự bất lực của mình, sẽ nản chí ngã lòng chủ động thoái nhượng, nhưng Lý Phong tuyệt đối không phải là loại người đó, nếu hắn dễ dàng thoái nhượng như vậy, thời điểm Bắc đại doanh phản loạn đã chẳng nổi giận đùng đùng gạt đám đông mà ra, cũng sẽ không lên hồng đầu diên giữa lúc quân địch hãm thành.

Cố Quân quả thật đã nhắc nhở y, Trường Canh giật mình, sau gáy rịn mồ hôi lạnh, sự mừng rỡ tâm viên ý mã trên mặt lắng lại.

Cố Quân biết y đã hiểu, người này quá thông minh, đôi lúc một câu là đủ, chẳng cần nhiều lời, liền đưa tay sờ đầu Trường Canh.

Trường Canh túm tay đối phương kéo xuống, Cố Quân ung dung chờ nghe y tự xét lại mình, vốn nghĩ chí ít cũng phải được một câu như "không có ngươi ta phải làm thế nào", ai ngờ Trường Canh nắm tay một lúc, chẳng những không tự kiểm điểm, còn vô lý trách móc: "Đều tại ngươi, khiến đầu óc ta mụ mị luôn."

Cố Quân: "..."

Đến kinh thành chưa đầy nửa ngày, mà y đã một mình đóng tận hai vai "sắc quỷ" và "họa thủy", thật là bận rộn quá sức.

Nhạn vương điện hạ lúc nhỏ ngại ngùng nội liễm biết mấy, sao càng lớn càng vô liêm sỉ vậy?

Cố Quân hất Trường Canh ngày càng không khách sáo ra, tiện tay cầm bầu rượu treo bên cạnh, Trường Canh được huấn luyện chuyên nghiệp nhảy lên, giơ tay cướp: "Trời lạnh như thế, không được uống rượu lạnh!"

Cố Quân tung bầu rượu từ tay trái sang tay phải, nhanh nhẹn chụp lấy, tay trái để không vừa vặn ôm lấy Trường Canh lao vào lòng mình, vô cùng mau lẹ nâng cằm y hôn một cái, không đợi Trường Canh có phản ứng mà trả đòn, đã quay người mặc thêm áo choàng cười nói: "Ta phải đến Bắc đại doanh một chuyến, đêm nay ngươi ngủ một mình đi, trước khi ngủ nhớ đọc kinh hai lần, tránh để đầu óc mụ mị thêm."

Trường Canh: "..."

Chuyện trên đường đã đồng ý thì sao!

Đường đường An Định hầu, vậy mà lại chơi nuốt lời!

Cố Quân tuy là trêu y, nhưng quả thật cũng có việc, Cố Quân vốn nên trực tiếp ở lại Bắc đại doanh, do thật sự không yên tâm về Trường Canh, mới quay lại hầu phủ trước, chờ y trở về ăn bữa cơm, trước mắt tình hình trong cung đã nắm được đại khái, lại mã bất đình đề rời nhà chạy tới Bắc đại doanh – Bắc đại doanh không chỉ thống lĩnh ngoại phòng kinh thành, còn là trạm trung chuyển quân tình khẩn cấp các nơi truyền vào kinh thành, sứ giả Bắc man tới đột nhiên, Cố Quân không yên tâm lắm, có thể nói là nhọc lòng gia sự xong liền bắt đầu nhọc lòng tới quốc sự.

Kinh thành đã cuối thu, vừa bước khỏi cửa thì cảm giác giá rét không kìm được đã thò đầu ra, âm trầm hất vào mặt. Trong đêm tối gió đã bước đầu lạnh hơn, mà lúc ra ngoài Cố Quân vẫn theo thói quen nhiều năm – chỉ vận áo đơn.

Chỉ là hôm nay, Cố Quân vốn đã lên ngựa, song chưa ra cửa bỗng cảm thấy gió quan nội cũng hơi buốt xương, thầm thở dài, rốt cuộc lại quay vào, treo bầu rượu lạnh trong chuồng ngựa, sai Hoắc Đan lấy một tấm áo choàng cho y mặc, bấy giờ mới vội vàng đi.

Trong khoảng thời gian này Cố Quân tuy phải chạy ngược chạy xuôi vì chuyện bạo dân Giang Bắc phản loạn và nghịch tặc kinh thành bức vua thoái vị, nhưng liên lạc với Bắc Cương Thái Phân không hề gián đoạn, nếu Giang Nam đã là thảm trạng "Di dân lệ tận Hồ trần lý", không cần nghĩ kỹ thì y cũng biết tình hình vùng Bắc cương là như thế nào.

Huyết thù của người man và Trung Nguyên, có lẽ thật sự phải chờ hàng trăm năm qua đi, người hai ba đời này chết hết, mới có thể hơi dịu đi.

Cố Quân mới đến Bắc đại doanh, ngồi xuống chưa kịp uống miếng nước, vừa vặn thư của Thái Phân đã tới.

Trên thư viết rất đơn giản, song trong dăm ba câu lại chứa rất nhiều tin tức – Hai quân giằng co lâu như vậy, hai bên đều có thám báo thám tử của đối phương, người họ cài trong trận địa địch gửi thư báo, lúc mùa xuân, Gia Lai Huỳnh Hoặc tựa hồ bệnh nặng một trận, từ đó về sau không còn thấy hắn lộ mặt.

Kỳ lạ hơn là, trưởng tử của hắn lấy tận hiếu làm danh, cả ngày không thấy bóng dáng, sự vụ liên quan do thứ tử làm thay.

Gia Lai có ba nhi tử, đều do một nữ nhân sinh, noi theo Hán chế, lập trưởng tử làm thế tử. Phụ thân bệnh nặng, nhi tử tranh nhau tỏ hiếu tâm cũng không có gì bất thường, nhưng thế tử hiếu thuận đến chính sự cũng không màng, để đệ đệ làm thay, có thích hợp không?

Dựa theo lời thuật lại, bên phía người man xảy ra chuyện gì tựa hồ đã hiện rõ, thứ tử tài năng vẹn toàn không cam lòng do đẻ muộn vài năm mà phải dựa bóng huynh đệ để sống, dùng cách nào đó giam lỏng Gia Lai và thế tử, soán vị đoạt quyền.

Đương nhiệm thống lĩnh Bắc đại doanh nói: "Đại soái, ngoại trừ mười ba điều kia, phía mười tám bộ lạc còn đồng ý đưa tiểu nhi tử của Gia Lai đến làm con tin, cho chúng ta liều thuốc an thần trong việc đàm hòa bước tiếp theo. Thái tướng quân mới truyền tin nói xa giá của tiểu man tử đang chuẩn bị nhập quan, trình văn điệp lên kinh thành, chờ triều đình trả lời, mạt tướng đang định cho người đưa đến hầu phủ, vừa hay ngài đã đến."

Đoạn hắn trình một bản sớ khác cho Cố Quân.

Việc Bắc man liên quan đến quân vụ biên cương, trước khi trình Sở quân cơ có thể để chủ soái giữ Huyền Thiết hổ phù xem qua, chỉ thấy trên quyển sổ xếp người man đệ lên quả thật viết vô cùng thành khẩn, nói rõ tam vương tử và xa giá tùy tùng gồm những ai.

Tam vương tử mới mười lăm tuổi, nghe nói là một đứa trẻ choai choai yếu ớt lắm bệnh, đi theo có sứ thần dịch giả một người, thiếu niên nam nữ nô lệ mỗi loại mười người, thị vệ hộ tống mười hai người, mỗi người họ gì tên gì, gốc gác đều viết rõ ràng, đến cả số tuổi và chức vụ của các nô lệ cũng viết rõ, nghiêm ngặt tuân theo thủ tục thông quan của Đại Lương, Cố Quân xem đi xem lại ba lần từ đầu đến cuối, không thấy chỗ nào ngoài khuôn phép.

Thẩm Dịch ở bên cạnh khoanh tay nói: "Như vậy xem ra lại là thật, nhị vương tử dã tâm bừng bừng nhốt cha anh, còn muốn đuổi tận giết tuyệt tống đệ đệ ruột đi làm con tin, để hắn dễ bề độc bá mười tám bộ lạc."

"Độc bá mười tám bộ lạc thì có gì hay?" Cố Quân ném quyển sổ đi, y ngồi một lúc lâu bên lò sưởi trong doanh trướng mà không ấm lên nổi, lúc này vẫn như cố ý như vô tình để hai tay sát vào nguồn nhiệt, xoa nhẹ, "Nếu lần này chiến bại, về sau người man càng không có sức đánh trả, chút tử lưu kim hàng năm không ăn không uống đào lên ở quan ngoại phải tiến cống hết, đến nữ nhi của thần nữ và Lang vương cũng không bảo vệ nổi."

Mối thù truyền kiếp của người man và người Hán Trung Nguyên không phải mới một hai ngày, từ mấy triều trước, dân tộc du mục phương Bắc đã có thói quen mùa màng không tốt thì về Nam đòi tiền. Bắc có sự hung hãn toàn dân là binh, Nam có rường cột danh tướng xuất hiện lớp lớp, song phương liên tục giằng co giữa về Nam đánh cướp và hăng hái phản kích, trong trăm năm chẳng ai chân chính chinh phục ai – cho đến khi Đại Lương tiên phong phát triển kỹ thuật hơi nước.

Quang cảnh những năm đó, người thời nay chỉ có thể tìm hiểu đôi chút từ sử liệu. Đó là thời đại hoàng kim của trường tý sư, khu vực Trung Nguyên đất màu ngàn dặm như một con cự thú thức tỉnh, hỏa cơ cương giáp như măng mọc sau mưa, khinh cừu, trọng giáp, cự diên, phi ưng... Hơi nước ngùn ngụt, thiết khôi lỗi hoành hành trong kinh thành, tầm bắn của trường đoản pháo cơ hồ thay đổi từng ngày.

Mới đầu, mở hải vận, Đại Lương chung sức phát triển hỏa cơ cương giáp từng bị người man chưa khai hóa khinh bỉ là "người Nam chuyên chú xa xỉ với bàng môn tà đạo". Lang vương phương Bắc quá tin vào nanh vuốt của mình, ngạo mạn để lỡ cơ hội, không thể ngồi trên nùng vân tử lưu kim phụt lên cao, thậm chí sau đó bị người Trung Nguyên đánh cho mấy chục năm không có sức cựa mình, tử lưu kim trong nước bị bắt dâng cống, hồ hởi đuổi theo cũng không thể có được kỹ thuật cương giáp của riêng mình, đến nay trang bị cũng dựa vào người Tây Dương chi viện.

Vết xe đổ đầm đìa máu này, mười tám bộ lạc không thể không coi trọng, không thể trơ mắt nhìn Đại Lương hiện giờ dựng nhà xưởng khắp nơi, hủy bỏ chưởng lệnh pháp, sắp sửa đến thời kỳ đỉnh cao thứ hai của kỹ thuật hỏa cơ cương giáp – Tiếp tục phát triển theo đà hiện tại, nếu mặc cho Đại Lương sống qua mùa đông giá rét, chậm rãi hồi phục, e rằng man tộc phương Bắc sẽ thật sự không còn đường sinh tồn.

"Nhị vương tử là người thế nào, ta không dám nhận xét," Cố Quân nói, "Nhưng ta hiểu Gia Lai Huỳnh Hoặc, lão đó thà chết cũng sẽ không ngồi chờ chết, đừng nói chỉ là đưa một đứa con trai tới, cho dù đưa cha ruột tới, chúng ta cũng phải đề phòng – Lấy ấn đến cho ta."

Đêm này, hơn chục đạo phong hỏa lệnh phát ra từ Bắc đại doanh, cấp bậc lại giống thời điểm người Tây Dương binh lâm cảng Đại Cô, tất cả trạm dịch dọc tuyến Tây Bắc đến kinh thành như lâm đại địch tăng thêm binh lực, Linh Xu viện phái thêm một nhóm nhân thủ chạy tới trú địa Bắc phòng quân, kiểm tra tình hình hỏa cơ cương giáp, chuẩn bị đánh một trận bất cứ lúc nào.

Đại Lương trong cảnh giông bão sắp đến tiến vào mùa đông, sẽ nhanh chóng bước sang một năm mới, trên triều đình lại hết sức bình yên.

Nhạn vương nắm giữ Sở quân cơ, cơ hồ là trung tâm của lốc xoáy, y trở về làm cả triều trên dưới đều âm thầm lưu tâm, nhưng Nhạn vương lại ra ngoài dự liệu của mọi người.

Y không hề như Phương Khâm nghĩ, trở về liền đao to búa lớn bắt đầu tiếp tục cải cách, ngược lại đi "nấu cá nhỏ". (Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên: Trị nước lớn như nấu cá nhỏ – Đạo Đức kinh)

Nhạn vương sau khi về kinh liền đổi hẳn trạng thái bận tối mày tối mặt lúc trước, đầu tiên ở lì trong nhà non nửa tháng, rồi mới im ắng xuất hiện ở Sở quân cơ, trên triều hội lớn nhỏ cũng không hay lên tiếng, giống như lại quay về làm người ẩn hình trước cuộc chiến, bình thường ở Sở quân cơ xử lý một vài sự vụ hằng ngày, nên viết lược thuật trọng điểm thì viết lược thuật trọng điểm, nên đưa vào cung thì đưa vào cung, chuyện trong phận sự làm chu đáo nghiêm cẩn không để người ta lời ra tiếng vào, không tính là lười biếng, ngoài ra cũng đừng mơ y nhọc lòng một chuyện dư thừa nào nữa.

Dù sao chỉ xét số lượng và chất lượng tấu sớ Lý Phong ở trong cung nhận được, Nhạn vương có trở về hay không cơ bản cũng chẳng ảnh hưởng gì.

Trong số những người lúc trước hàng đêm chong đèn ở Sở quân cơ đến khuya cũng không còn bóng Nhạn vương, y ban ngày đến dạo một vòng, chập tối tới giờ là đi, đúng giờ tan triều đúng giờ nghỉ ngơi, không có việc không gặp khách, còn làm một khu vườn nhỏ ở kinh giao, lúc Cố Quân cắm mặt trong Bắc đại doanh không về nhà, y liền đi bộ sang đó trồng hoa trêu chim, chưa đến nửa tháng, lại dạy dỗ con sáo khốn nạn bắt từ Thẩm gia chuyển sang nói ngọt như mật, gặp người là khen... mỗi tội đuôi trọc lóc, lông chim để hạ nhân làm cầu tặng tiểu Thái tử chơi.

Chân Lý Phong có thể đi một chút rồi, mỗi ngày phê tấu sớ xong, nhờ nội thị đỡ có thể đi vài vòng trong phòng, hôm đó tình cờ nhớ tới, đến thư phòng Thái tử, Thái tử rất ngoan ngoãn, học bài cũng không gian lận giở trò, Lý Phong không kinh động tới nó, vịn nội thị đứng ở cửa sau một lúc, ánh mắt lại bị một món bài trí nhỏ trên bàn Thái tử thu hút.

Chỉ thấy đó không phải phôi đất sét bình thường, mà là giá kim loại, phần đuôi phun hơi nước li ti, trên ray kim loại kê hai bên có một chiếc xe ngựa nhỏ tinh xảo, thân xe là một cái đồng hồ Tây Dương, đang chạy qua lại trên ray, vây một chậu hoa nho nhỏ ở giữa, chậu còn để không, có thể nhìn thấy lỗ thông hơi đặc biệt để lại ở phần đáy, có lẽ Thái tử vẫn chưa nghĩ ra nên trồng gì.

Lý Phong từ từ đi qua cầm lên ngắm nghía, Thái tử giật nảy mình, vội đứng dậy chào theo quy củ, trộm liếc phụ thân mình, sợ bị quở mắng "ham chơi mất cả ý chí".

Lý Phong ước chừng là tâm trạng tàm tạm, không thấy vẻ gì là giận, chỉ hỏi: "Phủ nội vụ tăng thu giảm chi, không phải mấy năm nay không cho họ dâng mấy thứ đồ chơi xa xỉ này sao, từ đâu ra đây?"

Thái tử thở mạnh cũng không dám, dè dặt trả lời: "Hồi bẩm phụ hoàng, thứ này không phải phủ nội vụ mua, là tứ hoàng thúc cho nhi thần ạ."

Lý Phong hơi nhíu mày: "Mấy hôm không gặp A Mân rồi, y chính là bận rộn làm mấy món này?"

Nội thị tiến lên trả lời: "Hoàng thượng, không phải lần trước Nhạn vương điện hạ xin người một khu vườn ạ? Gần đây công vụ không bận, y liền dựng một cái lán ấm trong vườn, chăm bón rất nhiều hoa cỏ lạ, còn cùng Cát linh xu nghiên cứu không ít loại chậu nhiều kiểu dáng, hiện tại cũng sắp Tết rồi, mọi nhà đều muốn trưng hoa, chậu cảnh mới lạ của điện hạ ngàn vàng khó cầu đấy ạ – Người xem trong xe ngựa này chứa nước, mỗi ngày sẽ tự tưới đúng giờ, nếu ánh sáng tốt, nó chạy vài vòng như vậy, chỗ bọt nước qua còn có cầu vồng nhỏ cơ."

Thái tử ở bên cạnh nhỏ giọng nói: "Hoàng thúc nói người mua đều là hoa cỏ bình thường ở nông thôn, một đồng một bó to, mua về bỏ trong chậu chẳng qua cắt tỉa tạo hình, lừa gạt kẻ có tiền học đòi văn vẻ rất tốt."

Lý Phong: "Hồ đồ, không ra thể thống gì! Trẫm lần trước bảo y phụ tá Thái tử nhiều hơn, chính là để y dạy Thái tử cách chơi hoa chơi chim lừa gạt người ta sao?"

Mặt hắn hơi sầm xuống, Thái tử liền sợ hãi, im như thóc đứng đó.

Lý Phong bỏ mạnh chậu hoa xuống, đanh mặt hỏi: "Trẫm để ngươi đi theo Nhạn vương học đạo trị quốc lý chính, y dạy ngươi những gì, nói nghe xem."

Thái tử nhanh chóng nhìn hắn một cái, trong lòng lo lắng, ngoài miệng lại không dám chậm trễ, lí nhí trả lời: "Hồi... hồi bẩm phụ hoàng, tứ hoàng thúc dạy nhi thần, trị đại quốc không phải là cần cả đêm không nghỉ, hết lòng hết sức, quan trọng nhất là phải vật tận kì dụng, nhân tận kì dụng, pháp luật và chế độ chính là nền tảng chấp chính của người thượng vị, chỉ cần xây dựng chế độ pháp luật hoàn thiện, để bá quan văn võ ai làm việc nấy, nguồn cung quốc khố ổn định, ưm..."

Lý Phong mặt mày hơi dịu đi, nghe nhi tử ngập ngừng, không khỏi truy hỏi: "Thế nào?"

Thái tử cố gắng đáp: "... Có thể nhất lao vĩnh dật làm biếng ăn hoàng lương ạ."

Lý Phong: "..."

Tiểu Thái tử mím chặt môi, sợ phụ thân nghe lời khốn nạn ly kinh phản đạo này sẽ giận tím mặt, song đợi hồi lâu, quở mắng và trừng phạt trong dự đoán không hề rơi xuống đầu, nơm nớp lo sợ ngẩng đầu lên nhìn Lý Phong, lại thấy đế vương nói một không hai kia sắc mặt trầm tĩnh, như hơi suy tư rất lâu, mới cảm thán: "Y nói đúng, A Mân nhìn thấu hơn trẫm."

Thái tử nhìn hắn mà chẳng hiểu gì hết, luôn cảm thấy hôm nay tâm trạng phụ thân rất tốt.

Trong triều có mấy kẻ đầu đất mắt mù cho rằng Nhạn vương từ đây im lặng, là vì chuyện Dương Vinh Quế tạo phản mất thánh tâm mới không dám có động tác gì, yên tâm lớn mật dâng tấu tố tội Nhạn vương, liệt ra bao nhiêu tội trạng, Hoàng đế Long An hiếm khi lộ diện trên đại triều hội đương đình nổi giận, che chở thấy rõ.

Chẳng những thế, hôm sau, Hoàng đế vắt cổ chày ra nước này lại phá lệ phê chuẩn cho phủ nội vụ một khoản chi vượt mức, giá cao làm oan đại đầu một lần, mua một đống chậu cảnh kim loại tinh xảo mới lạ trong vườn Nhạn vương đưa đến các cung, xem như Lý Phong tự bỏ tiền túi ủng hộ đệ đệ.

Phong thủy ở Sở quân cơ khiến người ta nhất thời không thể hiểu nổi.

Tấu buộc tội đám người Phương Khâm chuẩn bị sẵn viết sửa sửa viết, tận đến Tết vẫn chưa có cơ hội trình lên, khiến Phương Khâm cũng không tự chủ được nghi hoặc – Chẳng lẽ trên đời thực sự có người nhận nhiệm vụ lúc lâm nguy sau đó trả ấn rời đi, không hề có dã tâm?

Cuộc sống bình yên như vậy kéo dài đến ngày hai mươi ba tháng Chạp, con tin Bắc man đến kinh thành.

Cuối năm đầu khi Cố Quân còn ở biên cương Tây Bắc, toàn cảnh Đại Lương sầu vân thảm đạm, chuẩn bị mất nước bất cứ lúc nào.

Song năm nay, cả quốc gia hồi sinh với sức sống kinh người, oanh ca yến vũ ngày xưa dẫu không còn thấy nữa, nhưng bọn khỉ con đầu đường cuối ngõ xếp hàng mua kẹo mạch nha đã lục tục mặc đồ mới, ban ngày thỉnh thoảng có thể nghe thấy vài tiếng pháo vang, mọi nhà cũng bắt đầu bận rộn chuẩn bị đồ tết.

Tường thành sập lại dựng lên, lưới cấm không trên Kỳ Minh đàn cũng mở ra tầm nhìn nghiêm ngặt, bạch hồng thiết cung và thiết khôi lỗi im lặng xếp đội trên cổng thành nhìn theo các vị khách không mời, Bắc đại doanh đi theo hộ tống, nghiêm túc dừng lại ở ngoài cửu môn, trong cảnh lặng ngắt như tờ nghiễm nhiên là nhất phái tinh khí thần được máu và lửa trui luyện qua.

Vào cái năm mưa gió liên miên này, chỉ riêng công khởi tử hồi sinh, tương lai trên sử xanh tất không thể thiếu được Nhạn thân vương.

Xa giá của tam vương tử man tộc chậm rãi đi qua phố dài, gió lạnh thấu xương vén màn xe lên một góc, thấp thoáng lộ ra khuôn mặt gầy gò nhợt nhạt, lập tức trong xe thò ra một bàn tay kéo màn, ngăn tầm mắt dò xét của hai bên.

Lúc này, Cố Quân đang vận thường phục ngồi trên Vọng Nam lâu, trên mũi đeo một mảnh kính lưu ly – không phải mảnh kính bình thường dùng gấp khi mù, mà là một loại thiên lý nhãn cự ly xa dùng để ngắm trên chiến trường.

Trường Canh Thẩm Dịch đều có mặt, giây lát sau cửa gian nhã bị đẩy ra, một bóng người lướt vào, chính là Tào Xuân Hoa sau chuyến đi Giang Bắc hành tung thành mê.

Tào Xuân Hoa vào phòng hành lễ đơn giản, ngồi phịch mông xuống: "Khát muốn chết!"

Trường Canh tập mãi thành quen bưng một cái bát tô, rót đầy rượu, Tào Xuân Hoa mặt không đỏ thở không dốc mà nhận bát, một ngụm nốc cạn, ai không biết chắc còn tưởng hắn đang uống nước – khiến tửu quỷ Cố Quân cũng há hốc mồm, cảm thấy mình đã gặp phải sâu rượu.

"Thêm bát nữa," Tào Xuân Hoa thở dài thoải mái, "Sau khi chia tay Đại soái ở kinh thành, ta liền trở về phương Bắc, dọc đường phong sương vũ tuyết, chịu khổ không ít."

Tào Xuân Hoa từ nhỏ đã rất giỏi thuật biến trang dịch dung, học tiếng phiên bang nghe qua không quên, mươi bữa nửa tháng là lưu loát, bị Trường Canh phái đến biên cảnh Bắc cương trường kỳ ẩn nấp, bởi vì khi xuống Giang Bắc tra án cần một thế thân hoàn mỹ, mới triệu hắn về.

Tào Xuân Hoa bưng bát rượu thứ hai, ném mị nhãn cho Cố Quân đang hơi thèm, thành công gợi lại hồi ức kinh khủng "người này mang khuôn mặt Trường Canh uốn éo thắt lưng đến khố" của Cố Quân.

Cố Quân im lặng phủi rụng da gà, mặt xanh xám nhìn đi chỗ khác.

Trường Canh: "Sao trông thảm hại thế?"

"Đừng nói nữa, tính luôn nô lệ nam nữ, là cả một đội cao thủ, ta căn bản không lại gần được họ trong vòng một dặm, phải vừa lăn vừa bò mà bám theo." Tào Xuân Hoa uốn giọng nhu mì nói, "Ôi, không giấu gì chư vị, lúc còn ở Bắc cương, ta từng lẻn vào đội hộ vệ của Gia Lai Huỳnh Hoặc, thậm chí giả dạng làm nữ nô nhị vương tử sủng ái nhất lượn trước mặt hắn một ngày một đêm không bị phát hiện, nhưng hơn một năm qua, độc chưa từng đến gần tam vương tử này, ngay cả hình dáng cũng chưa thấy."

Trường Canh hỏi: "Lúc gã xuất hành nhìn từ xa một cái cũng không làm được à?"

"Gã căn bản không xuất hành, mười tám bộ đều nói tam vương tử mắc bệnh hiểm nghèo, không thể ra gió," Tào Xuân Hoa thở dài nói, "Trừ chính Gia Lai Huỳnh Hoặc ra, những người khác ngay cả một sợi lông gã cũng chưa thấy. Bản thân tam vương tử chính là cấm ngữ của mười tám bộ lạc, chỗ gã ở có ba tầng thủ vệ, tầng ngoài cùng ta từng thử trà trộn, có thể vào, tầng thứ hai đếm ngược thì không được, người ở bên trong đều hệt như thiết khôi lỗi, chẳng giao du với ai, nhưng đều là cao thủ đứng đầu, còn là tử sĩ, ta đã thử vài phương pháp, mà thật sự chẳng ăn thua gì, suýt nữa đả thảo kinh xà, đành phải rút trước – Điện hạ nhìn thấy sứ thần đi theo kia chưa?"

Mọi người cùng nhìn theo hướng đầu đũa Tào Xuân Hoa chỉ, vừa vặn thấy nam tử trung niên kia quay đầu lại nói chuyện với thị vệ, mặt mũi không đặc biệt, nhưng trên người loáng thoáng lộ ra khí chất khó tả, tráng kiện tựa núi cao vậy.

Tào Xuân Hoa: "Người đó là đội trưởng thân vệ của Gia Lai Huỳnh Hoặc, là một trong những tâm phúc quan trọng nhất của hắn, cực kỳ lợi hại, ta không nhận lầm đâu."

Mấy người ở đây đều lấy làm kinh hãi.

Thẩm Dịch nhíu mày nói: "Nếu thật là như vậy, tin tức của Thái Phân tướng quân không nhất định chính xác, soán vị gì đó rất có khả năng là người man đang diễn một vở kịch nội loạn cho chúng ta xem, con tin đưa tới lần này chưa biết chừng là lai giả bất thiện."

Cố Quân không lên tiếng, y đột nhiên có cảm giác cực bất an.

Hai nước đang giao chiến, hiển nhiên, đội con tin và sứ thần này sẽ không được lễ ngộ, đoàn tam vương tử thậm chí không có một người tiếp kiến đàng hoàng, chỉ lệnh của Lý Phong cho Hồng Lư tự là "xem mà làm", Hồng Lư tự khanh quả thực lĩnh hội thánh ý, qua loa an trí con tin man tộc ở một trạm dịch cho sứ tiết, đồng thời ngay ngày họ vào ở liền thay mới nội phòng kinh thành, Ngự lâm quân mới tổ kiến vây chặt trạm dịch, nửa canh giờ thay ca một lần, bất kể ngày đêm tuần tra mười hai lần một ngày.

Mấy hôm ấy hết thảy đều có vẻ không bình thường lắm, trước là đến một con tin man tộc quỷ dị thần bí, sau đó Trường Canh lại bị bệnh cực kỳ không đúng lúc – ra gió lạnh một chút vậy mà lại lên cơn sốt.

Trường Canh thường niên tập võ, biết chút y thuật, rất biết dưỡng sinh, lại thêm chẳng qua mới ngoài hai mươi, theo lý gió mạnh cũng chẳng làm gì được y, nhưng hôm đó không biết là thế nào, cơn sốt thế tới hung hãn. Cố Quân nửa đêm từ Bắc đại doanh chạy về, Trường Canh đã uống thuốc đi nằm, hai má đỏ bừng vì sốt.

Cố Quân thử trán Trường Canh, mặc nguyên áo nằm bên cạnh – Bất kể y có về nhà hay không, Trường Canh vĩnh viễn chỉ chiếm nửa giường, hơn nữa dù ác mộng quấn thân, tướng ngủ cũng rất đàng hoàng, chưa từng lăn qua lộn lại.

Sợ ban đêm Trường Canh sốt cao hơn, Cố Quân không dám ngủ say, bởi vậy người bên gối vừa cử động là y lập tức tỉnh dậy, đưa tay sờ thử, chỉ cảm thấy người Trường Canh nóng như than, thở cũng rất gấp.

Trường Canh ban đêm bị ác mộng quấy nhiễu là chuyện thường, Cố Quân đã quen rồi, hầu như chỉ cần mơ màng chìa tay ôm một cái trấn an là Trường Canh sẽ tự bình tĩnh lại. Nhưng đêm nay chắc là do bị bệnh, trên mặt Trường Canh đột nhiên có vẻ đau đớn, y bắt lấy cổ tay Cố Quân theo bản năng, năm ngón tay bóp chặt, khó nhịn mà rên khẽ một tiếng, gọi thế nào cũng chẳng tỉnh. Cố Quân đành phải lấy một cây ngân châm trong gói thuốc nhỏ ở đầu giường, đè Trường Canh lại, châm nhẹ vào cổ tay y.

Trường Canh giật mình tỉnh dậy.

Song đồng tử Cố Quân hơi co lại – trùng đồng.

Nhưng so với sự hỗn loạn long trời lở đất khi Ô Nhĩ Cốt phát tác lần trước, lần này Trường Canh rõ ràng khắc chế hơn, không có động tác quá khích, chỉ ngơ ngác nhìn Cố Quân, vành mắt hơi đỏ.

Cố Quân phập phồng lo sợ gọi một tiếng: "Trường Canh, còn nhận ra ta không?"

Trường Canh mau chóng chớp mắt một cái, mồ hôi lạnh trên lông mi lăn xuống, nói khàn khàn: "Sao ngươi... đã về rồi?"

Trong lúc nói câu này, trùng đồng chậm rãi hợp làm một, sắc đỏ cũng từ từ biến mất, giống như vừa rồi chỉ là ảo giác của Cố Quân thôi. Cố Quân hôn y một cái, lau mồ hôi cho y, dỗ y ngủ, rốt cuộc không yên tâm, sáng sớm hôm sau phái người vào cung xin nghỉ ốm, sau đó đi tìm Trần Khinh Nhứ.

"Không sao," Trần cô nương xem xong chẩn đoán, "Điện hạ thân thể không tệ, chỉ là gần đây thời tiết thay đổi thất thường, hơi bị lạnh, uống vài thang thuốc là ổn thôi."

Trường Canh cười nói: "Ta cũng nói vậy, mà y chẳng chịu tin, còn chuyện bé xé ra to làm phiền cô nương một chuyến."

Trần cô nương tuy vẫn như thường lệ lãnh đạm mà khách khí một câu, nội tâm lại thật sự chẳng muốn nhìn khuôn mặt đắc ý dương dương của Nhạn vương điện hạ thêm nữa – nàng dâu mới sinh con đầu lòng cũng chẳng đắc chí như y.

Trần cô nương hết nhịn nổi, tiên khí mờ ảo cáo từ hai vị này, Cố Quân đích thân tiễn nàng ra cửa, khi đi qua hồi lang dài vắng vẻ của hầu phủ, Cố Quân chợt thấp giọng nói: "Hôm nay mời Trần cô nương đến không phải khám phong hàn cảm lạnh, đêm qua lúc y sốt trong mắt chợt hiện trùng đồng, ta thấy không yên tâm lắm."

Trần Khinh Nhứ lập tức chính sắc, chau mày: "Xin Hầu gia hãy nói tỉ mỉ."

Cố Quân thuật lại một lần tình cảnh lúc ấy Trường Canh đột nhiên phát tác rồi lập tức tỉnh táo, hỏi: "Cô thấy tình hình là thế nào?"

Trần Khinh Nhứ nghe xong trầm ngâm rất lâu, mắt hơi hạ xuống, tựa hồ đang cẩn thận nhớ lại mạch tượng ban nãy, Cố Quân đợi đến hơi căng thẳng, nàng mới nói: "Điện hạ tâm chí kiên định, thật sự làm người ta cảm phục."

Cố Quân lập tức phản ứng được: "Cô nói y trước mắt tỉnh táo toàn là nhờ tâm chí áp chế, ngày hôm qua sốt đến hồ đồ, cho nên nhất thời lộ ra?"

Trần Khinh Nhứ gật đầu: "Điện hạ từ nhỏ bị Ô Nhĩ Cốt hành hạ, hẳn đã quen rồi, dù ngủ cũng giữ lại vài phần thanh tỉnh, ta chỉ lo lắng... Y hiện tại đang trẻ trung khỏe mạnh, tinh lực dồi dào, tương lai nếu tuổi tác cao dần, thể lực yếu đi, liệu có còn loại tinh khí thần này hay không."

Cố Quân lại nhớ tới điều gì đó, nghi hoặc hỏi: "Theo như lời cô nương, là một khi y bị bệnh, bị thương hay dùng nhầm dược vật gì khiến thần trí không rõ, đều sẽ có bệnh trạng này à?"

Trần Khinh Nhứ: "Theo lý là vậy, xem tình huống nghiêm trọng hay không mà xác định."

"Nhưng có một điểm ta không rõ lắm," Cố Quân nói, "Đợt trước y bị thương ở Giang Bắc, là ta đón y về, khi đó do vết thương mất máu quá nhiều, y hôn mê suốt một ngày một đêm, trong lúc ấy lại rất ổn định, Ô Nhĩ Cốt chẳng những không phát tác, giống như ngay cả bệnh trạng bị ác mộng bừng tỉnh cũng không có."

Trần Khinh Nhứ đột nhiên ngây ra.

Cố Quân: "Trần cô nương?"

Trần Khinh Nhứ lẩm bẩm: "Không thể nào, thế chẳng lẽ là khí huyết... Ta hoàn toàn đoán sai rồi ư?"

Cố Quân hoang mang lo sợ.

Trần Khinh Nhứ lại không giải thích gì, giống như đả thông hai mạch Nhâm Đốc, không hé răng một tiếng quay người đi ngay.

Cố Quân: "Này... Trần cô nương..."

"Để ta nghĩ xem." Trần Khinh Nhứ bỏ lại câu này, chân không chạm đất mà bay đi, chỉ chớp mắt nàng đã đi mấy trượng, thoáng cái chẳng còn bóng dáng.

Thẩm Dịch vừa vặn tới chơi vốn đang lải nhải nói xấu Cố Quân với Hoắc Đan, từ cổng chính tiến vào, nguyên một khắc cũng chưa thở mạnh, Hoắc thống lĩnh đang rầu rĩ không biết dùng cách gì để đuổi tên này đi, chưa kịp nghĩ ra thì Thẩm Dịch đột nhiên ngậm miệng.

Hoắc Đan ngẩng đầu lên, chỉ thấy một bóng trắng như ma quỷ lướt qua trước mắt, Thẩm tướng quân hóa thành một tấm gỗ đội trời đạp đất, căng thẳng mà tiếc chữ như vàng chào: "Trần cô nương."

Trần Khinh Nhứ vốn kiệm lời, cũng tiếc chữ như vàng trả lời: "Thẩm tướng quân."

Hai người chào hỏi xong, trố mắt nhìn nhau một lúc lâu, bấy giờ Thẩm Dịch mới ý thức được là mình cản đường, vội hoảng hốt lui ra: "Mời Trần cô nương!"

Trần Khinh Nhứ vốn còn cho là y có chuyện muốn nói, chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì mà nhìn y một cái, kế đó lướt qua như bão tuyết.

Hoắc thống lĩnh kéo tai mình một cái, dẫn một Thẩm tướng quân bị câm lạ kỳ đến tìm Cố Quân.

Cố Quân đáp một tiếng, thay túi chườm nước đá cho Trường Canh, làm người ta lạnh đến nhăn nhó, lúc này mới ra ngoài tiếp khách: "Có chuyện gì?"

Thẩm Dịch vẫn chưa định thần thoát khỏi bế khẩu thiền, không hé răng một tiếng nhìn Cố Quân mà thần du thiên ngoại.

Cố Quân sửng sốt quay sang hỏi Hoắc Đan: "Y bị sao vậy?"

Hoắc Đan đoán: "Đột nhiên không nói được nữa, có khả năng là bị Trần đại phu cho uống thuốc câm rồi."

Thẩm Dịch đến tìm Cố Quân kỳ thực là có chính sự.

Thẩm Dịch: "Hoàng thượng lạnh nhạt sứ tiết người man mấy ngày rồi, định tiếp kiến sứ giả người man trên cung yến năm nay, cho họ một đòn phủ đầu, chỉ là người man vu độc chi thuật cao cường, y cũng sợ còn dư nghiệt năm đó man nữ lưu lại chưa dọn sạch, để phòng lại xuất hiện chuyện Ngự lâm quân phản loạn trên Kỳ Minh đàn, lần này phòng ngự trong cung do Bắc đại doanh, đại nội thị vệ và Ngự lâm quân mới tổ kiến ba bộ phận cùng phụ trách, kiềm chế nhau, mời Đại soái đích thân tọa trấn."

Cố Quân gật đầu, Lý Phong đây là một hôm bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng.

Cung yến năm nay long trọng đến gần như xa xỉ, đầy vẻ thị uy, hai bên thị vệ nghiêm ngặt, võ tướng toàn bộ mặc giáp đeo đao, chia làm hai bên, ngay cả người mình cũng cảm thấy là một bữa Hồng Môn yến.

Cố Quân cũng lần đầu tiên nhìn thấy tam vương tử man tộc một cơn gió có thể thổi chết trong lời đồn.

Thiếu niên ấy độ mười bốn mười lăm tuổi, ngoại hình rất thanh tú, nhưng sắc mặt nhợt nhạt, thần sắc đờ đẫn, thủy chung không nâng mắt lên, làm gì cũng cần tùy tùng nhắc nhở, như là đi lại không tốt mà được dẫn tới ngự tiền kiến giá.

Sứ thần nói với Lý Phong: "Xin Hoàng đế Đại Lương lượng giải, tam vương tử sinh ra đã yếu, trong bữa tiệc có chỗ thất lễ, mong ngài xem y chỉ là một đứa trẻ mà thông cảm."

Lý Phong khoát tay, cho họ bình thân, thiếu niên kia lại mắt điếc tai ngơ, hiển nhiên là không hiểu tiếng phổ thông.

Sứ thần khom lưng, ghé vào tai gã vừa dỗ dành vừa khuyên nhủ, tam vương tử vẫn là vẻ mặt đờ đẫn, bị sứ thần kéo tay, nửa đỡ nửa ôm mà lôi dậy, dẫn đến bàn tiệc.

Cố Quân nhĩ lực rất tốt, nhạy bén nghe thấy bên cạnh có người thấp giọng nghị luận: "Tam vương tử này chẳng lẽ là một kẻ ngốc?"

Gia Lai Huỳnh Hoặc đưa đứa con ngốc đến kinh thành làm con tin là có ý gì đây?

Cố Quân không xa không gần cùng Thẩm Dịch nhìn nhau một cái, thần sắc đều hơi ngưng trọng. Không biết có phải là y nghĩ quá nhiều hay không, mà Cố Quân luôn cảm thấy trên người thiếu niên kia có thứ khiến y sởn gai ốc.

Chính lúc này, giọng quan giữa Lý Phong và người man đã tạm kết, sứ tiết kia đột nhiên không biết là cố ý hay vô tình nhắc tới: "Trước khi từ quê hương đến đây, ta đã nghe nói dưới Hoàng đế Đại Lương có hai vị không thể không bái phỏng, một vị là Cố hầu gia đại anh hùng bất khả chiến bại, hôm nay may mắn đã gặp được, nhưng còn một vị khác... ta thấy tựa hồ không có mặt trong buổi tiệc này?"

Lý Phong: "Không biết sứ giả đang nói tới ai?"

Sứ tiết Bắc man cười nói: "Chính là vị đứng đầu lục bộ trẻ tuổi quý triều, Nhạn vương điện hạ, còn khá có uyên nguyên với tộc ta đấy."

Khóe mắt Cố Quân giật nhẹ.

Lý Phong nhìn lướt qua bốn phía, Trường Canh quả nhiên không có mặt, bèn hỏi kẻ dưới: "A Mân đâu?"

Giữa lúc cung yến say sưa, Trường Canh đang giúp đỡ thu nhặt thảo dược trong tiểu viện Trần cô nương ở tạm nơi kinh thành.

Bệnh phong hàn của y tới nhanh đi cũng nhanh, sau hai thang thuốc quả nhiên đã gần khỏi hẳn, sở dĩ vẫn không trả phép, thứ nhất là thân thế y nhạy cảm, Cố Quân có ý để y né tránh, thứ hai cũng là nghe nói chỗ Trần Khinh Nhứ có manh mối mới về Ô Nhĩ Cốt.

"Ý cô là Ô Nhĩ Cốt ở trong huyết mạch của ta?"

Trần Khinh Nhứ bị các loại sách cũ ố vàng chiếm đầy hai tay, còn thường xuyên phải cứu trang sách thoáng cái rơi xuống, tay chân luống cuống, miệng lại không luống cuống: "Ô Nhĩ Cốt làm hại thần trí, ta vẫn cho rằng căn cơ của nó ở trong đầu, nếu không có Hầu gia nhắc nhở, ta cũng không ngờ đến tầng này... Ngươi xem chỗ này – ghi chép sớm nhất của người man đối với tà thần Ô Nhĩ Cốt, 'Sinh hung hiểm, ăn máu thịt huynh đệ, trợ trưởng thân mình, thân có bốn chân bốn tay hai đầu hai tim, trong lồng ngực biển máu cuồn cuộn, đặc biệt bạo ngược', ta vốn tưởng 'biển máu cuồn cuộn' chỉ là một cách so sánh, nhưng thì ra là chỉ cơ chế Ô Nhĩ Cốt phát tác."

Chỉ những lúc nói đến mấy việc này nàng mới có thể một lần thao thao bất tuyệt nhiều như vậy.

"Máu thịt," Trường Canh trầm mặc chốc lát, lắc đầu cười khổ, "Ý Trần cô nương là, cả người ta đều mang độc, trừ phi noi theo thần thoại cạo xương thay thịt sao?"

Hình như còn không bằng đầu óc bị hỏng.

Trường Canh thong thả phân loại lựa chọn thảo dược, theo thứ tự cất vào hộp để chỉnh tề, bánh răng trên kệ khớp vào nhau thành tiếng "cót két", chậm rãi lên cao, lộ ra ô trống phía dưới, đây là một việc tỉ mỉ, người nôn nóng làm không được.

Trần Khinh Nhứ khá cảm phục mà nhìn y, trong lịch sử Ô Nhĩ Cốt bám thân mà thần trí tỉnh táo đến trưởng thành gần như không có, càng không cần nói giữ nguyên tính tình trầm tĩnh như vậy.

Cũng không biết là do y sinh ra đã kiên nhẫn, hay do hơn người ta một Cố Quân.

Trường Canh: "Không giấu gì cô, ta gần đây cảm thấy không khỏe lắm, Ô Nhĩ Cốt phát tác ngày càng thường xuyên."

Trần Khinh Nhứ thuận miệng nói: "Hầu gia nói với ta rồi."

Trường Canh phút chốc sửng sốt: "Y..."

Cố Quân tựa hồ thủy chung quán triệt thái độ "chỉ là vu độc man di", chưa bao giờ coi chút bệnh vặt ngoài da trên người y là gì, rất ít nói ngoài miệng, cũng chưa bao giờ tỏ ra lo lắng trước mặt Trường Canh.

Thì ra kỳ thực vẫn luôn bận lòng sao?

Trần Khinh Nhứ dừng lại, ý thức được mình nhiều lời, điềm nhiên như không mà nói sang chuyện khác: "Nếu điện hạ không còn gì sai phái, ta định quay về Trần gia lão trạch Sơn Tây một chuyến, tìm được căn kết sẽ dễ xử lý hơn, chung quy sẽ có biện pháp."

"À," Trường Canh đáp một tiếng, chắp tay nói, "Làm phiền cô, còn có giải dược của Tử Hi..."

Y chưa nói xong câu này thì đã bị người trong cung tới cắt ngang.

Chỉ thấy dược đồng dẫn một nội thị vào, cung kính chào Trường Canh: "Vương gia, Hoàng thượng nghe nói ngài bị bệnh, đặc biệt lệnh cho nô đến xem, vốn còn dẫn theo một vị Thái y, chỉ là Thái y không dám vào sân nhà Trần thánh thủ, đang chờ bên ngoài."

Trường Canh nhíu mày: "Làm phiền hoàng huynh lo lắng, chẳng qua là cảm phong hàn, không phải bệnh gì nặng đâu."

Nội thị kia cười nói: "Vâng, nô tỳ cũng thấy Vương gia tinh thần không tệ, ừm... Vương gia, tối nay trong cung mở tiệc chiêu đãi tam vương tử Bắc man và đoàn sứ tiết, sứ giả mười tám bộ lạc nhắc tới Vương gia, bệ hạ lệnh nô tỳ truyền khẩu dụ, nói nếu thân thể Vương gia không khỏe, thì khỏi cần làm phiền, nếu tinh thần cũng ổn, thì ra chung vui."

Trần Khinh Nhứ hơi sửng sốt, mau chóng ngẩng đầu nhìn Trường Canh – nếu không ai lên tiếng thì thôi, nhưng sứ tiết Bắc man đã nói như vậy, Trường Canh thật sự không tiện từ chối, trong đây có một tầng xấu hổ: Bắc man vừa là cừu gia của Đại Lương, vừa là mẫu gia của Nhạn vương điện hạ, y đương nhiên không thể cố ý tiếp cận, nhưng cố ý né tránh cũng không thích hợp lắm, rất vi diệu.

Đoàn sứ tiết chỉ đích danh y, nhưng gặp và không gặp lại phải xem thái độ của Lý Phong, đó mới là phương hướng y tị hiềm.

Trường Canh thái độ rất tốt lấy một cái hà bao trên người đưa cho nội thị này, hỏi: "Làm phiền vị tổng quản này, hoàng huynh ta nói thế nào?"

Nội thị áng chừng được Nhạn vương ra tay hào phóng, cười tít cả mắt, nói năng lộn xộn mà khách sáo: "Không dám không dám... Ôi, Vương gia làm nô tỳ tổn thọ chết, đây... thật là nhận mà thẹn..."

Hắn vừa nói thẹn vừa thoải mái cất đi, lúc này mới nói với Trường Canh: "Vương gia chúng ta là thân phận gì, không cần nể mặt đám man di ăn lông ở lỗ đó. Hoàng thượng nói nếu Vương gia muốn đi, thì vào cung chúc tết Hoàng thượng, để tránh buồn chán quá, vào cung ngồi một lúc rồi về, không cần xã giao với những kẻ không đâu. Sắp tết rồi, lão nhân gia thấy ngài cũng yên tâm."

Trường Canh hiểu ý: "Để ta nghỉ ngơi một chút, thay bộ quần áo, rồi vào cung với tổng quản."

Nội thị hớn hở đáp một tiếng: "Thế nô tỳ đi chuẩn bị xe cho ngài."

Trường Canh mỉm cười chăm chú nhìn hắn lui đi, quay người vào nhà, nụ cười lập tức lạnh đi.

Trần Khinh Nhứ theo vào: "Ta có thể giúp gì cho ngươi?"

Trường Canh lắc đầu: "Cung yến năm nay rất nghiêm ngặt, có Tử Hi ở đó, người ra vào đều cần qua mấy lần kiểm tra, người man ngoại trừ tam vương tử và sứ thần, hạ nhân nhất loạt giữ trong trạm dịch, cho dù tam vương tử man tộc kia dưới lớp da người đều là tử lưu kim, cam đoan cũng chẳng nổ được trò trống gì – Cô cho ta mượn gian sương phòng chỉnh lại y quan là được rồi."

Trần Khinh Nhứ không hiểu những điều này, bởi vậy không lắm miệng, kêu dược đồng dẫn đường.

Trường Canh chắp tay đi tới cửa, đột nhiên dừng chân, lại quay người hỏi: "Trần cô nương, có ngân đao không?"

Vương Quả đứng trong hàng văn thần, nghe một đám văn thần Đại Lương mau mồm mau miệng phát tiết quốc thù gia hận, dùng ngòi bút làm vũ khí sỉ nhục sứ tiết Bắc man.

Sứ tiết Bắc man không tính là miệng mồm lanh lợi, nhưng có tiến có thoái, một khi đề tài sắc bén đến không trả lời được, hắn sẽ chỉ cười không nói gì, trông như thật sự nhẫn nhục đến đàm hòa vậy.

Ánh mắt Vương quốc cữu cũng dừng lại một chút ở tam vương tử cúi đầu lặng thinh, song nhanh chóng dời đi sự chú ý – lão không có hứng thú với tên ngốc kia, đã an bài vở kịch hay hơn.

Vương Quả không giống với đám đại nhân vật mở mồm là quốc kế dân sinh như Phương Khâm, trong lòng biết rõ không ai coi trọng lão, dù là bọn Phương đại nhân cũng chẳng qua là lúc cần dùng lão mới đại nhân này đại nhân kia, sau lưng toàn gọi lão là "thái giám quốc cữu", nói lão làm quốc cữu gia rất "tận chức tận trách", ngay cả đại nội tổng quản cũng kiêm luôn.

Vương Quả ngày xưa là một tiểu nhân vật sai vặt cho tiên đế, định trước là một vai diễn lộng thần gánh tiếng xấu giúp người thượng vị. Từ sau khi chuyện tiên đế và man phi năm đó bại lộ, lão vẫn sống trong nơm nớp lo sợ.

Lão đối với Cố Quân thậm chí Cố gia căn bản không có bất cứ ý kiến gì. Văn thần và võ tướng Đại Lương cực ít qua lại trên lợi ích, chỉ cần một phương không có dã tâm bừng bừng đến mức một tay che trời, dù tranh quyền đoạt thế cũng chẳng tranh đến một nồi; huống chi nói đi cũng phải nói lại, Cố gia mới là dòng dõi thế gia chân chính, chẳng qua nhân khẩu ít ỏi, đối tượng thông gia lại quá đặc biệt thôi. Mà Vương Quả với Cố Quân càng không thể nói đến khác biệt trên quan điểm, lão không có kiến giải gì đối với đại sự quốc gia, kiến giải duy nhất chính là làm thế nào hầu hạ Hoàng đế thoải mái thôi.

Đại nhân vật văn trị võ công cả triều, ai nấy đều có cách nghĩ riêng, dù sao cũng phải có mấy kẻ như vậy để Hoàng thượng ngoài đấu trí đấu dũng ra có vài phần thả lỏng chứ?

Nếu có thể, cho dù ăn no thuốc chuột rỗi hơi lão cũng chẳng dám ra tay động vào Cố gia.

Nhưng thiên mệnh khó giải, thánh mệnh khó trái. Hiện giờ lão thánh nhân tự mình đi đời nhà ma xong hết mọi chuyện, cùng lắm là còn chiếm lý lẽ cùn "quân muốn thần chết", thế nhưng để lão lại làm cừu non thế tội cho thiên hạ chửi rủa.

Trước mắt Hoàng đế Long An niệm tình cũ, chịu coi phế vật này là cữu cữu mà che chở, để lão kéo dài hơi tàn kiếm được miếng cơm ăn.

Thế tương lai thì sao?

Nhạn vương cải cách bao nhiêu thuế ruộng, pháp lệnh dân thương không hề đáng sợ, đáng sợ là một khi Nhạn vương thượng vị, sẽ làm gì Vương Quả lão?

Nhạn vương từ nhỏ đã có quan hệ thân mật với Cố Quân, mà bản thân y là con của tiên đế với man phi, là con cái chung quy không thể đi truy cứu lỗi lầm của cha mẹ, đến lúc đó để tiến thêm một bước lôi kéo Cố Quân, tranh thủ lòng quân, việc đầu tiên y làm chính là phải lôi kẻ xúi quẩy mình đây ra tế tổ Cố gia.

Đám Phương đại nhân lo lắng không ngoài Nhạn vương tẩy bài trong triều, chẳng qua là công danh lợi lộc, tiền đồ gia tộc, Vương quốc cữu lại là mạng như chỉ mành treo chuông, lúc nào cũng lo lắng cho cái đầu trên cổ – quan to lộc hậu, cũng phải có mạng mới hưởng được.

Lúc mới đến đế đô, người man rất biết điều, không có mù mắt đi hối lộ khắp nơi – vương công quý tộc trong kinh thành, chưa ai đến nông nỗi nghèo phát điên, kiến thức hạn hẹp đến độ chịu vì chút lợi mà gánh tội danh "phản quốc thông địch".

Trước giờ cung yến, sứ tiết mười tám bộ lạc mới lần đầu tiên thò xúc tu tiếp xúc với một người, chính là Vương quốc cữu kẻ nịnh hót tựa hồ không quan trọng gì.

Sứ tiết mười tám bộ lạc thề với trường sinh thiên, cho Vương Quả hai hứa hẹn: thứ nhất, khiến Nhạn vương không làm được thanh kiếm treo trên đỉnh đầu lão nữa.

Thứ hai: bất luận việc này thành hay bại, sẽ không khai ra Vương Quả, về sau nếu Vương Quả cùng đường, mười tám bộ lạc sẵn sàng bảo vệ lão.

Bạo dân mười tám bộ lạc chưa khai hóa, tàn nhẫn hiếu sát, lại thích nuôi độc vật, nhưng có một điểm tốt, ấy là rất trọng lời thề.

Mà họ cầu chẳng qua là việc nhấc tay – Nhạn vương rất có thể vì tị hiềm mà không lộ diện, lần này Vương quốc cữu phải bảo đảm Nhạn vương xuất hiện trên cung yến.

Người man không nói họ muốn làm gì, Vương Quả định im lặng xem biến trước, vạn nhất người man thất bại, lão còn chuẩn bị một hậu chiêu – Việc này phải cảm tạ Phương đại nhân, để lật đổ Nhạn vương, Phương Khâm bí mật nuôi một người trong biệt viện Phương gia.

Năm xưa khi man phi lẩn trốn, liên lụy hàng loạt cung nhân, thị vệ và Thái y, trong đó rất nhiều người là chết oan, mà chân chính có vấn đề ngược lại có chuẩn bị trước, lão Thái y trong biệt viện Phương gia chính là một trong những người năm đó sợ tội bỏ trốn, con lão lỡ tay đánh chết người, gánh nợ của con, không thể không bán một bí mật: khi man phi mang thai bỏ trốn, Tú quận chúa đi theo chưa chồng mà có thai.

Tú Nương Hồ Cách Nhĩ ở Nhạn Hồi trấn cấu kết người man nhập cảnh, hận Đại Lương thấu xương, ả ta sẽ thực sự đàng hoàng mà nuôi con cừu nhân sao?

Người Cố Quân đón về từ Nhạn Hồi rốt cuộc là con tiên đế, hay là dã chủng không rõ cha của Hồ Cách Nhĩ?

Phương Khâm thu lưu Thái y kia, không tùy tiện hành động, hắn rút ra giáo huấn từ lần trước không thể cắn chết Nhạn vương, lần này tính một kích tất trúng, còn đang chậm rãi ấp ủ kế hoạch, nhưng Vương Quả không định phối hợp chờ hắn nữa.

Đại nhân có đường của đại nhân, tiểu nhân có lối của tiểu nhân. Thủ đoạn không cần cao siêu, hạ lưu hơn cũng không hề gì, miễn hữu hiệu là được.

Lúc sứ tiết mười tám bộ lạc mở miệng cầu kiến Nhạn vương, kỳ thực Lý Phong không lập tức tiếp lời, chỉ là sau khi nghe nói Nhạn vương bị bệnh, phân phó nội thị thay mình chạy đi xem sao, Lý Phong vốn nói "Dẫn một Thái y tới, bảo A Mân dưỡng bệnh cho khỏe, mấy hôm nữa nếu đỡ cũng đừng ru rú trong nhà, vào cung chúc tết trẫm, không cần xã giao với những kẻ không đâu."

Nói xong câu này, Hoàng đế Long An coi như hết nghĩa vụ lộ mặt ở cung yến, khởi giá đi.

"Thái giám quốc cữu" Vương quốc cữu này không phải làm suông, lão đã sớm đút lót đám nội thị sai vặt nhìn như không quan trọng. Chỉ cần khéo léo bẻ cong lời Lý Phong một chút, thì Nhạn vương nhất định sẽ đến.

Nhạn vương cáo ốm sau khi Hoàng đế rời khỏi đặc biệt tới gặp đoàn sứ tiết Bắc man, kế đó trước mặt bao người lộ ra chuyện lẫn lộn huyết mạch hoàng thất, thân thế không rõ – y sẽ kết thúc thế nào?

Sau khi Lý Phong đi, cả cung yến bình yên không gợn sóng liền qua hơn một nửa, sắp sửa kết thúc, Cố Quân lúc này mới thở phào nhẹ nhõm, bưng chén rượu lên hơi chạm môi, chưa kịp nếm ra hương vị, nội thị đột nhiên tới báo là Nhạn vương đến.

Cố Quân còn chưa kịp sắp xếp mạch suy nghĩ, trong lòng chợt "thịch" một phát.

Phương Khâm hơi ngạc nhiên, Vương Quả lại cúi đầu, sứ tiết mười tám bộ lạc nét mặt tươi cười quay ra ngoài điện, mà tam vương tử man tộc vẫn cúi đầu ăn uống trong một góc lại đột nhiên dừng tay.

Trường Canh đi vào đại điện nhìn thấy đầu tiên là trên ngự tọa đã không còn ai, lập tức biết là mình bị lừa.

Song lúc này đã không kịp trở về, Trường Canh không dừng chân, trên khuôn mặt hơi xanh xao cũng bình tĩnh, còn giữ nguyên nụ cười mỉm tao nhã, không chút hoang mang thong thả bước đến, thuận tay cởi áo choàng, nhờ động tác đưa cho hạ nhân để nhìn lướt qua – nội thị lừa y tới đã không thấy đâu.

Một kẻ thuộc đảng thế gia tuy không biết Nhạn vương vì sao xuất hiện ở đây, lại không chịu từ bỏ cơ hội ném đá xuống giếng, lập tức ý tứ sâu xa cười nói: "Nhạn vương điện hạ cung yến hôm nay vốn đã xin nghỉ, xem ra vẫn là khách nhân mười tám bộ lạc có thể diện, chỉ một câu đã thực sự mời được Nhạn thân vương tới."

Một kẻ khác tiếp lời: "Câu này nên phạt rượu, người ngoài thì thôi, chứ hôm nay tới đâu phải khách bình thường? Mười tám bộ lạc là nhà mẹ điện hạ, dĩ nhiên phải đối xử khác."

Triều phục rộng thùng thình của Trường Canh cơ hồ chấm đất, y bình tĩnh đáp lễ: "Nhọc lòng Hoàng thượng phái người đến hỏi, bèn đặc biệt vào cung chúc tết bệ hạ, chỉ là tới không khéo, bệ hạ đã đi trước rồi sao?"

"Nhạn vương điện hạ tới không khéo, chúng ta lại tới rất khéo, hôm nay được gặp Đại Lương triều song bích, thật là tam sinh hữu hạnh, vương tử chúng ta cũng muốn kính điện hạ một chén đấy!"

Sứ tiết mười tám bộ lạc vừa nói vừa đỡ tam vương tử đứng dậy.

Cố Quân nhanh chóng đưa mắt ra hiệu cho Thẩm Dịch, mấy thị vệ vốn nấp trong điện đột nhiên lộ ra sát ý, bao lấy sứ tiết và tam vương tử người man.

Chỉ thấy tam vương tử kia bước khỏi bàn tiệc, tựa hồ hết sức căng thẳng, tay bưng chén rượu dọc đường run dữ dội, còn chưa tới gần Trường Canh thì rượu đã đổ hết nửa chén.

Theo thiếu niên kia đến gần, trên người Trường Canh bỗng sinh ra một chút khô nóng không dằn được, cơn sốt vốn đã hạ lại lần nữa hùng hổ lao tới, tai nổ ran, huyết dịch toàn thân phảng phất như tử lưu kim bị đốt, sôi trào dữ dội.

Lông tơ toàn thân Trường Canh dựng hết lên, vô số đôi mắt hoặc chủ mưu đã lâu, hoặc hả hê khi người gặp họa xung quanh, đều không có áp lực lớn như thiếu niên này, y cố nén sự khó chịu, khó khăn duy trì sự tôn quý của Thân vương, ép mình cười nói: "Sao thế, vương tử quý bộ khi kính rượu đều là không nói một câu như vậy ư?"

Sứ tiết Bắc man chợt nở nụ cười, chậm rãi lui ra sau tam vương tử một thước.

Tam vương tử toàn thân run rẩy thình lình đứng im lại, đôi tay nhợt nhạt khựng lại giữa chừng, nặng nề vẻ chết chóc.

Sau đó gã ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt Trường Canh.

Trên khuôn mặt tái nhợt của thiếu niên ấy có đôi mắt phiếm đỏ, trùng đồng lạnh lẽo như một cái chùy băng, đột ngột đâm tới Trường Canh.

Thiếu niên này vậy mà là một Ô Nhĩ Cốt!

Lúc hai "tà thần" vương đối vương sẽ xảy ra chuyện gì, không ai biết, cũng chưa từng có bất cứ ghi chép nào – Ô Nhĩ Cốt điên cuồng cỡ nào, phải hận bao nhiêu, khí vận lớn nhường nào mới có thể thành tựu một kẻ?

Một thời đại phải hỗn loạn đến mức độ nào, mới có thể để hai Ô Nhĩ Cốt mặt đối mặt đụng độ?

Giữa hai người tựa hồ có cảm ứng nào đó khó mà miêu tả, nhất thời, cả hoàng cung đại điện đều tan thành khói bụi trước mắt Trường Canh, ngực y đau nhức dữ dội như muốn nổ tung.

Tất cả ảo giác và chân thật đều rối vào nhau, kịch độc nhiều năm kìm nén trong xương thịt như là xối dầu nóng trên lửa mạnh, như sóng thần bộc phát ra... Tất cả oán hận và giận dữ khó lòng tiêu tan trào lên trong ngực Trường Canh, tất cả ác mộng rục rịch trong vực sâu dốc hết ra, ngoác cái miệng dữ tợn đáng sợ, muốn nuốt chửng y.

Nụ cười mỉm của sứ tiết man tộc nọ trong mắt Trường Canh không ngừng méo mó, có vài phần quỷ bí không nói nên lời, chẳng khác gì biểu cảm của Hồ Cách Nhĩ lúc sắp chết nguyền rủa y, lắng đọng mấy ngàn năm oán độc đấu với trời đất, đấu với người, nóng vội cầu sinh của mười tám bộ lạc.

Trường Canh nhìn chằm chằm cái chén bạc trên tay tam vương tử, cả người như bị đè lên gông cùm xiềng xích ngàn cân, song trong mắt người khác, y chỉ không lên tiếng trong chốc lát.

Giây lát sau, Trường Canh trước mắt bao người giơ tay lên, đôi môi hơi mỏng cơ hồ không có huyết sắc, ưu nhã thong dong như cũ mà lấy một chén rượu trên tay một nội thị.

Kẻ có mắt đều có thể nhận ra Nhạn vương quả thật mới khỏi bệnh, tay và mặt đều thiếu huyết sắc, ngón tay cầm chén còn run nhè nhẹ không dễ thấy, y hạ mắt xuống, chạm nhẹ chén của tam vương tử, lãnh đạm nói: "Tam vương tử tự tiện đi, bổn vương gần đây đang uống thuốc, không uống rượu được, không thể cạn chén. Khi nào mười tám bộ lạc đưa cống phẩm năm nay đến, hai ta có cơ hội lại say sưa một bữa sau."

Tam vương tử xuyên qua trùng đồng nhìn y chằm chằm, Trường Canh dùng rượu trong chén chạm môi, rồi bỏ chén sang một bên, đi qua sứ tiết người man kia mà không hề nhìn nghiêng.

Trong mắt người khác, có lẽ Nhạn vương điện hạ chỉ là thái độ lãnh đạm với địch sứ, Cố Quân lại nhìn thấy sự nôn nóng khó nhịn đang bị cố gắng kìm nén từ trên khuôn mặt tái nhợt như quỷ của y.

Tam vương tử nọ quả nhiên có cổ quái, lòng Cố Quân phút chốc chùng xuống, chuyển hướng sang Thẩm Dịch đưa mắt ra hiệu, người kia lập tức hiểu ý, im lặng ra khỏi đại điện, Cố Quân đứng dậy đẩy kẻ chặn đường ra, vừa đi tới chỗ Trường Canh vừa cất cao giọng nói: "Mời điện hạ vào nghỉ ngơi một chút."

Y còn chưa kịp tới gần, cái mũi nhạy bén khác hẳn người ta ngửi thấy mùi máu tươi rất nhẹ, liên tưởng đến câu "khí huyết" không rõ ràng của Trần cô nương, nhất thời thấp tha thấp thỏm.

Đúng lúc này, sứ tiết người man giống như chẳng mảy may biết xem trường hợp mà tiến lên một bước, nói: "Nhớ năm ấy thần nữ tộc ta lưu lạc tha hương, không ngờ ta còn có một ngày có thể nhìn thấy huyết mạch của nàng, nhất định là trường sinh thiên phù hộ."

Từ Lệnh lạnh lùng tiếp lời: "Nhạn vương là hoàng thất chính thống của Đại Lương ta, quý sứ nói như vậy không thích hợp rồi."

Sứ giả man tộc nhìn chằm chằm vào mắt Trường Canh, tựa hồ muốn thấy một chút manh mối từ đồng tử của y, càng nhìn càng cảm thấy kinh hãi.

Luyện chế Ô Nhĩ Cốt sở dĩ khó khăn trùng trùng, là vì ngoại trừ phải nhẫn tâm, thiên thời địa lợi nhân hòa một loại cũng không thể thiếu, kí chủ phải có tính tình cứng cỏi, như vậy mới có thể cho huyết mạch tà thần thời gian ủ dài lâu, y tuyệt đối không thể mất khống chế quá sớm, nếu không thần trí phát dục chưa đủ, tâm trí kí chủ cả đời sẽ dừng lại ở trình độ của một đứa trẻ ngu đần.

Tam vương tử chính là một ví dụ thất bại, đứa trẻ vô tội này vốn có một huynh đệ song sinh, cả hai cùng chết bởi thù hận của phụ thân, lại không chịu được Ô Nhĩ Cốt phát tác lần đầu, nên đã bị hỏng, chỉ có thể làm "tế phẩm" của tà thần. So sánh thì vị Nhạn vương trước mắt quả là một cực phẩm, đến bây giờ vẫn duy trì tâm linh tỉnh táo, hơn nữa ở trước mặt "tế phẩm" cũng có thể cam đoan không hề sơ hở, cần có tâm chí mạnh cỡ nào?

Tà thần Ô Nhĩ Cốt khởi từ thôn tính, lúc tới gần một Ô Nhĩ Cốt nhỏ yếu không hoàn chỉnh khác sẽ bị gọi dậy bản năng, mất đi thần trí, bởi vậy kẻ kia còn gọi là "tế phẩm". Vào lúc thế này, nếu bên cạnh có người dẫn đường thỏa đáng, nhân lúc Ô Nhĩ Cốt thất thần khống chế tâm thần y, sau đó dùng thêm dược vật, là tà thần có thể mặc sức sai phái đến khi hoàn toàn hỏng.

Có lẽ chính Tú Nương cũng không ngờ là tà thần mình bỏ dở giữa chừng có thể mạnh đến vậy – Đáng tiếc mấy năm nay tà thần này bị người Trung Nguyên không rõ nội tình đưa đi, chẳng những không thể phát huy sức mạnh tà thần chân chính, ngược lại thành lợi khí đối phó mười tám bộ lạc.

"Ở Nhạn Hồi tiểu trấn, vương ta từng gặp điện hạ một lần, chỉ là khi đó ngài còn tưởng điện hạ là đứa trẻ nhơ bẩn do chính Hồ Cách Nhĩ sinh ra, đối với điện hạ hết sức vô lễ, lần này đàm hòa, vương đặc biệt lệnh cho tại hạ chuyển lời xin lỗi." Sứ tiết man tộc hơi nhếch khóe môi, thản nhiên giấu mật ngữ then chốt dụ phát Ô Nhĩ Cốt trong câu hỏi, "Không biết Hồ Cách Nhĩ có từng nói chuyện mười tám bộ lạc với điện hạ hay không?"

Bốn chữ "Hồ Cách Nhĩ... nói" này bật ra khỏi câu hỏi han vô nghĩa, dấy lên một cơn lốc không ai biết trong tai Trường Canh, sứ tiết người man cao to thô kệch trước mắt và Hồ Cách Nhĩ diễm lệ quỷ dị hợp làm một, nguyền rủa khi lâm chung nữ nhân kia gào lên như sấm sét nổ đùng đùng trong tai y, một thứ mùi đặc biệt khó lòng tả rõ từ người tam vương tử phả đến, lao vào phế phủ y – hơi tanh, hơi đắng, dốc hết sức trêu chọc thần kinh của Trường Canh, gợi lên nỗi kích động khát máu.

Cánh cửa ký ức từng bị y cố ý đóng lại bất ngờ bị xô tung, hồi ức vụn vỡ ầm ầm bao phủ lấy y.

Khuôn mặt mỹ lệ như ác mộng của Hồ Cách Nhĩ, đỉnh núi thổ phỉ la liệt xác chết, đám cháy trong ký ức ban sơ, mùi máu tanh tưởi hất vào mặt, chửi rủa đánh đập không ngừng... Những vết sẹo cũ dưới triều phục lộng lẫy nhao nhao sống lại, liều mạng chui vào da thịt y như đỉa hút máu, mà nhục thể phàm thai này tựa như khó có thể chịu được sức mạnh tà thần khổng lồ, ngực, tứ chi bách hài của Trường Canh đau như dao cắt – loại đau nhức đó rõ ràng là triệu chứng Ô Nhĩ Cốt phát tác.

Gay go hơn là, câu này của sứ tiết man tộc như một hòn đá kích khởi ngàn tầng sóng, hoàn toàn là "người nói tựa hồ vô tâm, mà người nghe toàn bộ hữu ý".

Vương Quả lập tức đúng lúc thêm mắm dặm muối: "Quý sứ nhắc tới Tú quận chúa Hồ Cách Nhĩ ở đây không thích hợp lắm đâu? Tú quận chúa kia tuy nuôi Nhạn vương điện hạ là một công lớn, nhưng năm đó gây xích mích mối quan hệ song phương, khiến chín năm trước suýt nữa có chiến tranh cũng là sự thật."

Lời này vừa nói ra, bọn tiểu nhân bám đít nịnh hót Vương quốc cữu, quan văn chưa rõ tình hình, hoặc đơn giản là thù người man lập tức nhảy ra phụ họa.

Vương Quả cười, mặt dày vô sỉ nói: "Huống chi, ta nghe nói Tú quận chúa kia thật sự chẳng ra gì, âm mưu hãm hại Huyền Thiết doanh, sau khi thất bại lại lén xúi giục quý phi mang thai bỏ trốn, hơn nữa không biết dan díu với ai, nếu lão phu nhớ không lầm, năm đó Thái y viện thậm chí từng truyền ra lời đồn Tú quận chúa chưa chồng mà chửa – Người như vậy, thật sự không xứng làm quận chúa triều ta, thần nữ quý tộc."

Kẻ ngốc hơn cũng nghe ra ý tứ ẩn trong những lời lão nói, thấy Vương Quả vậy mà to gan lớn mật ngầm chĩa đao lên người Nhạn vương, đám mới phụ họa nhất thời thành câm hết, chưa rõ lắm mà chờ đoạn sau.

Lại nhìn Nhạn vương, không biết là bệnh đến khó chịu hay là thế nào, mồ hôi lạnh như hạt đậu từ trên trán lăn xuống, tựa hồ đứng không nổi.

Phương Khâm phút chốc nhíu mày, đương trường ý thức được vấn đề: Vương Quả kia vào lúc hắn không biết đã cấu kết với người man!

Lúc này, Phương Khâm căn bản không kịp hả hê trước những gì Nhạn vương gặp phải, cả người khó chịu – nội đấu là nội đấu, người mình tranh quyền đoạt thế trong triều là cực kỳ bình thường, thắng làm vua thua làm giặc cũng vậy, không chết không ngừng cũng thế, đó đều là nội chính, nhưng vào thời điểm biên cảnh chưa thu về, giang sơn thất thủ, kéo ngoại tộc vào là thế nào?

Nếu việc này bại lộ – không, căn bản không cần bại lộ, cho dù Vương Quả lần này mưu hại Nhạn vương xáo trộn huyết mạch hoàng gia thành công, sau này người ta sẽ nghĩ thế nào? Sẽ chẳng ai cho là Phương gia vô tội, hắn ngoài mặt vẫn thuộc đảng Vương Quả, mà lão Thái y chờ trị tội để lộ bí mật kia cũng được nuôi trong Phương gia, hắn không thể phủi sạch quan hệ!

Phương Khâm toát mồ hôi lạnh, Vương Quả chẳng những lợi dụng hắn, thậm chí còn muốn biến hắn thành một quốc tặc "thông đồng với giặc"!

Hắn tự nhận là tài trí đủ đoạn không kém ai, nhưng nhìn Nhạn vương, tuổi còn trẻ bên cạnh đã có Giang Sung là cánh tay đắc lực, có Từ Lệnh bênh vực lẽ phải, có hơn một nửa Linh Xu viện, có Bắc đại doanh từng kề vai chiến đấu với y... Thậm chí các nhân vật có sức nặng trong quân như An Định hầu, Đề đốc Tây Nam đều có tư giao rất sâu, mà bản thân Phương Khâm thì sao?

Bên cạnh toàn là hạng Lữ Thường Vương Quả, không phải độc xà thì là tiểu nhân, thành sự không đủ bại sự có thừa.

Nhất thời, trong lòng Phương Khâm trỗi lên sự mệt mỏi vô cùng, hắn sâu sắc cảm giác được "vận số" là gì.

Vận số như thủy triều, chẳng lẽ thật sự là sức người không kháng được sao?

Sứ tiết man tộc nghe ra Vương Quả đang thừa nước đục thả câu, cười khinh miệt. Hắn nhìn thấy màu đồng tử Nhạn vương đang đậm dần, biết y không trụ được bao lâu sẽ hoàn toàn biến thành trùng đồng, đến lúc đó Nhạn vương sẽ rơi vào ảo giác, y sẽ không nghe thấy một chút âm thanh bên ngoài, chỉ có mật ngữ đặc thù và câu nói mấu chốt có thể vào tai y – đó là thời khắc hắn lấy huyết khu thành tựu tà thần chân chính.

Sứ tiết man tộc giơ hai tay, như muốn đỡ Trường Canh: "Sao vậy, điện hạ không thoải..."

Chữ "mái" chưa nói ra, đã nghe có người quát to một tiếng: "Ngươi dám!"

Đồng tử sứ tiết co lại, một trận kình phong thổi qua tai, khí tức lạnh thấu xương cơ hồ chui vào lỗ chân lông hắn, chớp mắt sứ tiết kia liền dựng hết lông tơ, mà hắn căn bản không kịp phản ứng, cổ chợt thấy lạnh, một thanh cương đao bỗng nhiên gác trên cổ.

Cố Quân một tay cầm thanh đao rút từ hông đới đao thị vệ, một tay ôm Nhạn vương vào lòng ngay trước mắt bao người, Trường Canh rên khẽ một tiếng, dựa vào người y như hư thoát, song trùng đồng trong dự tính của sứ tiết man tộc lại không hề xuất hiện, thần trí Trường Canh hiển nhiên còn rất tỉnh táo, theo lời Cố Quân thều thào vu oan: "Người man... vu độc..."

Từ Lệnh hoảng hốt la lên: "Vương gia, ngài sao vậy?"

Chỉ thấy một dòng máu xuôi tay áo triều phục của Trường Canh chảy xuống, chẳng qua giây lát đã ướt sũng tay áo.

Tất cả thị vệ đều giương cung bạt kiếm sẵn sàng.

Vương Quả không liệu được hướng đi này, sau sự kinh hãi ngắn ngủi, lão vẫn không chịu kiếm củi ba năm thiêu một giờ: "Đại soái, ngài... có chuyện gì từ từ nói, động đao động thương làm gì... Nhạn vương điện hạ làm sao thế này? Mau truyền Thái y, Thái y đâu?"

Cố Quân chợt quay đầu lại, một chữ cũng không nói, sát khí như Huyền Thiết cát phong nhận đã trực tiếp vây kín Vương quốc cữu, Vương Quả lập tức sợ nhũn chân, "Ôi chao" một tiếng xụi lơ ngồi xuống đất.

Hai chữ "Thái y" vừa ra khỏi miệng Vương Quả, khóe mắt Phương Khâm lập tức giật một cái, ngồi không yên nữa – Hắn biết mình hoặc phải lập tức phủi sạch quan hệ với Vương Quả, tìm mọi cách đổ hết tội lên đầu lão chó chết kia, hoặc phải chờ để tiếng xấu muôn đời.

Phương Khâm một mặt bằng tốc độ nhanh nhất phân phó tùy tùng bên cạnh hỏa tốc giết lão Thái y bị Vương Quả mua để diệt khẩu, một mặt thản nhiên đứng ra, lớn tiếng nói: "Người man to gan lớn mật, dám đương đình giương oai, rõ ràng là rắp tâm hại người, bắt lại!"

Đáng tiếc... trong ca trực trừ đại nội thị vệ ra thì hầu hết là người của Ngự lâm quân và Bắc đại doanh, Ngự lâm quân mới tổ kiến và Bắc đại doanh không thể nghe theo một quan văn là hắn, bất động chờ Cố Quân hạ lệnh.

Phương Khâm á khẩu, nhưng trước mắt cũng không có thời gian cho hắn tìm thể diện, mau chóng định thần lại tiến lên xum xoe nịnh bợ: "Cố soái, ta thấy việc hôm nay rất kỳ lạ, ngài nghĩ xem, nội thị nên biết Hoàng thượng đã đi, không thể mời Nhạn vương vào cung lúc này, cho dù mời tới, cũng là trực tiếp dẫn Vương gia đi gặp Hoàng thượng, chứ không thể đến cung yến. Hay là thế này, chúng ta bắt đám loạn phỉ này trước chờ thẩm vấn, lại đi bẩm báo Hoàng thượng, sau đó phái người tra rõ một phen, trong đây không chừng có nội gian của người man... Ừm, không bằng ngài đưa Nhạn vương điện hạ đi nghỉ ngơi trước, truyền Thái y..."

Cố Quân lạnh lùng cắt ngang lải nhải do chột dạ của hắn: "Không nhọc lo lắng."

Phương Khâm từ khi chui ra khỏi bụng mẹ chưa từng đụng phải cây đinh nào cứng như vậy, nhất thời lại không biết nói gì.

Lúc này, một thị vệ trang phục Bắc đại doanh rảo bước chạy vào: "Đại soái, chúng ta đã bao vây trạm dịch, khống chế đoàn sứ tiết người man không lọt một kẻ."

Phương Khâm lấy làm kinh hãi, Cố Quân muốn khai chiến sao?

"Mau đi báo Hoàng thượng," Cố Quân nhanh nhẹn phân phó, "Ngoài ra Thái y không rành những thủ đoạn bỉ ổi của người man, mời Trần thánh thủ vào cung một chuyến."

Có Cố Quân tọa trấn, dù trời sập cũng là bận mà không loạn. Trần Khinh Nhứ và Hoàng đế Long An lần lượt nhận được tin chạy đến bằng tốc độ nhanh nhất, Lý Phong vội vã đến thăm Trường Canh một chút, không đợi Cố Quân phân phó, Phương Khâm đã lập tức tiến lên, một năm một mười trình bày rõ đầu đuôi ngọn ngành và phỏng đoán của mình.

Hoàng đế Long An nổi trận lôi đình, lập tức bắt tất cả cung nhân nội thị, để Trần Khinh Nhứ vào khám cho Nhạn vương, lưu lại một dược đồng lần lượt chỉ nhận.

Bên này thẩm vấn, Cố Quân lười nhìn họ cắn nhau thêm, vẫn trông nom cạnh Trường Canh. Y ban nãy dính máu đầy tay, ngay cả chuỗi hạt tiên đế tặng cũng ngấm đỏ, sắc mặt so với vị bị thương kia còn khó coi hơn.

"Không sao, lần này là máu ta tự để chảy," Trường Canh nhìn y nói, "Ta có chừng mực mà..."

"Ngươi có chừng mực cái con khỉ!" Cố Quân hạ giọng quát y, "Ngươi nhất định phải đến xem người man dài ngắn ra sao phải không? Ta thật sự..."

Trần Khinh Nhứ vừa không mượn tay ai pha nước muối cho Trường Canh, vừa thấp giọng nói: "Cố soái hãy yên tâm, thân thể Ô Nhĩ Cốt khác hẳn thường nhân, một chút tiểu thương không dễ dàng làm gì được y – Vương gia rốt cuộc gặp chuyện gì mà nhất định phải chảy máu vậy?"

Trường Canh hơi nhắm mắt một chút, ánh mắt ngược lại như còn tỉnh táo hơn bình thường, nếu không phải máu trong lòng bàn tay còn chưa lau sạch, Cố Quân cơ hồ phải cho rằng ban nãy y toàn là làm bộ thôi.

"Ta bị lừa vào cung." Để phòng tai vách mạch rừng, Trường Canh ra dấu, "Dù cho mười tám bộ lạc có khả năng rắp tâm xấu xa, nhưng ta nghĩ họ vô luận là thật tâm muốn đàm hòa hay kế hoãn binh giả ý cũng thế, vào lúc quân ta trên dưới đang bày trận sẵn sàng chờ đợi, không phải là thời cơ tốt để họ giở trò, ta không ngờ sứ tiết man tộc cả gan công khai ra tay với ta... Huống chi với sự cẩn thận chặt chẽ của Phương Khâm, đại khái sẽ không muốn dễ dàng mang tội danh thông địch."

Cố Quân tức giận nói: "Đại khái?"

Trần Khinh Nhứ vội né tránh lửa giận của Cố Quân, truy hỏi: "Điện hạ có thể nói tỉ mỉ hơn không?"

Trường Canh dè dặt nhìn Cố Quân một cái, thuật lại đơn giản một lần sự dị thường của tam vương tử và thứ mùi đặc biệt mình ngửi được, Trần Khinh Nhứ vừa nhanh nhẹn cầm máu cho y, vừa nhất tâm nhị dụng để ý thủ thế của y, mày từ từ nhíu lại.

"Người dụ ta đến thực sự không nhất định là Phương Khâm," Trường Canh phân tích, "Hắn sẽ không ngu xuẩn để người man lợi dụng, sự tích cực vừa rồi rất có khả năng là để phủi sạch quan hệ... Nhưng động cơ của sứ thần mười tám bộ lạc nghĩ lại rất đáng để nghiên cứu."

Cố Quân nhìn thấy y là lòng khó chịu, bèn quay đầu ra ngoài cửa sổ để mắt không thấy lòng không phiền, một tay vô tình đặt trên vỏ đao bên hông không dời đi, lệ khí trên mặt chưa tan – Trường Canh không nói rõ y cũng nghĩ đến rồi, kẻ mua nội thị chắc hẳn là Vương Quả ban nãy nhảy lên nhảy xuống, y vẫn luôn coi hạng Vương Quả là con chó ghẻ của tiên đế, chẳng thèm chấp nhặt với chó mà thôi, hiện tại xem ra, thật sự còn có kẻ cảm thấy y tốt tính!

Trường Canh giơ một bàn tay lạnh lẽo nắm mu bàn tay y, tủi thân nói: "Tử Hi à, ta khó chịu lắm, ngươi nhìn ta một cái đi."

... Lần này không thèm nhìn cho thanh tịnh đổi thành Trần Khinh Nhứ.

Cố Quân đau lòng đến tức ngực, không đường nào phát tiết, chỉ hận không thể lập tức mặc giáp trụ xuất kinh lấy đầu Gia Lai Huỳnh Hoặc luôn, im lặng một lúc lâu, mới miễn cưỡng dằn lửa giận nói: "Có thể ban đầu họ là muốn ám sát Hoàng thượng, sau khi vào kinh phát hiện kinh thành còn nghiêm ngặt hơn trong tưởng tượng, vì thế muốn ra tay với ngươi. Không thì là họ chuyên môn đến vì Ô Nhĩ Cốt, người man nhất định có thủ đoạn khống chế Ô Nhĩ Cốt, lúc Ô Nhĩ Cốt phát tác sức mạnh vô cùng, có thể vượt qua cực hạn bản nhân, thị vệ trên điện sợ ném chuột vỡ đồ, nếu họ lấy ngươi làm khiên, thị vệ vị tất ngăn được. Tốn công tốn sức như vậy, ta chỉ nghĩ ra được một lý do, đó chính là đoàn sứ tiết này đang gây chiến-"

"Gia Lai Huỳnh Hoặc muốn đánh nhau thì huy sư động binh là được, không cần tốn công gây chiến," Trường Canh nói tiếp, "Tin tức của Thái tướng quân vị tất là hoàn toàn vô căn cứ, nội bộ mười tám bộ lạc nhất định có vấn đề gì rồi."

"Mười tám bộ lạc thế nào chưa cần quan tâm," Cố Quân cắt ngang, "Những lời Vương Quả nói trên điện ngươi cũng nghe thấy rồi, lão chó cùng rứt giậu, không biết sẽ còn làm ra trò gì, không bằng ngươi nghĩ cách ứng phó trước đi."

Trường Canh trầm mặc một lúc, thần sắc hơi ảm đạm, như cố ý như vô tình vuốt ve các khớp hơi gồ lên trên mu bàn tay Cố Quân, sau đó thở dài nói: "Việc này ta không cách nào ứng đối được, con người đâu thể nào tự chứng thực cho xuất thân của mình."

Huống chi y từ nhỏ chưa từng chấp nhận thân phận của mình, dù đã thành Nhạn thân vương quyền khuynh thiên hạ.

Trường Canh cảm thấy mình có thể chống được trời đất, nhưng không nói rõ được cha mẹ là ai – Chuyện đến hiện giờ, y có Cố Quân rồi, cũng không muốn truy cứu gốc gác của mình lắm.

Tiếc thay, y không muốn truy cứu, không có nghĩa là người ta cũng có thể buông tha y.

Trần Khinh Nhứ cầm máu, thuần thục băng bó vết thương giúp Trường Canh, lại kê cho y thuốc an thần tĩnh tâm, không nói xen vào, cũng không biểu lộ cảm xúc gì, trong lòng lại đột nhiên trỗi lên một bầu bi phẫn khó mà tả rõ.

Do Ô Nhĩ Cốt, Trần Khinh Nhứ năm đó phản đối giao Lâm Uyên mộc bài cho Nhạn vương, đáng tiếc mình nàng phản đối cũng chẳng được gì, thế nên bao lâu nay, nàng đành phải dốc hết khả năng coi chừng Trường Canh, đồng thời thu hết các việc y làm vào trong mắt – Từ khi kinh thành sửa lại đến nay, Nhạn vương từng chút một ngưng tụ lại triều đình sứt sẹo này, y bôn ba tứ phương, thậm chí sa thân vào loạn đảng, suýt nữa chết ở đó, y không tiếc ra tay đụng chạm lợi ích không ai dám chạm, bởi thế một mình gánh minh thương ám tiễn của cả triều đình.

Những công lao ngàn thu này, chẳng lẽ vài câu xuất thân không rõ là có thể xóa đi?

Dù y thật sự không phải con của tiên đế, chẳng lẽ phong hỏa phiếu, Ban vận hà thậm chí mười vạn lưu dân an cư lạc nghiệp ở Giang Bắc – đều tương đương không tồn tại?

Trần Khinh Nhứ lang bạt giang hồ nhiều năm, không hề ngây thơ, đạo lý trong lòng đều biết rõ, chỉ là thỉnh thoảng vẫn sẽ có vài khoảnh khắc, bị thói đời và lòng người nơi đây làm lạnh đến giật mình.

"Đúng rồi, Trần cô nương." Tiếng Trường Canh kéo sự chú ý của nàng quay lại.

Trần Khinh Nhứ chớp chớp mắt: "Cái gì?"

Trường Canh: "Nếu Hoàng thượng hỏi đến, chỉ sợ còn phải phiền cô giúp ta che giấu một chút."

Trần Khinh Nhứ vội thu liễm tâm thần, gật đầu.

Cố Quân bóp mũi đứng dậy: "Được rồi, các ngươi bàn bạc đi – ban nãy bị ngươi chọc tức đến hồ đồ, hiện tại ta thật sự không tiện ở lại đây lâu, tốt xấu cũng phải qua đó xem thử."

Trường Canh "À" một tiếng, lưu luyến buông tay y ra, nhìn Cố Quân trông mong, vừa bắt được ánh mắt Cố Quân nhìn lại liền lập tức nắm lấy cơ hội, không chút tiếc rẻ dâng một nụ cười vừa rạng rỡ vừa nịnh bợ.

Cố Quân mới đầu không thèm để ý, mặt không biểu cảm nói: "Cười cái gì?"

Trường Canh tươi cười không thu lại, vẫn không ngừng phóng ra, nếu y có đuôi chắc đã vẫy rụng trụi lông rồi. Một lát sau, Cố Quân rốt cuộc hết đanh mặt nổi, bất đắc dĩ vỗ vỗ trán y, cười mắng: "Khốn nạn."

Lúc này mới bỏ lại Nhạn vương mặt đầy xuân sắc và Trần cô nương vẻ mặt xanh tái mà đi.

Bắc đại doanh điều tạm vào kinh bắt gọn cả ổ man tộc, cách ly giải vào thiên lao, chia ra chờ thẩm vấn, trong lúc này, có một nội thị lén lút muốn nhân loạn rời cung, bị Ngự lâm quân tuần tra bắt về, dược đồng của Trần Khinh Nhứ không mất chút sức nào chỉ nhận đây là kẻ giả truyền thánh chỉ lừa Nhạn vương vào cung yến.

Cung nhân nọ chẳng qua là tiểu nhân vật sai vặt, không đợi thẩm vấn đã bị trận trượng này dọa sợ hết hồn, hét ầm lên: "Hoàng... Hoàng thượng minh giám, chư vị đại nhân minh giám, nô tỳ không có giả truyền thánh chỉ, nô tỳ quả thật một năm một mười truyền khẩu dụ của Hoàng thượng, là Nhạn vương điện hạ tự mình muốn vào cung diện thánh..."

Còn chưa nói xong thì Giang Sung đã khoát tay cho người tuyên dược đồng của Trần đại phu đến, tiểu dược đồng kia tuy còn nhỏ nhưng đã có đặc điểm riêng của Trần gia, gặp bao nhiêu đại nhân vật mà không kích động chút nào, còn có khả năng qua tai không quên, lặp lại một lần đối thoại của nội thị và Nhạn vương không sót chữ nào.

Một đám người thành tinh nào có đạo lý nghe không hiểu?

Lý Phong còn chưa kịp nổi giận, Phương Khâm đã hằm hằm dẫn đầu chất vấn nội thị kia: "Là ai sai sử ngươi nói như vậy?"

Nội thị kia cũng khá nhanh trí, lập tức tránh nặng tìm nhẹ đáp: "Là Vương quốc cữu ạ! Vương quốc cữu thường ngày hay chỉ dạy bọn nô tỳ đạo hầu hạ thánh nhân, quốc cữu gia nói... nói... những lúc thế này, Hoàng thượng đã hỏi Vương gia, chính là muốn triệu y vào cung, bảo nô tỳ thông minh một chút, đổi lại thành..."

Lý Phong xoay ban chỉ trên tay, cười gằn nói: "Trẫm đúng thật không biết mình có ý gì nữa."

Vương Quả quỳ thụp xuống, khi tìm khắp nơi không thấy lão Thái y nọ thì lão đã biết ngay là mình e rằng bị Phương Khâm ném ra rồi, Phương Khâm kia mặt hiền bụng ác, tình cảm và đạo nghĩa nhất loạt không đếm xỉa, nói trở mặt là trở mặt, lão nên biết từ sớm – Ban đầu họ Phương và Lữ Thường thân đến mặc chung quần, chẳng phải cũng nói bán là bán, nói đâm là đâm luôn sao?

Nội thị kia la oai oái kêu oan, chưa được mấy tiếng đã bị bịt miệng kéo sang một bên, Phương Khâm ở bên kia nói: "Hoàng thượng, Vương đại nhân là quốc cữu đương triều, thần tuyệt đối không tin ông ấy có thể làm chuyện thông đồng với giặc, xin Hoàng thượng minh xét, nhất định phải trả lại sự trong sạch cho quốc cữu gia."

Vương Quả: "..."

Câu "oan uổng" của Vương quốc cữu ra tới miệng bị một câu của Phương Khâm chặn lại, lão vốn muốn lớn tiếng kêu oan biện bạch, đánh cuộc Hoàng thượng còn tình cảm với cữu cữu này, hoặc là không muốn đuổi tận giết tuyệt lão thần, có thể võng khai nhất diện tha cho lão một lần.

Việc này nếu làm to thì chính là giả truyền thánh chỉ, tội lớn khi quân, nhưng nếu bản thân Hoàng đế Long An không muốn truy cứu, thì cũng có thể nói là Vương quốc cữu già cả hồ đồ, nghe nhầm thánh chỉ, lại lắm miệng dông dài, gây ra một sự hiểu lầm mà thôi.

Nhưng Phương Khâm thật sự quá độc ác, hắn vừa mở miệng như thế, Lý Phong dù muốn cũng không thể che chở Vương Quả – làm vậy chính là thừa nhận quốc cữu quả thật có vấn đề – nếu Vương Quả thực sự trong sạch, lão sẽ hết sức hoan nghênh "tra rõ", vấn đề là lão không hề trong sạch!

Người man sẽ giấu giếm cho lão sao? Quà cáp chưa kịp chuyển đi sẽ giấu giếm cho lão sao? Đám thái giám ăn cây táo rào cây sung đó sẽ giấu giếm cho lão sao?

Vương Quả lập tức quyết định liều một phen, chuyện đã đến nước này, ngoại trừ làm cho rối thêm, lão đã nghĩ không ra biện pháp gì khác.

"Lão thần tội đáng muôn chết," Vương Quả cất cao giọng nói, "Lúc ấy nhất thời nóng lòng muốn gặp Nhạn vương, quả thật đã bóp méo ý của Hoàng thượng."

Lý Phong hơi nheo mắt: "Trẫm thật không biết Nhạn vương từ khi nào cũng thành kì trân rồi, bình nhật ở trong triều gặp nhau suốt cũng không thấy quốc cữu thân thiện với y lắm, y xin nghỉ vài hôm, quốc cữu còn tương tư khó nén hay sao?"

Vương Quả liều một phen, dập đầu sát đất, mặt căng thẳng: "Xin Hoàng thượng cho thần bẩm, chuyện này nói ra rất dài, có nội tình khác, đó là mấy hôm trước thần đến thăm biệt viện của Phương đại nhân, say rượu lạc đường, vô tình gặp một người, lúc ấy chỉ cảm thấy quen mắt, sau mới nhớ người này năm xưa lão thần từng gặp – khi ấy ngay cả Hoàng thượng cũng còn nhỏ, lão ta là Thái y nổi bật nhất Thái y viện, quan hệ rất thân thiết với hoàng quý phi Bắc man, sau do chuyện man phi mất tích mà bị liên lụy, sợ tội bỏ trốn..."

Phương Khâm cười gằn một tiếng trong bụng, ngoài mặt lại ra vẻ e sợ nói: "Vương quốc cữu có ý gì? Chẳng lẽ nói trong biệt viện của hạ quan chứa chấp khâm phạm? Hoàng thượng, đây rõ ràng là lời nói vô căn cứ!"

Lý Phong lãnh đạm nhìn họ.

Vương Quả nhắm mắt bịt tai, tiếp tục: "Thần lúc ấy chỉ cảm thấy ngạc nhiên, trò chuyện mới biết, lão Thái y kia do chuyện con trai bị kiện cáo, mà đặc biệt cất công cầu tới môn hạ Phương đại nhân."

Phương Khâm: "Nói vớ nói vẩn, sao ta lại làm trái pháp luật được!"

Vương Quả cười gằn nói: "Phương đại nhân đương nhiên không bị lay chuyển, nhưng lão Thái y kia lấy bí mật man nữ Tú quận chúa năm xưa khi rời cung đang có thai ra trao đổi, thì nói không chắc được! Lão thần biết với sự nhanh nhạy của Phương đại nhân, lúc này lão Thái y gì đó và gia đình chắc hẳn đều đã bị xử lý, chết không đối chứng – Nhưng thưa Hoàng thượng, chuyện năm đó Tú quận chúa ở Nhạn Hồi cấu kết Gia Lai Huỳnh Hoặc xâm chiếm biên cảnh ta chư vị ở đây đều rõ, một số tướng quân thậm chí tự thân trải qua, chân tướng ra sao, có lẽ thần không đường nào phân thuyết, song đám người man kia nhất định đều nắm được, cứ thẩm vấn là biết lão thần nói thật hay giả!"

Đây cơ hồ là đương đình nói thẳng huyết thống của Nhạn vương có vấn đề, Lý Phong chậm rãi hít sâu một hơi.

Phương Khâm nghĩ bụng: "Lão già Vương Quả này điên rồi à? Thà lôi mình vào cũng phải kéo ta xuống nước!"

Lập tức nói to: "Người man quỷ kế đa đoan, chỉ mong sao Đại Lương ta vĩnh viễn không có ngày yên bình, Hoàng thượng há có thể tin mấy lời nhảm nhí của họ? Trái lại quốc cữu gia, ông thật sự đã lén lút cấu kết với người man!"

Vương Quả cũng chẳng sá gì nữa, dập đầu như pháo kép bay lên trời, hòa với tiếng pháo rộn ràng khắp phố lớn ngõ nhỏ chốn kinh thành, chắc hẳn chỉ dựa vào thanh thế, cũng có thể khiến niên thú có đến mà không có về. (Niên thú là một ác thú trong truyền thuyết xưa, tương truyền mỗi đêm cuối năm nó sẽ đến tấn công con người.)

"Lão thần một tấm lòng trung thiên địa chứng giám, nhưng huyết mạch hoàng thất không thể lẫn lộn," Vương Quả lớn tiếng nói, "Lão thần ôm mối nghi ngờ, khó nhịn chốc lát, bấy giờ mới ra hạ sách này, để Nhạn vương điện hạ tiến cung một chuyến..."

"Hòng từ người man kia bắt được bằng chứng Nhạn vương điện hạ không phải con ruột của tiên đế sao?" Phương Khâm cắt ngang, "Nói vậy Vương đại nhân vẫn là lo lắng cho xã tắc! Hoàng thượng, hóa ra Nhạn vương điện hạ là gian tế người man cài vào cung thất để xáo trộn huyết mạch hoàng thất, thế An Định hầu phụng mệnh tiên đế đón về từ Nhạn Hồi tiểu trấn, cũng là một hoàng tử giả vàng thau lẫn lộn? Chi bằng người triệu Cố đại soái và Thẩm tướng quân đến hỏi cho rõ, xem hai vị danh tướng triều ta có rắp tâm gì!"

Phương Khâm giống như bấm đốt ngón tay tính sẵn rồi, chưa dứt lời thì bên ngoài liền có nội thị vào báo rằng An Định hầu đến.

Lý Phong mặt trầm như nước: "Truyền."

Cố Quân ở ngoài điện vừa vặn nghe thấy lời Phương Khâm, tiến vào cũng không khách khí, quỳ xuống nói thẳng: "Hồi bẩm Hoàng thượng, chúng thần năm đó phụng mệnh tiên đế tìm tứ điện hạ, diện mạo đặc trưng cơ thể và tuổi tác, tín vật đang giữ tất cả đều đã bẩm lên tiên đế, được lão nhân gia chấp nhận mới đón về, người cũng là tiên đế chính miệng nhận. Hơn nữa thần nhớ Hoàng thượng từng nói với thần, Nhạn vương điện hạ lúc nhỏ sống rất khổ, chịu đủ dưỡng mẫu ngược đãi, chắc hẳn man nữ kia đối đãi y cũng chẳng thật lòng gì, chẳng qua là không bỏ được huyết mạch của chị ruột mới miễn cưỡng nuôi thôi – Hổ dữ không ăn thịt con, nếu Nhạn vương điện hạ thật sự là ra từ bụng y thị, xin hỏi trên đời này có người làm mẹ ruột nào đối đãi cốt nhục của mình như vậy?"

Cố Quân mở miệng là có thể vả mặt người, Phương Khâm nở nụ cười như khóe môi rút gân.

Chỉ nghe Cố Quân một hơi nói xong lại chuyển sang Vương Quả: "Thần còn một việc muốn thỉnh giáo Vương đại nhân, xáo trộn huyết mạch hoàng thất có lợi ích gì cho ta? Nói một câu không dễ nghe, Huyền Thiết doanh ở Tây Bắc bao nhiêu năm, nếu ta thực sự cấu kết với người man, cửa ải Tây Bắc đã sớm bị phá mười vạn tám ngàn lần rồi – Trái lại quốc cữu gia, ngài luôn nhọc lòng thay người ta, mối hiềm nghi cấu kết man nữ giết hại trung lương của bản thân hơn hai mươi năm trước đã rửa sạch rồi à?"

Vương Quả thật sự sợ Cố Quân, trong sợ hãi còn có chột dạ, tính lão vốn dĩ yếu đuối, hoàn toàn là chó cùng rứt giậu liều cái mạng già mới khó khăn trụ được một hơi, lúc này vừa thấy Cố Quân, đừng nói là ngang ngược, lão ngay cả nói cũng không còn mạch lạc, mồ hôi lạnh túa ra như tắm.

Cố Quân hạ mình nói một câu với Vương Quả, dường như đã hao hết chút nhẫn nại ít ỏi mà y có, không nhìn lão thêm, trực tiếp tiến lên nói: "Hoàng thượng, Bắc man khinh người quá đáng, thần ở kinh thành đã hơn nửa năm, cát phong nhận rỉ dày hai ngón tay, thật sự không cần tàng phong nữa, thần xin đến Bắc cương!"

Cố Quân trên đường suy tới tính lui việc này, sứ tiết Bắc man hiện giờ giở trò, lại thêm lời đồn phía Thái tướng quân thám thính ra, rất có khả năng là Gia Lai Huỳnh Hoặc gà nhà đá nhau, y cần lập tức đến Bắc cương xác minh, nếu chính cục Bắc man sinh biến, chính là thời cơ tốt để xông vào, Bắc địa cái khác không có, chứ quặng tử lưu kim rất dồi dào, nếu thật có thể lấy chiến nuôi chiến, có lẽ không phải tiêu hao, mà là trợ lực.

Lý Phong lại hơi nhíu mày, thỉnh cầu này của Cố Quân tới quá gấp, hắn hơi lưỡng nan.

Một mặt, cũng là nửa giang sơn bị chiếm, đối với vương công quý tộc mà nói, "hoảng hốt dời đô rút lui" và "địa phương trời cao Hoàng đế xa bị man di chiếm đi một mảnh đất", hai cảm thụ này là không giống nhau, cái sau có vẻ không mấy cấp bách – dù sao thì, hoang thôn "lệ tận Hồ trần lý", hài cốt không nằm dưới lụa là gấm vóc của họ. Mà hiện giờ, quốc khố chậm rãi có được ít chân kim bạch ngân, hàng loạt lưu dân đã ổn định, cuộc sống mới hơi yên ổn, Lý Phong không hề muốn có chiến tranh vào lúc này.

Mặt khác, Lý Phong tuy gần đây chí khí tiêu mòn nhiều song vẫn rất nóng tính, nếu điều tra rõ người man thật sự tới cửa vả mặt hắn, hắn cũng không thể nuốt trôi cục tức này.

Hai ý nghĩ đấu sức bất phân thắng bại, hắn không lập tức trả lời Cố Quân, chỉ khoát tay nói: "Hoàng thúc đứng lên trước đi, việc động binh không thể lỗ mãng, thẩm tra trước rồi bàn sau – Người đâu, cởi quan phục của Vương Quả, tạm thời giam giữ chờ thẩm tra, Đại lý tự xử lý... Còn có điêu nô kia, nhất tịnh bắt luôn."

Dứt lời, Lý Phong không cho Cố Quân cơ hội nói gì, trực tiếp đứng dậy nói: "Trẫm đi thăm A Mân một chút."

Nhạn vương lúc đối phó Cố Quân phát huy bình thường, Trần Khinh Nhứ cảm thấy tên trâu bò này không việc gì, đang định rời khỏi thì vừa vặn đụng Lý Phong tiến vào, vội cúi đầu hành lễ, không quen lắm.

Lúc gãy chân Lý Phong đã từng gặp nàng, liền khách khí nói: "Vất vả cho Trần thần y, Nhạn vương thế nào rồi?"

Trần Khinh Nhứ thuận miệng bịa đại: "Người man dùng một loại vu độc đặc biệt, có thể mê hoặc thần trí, khả năng là muốn bắt điện hạ làm con tin để đào tẩu, may mà điện hạ phản ứng đúng lúc, tự cắt mình bị thương, kịp thời cho độc chảy ra, đã không sao rồi."

Lý Phong những việc khác không hiểu lắm, chỉ thoáng nhíu mày, như cố ý như vô tình nói với Trường Canh: "Lấy cái gì cắt? Ngươi ra tay với mình cũng ác quá."

Nghe thì như là quan tâm thương thế của Trường Canh, kỳ thực đang hỏi y mang đao làm gì.

Trường Canh giả bộ "ốm yếu", vịn đầu giường chậm rãi quỳ xuống: "Thần đệ nhận được khẩu dụ của hoàng huynh khi đang ở chỗ Trần cô nương, thần vốn thích loay hoay với thảo dược, lúc ấy đang giúp nàng sắp xếp lại dược liệu trong tay, cung nhân giục gấp, liền mang tiểu ngân đao của nàng theo luôn... cũng là kế quyền biến."

Nói đoạn, y lấy một thanh tiểu đao chưa dài bằng đầu ngón tay trên cái khay bên cạnh, căn bản là thứ dùng cắt dược liệu, không mài lưỡi, còn chưa sắc bằng dao ăn, hoàn toàn không tính là "lợi khí".

Hiển nhiên lúc ấy Nhạn vương ra tay với mình rất ác, cắt một nhát mà đao kia đã cong đến biến dạng.

Trần Khinh Nhứ thấy thế thầm cảm khái, chậm rãi lui ra, trong phòng chỉ còn lại Lý Phong và Trường Canh hai người.

Lý Phong không nhịn được nhìn kỹ Trường Canh – ngoại hình rất được, nhưng không phải tướng phú quý trời tròn đất vuông.

Y có đôi vành mắt sâu đa tình si tình, còn có đôi môi mỏng phụ tâm bạc tình, do mới chảy máu nên hai má có vẻ nhợt nhạt đau bệnh. Nhìn kỹ hơn, mặt mày Nhạn vương tựa hồ có một chút của man phi năm đó, sống mũi thẳng giống tiên đế, song nằm chung với nhau thì nhìn y lại chẳng giống ai, là dáng bạc mệnh không thân không thích.

Lý Phong thản nhiên nhìn đi chỗ khác, nói với Trường Canh: "Bên ngoài có mấy lời đồn đại linh tinh, ngươi không cần bận tâm, cứ an tâm dưỡng thương, lão già Vương Quả kia mấy năm nay ngày càng cậy sủng mà kiêu đến quá đáng, ta nhất định sẽ bắt lão cho ngươi một cách nói."

Lúc hắn nói "không cần bận tâm", Trường Canh liền biết Lý Phong trên thực tế có bận tâm, vì thế chủ động đề cập: "Là hoài nghi ta không phải huyết mạch của tiên đế?"

Lý Phong dùng cách nói của Cố Quân, điềm nhiên cười bảo: "Ngươi nghĩ nhiều quá, năm đó là tiên đế chính miệng nhận ngươi, ai dám chõ mồm vào?"

Trường Canh nghĩ ngợi một tẹo, nói: "Việc thế này chẳng ai nói rõ được, đã như vậy, để tị hiềm, xin Hoàng thượng cho phép ta tạm thời từ chức thống lĩnh Sở quân cơ đi?"

Lý Phong híp mắt, không lập tức trả lời.

Trường Canh cười khổ nói: "Tân chính mới thành lập, ta ở lại vị tất có thể có bao nhiêu kiến thụ, cũng chỉ còn lại công dụng rước hận, xin hoàng huynh thương tình."

Lời này vi diệu chọc trúng lòng Lý Phong.

Quả cân trong tay đế vương không ngoài hai chữ "thăng bằng", dạo trước Lữ Dương hai đảng mưu phản, Ngự lâm quân làm loạn, ép hắn phải tự mình ra tay đàn áp cựu thế gia Đại Lương, mà đồng thời, tân quý mượn thế từ đại thương nhân, chớp nhoáng xông lên sân khấu, cũng ngày càng có thế phát triển lớn mạnh.

Lý Phong có thể dung nhẫn cho cây non lớn lên, cũng vui vẻ nhìn họ ngang vai ngang vế với các thế lực thế gia mắt cao hơn đầu, nhưng tuyệt không hi vọng cây non thành đại thụ chọc trời, chọc thủng nóc nhà. Thế lực này lớn mạnh thật sự quá nhanh-

Ngay cả quốc cữu đương triều cũng không thể đứng ngoài cuộc, lần này là Vương Quả, lần sau sẽ là ai? Chẳng lẽ muốn Hoàng đế xử trí sạch sẽ vương công cả triều sao? Đến lúc đó thiên hạ phải họ gì tên chi?

Tân chính phải mở ra một con đường máu, dưới kịch biến luôn có người phải hy sinh.

Lý Phong nhìn Trường Canh một cái: "Cũng tốt, ngươi gần đây thật sự lắm tai nhiều nạn, nghỉ ngơi đúng lúc cũng là điều nên làm."

Chỉ trong một đêm, biến động bất ngờ.

Quốc cữu Vương Quả vinh sủng hai triều bị hạ ngục, nội thị trong cung dính dáng với lão rất nhiều, lần lượt bị lôi ra thẩm tra, trong cửu trùng cung khuyết lòng người hoảng sợ, nhổ củ cải kéo cả bùn lên mà tra ra một đống có và không, cựu án của Huyền Thiết doanh cũng không tránh khỏi bị lật lại, cây đổ bầy khỉ tan, cả triều đều bận phủi sạch quan hệ với nhà họ Vương, chỉ sợ dính một chút tội liên đới.

Mà sứ tiết man tộc ác ý làm loạn bị bí mật giam giữ, Bắc đại doanh luân phiên tuần tra, trận địa sẵn sàng chờ địch.

Nhưng kết quả cuối cùng của việc này ngay cả Phương Khâm cũng không liệu được-

Nhạn thân vương cái đinh trong mắt hắn lại từ chức quan, mà Hoàng đế Long An còn chuẩn!

Phương Khâm sống đến từng này tuổi, lần đầu tiên biết "thế sự khó liệu" là gì, khi hắn trăm phương ngàn kế muốn đối phó Nhạn thân vương, người ta sống khỏe re, lại suýt nữa lôi mình vào, lần này hắn hoàn toàn không định chen vào, hấp tấp phủi sạch quan hệ với Vương Quả, không tiếc đứng ở bên đối thủ... Kết quả lại thần xui quỷ khiến được như nguyện vọng!

Khó trách người xưa nói "Đế vương tâm thuật, thần quỷ bất ngôn".

Đêm ấy đổ một trận tuyết rất to, trên hoa mai của hầu phủ kết một lớp sương trong suốt lóng lánh, ngưng đọng màu sắc trong đó, đẹp vô cùng.

Xe ngựa của người về đậu ở cổng, trên cửa hầu phủ mở hình chữ bát, đèn măng-sông bị tuyết phủ vẫn tận trung chức thủ hắt xuống một khoảng sáng nhỏ, thiết khôi lỗi giữ cửa sau một tiếng ngân dài "cót két" xoay người đi, hơi nước lặng lẽ bay ra, cửa phủ mở rộng.

Cố Quân nhảy xuống xe, xua tay với Hoắc Đan, tự mình vén màn xe nói: "Đưa tay cho ta."

Vết thương Trường Canh cứa bằng ngân đao nhìn đáng sợ nhưng kỳ thực chưa hề thương gân động cốt, cho dù Trần Khinh Nhứ mặc kệ y, với thể chất của Ô Nhĩ Cốt cũng sẽ nhanh chóng kết vảy, đã sớm chẳng bị cái quái gì nữa rồi.

Song đối mặt với Cố Quân, không có việc y cũng sẽ tìm việc.

Trường Canh làm bộ làm tịch vịn tay Cố Quân xuống xe, thuận thế như không xương lao tới bám cứng tay và vai Cố Quân, nắm chặt tới mức hất không ra, cũng chẳng biết vết thương kiểu gì có thể giúp công lực tiến nhanh như thế.

Cố Quân biết y giả bộ, cũng biết y quả thật bị uất ức, không nhẫn tâm trách móc nặng nề, chỉ dùng tay vỗ nhẹ lưng Trường Canh, kéo áo choàng bọc lấy y, rảo bước vào cổng.

Hai người cuốn theo gió lạnh vào nhà, làm con chim trong lồng treo trên cửa sổ lạnh đến tỉnh lại.

Con chim kia đang say giấc nồng, bị gió lạnh thổi run lên, mất giấc ngủ tức quá mở miệng chửi luôn: "Khốn nạn, lạnh chết cha nó rồi... quác... quác quác... Cát tường như ý! Trăng tròn hoa thắm! Tiền vào như nước! Muốn sao được vậy!"

Cố Quân: "..."

Y và thần điểu này nhìn nhau một lúc lâu, rốt cuộc, con chim kia xấu hổ giơ một cánh lên che mặt, giống như cũng biết hình tượng khúm núm nịnh bợ của mình hiện giờ không mấy vẻ vang, chẳng còn mặt mũi gặp ai.

Trường Canh ở bên cạnh cười khẽ, Cố đại tướng quân xem như phục rồi.

"Lạnh đến đỏ bừng cả mặt," Cố Quân sờ cằm Trường Canh, "Chịu một đao còn mất chức quan mà vui như vậy hả? Mau thay quần áo đi."

"Không có chức quan càng nhẹ người, Trường Canh ý tứ sâu xa cười một tiếng, quay đi thay quần áo khô mát, sau đó ngồi bên cửa sổ, tóm con chim kia lại vuốt lông, con chim bị y vuốt ve đến run bần bật, sợ chết khiếp, "Này, Tử Hi à, nếu ta thật sự là do Hồ Cách Nhĩ đẻ ra, thế cha ta là ai?"

Cố Quân: "Đừng nghĩ ngợi lung tung."

Trường Canh điềm nhiên cười nói: "Hắn tuyệt đối không phải người man, nếu không lúc ấy đã đi cùng bà ta rồi, nhưng nhất định quan hệ với man nữ không hời hợt, rất có thể tham dự vào chuyện vạch kế cho man phi lẩn trốn, sau đó tiếp quản thế lực người man trong kinh thành và cung cấm... Cho đến thời điểm kinh thành bị bao vây mới lộ ra dấu vết."

Người y nói là Liễu Si đại sư, giống với phỏng đoán ban đầu của Thẩm Dịch.

Năm đó bị y tự tay bắn chết.

Cố Quân chẳng hề để ý mà bình luận: "Ngươi nói người Đông Doanh? Người Đông Doanh không cao được như ngươi, nhưng nếu mai kia ngươi thực sự biến thành xấu xí như lão hòa thượng miệng quạ đen đó, thì ta không thèm ngươi nữa đâu."

Trường Canh nở nụ cười trong im lặng.

Cố Quân: "Ta đi kêu người nấu canh gừng, đừng để cảm lạnh."

Trường Canh nghe vậy nhảy vọt lên, nhét con chim về lại lồng, với tay kéo một tấm vải đen to che lên, xấu xa nói: "Xua hàn không nhất định phải uống thứ đó, cứ để ta!"

Lúc này, người man mới bị thẩm qua một vòng bị giải vào thiên lao vây chặt mấy tầng.

Sứ giả man tộc bị đẩy vào nơi tối tăm ngột ngạt quay đầu lại, vừa vặn chạm tầm mắt Thẩm Dịch trên lưng ngựa, ánh mắt ấy khiến Thẩm Dịch căng thẳng.

Sứ tiết man tộc nhìn y thoáng nở nụ cười quỷ dị, đoạn ngâm nga một khúc ca: "Tinh linh sạch sẽ nhất, thiên phong cũng muốn hôn góc váy nàng..."

Họ ở thảo nguyên lâu năm, mỗi người đều có chất giọng tốt to rõ, giọng nam ấy hơi trầm thấp, quanh quẩn trong gió tuyết, có sự bi tráng đau buồn của sói hoang cùng đường, người đi tiếng ca còn vọng vang.

Thẩm Dịch cau mày nghe một lát, nghe thấy mùi đổi dời theo thời gian mà đến.

Tử lưu kim lặng lẽ cháy trong hộp vàng của mấy bộ trọng giáp đang tuần tra quanh thiên lao, từ bên ngoài có thể nhìn thấy một chút quầng sáng màu tím, hơi nước bay giữa trời băng đất tuyết, chớp mắt lác đác tan hết, thảo nguyên, phi mã, đao thương kiếm kích và xuy tiễn trường mâu nguyên thủy, nhất tịnh mất màu, đọng lại trong bóng lưng nặng nề đen sì như thiết khôi lỗi của trọng giáp.

Thẩm Dịch đột nhiên có cảm giác, như là một thời đại đang đi đến kết thúc ngay trước mắt y vậy.

Song y chỉ cảm khái chốc lát, mau chóng định thần lại, xốc hết mười phần tinh thần – nếu phỏng đoán của Cố Quân đúng, vậy nội bộ mười tám bộ lạc rất có thể đã chia rẽ, thời cơ chiến đấu thế này quyết không thể bỏ qua, phương Bắc rất có thể phải lập tức chiến tranh rồi.

Thẩm Dịch vừa dạo qua một vòng ngoài thiên lao, đang chuẩn bị đi về, thì đột nhiên một bóng trắng thoáng qua không xa, nhanh đến mức khiến người ta cảm thấy là mình hoa mắt. Nếu không phải Thẩm Dịch nhiều năm trên chiến trường tôi luyện ra trực giác nhạy bén thì cơ hồ không phát hiện được.

Thẩm Dịch dùng tay ra hiệu cho mấy vệ binh không hay biết gì ở quanh đó, dẫn đầu cầm cát phong nhận tiến vào thiên lao. Y càng đi càng kinh hãi, trên mặt đất vậy mà ngay cả một dấu chân cũng không có, thiên lao trống trải im ắng, hai lao đầu canh cửa thì một ngồi một đứng, đờ đẫn bất động, nhìn kỹ mới thấy đã lặng yên ngất đi.

Đột nhiên, sau đầu Thẩm Dịch chợt truyền đến một trận gió nhẹ, y lao về phía trước theo bản năng, đưa tay rút cát phong nhận sau lưng, vung về phía sau – bị hụt.

"Keng" khẽ một tiếng, cát phong nhận chạm phải thứ nào đó đặc biệt nhẹ, Thẩm Dịch không hề quay đầu lại lao về phía trước, đến góc nhảy lên, hai chân mượn lực trên tường, cả người lật lại, túm góc áo kẻ đột nhập, y thuận thế kéo xuống, mạng che trên mặt người nọ bất ngờ bị lôi xuống, lại là Trần Khinh Nhứ.

Thẩm Dịch: "..."

Y cơ bản không biết mình hạ đất thế nào, đần thối há hốc miệng, suýt nữa trẹo chân.

Ngay sau đó, bên kia vọng tới tiếng bước chân dồn dập, là vệ binh Bắc đại doanh đi theo, Thẩm Dịch định thần lại, mau chóng lắc đầu với Trần Khinh Nhứ, đẩy nàng vào một góc khuất sáng, kế đó điềm nhiên cất cát phong nhận, quay người thong thả bước ra.

Vệ binh: "Thẩm tướng quân, sao vậy?"

Thẩm Dịch nhàn nhạt nói: "Không có gì, ta nhất thời nhìn lầm, người man kia thủ đoạn quỷ quyệt, bảo các huynh đệ cảnh giác một chút."

Chúng vệ binh không nghi ngờ y, mau chóng xếp thành mấy đội, tản đi nơi khác tuần tra.

Thẩm Dịch đứng tại chỗ một lát để bình tĩnh lại, hít sâu mấy hơi liền, tim muốn nhảy ra.

Một lúc lâu sau, y lặng lẽ lau sạch đợt mồ hôi lạnh thứ hai trên tay, quay sang chỗ Trần Khinh Nhứ ẩn thân: "Sao Trần cô nương lại ở đây?"

Trần Khinh Nhứ tới để gặp sứ tiết man tộc, nàng không muốn từ bỏ một chút manh mối của Ô Nhĩ Cốt, trước lúc đến đã nói với Trường Canh, Trường Canh vốn định nhờ người trong quân hỗ trợ, nhưng Trần Khinh Nhứ tự mình cân nhắc một chút, cho rằng mình không định cướp tù, chỉ là nhân đêm lẻn vào thiên lao đi một vòng, vấn đề hẳn không lớn, chuyện Ô Nhĩ Cốt nên càng ít người biết càng tốt.

Nàng thật sự không liệu được mình sẽ bị bắt, còn là người quen bắt, lập tức xấu hổ chắp tay nói: "Đa tạ tướng quân thủ hạ lưu tình, ta đến thiên lao là muốn xác định với sứ tiết man tộc vài việc – Thẩm tướng quân có thể xem cái này."

Nói xong, nàng lấy từ trong lòng ra một phong thư tay của Trường Canh, trên đóng tư ấn của Cố Quân, đây là Nhạn vương mượn thế Cố Quân mở cửa sau cho nàng, Trần Khinh Nhứ ban đầu không định nhận, lúc này mới âm thầm lấy làm may mắn, may mà có thứ như vậy, không thì khó mà giải thích được.

Phong thư này nàng vẫn cất trong ngực, còn đượm hơi ấm, lúc nhận tay Thẩm Dịch run lẩy bẩy, như thể nằm mơ mà xem một lần, thật đúng là từng chữ đều như mây khói thoảng qua, một giọt mực cũng có thể tiến vào bộ óc cháy khét của y.

Thẩm Dịch ở cùng Trần Khinh Nhứ trong căn phòng nhỏ hẹp, thế mà chẳng dám ngẩng đầu nhìn người ta.

Trần Khinh Nhứ thấy y một lúc lâu không nói gì, liền nhắc nhở: "Bên trên có tư ấn của Cố hầu gia đấy."

Thẩm Dịch như vừa tỉnh mộng: "A... À, phải, thế cô cẩn thận một chút, ơ... mời vào."

Trần Khinh Nhứ thở phào nhẹ nhõm, đi vào thiên lao, đi vài bước phát hiện Thẩm Dịch vẫn chưa đuổi theo, lại nói: "Nếu tướng quân không yên tâm thì có thể đi cùng."

Thẩm Dịch tiếc chữ như vàng gật đầu một cái: "Ừm, quấy rầy."

Nói xong, y cũng chỉ im lặng theo cách Trần Khinh Nhứ năm bước, thở mạnh cũng không dám, còn yên lặng hơn cả thiết khôi lỗi không có sinh mệnh. Trong thiên lao tối đen như mực, Trần Khinh Nhứ cũng không nhìn thấy mặt Thẩm Dịch đỏ thành đít khỉ, trong lòng còn đang ngạc nhiên – Không phải đều nói vật họp theo loài à? Sao bên cạnh An Định hầu còn có một người đứng đắn cổ hủ như vậy?

Hai người không chuyện trò gì mà đi thẳng đến trước gian đơn của sứ tiết man tộc, Thẩm Dịch rốt cuộc mở cái miệng tôn quý, nói như đếm chữ: "Người này tên Xích Khố Do, là tâm phúc của Lang vương Gia Lai."

Y đột nhiên lên tiếng như xác chết vùng dậy, Trần Khinh Nhứ giật nảy mình, đầu ngón tay tức khắc lóe ngân quang, suýt nữa lấy hung khí ra. Thẩm Dịch đương nhiên nhìn thấy, ảo não ngậm miệng lại, càng không dám lên tiếng.

Lúc này, vẫn là kẻ địch giải cứu Thẩm tướng quân sắp chui vào qua kẽ tường thiên lao, Xích Khố Do trong gian đơn nghe y giới thiệu liền thong thả tiếp lời: "Người khác đều nói ta là phản đồ bên cạnh Lang vương, vị tướng quân này trái lại tuệ nhãn như đuốc."

Thẩm Dịch vừa gặp hắn thì mồm mép liền lưu loát hơn: "Phản đồ? Nói vậy đồn đãi quý bộ nhị vương tử soán vị là thật?"

Xích Khố Do lắc đầu, đến nông nỗi này rồi, cũng chẳng còn gì để giấu giếm, thản nhiên nói: "Nhị vương tử chẳng qua là một đứa trẻ, còn chưa tới tuổi sinh dã tâm, nhưng mà mười tám bộ lạc dưới Lang vương chỉ có ba vị vương tử, thế tử đã bị họ nhốt, tam vương tử... Ha ha, là một kẻ ngốc ăn mặc đi lại đều cần người hầu hạ, cũng chỉ còn nhị vương tử có thể miễn cưỡng làm con rối cho bọn họ mà thôi."

Thẩm Dịch nhạy bén bắt được hai chữ "bọn họ", những tâm nhãn đó chỉ cần không ở trên người Trần cô nương là có thể xoay chuyển nhanh chóng, lập tức kịp phản ứng – Man tộc phương Bắc tên là "liên minh mười tám bộ lạc", vốn đã không phải là một thể, muốn làm vua bầy sói, ngoại trừ cho mọi người ăn no mặc ấm ra, còn phải có răng nhọn cắn đứt được cổ kẻ khác.

Thẩm Dịch híp mắt, thăm dò: "Sao? Lang vương vậy mà có thể dung nhẫn ư?"

Xích Khố Do cười khẩy một tiếng: "Anh hùng ngút trời chung quy cũng có ngày già nua, nếu không làm sao đến phiên chó hoang ra mặt?"

Thẩm Dịch đã hiểu, Gia Lai Huỳnh Hoặc không phải bị thương thì là bị bệnh, chỉ sợ đã mất đi quyền khống chế mười tám bộ lạc.

Y buông cát phong nhận bên hông xuống, mũi đao cách vỏ, cầm trên tay y vừa vặn có thể chống đất, đồng tử Xích Khố Do hơi co lại – Huyền Thiết doanh vĩnh viễn là bóng ma bao phủ trên đầu ba đời mười tám bộ lạc.

Thẩm Dịch dùng giọng điệu văn nhã hàn lâm nói: "Lang vương quý bộ tính tình rất cực đoan, mấy năm nay liên tục gây chiến, chắc hẳn các tộc nhân cũng chẳng được mấy ngày yên ổn, hiện giờ Tây Bắc ta có trọng binh canh gác, dũng sĩ trên tay Lang vương vị tất còn có tâm và sức để chiến một trận, thứ cho ta ngu dốt, vì sao quý sứ phải trăm phương ngàn kế chui vào đoàn sứ tiết phá hoại việc đàm hòa? Chẳng phải là liên lụy tam vương tử một đứa trẻ vô tội?"

Xích Khố Do bình tĩnh nhìn y một cái: "Tướng quân nói có lý, những người đó trong liên minh mười tám bộ lạc chỉ sợ cũng đều nghĩ như vậy, nhưng đây không hề là tâm nguyện của vương ta. Ta từng thề với trường sinh thiên là trung với vương ta, cho dù gánh tội danh bội tín phản đồ, cũng phải giúp vương hoàn thành tâm nguyện."

Thẩm Dịch: "Xin chỉ giáo."

"Mãnh thú phải có dáng vẻ của mãnh thú, nếu mười tám bộ lạc tương lai rơi vào tay đám người vẫy đuôi nịnh bợ kia, bị Đại Lương dạy thành một con chó đào tử lưu kim, chẳng thà để họ bị diệt luôn từ đây, chết trên đường phấn võ chiến đấu." Xích Khố Do nhìn Thẩm Dịch nói, "Tướng quân quạ đen, ta hỏi ngươi, ngươi muốn sống trong cảnh thảm hại, hay chết trong liệt hỏa."

Xích Khố Do này nói chuyện như bọn khốn nạn, Trần Khinh Nhứ vốn tưởng Thẩm Dịch chẳng thèm để ý tới, không ngờ Thẩm Dịch nghe hỏi, vậy mà thật sự trả lời đàng hoàng: "Bản thân ta thì muốn chết trong liệt hỏa, nhưng cũng biết đạo lý 'kiến còn tham sống', người nhập ngũ thủ biên cương, bảo vệ những người càng muốn sống hơn là đương nhiên, ta không hề cho rằng cuộc sống ngư tiều canh độc bình yên có gì thảm hại cả – nếu tộc nhân thực sự sống rất thảm hại, đó cũng là lỗi của người thượng vị cầm lợi khí."

Thẩm Dịch nói xong, cảm thấy mình đại khái đã có được một chút tin tức, liền lui ra phía sau một bước, nho nhã lễ độ đưa tay làm động tác "mời" Trần Khinh Nhứ: "Nhạn vương nhờ vị cô nương này hỏi ngươi một câu, hai ta bớt tán dóc đi."

Lúc nghe thấy hai chữ "Nhạn vương", biểu cảm của Xích Khố Do hơi thay đổi, tựa hồ có chút cổ quái, lại phảng phất là cảm khái, không đợi Trần Khinh Nhứ mở miệng, hắn đã nói trước: "Cô là vì Ô Nhĩ Cốt mà đến sao?"

Khi Trần Khinh Nhứ đến, Trường Canh nhờ nàng chuyển một câu tới Xích Khố Do, "Giao ra bí mật của vu độc man tộc, ta sẽ cho thứ ngươi muốn", lúc trước Trần Khinh Nhứ không hiểu ý câu này là gì, hiện giờ nghe đối thoại ông gà bà vịt của Xích Khố Do và Thẩm tướng quân, cuối cùng đã hiểu đôi chút, liền nói ra lời này.

Xích Khố Do nghe thế, trên mặt hiếm thấy có một chút suy tính, sau đó thái độ hết sức nghiêm trang hồi đáp: "Về Ô Nhĩ Cốt, ta chỉ biết cách kích phát và khống chế, về phần luyện chế như thế nào, chỉ có thủ lĩnh và thần nữ mới biết, đó là bí mật bất truyền, thứ cho ta không thể hứa hẹn."

Trần Khinh Nhứ: "Thế còn cách giải?"

Xích Khố Do nghe vậy sửng sốt: "Cô nói cái gì? Cách giải?"

Hắn thở dài, bĩu môi nói: "Nữ nhân Trung Nguyên, Ô Nhĩ Cốt không phải là mấy thứ độc dược kém cỏi của người Trung Nguyên các cô, ăn xong không chết, nuốt giải dược vẫn sống được – Ô Nhĩ Cốt luyện thành chính là Ô Nhĩ Cốt, y đã thoát thai hoán cốt, không còn là người nữa, cô muốn đánh y về nguyên hình, cũng giống nhét chó con đã đẻ ra về bụng mẹ, để nó sinh lại thành thỏ, đó là không khả thi."

Trần Khinh Nhứ không dễ lừa như vậy: "Cái gọi là 'thoát thai hoán cốt', lừa người ngoài nghề còn được, nếu quý sứ thực sự có thành ý, tốt nhất đừng dùng mấy lời nhảm nhí này để gạt ta."

Xích Khố Do đảo mắt, giảo hoạt cười nói: "Thật không khéo, ta chính là một 'người ngoài nghề' – Hồ Cách Nhĩ thần nữ cuối cùng đã chết hai mươi năm, trước khi chết đem cấm thuật của thần nữ truyền cho vương ta, tam vương tử chính là Ô Nhĩ Cốt ngài tự tay tạo nên... Tuy rằng bị tư chất của kí chủ hạn chế, Ô Nhĩ Cốt này không hề hoàn chỉnh, nhưng nếu các ngươi muốn bí mật của Ô Nhĩ Cốt, có thể đi tìm ngài – chỉ cần quạ đen của các ngươi có thể giết hết đám chó hoang tù vây Lang vương."

Man sứ này quỷ kế đa đoan, rành rành ý đồ gây sự dẫn chiến, nhưng tốt xấu gì cũng xác định một việc – nếu tam vương tử thật sự là Ô Nhĩ Cốt thì ở chỗ Gia Lai Huỳnh Hoặc quả thực có cấm thuật của thần nữ hoàn chỉnh, đây là một phương hướng.

Trần Khinh Nhứ không nói thừa nữa, quay đầu đi ngay, ngày hôm sau liền để thư lại rời khỏi kinh thành.

Thẩm Dịch cơ hồ phát điên, chỉ hận không thể lập tức mọc cánh bay đến tiền tuyến phương Bắc, ngày ngày chạy tới quấy rầy Cố Quân, Cố Quân không chịu nổi làm phiền, liên tục chạy vào cung.

Rốt cuộc, ngày mùng ba Tết, Lý Phong đồng ý, lệnh cho Cố Quân âm thầm đến tiền tuyến phương Bắc, cẩn thận hành sự, tra xét động hướng của mười tám bộ lạc, nhưng không thể tùy tiện động binh.

Nhạn vương không tiện đi theo tới tiền tuyến, tiễn người một mạch đến ngoài Bắc đại doanh, trong lòng tự dưng trỗi lên sự nôn nóng vô lý do.

Y ngoảnh lại thoáng nhìn phương hướng tầng tầng cung khuyết, thấp giọng phân phó xa phu: "Đến Vọng Nam lâu."

Đêm đầu tiên Cố Quân rời khỏi kinh thành, vừa gắn kính lưu ly lên thì kẹp đột nhiên gãy lìa một cách lạ lùng, kính từ mũi y lăn thẳng xuống, vừa vặn đập lên kiên giáp bằng huyền thiết, nứt toác.

Tướng quân sắp xuất chinh, vật tùy thân hư hại là điềm xấu, thân binh giật nảy mình, sợ Cố Quân kiêng kỵ.

Cố Quân dụi mũi: "Chậc, ta đây là không thầy tự thông Kim chung tráo và Thiết bố sam rồi?"

Thân binh nhanh trí nói: "Đây là 'toái toái bình an', Đại soái, để ta đi lấy cho ngài cái khác." (Toái đồng âm với tuế, nghĩa là năm nào cũng được bình an)

Thân binh chăm lo cuộc sống hàng ngày của y, biết trong tay nải của y nhất định có kính lưu ly dự phòng, nhưng trong quá trình tìm kiếm, bất ngờ nhìn thấy trong quần áo tùy thân của Cố Quân có kẹp một phong thư to, cầm lên thấy rất dày, gắn bằng xi, trên viết mấy chữ "Gửi Cố soái".

An Định hầu trăm công nghìn việc, nhất định không có sở thích tự viết thư cho mình, thứ này xen lẫn trong quần áo, nhìn kiểu nào cũng thấy hơi có ý "da thịt thân cận", tự nhiên có cảm giác thân mật mờ ám.

Ai sẽ là người sắp xếp quần áo cho Cố Quân?

Ngoại trừ đám lão hạ nhân râu bạc của hầu phủ, e cũng chỉ còn lại hồng nhan tri kỷ.

Xi chưa mở, có lẽ bản thân Cố Quân vẫn chưa phát hiện, tiểu thân binh chợt thông minh, hăm hở đem cả kính dự phòng lẫn phong thư đến cho y, cười gian nói: "Đại soái, trong quần áo của ngài kẹp một phong tín hàm quan trọng, mau xem đi, đừng quên mà lỡ việc."

Cố Quân đeo kính thần sắc là lạ xem qua nét chữ quen thuộc trên phong thư, nhìn lên thấy bộ dạng nháy mắt bỉ ổi của tiểu thân binh, cười mắng: "Nhìn gì mà nhìn, mau cút đi."

Thân binh cười "hì hì", không thò đầu dòm nữa, làm mặt quỷ chạy mất.

Phong thư ấy cầm trong tay khá nặng, nhấc lên như một quyển sách dày, nếu là thư tình thì chắc phải bắt đầu viết từ hồi Nhạn vương điện hạ còn mặc tã, Cố Quân vừa xé ra vừa nghĩ lung tung: "Khế nhà? Khế đất? Phong hỏa phiếu? Bạc? Hay bí tịch trường sinh bất lão?"

Song khi mở ra xem nội dung bên trong, y cơ hồ chấn kinh vì thứ trong đó.

Đó là một tập bản vẽ dày cộp, toàn là giấy Hải Văn mềm dẻo, giấy Hải Văn nước lửa không xâm, nhưng một số chỗ vẫn ố vàng cong mép, hiển nhiên đã vẽ nhiều ngày, nét mực trên giấy đậm nhạt không đều, đại khái là nguyên chủ nhiều lần chú thích, không phải vung lên mà thành.

Đè trên cùng là một tờ bản đồ toàn cảnh Đại Lương rất to, mở ra có thể che kín cả nền nhà, tam giang ngũ hồ, Man Kinh Âu Việt... không phân lớn nhỏ, nằm hết trên giấy, trên bản đồ còn lít nhít chữ tiểu Khải cực nhỏ làm dấu – muốn phá núi ở nơi nào, muốn dựng nhà xưởng khắp nơi nào, non xanh nước biếc nào cá gạo ê hề, cảng nào thích hợp mở rộng mà hướng mặt ra tứ hải, nơi đâu có thể để hải giao chân chính bay xa vạn dặm, chỗ nào có thể mở một con đường chuyên dùng cho tử lưu kim...

Vùng nào phải sửa quan đạo, vùng nào phải dùng cự diên và đại điêu đã cải tiến nối liền, còn có đường ray vẽ trên giấy như động mạch bò khắp toàn cảnh – đó là đường ray của loại xe hơi nước Tây Dương mà Trường Canh từng nói, chạy ngoằn ngoèo như hàng rồng rắn, có thể đi ngàn dặm một ngày.

Phía dưới bản đồ kèm một bản thiết kế ray xe hơi nước, kèm thêm chú giải chuyên nghiệp của Phụng Hàm công, và tính toán về vận lực lẫn tiền bạc lương thực Đỗ tài thần viết bên cạnh.

Ngoài ra, trong xấp giấy Hải Văn dày cộp này còn có thuyết minh lại chế Đại Lương tương lai, "Sở quân cơ" và "Ban vận hà" đã thực hiện, nhưng vẫn còn rất nhiều chức vụ Cố Quân chưa nghe bao giờ, tầng cấp rõ ràng, hiệu suất cực cao.

Những ví dụ như thế không phải là ít-

Nếu Cố Quân năm năm trước nhìn thấy mấy thứ này, không chừng phải cho là ý nghĩ hão huyền của thoại bản sư dân gian, mà nay, dù rằng rất nhiều việc chưa hoàn thành, nhưng đã sống động như thật, thành và không thành đều không còn là thần thoại nữa.

Mà dưới những bản vẽ tựa như ảo tưởng này còn kẹp một bức vẽ, bút pháp không hề tinh vi, hiển nhiên người vẽ không rành môn này, nhưng ý cảnh rõ nét, vài nét ít ỏi, phác họa ra một đứa trẻ bắn pháo ven đường, đằng sau có một gốc cây ăn quả không biết mọc cái gì, chi chít rực màu ở đầu cành, chẳng biết là hoa hay quả – mà nơi xa sơn thủy tầng tầng lớp lớp nhuộm lên rìa, có vẻ vừa vui mừng, vừa yên bình.

Trên bức họa không đề tên cũng chẳng đề thơ, chỉ đề "thiên hạ thái bình" như ghi chú.

Giang sơn vô biên như gấm, đều nằm trong bút mực.

Ngực nóng lên, Cố Quân theo bản năng đè tay lên, lúc này mới phát hiện mình vậy mà vô thức nín thở, không nhịn được đỡ trán nở nụ cười trong im lặng, Tiểu Trường Canh giỏi làm nũng đáng thương đáng yêu, song Nhạn vương chấp bút xã tắc mới làm y động dung.

Chớp mắt, Cố Quân và Thẩm Dịch đã đến tiền tuyến Bắc cương, đồng thời bí mật điều động một phần Huyền Thiết tam bộ hội hợp phía sau thành phòng quân phương Bắc, thống lĩnh thành phòng Bắc cương ban đầu đã chết trận khi người man xâm chiếm, Bắc cương trọng địa không thể không có lão tướng, vẫn liên tục do Thái tướng quân tạm thay.

Thái Phân già thật rồi, mỗi năm một già hơn, lần trước khi Cố Quân liên thủ tiễu phỉ, cảm thấy lưng ông còn chưa cong như bây giờ, tay ông còn chưa run nhiều như bây giờ.

Kỳ thực cũng phải thôi, một nam nhân cả đời có thể có bao nhiêu năm tháng thẳng tiến không lùi? Có thể có bao nhiêu nhiệt huyết tùy ý đổ cũng không nguội lạnh một phần? Thời điểm hai ba mươi tuổi tung hoành sa trường, công danh trĩu nặng, chờ già rồi, mệt rồi, dù cho thần hồn rèn đúc từ sắt thép còn đó, cũng chỉ có thể bắt đầu phí tâm huyết, chẳng phải sẽ như hồng nhan khó mà lâu bền sao?

Chiến trường Bắc cương liên tục giằng co, song không như tiền tuyến Giang Bắc cách Trường Giang, tuy người man không dám có động tác lớn, nhưng hằng ngày vẫn xung đột không ít, giữa người Trung Nguyên và người man dăm ba hôm sẽ có một chiến dịch cỡ trung hoặc cỡ nhỏ, toàn quân trên dưới đều phải gối giáo chờ sáng, tuần tra suốt đêm không dám lơi lỏng. May mà đôi long phượng thai nhỏ nhất dưới gối Thái Phân đều đã sắp tròn hai mươi, con cái phần lớn đã thành nhân, "quân Thái gia" đã rất ra dáng, ít nhiều có thể san sẻ gánh nặng, không để lão tướng quân chết mệt.

Hiện giờ dọc đường thôn quách thành trấn gần Bắc cương đã mười nhà trống chín, vốn đã không mấy trù phú, lại thêm chiến họa liên tục, đạo tặc hoành hành, không nỡ bỏ nhà cửa, vậy thì chỉ có thể bỏ mạng.

"Từ sau khi man sứ vào kinh đàm hòa mới hơi yên ổn," Thái Phân ho khan vài tiếng, nói, "Thám báo tới nói người man đang gom góp chuẩn bị tử lưu kim cống nạp theo điều kiện đàm hòa, chắc cũng chỉ một hai ngày này, nếu thật là như vậy, sợ rằng lần đàm hòa này không phải là không có thành ý – Đại soái đến vì tử lưu kim cống nạp của họ à?"

Tin tức man sứ bị giam ở kinh thành còn phong tỏa, bọn Cố Quân đi quá nhanh, cho dù bí mật bị lộ, lúc này vẫn chưa truyền đến tiền tuyến, Thái Phân còn chưa biết đàm hòa xảy ra biến cố.

Cố Quân và Thẩm Dịch liếc nhìn nhau, y tổng lĩnh toàn cảnh, trong lòng đều nắm được, nhưng để bảo đảm, vẫn tỉ mỉ hỏi lại một lần các loại tình huống của mười tám bộ lạc.

"Không sai," Thái Phân nói, "Phương Bắc năm nay nạn bão nghiêm trọng, bò dê chết không ít, thịt không đủ, chút ít nuôi trồng ở bản địa nhất định không đủ ăn, càng miễn bàn tới đánh trận. Sau khi Đại soái đánh hạ Tây Vực, cơ bản cũng chặt đứt đường vận chuyển tiếp viện của người man, song ta nghe nói người Tây Dương ở Giang Nam sống cũng chẳng tốt lắm, cho dù không đứt, vị tất có bản lĩnh lo cho họ."

Thẩm Dịch nói: "Ta từ một đường khác biết được, nhị vương tử phía Thiên Lang soán vị tựa hồ không phải xuất phát từ bản ý, mà là liên minh mười tám bộ lạc xảy ra vấn đề."

Thái Phân nghĩ ngợi, gật đầu nói: "Thẩm tướng quân nói có lý, kỳ thực lúc mới vào mùa đông năm nay, đã có một số người man trộm đào tử lưu kim đổi lấy cái ăn, xem số lượng chỉ sợ vị tất là dân thường làm riêng lẻ, khi đó ta đã cảm thấy mười tám bộ lạc e rằng phải tan, quả nhiên, chưa bao lâu đã xảy ra chuyện nhị vương tử nhốt cha anh."

Thẩm Dịch nhìn Cố Quân một cái, Cố Quân hơi gật đầu.

Thái Phân nhận thấy khác thường, nghi hoặc hỏi: "Đại soái, sao vậy?"

Thẩm Dịch lúc này mới kể vắn tắt tiền căn hậu quả vụ man sứ bị giam trong kinh.

Thái Phân lấy làm kinh hãi, giây lát sau thần sắc nghiêm trọng lắc đầu: "Đại soái, Thẩm tướng quân, dù cho mười tám bộ lạc có lục đục, Gia Lai Huỳnh Hoặc muốn dẫn ngoại vào để an nội, hay nổi điên muốn ngọc nát đá tan cũng thế, hà tất mất công phái người trà trộn vào kinh thành? Cho dù đến trú địa Bắc cương ta phóng hỏa, hiệu quả cũng trực tiếp hơn, chẳng lẽ trong tay hắn trừ một thị vệ ra thì không còn ai khác để điều phối?"

Thẩm Dịch lắc đầu: "Như vậy tuy thuận tiện, song người cầm quyền thực tế của Thiên Lang bộ hiện tại rất có thể sẽ đẩy một hai kẻ chết thay ra, làm thế chẳng giải quyết được gì."

Mười tám bộ lạc thống nhất dưới cờ Lang vương đã mấy trăm năm, gia tộc Lang vương trong lòng tộc nhân có uy vọng rất cao, đã hơi giống hoàng thất Trung Nguyên, những kẻ có dị tâm đó ngoài mặt vị tất dám động vào Gia Lai, cho nên mới trăm phương nghìn kế đẩy nhị vương tử ra làm con rối. Mà nếu thật như man sứ Xích Khố Do tính toán, ở trên đại điện dẫn phát Ô Nhĩ Cốt, khống chế Nhạn vương, Đại Lương dù làm cho thiên hạ bách tính xem, cũng phải bức thẳng vùng trung tâm mười tám bộ lạc, yêu cầu Lang vương giao giải dược – Gia Lai muốn bức phản đồ đến hoàn cảnh "hoặc nghênh chiến Đại Lương", "hoặc trở mặt giao Lang vương ra mà gánh bêu danh".

Thái Phân nhíu mày: "Gia Lai Huỳnh Hoặc là một con chó điên, nhưng vị tất điên đến mức ấy, có thể nhẫn cũng sẽ nhẫn, hiện tại dẫn chiến, hắn dựa vào cái gì? Người chết đói trong mười tám bộ lạc?"

Thẩm Dịch bị hỏi thế không trả lời được.

Cố Quân lại đi đến bên cạnh sa bàn, chắp tay sau lưng đứng một hồi: "Hắn quả thật có chỗ dựa – nếu người Tây Dương ở Giang Nam muốn chúng ta chuyển dời trọng điểm chiến lược đến phương Bắc."

Thẩm Dịch và Thái Phân cùng lấy làm kinh hãi.

Cố Quân đưa tay lướt qua sa bàn: "Đường vận chuyển vật tư bị chặn, đạn tận lương tuyệt, tiếp tục lần lữa chỉ có một con đường chết, không phải đầu hàng thì là tử chiến đến cùng, trừ phi nam bắc liên hợp liều một phen, không cho Đại Lương nghỉ xả hơi, bất ngờ xâm nhập nội địa, đánh cho trở tay không kịp, dùng sức mạnh lại lần nữa đả thông liên lạc, như vậy sẽ có sinh lộ. Nếu ta là Gia Lai Huỳnh Hoặc, chưa chừng cũng sẽ chó cùng rứt giậu như vậy... Tiền đề là người Tây Dương bằng lòng phối hợp."

Thái Phân: "Ý Đại soái là..."

Thẩm Dịch choàng tỉnh ngộ: "Người Tây Dương chiếm ốc thổ nửa giang sơn ta, liên tục lấy chiến nuôi chiến, nạo ba thước đất cướp đoạt mồ hôi nước mắt nhân dân, còn bắt rất nhiều lao động đi khai thác mỏ chở về nước, hòng duy trì trao đổi với trong nước, cũng đang có ý định 'nghỉ ngơi lấy lại sức'. Gần đây Chung tướng quân không ngừng điều chỉnh bộ thự thủy quân, Linh Xu viện lại đưa một loạt hải giao mới đến tiền tuyến Giang Bắc, động tác ấy làm người Tây Dương bất an, cho nên Giáo hoàng kia lừa Gia Lai dốc toàn lực động thủ, đẩy mười tám bộ lạc ra làm khiên, một khi trọng điểm chiến lược của chúng ta dời về hướng Bắc, tất nhiên không rảnh chú ý phương Nam, đến lúc đó Giáo hoàng đưa tới tín hiệu đàm hòa, triều đình bịt mũi cũng phải nhận, không chừng phía Nam Trường Giang sẽ danh chính ngôn thuận rơi vào tay họ!"

Thái Phân ngẩn người: "Đại soái, thế phải làm sao bây giờ?"

Cố Quân bật cười: "Chờ, đâu phải chỉ người Tây Dương biết dẫn họa thủy về đông."

Ba ngày sau, Huyền Thiết doanh bí mật tập kết ngang nhiên xuất hiện ở tiền tuyến Bắc cương, tiền tuyến vốn trong bầu không khí "đàm hòa" mờ ám đột nhiên căng thẳng hẳn.

Mười tám bộ lạc đối với Huyền Thiết doanh có sự sợ hãi từ trong xương tủy, ngay hôm ấy liền ngồi không yên, một kỵ binh chạy như bay tới hỏi, Cố Quân trực tiếp sai người trói sứ giả lại, gióng trống khua chiêng thả ra tin tức man sứ Xích Khố Do làm loạn, cùng lúc đó, Huyền Thiết hổ phù truyền lệnh cho trú địa Giang Bắc phong kín thủy vực, dừng việc tuần tra hằng ngày, rút về phần lớn người của Linh Xu viện ở miền Nam, ra vẻ hai bờ sông đang đàm hòa.

Người man ở phía Nam tự có tai mắt, chẳng mấy chốc tin tức ven bờ Lưỡng Giang liền truyền tới.

Mười tám bộ lạc om sòm lên, người nằm vùng của Thái tướng quân ở Bắc man tới báo, liên minh mười tám bộ lạc một ngày xung đột hai lần, vương trướng của Gia Lai Huỳnh Hoặc bị vây chật như nêm cối, không ai được tới gần.

Hôm sau, người man liền đưa hai cái đầu người và hốt hoảng gom góp một phần tử lưu kim đến tiền tuyến Bắc cương, Cố Quân nhận đồ, sứ giả thì ném ra, đồng thời cho Huyền Thiết doanh tiến lên mười dặm, rõ ràng không chịu để yên.

Nội loạn của địch nhân đã hiện rõ.

Thẩm Dịch lại quýnh lên, xông thẳng vào soái trướng của Cố Quân: "Bên phía Trần cô nương phải làm thế nào?"

Cố Quân đang nói chuyện với Hà Vinh Huy và Thái Phân, nghe vậy dù bận vẫn ung dung ngẩng đầu hỏi: "Trần cô nương nào?"

Chuyện bát quái thế này Cố đại soái dĩ nhiên phải cùng hưởng, Hà Vinh Huy và Thái Phân hiển nhiên đã biết rõ, Hà Vinh Huy cười khẽ, Thái lão tướng quân thì lắc đầu.

Thẩm Dịch chẳng để ý nhiều thế, nói thẳng: "Đừng làm bộ! Chỉ sợ Trần cô nương hiện tại đã đến mười tám bộ lạc rồi, chỗ họ loạn như vậy..."

Còn chưa dứt lời thì một người đội mũ từ bên ngoài đi vào.

Thẩm Dịch: "..."

Trần Khinh Nhứ vén mạng che mặt ra, lấy làm lạ hỏi: "Thẩm tướng quân nói ta à?"

Lâm Uyên các tự có chim gỗ truyền tin, Trần Khinh Nhứ trên đường nhận được tin tức, chạy thẳng tới chỗ trú quân Bắc cương.

Chúng tướng cười ầm lên, Hà Vinh Huy cười đỏ cả mặt, tiến tới bá vai Thẩm Dịch, chuẩn bị sẵn một bụng trêu ghẹo.

Đúng lúc này, bên ngoài đột nhiên đáp xuống một huyền ưng, khi hạ đất không biết không vững thế nào mà suýt chút ngã dúi mặt, bụi đất tung cao, tí nữa thì lật nửa soái trướng, nếu không phải có bộ phận giảm xóc trong ưng giáp, e là người sẽ đi tong luôn.

Huyền ưng đều được huấn luyện chuyên nghiệp, rất ít xuất hiện sự cố thế này, các tướng quân im lặng một chớp mắt, lại cười vang một trận, nhao nhao hỏi đây là tân binh của đội thám báo nào, lúc này mặt Hà Vinh Huy đỏ đến tím lên, hắn ngượng ngùng buông Thẩm Dịch ra, tính mở miệng quát tháo.

Không đợi hắn mở miệng, huyền ưng ngã dưới đất lấm lem ngẩng đầu lên, Hà Vinh Huy sững sờ tại trận – người này là tay lão luyện trong ba đội thám báo, từng có tên ở chỗ hắn.

"Đại soái," Thám báo huyền ưng kia không để ý sự trêu ghẹo của những người khác, lấy một văn kiện khẩn cất trong lòng, gấp gáp nói, "Công văn khẩn đến từ Sở quân cơ!"

Công văn khẩn Sở quân cơ truyền đến trú quân các nơi bình thường chia làm ba loại, phần đuôi ống đựng có một sợi đai gấm, màu vàng là quân lệnh, màu xanh lục là bản sao công văn khi triều đình xảy ra đại sự, màu đen là quân vụ, màu đỏ thì là quân vụ khẩn cấp – thí dụ như khi ngoại địch xâm phạm, ống đựng phong hỏa lệnh Cố Quân gửi đến các nơi chính là đánh dấu đỏ.

Huyền ưng nâng trong tay một ống thư đánh dấu đỏ, khiến người ta ngứa ran da đầu, Cố Quân đứng bật dậy, ngực đột nhiên trống hoác – giống như tim đập vốn vững vàng chợt gặp vật cản, sau đó lên xuống lộn xộn, y vô cớ thấy miệng khô khốc. Hà Vinh Huy không dám chậm trễ, đã nhanh nhẹn nhận lấy ống thư kia, hai tay trình lên.

Phong thư đánh dấu đỏ ấy chẳng biết viết mấy chữ, mà khiến Cố Quân nhìn suốt một nén nhang, mọi người đều thò đầu ra, nhất thời ý nghĩ kinh thành lại lần nữa bị vây cũng có, mới thấy y chậm rãi bỏ lá thư xuống.

Hà Vinh Huy tính nóng nảy, vội hỏi: "Đại soái, không phải tin khẩn đánh dấu đỏ sao? Rốt cuộc có chuyện gì vậy?"

Mùng hai tháng Hai năm Long An thứ chín, ngày Long Sĩ Đầu, đại doanh Giang Bắc gửi công văn khẩn về Sở quân cơ – Chung Thiền tướng quân trên đường tuần doanh đột nhiên ngã ngựa, hôn mê bất tỉnh.

Quân y cả đại doanh Giang Bắc đều tụ tập trong doanh trướng, người chỉ sợ không ổn.

Sở quân cơ sau khi cấp tốc xác nhận tình hình, lập tức quyết định gửi văn kiện khẩn đánh dấu đỏ cho Cố Quân, thư chưa gửi đi thì văn kiện khẩn thứ hai của đại doanh Giang Bắc đã đến.

Chung Thiền tướng quân mất.

Ông chết ở tiền tuyến, nhưng không chết trên chiến trường, mà như vạn ngàn lão nhân tầm thường trên thế gian, không bệnh không tật mà chết.

Cái chết như vậy làm người ta cảm thấy trống vắng, bởi chẳng có cừu nhân để thống hận, chẳng có thù hận để phát tiết, mà cũng không hề là ốm đau liệt giường.

Một người bỗng nhiên mất đi, tạo cảm thấy rất không thật.

Cố Quân cầm văn kiện khẩn xem suốt một nén nhang, chậm rãi thở ra một hơi từ lồng ngực hỗn loạn, mới định thần lại – không phải nằm mơ.

Trong soái trướng yên lặng giây lát, sau đó không biết là ai khởi đầu, nhao nhao nói "Nén bi thương".

Thẩm Dịch thấp giọng an ủi: "Đại soái, lão tướng quân bảy mươi sáu tuổi, đã thất tuần rồi, cũng là hỉ tang, ngươi đừng quá để trong lòng."

"Ta biết," Cố Quân im lặng ngồi một lúc, khoát tay, "Ta biết, không có việc gì, nhưng tình thế Giang Bắc vi diệu, lúc này chủ soái xảy ra chuyện, Trọng Trạch lại mới tiếp nhận chức Tổng đốc Lưỡng Giang, khó mà kiêm cố, chỉ sợ sinh biến, ừm... để ta nghĩ xem..."

Song miệng y nói "ta nghĩ xem", lòng lại trống hoác chốc lát, giống như nhất thời tất cả mạch suy nghĩ đều đứt hết, không mò được đầu mối.

Thẩm Dịch nhìn sắc mặt không đau không ngứa của y, nhỏ giọng đề xuất: "Đại soái, thủy quân Giang Bắc là do Chung lão tướng quân và Diêu đại nhân một tay tập hợp huấn luyện đến bây giờ, người khác chỉ sợ áp trận thủy quân không được."

Y mở đầu như vậy, Cố Quân cuối cùng có phản ứng, thong thả tiếp lời: "Diêu Trọng Trạch và phó tướng của Chung lão tạm thời còn có thể ứng phó, chỉ là Diêu đại nhân sợ là phải thay chức Tổng đốc Lưỡng Giang đến cuối cùng, Dương Vinh Quế mới xảy ra chuyện chưa đến nửa năm, vất vả lắm mới ổn định được..."

Câu kế tiếp, Cố Quân không tiện thẳng thừng bày ra trước mặt chúng tướng quân – thế cục Giang Bắc vất vả lắm mới ổn định, lưu dân, thương hộ và quan địa phương mới về các vị trí, rất nhiều nơi nhà xưởng vừa dựng, người vẫn chưa ở nóng nhà...

Mà Nhạn vương không lâu trước mới từ quan, tuyến vận hà Giang Bắc ai tiếp quản đây?

Là lại phải có một trường tinh phong huyết vũ tranh quyền đoạt thế, hay bao nhiêu cố gắng trước đây sớm mai đi theo một mồi lửa.

Có người sinh không gặp thời, có người chết không gặp thời, Chung lão tướng quân chết không đúng thời cơ.

Cố Quân dừng một chút: "Ta phải qua đó xem thử, bên này..."

Thái Phân vội nói: "Hà tướng quân và Thẩm tướng quân đều ở đây, Đại soái yên tâm, Bắc cương không xảy ra nhiễu loạn đâu."

Cố Quân gật đầu, dặn thân binh thu dọn, bản thân nhanh chóng trải giấy bút ra, viết tấu cho triều đình.

Trước tiên phải phái người truyền tin, còn phải bàn giao quân vụ, hì hục tận tới khi đèn đã đốt, Cố Quân còn đang kéo Thẩm Dịch lại dặn dò: "Gia Lai Huỳnh Hoặc người này, phần lớn thời gian là một kiêu hùng, phần nhỏ thời gian là con chó điên, lần này mười tám bộ lạc nội loạn, không khéo sẽ có hậu quả gì, ngươi biết chứ?"

Thẩm Dịch gật đầu: "Man tộc sẽ suy vong từ đây."

Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa đến nay, bao nhiêu tông tộc huyết mạch đều chôn vùi trong dòng thời gian mênh mang, hoặc thiên tai, hoặc chiến loạn, hoặc huyết thống bị đồng hóa trong thông hôn dài lâu... Một số như Thái Sơn sập, một số như gió thổi cát, long trời lở đất, sau đó lặng lẽ mất dần.

Thẩm Dịch rốt cuộc hiểu được cảm thụ trong tiếng ca của Xích Khố Do ngày đó nghe thấy trong thiên lao, man tộc đang đi đến mạt lộ – dù rằng họ hấp hối giãy giụa, vẫn phảng phất bị một bàn tay vô hình đẩy đi.

Hôm nay là man tộc, mà nếu năm đó kinh thành bị công phá, có lẽ đi đến mạt lộ sẽ biến thành Đại Lương.

"Trong lòng ngươi hiểu là được," Cố Quân nói, "Loại người điên con ruột cũng có thể làm thành Ô Nhĩ Cốt như Gia Lai Huỳnh Hoặc và Hồ Cách Nhĩ, giây phút cuối cùng không ai biết họ có thể làm gì, nhất thiết không thể xem thường. Thái lão lớn tuổi rồi, Hà Vinh Huy tính lại quá nóng nảy, Quý Bình, bên này khả năng chủ yếu dựa vào ngươi."

Cố Quân lúc rảnh cũng ưa lải nhải, song trên chính sự không phải là người dông dài, dặn dò như thế y đã thấy là lắm mồm rồi – nhưng y không có biện pháp gì, thật sự không yên tâm chút nào.

Thẩm Dịch: "Giao cho ta đi, nếu Bắc cương xảy ra chuyện, ta xách đầu đi gặp ngươi."

"Ta cần đầu ngươi làm gì?" Cố Quân lắc đầu cười nói, "Ta chưa bao giờ ăn thịt thủ heo."

Thẩm Dịch: "..."

Cố Quân chạy tới khoảng cách an toàn trước khi y kịp nổi giận, tiện tay rút một thanh cát phong nhận gác nghiêng trên lưng: "Ta đi đây."

"Khoan đã, Tử Hi!" Thẩm Dịch đột nhiên gọi giật lại, "Ngươi dẫn Trần cô nương theo đi."

Sau khi tin Chung lão tướng quân chết truyền đến, Cố Quân bàn giao quân vụ rành mạch gọn gàng, còn lần lượt dặn dò bộ tướng, thậm chí có thể điềm nhiên nói đùa, trong mắt người ngoài, phản ứng này bình tĩnh đến gần như bạc bẽo, Thẩm Dịch lại âm thầm lo lắng – năm xưa khi y từ miệng Gia Lai Huỳnh Hoặc nhận được manh mối biến cố Huyền Thiết doanh, ban đầu cũng điềm nhiên như thế.

"Ta dẫn nàng ấy đi làm gì?" Cố Quân chẳng thèm quay đầu lại nói, "Ngươi thực sự cho là Trần gia bán tiên đan, người hạ táng cũng có thể cứu sống à?"

Còn chưa dứt lời thì người đã mất tăm, hệt như chạy đi đầu thai vậy.

Mà cùng lúc đó, trên đời chẳng có bức tường nào gió không lùa qua, tuy phía Đại Lương đã cố hết sức không làm lớn, song khi hai quân đối đầu chủ soái xảy ra chuyện là không thể hoàn toàn giấu được, lúc Cố Quân nhận được tin tức chạy tới trú địa Giang Bắc ngay đêm ấy, quân Tây Dương Giang Nam cũng đèn đuốc sáng trưng, suốt đêm không ngủ.

Nhã tiên sinh nhận nước thuốc trên tay kẻ hầu, phân phó: "Ta mang cho bệ hạ, ngươi đi bảo họ đừng đến quấy rầy."

Kẻ hầu cung kính cúi đầu, nhanh chóng chạy mất.

Chưa đến gần cửa, Nhã tiên sinh đã nghe thấy tiếng cãi vã bên trong trước.

"Không được, quá tham lam," Giọng nói khàn khàn thỉnh thoảng kèm vài tiếng ho của Giáo hoàng vọng ra, "Ta không đề nghị làm như vậy, ngươi không thể nuốt thứ to hơn miệng mình được, tham lam như thế, sớm muộn cũng phải xảy ra chuyện!"

Một kẻ khác dùng giọng trơn tuột như động vật bò sát trả lời: "Thứ cho ta nói thẳng, bệ hạ, đây không hề là tham lam, mà là lợi ích thò tay là chạm tới – Nếu ta muốn một hơi nuốt cả một ngôi sao, như vậy là tham lam, nhưng vừa vặn ngược lại, ta chỉ muốn thêm một cái bánh nhỏ, mà nó đang ở ngay cạnh tay ta..."

Nhã tiên sinh nhíu mày, thô lỗ gõ cửa: "Quấy rầy, thuốc của bệ hạ đến rồi."

Kẻ đang giằng co với Giáo hoàng phút chốc ngậm miệng, đưa tay vuốt râu, nhún vai một cách vô lễ.

Vị sứ giả thánh địa phái tới này, đã vì các nguyên do mà ở lại Đại Lương hơn nửa năm, hoàn toàn không có ý định quay về, mọi người đều biết rõ, vị này là do Quốc vương và đám quý tộc lão gia thánh địa phái tới quản sổ sách.

Quốc vương bên phía thánh địa gấp không chờ nổi mà muốn thu gom đất đai và vương quyền, chỉ mong sao Giáo hoàng rơi đài, mới đầu, thánh sứ không hề có ý tốt, trăm phương ngàn kế muốn chứng minh cuộc chiến tranh lần này hoàn toàn là một sai lầm, song dần dần, theo tiền của và khoáng sản cướp bóc được chuyển về nước ngày càng nhiều, những âm thanh khó nghe trong nước đều nhỏ đi.

Lòng tham không đáy của thánh địa bị sự trù phú của đất đai phương Đông triệt để đốt bùng lên, đám quý tộc muốn nhìn Giáo hoàng xám xịt cút về bắt đầu thay đổi thái độ, bất cứ ai cũng tích cực thúc đẩy lợi ích của quân Tây Dương ở Đại Lương hơn hẳn lúc trước, chỉ hận không thể mở cái miệng bé tí, ý nghĩ hão huyền mà nuốt trộng vật khổng lồ này!

Lần này lợi dụng phương Bắc dời đi trọng điểm chiến lược của Đại Lương, lại nhân lúc người Trung Nguyên không rảnh chú ý việc khác mà đục nước béo cò, chính là do thánh sứ dốc hết sức thúc đẩy.

Giáo hoàng vốn dĩ cực lực phản đối, bởi vì giữa hai chiến trường nam bắc có khu phương Bắc Trung Nguyên mênh mông bát ngát, từ sau khi đường truyền tin phía Tây bị đứt, hiệu suất liên lạc của song phương cực thấp, Giáo hoàng năm đó chỉnh hợp dã tâm gia tứ phương vây khốn tứ cảnh Đại Lương, lợi dụng sai khác thời gian do tin tức bị chặn, biết rõ quân cơ thoáng cái là mất. Huống chi trong mắt ngài, Gia Lai Huỳnh Hoặc phương Bắc trong xương cốt có một mặt cực đoan điên cuồng, không đủ bình tĩnh, căn bản không thích hợp để hợp tác lâu dài.

Đáng tiếc, Giáo hoàng mặc dù có quyền chỉ huy nhánh quân đội này, nhưng xét đến cùng quyền sở hữu là thuộc về Quốc vương và giới quý tộc của thánh địa, vật tư có thể cướp đoạt từ bản địa, tử lưu kim lại không thể – Giang Nam ngay cả một giọt cũng không có, phải dựa vào trong nước vận chuyển tới, ngài vô hình trung thiếu rất nhiều lợi thế.

Hiện tại quả nhiên bị Cố Quân tương kế tựu kế dẫn phát nội loạn man tộc, vô hình trung thậm chí tăng thêm nguy cơ man tộc bị diệt.

Giáo hoàng cố nhiên không muốn hợp tác với Gia Lai Huỳnh Hoặc, nhưng cũng tuyệt không muốn để Huyền Thiết doanh vùng Tây Bắc về Nam, mà một khi Đại Lương chiếm được hàng loạt quặng tử lưu kim của mười tám bộ lạc, chiến trường Giang Nam sẽ rơi vào cục diện hết sức bị động.

Đúng vào lúc lưỡng nan này, họ nhận được tin tức chủ soái đại doanh Giang Bắc qua đời, thánh sứ lại lần nữa giở trò.

Nhã tiên sinh đặt thuốc lên bàn, cung kính nói: "Nếu ngài chú ý sẽ thấy, người Trung Nguyên tuy liên tục tăng binh Giang Bắc, nhưng vị tất thật sự muốn đánh nhau, họ cũng muốn thừa cơ nghỉ ngơi, trong tình huống như vậy, việc đàm hòa song phương chúng ta có thể khống chế, vì sao nhất định phải làm chó cùng rứt giậu, dùng sinh mạng các dũng sĩ đi mạo hiểm?"

Thánh sứ cười giễu một tiếng, chuyển hướng sang Giáo hoàng: "Bệ hạ, trợ thủ đắc lực của ngài cực kỳ có tài hoa, nhưng theo ta thấy, hắn vẫn quá trẻ – Song phương ngồi vào một bàn đàm phán ký một hiệp ước, thoạt nhìn đều là thực hiện thủ tục ký tá của các bên, nội dung lại khác biệt một trời một vực, đãi ngộ của bên ưu thế và bên liệt thế chênh lệch xa như từ thánh địa đến Trung Nguyên vậy, thường thức này chẳng lẽ cần ta nhấn mạnh lần nữa? Chủ soái thủy quân Giang Bắc chết rồi, lẽ nào không phải cơ hội trời cao ban cho chúng ta? Nếu chúng ta do sự hèn nhát của mình mà bỏ lỡ, ta có dự cảm, sau này nhất định sẽ phải hối hận."

Nhã tiên sinh mặt không đổi sắc: "Ngài nói rất đúng, chủ soái thủy quân Giang Bắc chết rồi, nhưng Cố Quân còn chưa chết, hắn nhất định sẽ đến."

Thánh sứ âm trầm nhìn hắn một cái: "Thế chúng ta có thể nhân khi họ chuyển giao quân quyền mà tập kích, biến hắn thành một người chết – Chẳng phải bệ hạ nói Cố Quân lợi dụng chúng ta, để Thiên Lang tộc phương Bắc tin rằng liên minh đã rạn nứt à? Thế tại sao chúng ta không dùng hành động thực tế chứng minh cho Thiên Lang bộ thấy? Làm sao ngươi biết minh hữu cũ trong quá khứ sẽ không cho chúng ta một niềm kinh hỉ?"

Nhã tiên sinh nghĩ bụng: "Đúng là vớ vẩn!"

Nhưng nhất thời không cách nào cãi lại, lập tức á khẩu.

Giáo hoàng nuốt bát thuốc như uống thuốc độc, run rẩy cầm một miếng vải lụa lau khóe miệng, sau đó thở dài: "Thánh sứ, chiến tranh quy mô thế này, không thể vì cái chết của một hai người mà có thay đổi gì từ trên căn bản, hơn một năm qua, thủy quân Giang Bắc đã kiến lập chế độ tương đối hoàn chỉnh, ngài có nghĩ tới chưa, nếu tập kích không thể đạt được hiệu quả như mong muốn thì sẽ thế nào?"

Nụ cười của thánh sứ lạnh đi: "Ngài nói không sai, chiến tranh quy mô thế này, một hai người không đáng kể, đã như vậy, vì sao các vị còn kiêng kị Cố Quân đến thế?"

Sau đó không đợi người ta phản bác, thánh sứ chợt đứng dậy: "Ta thừa nhận khả năng ngài nói quả thật tồn tại, nhưng dù thật sự xảy ra tình huống tệ nhất, ít nhất chúng ta đã biểu lộ thái độ cứng rắn, là một sự cổ vũ đối với chiến trường phương Bắc, chúng ta vẫn có thể giành được nhiều lợi ích hơn – Bệ hạ, ta phải nói rằng, ngài cẩn thận quá rồi, chúng ta ở vùng ven sông có ưu thế tuyệt đối trên thủy chiến, cho dù thủy quân của người Trung Nguyên đã kiến thành lại có thể thế nào? Một năm? Hai năm? Còn đang bú mẹ thôi! Nếu ta là ngài, căn bản sẽ không để kệ chiến trường Lưỡng Giang trầm mặc thời gian dài như vậy, ta sẽ khiến quân Giang Bắc của người Trung Nguyên căn bản không kịp kiến lập!"

Khóe mắt Nhã tiên sinh giật nhẹ, từ thuở chào đời lần đầu tiên hắn sinh ra nhận thức trực quan như vậy với "cuồng vọng" và "tham lam".

Giáo hoàng đứng dậy, nghiêm nghị nói: "Thánh sứ tiên sinh, ngài nói như thế là rất vô trách nhiệm."

Thánh sứ hợp hai tay, hất cằm: "Bệ hạ, lệnh điều phối tử lưu kim ở trong tay ta, thánh địa giao cho ta sứ mệnh, để ta thời khắc mấu chốt nhất có thể ra lệnh thay ngài!"

Nhã tiên sinh phẫn nộ tiến lên một bước, tay đặt trên chuôi kiếm bên hông: "Ngươi!"

Ánh mắt hung ác nham hiểm của thánh sứ dừng ở hắn, Giáo hoàng kéo tay áo Nhã tiên sinh-

Ba người giằng co chốc lát, tầm mắt thánh sứ hơi chuyển đi, hắn nhếch thành một nụ cười, dối trá nói: "Ta chưa bao giờ hoài nghi sự cơ trí của bệ hạ, xin ngài cân nhắc cẩn thận đề nghị của ta, cáo từ."

Nói xong, hắn lấy cái mũ dạ bên kia, ngạo mạn đội lên đầu, quay người bỏ đi.

Nhã tiên sinh: "Bệ hạ, tại sao phải kéo tôi lại? Thỏa hiệp sao?"

Giáo hoàng trầm mặc một lúc: "Cũng chỉ có thể khẩn cầu thần linh phù hộ-"

Phù hộ thủy quân Giang Bắc thật sự như thánh sứ nói, còn đang trong thời kỳ bú mẹ, phù hộ Gia Lai Huỳnh Hoặc trên chiến trường phương Bắc đủ điên cuồng, có thể kiềm chế chặt chẽ người Đại Lương, may ra họ có thể cầu một kết quả tốt đẹp trong hiểm lộ.

Khi nội bộ quân Tây Dương Giang Nam lục đục và ấp ủ một âm mưu mới, Cố Quân chạy tới Giang Bắc, vừa hạ đất liền lập tức ra lệnh gia cố phòng tuyến, tháp theo dõi hai canh giờ thay ca một lần, toàn thể bày trận sẵn sàng, sau đó trấn an cảm xúc trong quân, lập đội lần nữa, để chúng tướng sĩ về các vị trí – Diêu đại nhân dẫu sao cũng là quan văn, tuy rằng áp được trận cước, nhưng không thể có quyền uy lệnh hành cấm chỉ như Cố Quân, không có hiệu suất chỉ đâu đánh đó.

Bận rộn từ giữa trưa đến chập tối, Cố Quân mới có thời gian uống một ngụm nước, cổ khô muốn bốc khói, cơ hồ có thể nếm được mùi máu tươi, cũng chẳng quan tâm trà hay không nước hay không, vớ đại một bát nước lạnh uống luôn. Năm nay Giang Bắc vào xuân đặc biệt muộn, mấy hôm trước mới đổ một trận mưa tuyết, bốn bề lảng vảng sự âm u lạnh lẽo thấu xương, một bát nước lạnh này làm Cố Quân lạnh triệt để từ trong ra ngoài, y rùng mình, mù mờ nghĩ thầm trong lòng: "Còn chuyện gì sắp đến?"

Lúc này, Diêu Trấn đi tới nói: "Đại soái, lúc ấy gửi công văn khẩn về Sở quân cơ, triều đình lập tức trả lời ít ngày nữa phái người đến, chắc chỉ trong một hai ngày tới thôi. Vừa mới nhận được tin tức nói là Nhạn vương thay mặt Hoàng thượng đến."

Nhạn vương tuy từ quan nhưng thân phận còn đó, lại có một đoạn duyên phận sư đồ với Chung lão tướng quân, để biểu hiện vinh sủng, cho y thay mặt hoàng gia đi một chuyến cũng là hợp tình hợp lý.

"Ừm, y cũng nên đến xem thử." Cố Quân rốt cuộc nhớ ra mình còn quên chuyện gì, "À... Trọng Trạch, linh đường bày ở chỗ nào, mau dẫn ta đi xem."

Diêu Trấn đưa y đến linh đường.

Linh đường so với nơi khác còn lạnh lẽo âm u hơn, quan tài của Chung Thiền nằm ở giữa, khói hương vấn vít.

Cố Quân đến cửa linh đường đột nhiên dừng bước – Mấy ngày nay quá rối ren, y chạy giữa nam bắc hai nơi, việc lớn việc nhỏ đều phải nhọc lòng lo liệu, một cách tự nhiên liền ngăn một sự thật lại, mãi đến giờ khắc này, một ý nghĩ mới bất ngờ đánh trúng ngực y.

Y nghĩ: "Lão sư của ta mất rồi."

Diêu Trấn lấy làm lạ quay đầu lại hỏi: "Đại soái, sao vậy?"

Cố Quân hít sâu một hơi, lắc đầu, đi vào thắp một nén nhang cho Chung Thiền: "Đi lo việc của ngươi đi, ta nán lại đây với ông ấy một lúc, có việc cứ gọi ta bất kỳ lúc nào."

Diêu Trấn thấp giọng khuyên, "Sinh lão bệnh tử ai cũng có, xin Đại soái hãy nén bi thương, soái trướng đã dọn dẹp xong, chờ lát nữa nguôi nỗi thương nhớ thì đi nghỉ ngơi sớm một chút, ta cho người canh ngoài cửa, Đại soái có việc thì phân phó."

Cố Quân gật đầu, cũng chẳng biết có nghe thấy không.

Chờ linh đường chẳng còn ai, ánh mắt y mới chậm rãi dừng trên mặt Chung Thiền, do là không bệnh mà mất, nét mặt Chung lão tướng quân không hề dữ tợn, nhưng cũng không thể nói là an tường – Mặt người chết đều xám xịt, da mặt như làm bằng sáp, không giống lúc còn sống lắm. Thần hồn đã đi, xác chính là xác, trống rỗng.

Cố Quân ngồi bên cạnh, khuỷu tay chống mép quan tài, lẳng lặng nhớ tới Chung Thiền ngày bé làm lão sư của y.

Khi ấy Phiêu Kỵ Đại tướng quân còn chưa bị tuổi tác bào mòn, không gầy gò như vậy, là sự dũng mãnh uy phong lẫm liệt, trong mắt luôn như có hai thanh đao, lúc nhìn chằm chằm ai đó, là mũi đao có thể lộ ra.

"Tiểu Hầu gia, học thuộc binh thư không thể chứng minh ngài biết đánh trận, há không phải nghe bọn quần là áo lượt cổ đại 'luận binh trên giấy'? Nếu ngài tự mãn như vậy, chỉ sợ ngay cả tổ chức bọn nít ranh đầu đường đánh nhau một trận cũng không thắng được."

"Tiểu Hầu gia, công phu chính là hai thứ, một là 'công phu', một là 'đau', hiện giờ lão Hầu gia và công chúa đều không còn, ngài thân phận thanh quý, trừ Hoàng thượng ra, không ai dám tổn thương quý thể, nếu ngài muốn thoải mái, muốn chiều chuộng mình, không ai có thể ép ngài tiến lên, sau này muốn thế nào, ngài phải tự mình suy nghĩ cho rõ."

"Vinh hoa phú quý không phải chốn về của võ tướng, Hoàng thượng đã khăng khăng chim hết cất cung, trước mắt dù sao thiên hạ cũng thái bình, cứ để y cất đi, sau này mạt tướng không thể thường đi theo, tiểu Hầu gia phải tự lo liệu lấy."

"Sơn thủy tự có lúc gặp lại, sau này còn gặp nhau!"

Trường Giang sóng sau đè sóng trước, trăm đời phong hoa có lúc già.

Tai Cố Quân dần ù, mắt cũng không thấy rõ lắm, không tự chủ được nheo lại dưới ánh nến, mà y hoàn toàn chưa nhận ra, phảng phất vẫn đắm chìm trong chuyện cũ năm xưa. Tướng quân một thời có thể sống đến thất tuần còn không bệnh không tật mà mất, chính là đại hạnh, không biết bao nhiêu người hâm mộ, quả thật là hỉ tang, Cố Quân cảm thấy mình không thể nói tới buồn thương hay không, chỉ là ngực hơi ngột ngạt.

Trường Canh cũng chạy một mạch tới, lúc đến đại doanh Giang Bắc thì trời đã tối rồi, đến nơi chưa kịp nghỉ ngơi, nghe nói Cố Quân ở linh đường liền cho người hầu lui hết mà tới thẳng đó.

Thân binh canh ở cửa linh đường biết Trường Canh, từ xa trông thấy liền lập tức thông minh đi vào báo tin, Trường Canh cũng không kịp gọi lại.

Thân binh kia báo một tiếng: "Đại soái, Nhạn vương điện hạ đến rồi."

Cố Quân không hề phản ứng, Trường Canh đoán là y bận quá quên uống thuốc, liền vén góc bào dợm bước muốn vào: "Không sao."

Thân binh dè dặt vỗ vỗ vai Cố Quân: "Đại soái?"

Cố Quân đột nhiên bị kinh động, dở mù không thấy rõ người tới, trong lòng thoạt tiên căng thẳng, còn tưởng đã xảy ra chuyện gì, từ trên ghế đứng bật dậy, lồng ngực vẫn bị cái gì đó chặn kín đột nhiên đau nhói như kim châm muối xát.

Một búng máu thình lình phun ra.

Thân binh sợ tới mức hồn phi phách tán, đứng đực ra đó, bị Trường Canh đẩy ra. Trường Canh dựng hết lông tơ, tay chân còn lạnh hơn cả mùa đông Giang Bắc.

Cố Quân mới đầu chỉ là ngực đau, phun ra búng máu này ngược lại dễ chịu hơn, có điều ho không ngừng được, vạt trước dính đầy máu, y cũng không thấy rõ xung quanh có cái gì, tùy tiện khoát tay: "Đừng làm ầm lên... khụ, không... khụ khụ..."

Trường Canh cố kéo lại thần trí bên rìa sụp đổ, đang muốn ôm lấy y, bỗng nghe thấy Cố Quân gọi mình một tiếng: "... Trường Canh..."

Y vội hít một hơi thật sâu, lắng tai nghe: "Sao?"

Cố Quân mũi toàn mùi máu tươi, lúc này ngay cả khứu giác cũng không dùng được, toàn thân chỉ còn lại đầu óc còn rõ ràng như nỏ mạnh hết đà, đứt quãng nói: "Trường Canh... Nhạn vương sẽ đến trong mấy hôm tới, việc này không được truyền ra, đặc biệt là không thể... cho y biết..."

Tim Trường Canh muốn nứt ra, y đỏ bừng mắt quát thân binh bên cạnh: "Gọi quân y tới."

Thân binh co cẳng chạy đi.

Diêu Trấn thật sự phải lao tâm lao lực quá mức, khóc không ra nước mắt, quả thực hoài nghi là đại doanh Giang Bắc phong thủy không tốt, vừa ngã một vị lại tiếp một vị, còn là vị tổ tông không thể có chuyện, lập tức không nhịn được nói với Liễu Nhiên đại sư đến theo Trường Canh: "Ngài tới cúng bái cho Chung lão nhỉ? Cúng bái không vội, chi bằng ngài tụng kinh trừ tà trước đi?"

Liễu Nhiên đại sư lực bất tòng tâm nhìn hắn, ra dấu: "Người câm không biết tụng kinh."

Trường Canh vốn tưởng rằng mình đi theo Trần cô nương học y thuật một thời gian, có thể coi là nửa đại phu rồi, nhưng đến thời điểm khẩn cấp mới phát hiện, có một bệnh nhân y thật sự thúc thủ vô sách, nhìn thấy máu của người ấy thì trong đầu y liền trống rỗng, sách thuốc đã học tựa hồ trả hết cho Trần cô nương, càng khỏi nói tới trị liệu.

Tất cả quân y giỏi nhất đại doanh Giang Bắc đều tập trung trong soái trướng vừa dọn dẹp xong còn chưa kịp có ai ở, mỗi người đi ra đi vào đều hết sức căng thẳng, Trường Canh nắm chặt Cố Quân không buông, cũng không thấy mình vướng víu, cứ thế im lặng ngồi đó, khiến các quân y đều nơm nớp lo sợ.

Liễu Nhiên hơi sầu lo đứng ngoài cửa nhìn Nhạn vương, hắn từng nghe nói năm đó khi kinh thành nguy hiểm, Trường Canh bị châm thành một con nhím như thế nào, lúc này thật sự sợ y phát tác ở đại doanh Giang Bắc – nơi đây ngay cả một người áp chế được y cũng không có.

Song ra ngoài dự kiến của hắn, Trường Canh từ đầu đến cuối đều cực kỳ bình tĩnh, chẳng mảy may có vẻ như sắp điên, câu "không thể cho y biết" của Cố Quân lúc mơ mơ màng màng như một cây Định hải thần châm, ghim chặt linh hồn y trong thể xác.

Trường Canh đột nhiên cảm thấy mình đòi hỏi quá nhiều từ Cố Quân, hơn nữa trong lúc không để ý ngày càng tham lam vô độ, thậm chí chưa bao giờ để y có một ngày yên tâm, thương mới thương cũ trên người y làm sao mà có, mình đều bị giấu kín như bưng, Trường Canh cơ hồ có thể tưởng tượng ra Cố Quân có bao nhiêu lần ở nơi mình không nhìn thấy thương bệnh cùng lúc, còn phải dặn người bên cạnh chặn kín tin tức, không cho mình biết.

"Điện hạ," Một quân y dè dặt tiến lên nói, "Đại soái lần này có một nửa nguyên nhân là do lao lực lâu ngày thành tật, còn có... ừm... thương một hai năm nay ở tiền tuyến tích lại, từng bị thương đến phế phủ, máu bầm mãi không ra, lần này tuy nhìn thì hung hiểm, nhưng vị tất toàn là chuyện xấu."

Trường Canh nghe thế, im lặng đặt tay lên mạch đập lộn xộn của Cố Quân, miễn cưỡng để tâm tư rối như tơ vò bình tĩnh lại, bắt một lát vẫn không tìm ra nguyên do, đành phải tin chẩn đoán của những quân y này, "Ừ" một tiếng rồi hỏi: "Dùng thuốc như thế nào, chư vị có kết luận chưa?"

Quân y nọ hơi chần chừ, nói: "Ừm... với tình hình của Đại soái, tốt nhất là đừng dùng thuốc quá nhiều, chủ yếu lấy nghỉ ngơi tĩnh tâm làm chính."

Nói xong chính hắn cũng biết mình nói thừa, dè dặt nhìn bàn tay Trường Canh nắm chặt Cố Quân đến lồi gân xanh, chỉ lo Nhạn vương trút lên mình, nhưng thấp thỏm đợi cả buổi, Trường Canh lại không nói gì, chỉ ngơ ngẩn ngồi ở bên cạnh một lúc.

Sau đó y nho nhã lễ độ chắp tay nói: "Đa tạ, mong chư vị làm hết sức."

Mấy quân y thụ sủng nhược kinh, nối đuôi nhau ra, đều đi tận tâm tận lực. Liễu Nhiên hòa thượng lúc này mới lặng lẽ vào cửa, mặt ủ mày ê đứng trước mặt Trường Canh một lúc, tìm không ra việc gì để làm, đành phải như tận chút lực bạc mà chìa tay lướt qua ấn đường hơi nhíu lại của Cố Quân, tụng một tiếng Phật hiệu trong im lặng.

Trường Canh thở dài: "Đừng tụng, đại sư, y có thù với Phật tổ, ngươi đọc kinh trước mặt y, tính chọc y tức đến tỉnh lại à – Có mang mộc điểu theo không? Viết phong thư cho Trần Khinh Nhứ đi."

Liễu Nhiên ngẩng lên nhìn y.

Trường Canh mặt không cảm xúc: "Hỏi thử xem, nàng ta đã giúp Cố Tử Hi giấu giếm ta bao nhiêu việc."

Liễu Nhiên ra dấu: "Vương gia có ổn không?"

Trường Canh cựa nhẹ bả vai, trong phút chốc, Liễu Nhiên hòa thượng cảm thấy y chừng như suy sụp, nhưng Trường Canh không suy sụp, y cúi đầu nhìn Cố Quân một lúc, rồi làm một việc suýt dọa Liễu Nhiên đại sư phát khóc – Y vừa nắm tay Cố Quân không buông lơi, vừa ở ngay trước mặt Liễu Nhiên chậm rãi cúi xuống, đặt một nụ hôn lên trán Cố Quân, hôn nghiêm túc và thành kính, gần như trang nghiêm túc mục.

Liễu Nhiên trợn mắt há hốc mồm rùng mình một cái.

Trường Canh không rời mắt khỏi Cố Quân, cũng không biết là thấp giọng nói một câu với ai: "Còn tạm, yên tâm đi."

Liễu Nhiên đại sư bị giật mình, niệm "không tức thị sắc, sắc tức thị không", co cẳng chạy mất, chỉ còn lại Trường Canh im lặng trông chừng Cố Quân.

Sau nửa đêm, Cố Quân từ hôn mê chuyển thành ngủ mê mệt, tựa hồ sa vào ác mộng, thỉnh thoảng sẽ bất an cựa quậy. Trường Canh nhớ rõ năm ấy khi Cố Quân sốt cao không giảm, cũng là nằm kiểu nào đều không được, nhưng hình như nếu để y cảm nhận thấy bên cạnh có người bầu bạn, y có thể yên ổn hơn không ít, thế là dựa giường ôm y suốt.

Ánh lửa yếu ớt trong linh đường của Chung tướng quân vẫn đang sáng, chẳng hiểu nếu ông ấy ở dưới suối vàng biết chuyện, trở về báo mộng, sẽ nói gì với Cố Quân.

Trường Canh siết chặt hai tay, dùng tư thế tương tự như bảo vệ mà ôm Cố Quân, lần đầu tiên, trong lòng y không có ỷ lại tiểu nghĩa phụ, không có dục vọng với người yêu thương, ngược lại như là trân trọng ôm một đứa trẻ tuổi nhỏ yếu ớt vậy.

Trong những ngày cầu mà không được ấy, Trường Canh từng vô số lần ảo tưởng, nếu mình sinh ra sớm mười năm, hai mươi năm, vậy giữa mình và Cố Quân sẽ là tình cảnh thế nào?

Hiện giờ, nơi tiền tuyến Giang Bắc ẩm ướt u ám, quãng thời gian mười năm trông được mà không chạm được đã rút ngắn lại, bị y một bước vượt qua.

Tiếc thay y ở đây một đêm mười năm, cũng không làm lỡ chuyện mờ ám của người Tây Dương.

Đêm nay, thánh sứ và Giáo hoàng hoàn thành nội đấu, kết thúc bằng thắng lợi tạm thời của thánh sứ, nhất trí ý kiến đánh lén thủy quân Đại Lương.

Kế hoạch vốn định trong cái đêm âm u này, nào ngờ chưa kịp hành động thì tháp theo dõi đột nhiên truyền đến tin tức, nói Đại Lương thắt chặt phòng tuyến Giang Bắc, cấp cảnh giới điều chỉnh đến tình huống nghiêm túc nguy cấp nhất.

Nhã tiên sinh lao vọt vào chủ hạm động lực sẵn sàng chỉ chờ xuất phát: "Bệ hạ! Cố Quân tới quá nhanh, thủy quân Đại Lương hiển nhiên không phải quân đội trẻ con còn bú mẹ, đối phương đã nâng cao cấp phòng ngự, chúng ta cứng đối cứng như vậy không phù hợp kinh tế..."

Hắn còn chưa dứt lời thì thánh sứ sắc mặt khó coi đã rảo bước xông tới: "Không ai được phép thay đổi kế hoạch của ta!"

Thánh sứ có thể thay mặt quốc vương và các đại quý tộc giao thiệp trước tòa thánh và quân đội, chống lưng nhất định rất mạnh, là vị thiếu gia rất được tín nhiệm, tài hoa hơn người, tính tình ngạo mạn lại cuồng vọng, mấy ngày đầu hắn còn từng thổi phồng cửa biển, căn bản không coi thủy quân Đại Lương và vị chủ soái Huyền Thiết doanh kia ra gì, nào ngờ vừa mở miệng đã bị bẽ mặt.

Việc khác tạm thời không bàn, riêng lòng tự tôn của thánh sứ đã không chấp nhận được.

Giáo hoàng cũng gấp lên: "Xin ngài thu bớt cảm xúc cá nhân lại, chiến tranh không phải là tranh hơn thua và đùa giỡn!"

Thánh sứ đỏ mặt tía tai tranh biện: "Không ai lấy chiến tranh ra đùa giỡn cả, bệ hạ! Nếu kẻ địch chỉ phô trương thanh thế, thì chứng minh cái gì? Đây vừa vặn là thời cơ tốt nhất để chúng ta tiến công!"

Nhã tiên sinh lập tức hỏi vặn lại: "Nếu không phải phô trương thanh thế thì sao?"

"Không có khả năng đó," Thánh sứ âm trầm lườm hắn một cái, "Thủy quân yếu ớt này căn bản không có sức chiến đấu, các ngươi chẳng qua là lo lắng phải mạo hiểm-"

Nhã tiên sinh: "Rõ là ngụy biện chẳng hợp lý tí nào!"

"Hãy chú ý ngôn ngữ của ngài, tiên sinh," Thánh sứ lạnh lùng nói, sau đó tầm mắt dời đi, lấy từ trong lòng ra một cuộn da dê, "Ta không phải đến thương lượng, các tiên sinh, nửa giờ trước ta đã ký vào lệnh điều động cao nhất đại diện cho thánh địa, đây là bản dự phòng, mời xem cho rõ."

Nhã tiên sinh đỏ mặt tía tai, còn chưa kịp phản đối thì "hải quái" chủ hạm đột nhiên phát ra một tiếng ngân nga như thở dài, vậy mà lại hành động luôn không giải thích gì!

"Ngươi điên rồi?" Nhã tiên sinh gầm lên, theo bản năng rút bội kiếm bên hông, "Mau dừng lại!"

Thánh sứ cũng không yếu thế, lập tức rút trọng kiếm kỵ sĩ sáng loáng ra: "Vì Quốc vương và vinh diệu vô hạn mà chiến đấu đến chết là quang vinh của chúng ta, chúng ta ra tiền tuyến, không phải để co đầu rút cổ trong cảng mà quỳ lạy cầu nguyện!"

Nhã tiên sinh: "Ngươi nói cái..."

Giáo hoàng: "Đủ rồi!"

Thánh sứ nét mặt mỉa mai cười khẩy: "Sao nào, bệ hạ còn điều chi phân phó?"

Hai má Giáo hoàng hơi co giật theo tính thần kinh, rốt cuộc đứng trên chủ hạm đã rời cảng, vô kế khả thi mà thỏa hiệp: "Nếu nhất định phải làm theo kế hoạch vớ vẩn của ngươi, thế chí ít trên chiến trường phải do người của ta chỉ huy."

Thánh sứ không thể đồng ý hơn – Lỡ như hành động thất bại, Giáo hoàng đại nhân chính là một con cừu thế tội có sẵn, hắn đắc chí nhìn Nhã tiên sinh mà cười khẩy, thu kiếm lại, lớn tiếng ra lệnh: "Chạy hết tốc lực!"

Đêm ấy, một đoàn "hải giao hạm đoàn" Tây Dương qua ngụy trang chậm rãi tản ra chiến tuyến Lưỡng Giang dài lê thê, im ắng vòng qua đại doanh Giang Bắc, chuẩn bị tắm mình trong vinh quang thần thánh của cuộc đổ bộ.

Mà ở Bắc cương cách xa ngàn dặm, mười tám bộ lạc cũng phái nhóm sứ giả thứ hai tiếp xúc với Đại Lương.

Tào Xuân Hoa tự mình chạy tới Bắc cương, hắn và Trần Khinh Nhứ đều từng xâm nhập vùng man hoang Bắc bộ, rất thông thuộc bộ lạc Thiên Lang, sóng vai bảo vệ thế cục Bắc cương vi diệu lúc này, cùng Thẩm Dịch ở ngoài phòng tuyến Huyền Thiết doanh gặp sứ giả Bắc man.

Xuyên qua thiên lý nhãn có thể trông thấy sứ tiết Bắc man lần này vẫn không tới tay không, phía sau kéo theo một xa đội, từ vẻ ngoài của xa đội cùng vết bánh xe nông sâu mà nhìn, tựa hồ là đặc biệt vận chuyển tử lưu kim.

Một nam nhân trẻ tuổi tầm hai lăm hai sáu được đoàn sứ giả bao vây chính giữa, trông như đầu lĩnh của nhóm người này, song nhìn kỹ lại thì thấy người trẻ tuổi ấy sắc mặt nhợt nhạt, hoảng sợ bất an rõ rệt, bị mấy thớt ngựa kẹp bên trong, trái lại như là bị ép tới.

Thẩm Dịch không dám chủ động bắt chuyện với Trần Khinh Nhứ, đành phải thấp giọng hỏi Tào Xuân Hoa: "Kẻ đó là ai?"

Tào Xuân Hoa nhìn qua thiên lý nhãn, trả lời: "Nhị vương tử của Gia Lai Huỳnh Hoặc."

"Cái gì?" Thẩm Dịch nhíu mày, "Xác định chứ, ngươi không nhìn lầm?"

Tào Xuân Hoa ném mị nhãn, dùng lan hoa chỉ chọc ngực Thẩm Dịch: "Ôi Thẩm tướng quân, Thẩm tiên sinh à, ta đời này chỉ có hai thứ nhớ không sai, một là mặt người, một là giọng điệu nói chuyện, ngài cứ tin ta đi."

Lúc hắn còn nhỏ, Thẩm Dịch còn từng dạy hắn học, khi đó cảm thấy người này là một tiểu cô nương khá bình thường, ai ngờ sau khi lớn lên, hắn "khôi phục" thân nam nhi, lắc mình biến thành cái vẻ này. Thẩm Dịch là một nam tử chưa kết hôn theo kiểu học cứu lớn tuổi, thật sự không nhìn nổi cũng không chịu nổi sự khiêu khích bưu hãn của Tào Nương Tử, lập tức nổi hết da gà da vịt, vô thức nhích sang hướng Trần Khinh Nhứ một bước, né tránh ngón tay sàm sỡ kia.

"Tiểu Tào." Trần cô nương trợn mắt, lạnh lùng mở cái miệng tôn quý cảnh cáo Tào Xuân Hoa.

Người của Lâm Uyên các đắc tội ai cũng không dám đắc tội Trần thần y, Tào Xuân Hoa lập tức ngậm miệng, ngồi nghiêm chỉnh trên lưng ngựa, ra vẻ đàng hoàng phân tích cho Thẩm Dịch: "Tướng quân, ta thấy mười tám bộ lạc lần này là thật lòng rồi, nộp 'Lang vương' thật sự là quá mất mặt, chắc họ muốn đẩy tội man sứ gây ra ở kinh thành lên đầu con rối nhị vương tử này hòng yên chuyện."

Ngón tay Thẩm Dịch gõ nhẹ hàm thiếc: "Cứ chờ trước, đừng vui mừng quá sớm, ta luôn cảm thấy người man nhún nhường đến quá dễ dàng."

Y và Bắc man Tây Vực từng qua lại không ít, biết tính bọn mười tám bộ lạc khốn nạn ra sao.

Đám trâu bò thả rông này phần lớn chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, mà lúc này Huyền Thiết doanh chỉ mới uy hiếp một chút, vẫn chưa đến trận địa Bắc man, càng chưa động thủ, Thẩm Dịch cứ cảm thấy mười tám bộ lạc còn nên ngoan cố chống cự một thời gian.

Tào Xuân Hoa nhìn tử lưu kim dường như rất nhiều, liếm môi hỏi: "Thế phải làm sao đây? Cho người ta vào hay không?"

Thẩm Dịch rất cẩn thận nói: "Tất cả cung tiễn thủ bạch hồng tiễn nhắm thẳng, nghiêm cấm đám người man này tiếp cận, gọi nghiệm kim sư đến lần lượt mở ra kiểm tra."

Tào Xuân Hoa biến sắc, ngoảnh đầu lại bắt gặp ánh mắt Thẩm Dịch, hai người đồng thời nhớ tới cự diên rắp tâm hại người trên Nhạn Hồi tiểu trấn năm ấy.

Nếu là người khác, chí ít hổ dữ không ăn thịt con, nhưng Gia Lai Huỳnh Hoặc không thể dùng đạo lý của phàm nhân để suy đoán, hắn thật sự có thể làm được chuyện lấy tính mạng con ruột ra lừa quân địch mở cửa lắm.

Thẩm Dịch vừa ra lệnh thì Huyền Thiết doanh lập tức giương cung bạt kiếm, cả Bắc địa sát ý tăng vọt, bao quanh sứ tiết Bắc man.

Nhị vương tử trên lưng ngựa run rẩy chực ngã, kế đó một đội nghiệm kim sư huấn luyện nghiêm chỉnh chạy đến, trước mặt sứ tiết Bắc man lần lượt mở rương kiểm tra.

Mấy xe tử lưu kim khiến người ta thèm nhỏ dãi cứ thế phơi ra trước mặt bọn Thẩm Dịch.

Nghiệm kim sư không dám qua loa, lần lượt kiểm tra độ tinh khiết của mỗi một xe tử lưu kim, lại thò gậy đặc chất vào thùng xe kín bưng, kiểm tra lượng tử lưu kim.

Mấy cái cây dài dính đầy tử lưu kim trình đến trước mặt Thẩm Dịch, nấc trên đó cơ hồ lên hết, nghiệm kim sư nhanh nhẹn báo cáo: "Tướng quân, độ tinh khiết không thành vấn đề, đạt tới cấp cống nạp."

Thẩm Dịch "Ừm" một tiếng, vẫn chưa thôi nghi ngờ, ngẩng đầu nhìn nhị vương tử một cái, trên trán nhị vương tử có một vết màu tím thảm hại như bị roi quất, mặt tèm lem nước mũi nước mắt, mở miệng làm động tác tru lên mà không thành tiếng.

Trần Khinh Nhứ thấp giọng nói: "Thẩm tướng quân, ngài xem trên trán hắn có một vết tím, lúc ở mười tám bộ lạc ta từng nghe qua về nó, đó là một loại vu độc dùng để diệt khẩu, hắn hiện tại toàn thân cứng ngắc, tương đương với bị cố định trên ngựa, một tiếng ho cũng không phát được, qua vài khắc nữa, chờ vết tím kia đậm màu hóa đen, sẽ ngã xuống đất mà chết, cho dù khám nghiệm tử thi cũng chỉ có thể nghiệm ra hắn là kinh sợ quá độ, vỡ mật mà chết."

Thẩm Dịch chẳng màng đỏ mặt ngại ngùng, vội quát lên ra lệnh: "Từ từ, bảo họ đứng lại!"

Huyền ưng trên trời quát lên một tiếng chói tai: "Dừng lại!"

Ngựa của nhị vương tử man tộc kia đột nhiên dừng lại, cả người hắn nhào về trước như trọng tâm bất ổn, cái ủng cứng ngắc vừa vặn đập lên góc xe chở dầu bên cạnh, tạo thành một tiếng "Coong" vọng vang.

Trên xe dầu có một góc là trống!

Đồng tử Thẩm Dịch chợt co lại: "Lui về sau!"

Y chưa dứt lời thì một người man trong đoàn sứ tiết chợt lao tới một xe chở dầu, bị huyền ưng tay mắt lanh lẹ bắn chết, cả Huyền Thiết doanh lặng ngắt như tờ lui lại bằng tốc độ cực nhanh, Thẩm Dịch kéo cương ngựa của Trần Khinh Nhứ, thuận tay đuổi ngựa của nàng ra sau trận.

Trong tích tắc, hỏa hoa phụt lên trời.

Thì ra là dưới xe chở dầu còn nấp một thiếu niên Thiên Lang tộc nhỏ thó, trong tay vung vẩy cây đốt lửa, đốt một kíp nổ giấu dưới xe, âm trầm nhìn lên thiên không mà cười.

Chỉ một khắc sau, cỗ xe chở tử lưu kim thứ nhất nổ tung, thiếu niên kia tan thành tro bụi ngay trên không.

Lực chấn động mạnh từ điểm ấy bùng ra, ngọn lửa màu tím mấy chục trượng trùng trùng điệp điệp phóng lên trời, không khí chung quanh chớp mắt sôi lên, sóng nhiệt vô hình cuồn cuộn kéo đến, lưng hắc giáp lạnh lẽo của chiến sĩ Huyền Thiết đoạn hậu bị đốt đỏ, bị hộp vàng bốc cháy nổ tung như dây chuyền.

Cố Quân trong cơn ác mộng vô tận giẫm trúng khoảng không, đầu nặng bước nhẹ dúi xuống nơi sâu thẳm trong tăm tối, cơ toàn thân chợt căng lên, cả người co rúm lại, sau đó tỉnh lại giữa đêm đen.

Y tỉnh cực nhanh, trong tích tắc mở mắt thần hồn liền quay về nguyên vị, một năm một mười nhớ ra mình đang ở phương nào, còn chuyện gì chưa làm.

Mà đúng lúc này, bỗng nhiên có người dùng gò má lạnh ngắt dán lên trán y, Cố Quân sửng sốt – Đừng nói đại doanh Giang Bắc, dù là Huyền Thiết doanh cũng chẳng có ai dám không khách sáo với y như vậy, sau đó y ngửi thấy mùi an thần tán, đôi mắt dở mù đã thích ứng với tầm nhìn không tốt trông thấy một dáng hình lờ mờ.

Mồ hôi trên người chưa khô Cố Quân đã giật nảy mình vã thêm một tầng mồ hôi lạnh, bụng nghĩ: "Sao y lại ở đây?"

Trường Canh vặn ngọn đèn măng-sông đơn giản trên giường xếp sáng hơn, im lặng lấy một cái khăn trong chậu nước bên cạnh, lau mồ hôi trên người trên trán Cố Quân.

Toàn thân Cố Quân mềm nhũn, dưới da thịt ở ngực như chôn một vết thương không nhìn thấy, hơi dùng sức là âm ỉ đau, y quờ quạng xung quanh một lúc, hơi kích động tìm được kính lưu ly đeo lên: "Để ta tự mình..."

Trường Canh cúi đầu không thèm để ý, chụp nhẹ cổ tay y đè xuống.

Cố Quân căng thẳng liếm môi, tự dưng lại hơi chột dạ, nghĩ bụng: "Không ai nói lung tung chứ?"

Lúc này, Trường Canh đã nhanh nhẹn lau hết người cho y, kéo vạt áo vào, lại kéo chăn quấn chặt Cố Quân, bấy giờ rốt cuộc mới ngẩng đầu lên đối mắt với y.

Cố Quân vội nắm chắc thời gian nở nụ cười.

Trường Canh mặt không biểu cảm nhìn y.

Cố Quân mệt mỏi rút một tay ra, quàng qua gáy Trường Canh, bóp nhẹ hai cái, ngón tay vuốt ve cằm đối phương: "Làm gì mà vừa thấy ta đã xụ mặt ra, nghĩa phụ ngươi nhanh như vậy đã sắc suy tình cạn rồi?"

"..." Trường Canh bỗng nhiên rất muốn xem thử y rốt cuộc giỏi giả bộ cỡ nào, liền lạnh lùng hỏi, "Ngươi rốt cuộc có chuyện gì?"

Cố Quân hơi híp mắt nhìn thần ngữ của y, mặt không đổi sắc nói: "Cảm lạnh."

Trường Canh: "..."

Y liệu được Cố Quân sẽ lấp liếm, không liệu được lấp liếm chẳng có tí thành ý như vậy.

Cố Quân rất muốn vui vẻ qua chuyện, thế là vỗ vỗ mặt Trường Canh: "Lại đây ta xem xem gần đây có gầy đi không."

Trường Canh đập tay y ra, cả giận nói: "Cố Tử Hi!"

Cố Quân lập tức điều chỉnh sách lược, nhíu mày, đột nhiên xuất hiện sự uy nghiêm của quân pháp như núi: "Ai lại bép xép gì với ngươi hả? Chung tướng quân vừa mới đi, đại doanh Giang Bắc này liền vô pháp vô thiên sao?"

Trường Canh hít sâu một hơi: "Ngươi ở trong linh đường..."

Cố Quân ác nhân cáo trạng trước nghiêm nghị nói: "Là tên oắt con doanh nào canh cửa linh đường? Ngươi gọi Diêu Trọng Trạch tới cho ta hỏi xem, phải xử trí theo quân pháp!"

Trường Canh khẽ nghiến răng.

Cố Quân lắc đầu như thật: "Thủy sư Giang Bắc xét cho cùng vẫn còn non trẻ, ở Huyền Thiết doanh sẽ không xảy ra mấy chuyện kiểu này đâu."

"Thế sao," Trường Canh ngoài cười trong không cười nói, "Ta chính là tên oắt đó, Đại soái định xử trí ta thế nào?"

Cố Quân: "..."

Giờ khắc này, Cố đại soái thiên biến vạn hóa, ba mươi sáu kế cũng cảm nhận được thế nào là "á khẩu không trả lời nổi".

Trường Canh kỳ thực có một bụng những điều muốn thẩm vấn y, nhưng biết y sẽ không thành thật khai báo, lại không đành lòng để tên này hao tổn tinh thần ứng phó mình, năm lần bảy lượt lời nói trồi lên lại dằn xuống, đương rối rắm thì đột nhiên ngoài trướng truyền vào một trận dị động.

Một thân binh ở ngoài soái trướng gấp gáp gọi: "Vương gia! Nhạn vương điện hạ!"

Trường Canh nhíu mày, đứng dậy đi ra: "Sao vậy?"

Chưa dứt lời thì mặt đất đột nhiên chấn động, Trường Canh biến sắc – chỉ có khi trường pháo rơi xuống đất mới truyền đến chấn động kiểu này!

Nhìn lại thấy đại doanh Giang Bắc đã đèn đuốc sáng trưng, tiếng vó ngựa dần tới gần, thiết giáp lạnh lẽo, đồng hống trên đỉnh đầu kêu lanh lảnh, mang theo sự nặng nề riêng biệt của vùng Giang Bắc hơi nước thừa thãi, từ từ truyền ra như sấm rền, phảng phất có thể đánh thức nửa giang sơn phía Bắc, hải giao bên bờ chực chờ xông ra sáng lên từng ngọn đèn măng-sông, hàn quang xuyên qua thủy khí dày đặc, cột sáng thẳng tắp trên tháp theo dõi nhanh chóng phóng qua cả Giang Bắc.

Địch tấn công!

Tuy Cố Quân nghe không rõ, nhưng chấn động mặt đất truyền đến cùng ánh sáng chiếu vào cửa y nhận ra không sai. Sau khi đến Giang Bắc y lập tức gia cố phòng tuyến kỳ thực chỉ để ổn định lòng người, không hề liệu được thủy quân Tây Dương đặc biệt bình tĩnh thực sự sẽ chọn thời cơ này để tập kích đại doanh Giang Bắc.

Có đôi khi tận nhân sự còn phải thính thiên mệnh, cho dù mình ở bên cạnh tính toán kỹ lưỡng, lại hoàn toàn không biết địch nhân trong khi sân sau bốc cháy, cũng thần không biết quỷ không hay cháy ra một chủ soái phong cách hoàn toàn bất đồng.

Cố Quân không kịp nghĩ kỹ, lôi áo ngoài khoác lên người, lúc đứng dậy chân hơi lảo đảo, giống như mới ăn mười cân nhuyễn cân tán, suýt nữa quỵ xuống.

Đúng lúc này, một huyền ưng lướt qua không trung, trực tiếp đáp xuống cửa soái trướng, chưa kịp mở miệng thì công văn khẩn đánh dấu đỏ đã tuột tay lăn ra, bị Cố Quân giẫm lại.

Cố Quân cố gắng vịn đầu giường khom người xuống, nhờ ánh đèn măng-sông mở ống thư ra. Cùng lúc đó, huyền ưng kia cấp tốc bẩm báo: "Đại soái, mười tám bộ lạc mượn danh đàm hòa đầu hàng, sai tử sĩ và sáu xe tử lưu kim đến biên cảnh ta làm mồi, nổ ra một con đường, sau đó mấy vạn tinh binh dốc tổ mà ra, định cá chết lưới rách."

Cố Quân ngẩng lên khỏi công văn khẩn: "Tình hình chiến đấu thì sao? Thương vong bao nhiêu?"

Huyền ưng: "Thuộc hạ đi gấp, không biết ạ!"

Cố Quân định thần lại, sau đó cắn răng gượng ra một hơi khí lực, giơ tay cầm cát phong nhận treo ở đầu giường, quát to ra lệnh: "Lấy một bộ trọng giáp đến cho ta."

Vào lúc này, cũng chỉ có trọng giáp tự chống đỡ được là có thể bù lại sự vô lực của y.

Trường Canh giơ tay chặn đường vệ binh, quay đầu hướng mặt về phía Cố Quân, trầm giọng nói: "Tử Hi, ngươi tọa trấn trung quân, ta đi."

Cố Quân nhìn thẳng vào Trường Canh, hơi mím môi – Trường Canh nhận ra biểu cảm này, cơ bản là báo hiệu y muốn nói "không".

Không đợi Cố Quân mở miệng, Trường Canh đã giành nói trước: "Ngươi không tin ta à?"

Cố Quân thở dài: "Ta..."

Trường Canh xòe một tay: "Đưa cát phong nhận cho ta, ta đi thay ngươi, nếu ngươi còn chịu tin ta, thì đừng ra khỏi lều này."

Chiến hỏa nơi xa chiếu vào mắt Trường Canh, trong mắt như bắt lửa, đốt ra một phen giang sơn Đại Lương trí đến tử địa rồi sống lại.

Trường Canh thử nắm một đầu cát phong nhận, thong thả mà kiên định rút khỏi tay Cố Quân – Việc này không hề khó, cổ tay Cố Quân chẳng có tí sức nào, còn run nhè nhẹ.

Y cầm lợi khí bằng huyền thiết kia trong tay, gác nghiêng trên vai, hơi khom người: "Để ta làm lính hầu cho Đại soái."

Cố Quân nhìn y một cái thâm sâu, chợt quay người lại phân phó huyền ưng kia: "Bày sa bàn, ngươi đi làm lính truyền lệnh."

Trường Canh cầm đao đi.

Hải quái Tây Dương từng vượt đại dương chậm rãi từ trên dòng sông sương mù dày đặc thò đầu ra, dưới hàng dải lớn bóng tối, vô số đoản giao Tây Dương nhanh như hổ sa đi song song, thong thả tới gần. Phòng tuyến Cố Quân sớm bố trí lập tức có phản ứng, phát ra cảnh báo, đồng thời ba đội khinh kỵ binh gối giáo chờ sáng của đại doanh Giang Bắc chia ba đường, chiếm các bến cảng then chốt bên bờ, đâm vào thủy quân Tây Dương toan tính lén lút đổ bộ.

Máu nhanh chóng chảy xuống mặt sông, mà lửa đạn trên mặt sông đan nhau thành một biển khói lửa rực sáng.

"Trường pháo đừng dừng lại," Trường Canh thúc ngựa ra, "Thời gian ngắt quãng bạch hồng lên, tất cả ưng giáp lập tức đợi lệnh, cho các ngươi nửa khắc để chuẩn bị, lên không ra ngoài tầm bắn của bạch hồng, áp trụ cục diện không trung, tuyệt đối không thể để ưng giáp trên hải quái chủ hạm của họ lên trời, ghim chết họ ở đó!"

"Cánh phải tụ lại."

"Hải giao toàn cảng chuẩn bị sẵn hỏa dược, lập tức xuất phát!"

Quan truyền lệnh bên cạnh nhất thời còn tưởng mình nghe lầm: "Vương gia nói là toàn cảng? Toàn diện khai chiến sao?"

Trường Canh lập tức liếc nhìn hắn một cái: "Toàn diện, cho người Tây Dương thấy Đại Lương cũng có thủy quân."

Thủy quân Đại Lương yếu ớt từng không chịu nổi một kích, thậm chí chủ soái chết trận, trong lúc hoảng loạn bị một quan văn ngựa cũng chẳng quen cưỡi ra tay chỉnh đốn, hốt hoảng trốn về phương Bắc.

Một năm trước, cựu bộ rải rác và đồng bào mất biên chế tứ phương cùng nhau tạo thành một nhánh bộ đội tạp đến không thể tạp hơn, trở lại nơi ban đầu bị sỉ nhục. Rất nhiều người xuất thân lục quân say sóng, rất nhiều người ra biển căn bản chẳng tìm được phương hướng, rất nhiều người khó có thể ứng đối phương pháp thao tác phức tạp trên hải giao vốn đã lạc hậu của Đại Lương...

Mà nay, đều đã như cách mấy đời.

Từ khi thủy quân Giang Bắc thành lập đến nay, đã trải qua hai lần cải tổ lớn và biên chế lại, Linh Xu viện ở đằng sau đổi mới ba lần chiến hạm thủy quân Đại Lương, năm trước lại đưa tới loại thuyền mô phỏng "hổ sa" nhanh kinh người của Tây Dương.

Lúc này, hai bờ sông nổi lên gió Bắc hiếm thấy, trong linh đường của Chung lão tướng quân đốt đèn chong sáng tỏ chiếu rọi một khoảng, căn lều màu trắng hết sức nổi bật ở trú địa Giang Bắc đông nghìn nghịt tựa một tấm phướn chiêu hồn, mà anh linh ông còn đó.

Thanh đao này đã luyện thành, nhất định phải dùng máu địch nhân mới có thể mở lưỡi.

Cố Quân không thấy rõ, không nghe rõ, chỉ có thể thông qua trận rung dưới chân để phán đoán khoảng cách của giao hỏa, bản thân y thậm chí không ở trận tiền, song chẳng mảy may hoảng sợ. Huyền ưng kinh ngạc phát hiện, bố phòng của Giang Bắc nằm cả trong đầu y, chỗ nào mạnh chỗ nào yếu, địch nhân sẽ chọn nơi đâu làm đột phá khẩu vân vân... y đều dự liệu không sai mảy may.

Đã giao quyền chỉ huy trận tiền cho Trường Canh, Cố Quân liền dứt khoát hào phóng giao hết tín nhiệm không hề giữ lại, một chỉ lệnh cũng không có, ba quân Giang Bắc tùy tiện cho y thống lĩnh.

Cố Quân giám sát toàn cục cuộc chiến, một mặt tính toán tình hình phân phối tử lưu kim và đạn dược. Đồng thời, bên tay y bày công văn khẩn đến từ Bắc cương, tâm huyết đã chia làm đôi, đặt vào toàn cảnh Đại Lương.

Tây Dương lần này xuất binh bất ngờ là đánh cho người man xem, xét đến cùng vẫn là để tranh thủ lợi ích đàm phán, nếu chiến trường phương Bắc có thể đứng vững, đám người Tây Dương này chính là bọn hề nhảy nhót, mà nếu chiến trường phương Bắc thất lợi-

Giang Bắc trong sương mù mông lung lửa đạn liên tiếp mấy ngày liền, Bắc cương trong một màu trắng bạc sau trận tuyết rơi sôi trào không thôi.

Gia Lai Huỳnh Hoặc dùng tử sĩ và con trai mở đường, một mồi lửa làm nổ tử lưu kim một lượng hoàng kim một lạng, sau đó hàng loạt võ sĩ Bắc man lao tới như phát điên, hiển nhiên là muốn ngọc nát đá tan.

Thẩm Dịch quyết đoán kịp thời, rút Huyền Thiết doanh đã xâm nhập vùng nội địa quân địch về hơn mười dặm, triển khai một trận cướp đường chạy như điên ở trên tuyết địa.

Huyền Thiết doanh tố chất khỏi phải chê, cơ hồ dắt người man thành một sợi chỉ mảnh lẻ loi.

Người man lật mặt còn nhanh hơn lật sách, trú quân Bắc cương hiển nhiên đã quen với tác phong trở mặt cắn người của láng giềng tốt, lập tức điều động theo tín hiệu của Huyền Thiết doanh.

Hà Vinh Huy hợp tác với Thẩm Dịch nhiều năm, ăn ý không cần phải nói, tăng viện nhanh chóng chạy tới, chặn ngang chiến tuyến kéo dài.

Ai ngờ Gia Lai Huỳnh Hoặc đã dốc hết vốn liếng, khinh kỵ tách ra, để lộ mấy chiến xa cỡ lớn nhiều năm không nỡ dùng, mấy trăm trọng giáp dốc tổ ra hết, dùng hỏa lực đẩy một tấm lưới lớn, đụng vào Huyền Thiết doanh như gió xoáy đen, chiến tuyến nhất thời giằng co.

Chưa đầy nửa canh giờ, tăng viện Bắc man cũng đến – Song không phải người cũng chẳng phải cương giáp, mà là hàng loạt xe vận chuyển tử lưu kim, rất nhiều tử lưu kim nối nhau biến thành hơi nước nơi tiền tuyến Bắc cương, bão tuyết khốc liệt thê lãnh cũng cuốn không đi hơi nóng hầm hập, nhiệt độ tăng vọt, băng tuyết diện tích lớn tan thành suối nước nóng, ngấm vào đại địa khô nứt, sương trắng mù trời làm xung quanh trở nên mờ ảo, ánh lửa màu tím tạo thành một kỳ cảnh thảm thiết.

Thiết giáp ở hơi gần, độ nóng bên ngoài sẽ bắt đầu phỏng người. Người man coi tất cả xe, người, đại địa chi tâm của mình thành nhiên liệu, không ngừng đẩy ra với sự kiên quyết muốn đào rỗng lòng đất Bắc man, dùng cuộc chiến này để mở đường.

Chập tối, Huyền Thiết doanh không thể không lui thủ một lần nữa.

Trên chiến trường Bắc cương đánh nhau loạn xạ, Gia Lai Huỳnh Hoặc đoạn tử tuyệt tôn điên vô cùng, thà rằng cá chết lưới rách cũng tuyệt không chịu để lại một giọt tử lưu kim cho địch nhân, mỗi khi đánh Huyền Thiết doanh không đủ sức, liền dùng tử lưu kim đốt ra một đường.

Nhờ nghiệp hỏa mở đường, song phương đánh nhau ngang tay một cách khó khăn, phía Đại Lương vừa bực bội vừa không thể làm gì, cứ thế, ngươi tới ta đi, chớp mắt đã đến ngày thứ ba.

Tào Xuân Hoa cũng chẳng màng đẹp xấu gì nữa, lấy mũ da chồn xuống quạt phành phạch không ngừng, dù vậy thì mồ hôi vẫn chảy xuống thái dương, hắn hâm mộ nhìn Thẩm Dịch cởi trần: "Trời ơi, Bắc cương tháng Hai đã bao giờ nóng thế này – Thẩm tướng quân, ngài có mát không?"

Thẩm Dịch tức giận trừng hắn một cái, mắng thầm: "Ta mát mẻ cái rắm!"

Lưng y bị phỏng một vết to, lúc ấy ở trận tiền không kịp xử lý, hiện giờ nhân Hà Vinh Huy thay thế mới được nghỉ một lúc, tháo giáp sang bên kia thoa thuốc, vết rộp đã rách da, sau lưng máu thịt bấy nhầy, trông như mới bị lột da rút gân vậy.

Trần Khinh Nhứ thấy vai y liên tục gồng lên cứng ngắc, vội hỏi: "Tướng quân, ta mạnh tay à?"

Thẩm Dịch đỏ bừng mặt lắc đầu, lúc này vết phỏng rát bỏng cũng chẳng bằng nỗi xấu hổ muốn độn thổ trong lòng – trần lưng lộ ngực trước mặt một đại cô nương, thật sự không ra thể thống gì, quá khó coi, y sắp sửa chẳng còn mặt mũi nói chuyện với Trần cô nương rồi.

Trần Khinh Nhứ chỉ cho rằng tai và cổ y đỏ lên là do nóng, lúc này tâm tình khá phức tạp.

Nàng tuy vô số lần thong dong ra vào hiện trường các vụ ẩu đả giang hồ, còn ở trong doanh thương binh một thời gian, lại rất ít có kinh nghiệm trực tiếp lên chiến trường thế này.

Lần này không giống với năm đó Cố Quân giở trò lừa gạt phản quân Ngụy vương, khi mấy vạn quân chính quy thân kinh bách chiến chân chính cứng đối cứng, tiếng người, tiếng ngựa, tiếng lửa đạn xung quanh rất hỗn loạn, người ở trong đó hơi thất thần là lập tức không nhận ra cái gì, có thể theo kịp chỉ lệnh của chủ soái đã là thành quả của nhiều năm luyện binh nghiêm khắc, càng khỏi bàn đến chỉ huy đã định rồi.

Trong trường hợp này, một người công phu cao hơn, thân thủ sắc bén hơn, tác dụng có thể tạo được thì ra cũng cực kỳ có hạn, dù là cột đá đỉnh thiên lập địa, cũng sẽ bị biển người và tường hỏa lực như biển cả bao phủ.

Từng tốp thương binh đưa đến chỗ nàng, không què tay thì cụt chân, thê thảm cỡ nào cũng có, hiện giờ nàng rốt cuộc đã biết những thương binh đó làm sao mà ra.

"Như một yêu động nuốt thịt nhai xương." Trần Khinh Nhứ im lặng nghĩ thầm, nhanh nhẹn gỡ thịt nát trên người Thẩm Dịch, lại cẩn thận rửa sạch thoa thuốc – khi hai quân đánh giáp lá cà, Thẩm Dịch phải chú ý bốn phương, trong cảnh rối ren vậy mà còn chú ý tới nàng, y túm cương ngựa của nàng, nhìn thẳng nàng một cái, hơi gượng gạo bỏ lại một câu "đi cạnh ta".

Không biết vì sao, ấn tượng của Trần Khinh Nhứ với ánh nhìn ấy còn khắc sâu hơn chiến hỏa ngập trời.

"Tướng quân không thể mặc khinh giáp nữa," Trần Khinh Nhứ nói, "Khinh giáp quá nặng, sẽ liên tục cọ vào vết thương, vạn nhất mưng mủ phát sốt thì không dễ xử lý đâu."

Thẩm Dịch người đẫm mồ hôi nóng, nghe nàng dặn một câu khe khẽ, tuy trên lý trí biết người ta không có ý gì đặc biệt, song vẫn nổi hết da gà, da toàn thân y không biết nên tiếp tục chảy mồ hôi hay nên im lặng run rẩy, vậy là cũng lộn xộn theo.

May mà lúc này một lính truyền lệnh cứu y, lính truyền lệnh kia chạy vào thở không ra hơi nói: "Thẩm tướng quân! Thái lão tướng quân ban nãy bị trường pháo của người man quét trúng, ngã xuống ngựa, người man muốn lấy bên đó làm đột phá khẩu, phá vỡ phòng tuyến Bắc cương ta!"

Thẩm Dịch đứng bật dậy, kéo vết phỏng sau lưng, thật sự đau đến mức chỉ hận không thể ngửa mặt lên trời mà gào khóc – nhưng thân là chủ soái tạm quyền, lại thêm ở trước mặt người trong lòng, y gào không được.

"Báo – tướng quân! Có công văn khẩn đến từ Giang Nam!"

Nhớ năm ấy Cố Quân xuống Giang Nam bắt Trường Canh bỏ nhà trốn đi, huyền ưng từ con đường tơ lụa Tây Vực bay qua phải mất hai ba ngày, hiện giờ hộp vàng của thám báo được Linh Xu viện cải tiến đã tăng tốc rất nhiều, trong tình huống khẩn cấp từ Giang Bắc bay đến Bắc cương chỉ cần không đến một ngày.

Trong tình hình hỗn loạn thế này, Cố Quân như chủ tâm cốt của Thẩm Dịch, Thẩm Dịch nghe vậy tâm thần thả lỏng, lảo đảo tại chỗ, suýt nữa ngã sấp, quơ lung tung một phen, theo bản năng bắt lấy thứ gì đó, định thần lại mới phát hiện là một bàn tay Trần cô nương cho mượn.

Tay Trần cô nương cũng giống người, hơi lành lạnh, ngón tay cực nhỏ, gầy đến lộ rõ xương, xương mảnh mai lại rất cứng, có sức lực của cao thủ.

Thẩm Dịch: "..."

Xấu hổ sắp chết rồi...

Thẩm Dịch hấp tấp rút tay về, không thể chờ đợi mà ra đón tín sứ kia: "Đại soái nói gì?"

Huyền ưng tín sứ nói một mạch: "Quân Tây Dương Giang Nam tập kích đại doanh Giang Bắc, Đại soái nhờ tôi chuyển cáo chư vị tướng quân, nếu chiến trường Bắc cương phòng không được, mời chư vị chuẩn bị sẵn sàng đến trước mặt liệt tổ liệt tông thỉnh tội!"

Thẩm Dịch đương trường cảm thấy áp lực nặng nề như Thái Sơn đập thẳng vào mặt, bốn chữ "liệt tổ liệt tông" suýt làm y hộc máu, thật là khóc không ra nước mắt – Y trước kia đã chưa bao giờ hâm mộ Cố Quân Thống soái tam quân có gì uy phong, trước mắt càng hận không thể gào khóc đòi đổi Cố Quân từ Giang Nam về thế cho mình.

Đã nói là chỉ nhìn một cái rồi quay lại mà?

Đã nói chỉ là tạm thay Thống soái thôi mà?

Thẩm Dịch cho rằng vấn đề lớn nhất cả đời mình chỉ sợ chính là kết bạn không cẩn thận – Vô luận thế nào y cũng không nghĩ thông, mình không phải là một người tầm thường tình yêu quá thừa, không có chí lớn à? Chưa từng muốn luồn cúi quan cao lộc hậu, cũng chưa mảy may kỳ vọng lưu danh vạn cổ, rốt cuộc gánh nặng ngàn cân Bắc cương làm sao mà tự dưng rơi xuống đầu y vậy?

Hà Vinh Huy cuốn theo sóng nhiệt chạy vào: "Quý Bình, bên phía Thái lão không trụ được nữa, ta đi chi viện đây!"

Thẩm Dịch phút chốc định thần lại, bóp mạnh trán, vừa nhận lệnh kiện của Cố Quân vừa nói với thần sắc nghiêm trọng: "Hiện tại đám người man này toàn dựa vào huyền ưng áp chế, ngươi không thể đi, để ta nghĩ lại đã..."

"Thẩm tướng quân, mạt tướng nguyện đi!"

Thẩm Dịch nghe tiếng ngẩng đầu lên, chỉ thấy trong góc lều đứng ra một chàng trai trẻ, anh chàng này chẳng qua nhược quán, mặt còn nét non nớt chưa tiêu, Tào Xuân Hoa thấp giọng nhắc: "Vị tiểu tướng quân kia là tiểu nhi tử của Thái lão tướng quân, liên tục là tiên phong của trú quân Bắc cương, tuổi mới mười chín, mà giao thủ với người man không dưới mấy chục lần."

"Mạt tướng nguyện đi," Chàng trai trẻ ấy thấy Thẩm Dịch nhìn qua, lại tiến lên một bước, chắc như đinh đóng cột nói, "Thà chết không để người man xâm phạm một bước!"

Thẩm Dịch trong chớp mắt giật mình, đột nhiên có cảm giác như nhìn thấy Cố Quân năm ấy... Khi đó tin tức Tây Vực phản loạn truyền vào kinh thành, tiên đế đắm chìm trong oanh ca yến vũ và triều thần ngơ ngác nhìn nhau, đại triều hội hôm sau loạn cào cào, thậm chí có kẻ đề xuất ra dân gian yết bảng tìm Chung Thiền lão tướng quân từ quan về vườn quay lại... Đứa trẻ mồ côi Cố gia không chút hoang mang từ trong những cãi vã loạn xà ngầu chặn ngang một gậy-

Cố Quân mười bảy tuổi còn có vài phần cuồng vọng của nghé con mới sinh không sợ hổ: "Thần nguyện đi, Tây Lương biên thùy, chẳng qua một đám hề nhảy nhót, còn thật sự cho là cát phong nhận huyền thiết rỉ đến không chém được đầu bọn chuột nhắt sao?"

Mà nay, Thái tiểu tướng quân khụt khịt mũi, mắt cũng không chớp nói: "Chó điên Bắc man, chẳng qua dựa vào nơi hiểm yếu chống cự, mạt tướng tuy tuổi trẻ vô tri, nhưng còn cầm được đao thương trong tay gia phụ, nhất định phải khiến chúng có đi không về!"

Danh tướng thế hệ trước hoặc chết trên chiến trường, hoặc tuổi già đao gãy, mà giang sơn không thay đổi, loáng thoáng lại có thiếu niên mặc huyền giáp, kéo bạch hồng, không biết trời cao đất dày gạt đám đông bước ra.

Mười năm trôi qua, còn có mười năm kế tiếp, trăm năm trôi qua, còn có trăm năm kế tiếp.

Tâm thần vốn rối như tơ vò của Thẩm Dịch bỗng nhiên bình tĩnh lại, y giao lệnh bài cho Thái tiểu tướng quân: "Hảo huynh đệ, đi đi."

Thái tiểu tướng quân nhận lệnh mà đi, Thẩm Dịch mở công văn khẩn của Cố Quân ra.

Lời nhắn truyền miệng của Cố Quân cho huyền ưng đằng đằng sát khí, không chừa đường sống, viết trong lệnh kiện lại lý trí rõ ràng: "Man tộc liều chết một trận, như con thú bị vây, mà mười tám bộ lạc lúc trước đã sinh hiềm khích, khó lòng lâu dài, dăm ba ngày đầu là khó trụ nhất. Mà một khi chiến tuyến thủ được, chỉ cần giữ chân họ vài hôm, người man nhất định một thịnh hai suy ba kiệt, lúc này lại đình chiến sai sứ tiếp tục gây chia rẽ, có lẽ ngày sau Bắc cương có thể nhất lao vĩnh dật, cẩn thận, cũng không cần sợ hãi. Ta mặc dù không thể tới, cũng cùng tồn tại với Huyền Thiết tam quân."

Thẩm Dịch nhất thời vành mắt nóng lên: "Truyền lệnh các bộ, kìm chân họ, thủ vững!"

Mà Cố Quân thong dong bốc phét nói mình cùng tồn tại với Huyền Thiết doanh lúc viết phong thư này không hề thoải mái như vậy, y vất vả lắm mới giữ được tay vững vàng, cho đến khi đóng dấu xong xuôi, chiến báo trong tay đã chất lên một chồng.

Không biết là để y an tâm hay là thế nào, Trường Canh chuyên môn chỉ định một đội khinh kỵ đi tới đi lui giữa chiến trường và soái trướng, đệ trình chiến báo ngay lập tức. Cố Quân cả đời ít có chiến dịch không cần đích thân ra trận, đây thật là một cảm thụ khá mới mẻ, trong soái trướng, không có tin tức dư thừa đến quấy rầy mạch suy nghĩ, không cần tránh né minh thương ám tiễn, cũng không cần bị ảnh hưởng bởi cảm xúc kích phẫn trên chiến trường, y lấy một loại thị giác cơ hồ là kẻ bàng quan từ trên cao nhìn xuống mà xem chiến cục.

Khảo nghiệm đối chiến ban đầu chính là cơ sở tuần phòng của đại doanh Giang Bắc có nghiêm mật hay không, thủy quân đủ cảnh tỉnh hay không, Chung lão tướng quân và Cố Quân tạo nền tảng rất vững chắc, cho nên rất dễ dàng chống được quân Tây Dương tấn công điên cuồng.

Song khi chút nền tảng này đánh sạch, hai quân thực lực tương đương, còn lại phải xem kinh nghiệm và trình độ của chủ soái.

Cố Quân thực sự vã mồ hôi – Huyền ưng đọc chiến báo cho y nghe, y liền nhận ra chủ soái đối phương bài binh bố trận thủ pháp độc ác, tuyệt đối là một cao thủ thủy chiến, cho dù y đích thân ra trận, chỉ sợ cũng phải hành sự cẩn thận.

Huyền ưng lao như bay vào, hồi báo hướng đi mới nhất: "Hướng Tây Nam có hạm đội lạc đàn của quân địch, Nhạn vương điện hạ đã điều chỉnh tuyến tiên phong, thọc đao vào đó."

Cố Quân trong lòng "thịch" một tiếng, đứng bật dậy – khi hai quân đối trận, chủ soái huyết phải nóng, tâm phải lạnh, không giống với tiên phong lấy dũng làm đầu.

Kẻ không đủ kinh nghiệm nếu giết hăng đỏ cả mắt rồi, rất dễ nóng lên theo.

Cố Quân quyết đoán bội ước: "Lấy giáp của ta đến, chuẩn bị ngựa!"

Trường Canh trận này đánh cực kỳ hao tâm tổn sức, lại bất đồng với trận chiến thủ vệ ở kinh thành, khi đó y cần lo lắng chẳng qua là mảnh đất một mẫu ba trên dưới tường thành, lại ôm tâm tư tất chết, nhưng lần này phía sau y là nửa giang sơn phía Bắc mênh mông và mấy vạn thủy sư Giang Bắc.

Thủy quân Lưỡng Giang trước kia không có quân chủng Ưng Giáp, Ưng Giáp doanh thời gian thành lập ngắn hơn thủy quân, động thủ đừng nói huyền ưng, ngay cả ưng của Bắc đại doanh cũng dễ chỉ huy hơn họ. Mà quân địch lấy hải quái gần như đao thương bất nhập kia làm trung tâm, sau khi qua được đợt tập kích trên cao đầu tiên, dần dần nắm giữ nhịp bước trên chiến trường, Trường Canh nóng lòng muốn tìm một đột phá khẩu, nếu không sẽ bị người ta đè đánh mãi, bộ đội tiên phong vừa vặn đúng lúc này phá được cánh trái, y liền áp hạm đội chủ hạm lên theo bản năng-

Trường Canh xét cho cùng trời sinh điềm tĩnh cẩn thận, đuổi theo nửa chừng đã cảm thấy không ổn, song không còn kịp nữa rồi.

Đoàn tiểu hạm của quân Tây Dương toàn tốc quây lại, tiệt đường lui của y.

"Vương gia ơi làm thế nào đây, quay về sao?"

Bàn tay Trường Canh mướt mồ hôi lạnh, lời Cố Quân từng nói vang lên bên tai – Ra trận, ai không muốn chết thì chết trước.

"Quay về đâu? Toàn tốc tiến lên!" Trường Canh lạnh lùng nói, "Không phải một đám ruồi bọ bám theo sau thôi sao, khỏi cần để ý, giữ nguyên kế hoạch chọc thủng cánh trái quân địch!"

Y muốn biến cả hạm đội thành tiên phong không sợ chết, không phải đối phương muốn bắt rùa trong vò sao?

Vậy thì y phải đập nát luôn cái vò mẻ.

Quan truyền lệnh nghe ra sát ý uy nghiêm từ câu nói của y, lông tơ dựng hết lên: "Vâng!"

Hải giao chiến đội như một thanh cát phong nhận xoay tròn, chớp mắt đã vào giữa quân địch, giáp lá cà.

Trường Canh biết, nếu y không thể đánh tan đối phương trong chốc lát, truy binh phía sau sẽ nhanh chóng đuổi tới, khi đó y sẽ hai mặt thụ địch.

Tất cả trường pháo và đoản pháo trong tầm bắn đều lên nòng, trong bóng đêm ánh lửa nho nhỏ từ hải giao lấp lánh sáng lên – là hộp vàng của hỏa pháo, Trường Canh lau mồ hôi tay lên hà bao đựng đầy an thần tán, định hạ lệnh.

Lúc này, đột nhiên xảy ra một chuyện rất quỷ dị.

Quân địch vốn chặn trước mặt họ tự dưng rút lui!

Trường Canh: "..."

Lại là âm mưu quỷ kế gì đây?

Song hạm đội toàn tốc đã thắng không được, thủy quân Đại Lương không hề gặp lực cản xuyên thẳng qua quân địch, nhờ thiên lý nhãn nhìn được trong đêm, có thể thấy một kỳ quan trên chủ hạm quân địch đang liều mạng dùng tín hiệu cờ ra hiệu cho bên này, mệnh lệnh không được lui lại.

Tiểu hạm đội Tây Dương rút lui lại hoàn toàn không nghe chủ hạm, mau lẹ vô cùng mà lâm trận kháng mệnh, chết cũng không chịu làm tiên phong thu hút lửa đạn của thủy quân Đại Lương.

Trường Canh nhất thời không rõ đối phương xảy ra chuyện gì, song thời cơ chỉ đến một lần không thể để mất, y lập tức ra lệnh thay khẩu pháo, một đòn phủ đầu ban nãy chuẩn bị rất lâu quay ra sau, cả đại giang bị nổ ra một đường, đám hổ sa Tây Dương đuổi theo sau họ dưới tốc độ cao căn bản không kịp tránh né, bị bắn trúng, tiểu hạm nổ dẫn đến một loạt hộp vàng nổ theo, lần lượt lan ra như hỏa thiêu liên doanh, mặt sông sôi sùng sục, thủy quân Đại Lương hữu kinh vô hiểm sau khi đâm một nhát kiếm bình an thu về.

Trên chủ hạm quân Tây Dương, Nhã tiên sinh nổi giận: "Khốn nạn, hắn dám lâm trận kháng lệnh!"

Hai má Giáo hoàng căng như dao gọt.

Hạm đội ban nãy bất ngờ chạy trốn chính là cánh trái do thánh sứ phụ trách.

Lúc này thánh sứ cũng đang nghiến răng nghiến lợi – hắn vốn là hộ tống chi viện, lão già Giáo hoàng kia sau vài lần thay đổi trận hình vậy mà biến hắn thành tiên phong!

Ban nãy tận đến khi thủy quân Đại Lương giết tới trước mặt hắn mới kịp phản ứng, mình suýt nữa thành mồi nhử đỡ đạn, nếu hắn ở trên chiến trường chết trong tay người Đại Lương, dù là Quốc vương bệ hạ cũng chẳng bắt bẻ được gì.

Thánh sứ còn khuya mới chịu lỗ vậy, không hề nghĩ ngợi lập tức rút lui, không tiếc phá hoại trận hình chỉnh thể của thủy quân Tây Dương.

Trường Canh như thể độc xà, một khi bắt được thời cơ lật ngược tình thế thì lập tức tấn công điên cuồng một trận, để báo mối thù mồ hôi lạnh lúc nãy, quân Tây Dương tức khắc rơi xuống hạ phong.

Mà cùng lúc đó, trận tiền tình thế thay đổi bất ngờ, khinh kỵ phụ trách chiến báo trên bờ lập tức lao như bay vào soái trướng báo cho Cố Quân.

Cố Quân đã mặc giáp đi ra nghe vậy thần sắc cổ quái một lúc lâu, cuối cùng bất đắc dĩ, y bỗng nhiên cảm thấy câu trong minh minh "số mệnh Đại Lương đứng ở phía sau Nhạn vương" không hề là cuồng vọng, chỉ sợ thật sự là như thế.

Y quay đầu ngựa lặng lẽ trở về soái trướng trung quân, tháo giáp trụ cất kỹ, nghiêm lệnh mọi người xung quanh không được để lộ chuyện y từng ra khỏi trướng.

Quân Tây Dương bị Trường Canh nắm lấy thời cơ phế đi một cánh, tương đương với thọt một chân, Giáo hoàng tung hoành trên biển trong tình huống thiết bị rơi vào liệt thế, lại giằng co với Nhạn vương lính mới tò te chẳng ai làm gì được ai, đánh tới tận hừng đông.

Cố Quân tắt đèn măng-sông, cầm bút liên tiếp viết ba phong thư, một phong lệnh điều tạm tử lưu kim, một phong gửi đến phân bộ Linh Xu viện gần nhất, thỉnh cầu bổ sung hỏa cơ cương giáp, phong cuối cùng nghĩ một bản tấu vắn tắt, đưa về kinh thành.

Sau đó, y xoa cần cổ hơi cứng, phân phó huyền ưng: "Bảo với Nhạn vương, nếu người Tây Dương rút quân, không cần đuổi riết không bỏ."

Huyền ưng sửng sốt.

Song không đợi hắn mở miệng hỏi Cố Quân làm sao biết người Tây Dương muốn rút quân, một quan truyền lệnh liền lao vào như bay: "Đại soái, chủ hạm Tây Dương bắt đầu rút quân về hướng Nam!"

Cố Quân không hề có vẻ ngạc nhiên, phất tay một cách đương nhiên, huyền ưng không dám trì hoãn, từ trong soái trướng lao ra truyền lời.

Y không cần phân tâm đi ứng phó các loại tình huống khẩn cấp lâm trường, có thể toàn tâm toàn ý suy tính cả cuộc chiến, nhìn qua là thấu, sớm đã tính ra dự trữ tử lưu kim trong lần xuất binh này của quân địch, biết đêm nay hầu như đã đánh tới cực hạn của đối phương.

Quân địch đánh hết tử lưu kim, phí công quay về, còn thương vong khá nặng, sau khi trở về chắc chắn phải nội đấu một phen, trong tình huống thế này, thủy quân Đại Lương thay vì uy bức tiến lên, ngược lại không hiệu quả bằng gây áp lực từ xa.

Lại qua non nửa canh giờ, thủy quân Tây Dương quả nhiên thu binh, một đêm đánh lén tuyên cáo thất bại, ngay cả bờ Bắc cũng chưa lên được.

Để biểu hiện mình "giữ nghiêm lời hứa" không ra khỏi soái trướng, Cố Quân chỉ đứng ở cửa đón Trường Canh, cũng không để ý người y đẫm máu, dang tay ôm y.

Đến đây, Trường Canh mới cảm thấy toàn thân mệt mỏi rã rời, y loạng choạng ôm thắt lưng Cố Quân, thì thào vào tai: "Không bao giờ muốn để ngươi đi đánh trận nữa."

Tiếng Trường Canh thấp và mơ hồ, dù dán sát tai vào thì Cố Quân cũng chẳng nghe rõ, y nghi hoặc nghiêng đầu sang hỏi Trường Canh: "Ngươi nói gì?"

Trường Canh nhìn lướt qua đôi mắt bị kính lưu ly che khuất một bên của y, toàn thân đã kiệt sức rã rời, mà máu còn đang sôi sùng sục, nóng đến khô hết cả miệng, trong tích tắc rất muốn ngay trước mặt mọi người ôm y lại thân mật cho đủ, song đảo mắt qua, trông thấy khuôn mặt tứ đại giai không của Liễu Nhiên đại sư đằng xa, tức khắc bật cười phát hiện mình quá trớn, bèn im lặng tự kiểm điểm chốc lát, buông hông Cố Quân ra, kéo tay y, theo mạch đập tuy yếu nhưng đã ổn định kia dần dần bình tĩnh lại: "Không có gì – ta vừa rồi nhìn thấy tín sứ đi hướng Bắc, là trình bản tấu lên kinh thành à?"

"Ừ," Cố Quân gật đầu, "Lần này để triều đình ra mặt chủ động phái người tiếp xúc với người Tây Dương, chúng ta trước đây liên tục bị động, lần này nên nắm giữ."

Trường Canh: "Muốn đàm hòa?"

"Không hòa," Cố Quân nhàn nhạt nói, "Bên giường há cho phép kẻ khác ngủ say, huống chi nợ máu chưa đền, ốc thổ Giang Nam bị đám súc sinh này chiếm, nằm mơ cũng cảm thấy ghê tởm."

Trường Canh lập tức kịp phản ứng: "Ngươi định kéo dài, từng chút một tằm ăn rỗi mà thôn tính họ."

Một mặt thả tín hiệu đàm hòa, để địch nhân đã không còn đủ sức ôm hi vọng may mắn, chừa lại đường cho họ tiêu hao nội bộ, một mặt thỉnh thoảng đưa ra yêu cầu quá đáng, tạo tranh chấp khu vực trong phạm vi nhỏ, chậm rãi bức lui chiến tuyến quân địch, tiện thể luyện binh trong chiến đấu, đợi đến khi thời cơ chín muồi, phương Bắc hoàn toàn chuẩn bị sẵn sàng, thủy quân Giang Bắc trẻ tuổi thành thục, lại tiến về Nam.

Cố Quân "Ừm" một tiếng, mặc Trường Canh kéo tay mình vào soái trướng, lau mặt y cười nói: "Điện hạ, bẩn hết cả mặt rồi."

Trường Canh bị sự chăm sóc bất ngờ của đối phương làm nhũn hết một nửa xương cốt, song lập tức lại cảnh tỉnh, cứ cảm thấy thái độ ôn nhu như vậy chắc chắn không có chuyện tốt.

Quả nhiên, Cố Quân ngồi bên cạnh, cầm ngược tay Trường Canh, vuốt ve khi có khi không, một lúc sau nói: "Còn có chuyện này."

Trường Canh nhướng một bên mày rõ cao, mặt không biểu cảm cúi đầu nhìn Cố Quân.

Cố Quân một tay nâng bàn tay Trường Canh, tay còn lại đặt trên mu bàn tay y, cúi đầu đặt một nụ hôn lên ngón tay nứt một đường: "Ta định kéo dài phía họ, đi đánh phương Bắc trước."

Trường Canh: "Ngươi muốn chạy về Bắc cương?"

Cố Quân gật đầu.

Trường Canh: "Chừng nào?"

Cố Quân: "... Rất nhanh."

"Rất nhanh" mà Cố Quân nói, cơ bản là căn cứ động hướng của quân địch Tây Dương và tình hình tổn thất của thủy quân Giang Bắc, tùy thời khởi hành, nếu hôm nay y cảm thấy tình trạng của trú địa Giang Bắc tạm được, thì đi luôn trong đêm, còn việc gì cần y điều chỉnh điều động, thì phát lệnh trong đêm, sáng sớm hôm sau đi.

Trường Canh: "Sau đó làm thế nào, chạy qua chạy lại hai nơi à?"

Cố Quân không lên tiếng, xem như thừa nhận.

Trong lòng y bỗng nhiên cảm thấy rất có lỗi với Trường Canh, năm ấy trên đường đi Tây Vực, Cố Quân từng thề thốt với Trần Khinh Nhứ, dù tương lai Trường Canh điên rồi, y cũng sẽ quản đến cùng, nhưng gần đây y luôn ẩn ẩn lo lắng mình tương lai sẽ không đủ sức. Cố Quân không sợ sinh lão bệnh tử, linh đường của Chung lão tướng quân ở ngay bên, hiện giờ tính ra, bên cạnh y vô luận trưởng bối thiện ý hay ác ý, những người từng dạy y từng hại y đó, hầu như đều đi hết, liền biết anh hùng cái thế hơn cũng trốn không thoát chuyện này, con người không cần phải đọ sức với chính mình như vậy, y chỉ là sợ mình không thể mãi che chở tiểu phong tử này, ngược lại thêm phiền thêm trói buộc.

Xin lỗi hàm súc thâm trầm của Cố Quân khiến Trường Canh nhất thời không biết làm sao, mới đầu chưa kịp phản ứng, một lúc lâu mới nhận thấy lòng mình đã bị người ta khoét một lỗ, máu trong tim tràn ra khắp nơi không mục đích, chẳng sao tụ lại được.

Y đau lòng khó nén, đành phải cố gắng cười vui vẻ.

"Được," Trường Canh dùng giọng điệu nhẹ nhàng lại không quá đáng nói, "Ngươi yên tâm đi, thấy bản vẽ ta kẹp trong quần áo của ngươi chưa? Rất nhanh – chờ ngươi trị xong người man, không chừng ray xe hơi nước bên ta cũng làm xong rồi đấy, tin không?"

Rất nhanh, y có thể đẩy lên một Đại Lương tứ hải phục tùng, có lẽ khi đó Huyền Thiết tam doanh chỉ cần canh ở cổng con đường tơ lụa giữ gìn trật tự thương mại, hoặc tập thể khai hoang ở biên cảnh, Đại tướng quân y muốn ở biên cảnh uống bồ đào mỹ tửu cũng được, muốn trở về kinh thành cãi nhau với chim cũng thế, tất cả đều có thể thong dong, chẳng cần bôn ba khắp nơi, cũng chẳng cần lại có nhiều điều bất đắc dĩ như vậy nữa.

Cố Quân bất lực nói: "Sao mới đánh một chiến dịch nhỏ đã thở hồng hộc rồi, ngươi nên nghĩ cách quay về Sở quân cơ trước đi."

Trường Canh khom người xuống: "Nếu ta làm được, ngươi thưởng gì cho ta?"

Cố Quân hào phóng hỏi: "Ngươi muốn cái gì?"

Trường Canh nghĩ một chút, ghé vào tai Cố Quân thầm thì câu gì đó.

Không biết Nhạn vương điện hạ lén lút mất liêm sỉ ra sao, Cố Quân là một kẻ dở điếc cũng nghe không lọt, cười mắng một tiếng: "Cút!"

Câu này đập thẳng vào mặt Diêu đại nhân đến báo cáo tình hình sau cuộc chiến, Diêu Trấn hoang mang hỏi: "Đại soái bảo hạ quan cút đi đâu?"

Trường Canh thản nhiên chắp tay sau lưng, vẻ mặt cao thâm khó lường thẳng lưng lên, đứng thành một gốc danh hoa tôn quý dè dặt.

Song khi Cố Quân chuyên tâm nói chuyện với Diêu Trấn, y mới thu lại nụ cười cố ý giả vờ kia, thần sắc từ từ nghiêm trọng hẳn.

"Thời gian của ta sắp không đủ dùng rồi." Trường Canh im lặng nghĩ.

Cố Quân rốt cuộc ở lại tới ngày hôm sau, cùng Trường Canh thắp một nén nhang cho Chung Thiền tướng quân, lại ăn một bát cháo nóng Nhạn vương tự mình nấu trong soái trướng, theo thường lệ biểu đạt bất mãn với mấy thứ xanh mơn mởn trong đó, tuyên bố chí hướng "không định làm cừu", cũng theo thường lệ bị phớt lờ, để không thành cừu, đành phải nuốt sống không nhai.

Rồi sáng sớm hôm sau y liền khởi hành đến Bắc cương.

Cố Quân thấp thỏm chạy tới Bắc cương, vui mừng phát hiện Thẩm Dịch quả nhiên chưa đứt bóng, chống lại người man điên cuồng, thực sự bảo vệ được biên cảnh phương Bắc.

Gia Lai Huỳnh Hoặc càng điên cuồng, ngày tàn của mười tám bộ lạc càng tới gần, quả như Cố Quân dự liệu, sau khi ác chiến bốn năm ngày, thế công đến từ người man rõ ràng chậm lại, một cứ điểm bị Thái tiểu tướng quân thừa thắng truy kích quá trớn san bằng, đi vào phát hiện bên trong chỉ còn lại tí tẹo tử lưu kim chưa kịp đốt hết, người thì đã rút lui.

Tào Xuân Hoa nước miếng tung tóe khoa tay múa chân nói: "Gia Lai có thể động thủ, cho thấy thế lực phản loạn lúc trước bị hắn quét sạch hoặc chí ít đã áp chế, nhưng hắn còn muốn đánh nhau, còn phải dùng người, thì không thể giết sạch quân lính thuộc hạ thân với đại bộ tộc khác, cùng lắm là xử trí mấy đầu mục, giết một răn trăm, thế lực từng phản loạn không chừng còn có thể khơi lại đống tro tàn."

Thẩm Dịch: "Phải có cơ hội."

"Không sai," Tào Xuân Hoa nói, "Thái tướng quân hôm đó nói với ta, khoảng thời gian này trước đây đã có chuyện người man lén dùng tử lưu kim đổi vật tư, Thái tướng quân lúc ấy lưu tâm, âm thầm theo dõi giao dịch, ghi chép mỗi một khoản vào hồ sơ, kẻ hay tới thậm chí vẽ tranh lại, bữa trước ta xem thử, thật sự đã thấy một người quen."

Nói đoạn hắn lấy trong tay áo ra một bức tranh cuộn đơn giản, trải lên chiếc bàn con, chỉ kẻ trong tranh nói: "Người này là một nô lệ quản ngựa dưới trướng Gia Lai Huỳnh Hoặc, ta biết hắn, là người của đại tổng quản, bình thường toàn cậy có đại tổng quản để tác oai tác quái... Chắc hẳn nhiều năm chiến tranh dân chúng lầm than, bất mãn với Gia Lai không chỉ là dã tâm gia của mười tám bộ lạc, ta cảm thấy trong đây có trò để lợi dụng."

Cố Quân hỏi: "Ngươi nắm chắc bao nhiêu?"

Tào Xuân Hoa ném mị nhãn tới, lưỡi xoắn lại nói: "Thế phải xem Đại soái chuẩn bị cho ta bao nhiêu vốn."

Cố Quân nghĩ bụng: "Nếu đứa trẻ này từ nhỏ ở bên cạnh ta nhiều hơn, ta nhất định phải đánh bay những tật xấu này."

Để mắt không thấy lòng khỏi phiền, y xua tay cho Tào Xuân Hoa õng ẹo cút đi.

Thẩm Dịch còn chưa kịp hỏi an bài hành động cụ thể thì thân binh đã tới báo rằng Trần Khinh Nhứ đến.

Cố Quân tắc lưỡi lấy làm kỳ nhìn tên Thẩm Dịch từ ngả nghiêng biến thành ngồi ngay ngắn, mặt căng thẳng như lâm đại địch, đến cả diện thánh cũng chưa nghiêm túc như thế.

Trần Khinh Nhứ đến báo cho họ một tiếng, nàng định đi cùng Tào Xuân Hoa, tìm kiếm bí mật trong vu độc của thần nữ ở chỗ Gia Lai Huỳnh Hoặc.

Thẩm Dịch vừa nghe liền quýnh lên, vội nháy mắt ra hiệu cho Cố Quân, Cố Quân nhìn trời ngó đất, làm bộ không biết gì hết – quen nhau nhiều năm, y cũng coi như biết chút chút về tính tình Trần gia, Trần cô nương người ta chỉ theo phép lịch sự tới báo một câu, không phải đến trưng cầu ý kiến.

Cố Quân thời khắc mấu chốt trông cậy không được, Thẩm Dịch đành phải dùng ngón võ mồm đã tê liệt một nửa tự mình ra trận: "Thần y như Trần cô nương là rất quý, vốn ngay cả tiền tuyến cũng không nên ra, lẻn vào quân địch, không khỏi như trò đùa – vạn nhất lại xảy ra chuyện gì... phải chứ, Đại soái?"

Cố Quân đành phải nói: "Ừ, đúng, Quý Bình nói có lý."

Trần Khinh Nhứ nói: "Lần này ta lên phương Bắc, vốn là để lẻn vào soái trướng của Gia Lai Huỳnh Hoặc tìm bí thuật vu độc thất truyền, nếu có thể nhân tiện giúp đỡ một chút chẳng phải càng tốt? Việc này ta tự có chừng mực, đa tạ tướng quân quan tâm."

Cố Quân thở dài: "Làm phiền cô nương bôn ba, lòng ta thật sự rất áy náy."

Vừa nhắc như vậy, Trần Khinh Nhứ mới nhớ tới phong thư chất vấn của Trường Canh còn đặt trên bàn mình, mặt xanh xám nói: "Đại soái không cần đâu, thỉnh thoảng ở trước mặt Nhạn vương điện hạ nhắc tới nỗi khổ trong lòng ta là được."

Thẩm Dịch: "..."

Mới nói mình có lý xong sao giờ lại "làm phiền bôn ba" rồi?

Tên khốn họ Cố vĩnh viễn không thể giữ vững lập trường từ đầu đến cuối!

Thẩm Dịch vắt hết óc tìm các loại lý do – trong trận địa địch nguy hiểm?

Với thân thủ và đảm sắc dám xông vào thiên lao dưới sự canh gác nghiêm ngặt của Bắc đại doanh của Trần cô nương, lý do này ít nhiều không nói ra miệng được.

Doanh thương binh cần cô?

Người ta bằng lòng ở lại giúp đỡ là tình cảm, không bằng lòng cũng là hợp tình hợp lý – doanh thương binh có quân y của mình, hầu hết là băng bó cắt cưa đơn giản, cũng là làm nhục thần y Trần thị.

Trần Khinh Nhứ cũng không phải là người hay nói, Thẩm Dịch tắc tị, nàng liền cảm thấy mình đã nói xong, chắp tay quay người chuẩn bị đi.

"Trần cô nương!" Thẩm Dịch hoảng hốt đứng dậy, suýt nữa đụng đổ cái bàn trước mặt.

Cố Quân im lặng đưa tay che mặt.

Thẩm Dịch thiên ngôn vạn ngữ xếp đội hoàn tất trong ngực, chờ thao thao bất tuyệt giãi bày nỗi lòng, nào ngờ ra đến môi, miệng cống cuối dù chết dù sống không chịu mở, đành phải kẹt hết trong họng, sau cùng khô khan phun ra một câu nửa chua nửa chát: "Trần cô nương là vì Nhạn vương à?"

Cố Quân: "..."

Coi là mình chết rồi chắc?

Thẩm Dịch vừa thốt ra khỏi miệng cũng hận không thể tự vả mình – thật sự không giống tiếng người tí nào.

May mà Trần Khinh Nhứ không hay nghĩ nhiều, nghe vậy chỉ nghiêm trang trả lời: "Nhạn vương đã cầm Lâm Uyên mộc bài ta, thân gánh trọng trách và quyền cao chức trọng, việc giúp y trừ Ô Nhĩ Cốt Trần gia ta cũng không để đùn đẩy cho ai, vả lại bí thuật vu độc của mười tám bộ lạc vốn không giao lưu với Trung Nguyên, bao nhiêu kì độc tìm không ra giải dược, bao nhiêu biện pháp trị bệnh cứu người cũng chìm trong đống giấy lộn, ta đã có cơ duyên này, thì chung quy phải tận lực một phần, dẫu ngày sau có thể lưu truyền lại chút ít, cũng coi như không uổng công."

Thẩm Dịch nghe mà ngực lạnh ngắt, giữa người từ sáng đến tối chỉ muốn có vợ con bên cạnh như mình với vị Trần cô nương lo nghĩ cho muôn đời này, quả thực cách xa như từ kinh thành đến Bắc cương vậy.

Giữa gia phong ông bố sớm trí sĩ chỉ biết chơi nhà mình truyền lại và Trần gia bảo vệ Lâm Uyên mộc bài nhiều thế hệ lánh đời, cách xa như từ Đại Lương đến Tây Dương vậy.

Huyền ưng xả khói trắng bay mãi cũng chẳng tới nổi!

Thẩm Dịch nhìn khuôn mặt trắng nõn của nàng, không còn lời nào để nói, thế là lấy từ trong lòng ra một trái đạn tín hiệu xinh xắn, đưa cho Trần Khinh Nhứ: "Thứ này là Linh Xu viện gần đây đưa tới, khỏi cần dùng lửa đốt, ném lên không trung là được, chỉ cần lên đủ cao sẽ tự cháy, ngoài trăm dặm cũng nhìn thấy, vạn nhất xảy ra chuyện gì... ta... cô..."

Nói năng lộn xộn như thế, làm Cố Quân nghe mà đau răng.

Trần Khinh Nhứ bị nhét đạn tín hiệu nho nhỏ vẫn còn hơi ấm vào tay, dù nàng không chú ý hơn, lúc này cũng cảm giác được điều gì đó, nhìn Thẩm Dịch bằng một ánh mắt khó tả.

Thẩm Dịch không dám nhìn, chỉ muốn đào hố tự chôn mình, vội vàng tìm cớ cáo từ Cố Quân, bỏ chạy như bay.

Trần Khinh Nhứ: "..."

Cố Quân chậm rãi đứng dậy, nghiêm túc nói với Trần Khinh Nhứ: "Nếu người man có dị động, các cô không được liều lĩnh, hãy bắn tín hiệu, bên phía chúng ta lập tức có người tiếp ứng, chú ý an toàn... Đợi đến khi khải hoàn trở về, kêu Thẩm Quý Bình hát một bài nghe chơi."

Nghe nửa câu trước Trần Khinh Nhứ còn gật đầu theo, đoạn sau càng nghe càng kỳ cục: "Hát bài gì?"

Cố soái chết cũng không đứng đắn cười tít mắt nói: "Việt nhân ca."

Đêm ấy, Trần Khinh Nhứ và Tào Xuân Hoa vượt qua phòng tuyến Bắc man lơi lỏng, lặng lẽ tiến vào đại đô trung tâm mười tám bộ lạc.

Nói là "đại đô", kỳ thực chỉ là vùng bộ lạc tụ cư hơi náo nhiệt, ngoại trừ thi thoảng có võ sĩ man tộc đằng đằng sát khí qua lại, bình dân ven đường hầu hết áo quần tả tơi.

Trẻ con chết đói không ai nhặt xác la liệt ven đường, bị chó hoang thèm nhỏ dãi, đàn bà khuôn mặt dại ra chần chừ bên cạnh chốc lát, nhận mệnh, như xác chết biết đi mà đứng dậy rời khỏi.

Vu sư trọng giáp uy nghiêm quanh quẩn trong lều trại quý tộc hoa mỹ, thương ưng và ưng giáp cùng lượn vòng trên không, khắp nơi ngập ngụa mùi xác thối, mùi máu tanh tưởi... lẫn một chút mùi tử lưu kim thoang thoảng không dễ phát hiện.

Dưới lá cờ Lang vương chính giữa, một nam tử vóc dáng trung bình bưng một bát thuốc đi vào chỗ Lang vương ở, thị vệ hai bên cung kính tề giọng chào hỏi: "Đại tổng quản."

Đại tổng quản mí mắt cũng không nâng lên mà "Ừm" một tiếng, bưng thuốc đi vào lều Lang vương.

Một thanh niên tiều tụy ra đón, nhận bát thuốc: "Để ta."

Đại tổng quản nhìn thần sắc hắn hỏi: "Thế tử, vương ta hôm nay thế nào?"

"Vẫn vậy." Thế tử lắc đầu, cùng hắn đi vào.

Chỉ thấy tấm chăn chiên dày cộp tách ra hai bên, để mặt trời lọt vào, dưới ánh mặt trời có một chiếc xe lăn gắn hộp vàng, một "bộ xương" cao to ngồi trên đó, nghe thấy động tĩnh, bộ xương kia chậm rãi quay xe lăn lại hướng mặt về người tới, hơi hé mắt ra.

Mắt hắn còn chưa lòa, sáng đến kinh người, tinh khí thần ngưng tụ cả trong đôi mắt hung ác này.

Chính là Gia Lai Huỳnh Hoặc.

Năm ngoái, Lang vương Gia Lai Huỳnh Hoặc bị bệnh nặng, đột nhiên trúng gió hôn mê, sau khi tỉnh lại nói cũng không xong, một độ nằm liệt giường. Mấy thủ lĩnh bộ lạc của liên minh mười tám bộ lạc cho rằng hắn xong đời rồi, bèn liên thủ phát động chính biến, giam lỏng thế tử, đẩy nhị vương tử yếu đuối thượng vị, lại hấp tấp phái người đi đàm hòa lấy lòng Đại Lương.

Nhưng ai ngờ Lang vương ngay cả thị vệ trưởng bên cạnh cũng "phản bội" vậy mà còn có thể vùng dậy, trước tiên âm thầm lệnh cho thị vệ trưởng trà trộn vào sứ đoàn đàm hòa gây ra vụ biên cảnh Đại Lương Bắc cương, không ai biết trong tay hắn còn một loạt trọng giáp tiên phong năm xưa người Tây Dương đưa tới làm át chủ bài, lợi dụng khi mấy thủ lĩnh bộ lạc sứt đầu mẻ trán ứng phó Đại Lương mà âm thầm trù tính, nhất cử bắt gọn phản đảng, huyết tẩy liên minh Lang vương kỳ, sau đó ngang nhiên tụ tập mười vạn cân tử lưu kim phản công Đại Lương.

Đại tổng quản cúi đầu không dám nhìn hắn, tất cung tất kính nghe Gia Lai Huỳnh Hoặc nói chuyện với thế tử – nam nhân này quá đáng sợ, mỗi sợi lông đều tỏa ra mùi máu tươi.

Đột nhiên, Gia Lai ném cả bát thuốc trong tay vào người thế tử: "Phế vật!"

Đại tổng quản run lẩy bẩy.

Thế tử thận trọng nói: "Phụ thân, vật tư thật sự không đủ nữa, năm nay người già và trẻ nhỏ trong các bộ lạc đã chết đói quá nửa, khắp nơi đều là thi thể không kịp thu dọn..."

Gia Lai quát: "Đồ vô dụng, tử lưu kim không đủ thì đi khai thác, vật tư không đủ thì đi cướp Trung Nguyên! Vẫn không đủ thì bảo đám quý tộc ăn trên ngồi trốc đó quyên!"

Đầu lưỡi hắn còn chưa lưu loát lắm, lúc gầm lên hơi cứng, thế tử đỏ hoe mắt nói: "Phụ thân, chúng ta không vượt qua được Huyền Thiết doanh ở biên cảnh Trung Nguyên, các quý tộc đã chẳng quyên nổi cái gì nữa, họ..."

Lời hắn nói lại lần nữa bị Gia Lai Huỳnh Hoặc quát tháo cắt ngang, tin tức thủy quân Tây Dương ở phía Nam khai chiến với Đại Lương đã truyền tới, song tin tức dù sao cũng có cách trở, chuyện thủy quân đánh lén một đêm không thành chiến bại thối lui thì còn đi trên đường, Gia Lai Huỳnh Hoặc tin chắc sau khi nam bắc vây kín, một ngày ngàn dặm chỉ là vấn đề thời gian.

Hắn quả thật vẫn hung ác như xưa, nhưng chỉ sợ hung ác đến hơi điên rồi.

Đại tổng quản đứng xem Lang vương đánh mắng thế tử một trận, cũng liên đới trúng một cái nắp chén bầm cả trán, lúc này mới im lặng lui ra ngoài, đi thẳng về lều của mình – mấy đại quý tộc và khách quý tới từ Trung Nguyên đang ở đó chờ tin tức của hắn.

Đại tổng quản càng đi càng nhanh, cuối cùng cơ hồ chạy chậm về lều của mình, dư âm đốt tử lưu kim đã qua, Bắc cương vẫn rét mướt, đại tổng quản lại chạy vã mồ hôi, không thể không vừa đi vừa lau, lau ướt cả tay áo.

Hắn nặng nề tâm sự mà cho nữ nô định tiến lên hầu hạ lui đi, ra hiệu cho nàng không được quấy rầy, bản thân cất bước đi vào căn lều ba tầng cửa.

Đại tổng quản thận trọng tra xét bốn phía một lần, xác định quanh đây không còn ai, bấy giờ mới đóng từng cánh cửa, thở phào nhẹ nhõm, đi vào trong.

Đúng lúc này, trong nhà đột nhiên truyền ra tiếng người cao vút: "Thế nào?"

Đại tổng quản bị bất ngờ, ở trong nhà mình mà sợ run lên, tứ chi hơi co giật, trợn mắt đứng ở cửa, trong ba bốn hơi thở, hắn cảm thấy tim sắp ngừng đập rồi.

Cho đến khi một lão phụ nhân quý tộc quen biết từ trong căn phòng thiếu ánh sáng lộ ra nửa khuôn mặt, hắn mới hít vào một hơi, thần hồn trở về vị trí cũ, nghi thần nghi quỷ khoát tay, cùng lão phụ nhân kia đi vào nhà.

Bắc địa vốn là ngày ngắn đêm dài, chỗ ở lấy ánh sáng đều rất tạm, nhưng người trong phòng này lại đóng hết cửa sổ, tối thui ngồi vây quanh một ngọn đèn măng-sông cũ kỹ. Mấy nhà có uy tín danh dự trong liên minh mười tám bộ lạc phái đại biểu đến, cách những người này vài chỗ ngồi là hai người Đại Lương một nam một nữ.

Hai người kia cho dù cách ăn vận đều theo mười tám bộ lạc, từ trên tướng mạo cũng có thể nhận ra thân phận người Đại Lương, tướng của người ở vùng man hoang khổ hàn dẫu là quý tộc thì cũng thấy được sự thô kệch khi cuộc sống không mấy dễ chịu.

Hai người này chính là Tào Xuân Hoa và Trần Khinh Nhứ, cả hai hợp kế một phen, không hề cố gắng che giấu thân phận, sau khi qua biên giới liền dùng mấy tuyến trước kia Tào Xuân Hoa lưu lại liên hệ với một số quý tộc của mười tám bộ lạc, xưng mình là sứ giả đình chiến do trú quân Bắc cương Đại Lương phái tới, vừa lo lót trên dưới, vừa thỉnh cầu họ dẫn tiến Lang vương Gia Lai.

Hai người ra tay rất hào phóng, liên tục tặng hậu lễ, nhưng càng hào phóng thì Tào Xuân Hoa càng biết là sẽ không có ai dẫn tiến họ – hiện tại trong mắt đám quý tộc man tộc này, chỉ sợ hai người đã thành cây rụng tiền, mà một khi bị kẻ điên Gia Lai Huỳnh Hoặc kia phát hiện, cây rụng tiền rất có thể sẽ bị nhổ tận gốc.

Hai người vừa "bức thiết" bày tỏ nguyện vọng tự tìm đường chết là muốn gặp Gia Lai Huỳnh Hoặc, vừa chu toàn trong mười tám bộ lạc tâm tư bất ổn này, bằng vào miệng lưỡi gặp người nói tiếng người, gặp quỷ nói tiếng quỷ của Tào Xuân Hoa, chưa đến một tháng, các quý tộc này đã dám ngồi vào bàn, âm thầm nghị luận Lang vương.

Cùng lúc đó, Trần Khinh Nhứ sau vài lần nửa đêm dò xét đã thăm dò được đại khái tình hình thủ vệ của lều Lang vương, hiện giờ sắp sửa thu lưới.

Có người rót một bát rượu sữa ngựa cho đại tổng quản từ bên ngoài vào, đại tổng quản hai tay nhận lấy, tay không ngừng run rẩy, một hơi dốc cạn, bấy giờ mới cảm thấy mình đã sống lại.

Hắn xụi lơ ngồi bên kia, hạ giọng: "Đừng nói nữa, ngay cả thế tử cũng bị đánh, Lang vương đã quyết tâm, vẫn muốn động thủ."

Tào Xuân Hoa vẻ mặt ngây thơ hỏi: "Triều đình đã phái sứ giả về phương Nam, bên đó hiện giờ đã đình chiến, chúng ta tái chiến cũng chẳng được ích lợi gì, đại tổng quản không bẩm việc này lên à?"

Đại tổng quản thật sự có nỗi khổ trong lòng khó mở miệng, cả người như rò nước, giơ tay lau mồ hôi nóng mướt đầu: "Tiểu huynh đệ, nếu hôm nay ta nói chuyện này, chỉ sợ chư vị đợi không được ta đâu."

Cả đám quý tộc mười tám bộ lạc đều trầm mặc, Tào Xuân Hoa thì lắc đầu, chậm rãi nói: "Thế thì hết cách rồi, ta nói thật vậy, hôm nay để mọi người chịu liên lụy tụ lại, là vì gần đây nhận được thư từ chỗ Cố soái chúng ta, Cố soái chỉ trích hai ta làm việc không được, nói nếu còn không thấy thành quả, y sẽ phát binh tấn công, hai ta thì không có gì, cùng lắm là quay về nghe giáo huấn, phạt hai tháng lương bổng, nhưng ta biết chư vị chắc hẳn đều không muốn khai chiến."

Mặt đại tổng quản nhăn thành một trái mướp đắng cỡ bự.

Lúc này, Trần Khinh Nhứ mở miệng: "Đi thôi, chúng ta đã cố hết sức rồi."

Trần Khinh Nhứ có một loại khí chất không cho phép nghi ngờ, không mở miệng thì thôi, hễ mở miệng là có thể giải quyết dứt khoát; nghe vậy, Tào Xuân Hoa còn chưa kịp phản ứng, đám quý tộc Bắc man đã quýnh lên, lão phụ nhân ngồi ở thủ vị hoảng hốt níu tay áo nàng: "Khoan đã!"

Trần Khinh Nhứ lạnh lùng nhìn bà ta một cái.

Nếp nhăn trên mặt lão phụ nhân vặn vẹo ra vẻ hiền lành như vu bà, cười xòa nói: "Cô nương, cho bọn ta thêm vài ngày nghĩ cách đi, vương ta hơi bảo thủ, nhưng ta tốt xấu gì cũng là trưởng bối của y, để ta đi nói thử xem, các ngươi đừng vội đi."

"Phu nhân, không phải chúng ta không biết lý lẽ," Tào Xuân Hoa thở ngắn than dài nói, "Chúng ta cũng là phụng mệnh làm việc, không dám tự chủ trương."

Trần Khinh Nhứ rút tay áo ra, thần sắc thản nhiên nói: "Nếu Lang vương vì thù riêng, khăng khăng muốn đánh tới cùng, phu nhân đi nói chắc cũng chẳng ích gì, ngược lại dẫn lửa đốt mình, ta thấy không cần đâu."

Câu này chọc trúng tim mọi người ở đây.

Thời gian trước mấy thủ lĩnh bộ lạc liên thủ phản loạn, mượn chuyện Gia Lai Huỳnh Hoặc năm xưa quan hệ thân thiết với thần nữ làm cớ, thần nữ chết hơn hai mươi năm rồi, rốt cuộc có quan hệ gì với Gia Lai mà không thể cho ai biết hay không, đến nay đã chẳng thể nào đối chứng, song mầm nghi ngờ một khi gieo xuống, nào nhổ dễ như vậy?

Gia Lai Huỳnh Hoặc vẫn lấy "huyết hải thâm thù" và "nhục lớn" để kích động tộc nhân bán mạng cho hắn, nhưng "vết thương khỏi liền hết đau" là liệt căn của phàm nhân, có lẽ hắn có thể kích động nhiệt huyết nhất thời, song đợi đến khi vật tư khó mà tiếp tục, ăn no bụng cũng thành vấn đề, "mối nhục lớn" hơn hai mươi năm trước chẳng lẽ có thể đau điếng người hơn con cái chết đói?

Một người nếu đã chết nhiều năm mà còn luẩn quẩn xung quanh bộ lạc như u linh, mang đến không phải chiến tranh thì là đổ máu, vậy nàng rốt cuộc là thần nữ thuần khiết của trường sinh thiên, hay là yêu ma quỷ quái lừa đời lấy tiếng?

Trần Khinh Nhứ nói xong, không để ý tới chúng nhân Bắc man thần sắc khác nhau, hời hợt gật đầu, cùng Tào Xuân Hoa một trước một sau đi ra ngoài.

Thấy họ kiên quyết không chịu châm chước, lão phụ nhân Bắc man vừa nãy đột nhiên hạ quyết tâm, dộng cây gậy xuống đất: "Bắt đầu từ bây giờ, lấy hai ngày làm hạn, khẩn cầu quý sứ cho chúng ta thêm hai ngày, lão thái bà ta sống hơn bảy mươi năm, xin lấy tuổi ra đảm bảo, hai hôm sau nhất định cho các ngươi một lời ăn nói!"

Lão phụ nhân này ở trong tộc có bối phận rất cao, Lang vương cũng phải gọi một tiếng cô cô, bà ta vừa mở miệng, nhất thời không ai công khai phản đối, chỉ mình đại tổng quản có nỗi khổ trong lòng mấp máy môi, bị lão phụ nhân liếc một cái sắc lẻm.

Tào Xuân Hoa và Trần Khinh Nhứ nhìn nhau một cái, nhíu mày cả buổi như rất khó xử, rốt cuộc nói một cách không tình nguyện: "Thế... được rồi, đã là hứa hẹn của 'Hồng Hà' phu nhân, chúng ta cũng đành miễn cưỡng thử một lần, chờ tin tốt của bà, cáo từ."

Đợi hai người ngoài rời đi từ mật đạo ở cửa sau, quý tộc Bắc man trong phòng lúc này mới om sòm lên.

Đại tổng quản khóc không ra nước mắt nói với Hồng Hà phu nhân: "Tam bà bà, ban nãy bà không nghe rõ ta nói gì à? Vương quyết tâm phải tiếp tục trận chiến này, ngay cả thế tử cũng đánh, bà xem đầu ta đây này... việc này... vương nói là tử lưu kim không có thì đi khai thác, vật tư không đủ thì để chư vị móc tiền túi!"

Hồng Hà phu nhân chưa kịp nói gì, một nam tử trung niên chợt nổi giận: "Sao hắn vẫn còn mơ Xuân Thu đại mộng? Muốn đánh qua phòng tuyến Huyền Thiết doanh tiến công Trung Nguyên hay muốn chờ đám khỉ Tây Dương tặng đồ ăn thức uống cho? Chúng ta chuẩn bị hai mươi năm, được mười vạn dũng sĩ, hỏa cơ cương giáp đếm không xuể, lương khô và thịt khô đầy ắp, còn liên hợp đông tây nam bắc tứ phương đồng thời hành động, cũng chưa thể chân chính đặt chân vào Trung Nguyên! Hắn bây giờ còn nằm mơ như vậy, là dựa vào cái gì? Người chết đói đầy đường à? Ta thấy rút khô cốt tủy của chúng ta cũng chẳng bõ nhét răng hắn đâu!"

Giọng hắn như gào bài sơn ca lúc chăn dê, vang vọng không che giấu, xung quanh có mấy người lập tức hoảng sợ ra mặt, nhao nhao khuyên người trung niên này thận trọng.

Người trung niên nổi giận đùng đùng ngồi xuống, cười gằn nói: "Tam bà bà, ta thấy bà lần này không giữ được lời hứa rồi, đừng nói bà bỏ thể diện đi cậy già lên mặt, cho dù bà gào khóc đòi thắt cổ, kẻ điên Gia Lai kia cũng chẳng thèm để ý đâu."

Hồng Hà phu nhân nâng mí mắt khô quắt queo, dộng mạnh gậy: "Câm miệng, đồ vô dụng, ở trong phòng kêu la có tác dụng gì!"

Người trung niên phẫn nộ hừ một tiếng.

Hồng Hà phu nhân thần sắc bất động, trên mu bàn tay khô đét như móng gà lại lộ ra vài đường gân như rễ cây, kế đó bà ta chậm rãi mở miệng: "Lang vương lần trước giữ lại một tay, xử lý mấy thủ lĩnh bộ lạc, các ngươi nói, hắn còn tay thứ hai không?"

Bên trong lặng ngắt như tờ, đều bị sự lớn mật thạch phá thiên kinh của lão thái bà này dọa, rất lâu đại tổng quản mới run rẩy nói: "Tam, tam bà bà, máu dưới lang kì... còn chưa khô đâu."

"Phản kháng mà chết cũng là chết, chậm rãi bị liên lụy đến chết cũng là chết, kết quả có gì khác biệt?" Giọng nói khàn khàn của lão phu nhân vang lên giữa sự yên tĩnh, "Chảy trong thân thể tổ tông các ngươi chính là máu lang, hiện giờ đều bị thuần hóa thành chó rồi à? Hay các ngươi thà nhìn vợ con già trẻ chết đói, chết trận, cũng muốn sống tạm bợ thêm mấy tháng?"

Bà ta chậm rãi ngẩng đầu lên, đôi mắt hơi lòa đảo qua các quý tộc man tộc ôm rắp tâm riêng, thấy họ có người vẻ mặt lẫm liệt, có người hơi suy tư, có người sắc mặt do dự, có người nơm nớp lo sợ, liền cười khẩy một tiếng, nói: "Ta biết chư vị ở đây không phải một lòng, một số người có lẽ đang định ra khỏi phòng sẽ bán đứng lão bà tử này cho Gia Lai. Ta nói thật nhé, đám hèn nhát, nếu lần này bọn ta thành công, cũng coi như cứu mạng các ngươi, không hại gì ngươi, thất bại thì cũng chẳng liên lụy đến đám đứng ngoài cuộc – Trái lại lũ chuột nhắt muốn ra ngoài mật báo, các ngươi cảm thấy Gia Lai sát tinh xui xẻo kia, sẽ niệm chỗ tốt của các ngươi, hay cảm thấy ngươi quá thân cận với đám lão già chán sống này, dáng vẻ khả nghi?"

Người trung niên ban nãy lòng đầy căm phẫn nhảy lên nói: "Nói đúng lắm, tam bà bà, ta theo bà!"

Những năm qua, các quý tộc của mười tám bộ lạc bị Gia Lai Huỳnh Hoặc áp bức quá mức, họ oán hận hắn, cũng sợ hãi chính sách chuyên chế của hắn, lúc này người đầu lĩnh vừa đứng ra, tức thì có không ít kẻ nghĩa phẫn tràn lòng phụ họa theo.

Hồng Hà phu nhân chuyển hướng sang đại tổng quản: "Việc này chúng ta nghĩ nát nước cũng vô dụng, còn phải dựa vào đại tổng quản."

Đại tổng quản trước đám người nhìn chòng chọc, ngồi đờ ra chốc lát như muốn bốc hơi, làm cả căn phòng không thấy ánh dương mù mịt hơi nước, rốt cuộc cắn răng vỗ đùi: "Tam bà bà phân phó đi!"

Khi quốc gia nguy vong, trong cách cục quyền lực tất có xung đột nhuộm máu – Vô luận là Đại Lương hay Thiên Lang mười tám bộ lạc... thậm chí là người Tây Dương sa chân ở Giang Nam, tất cả đều trốn không thoát hoàn cảnh cùng mà biến này. Trong đây có mười phần hung hiểm, trăm phần tế ngộ, tiến một bước là gia quốc thịnh vượng, rớt lại một bước biết đâu là vong tộc diệt chủng.

Lúc này, một con sóng ngầm mãnh liệt lan ra mười tám bộ lạc Bắc man, các quý tộc danh gia tự mình đi tổ chức thế lực tạm không đề cập tới.

Đêm hôm sau, một bóng đen như chim én nhảy lên tháp theo dõi của mười tám bộ lạc – tháp này còn là do người Tây Dương bỏ vốn xây dựng, mới đầu cũng là người Tây Dương ở đây phụ trách giữ gìn sửa chữa, hiện giờ người Tây Dương ốc không lo nổi mình ốc, hầu hết hỏa cơ trên tháp theo dõi đã hết dùng được, chỉ còn lại tác dụng bài trí.

Thủ vệ trên tháp đã bị im ắng hạ gục, người nhảy lên tháp theo dõi lộ mặt dưới ánh trăng, đó lại là một gia nô nho nhỏ trầm mặc kiệm lời dưới trướng đại tổng quản, hắn nhanh nhẹn đi thẳng lên đỉnh tháp, bên trên có người chờ đợi từ lâu.

"Gia nô" đứng lại, lau mặt, lộ ra một đóa Tào Xuân Hoa thiên biến vạn hóa.

Tào Xuân Hoa nói: "Xong rồi, đại tổng quản đã hạ an thần vào thuốc của Gia Lai Huỳnh Hoặc."

Trần Khinh Nhứ: "Không định trực tiếp độc chết hắn?"

"Không dễ vậy đâu," Tào Xuân Hoa nói, "Gia Lai là một bậc thầy vu độc, không cẩn thận sẽ đả thảo kinh xà, trái lại dược vật an thần, bình thường thỉnh thoảng hắn cũng chuẩn bị một ít, cho dù hắn phát hiện cũng không dễ dàng sinh nghi. Trong thủ vệ vương trướng có gia nhân các họ, những người này đã được phân phó, định thần không biết quỷ không hay động thủ trong đêm, cố hết sức không kinh động Gia Lai Huỳnh Hoặc, khiến hắn chết trong lều, lặng yên không một tiếng động, sáng mai liền đẩy thế tử kế vị. Một khi xác định Gia Lai đã uống thuốc, đại tổng quản sẽ lấy tiếng cú đêm làm hiệu, chúng ta cứ chờ là được – bên phía Đại soái thông báo chưa?"

Tiểu cầu trên tay Trần Khinh Nhứ phiếm ánh bạc, chính là đạn tín hiệu Thẩm Dịch giao cho nàng. Vật nho nhỏ này vẫn giấu trong tay áo, đột nhiên phải lấy ra dùng, nàng bỗng nhiên có chút không nỡ.

Tào Xuân Hoa lại không biết những tâm tư này, chỉ cảm khái: "Kiêu hùng một thời, đầy tớ muốn tạo phản, đến cả một tiếng di ngôn của hắn cũng không muốn nghe, nói sao nhỉ?"

"Quá kiêng kỵ hắn rồi," Trần Khinh Nhứ đứng trên tháp theo dõi, nhờ thiên lý nhãn trên mũi nhìn hướng vương trướng, "Ta còn chưa hỏi, ngươi rốt cuộc làm sao khiến Hồng Hà phu nhân ra mặt chắp nối được vậy?"

"Con trai Hồng Hà phu nhân chết trên chiến trường," Tào Xuân Hoa vén tóc ra sau tai, hờ hững nói, "Chỉ để lại một thằng cháu cho bà ta, đứa cháu sắp mười sáu rồi, Gia Lai kia cùng hung cực ác, quy định tất cả nam hài nhà quý tộc qua mười sáu tuổi phải tòng quân, ta trước kia lẻn vào man tộc từng gặp con trai bà ta vài lần, mấy đêm trước bèn nặn một tấm mặt nạ quỷ hồn, thay hắn thăm lão mẫu thân... Có thể không giống lắm, có điều trong cảnh tối lửa tắt đèn, bà ta mắt mờ, nên cũng trót lọt. Ta với bà ấy ôm nhau khóc lóc một trận, nói không đành lòng để ấu tử được cưng chiều đi đường cũ của phụ thân... Cô xem, vành mắt ta còn chưa hết sưng, mấy bữa nay vẫn phải che đây này, Trần cô nương có dược đặc hiệu tiêu sưng không?"

Trần Khinh Nhứ: "..."

Tào Xuân Hoa lắc lư đầu nhìn trăng tự xót xa: "Ta đeo da mặt người khác, chảy bao nhiêu nước mắt của mình? Ôi, đây thật là..."

Trần Khinh Nhứ: "Suỵt – nghe thấy không?"

Trong bóng đêm thê lãnh, vài tiếng cú đêm chói tai đột ngột vang lên, đại tổng quản đã động thủ!

Trần Khinh Nhứ mở cửa sổ của tháp theo dõi, một sợi tơ cơ hồ không nhìn thấy bắn ra nơi đầu ngón tay nàng, từ trên tháp buông xuống, vừa vặn đủ để mũi chân nàng điểm một cái mượn lực.

Tào Xuân Hoa thì lấy một lọ tử lưu kim nhỏ cất trong lòng, từ trên cao tưới thẳng xuống tháp theo dõi, giả vờ như thân tháp rò dầu, sau đó nhanh nhẹn đốt lên. Ánh lửa mạnh như chân long uốn lượn xuống, chớp mắt chiếu rọi tòa tháp sáng rực như ban ngày, Trần Khinh Nhứ nhân tháp theo dõi bốc cháy, bắn đạn tín hiệu trong tay lên cao, đạn tín hiệu kia bay thẳng lên mà chia làm hai, bổ ra một đạo bạch quang như tia chớp – bạch quang ấy hết sức đặc biệt, nhìn ở gần không hề chói mắt, rất dễ dàng bị ánh lửa của tử lưu kim che khuất, chỉ ở xa mới có thể nhận ra chùm tia sáng có lực xuyên thấu cực mạnh kia.

Thẩm Dịch mai phục đã lâu từ thiên lý nhãn nhìn thấy thế nhảy bật lên: "Đại soái, động thủ rồi!"

Cố Quân huýt sáo một tiếng dài, huyền ưng phảng phất như bầy dơi trong đêm tối, nhanh chóng lướt qua sát đất, chỉ nghe tiếng gió, không thấy bóng người.

Thẩm Dịch vốn không chờ đợi nổi xông theo ra, nhớ tới chuyện gì đó, lại quay về hỏi Cố Quân: "Tử Hi, ngươi hôm qua mới từ Giang Nam trở về, chưa kịp nghỉ ngơi, có chịu được không?"

Cố Quân sửng sốt, lập tức bật cười nói: "Trời ơi, sao ngươi lo chuyện bao đồng lắm thế? Không cần phải lo cho ta, đi coi Trần cô nương đi – Yên tâm, có thể nhìn tên quy tôn Gia Lai Huỳnh Hoặc kia đi đến đường cùng, hữu hiệu hơn bất cứ linh đan diệu dược nào."

Còn có bí thuật vu độc bị lão điên đó cất giấu, lời này Cố Quân không dám nói ra, cũng không dám quá chờ mong, nhưng rốt cuộc vẫn muốn tự mình tới xem sao.

Vạn nhất thì sao?

"Vạn nhất Ô Nhĩ Cốt thật sự có cách giải," Cố Quân thầm hạ quyết tâm mà nghĩ bụng, "Ta sẽ đến Hộ Quốc tự thắp nén nhang cho đám lừa trọc."

Trần Khinh Nhứ khinh công vô song, sau khi hạ đất lập tức không thấy bóng dáng, phản quân mười tám bộ lạc muốn Gia Lai Huỳnh Hoặc chết im hơi lặng tiếng, nàng lại không hi vọng hắn một câu di ngôn cũng không có – nếu không phải đi hỏi ai về vu độc bí thuật?

Tào Xuân Hoa vốn theo rất vất vả, chạy nửa đường chợt nghe thấy tiếng rít của bạch hồng ra khỏi dây cung.

Tào Xuân Hoa phân tâm ngẩng đầu lên, quả nhiên thấy phía Nam bùng lên ánh lửa ngút trời, biết là Huyền Thiết doanh đã tới rồi, chắc không bao lâu sẽ trực tiếp phá tan phòng tuyến Bắc man. Mà chỉ thất thần giây lát, nhìn lại thì Trần Khinh Nhứ đã không thấy bóng dáng.

Thủ vệ lều Lang vương với Trần Khinh Nhứ vốn đã là lỏng lẻo bình thường, đêm nay còn có non nửa đi giở âm mưu quỷ kế, nàng chẳng mất sức lắm đã lẻn được vào, hạ xuống sau Lang vương kì, trước tiên để một nhóm phản quân cầm đao thương chạy tới chủ trướng, lập tức nhẹ nhàng đáp xuống, thần không biết quỷ không hay bám đuôi.

Phản quân không hề phòng bị tiến về chủ trướng, nhưng Trần Khinh Nhứ nửa đường đã cảm thấy không bình thường – nàng biết đêm nay thủ vệ trong lều Lang vương sẽ thiếu một tốp, không lý nào lại thiếu nhiều như vậy.

Trong lòng Trần Khinh Nhứ lập tức căng thẳng, tiểu đao trượt vào bàn tay.

Mà đúng lúc này, phản quân đã đến vương trướng chủ trướng của Gia Lai Huỳnh Hoặc.

Đột nhiên không trung truyền đến một tiếng vang nhỏ, chủ trướng thoáng gió ấy chợt mở rộng bốn cửa, vô số cung tên và đoản pháo từ cửa sổ lộ ra, đồng thời, thị vệ mai phục và mấy trăm binh tướng man tộc từ phía sau bọc đánh tới, bao vây phản quân không hề phòng bị.

Trần Khinh Nhứ hạ hơi thở xuống mức thấp nhất, cơ hồ hòa làm một thể với cỏ cây xung quanh, không hề nhúc nhích nấp ở góc chết sau màn dày phướn đen phía trên vương trướng, đứng ngoài quan sát tiến triển bất ngờ này.

Chỉ thấy Lang vương trướng tách ra làm đôi, xe lăn hơi nước bốc khói trắng từ chính giữa lăn ra, Lang vương Gia Lai Huỳnh Hoặc mặc áo choàng dày nặng, co người trên xe lăn như gần đất xa trời, lạnh lùng quét về phía phản quân ngoài cửa.

"Tam cô cô," Hắn nhếch đôi môi mỏng khô đét thoáng nở nụ cười, lẩm bẩm, "Mẹ ruột của ta chết sớm, bà từng trông nom ta năm năm, đối đãi ta như con ruột, hiện giờ... ngay cả bà cũng muốn rút đao chĩa vào ta sao?"

Hồng Hà phu nhân tuy là người khởi xướng, nhưng dẫu sao cũng là một lão thái bà tập tễnh, chỉ có thể bày kế, không thể tự mình ra trận chém người, bản thân không ở nơi này, màn độc thoại của Gia Lai liền tan ra không trung chẳng có chỗ đáp, không ai trả lời.

Vị Lang vương đời cuối hung ác này, thù và hận, hoan và hỉ, hùng đồ bá nghiệp hoặc con đường báo thù dài lê thê của hắn, đều một thân một mình, phụ mẫu huynh đệ, con cái bạn bè... nhất loạt không có, hắn đối đãi họ như heo chó, họ cũng phản bội hắn làm đáp đền.

Trong phản quân có kẻ tay run lẩy bẩy sắp cầm không nổi binh khí, cũng chẳng biết là đao trong tay ai đột nhiên rơi cái "keng" xuống đất, giữa bóng đêm yên tĩnh nghe rất rõ.

"Đều phản bội ta, đều muốn ta chết," Gia Lai cay nghiệt cười gằn một tiếng, đột nhiên giơ cao bàn tay như chân gà, chém mạnh xuống, "Các ngươi đi chết trước!"

Hắn ra lệnh một tiếng, trong vương trướng loạn tiễn nhất tề bắn ra, hai bên hợp vây, phản quân tránh cũng không thể, đành phải cố gắng phản kích.

Cuộc ám sát vốn nên lặng lẽ này lập tức biến thành cuộc vật lộn máu chảy thành sông, động tĩnh ngày càng lớn, đại đô mười tám bộ lạc cũng bị kinh động. Thiên Lang đại đô ồn ào hỗn loạn, có kẻ chạy tới tháp theo dõi dập lửa, có kẻ vội vàng cần vương bình phản loạn, còn có kẻ liều lĩnh gia nhập phản quân, phần nhiều thì sững sờ tại chỗ không biết phải làm sao.

Thế tử và đại tổng quản bị trói gô đẩy ra, đại tổng quản đã đái ướt cả quần, tuyệt vọng nhìn thế tử vẻ mặt kinh sợ bên cạnh, nghĩ: "Lang vương chỉ còn một nhi tử như vậy, nói không chừng sẽ không làm gì hắn, ta thì không dám chắc."

Vừa nghĩ thế, trên mặt hắn lập tức từ tuyệt vọng kinh sợ chuyển sang dứt khoát kiên quyết, trợn trừng mắt cắn răng một cái, giây lát sau, sắc mặt hắn đột nhiên hóa xanh, ở trước mắt bao người toàn thân cứng còng dúi đầu xuống – đại tổng quản đã cắn rách túi độc trong miệng mà tự sát.

Tào Xuân Hoa rợn cả người, quả thật hắn vốn lường trước chuyện đến ám sát Gia Lai Huỳnh Hoặc có thể sẽ không thuận lợi lắm, nhưng không hề gì, chỉ cần Bắc man đại đa tự loạn, bọn Cố Quân rất dễ dàng có thể thừa cơ tấn công, dù sao thì bọ ngựa bắt ve, bất kể là bọ ngựa hay ve thắng, đều có chim sẻ ở đằng sau.

Song hắn không liệu được Trần Khinh Nhứ sẽ bị cuốn vào trung tâm lốc xoáy trước hắn một bước!

Chớp mắt, trận đánh của phản quân và thị vệ ở gần vương trướng đã đến hồi gay cấn, đúng lúc này, một người man đột nhiên sấp ngửa lao vào vương trướng: "Báo – địch tập kích! Có địch tập kích!"

Câu này như hòn đá dấy lên ngàn tầng sóng, gần vương trướng đang choảng nhau vỡ đầu im lặng một khắc, thị vệ trưởng gạt đám người không phận sự ra, hớt hải chạy đến bên cạnh Gia Lai Huỳnh Hoặc: "Bẩm vương, trên tháp theo dõi có kẻ phóng hỏa, biên cảnh có rất nhiều 'quỷ quạ đen' nhân loạn đục nước béo cò, xông về bên này!"

Khóe mắt Gia Lai Huỳnh Hoặc hơi giật giật: "Là ai tới? Cố Quân sao?"

Thị vệ trưởng đầu vã mồ hôi lạnh, không hiểu Cố Quân đến thì có gì mà vui.

Ngay sau đó, hắn kinh ngạc nhìn thấy Gia Lai dùng đôi tay như chân gà chống tay vịn xe lăn, quát khẽ một tiếng, kẻ bại liệt non nửa năm này lại đứng dậy một cách thần kỳ!

Thị vệ trưởng: "Vương!"

"Cố Quân, Cố Quân..." Gia Lai thì thào gọi, đôi mắt sáng đến hãi người, như là ba hồn bảy phách trong cái xác đều cháy lên, khiến người ta không nhịn được rất đỗi hoài nghi với đồn đãi trước đây – có lẽ chấp niệm của hắn không hề là thần nữ đã chết, mà là Cố Quân.

Gia Lai Huỳnh Hoặc quát: "Lấy giáp của ta đến!"

Thị vệ trưởng chưa bao giờ thấy cách tìm đường chết khác người như thế, nhất thời còn tưởng mình nghe lầm: "Vương, ngài... ngài nói gì cơ?"

Gia Lai gầm lên: "Giáp của ta! Giáp của ta!"

Thị vệ trưởng bị khuôn mặt sắp nứt ra của hắn dọa lảo đảo vài bước, không dám chậm trễ, vội sai người lấy trọng giáp của Lang vương đến.

Thiết quái vật màu tuyết cao bằng gần hai người được bốn hán tử khiêng tới, đặt xuống đất "Uỳnh" một phát, Gia Lai Huỳnh Hoặc toàn thân run rẩy như lá rụng trong gió thu, bàn tay quắt queo nắm chặt cạnh cương giáp, lê bước chân nặng nề, từng bước nhét mình vào.

Trọng giáp tự thành một thể, bên trong có giá đỡ bằng thép, thao tác dễ hơn khinh cừu nhiều, nhưng cũng không phải tùy tiện kẻ nửa liệt nào cũng điều khiển được.

Gia Lai Huỳnh Hoặc đi vào trong trọng giáp mặt đỏ bừng lên, cắn răng mở van hơi nước dưới chân, động lực mạnh mẽ uỳnh uỳnh khởi động, phía sau trọng giáp phun ra hơi nước cuồng vọng, sắp sửa gào thét lao ra.

... Nhưng người bên trong đã không còn là anh hùng cái thế ăn thịt uống máu năm xưa.

Vừa nhấc chân lên thì Gia Lai đã là nỏ mạnh hết đà, khó lòng giữ vững thăng bằng thêm, trọng giáp nổ một tiếng rồi nghiêng đi, vật cồng kềnh mấy trăm cân nện mặt đất ra một hố sâu.

Thị vệ trưởng hoảng sợ: "Vương!"

Khoảnh khắc ấy, không ai thấy rõ sắc mặt Lang vương Gia Lai, nam nhân gầy đét chỉ còn một bộ xương kia náu thân trong cương giáp đồ sộ, tựa như con sâu teo tóp trong hạch đào, mọi người – dù là địch nhân của hắn, chớp mắt ấy, trong lòng đều hiện ra rõ ràng bốn chữ "anh hùng mạt lộ".

Dù cho hắn là một kẻ điên táng tận thiên lương.

Mà lúc này, tiếng rít đặc biệt của huyền ưng càng lúc càng tới gần, Huyền Thiết doanh tính cơ động cực mạnh, giằng co nhiều ngày trước chẳng qua là vì mười tám bộ lạc đốt tử lưu kim không cần mạng thôi, nếu không căn bản sẽ chẳng cho họ kéo dài hơi tàn đến bây giờ.

Lúc này đại đô hỗn loạn, Huyền Thiết tam bộ càng như vào chỗ không người, huyền ưng mở đường, như thể lốc xoáy đen cuốn tới.

Thị vệ trưởng vội chạy tới mở trọng giáp, cõng Gia Lai bị nhốt bên trong một cách thảm hại ra: "Vương, đại đô đêm nay chỉ sợ không giữ được, giờ chúng tôi hộ tống ngài đi trước..."

Gia Lai thần sắc đờ đẫn nằm trên lưng thị vệ trưởng, một lúc lâu, hắn giơ tay chỉ phía trước: "Bên kia."

Trần Khinh Nhứ tránh thoát một mũi tên lạc không biết từ đâu bắn tới, động tâm niệm, mau chóng từ sau lá cờ đen phấp phới hạ xuống, một nắm ngân châm bé tẹo bay khỏi tay, lặng lẽ giết mấy người man vừa vặn ở gần đó, âm thầm đuổi theo.

Một đội thị vệ bảo vệ Gia Lai lao tới mé Tây của Lang vương trướng, càng chạy càng xa đám đông, thậm chí đến cuối cùng bốn bề cơ hồ không một nơi để ẩn nấp, Trần Khinh Nhứ đuổi theo rất vất vả, nàng mạo hiểm bị phát hiện, bám theo sau đám thị vệ này, đi chừng hai khắc, phát hiện mình đã theo đuôi Gia Lai đến một tế đàn hoang phế.

Tế đàn kia cực kỳ hùng vĩ, cả kiến trúc cao vút tầng mây, toàn bộ vật liệu bằng đá, cơ hồ là một tòa cung điện.

Đại môn điêu bằng cự thạch, cửa che chăn chiên dày cộp, trên chi chít văn tự và quỷ họa phù loang lổ khó hiểu. Chung quanh cỏ dại mọc thành bụi, lâu không dấu chân người, một con quạ đen bị kinh động, bay vút lên trời.

Không riêng gì Trần Khinh Nhứ người ngoài không rõ nguyên do, ngay cả đội thị vệ cũng ngơ ngác nhìn nhau.

Từ sau khi thần nữ của mười tám bộ lạc thành trò cười, tế đàn thần nữ đã chẳng còn ai đặt chân tới.

Gia Lai hất tay thị vệ trưởng: "Lui ra!"

Thị vệ trưởng thoáng ngây ra, lui lại vài bước.

Gia Lai chầm chậm quỳ xuống, đầu gối hắn cứng đờ, vừa quỳ thì suýt nữa ngã sấp, thị vệ trưởng cuống quýt tiến lên muốn đỡ, bị tát cho một cái: "Cút! Cút xa ra!"

Thị vệ trưởng lúng túng lui ra.

Gia Lai trầy trật lắm mới quỳ vững được, tấm lưng còng sọm cố hết sức thẳng lên, hắn chắp tay trước ngực, màu gan heo do xấu hổ và giận dữ trên mặt chậm rãi rút đi, thần sắc lại bình tĩnh. Giây lát sau, hắn khó khăn duy trì tư thế quỳ xuống đất mà tiến vài bước, như con chó già gần đất xa trời, thị vệ trưởng đã bị đánh, không dám lên để ăn đòn thêm, đành phải luống cuống đứng bên nhìn hắn bò đi.

Gia Lai bò tận đến cạnh cánh cửa đá khổng lồ, vén tấm chăn chiên đã rách bươm, sờ soạng chú văn lồi lõm, Trần Khinh Nhứ ý thức được tế đàn thần nữ hoang phế rất lâu này có lẽ là một mấu chốt, cẩn thận đến gần hơn, nhìn chằm chằm động tác của Gia Lai không chớp mắt.

Đột nhiên, hắn ấn thứ gì đó xuống, cánh tay đẩy mạnh về phía trước.

Mặt đất lập tức lắc lư dữ dội, tất cả thị vệ đều sợ tái mặt, Trần Khinh Nhứ lại không chút nghĩ ngợi bay vút qua.

Mớ đá bao quanh tế đàn tự chuyển động, trên mặt đất nhô lên từng bánh răng khổng lồ, chúng khớp vào nhau, vô số ống sắt thép vỏ ngoài đã rỉ sét tứ thông bát đạt duỗi ra, tự mình khép kín nối liền, cuối cùng thành một vòng tròn hoàn chỉnh. Tất cả ống sắt đóng lại, "Xì" một tiếng, vô số tấm sắt nhỏ từ hai mé mở ra, run khe khẽ trong gió nhẹ, vậy mà là từng hỏa sí nhỏ – thứ này rất giống "diên" của Đại Lương.

Cả tế đàn như một cự diên, Trần Khinh Nhứ có ảo giác, tựa hồ chỉ cần đốt tử lưu kim là nó có thể bay khỏi đất bằng, lên tận chín tầng trời.

Nàng kinh hãi thầm nghĩ: "Không phải nói người man năm đó chính bởi vì không có kỹ thuật hỏa cơ của riêng mình, mới bị Huyền Thiết doanh càn quét sao? Thế đây là cái gì? Đám người man này muốn ngồi lên thứ này để chạy trốn hay chầu trời?"

Ngay khi nàng còn chưa tính toán ra kết luận, sự thật chứng minh, thường thức của nàng không có vấn đề, chỉ nghe "Xì" một tiếng, trên ống dẫn gắn liền một vòng đột nhiên có một chỗ phả ra khói khét lẹt.

Kế đó, một chuỗi tiếng gãy nứt vang lên khắp nơi, tử lưu kim ồ ồ sau nhiều năm bảo tồn dưới đất đã lẫn không biết bao nhiêu tạp chất, minh hỏa dưới hỏa sí lóe lên rồi tắt phụt, một thứ mùi gay mũi khác với khi đốt tử lưu kim nguyên chất lan ra.

Nói thì chậm, kỳ thực từ chỗ thứ nhất bắt đầu gãy đến cả tế đàn bốc cháy chỉ có một nháy mắt, nếu lúc này ẩn nấp bên cạnh là tay tổ trong nghề như Cát Thần hay Trương Phụng Hàm, có thể nhìn ra tế đàn như cự diên này cấu tạo căn bản không hoàn chỉnh, trông như khác lạ, kỳ thực chỉ rập khuôn hỏa sí và hộp vàng hình dạng ống dẫn trên diên, không giải quyết vấn đề hình dạng mấu chốt nhất trong việc cự diên lên không, cho dù bị hỏa lực ép bay, chưa kịp lên giữa trời cũng sẽ tan tành.

Mà lâu năm thiếu tu sửa hiển nhiên làm loại hư hao này nặng hơn, nó thậm chí không có vẻ như sắp lên trời, thì đã tự hủy mất.

Cự diên giấu dưới tế đàn và thần nữ cầu nguyện trường sinh thiên, phảng phất định trước là giấc mộng xa vời không chạm tới của Thiên Lang tộc vận số đã hết, vĩnh viễn không thể thực hiện.

Thị vệ trưởng sợ hết hồn, tè ra quần mà hô lớn: "Vương! Mau tránh ra!"

Phảng phất bị tiếng thét này chấn động, cửa đá điêu bằng cự thạch đột nhiên sập xuống, đè một đống ống dẫn đã trồi lên mặt đất, thể khí do tử lưu kim cháy sinh ra nhanh chóng bành trướng. Sau một tiếng nổ đinh tai nhức óc, tế đàn vậy mà nổ tung, chính giữa sinh ra một quả cầu lửa khổng lồ, lắc lư bay lên trời, Gia Lai Huỳnh Hoặc thân giữa đại hỏa, quay đầu lại nhìn đội hộ vệ một cái, trên mặt lại không hề có vẻ sợ hãi.

Chớp mắt ấy, Trần Khinh Nhứ bỗng nhiên minh bạch, Gia Lai vị tất không biết tế đàn này một khi đốt, chính là một con đường nổ.

... Hắn cam tâm tình nguyện, ủ mưu đã lâu, chỉ là đang tìm một cách chết xán lạn hơn.

Tế đàn cự thạch bắt đầu lắc lư muốn sập.

Trần Khinh Nhứ cắn răng một cái, bất chấp giá nào, từ lửa cháy khắp nơi bắt được một khe hở, trước mắt bao người lách mình chui vào, sau đó "Uỳnh" một tiếng, tế đàn sập.

Tào Xuân Hoa nửa đường mất dấu Trần Khinh Nhứ, không còn cách nào, đành phải ở lại tiếp ứng bọn Cố Quân, cho đến khi Huyền Thiết doanh giết vào đại đô, mới từ miệng thị vệ man tộc tù binh biết phương hướng đại khái của Gia Lai Huỳnh Hoặc. Tào Xuân Hoa vô cùng nắm rõ địa hình đại đô Bắc man, nghe đại khái liền biết Gia Lai Huỳnh Hoặc nhất định là tới tế đàn thần nữ, lập tức dẫn Thẩm Dịch lòng như lửa đốt chạy tới, ai ngờ nhìn thấy màn này.

Tào Xuân Hoa đồng tử co lại, kêu cũng chẳng ra tiếng.

Thẩm Dịch lại không chút do dự tháo khinh cừu giáp, lấy vật liệu ngay tại chỗ, lăn một vòng trong băng tuyết của sông băng chưa kịp tan, băng tuyết dính đầy người, dũng cảm lao vào liệt hỏa.

Mạt lộ xán lạn Lang vương tự chọn làm thị vệ trưởng sững người, một toán thị vệ tinh anh Bắc man đứng tại chỗ như cọc gỗ, cơ hồ chẳng sinh ra nổi một chút ý định phản kháng, đã chẳng khác nào tù binh, đều không cần mất công đi đánh.

Tử lưu kim lẫn quá nhiều tạp chất bốc cháy lên không có uy lực đốt tan băng nguyên, nhưng khói rất dày, người ở trong đó mắt cũng không mở ra nổi, trên thiên lý nhãn nhanh chóng dính một lớp tro, bị Trần Khinh Nhứ giật xuống ném đi. Nàng đã nhìn ra, chớp mắt ngã lăn ra khỏi trọng giáp, có lẽ Gia Lai đã muốn chết rồi, đối với một người nóng lòng muốn chết mà nói, nghiêm hình bức cung cũng chẳng được mấy tác dụng – huống chi nàng căn bản không biết bức.

Nàng một bước xuyên qua tế đàn đang sập, trong bụi đen mù mịt tìm được bóng dáng Gia Lai trầy trật bò đi, lúc cháy càng lên cao càng dễ ngạt thở, bò rạp dưới đất ngược lại thoải mái hơn, Gia Lai nhất thời chưa có mối nguy hiểm bị hun chết, Trần Khinh Nhứ bịt miệng mũi, nheo mắt liếc nhìn hướng hắn đi tới, phát hiện Gia Lai làm như không thấy những ồn ào xung quanh, đôi mắt nhìn chằm chằm đài đá lớn chính giữa tế đàn.

Trong đài đá lớn ấy có cái gì?

Lúc này, một cây cột to trong tế đàn đập xuống đầu Trần Khinh Nhứ, nàng không thể không lắc mình né tránh, mượn lực một chút trên đá vụn, sau đó bay vút đến đài đá.

Giả sử người thiết kế sớm nhất muốn biến cả tế đàn thành một đại diên, dựa theo vị trí đài đá kia mà suy đoán, nó nên là cột tín hiệu như Định hải thần châm, trên đài có đá phiến khắc man văn làm thành một vòng, bất đồng với chú văn lạ lùng ngoài cửa, đây là văn tự chân chính của mười tám bộ lạc, Trần Khinh Nhứ lúc trước đến bên ngoài Bắc cương tìm hiểu về thuật vu độc của man tộc, đối với man văn cũng bỏ công một chút, có thể hiểu đại khái ghi lại trên đây là lịch sử phân phân hợp hợp của mười tám bộ lạc.

Từ đầu đến cuối, không một chữ nào nhắc tới thuật vu độc của man tộc, Trần Khinh Nhứ rốt cuộc bị sặc khói đặc ho sù sụ, trong lòng vô cùng thất vọng – chẳng lẽ nơi đây thực sự chỉ là một di chỉ tế đàn, không hề có thứ nàng muốn tìm?

Đúng lúc này, không biết chỗ nào lại nổ, mặt đất chấn động qua đi, một tảng đá lớn trước mặt nàng bất ngờ rơi xuống.

Trần Khinh Nhứ: "..."

Đúng thật là lúc xui xẻo uống nước cũng chết nghẹn được.

Nàng lùi lại theo bản năng, song khói đặc chung quy che tầm mắt, Trần Khinh Nhứ hụt chân, rơi thẳng xuống đài đá, lần này không khéo sẽ bị đá phiến đè dẹp lép!

Dưới tình thế cấp bách, lụa trắng giấu trong tay áo Trần Khinh Nhứ phóng ra ngoài, không biết quấn vào thứ gì trên đài đá, nàng vừa trầy trật ho, vừa gắng sức kéo, muốn lôi mình lên, ai ngờ thứ kia không chắc lắm, kéo nhẹ mà đã rơi xuống theo.

Đúng lúc này, một bóng người lao vọt tới, ôm nàng lăn đi, bên cạnh nổ uỳnh một tiếng, tảng đá lớn từ trên không rơi xuống tung lên một trận gió, Trần Khinh Nhứ dính đầy bùn lầy trên mặt đất tế đài, hoảng hốt ngẩng đầu lên, ngạc nhiên nhìn thấy Thẩm Dịch.

Thẩm Dịch phẫn nộ túm áo nàng: "Cô không muốn sống nữa à?"

Trần Khinh Nhứ bị y gầm lên một tiếng đần ra, hơi trợn mắt.

Thẩm Dịch vừa đụng tới ánh mắt nàng thì lập tức hoảng sợ, lửa giận ngập trời cũng tắt ngóm, khom lưng nhặt lụa trắng trong tay áo nàng lên, lúng túng nói: "Đi trước... Đây là thứ gì vậy?"

Chỉ thấy trên dải lụa trắng trong tay áo Trần Khinh Nhứ quấn thứ gì đó, cỡ bằng một người, trông như tượng đá, nhưng chẳng biết có phải rỗng ruột hay không mà cực nhẹ, bị Thẩm Dịch kéo khẽ là tới, lụa trắng giũ ra, để lộ một cái đầu.

Đó là bức tượng nữ nhân trông như thật, nhắm mắt, thần sắc bình thản.

Thẩm Dịch nhìn pho "tượng đá" chạm trổ trác tuyệt này, tự dưng nổi hết da gà da vịt.

Trần Khinh Nhứ thoạt đầu nhìn lướt qua, sau đó giật nảy mình, ngồi xổm xuống phủi bụi bên ngoài "tượng đá", lộ ra màu nền trắng nõn, chạm tay lại vẫn mềm mại y nguyên.

"Là da người." Trần Khinh Nhứ thấp giọng nói.

Thẩm Dịch cho rằng tai mình bị lây bệnh từ Cố Quân: "Cái gì?"

Trần Khinh Nhứ ngẩng đầu lên, thấy phía sau đá phiến trên đài đá sụp xuống lại có một cái động bí mật, pho... không biết là người chết hay sống bị giấu ngay chính giữa.

Như vậy Gia Lai thực tế là đến vì tấm da người này sao?

Nhất thời mạch suy nghĩ lộn xộn, Trần Khinh Nhứ chỉ đành thuận theo bản năng, cúi người muốn ôm thứ trong mảnh lụa lên.

Thẩm Dịch vội nói: "Để ta, mau đi thôi!"

Y cầm cục lụa trắng kia, lôi Trần Khinh Nhứ dậy, lao ra khỏi tế đàn.

Bốn phía đang nổ, khói đặc khắp nơi, mà trong ánh lửa quay cuồng, một giọng nói mơ hồ và khàn khàn đứt quãng vang lên: "Tinh linh sạch sẽ nhất... gió cũng muốn hôn... góc váy nàng..."

Tất cả cự thạch trên xà cao trụ lớn của tế đàn rơi xuống, lúc hai người sắp sửa chạy ra, chỉ nghe uỳnh một tiếng, một vầng lửa lớn pha lẫn ánh tím bùng lên cao, cột trụ bảy tám người ôm đổ sang một bên, cả tế đàn sập xuống.

Thẩm Dịch mặt mày lấm lem bụi đất, hoàn toàn không thở nổi, đột nhiên sinh ra tuyệt vọng, cảm thấy mình có thể sẽ xong đời ở đây, trong tích tắc, y chợt nhét thứ hình người nọ vào lòng Trần Khinh Nhứ, đeo cát phong nhận sau lưng, cong lưng, muốn lấy thân bảo vệ người bên cạnh.

Trần Khinh Nhứ lấy làm kinh hãi, chớp mắt không biết trong lòng là mùi vị gì.

Đúng lúc này, trên trời vọng xuống tiếng huyền ưng hú, chỉ nghe "cót két" một tiếng, Thẩm Dịch ngạc nhiên ngẩng đầu lên, thấy một đội huyền ưng từ trong thiết trảo ném những sợi dây to bằng cánh tay kéo lại đỉnh tế đàn sắp đổ.

Cố Quân đã tới!

Thẩm Dịch không dám chần chừ, cũng không màng để ý đá vụn rơi vào người, túm Trần Khinh Nhứ liều mạng lao ra ngoài.

Cả hai vừa rời khỏi phạm vi tế đàn thì xích sắt trong tay một huyền ưng bất ngờ bị đứt, huyền kỵ tiên phong ba chân bốn cẳng lôi hai người đi.

Chớp mắt dây xích đứt, Cố Quân suýt nữa phóng ngựa lao thẳng vào biển lửa, thấy hai người kia một thân lửa sém khói hun lăn ra, mới túm dây cương lại, vừa vỗ về chiến mã cơ hồ bị hù chết, vừa mặt không biểu cảm thở phào nhẹ nhõm.

Sau đó y huýt sáo một tiếng dài, dùng tay ra hiệu cho huyền ưng trên trời và huyền kỵ dưới đất: "Triệt!"

Tiếng ca mơ hồ của Gia Lai Huỳnh Hoặc không nghe thấy nữa.

Tế đàn mấy trăm năm qua nguy nga đứng vững của mười tám bộ lạc tan thành tro bụi, khói đặc cuồn cuộn bay lên thương thiên trường sinh.

Gió to thổi mất nửa bên lang kì đã bị chiến hỏa đốt này, gào thét bay đi, cuốn vào lửa mạnh và bụi đất.

Trong dòng thời gian đằng đẵng, bộ lạc Thiên Lang nét mực đậm màu từ đây ảm đạm xuống đài.

Tử lưu kim thì vẫn đang cháy.

"Ta cảm thấy khuôn mặt này hơi quen." Cố Quân cầm một cây gậy gỗ, ngắm nghía "nữ nhân" dưới đất một hồi, đưa ra kết luận.

Lều Lang vương của Gia Lai Huỳnh Hoặc bị người của Huyền Thiết doanh lục tung lên, phát hiện bên trong không có châu báu quý hiếm, cũng chẳng có thiết võng san hô, trông thì khí phái nhưng thực tế nghèo kiết, hiển nhiên trước khi vét sạch của cải các quý tộc, ngay chính bản thân hắn cũng không buông tha, thật là một kẻ điên chí công vô tư.

Khiến Cố Quân vô cùng thất vọng là, họ rốt cuộc cũng không thể tìm được bí thuật vu độc của thần nữ trong truyền thuyết.

Nghĩ lại cũng phải, chỉ có người Đại Lương mới thích viết mọi chuyện lên giấy, đóng thành sách, trong mười tám bộ lạc bảo tồn rất nhiều tập tục nguyên thủy, một số việc cần ghi chép có thể khắc trên đá, trên mai rùa, trên da... hoặc truyền miệng luôn, bí thuật vu độc họ một lòng muốn tìm chưa biết chừng chỉ giấu trong đầu Gia Lai, bị đốt thành tro bụi rồi.

Cuối cùng, chỉ có một bức tượng quỷ dị như vậy do sự kiên trì của Trần Khinh Nhứ mà được mang về chỗ trú quân Bắc cương.

"Ban nãy Trần cô nương nói thứ này khả năng là cái gì?" Cố Quân thuận miệng hỏi thân binh bên cạnh, "Ngẫu gì?" (Ngẫu: tượng)

"Hồn ngẫu." Thân binh trả lời, thấy Cố Quân chẳng kiêng kỵ gì dùng cây gỗ chọc tới chọc lui, lại không nhịn được nói, "Đại soái, tôi thấy thứ này rất âm độc, chưa biết chừng có cái gì không sạch sẽ, ngài nên tránh xa ra thì hơn."

"Hồn ngẫu" kích cỡ bằng người thật, nặng chẳng qua hai ba mươi cân, sau khi rửa sạch, da thịt diện mạo trông chẳng khác gì người thật, giống như mở mắt ra là có thể nói chuyện vậy.

Nghe nói đây kỳ thực không hề là một tấm da người hoàn chỉnh, mà là lấy da tốt nhất của rất nhiều thiếu nam hoặc thiếu nữ ghép lại, sau đó dùng thủ đoạn vu độc xử lý, kết thành một mảnh, bọc lên gỗ, khúc gỗ trước đó gọt thành hình người hoàn chỉnh, như vậy dán da người khít vào gỗ là có thể phỏng chế ra một người giả sống động như thật.

Mười tám bộ lạc tin loại hồn ngẫu này có thể gọi hồn phách người chết tha hương trở về.

Mới đầu pho hồn ngẫu này bám một lớp bụi, sau khi rửa sạch thì hoàn toàn như một người thật trần truồng, Thẩm Dịch chê vật này không ra thể thống gì, đặc biệt sai người tìm quần áo "mặc" cho nó.

Cố Quân nhìn mi mắt nhắm chặt của hồn ngẫu kia, cảm thấy hơi giống Trường Canh lúc nhỏ, y dùng ngón tay cọ cằm, cố gắng lục tìm trong trí nhớ, hỏi: "Ngươi nói nó chiêu là hồn vị man phi năm đó sao?"

Thân binh tin tà, không dám nhìn lắm, kinh hồn táng đảm nói: "Đại soái, nên mau mau dẹp đi, thứ này thần thần quỷ quỷ thấy ghê quá..."

"Không sao," Cố Quân nhìn mặt hồn ngẫu một cái, thuận miệng nói, "Ta cảm thấy nàng ta còn rất đẹp."

Thân binh: "..."

Dạo này Cố soái phải kiêm cố chiến trường nam bắc, chỉ sợ là mệt đến phát điên rồi.

Đúng lúc này, Trần Khinh Nhứ vốn không yên tâm đi thăm Thẩm Dịch thình lình xông vào: "Ta nhớ ra rồi!"

Cố Quân: "Hở?"

Chỉ thấy Trần Khinh Nhứ chẳng biết rút từ đâu ra một cây đao, nửa quỳ xuống đất, trong ánh nhìn chăm chú của Cố Quân và thân binh cực kỳ mê tín kia, phanh ngực hồn ngẫu ra.

Cố Quân: "..."

Thân binh kia sợ run bần bật, quay mặt đi niệm "A di đà Phật", Cố Quân nhìn hắn, lại ngó Trần cô nương như đầu bếp thái thịt trâu, đưa cây gậy cho thân binh câm như ve sầu mùa đông, thương hại nói: "Cầm trừ tà phòng thân đi."

Trần Khinh Nhứ không để ý xung quanh, tập trung tinh thần vào mũi đao, tấm da người nọ trông bên ngoài nhẵn nhụi, thậm chí rất mềm, rạch ra bên trong không có máu thịt, sạch sẽ tách ra hai bên, như da trâu đã thuộc vậy, Trần Khinh Nhứ nắm giữ lực đạo cực tốt, rạch da người ra nhưng không đụng gì đến gỗ bên dưới.

Cố Quân mới đầu vô công rồi nghề đứng xem, bỗng nhiên, y híp mắt lại, xắn tay áo ngồi xổm xuống, không e dè dùng tay nhẹ nhàng vén miếng da kia lên, cẩn thận chạm vào mặt ngoài khúc gỗ.

Thân binh mặt mày tái mét, hoảng hốt cáo tội, rồi xách cây gậy trừ tà Đại soái cho chạy ra ngoài trông cửa.

Cố Quân sờ một lúc lâu, nghi hoặc nói: "Sao vậy, trên khúc gỗ này còn có chữ à?"

Trần Khinh Nhứ đã rạch tấm da từ đầu đến chân, nàng như lột vỏ trứng sống, thay một con dao nhỏ hơn, cẩn thận tách dần từng chút, cho đến khi lộ ra cả khúc gỗ hình người, nàng mới khẽ thở phào, tranh thủ đáp Cố Quân: "Có, nhưng khắc vừa nhỏ vừa cạn, cần phải là người xúc cảm cực nhạy bén mới sờ thấy, người bình thường muốn xem chỉ sợ phải nhờ vào công cụ – Đại soái có thể giúp ta xem thử trên đây viết gì không?"

Huyền Thiết doanh và mười tám bộ lạc có thể nói là túc địch hai đời, trong Huyền Thiết doanh rất nhiều tướng lĩnh cấp cao đều biết tiếng man thường dùng, Cố Quân sờ cổ khúc gỗ hình người đó một lát, chần chừ rất lâu mới trả lời: "Đều là những chữ lạ, chưng nấu... cái gì... không biết, phần sau là một con số... A, hình như còn nhắc tới ánh nắng gì đó..."

Cố Quân mù tịt nhìn Trần Khinh Nhứ: "Tại sao trên hồn ngẫu này lại khắc một bản thực đơn thần thần bí bí? Ơ... Trần cô nương, cô làm sao thế?"

Cố Quân chưa bao giờ nhìn thấy vẻ kích động như vậy trên mặt Trần Khinh Nhứ, trong đôi mắt lạnh băng kia cơ hồ ngấn lệ.

Nàng như chưa bao giờ thấy gỗ, hai tay ôm khúc gỗ hình người nọ lên, dùng mảnh lụa cẩn thận lau chùi bụi đất, như ôm một báu vật hiếm có vậy.

"Hồn ngẫu nếu có thể dẫn linh hồn tha hương trở về, cần câu thông sinh tử, cách làm thông thường là giấu một vật tùy thân của người đó trong tâm gỗ. Nhưng đã dùng phương pháp này tế vong hồn, thì người chết thường cách xa ngàn vạn dặm, quá nửa là không tìm thấy nơi táng thân, cho nên vật tùy thân không phải lần nào cũng lấy được. Ta cũng vừa mới nhớ ra, trong tình huống thế này, người thi pháp thường dùng di ngôn người chết lưu lại, hoặc minh ngôn có thể đại diện cho người chết để thay thế. (Minh trong minh ngôn là khắc)

"Năm đó tỷ muội man tộc đào vong khỏi thâm cung, tỷ tỷ mất nơi đất khách quê người, muội muội mang theo con nàng ta lưu lạc hang phỉ. Quý phi trước khi chết đã để lại một thứ vô cùng quan trọng cho Hồ Cách Nhĩ, sau đó qua tay Hồ Cách Nhĩ, cuối cùng rơi vào tay Lang vương Gia Lai..."

Cố Quân nghe thế, trái tim đột ngột đập như điên.

"Chính là bí thuật của thần nữ." Trần Khinh Nhứ chỉ ra suy nghĩ trong lòng y, "Ta... Ta vốn nghĩ có khả năng này, ai ngờ lại là thật..."

Ấn tượng của mọi người với "thần nữ man tộc" chỉ còn lại hình tượng mụ điên Hồ Cách Nhĩ, vị quý phi kia ngược lại không có cảm giác tồn tại. Nàng ta chết quá sớm, từ "bán thần" thảo nguyên cao cao tại thượng luân lạc vào hậu cung cửu môn đóng chặt, trong lòng là oán là hận hay cam chịu số phận, đến nay cũng chẳng thể nào biết được.

Mà thái độ của nàng ta với con mình là gì?

Chắc hẳn theo nhân chi thường tình thì nên là oán hận, ngay cả Gia Lai nhìn thấy gương mặt Trường Canh lúc nhỏ giống hệt tỷ muội thần nữ, cũng không nhịn được sinh ra sát ý, huống chi đương sự?

Nhưng thuật vu độc của mười tám bộ lạc thần quỷ khó lường như vậy, ngay cả Trần gia cũng bó tay rất nhiều năm, quý phi là người thừa kế, muốn xử lý một thai nhi chưa thành hình có thể làm đến thần không biết quỷ không hay, vì sao phải giữ đứa trẻ đó lại?

Nàng biết đứa trẻ ấy cuối cùng sẽ bị Hồ Cách Nhĩ phát điên làm thành Ô Nhĩ Cốt sao?

Người xưa đã chết gần hết rồi, chẳng còn ai biết nữa, năm ấy thần nữ man tộc quyết định giữ lại đứa trẻ kia rốt cuộc là xuất phát từ sự không nỡ của một người làm mẹ, hay vừa vặn biết Hồ Cách Nhĩ hoài thai đứa khác, xuất phát từ nỗi oán hận vong tộc diệt chủng, muốn tạo ra một tà thần có một không hai.

Nhưng vô luận thế nào, vòng tới vòng lui, vẫn là hồn ngẫu của thần nữ để lại một đường sinh cơ cho Trường Canh.

Điều này cơ hồ có chút huyền diệu của nhân quả tương sinh.

Trần Khinh Nhứ không định thảo luận nhân quả báo ứng, nàng toàn tâm toàn ý đặt vào khúc gỗ này, không đợi Cố Quân có phản ứng, đã ôm người gỗ chạy như bị điên, ngay cả mảnh lụa rơi xuống đất cũng chẳng thèm nhặt. Cố Quân ngây ra hồi lâu, một hơi trong lồng ngực chậm chạp thở ra, hi vọng không cách nào tả nổi làm tắc ngực một lúc, vừa đứng dậy thì trước mắt tối sầm, cả buổi mới đỡ, nhưng vẫn còn ù tai.

Y khó lòng kiềm chế đưa tay cọ cằm, cố hết sức muốn nặn ra khuôn mặt bình thường mà nghiêm túc, chân mày vô thức nhíu lại, nhưng khóe môi không thể khống chế nhếch lên nét cười. Sự nghiêm túc cố tạo cùng vẻ vui mừng khó kìm nén đan thành một khuôn mặt "dở khóc dở cười" đúng chuẩn, chính Cố Quân cũng cảm thấy hình tượng của mình hiện giờ chỉ sợ là hơi điên.

Lúc này, thân binh của Thẩm tướng quân cách vách ở ngoài trướng thò đầu vào nhìn ngó giây lát, hỏi: "Trần thần y rốt cuộc đi rồi à?"

"Đi rồi," Cố Quân nghe thấy thân binh của mình trả lời, "Sao vậy, có việc gì à?"

Tiểu binh hỏi thăm hành tung thần y kia vội lắc đầu, chạy về báo.

Ngay sau đó, Cố Quân nghe thấy trong lều Thẩm tướng quân vọng sang tiếng rên rỉ không biết kìm ném bao lâu rồi.

Lưng Thẩm Dịch vừa bị thương vừa bị phỏng, thê thảm vô cùng, nhưng y vẫn cứng xương cự tuyệt Trần cô nương chữa trị và thăm hỏi, năm lần bảy lượt nhốt Trần cô nương đến thăm ở bên ngoài, kiên quyết không chịu để nàng nhìn thấy vẻ thảm thương của mình, còn dứt khoát tìm một vị quân y sở trường giết heo tới xử lý vết thương, trong lúc này bốn năm lần phái người lén sang nghe ngóng, nén đến khi Trần Khinh Nhứ rốt cuộc đi rồi, cuối cùng đã có thể thỏa sức tru lên.

Cố Quân lắng tai nghe một lúc, chỉ cảm thấy đau đẻ cũng chưa chắc kêu thảm như vậy, rất không đành lòng, bèn nhặt mảnh lụa dưới đất lên, giũ hết tro bụi, ra ngoài đưa cho tiểu thân binh của mình, phân phó: "Mau đưa cho Thẩm tướng quân, dùng giảm đau."

Bất kể mảnh lụa kia đã lau cái gì, hiệu quả dù sao cũng hết sức linh nghiệm, lụa vừa đưa sang thì tiếng gào thét của Thẩm Dịch lập tức nhỏ đi rất nhiều.

Cố Quân bụng dạ xấu xa lấy huynh đệ ra tiêu khiển chán chê, quay về soái trướng, vốn định trả lời hết đống chiến báo và thư tín của các vùng trú quân lớn tồn đọng trên bàn, cầm bút lên mới phát hiện mình hoàn toàn không tĩnh tâm được.

Mỗi một chữ trên chiến báo y đều biết, song không thể liền thành một câu mà nhảy vào mắt, y ba hồi lan man nghĩ: "Trên khúc gỗ đó liệu có phải chỉ ghi cách làm mà không có cách giải?"

Ba hồi lại nghĩ: "Thế cũng không hề gì, chỉ cần có chân tướng về Ô Nhĩ Cốt, Trần gia chung quy có thể nghĩ ra biện pháp."

Một lúc sau lại thầm nghĩ: "Sẽ không bắt ta phải thắp nhang cho đám lừa trọc Hộ Quốc tự thật chứ? Mẹ ơi..."

... Trăn qua trở lại đủ thứ, chẳng có đầu mối.

Mà ngay trong ngàn đầu vạn mối này, tư niệm khó bề tả rõ giết ra một đường máu, nhảy vào lòng y.

Mực trên ngòi bút rơi xuống một giọt, Cố Quân cuối cùng định thần lại, đẩy hết mớ công vụ rườm rà đi, như phù sinh thâu hoan mà lấy giấy viết thư ra, bắt đầu đường hoàng dùng thời gian làm việc công để lo chuyện tư tình.

Nhân gian tháng Tư, vùng Lưỡng Giang hương thơm đã sắp hết, mưa dầm dề ướt đẫm từ trên mặt sông bốc hơi lên.

Hơn một tháng nay, Trường Canh liên tục ở Giang Bắc, y thoạt tiên một tay lo liệu tang sự của Chung lão tướng quân, sau đó Phương Khâm lại dâng tấu lên đề nghị Hoàng đế Long An giữ Nhạn vương lại chỗ cũ, hiệp trợ sứ giả triều đình thúc đẩy việc đàm phán với Tây Dương.

Tuy Nhạn vương đã bước xuống chính đàn, nhưng Phương Khâm vẫn cảm thấy y ở kinh thành là một việc như hóc xương trong họng vậy.

Theo lý đả xà tùy côn, đối phó kẻ địch chính trị nên một kích tất sát, nhưng cớ từ quan của Nhạn vương không phải do bản thân Phương Khâm bày ra, cả sự việc không nằm trong tầm khống chế của hắn, vả lại thân phận Nhạn thân vương rất khó xử lý, trừ đại tội mưu phản ra, quả thật cũng chẳng còn cái gì có thể đuổi tận giết tuyệt y.

Phương Khâm đành phải nghĩ mọi cách đuổi y đi thật xa.

Hai chữ "hiệp trợ" cực kỳ vi diệu, ý nghĩa là chuyện này không phải do Nhạn vương chủ đạo, y chỉ có nghĩa vụ, không có quyền lực. Thành công cũng là công lao của chính sứ, nhưng vạn nhất có rắc rối gì, thì sẽ có nhiều chỗ để bôi nhọ Nhạn vương.

Tiếc thay, trời không chiều lòng người, "rắc rối" Phương Khâm hi vọng nhìn thấy không xuất hiện, Nhạn vương ở đại doanh Giang Bắc như cá gặp nước, nhân duyên cực tốt. Y vốn đã rất được yêu quý, lại có tình cảm kề vai chiến đấu với chúng tướng sĩ, còn có thể diện của Chung lão tướng quân và Cố Quân bảo đảm cho.

Sứ giả triều đình phái ra rất tinh mắt, sau khi đến Giang Bắc hết thảy răm rắp nghe theo Nhạn vương, lại thêm Cố Quân bình nhật thư từ không ngừng, mươi bữa nửa tháng còn đặc biệt đến thăm, việc ức hiếp người Tây Dương ở ven bờ Lưỡng Giang có thể nói là hết sức thuận lợi, trong lúc này đánh ba bốn chiến dịch cỡ nhỏ trên sông, lợi chiếm được, binh cũng được luyện, Lý Phong cũng chẳng thể nói gì, ngược lại cảm thấy hơi có lỗi với Nhạn vương – xa thơm gần thối chính là đạo lý này.

Mà cùng lúc đó, một việc khác làm Phương Khâm bất ngờ đã xảy ra, khiến hắn chẳng còn tinh lực để thừa cơ xếp thế lực vào vùng Lưỡng Giang-

Đợt phong hỏa phiếu đầu tiên đến kỳ, phải trả tiền.

Đợt phong hỏa phiếu đầu tiên có vị trí cực kỳ đặc biệt, nói là thuốc khởi tử hồi sinh cho vương triều Đại Lương khó khăn dồn dập cũng không quá, lúc ấy nếu không phải có khoản vật tư này chèo chống cho Cố Quân thắng trận ở Tây Vực, trong tình huống chiến trường phương Bắc nguy khốn, tử lưu kim trong nước lại hết sạch, quân Tây Dương bao vây kinh thành lần nữa chỉ là vấn đề thời gian.

Những người mua phong hỏa phiếu đợt đầu có đại ân với quốc gia, về tình về lý nợ nần này phải trả, nếu triều đình không trả nổi tiền, chẳng những là thất tín với người ta, về sau phong hỏa phiếu không phát hành nổi cũng là khẳng định, chính lệnh "phong hỏa phiếu ở dân gian đồng giá với vàng bạc, cấm thương hộ từ chối nhận" mà trước đó Nhạn vương vất vả thi hành cũng thành công cốc.

Cứ thế, cho dù người khác đồng ý, đám quan to triều đình lúc đầu vì mũ cánh chuồn mà bịt mũi mua hàng loạt phong hỏa phiếu cũng không thể đồng ý.

Cho đến lúc này, Phương Khâm mới không thể không thừa nhận, Nhạn vương tuy thủ đoạn quyết liệt, mượn đao giết chính địch chưa từng chùn tay, động đao cải cách muốn khoét thịt ai thì khoét, thậm chí đắc tội hàng loạt... Nhưng y chung quy sớm gieo xuống một hạt giống, địch ta bất phân mà trói cả triều lên tặc thuyền của y.

Theo kế hoạch ban đầu của Sở quân cơ, bắt đầu từ lúc bán đợt phong hỏa phiếu thứ nhất thì đã có phương án kế tiếp: đợt phong hỏa phiếu thứ ba vừa vặn tung ra một tháng trước kỳ hạn, theo kinh nghiệm ngày trước, một tháng có thể bán chừng bảy tám phần, trong khoản tiền xoay được này, có một phần là dự lưu cho trả nợ nần đợt đầu, vô luận là thời gian hay số tiền đều dư dả.

Song không ai liệu được là, Nhạn vương vừa đi thì thương nhân dân gian lớn nhỏ không thèm nể mặt nữa!

Phương Khâm biết mười ba cự cổ âm thầm đứng bên Nhạn vương, nhưng Đại Lương lãnh thổ bao la, chẳng lẽ trừ mấy kẻ dã tâm bừng bừng muốn tham chính này ra, người khác đều không buôn bán gì sao? Lại thêm đám quan viên liều mạng bò lên trên, mỗi tỉnh cho một chỉ tiêu, rất dễ dàng kiếm được khoản tiền này.

Thế nhưng hắn đã xem thường liên minh thương hộ.

Đây là Đỗ tài thần được sự gợi ý của Nhạn vương, trong khoảng thời gian hậu chiến toàn lực thúc đẩy. Các ngành nghề có thương hội của các ngành nghề, tất cả thương hội hợp thành một liên minh lớn, tuy thành viên sẽ bị thương hội ước thúc, nhưng cũng được hưởng lợi ích, mua bán hàng hóa với thành viên khác được ưu đãi thì không cần nhắc nữa, chủ yếu là trong loạn thế trộm cướp hoành hành, nếu có ấn kiện của thương hội, có thể thỉnh cầu quan phủ trú quân các nơi bảo vệ – đây là đặc quyền lúc ấy triều đình dành cho mười ba cự cổ mua phong hỏa phiếu đợt đầu, Đỗ Vạn Toàn khẳng khái chia sẻ.

Mà rất nhiều thương hộ dần dần phát hiện, chịu ước thúc không phải là chuyện xấu, có dấu hiệu của đại thương hội, độ tín nhiệm của người mua dân gian cũng tăng lên không ít, không cần rơi vào cuộc chiến giá cả với đám thương gia bán hàng giả hàng dỏm nữa.

Tấm lưới liên minh thương hộ này mau chóng giăng ra toàn quốc, có lẽ mấy chục năm sau cũng sẽ sinh ra đủ các vấn đề, nhưng lúc này khi mới thành lập, độ trung thực của thành viên đều cực kỳ cao, nghiễm nhiên thành một tấm sắt trước mặt Phương Khâm.

Đợt phong hỏa phiếu thứ ba vừa bắt đầu đã bị cản trở, ngoại trừ một số quan viên vì cái lợi trước mắt mới đầu tiêu hóa một chút, thì cơ hồ hoàn toàn chẳng đẩy đi được – sự không phối hợp lạ lùng của thương hội khiến người ta sinh ra rất nhiều nghi ngờ, đám lão hồ ly trong triều trông hướng gió mà lay theo.

Mà lợi dụ không thành, uy bức cũng không thành. Tân quý do mười ba cự cổ ở phía sau hỗ trợ đã nên trò trống, muốn động vào họ đã không dễ dàng như vậy.

Phong hỏa phiếu do Sở quân cơ thi hành, nhưng Sở quân cơ cũng chỉ phụ trách thi hành, khoản tiền ra vào đều qua Hộ bộ, Phương Khâm chỉ hận không thể kêu đám vây cánh tự bỏ tiền túi – Song như muối bỏ biển, không nói đến các đại thế gia có sẵn lòng móc tiền hay không, cho dù sẵn lòng, thực sự mắt cũng không chớp mà moi ra một khoản lớn như vậy, hai viện nghèo kiết xác lúc trước đến cả Nhạn vương cũng có thể mắng vỡ mặt nhất định ùa lên, không làm um lên là không thôi.

Kỳ hạn ngày càng tới gần, theo đó ngay cả Lý Phong cũng ngồi không yên, nhiều lần đích thân hỏi đến, trong ba bốn ngày, gọi Phương Khâm và Sở quân cơ vào cung răn dạy không mười lần cũng phải đến tám, rốt cuộc áp lực nặng đến gánh hết nổi, lục bộ không thể không liên hợp dâng tấu lên Sở quân cơ, mời Nhạn vương về triều.

Lúc chính lệnh đưa đến Giang Bắc, Trường Canh vô cùng bình tĩnh tiếp chỉ, sau đó đâu vào đấy bàn giao quân vụ, giữ vững thái độ "không quan tâm hơn thua", giống như chẳng sốt ruột trở về chút nào, cho đến khi lệnh khẩn thứ hai đưa đến, y mới thủng thỉnh thu dọn hành lý chuẩn bị về phương Bắc.

Đang định đi thì tin Bắc cương đại thắng đã đến.

Nhất thời cả Giang Bắc sôi sùng sục, Trường Canh vừa nghe tiếng reo vui khóc lóc khắp nơi, vừa nhận thư từ tay tín sứ.

Trong thư từ Cố Quân gửi Trường Canh, có một số là tư tín thuần túy, một số thì dặn dò Nhạn vương chính sự, Trường Canh rất có kinh nghiệm, trước khi mở ra dùng tay sờ là biết ngay công hay tư – công sự của Cố Quân thông thường chỉ có một tờ giấy mỏng dính với dăm ba câu. Lúc nhận thư từ tay tín sứ huyền ưng, trong chớp mắt y hơi thất vọng, bởi vì sờ thấy rất mỏng, chắc hẳn không có lời gì riêng tư.

Trường Canh thuận miệng dặn huyền ưng: "Có thể bên phía Cố soái còn chưa biết, ta hôm nay sẽ phải lên đường về kinh, công việc ở Giang Bắc đã bàn giao xong, làm phiền huynh đệ trở về báo một tiếng."

Nói xong, y không hề kiêng dè bóc thư ngay trước mặt mọi người.

Bên trong quả thật chỉ có một tờ giấy, trên vẽ một bàn tay, Cố Quân viết một hàng chữ: "Gửi kèm một tay đến Giang Bắc, thay ta đo xem thắt lưng người ấy có to ra hay không." (Người ấy – y nhân mà 16 dùng thường dùng cho nữ giới)

Mọi người mù tịt nhìn Nhạn vương chẳng biết xem gì mà lâu như vậy, sau đó đỏ bừng mặt.

Năm Long An thứ chín, Gia Lai Huỳnh Hoặc chết, thế tử kế vị, đại diện cho mười tám bộ lạc chính thức tuyên bố quy hàng. Tân Lang vương thụ phong vương tước, ba quỳ chín khấu tiếp chỉ, cả đại thảo nguyên đất rộng người thưa của mười tám bộ lạc nhập vào tỉnh Sóc Bắc ở tận cùng phía Bắc Đại Lương, quý tộc quy hàng nhất loạt bị Sóc Bắc đốc tiết chế.

Đến đây thì mười tám bộ lạc không tiến cống cho triều đình nữa, thống nhất quy vào thuế bình thường, vùng mỏ tử lưu kim mênh mông ngàn dặm do triều đình chuyên môn thành lập cơ cấu, phụ trách khai thác vận chuyển.

Đại Lương toàn quốc ăn mừng.

Thẩm Dịch tạm thời ở lại bàn giao, Cố Quân phải về kinh phục mệnh, Tào Nương Tử đi cùng y, Trần Khinh Nhứ mới dập lại trọn bản bí thuật của thần nữ, còn chưa kịp tiêu hóa, cũng cáo từ muốn về Trần gia.

Trước khi đi, Cố Quân gọi nàng ra một góc, mới đầu muốn hỏi Ô Nhĩ Cốt có nắm chắc giải được hay không, sau đó lại cảm thấy hỏi cũng bằng thừa, người ổn thỏa như Trần Khinh Nhứ chắc chắn sẽ không khẳng định trước, cùng lắm là một câu "cố hết sức", vậy thì cũng chẳng còn gì để nói, rốt cuộc hết sức trịnh trọng cảm tạ Trần Khinh Nhứ, lại nói: "Nhờ cả vào Trần cô nương."

Trần Khinh Nhứ nghiêng người không dám nhận lễ, phá lệ giải thích: "Mấy hôm nay Tiểu Tào đã giúp ta dịch lại rất nhiều, vu và độc trong bí thuật của thần nữ không tách rời, rất nhiều phương pháp khó bề tưởng tượng là mang tính nghi thức, cái nào quả thực có thâm ý, cái nào lời nói vô căn, ta nhất thời cũng rất khó xác định, Đại soái hãy cho ta một chút thời gian."

Cố Quân vội nói không sao.

Trần Khinh Nhứ lại lấy ra một phong thư dán kỹ, dặn dò: "Đây đều là mấy phương thuốc điều dưỡng, dùng một hai lần không có tác dụng, phải dựa vào thời gian chậm rãi điều dưỡng, Đại soái thiếu quá nhiều, có chút ít còn hơn không, loại thuốc thường dùng vô luận thế nào cũng phải tiết chế."

Cố Quân gật đầu nhận lấy, ngẩng đầu lên vừa vặn liếc thấy Thẩm Dịch bên kia mỏi mắt trông mong.

Thẩm Dịch trợn mắt nhìn y, quen nhau nhiều năm, Cố Quân mới lần đầu biết ánh mắt Thẩm Quý Bình cũng linh động đến độ biết mắng người – y từ trong mắt Thẩm Dịch nhìn thấy mồn một nỗi phẫn uất "hai ngươi ở đâu ra lắm lời muốn nói như vậy".

Cố Quân lườm Thẩm Dịch một cái, nghĩ bụng: "Chính ngươi đứng ngoài nhìn không, chẳng lẽ trông chờ đại cô nương trời sinh kiệm lời chủ động bắt chuyện với ngươi? Thật đúng là phế vật năm nào cũng có, mà năm nay đặc biệt nhiều."

Hai người cách không dùng ánh mắt chém giết nhau giây lát, rốt cuộc, Thẩm Dịch không nhịn được đi tới, thoạt tiên không vui nói với Cố Quân: "Đại soái, cần phải đi rồi, đừng để lỡ thời gian."

Sau đó lại ngại ngùng chuyển hướng sang Trần Khinh Nhứ.

Cố Quân chẳng thèm nhìn cái vẻ đần độn đó của y, dùng roi ngựa quất nhẹ lưng Thẩm Dịch, lên ngựa rời đi.

Khi Cố Quân về kinh phục mệnh, lão bách tính đã nghe nói từ trước, truyền tai nhau, cho đến hôm ấy, đầu đường cuối ngõ chật ních người đứng chờ để được thấy phong thái tướng quân Huyền Thiết doanh, không ngờ đợi cả buổi chẳng thấy gì cả – từ trạm dịch và bên phía Bắc đại doanh đi bộ tới, chỉ có mấy quan văn đại diện cho triều đình tiếp nhận đầu hàng dẫn nguyên trú quân Bắc cương, nguyên trú quân Trung Nguyên và một vị tham tướng không nổi danh của Huyền Thiết doanh, Cố Quân đêm hôm trước đã tự mình tìm đại cỗ xe ngựa nhỏ không mấy gây chú ý mà về nhà, hôm sau vào thẳng hoàng cung diện thánh.

Ngày trước y rất thích trò rêu rao qua chợ, ném trái cây đầy xe, đá lông nheo với các cô nương xinh xắn ven đường đến đau mí mắt. Nhưng hiện tại không thích nữa, thứ nhất Giang Nam chưa giành lại, không mặt mũi nào, thứ hai là y dần dần bắt đầu không thích loại phù hoa và náo nhiệt đó... chẳng rõ là vì sao, có thể là mệt rồi, cũng có thể là già rồi.

Mà lúc này, Trường Canh đang ở trên đường lên phương Bắc chẳng biết lề mề gì vẫn chưa chịu về. Trường Canh vắng nhà, Cố Quân một mình ở hầu phủ trừ nghe chim chửi đổng ra thì cũng chẳng còn việc gì khác để làm, y không dám thoải mái ăn ngủ làm biếng dăm ba ngày để lấy lại nguyên khí – đó là cách của người thiếu niên, y đã không còn đủ điều kiện này, nếu thật sự buông lỏng sợi dây căng trong lòng, chỉ sợ chờ y không phải tinh thần phơi phới mà là bệnh nặng.

Bởi vậy y vội vàng tới gặp Lý Phong điểm danh rồi chạy đến Giang Bắc.

Trước khi Cố Quân xuất phát, Phụng Hàm công đến nhà bái phỏng.

Phụng Hàm công ngồi xuống ngay cả ngụm trà cũng chưa kịp uống, đã hớt hải lôi Cố Quân đi: "Đại soái, Nhạn vương điện hạ gửi thư, dặn ta trước khi ngài đi, nhất định phải đưa ngài đi xem cái này."

Cố Quân cười nói: "Sao thế, Phụng Hàm công chế tạo ra đại hải quái à?"

Trương Phụng Hàm cười "khà khà", ra vẻ bí hiểm không nói gì. Lão nhân gia mấy năm trước còn là lão hủ lậu vẻ mặt không ai tang ma cho, hóa ra là vì nhàn rỗi, mấy năm nay từ sáng đến tối ở trong Linh Xu viện, ngược lại như cây già nở hoa, mặt mày hồng hào, hệt như gặp gỡ một lão thái thái mỹ mạo tú lệ vậy.

Cố Quân đành phải lên xe của lão nhân gia, cũng tự động đảm nhận chức tiểu tư bưng trà rót nước, tránh để Trương Phụng Hàm nước miếng tung tóe làm mình mất nước: "Phụng Hàm công càng già càng dẻo dai, thực sự khiến người ta hâm mộ."

Trương Phụng Hàm vội nói "không dám" mà nhận chén trà, bộ ria hoa râm vểnh lên, cười nói: "Triều đình dùng được lão già này, ta sống mới có niềm vui, hỏa cơ cương giáp ai cũng chê bẩn, mà ta từ nhỏ đã yêu nghề này, chẳng những yêu, còn có thể yêu ra trò trống, chẳng phải là chuyện tốt sao?"

Cố Quân cân nhắc một chút, cảm thấy cũng có lý, chỉ tiếc đạo lý này không thể áp dụng cho y – Người ta yêu hỏa cơ cương giáp là bình thường, làm quan yêu quan cao lộc hậu cũng là nhân chi thường tình, nhưng đến chỗ y, nếu nói yêu đánh trận yêu giết người... thật sự chẳng giống tiếng người lắm.

Thế nhưng lúc ấy cũng vừa vặn là y tự mình chọn con đường này.

Vì sao?

Cố Quân nhất thời không nghĩ ra, chỉ nhớ lúc nhỏ mình rất ghét ba chữ "đi biên cương" này, bởi vì điều đó có nghĩa là phải chia tay bạn bè, mỗi ngày đều phải nhìn thấy ông cha đáng sợ, ăn không ngon ngủ không yên. Lúc mười mấy tuổi bị đám cựu bộ của phụ thân bắt lên chiến trường, không đợi chút nhiệt huyết thiếu niên lên đầu, trận đầu tiên đã xảy ra một sự cố không lớn không nhỏ... Sau đó, y dần dần quen với cuộc sống ăn cát chốn biên cương, cũng tuổi trẻ khinh cuồng vài năm, cho đến khi nghe Gia Lai chỉ ra chân tướng biến cố Huyền Thiết doanh năm đó, chút xíu mong muốn mở mang bờ cõi ban đầu triệt để tắt lụi, mỗi ngày tựa hồ cũng chỉ là kết thúc chức trách mà thôi.

Khi cả nước chìm trong niềm hân hoan Bắc cương đại thắng, ngày giành lại Giang Nam có lẽ sắp tới, Đại soái tứ cảnh cùng một lão già dở hơi ngồi trên một cỗ xe ngựa tròng trành, để tay lên ngực tự hỏi lựa chọn của mình, hơn nữa nghĩ mãi chẳng ra – Y hồi ức cuộc đời mình một chút, phát hiện rêu rao khắp nơi xuân phong đắc ý giành hết mỹ nhân tâm cũng thế, muốn hào khí ngút trời gót sắt tung hoành, bễ nghễ thiên hạ cũng vậy... đều đã rất nhạt.

Hiện giờ có thể nhớ tới, cơ bản đều là những khi y muốn bỏ gánh.

Đang thất thần thì Trương Phụng Hàm nói: "Đại soái, tới rồi."

Cố Quân chốc lát đã gom chuyện cũ năm xưa lại, đúng lúc giả bộ rất đỗi chờ mong để lão nhân gia vui: "Còn chưa cho ta biết Linh Xu viện chế tạo ra cái gì?"

Chưa dứt lời, y đột nhiên cảm thấy mặt đất rung một cách kỳ lạ, như có vật khổng lồ lọc cọc đi qua, ngoài xe truyền đến tiếng hò la.

Cố Quân nhảy xuống xe ngựa, sững sờ.

Chỉ thấy một vật khổng lồ thật sự nằm ngang trước mắt, Cố Quân: "... Đây là xe lửa hơi nước đó à?"

Tựa như bản vẽ lật xem ở trạm dịch trong đêm khuya lạnh lẽo nguyên bản sống dậy, trên đầu xe khắc phù điêu bách mã chạy chồm giống như in, trên cùng có một cái đầu ngựa dựng bờm, ngửa đầu ra vẻ hí dài, đằng sau kéo từng toa xe có vẻ chứa được rất nhiều, trang bị phức tạp trên bánh xe lộ ra ngoài, nhìn hoa cả mắt – loại người ngoài nghề như Cố Quân hoàn toàn không phân ra cái nào hữu dụng, cái nào đơn thuần là để trang trí.

"Ray đang xây dựng, đoạn này chỉ dùng chạy thử, không dài." Trương Phụng Hàm kích động đến rịn mồ hôi mũi, "Cát Thần! Cát Thần đâu rồi?"

Trong cửa sổ sau đầu ngựa thò ra một khuôn mặt tròn xoe: "Dạ, sư phụ! Hầu gia!"

Trương Phụng Hàm: "Cho Đại soái xem xe của chúng ta chạy trông thế nào!"

Cát Thần nghển cổ la lên một tiếng: "Được ạ!"

Nói xong hắn lùi về trong đầu xe, linh xu trẻ tuổi như một con khỉ cầm hai lá cờ ở phía trước múa may một chút, xe hơi nước liền chậm rãi khởi động, mùi tử lưu kim thoang thoảng chỉ Cố Quân có thể nghe được theo hơi nước trên nóc xe bay ra, sau đó còi hú dài một tiếng, nguyên dãy đuôi đằng sau chẳng mảy may ảnh hưởng đến sức hành động của đầu xe, nó vững vàng mà càng chạy càng nhanh, càng chạy càng nhanh-

Cuối cùng biến mất khỏi tầm mắt Cố Quân.

Đám linh xu điên điên khùng khùng xung quanh lại bắt đầu kêu réo om sòm, Trương Phụng Hàm chỉ có thể cao giọng giữ trật tự: "Quy củ đâu? Quy củ đâu! Trước mặt An Định hầu gia, cho ta chút thể diện được không?"

Không ai nghe ông.

Trương Phụng Hàm đành phải ngượng ngùng quay sang Cố Quân: "Đại soái chê cười rồi, mấy hôm nay chúng vẫn như vậy, xe chạy một lần là hò hét một lần, ai tới cũng vô dụng – Ôi, chẳng giấu gì ngài, thứ này vốn là nhờ quan hệ hải ngoại của Đỗ công để mua bản vẽ với giá cao, chỉ là bọn Tây Dương kia bất kể có xâm phạm triều ta không, đều rất gian trá, giấu vài chiêu đi, bắt đầu từ dọc tuyến vận hà, cho đến giờ đã hỏng vô số huyền thiết tinh thiết, nếu không có Nhạn vương điện hạ âm thầm hỗ trợ, hạng mục này đã sớm bị bên trên gạch bỏ... Đám nhóc này chẳng dễ dàng gì, ngài đừng để ý bọn chúng."

Cố Quân chắp tay sau lưng đứng tại chỗ, vẫn nhìn hướng xe lửa hơi nước biến mất không thôi, kỳ thực y cũng rất muốn la hét với đám linh xu bên cạnh, nhưng sợ dọa người ta, đành phải cố trưng ra vẻ chững chạc, lòng lại đã đi theo cỗ xe dài chạy bằng tử lưu kim.

Một đường ray như động mạch dựng lên ven bờ vận hà, Lưỡng Giang không còn là nơi trời cao Hoàng đế xa nữa.

Cố Quân không tự chủ được nhớ tới nguyện cảnh Trường Canh từng nói với mình, "Để hỏa cơ chạy trên mặt đất đều quay về ruộng đồng, trường diên bay trên trời chở đầy lữ nhân bình thường về quê thăm người thân..."

Cố Quân quay đầu lại chân tâm thành ý cười nói với Trương Phụng Hàm: "May là nhiều năm qua ta chưa bỏ gánh, nếu không phải đi đâu để thấy thần vật kiểu này trước tiên?"

Phụng Hàm công hoàn toàn không thể hiểu ý: "Ha ha ha, Đại soái lại đùa rồi."

Cố Quân không biết sau khi chết trên sử xanh sẽ lưu danh gì cho y, dù sao thì hai lần bình định Tây Vực có y, lúc kinh thành sắp phá có y, lúc Bắc cương quy hàng có y, lúc cỗ xe lửa hơi nước đầu tiên nổ vang rẽ bụi mà đi cũng có y – Vừa nghĩ như thế, sự hoang mang trong lòng trên đường đến đây vậy mà dễ dàng bị giải quyết, tìm được từ đó một chút thú vị "chỗ nào cũng có ta".

Đầu tháng Năm, Cố Quân lên đường về Nam, nghe ngóng được Nhạn vương đi đường bộ dọc tuyến quan đạo, bèn bỏ ưng, dẫn một đội khinh kỵ cưỡi ngựa đi theo quan đạo, quả nhiên ở vùng Trực Lệ không xa kinh thành lắm, mưu tính đã lâu mà "tình cờ gặp" xa giá Nhạn vương.

Trường Canh không phải cố ý trì hoãn hành trình, y "mài dao không lỡ việc đốn củi", dọc đường lần lượt gặp hết những người cần gặp, chuẩn bị vừa đến kinh thành thì lập tức không chừa đường mà dấy lên một cơn bão.

Đây là một đoạn đường tính toán kỹ lưỡng, y vốn không chờ mong có thể gặp Cố Quân đến vô ảnh đi vô tung, vừa nghe thủ hạ báo, cơ hồ liền bắn khỏi xe.

Trước mặt người khác làm bộ làm tịch chu toàn lễ phép, vừa vào khách điếm của trạm dịch tạm thời nghỉ chân đóng cửa lại cho mọi người lui hết, Trường Canh liền hận không thể dính vào Cố Quân mà sờ soạng trên dưới một lần: "Sao ngươi lại cưỡi ngựa đi quan đạo? Không thấy mệt à? Ở Bắc cương có bị thương không? Đưa cổ tay cho ta... Gần đây thân thể ăn uống thế nào? Trần Khinh Nhứ có nói gì không?"

Cố Quân dựa vào một bên, nghe y đem lời bình thường dông dài trong thư hỏi ra miệng lần nữa, cũng không sốt ruột, cười tủm tỉm hỏi: "Muốn ta bẩm báo chuyện nào trước?"

Trường Canh bật cười, cũng phát hiện mình kích động quá mức: "Đường xa như vậy, sao không dùng ưng?"

Cố Quân: "Đổi từ trạm dịch trú quân phía trước."

Trường Canh ngẩn ra, bỗng nhiên ý thức được ngôn ngoại chi ý của Cố Quân, ngạc nhiên ngẩng đầu lên: "Ngươi là vì..."

"Không phải à? Trên đường chờ chực đã lâu, để chuyên môn đánh cướp Nhạn vương điện hạ." Cố Quân chống tay hai bên người y, cằm gác lên vai Trường Canh, uể oải nói, "Muốn qua đường này, để lại tiền mãi lộ."

Trường Canh nuốt nước bọt, tự dưng nhớ tới bàn tay ngàn dặm gửi đến: "Cướp tiền hay cướp sắc? Tiền thì có một vương phủ một biệt viện, có cửa hàng chuyên môn bán vật hiếm lạ, còn có..."

Cố Quân ra vẻ kinh ngạc: "Lắm tiền thế cơ à? Ta mới lần đầu chặn đường đánh cướp đã đụng trúng loại dê béo này, thật là tốt số... Thế ta phải cướp sắc!"

Trường Canh phá lên cười, bất ngờ kéo y xuống, kề tai nói: "Nghĩa phụ, xe hơi nước chắc hẳn người cũng thấy rồi, chuyện đã đáp ứng con thì sao?"

Cố Quân quyết đoán đổi ý: "Ngươi xem cái miệng ta, mới rồi nói nhầm, nói lại lần nữa – Nhóc con, ngươi nên moi tiền ra đi!"

Trường Canh "tủi thân" làm nũng bên tai y: "Không có tiền mặt, tiền mặt đều bị nam nhân của ta cầm đi rượu chè hết rồi, bán mình thế vào không được sao?"

Y ở đại doanh Lưỡng Giang mấy tháng, sắp bị nhiễm khẩu âm, không biết từ đâu học được chất giọng êm dịu như hơi nước phả vào mũi, bốn chữ "nam nhân của ta" kéo thật dài chui vào tai, khiến lưng Cố Quân ngứa ngáy, đối với loại "tâm can" này một chút biện pháp cũng chẳng có, đành phải muốn gì cho nấy.

Đáng tiếc chỉ có một đêm thân mật vội vàng, hôm sau cả hai đều phải thu dọn hành trang mà đi qua nhau, một lên phương Bắc một về phương Nam, giống như thay ca vậy.

Nhạn vương chính thức về triều, trùng chưởng Sở quân cơ.

Phương Khâm thì im lặng chuẩn bị hai bản tấu, nếu Nhạn vương xử trí việc phong hỏa phiếu bất lực, hắn sẽ tố Nhạn vương hại nước hại dân, năm đó tầm nhìn hạn hẹp thúc đẩy phong hỏa phiếu, đến mức tạo thành loạn cục hiện giờ, lại mượn đề phát huy, có lẽ có thể phế trừ mấy lần cải cách lại trị của Nhạn vương, khôi phục nguyên trạng triều đình lộn xộn loại người nào cũng có này.

Nếu những cự cổ không nể Hộ bộ đó sau khi Nhạn vương ra mặt lại nghe theo, thành công xử lý xong việc phong hỏa phiếu, vậy cũng có đầy điều để chỉ trích – Chẳng phải Nhạn vương luôn khoe khoang mình không đảng không bè, cương trực công chính à, Phương Khâm biết y và bọn Đỗ Vạn Toàn sớm có mật mưu, chỉ là chưa bắt được thóp, lần này vừa vặn lôi hết ra nói – Đường đường Thân vương, trăm phương ngàn kế chuyển dời đại quyền tài chính quốc gia vào tay đám thương nhân dã tâm bừng bừng... thậm chí mấy lần ra khơi, với người Tây Dương cũng có liên hệ, là có toan tính gì?

Phương Khâm hoàn toàn chuẩn bị sẵn sàng, tuyệt không định để Nhạn vương cựa mình – trên đại triều hội lúc cùng Nhạn vương đi lướt qua gật đầu chào hỏi, Phương Khâm cảm giác được, Nhạn vương cũng không định bỏ qua cho hắn.

Thế gia nhiều đời truyền lại, của cải đều rất nhiều, cơ hồ họ nào cũng có hàng loạt thôn trang và đất đai, từ thời Nguyên Hòa giá lương thực không ngừng giảm, để có thu nhập đều đều, các đại thế gia âm thầm theo thương, biến sự lén lút thời Vũ đế thành phong trào như hiện giờ. Việc này một mặt vô hình trung khiến thương hộ vốn ở mạt lưu bắt đầu tiến dần từng bước, một mặt cũng đang không ngừng ảnh hưởng đến thương hộ dân gian.

Đại Lương từ Thái tổ Hoàng đế đã bắt đầu có pháp lệnh, những người có công danh, vương công quý tộc, không được tranh lợi với dân, bởi vì thương một khi dính chữ "quan", sẽ không còn là thương thuần túy, dù không chủ động ức hiếp người ta, cũng tất có tiểu nhân cậy thế.

Thù hận giữa cựu thế gia và tân quý tồn tại đã lâu, không phải chuyện của một triều một thời.

Lúc này tân quý lên đài, chẳng khác nào cá khô trở mình, không phải gió đông thổi bạt gió tây thì là gió tây thổi bạt gió đông, cựu thế gia dĩ nhiên phải dốc hết sức chèn ép. Thù mới hận cũ chất lại, khi quốc gia rối ren còn có thể bịt mũi vạn người một lòng, giờ đây man tộc cúi đầu, Giang Nam lại có thể bớt ra một tay, chiến cuộc có vẻ chẳng cấp bách lắm, liền lập tức bùng lên như đau đẻ vậy.

Nhạn vương sau khi về triều ngay cả hòa hoãn xung đột cũng không có, chờ y chính là cãi vã ỏm tỏi trên đại triều hội.

Cãi từ có nên hủy phong hỏa phiếu phiền toái lớn này hay không, đến đủ loại tệ đoan của tân lại trị, sau cùng công kích đến Ban vận hà. Kế đó lại cãi từ vương quyền đến dân quyền, từ trật tự dân thương sang gia pháp tổ tông, cuối cùng chiến hỏa không biết làm sao mà còn lan sang quân đội, bắt đầu từ chi phí của trú quân tứ cảnh trước mắt, như ngựa hoang thoát cương lao thẳng đến vấn đề Giang Nam rốt cuộc có nên tiếp tục đánh hay không – Đảng Phương Khâm xem như bắt được căn bản của Nhạn vương, nếu không phải mấy năm nay chi phí chiến tranh khổng lồ, quốc khố mỗi ngày đều đang kêu nghèo đến khàn cả giọng, Nhạn vương cũng chẳng nắm được cơ hội một lòng hướng về tiền, khuấy triều đình rối tung như vậy.

Có người của thế gia đứng ra gây chuyện: "Hoàng thượng, mười tám bộ lạc quy hàng, về sau chúng ta sẽ rất dư dả tử lưu kim, nguyên khí cảnh nội đã chậm rãi khôi phục, trong vòng dăm ba năm thật sự không nên khai chiến nữa. Thần thấy việc đàm hòa người Tây Dương gần đây trình lên cũng rất có thành ý, họ rút khỏi Trường Giang, trả lại đất đai chiếm đoạt, chỉ mở cảng Tây Dương ven bờ Đông Hải, phân tán trú quân đến mấy bến tàu chuyên môn mở ở vùng duyên hải, vừa có thể trả bách tính sự an bình, tương lai lại có thể làm trạm trung chuyển thông thương trên biển cho chúng ta, có gì là không thể? Cố soái bất phân tốt xấu một mực gây sự, không ngừng thêm điều kiện, cũng không tránh khỏi không hợp tình hợp lý."

Đương nhiên lại có đảng Nhạn vương tiếp chiêu: "Ốc thổ ven bờ Đông Hải ta dựa vào cái gì mà phải cho lũ khỉ Tây Dương? Chúng ta không biết tự xây cảng à? Không có thương thuyền thương đội của mình chắc? Đất đai tổ tông để lại, ngài một câu vạch luôn cho người Tây Dương, cả triều trên dưới thật là không còn ai hào phóng hơn ngài!"

Phương Khâm tự mình ra trận, lái chủ đề "phản quốc thông địch" sắc bén đi, điềm tĩnh nói: "Người Tây Dương vượt trùng dương mà đến, phần lớn quân nhu tiếp viện sử dụng cần từ ngoài ngàn dặm cung ứng, binh dẫn tới lại là quân đội mỏi mệt xa xứ, theo thần thấy, thật sự không cần như lâm đại địch thái quá, cứ giả vờ đàm hòa trước thì có làm sao, chẳng cần tám năm mười năm, chính họ đã khó có thể tiếp tục. Cố soái cúc cung tận tụy vì Đại Lương ta, mấy năm nay cũng thương bệnh liên miên, chưa được sống mấy ngày yên tâm thoải mái, cho dù là thương mười vạn tướng sĩ tắm máu ngoài tiền tuyến, cũng nên ngưng chiến nghỉ ngơi – việc này có thể tái nghị sau, còn về phong hỏa phiếu, không biết Nhạn vương điện hạ... có kế hoạch gì?"

Nhạn vương bàng thính từ đầu đến giờ trực tiếp bị hắn lôi ra, ngẩng đầu nhìn Phương Khâm một cái: "Ta thấy tái nghị sau thì không cần đâu? Phong hỏa phiếu lấy 'phong hỏa' làm danh, xét đến cùng là chung một nhịp thở với chiến sự, chư vị đại nhân đã muốn cắt đất nuôi hổ lang, thì đợt phong hỏa phiếu thứ ba quả thật cũng chẳng có lý do để phát hành, triều đình lấy thuế má năm năm sau làm đảm bảo, chung quy có thể kiếm thêm một ít, đủ trả nợ rồi."

Phương Khâm lắc đầu cười nói: "Nhạn vương nói dỗi rồi, lúc này đình chiến há là cắt đất nuôi hổ lang? Người Tây Dương đã liên tiếp bại lui, đây là biến tướng xin hàng, trên biển họ chẳng qua là một đám bèo không rễ, thật sự không thể tạo thành họa lớn trong lòng."

Trường Canh cũng cười, không nóng không lạnh nói: "Phương đại nhân không ra khỏi nhà mà nắm rõ chuyện thiên hạ, thật khiến người ta cảm phục, xa tận ngàn dặm đã biết người Tây Dương là bèo không rễ, nhìn xa trông rộng như thế, chúng ta thật khó trông bóng lưng."

Thấy hai người châm chọc nhau bằng giọng chúc tết, Lý Phong không thể không ra mặt: "Việc trong quân do người trong quân nói, trẫm triệu các ngươi đến, là để các ngươi bàn về phong hỏa phiếu việc khẩn cấp trước mắt, tranh cãi gì đến chiến trường Lưỡng Giang? Một chút sổ sách tính mãi chẳng ra, nhọc lòng trái lại nhiều – A Mân, ngươi cũng bớt nói vài câu đi."

Hộ bộ Thị lang đúng lúc theo lời Hoàng thượng đứng ra nói: "Nhạn vương điện hạ mới từ Giang Bắc trở về, chỉ sợ vẫn chưa nắm rõ nguyên nhân đợt phong hỏa phiếu thứ ba bị tắc. Ngài cũng biết, văn võ bá quan triều ta tuy lương bổng hậu hơn tiền triều, dù sao còn có gia đình già trẻ, dựa vào bổng lộc ít ỏi duy trì chút thể diện mà thôi, há dám đại phú đại quý... Gặp lúc quốc gia khó khăn, thật sự là lực bất tòng tâm, từ sau khi việc mua phong hỏa phiếu đưa vào khảo hạch lại trị, bao nhiêu người táng gia bại sản? Trước mắt thật sự là một xu cũng chẳng moi ra được. Vương gia thường ngày rất thân với đám Đỗ Vạn Toàn cự cổ thương hội, ngài xem có thể do ngài ra mặt, trưng lần nữa từ họ không?"

Trường Canh còn khuya mới bước vào cái bẫy có thâm ý khác này, mặt không đổi sắc nói: "Trên đường về kinh ta đã bái phỏng đám người Đỗ công, hiện giờ các nơi nhà xưởng mới xây, thân là nghĩa thương, đôi khi lại không thể không trông nom nạn dân, chi tiêu rất nhiều, quá nửa thân gia đều đã đặt ở Ban vận hà, cho dù có lòng muốn hiến toàn bộ gia sản giúp nước, chẳng lẽ ngay cả bao nhiêu nạn dân khó khăn lắm mới ổn định cũng bỏ rơi luôn? Không giấu gì chư vị, Đỗ công nguyên nói với ta là, ông ấy thật sự cũng chẳng moi nổi một xu nữa."

Phương Khâm không chịu buông tha y: "Chẳng lẽ điện hạ năm đó dốc hết sức thúc đẩy phong hỏa phiếu, không nghĩ đến để lại một đường lui?"

Trường Canh lạnh lùng nhìn hắn: "Phương đại nhân, hồi đó ta đã nói rất rõ, mượn tiền trước, chờ hai năm đến kỳ, quốc khố bớt căng, tự nhiên có thể xoay được, nếu thật sự nhất thời chưa kiếm ra, thì có thể thử dùng đợt phong hỏa phiếu thứ ba giải mối nguy sém lông mày – Lúc bấm tay tính tiền bạc chảy vào quốc khố Phương đại nhân đã tiếp chưởng Hộ bộ, không hề đưa ra dị nghị gì, hiện giờ ngài đi hỏi ta, bổn vương trái lại còn muốn thỉnh giáo đại nhân, hơn hai năm nay tiền tài ra vào Hộ bộ đều đã đi đường nào, vì sao lại thiếu nhiều đến thế?"

Phương Khâm rốt cuộc không nhịn được nổi giận: "Sổ sách đều có đó, nếu Nhạn vương nghi ngờ hạ quan, thì có thể đi kiểm tra!"

Trường Canh ngoài cười trong không cười nói: "Cũng đúng, chư vị đại nhân Hộ bộ không thể nào mà ngay cả tính toán sổ sách cũng làm không ổn, thế chắc hẳn là năm đó Phương đại nhân bị quỷ mê tâm khiếu, tính sai rồi?"

Lý Phong: "Đủ rồi!"

Phương Khâm vội tạ tội, Trường Canh hơi khom người, cố chấp đứng ở một bên, trên triều hội đa số thời gian y đều cực kỳ im lặng, có chuyện hầu hết là người dưới nói, rất ít đối đầu gay gắt với ai như thế, Phương Khâm không nhịn được nhìn y một cái, cứ cảm thấy rất không bình thường.

Nhất định là Nhạn vương đã sớm có chuẩn bị cho cục diện khó xử của phong hỏa phiếu, vì sao y thà cãi nhau trước mặt Hoàng thượng cũng không chịu đàng hoàng nói ra? Y đang chuẩn bị cái gì?

Đại triều hội tan rã trong không vui, Nhạn vương bị giữ lại, cùng Lý Phong một trước một sau trầm mặc đi, cái chân gãy của Lý Phong tuy đã khỏi, nhưng thủy chung là bệnh căn không dứt, đi nhanh sẽ hơi tập tễnh.

"Đi dạo hoa viên với trẫm một chút." Lý Phong nói.

Vừa vặn, hôm nay Thái tử mới học xong, đang dẫn tam hoàng tử ra hoa viên chơi, thấy phụ thân và tiểu thúc thúc, vội chạy tới chào theo quy củ. Thái tử lớn hơn một tuổi cũng là lớn, hiện giờ đã hơi có dáng vẻ của tiểu thiếu niên, tam hoàng tử mới năm tuổi, đang thay răng, nói hơi lọt gió.

Lý Phong thấy Thái tử, đương nhiên phải trưng ra uy phong của người làm cha, thoạt đầu kiếm chuyện răn dạy Thái tử một phen, sau lại đanh mặt thẩm vấn việc học hành một hồi.

Thái tử mới đầu còn đáp rất tốt, cuối cùng ánh mắt cứ liếc sang đệ đệ, Lý Phong nhìn theo ánh mắt nó, tức khắc dở khóc dở cười.

Tam hoàng tử không răng còn chưa đến tuổi bị phụ thân tra hỏi, vốn im như thóc đứng ở một bên, sau đó bị Nhạn vương vẫy tay gọi đi. Nhạn vương dẫn nó đi ngồi bệt dưới đất chẳng chú trọng tẹo nào, thuận tay bứt vài cọng cỏ bện châu chấu. Trẻ con trong cung cấm đâu từng thấy mấy thứ nông thôn như vậy? Tam hoàng tử tròn mắt, ngốc nghếch thò đầu nhìn, chỉ chốc lát, đứa bé ấy tay trái cầm châu chấu cỏ, tay phải cầm cào cào cỏ, vui đến chẳng màng giấu cái răng cửa bị thiếu.

Lý Phong: "... Ham chơi mất cả ý chí, còn ra thể thống gì nữa!"

Hắn đanh mặt trừng Trường Canh một cái, lại đuổi hai đứa trẻ không muốn đi, Lý Phong nhìn thấy tam hoàng tử đằng xa nhón chân nhét một con cào cào vào tay Thái tử, Thái tử liền dắt nó bằng tay để không, đứa lớn dẫn đứa bé, trông như một đôi tiểu huynh đệ nhà bình thường vậy.

Thái tử tính tình ôn hòa, giống tổ phụ.

Lý Phong hiếm khi hơi động dung, lúc chuyển hướng sang Trường Canh, thần sắc cũng bất giác hòa nhã không ít, hỏi: "Lâu như vậy mà ngươi vẫn không định thành gia sao?"

Nét cười trên mặt Trường Canh lập tức nhạt đi.

Lý Phong nhận ra y không thích nhắc tới chuyện này, liền thở dài nói: "Hay đại ca làm chủ, cho ngươi nhận một đứa con thừa tự trong tộc, chờ tương lai lớn tuổi rồi, chung quy phải có một người hiếu thuận hầu hạ."

Trường Canh dừng một chút, vân vê tay, trên ngón tay phảng phất còn lưu lại nhựa cây, y thoáng nhìn hướng tam hoàng tử đi, thần sắc tựa hồ khá ý động, song lát sau vẫn không gật đầu.

Trường Canh: "Đa tạ hoàng huynh, không cần đâu."

"Đứa trẻ đi theo ngươi, tương lai thừa tước tập vị, không cần công lao đã ít nhất là một Quận vương, tiền đồ tốt, có cả tá người sẵn lòng cho." Lý Phong nói, "Ngươi không cần lo lắng đoạt con người ta tổn âm đức."

Trường Canh bỗng nhiên vái một cái nói: "Hoàng thượng, thần nguyện noi theo Thương Quân, không muốn liên lụy con cháu."

Lý Phong khóe mắt hơi giật, quay người trầm mặc nhìn y.

Trường Canh khom lưng không chịu đứng lên, y thoạt nhìn trẻ tuổi hữu lực, nhưng lại cô tuyệt quạnh quẽ.

Nguyện noi theo Thương Quân – Muốn cải cách duy tân không từ thủ đoạn, bị người đời căm ghét khinh bỉ, ngũ xa phanh thây giữa chợ... Trở thành xỉ than thời đại này từng oanh oanh liệt liệt đốt qua.

Ngày đó tất cả nội thị đều bị đuổi đi thật xa, không ai biết huynh đệ Lý thị ở trong hoa viên nói những gì, từ chính ngọ đến tận tối, Nhạn vương mới rời cung.

Chỉ còn lại vài cọng cỏ bị nhổ để bện sâu, trụi lủi đứng đó.

Hôm sau, Giang Sung nhận được một chỉ thị của Nhạn vương – đừng cho An Định hầu về kinh, giặc có thể không đánh, nhưng nhất định phải giữ y lại Lưỡng Giang.

Mưa to Giang Nam hơi tàn khốc, mấy hôm trước còn nóng đến ngủ không nổi, đột nhiên một cơn mưa rào gió giật mà thay đổi hẳn, hơi ẩm có thể thấm vào xương cốt.

Nhã tiên sinh lau hơi nước trên mặt, rảo bước lên thập cấp, theo bậc thang sắt vươn ra trên xác ngoài xấu xí đáng sợ của hải quái Tây Dương mà đi lên đỉnh, có một lão nhân tóc bạc gai mắt đưa lưng lại, đang nhoài lên thứ gì đó, lưng như một đoạn nan tre đốt cong.

Nhã tiên sinh ho nhẹ một tiếng: "Bệ hạ, sao khuya thế này còn chưa nghỉ ngơi?"

"Người cao tuổi sẽ bị giấc ngủ vứt bỏ," Giáo hoàng vẫy tay nói, "Lại đây, xem cái này."

Đỉnh hải quái có một "thiên lý nhãn", không phải món đồ chơi be bé có thể kẹp lên mũi, nó dài hơn ba thước, bằng đồng, bên ngoài có từng vòng như đốt tre, dùng một cái giá tam giác cố định chặt chẽ trên mặt đất, trên ống dài bằng đồng có từng vòng nấc khắc phức tạp, đều là văn tự Tây Dương.

Đây là "thiên lý nhãn" chân chính, có thể nhìn xa ngàn dặm.

Xuyên qua cái ống dài này, họ có thể từ trong đại hải quái trôi trên Đông Hải trông thấy cương thổ Đại Lương ở bờ bên kia.

Chỉ vài năm ngắn ngủi, ngàn dặm đất màu trầm tịch đối diện trong bóng đêm tăm tối bắt đầu sáng lên ánh lửa bất diệt – sáng nhất tập trung nhất là tháp theo dõi của trú quân, phía sau êm dịu hơn nhiều, là đèn canh gác của hàng loạt nhà xưởng mới dựng làm việc ban đêm, không có khí thế ngất trời, nhưng phân bố ở các nơi, như những vì sao lấp lánh.

Nhã tiên sinh lấy làm lạ hỏi: "Bệ hạ đang nhìn gì vậy? Quân địch có dị động sao?"

"Quân địch liên tục có dị động," Giáo hoàng thấp giọng nói, "Những kẻ ở thánh địa trước là thần phục sự tham lam của mình, sau lại gửi gắm kỳ vọng không thực tế trên việc đàm hòa, mất đi tiên cơ, chỉ có thể một lui hai lui, hiện tại hạm chỉ huy rút về trên biển, qua một thời gian người Đại Lương rất có thể sẽ xuất binh cắt đứt tuyến tiếp viện nối với quốc nội của chúng ta, đến lúc đó không biết phải kết thúc làm sao."

Nhã tiên sinh: "Chúng ta sở dĩ lui tới bờ biển không phải là có suy tính sao? Đến lúc đó quần đảo Đông Doanh có thể làm đường tiếp viện chuyên dụng... Chúng ta có thể đi từ ngoại hải, người Lương tuy nhái theo hổ sa giao cơ động chạy nhanh của chúng ta, nhưng thiết kế chỉnh thể hạm đội còn chưa thể thích ứng với tác chiến viễn hải."

"Người Đông Doanh như một đám chó hoang, khi ngươi chiếm ưu thế, họ sẽ không chút do dự bám lấy đòi thịt thối, một khi ngươi thất thế, đừng hy vọng còn có thể được sự trung thành của họ." Giáo hoàng khẽ thở dài, "Hơn nữa, kết luận thủy quân Đại Lương không thể thích ứng tác chiến viễn hải nhất định chuẩn xác sao? Mấy năm trước họ thậm chí còn chưa có một nhánh thủy quân ra dáng – Sao có thể kiến lập phần thắng của mình dưới giả thiết địch nhân yếu ớt?"

Nhã tiên sinh trầm mặc chốc lát: "Nhưng bệ hạ à, thánh sứ..."

"Ta tìm ngươi đến chính là vì chuyện này," Giáo hoàng lấy từ trong lòng ra một phong thư, tay run như lá rụng mùa thu, thần sắc lại cực kỳ lạnh lùng cứng rắn, không thấy một chút ôn hòa hiền lành bình thường, "Từ trong nước đến, xem đi."

Nhã tiên sinh nhanh chóng nhận lấy, sau đó biến sắc: "Đây... đây là thật ư?"

Giáo hoàng hạ giọng nói: "Thánh địa biến động rồi."

Người của đảng bảo thủ ngồi trên cái ghế lạnh của đảng tự do, ngồi cầu bập bênh đến liệt nửa người, điều tạm khoảng vạn người ở mấy quốc gia phụ thuộc lấy danh nghĩa kháng nghị mà bức đến thánh địa, tạo hỗn loạn, phế truất Quốc vương, xử tử hơn ba mươi người trong quý tộc cũ bao quát người thừa kế thuận vị đệ nhất, ủng lập một Quốc vương nít ranh tội nghiệp đại bác bắn không tới.

Vài ngày sau, phái bảo hoàng chậm chạp phản kích, tân Quốc vương đội vương miện mới bảy ngày đã bị ép xuống đài.

Hiện tại chính đàn thánh địa cực kỳ không rõ, chuyện gì cũng có thể xảy ra, thánh sứ trung với lão Quốc vương đương nhiên mất đi quyền hành, mà phái bảo hoàng thì đang ra sức làm thân với tòa thánh bị lão Quốc vương lạnh nhạt nửa đời, trong thời gian ngắn sẽ không đến gây chuyện với họ.

Nhã tiên sinh tư duy cực kỳ nhạy bén, nháy mắt đã nghĩ thông các mấu chốt trong đó.

Giáo hoàng chợt quay người lại, đôi mắt như chim ưng nhìn hắn chằm chằm: "Đây là một cơ hội, ngươi hiểu chưa?"

Nhã tiên sinh kích động hạ giọng: "Thế thánh sứ..."

Giáo hoàng hơi gật đầu, vừa khiêm hòa vừa lãnh khốc nói: "Hắn không còn là thánh sứ nữa."

Nhã tiên sinh hít sâu một hơi, bàn tay dưới cổ tay áo rườm rà siết chặt: "Tôi sẽ đi chuẩn bị luôn."

"Jacob," Giáo hoàng buông đôi tay già nua trong tay áo, đứng trước gió đêm, "Nếu chúng ta mất đi cơ hội lần này, về sau e là khó lòng bước lên mảnh đất này nữa, nó đã tỉnh rồi."

Nhã tiên sinh ngoảnh đầu thoáng nhìn bờ biển xa xăm, nhớ lại đèn đuốc vừa nãy nhìn thấy, trong lòng e sợ, vội vàng rời khỏi.

Trong khi người Lương không hay biết gì, nội bộ quân Tây Dương đã xảy ra một cuộc "phản loạn" như mưa rào gió giật.

Từ khi nhận được tin tức tới từ thánh địa đến lúc thánh sứ quyết định đào vong, chỉ cách nhau chưa đầy một nén nhang, không thể nói là không quyết đoán kịp thời, đáng tiếc hắn không biết tin tức của mình bị người ta chặn, đã chậm. Từ lúc hắn dẫn tàn quân đào vong đến khi bị thân vệ quân của Giáo hoàng ôm cây đợi thỏ bí mật bắt giữ, cách nhau chưa đầy một nén nhang.

Thánh sứ và đám người liên can bị Nhã tiên sinh bắn chết tại chỗ, lập tức bố trí một hàng hải hạm, ra vẻ công thành lui thân, ém chặt tin tức thánh địa nội loạn, trong quân cảng Tây Dương yên bình, binh lính bình thường vẫn tuần tra theo lệ, họ chỉ biết thánh sứ đã bị gọi về thánh địa, sau này lại chỉ có một lão đại.

Giáo hoàng không thay đổi thái độ đàm hòa mềm mỏng với người Đại Lương, ngoài mặt vẫn lui bước dần từng chút, cho đến tiết Thu phân năm Long An thứ chín-

Một loạt đồ quân nhu tiếp viện của Tây Dương từ ngoại hải vận đến quân cảng Tây Dương, hàng loạt quân nhu và tử lưu kim như một đám quỷ ảnh đông nghìn nghịt, thần không biết quỷ không hay chuyển lên bờ Giang Nam đất sém chưa nguội.

Suốt năm Long An thứ chín, Đại Lương nồng nặc mùi khói thuốc súng.

Cuối tháng Năm, triều đình do Nhạn vương đại diện, định ngày hẹn người mua phong hỏa phiếu đợt đầu do mười ba nghĩa thương làm đại diện, tuyên cáo đợt phong hỏa phiếu thứ nhất đến kỳ, cùng thời gian thành lập "Long An ngân trang" Lý Phong ngự bút thân phê, thiết lập tổng trang tại kinh thành, mở chi nhánh ở các địa phương, trước khi cơ cấu chi nhánh kiến thành, mọi sự vụ tạm do chính quyền làm thay, phụ trách thu gom phong hỏa phiếu đến kỳ và trả tiền. Hôm sau, Long An ngân trang công khai mấy cách trả tiền để lựa chọn, có thể trả hiện ngân, cũng có thể mở tài khoản ở Long An ngân trang, đổi phiếu ngân thành tồn ngân, chuyển thành Long An ngân phiếu dùng được trong toàn cảnh, khi số định mức đạt tới tiêu chuẩn nhất định, nếu muốn còn có thể đổi số định mức trong quan xưởng Ban vận hà quản lý, mức giá liệt hết ra đủ viết thành một quyển sổ dày, khiến đám Phương Khâm nghiến răng nghiến lợi cảm thấy việc này lại là Nhạn vương đã nghĩ sẵn từ sớm.

Trước đây Đại Lương cũng có đủ các kiểu tiền trang, có dân gian tư lập, hoặc quan lập do hoàng thương mở, dành riêng cho chính quyền dùng để hối đoái thông thương với nước ngoài, Long An ngân trang cưỡng chế dẹp tiệm, sát nhập đa số ngân trang quan lập, Nhạn vương sửa lại hình tượng ôn tồn lễ độ trước kia, từ sau khi trở về, như thể bị thứ gì đoạt xá, ngày qua ngày phát rồ lên.

Hoàng thương mặc dù mang chữ "hoàng", nhưng sau lưng hơn một nửa là các đại thế gia môn phiệt, xưa nay muốn ỷ thế hiếp người thì nhớ trên đầu mình có một chữ "hoàng", muốn kiếm lợi riêng thì toàn thân chỉ còn lại "thương", công tư bất phân quen rồi, sổ sách lộn xộn, lợi ích dính dáng trong đó nói ba ngày ba đêm cũng chẳng rõ nổi, từ lâu đã coi sản nghiệp quan gia là gia nghiệp của mình, ai có thể nghĩ đến một đêm nghiêng trời lệch đất, bị người ta không phân tốt xấu "tước đoạt gia nghiệp" như vậy?

Từ tháng Năm đến tháng Tám, trên triều đường có thể nói là mỗi ngày gà bay chó sủa.

Một kẻ đứng đầu quan trang làm chim đầu đàn liều chết kháng mệnh, lập tức bị tra ra tham ô hạ ngục, tịch biên điều tra, phu nhân vốn có bầu, vì việc này đành phải bôn ba liên tục, vốn đã thể nhược, kết quả là đẻ non, một xác hai mạng.

Nhạc mẫu là lão cáo mệnh, năm đó đại thọ bảy mươi có tiên đế ngự bút tự tay đề "lão thọ tinh", tuổi già mới có một mụn con gái, chiều chuộng như gì, làm sao chịu được việc này, lập tức đội hoành tiên đế đề muốn treo cổ.

Nhất thời sôi sùng sục, tất cả công hầu chốn kinh thành đều hận không thể lôi Nhạn vương ra lột da rút gân.

Phương Khâm chạy qua chạy lại trong đây, khéo léo né qua Nhạn thân vương có thân phận thiên hoàng quý trụ, chỉ thẳng đầu mâu vào Sở quân cơ, liên lạc thế lực lục bộ, liên danh dâng tấu nêu mười sáu tội trạng chỉ trích Sở quân cơ, quần tình kích phấn yêu cầu Hoàng đế xóa "cơ cấu lâm thời thời chiến" là Sở quân cơ này.

Sau lưng Sở quân cơ đương nhiên không phải tư lệnh không binh, dĩ nhiên phải phản kích, nhất thời tất cả chuyện xấu từ đời nảo đời nào đều bị vạch hết ra, cả triều minh thương ám tiễn, đấu đến ngươi chết ta sống, cho dù chưa từng can dự trong đây, đi ngang qua cũng phải trúng một hai mũi tên lạc.

Gần đến Trung thu, đã đến hồi căng thẳng nhất, ngay cả người cẩn thận như Giang Sung cũng bị cuốn vào một vụ án, tạm đình chỉ chức vụ chờ điều tra.

Mọi người đều biết, Hoàng thượng nhìn như công bằng, nhưng thực tế đang âm thầm bảo vệ Nhạn vương, nếu không y sẽ không thể lù lù bất động giữa mưa gió như vậy.

Om sòm như thế đến tận đêm Trung thu.

Theo thường lệ, Lý Phong phải đến hậu cung ăn một bữa gia yến, trên đường gặp tam hoàng tử, người nghiêm khắc hơn đối với ấu tử cũng có vài phần khoan dung, Lý Phong hiếm khi ôn nhu kêu nó lại, nắm tay dắt đi. Tam hoàng tử cũng sợ phụ thân như các ca ca, không dám lên tiếng, cố gắng với tay hắn chạy chậm theo bước chân cha, chỉ chốc lát đã chạy đến đỏ cả mặt.

Nội thị đành phải nhắc nhở một tiếng, bấy giờ Lý Phong mới cúi đầu nhìn thấy bộ dáng nơm nớp lo sợ của tiểu nhi tử, không biết vì sao, hắn liền nhớ đến hình ảnh Nhạn vương ngồi trên cỏ bện cào cào cho đứa bé này ngày hôm đó.

Lý Phong: "Gọi Nhạn vương vào cung, ăn bữa gia yến."

Nội thị bên cạnh vội vâng dạ, nhưng chạy một vòng lớn, lại chẳng dẫn được người về.

"Bẩm Hoàng thượng, nô tỳ không tìm thấy Nhạn vương điện hạ."

Lý Phong nhíu mày: "Không có ở Sở quân cơ à?"

Nội thị dè dặt đáp: "Gần đây không phải bên phía Giang đại nhân có chút việc ạ, vậy nên lại có người ầm ĩ đòi xóa sổ Sở quân cơ, điện hạ mấy hôm nay nói là tị hiềm, ngừng sự vụ hằng ngày lại... tấu thỉnh tội không phải còn ở trên bàn người ạ?"

Lý Phong day ấn đường, nhớ tới việc này: "Không đến nhà tìm xem? Vương phủ? Còn có phủ An Định hầu..."

"Tìm rồi ạ," Nội thị nhỏ giọng đáp, "Gia nhân nói Vương gia đã xuất thành đi Hộ Quốc tự, mấy bữa nay đang ở trong thiền viện của Liễu Nhiên đại sư."

Lý Phong: "..."

Đêm Trung thu, muôn nhà đoàn viên, mà đường đường Nhạn thân vương dưới một người trên vạn người lại một mình ở dưới thanh đăng cổ phật của một hòa thượng nghèo kiết xác.

... Còn có một đám người như hổ rình mồi tìm mọi cách lôi y xuống ngựa.

Trong lòng Lý Phong bỗng hơi mất vui.

Hắn mặc dù xúc động vì Trường Canh ngày ấy trong ngự hoa viên như đinh đóng cột nói "Nguyện noi theo Thương Quân", nhưng quả thật cũng đau đầu vì độ này Nhạn vương thủ đoạn quá khích gây phiền toái, lần này trị tội Giang Sung chính là để nhắc nhở y đã đủ rồi, nên bớt lại. Mà sự không vui lúc này, ở trong lòng Lý Phong dần dần thay đổi tư vị, dù nói thế nào Nhạn vương cũng là người Lý gia, những hành động trong khoảng thời gian này dẫu nóng vội, cũng là để bịt lỗ thủng của triều đình, huống chi dưới vòm trời này nơi nào chẳng là vương thổ, hắn làm Hoàng thượng còn chưa nói gì, đám sĩ tộc công khanh đã tranh nhau giậm chân, không khỏi cũng quá coi thường hoàng gia rồi.

Năm đó Lý Phong biết rõ Vương Quả có vấn đề, lúc Đàm Hồng Phi của Bắc đại doanh hùng hổ đến chất vấn vẫn tức sùi bọt mép bảo vệ Vương quốc cữu trong cung, chính bởi Lý Phong trời sinh là kẻ ăn mềm không ăn cứng, hắn sẵn lòng ra tay duy trì cân bằng là một chuyện, lần này các đại thế gia liên thủ đối phó Nhạn vương lại là chuyện khác.

"Một số kẻ không khỏi quá đáng rồi." Lý Phong nghĩ bụng.

Song không đợi hạt giống trong lòng Hoàng thượng nảy mầm, ngay đêm hôm ấy, cách ngàn dặm đã xảy ra một đại sự-

Thủy quân Tây Dương đã lui tới gần hải cảng hôm trước còn làm bộ làm tịch chúc mừng ngày tết của trú quân Giang Bắc, sương sớm trên hoa tươi dở dở ương ương đưa tới còn chưa khô, hôm sau đã trở mặt, còn dốc hết toàn lực như ủ mưu từ lâu.

Ồ ạt xâm phạm trú quân Lưỡng Giang của Đại Lương.

Từ khi Cố Quân tọa trấn Lưỡng Giang, yêu cầu trong tuần phòng của trú quân bản địa cơ bản là tiêu chuẩn của Huyền Thiết doanh, dù rằng triều đình trong khoảng thời gian này lửa ở sân sau vẫn cháy hoài chưa tắt, nhưng Giang Bắc giao, ưng và khinh trọng giáp mấy đại quân chủng toàn nằm trong trạng thái chuẩn bị chiến tranh ngoài lỏng trong chặt.

Đêm ấy, tháp theo dõi Đông Nam nghiêm mật dõi theo hướng đi của quân địch phát hiện dị động của thủy quân Tây Dương trước tiên, lập tức mở đèn cảnh báo, bạch quang cực sáng như cầu vồng bắn xuyên mặt nước đen kịt, không cần chờ chủ soái hạ lệnh, đoản giao tuyến trên cùng đã lập tức tập kết, trên mặt nước gần đất liền mau chóng dựng lên hàng rào sắt phòng ngự thời chiến, đồng thời, lính gác báo tin từ trên tháp theo dõi bay thẳng về phía soái trướng.

Trên chủ hạm quân Tây Dương, Nhã tiên sinh thở không ra hơi lao vào: "Bệ hạ, họ liên tục nghiêm mật theo dõi quân ta, bị phát hiện rồi."

"Rất bình thường mà," Giáo hoàng không ngước mắt lên, "Lần trước chủ soái của họ vừa qua đời, người phụ trách mới và cũ không bàn giao, bị chúng ta may mắn thành công một lần. Hiện tại quân Đại Lương đã rất chính quy, Cố Quân lại tọa trấn nơi đây, đừng nghĩ vận tốt không thực tế nữa. Đi, đối phương đã phát hiện, thì chào túc địch tiên sinh của chúng ta một tiếng đi."

Ông ta vừa dứt lời, lính truyền lệnh đã nhanh chóng đi truyền đạt chỉ lệnh.

Nhã tiên sinh nhíu mày: "Bệ hạ, tôi đang nghĩ... liệu có phải chúng ta đã lựa chọn một thời cơ không thích hợp? Vì sao chúng ta không thể chờ thêm chút nữa? Nội bộ Đại Lương cũng đang đứng trước vấn đề chuyển giao quyền lực như thánh địa, biết đâu qua một thời gian, ta có thể thừa cơ..."

Hắn còn chưa dứt lời, một tiếng nổ đã từ bên ngoài vọng vào – chiến hạm tiên phong khoái tốc cơ động đã khai hỏa!

Vừa khai hỏa là không thể dừng lại, những tiếng nổ liên tiếp vang lên, Nhã tiên sinh hơi run run, ý thức được mình phải chuyên tâm vào cuộc chiến, dù sao thì hắn đã thua nhiều dưới tay Cố Quân.

Giáo hoàng tạm dời ánh mắt khỏi thiên lý nhãn, quay sang Nhã tiên sinh: "Ta có dự cảm, đây đã là thời cơ tốt nhất rồi – toàn tốc tiến lên!"

Hải quái như hắc ảnh gầm rú rẽ nước biển lạnh buốt, nó ngủ đông thèm thuồng đã lâu, nay một lần nữa giơ nanh vuốt dữ tợn nhằm hướng biên cảnh Đại Lương.

Song lần này, thủy quân Đại Lương nhu nhược đâu còn như lúc xưa.

Trong trú quân Lưỡng Giang, lão chiến hữu của lính gác mới chết trận tiếp nhận vị trí lính gác, lần đầu ứng đối vai trò làm tai mắt chủ soái thời khắc nguy cấp, nghe thấy tiếng pháo nổ sau lưng, nhất thời còn tưởng mình chậm trễ làm lỡ việc quân cơ, dùng ưng giáp sau lưng lao vọt xuống, hạ đất chạy như điên mười mấy bước không dừng nổi, được chiến hữu tuần doanh quanh soái trướng ba chân bốn cẳng đỡ lấy.

"Quân tình khẩn cấp, ta muốn gặp Đại soái..." Lính gác đang hoảng sợ ra mặt, bàn tay đỡ hắn đột nhiên giơ lên sờ đầu hắn.

Lính gác giật nảy mình, ngẩng đầu lên mới phát hiện, người hắn cho là phụ trách phòng ngự trong ca trực chính là bản thân Cố Quân.

"Bại tướng thôi mà, không cần sợ," Cố Quân vỗ vỗ gáy hắn, nở nụ cười nói với lính gác trẻ tuổi nọ, "Đi, theo ta đi gặp họ."

Trong lúc nói hai câu này, khinh kỵ và binh giáp lục địa của cả doanh địa đã chỉnh trang hoàn tất, vô số ưng giáp trong đêm tối sáng lên ánh lửa màu tím, Cố Quân huýt sáo một tiếng dài, phi ưng đằng đằng sát khí phóng lên trời.

"Trường giao và đoản giao tạo đội hình ba năm, xuất cảng!"

"Ưng dựng bạch hồng trên hàng rào sắt."

"Còn gì nữa?" Cố Quân coi cát phong nhận như trang sức phẩm mà đeo sau lưng, cọ cằm, "A, đúng rồi, đi chuẩn bị sẵn 'điểm tâm' lần trước Linh Xu viện đưa tới, chờ một lát đánh mệt rồi, cũng tặng chút toác đầu cho lão bằng hữu lặn lội đường xa mà đến."

Quân Tây Dương tới đột nhiên, trú quân Lưỡng Giang ứng đối lại không vội vã.

Một bên là Giáo hoàng chấn chỉnh lại cờ trống, từ thánh địa vượt trùng dương đánh tới, một bên là An Định hầu Cố Quân thần thánh trong truyền thuyết dân gian, hai người rốt cuộc chính diện đối đầu trong tình huống thế lực ngang nhau, không có ai gây phiền toái.

Cố Quân không phải loại người trẻ tuổi dựa vào nhiệt huyết mà dám ra trận như Trường Canh, y đâu vào đấy từ từ kéo chiến tuyến trên bờ và trên biển ra, hư hư thực thực vừa thăm dò vừa muốn giữ chủ hạm quân địch lại một chút.

Đáng tiếc kỳ phùng địch thủ, lần này chỉ huy chiến dịch không phải Nhã tiên sinh hạng nhát gan nói gì cũng tin, gừng già rất cay, Cố Quân trêu vài lần, một đội đoản giao đánh lén năm lần bảy lượt suýt nữa dẫn cánh phải quân địch đi, chủ hạm trung quân vẫn nhanh chóng kịp phản ứng, lập tức tụ lại.

Hải quái Tây Dương nhìn cồng kềnh, kỳ thực quái vật khổng lồ này chẳng những tính phòng ngự cực cao, lại thêm thân chi chít gai nhọn, xốc thiết giáp xấu xí bên ngoài lên, pháo khẩu liền pháo khẩu, bên trong hải quái có thể chứa số lượng tử lưu kim, đạn dược, thậm chí phi ưng hay tiểu giao khó lòng tưởng tượng.

Có thứ như vậy, phi ưng có thể tùy ý hạ xuống tiếp thêm nhiên liệu, đi đến đâu cũng có không trung áp chế đối thủ, đồng thời lực khống chế và lực ngưng tụ của nó đối với hải giao lớn nhỏ xung quanh là không gì thay thế được, tựa như một con ong chúa hoặc kiến chúa, có thể hoàn hảo tụ đám thủ hạ đầu óc không nhanh nhạy, trình độ không đồng đều xung quanh lại một chỗ.

Cố Quân nói với Diêu Trấn bên cạnh: "Nhìn thấy chưa? Đủ chỉnh tề, quyền tự chủ của trái phải hai cánh bị thứ to kềnh chính giữa thay thế – xem ra Giáo hoàng kia rốt cuộc đóng gói cây gậy chọc cứt quẳng xuống biển rồi."

Diêu Trọng Trạch vẻ mặt lo âu: "Đại soái, liên tục dày mặt muốn đàm hòa cũng là họ, vì sao hiện tại lại đột nhiên trở mặt?"

Cố Quân liếm môi: "Ta đoán là trong nước họ có chính biến, có người bơm cho họ một ống máu gà. Phong cách của lão già đó ta có biết một chút, mới đầu thích nã pháo điên cuồng mở đường, cũng là thăm dò, một khi không có kết quả, thì sẽ lập tức điều chỉnh, nhưng ngươi xem hôm nay khác hẳn, nếu không phải tiếp tế đặc biệt dư dả, lão không dám không sợ hãi gì như vậy. Tiếp tế hẳn vòng đến từ bên phía người Đông Doanh ngoại hải, bên đó chúng ta không đủ lực."

Diêu Trấn đầu óc rất nhạy bén, lập tức nói: "Đại soái, nếu thật sự là như vậy, chúng ta ngạnh kháng không phải là cách, trước mắt đường ray vẫn chưa dựng xong, cho dù bây giờ đi điều, cũng chưa chắc tới kịp, phải làm thế nào đây?"

Lửa đạn của quân Tây Dương mãnh liệt nối liền sông biển, nhất thời đốt mặt nước như A Tỳ địa ngục trong truyền thuyết, tử lưu kim như thể không cần tiền trong tâm tất cả quái vật sắt hôi phi yên diệt thành hơi nước màu trắng, cuốn tạp chất li ti và khói thuốc súng bay lên bầu trời, nhanh chóng phủ một tầng khói mù trên bầu trời đêm trăng sáng sao thưa, nước tụ thành mây, giằng co đến sau nửa đêm, vậy mà lại đổ mưa.

Lúc này, một lính truyền lệnh chạy chầm chậm tới: "Đại soái, hải ô tặc chuẩn bị xong rồi!" (ô tặc: con mực)

"Quần giao trên biển thu lại, chủ hạm xuống nước, ưng lên thuyền hết." Cố Quân vừa rảo bước lên boong chủ hạm, vừa nói với Diêu Trấn bên cạnh, "Trọng Trạch huynh nên tọa trấn trên bờ, đừng đi theo nữa."

Diêu Trấn cười vang nói: "Ta tuy luôn tham sống sợ chết, nhưng đi theo Đại soái thì sợ gì?"

Song Diêu đại nhân phát ngôn ngông cuồng chưa bao lâu đã hối hận, hắn bất hạnh bị say sóng – Hệ thống động lực của chủ hạm từng được Linh Xu viện thay đổi theo ý kiến của Cố Quân, quả thực là một Lãng Lý Bạch Điều, không kém gì đoản giao như gió; chủ hạm bình thường sẽ không "bất ổn trọng" như vậy, đáng tiếc người hạ lệnh là Cố Quân, cho dù bay lên, ngàn vạn trường đoản giao xung quanh cũng đều nằm trong tay y.

Quân Tây Dương không dám sơ suất, lập tức bắt đầu vây đuổi chặn đường phạm vi lớn.

Cứ thế, trận hình chắc chắn không công phá được của quân Tây Dương lập tức thành cản tay, Cố Quân có cảm giác cực nhạy với tiết tấu, khi lỏng khi chặt, một khi lửa đạn tập trung, hạm đội lập tức chia thành tốp nhỏ, giây lát sau lại lần nữa tụ thành hạm đội đằng đằng sát khí, như một thanh khoái đao thủy chung gác trên gáy, ép người ta không thể không đi theo tiết tấu của y.

Dần dần, sau mỗi một mệnh lệnh trong hải quái Tây Dương đều thêm hai chữ "ổn định".

Song hiện trường không hề dễ ổn như vậy.

Cố Quân nhanh chóng dò ra chỗ yếu nhất của đoàn hải giao Tây Dương, thủy quân Đại Lương tức khắc tụ thành một thanh đao nhọn đâm tới, hải quái Tây Dương đuôi to khó vẫy không kịp phản ứng, Giáo hoàng lập tức liều lên: "Chủ hạm mở mui ra, tăng thêm trọng pháo, cản đường mau tránh ra-"

Lúc này, Cố Quân cười nói với Diêu Trấn: "Ý tưởng hải quái của Tây Dương kỳ thực rất đáng tham khảo, nhưng sở dĩ không đặt Linh Xu viện, là vì mạch suy nghĩ tuy chính xác, song kỹ thuật chưa đủ – có lẽ chờ một hai mươi năm, chúng ta có thể tạo cái tốt hơn..."

Y còn chưa dứt lời, liền thấy hải giao Tây Dương vốn dính chặt xung quanh hải quái phía trước đột nhiên rối loạn tản ra.

Cố Quân: "Phá khẩu ra rồi, 'ô tặc' đừng đứng đực ra đó!"

Diêu Trấn: "Đại soái mặc kệ phá khẩu gì đó đi! Cẩn thận!"

Chỉ thấy hải quái Tây Dương kia ngang nhiên vén mui sau đen sì, lộ ra một loạt họng pháo nặng nề phía dưới.

Cố Quân: "Toàn tốc tiến về hướng Tây Nam, nổ, đám thuyền nhỏ này ngăn không nổi đâu!"

Hai tiếng nổ một trước một sau gần như đồng thời vang lên, đoản pháo hạm đội Đại Lương bắn trước nổ lật một đám đoản giao Tây Dương vừa bỏ chạy tứ tán, không coi ai ra gì mà xông vào trận địa quân địch; sau đó trường pháo trên chủ hạm Tây Dương lập tức bay tới, cơ hồ sượt qua họ, chủ hạm rung mạnh, Diêu Trấn dùng hết bốn chân bám một cây cột, Cố Quân không đứng vững đụng mạnh vào thân thuyền.

Diêu Trấn bị động tĩnh ấy dọa run bắn lên: "Đại soái!"

Cố Quân lắc đầu, chẳng hề để ý mà bò dậy, mắt sáng đến đáng sợ: "Bánh đến rồi."

Mặt nước bị lửa đạn lớn nhỏ oanh kích nhấp nhô dữ dội, không ai nhìn thấy mấy con "giao" hình thù cổ quái nấp dưới nước, đó chính là một đám "hải ô tặc" gần đây Linh Xu viện đưa tới, chính là đội cảm tử trong hải giao, có thể lén đi dưới nước, người lái sau khi nhắm chuẩn hướng có thể bỏ thuyền nhảy xuống nước, trên chiến hạm đẩy hải ô tặc sẽ có dây thừng vớt họ lên, mà hải ô tặc không người kia vẫn có thể giữ nguyên tốc độ tiếp tục tiến lên, cho đến khi đụng vào thứ gì dưới đáy biển, lực va chạm có thể làm nổ nó.

Đây là chuyên môn lượng thân làm theo loại mực khổng lồ ăn cực sâu dưới nước kia.

Chiến tuyến vững như thành đồng của người Tây Dương bị Cố Quân một đụng một nổ làm tan một bên, lập tức trên biển đột nhiên vô duyên vô cớ bắn lên bọt nước cao hơn mười trượng, trên mặt nước lại lóe lên minh hỏa, mới một lần nữa bị nước biển cuộn dâng dập tắt, người Tây Dương còn chưa kịp rõ đó là thứ gì, đã thấy chủ hạm như hải quái kia co giật mạnh một phát, bất ngờ không kịp phòng ăn luôn một hải ô tặc.

Xác ngoài như tường đồng vách sắt thì ra cũng không hề là đao thương bất nhập, cả hải quái chủ hạm nghiêng hẳn sang một bên, lính Tây Dương vốn rọi đèn truyền lệnh chẳng rên được tiếng nào, trực tiếp ngã từ trên hải quái xuống, lại một đợt nổ mạnh, không biết là chết hay sống.

Đội ngũ ngay ngắn của quân địch tức thì rối loạn, Cố Quân tuyệt không cho họ thời gian thở, ưng vốn đã lên thuyền lập tức tiến hành truy kích áp chế tuyệt đối trên tốc độ với trường đoản giao đã đi lạc đàn.

Trận hải chiến kinh tâm động phách này đánh từ tối đến hửng sáng, người Tây Dương còn chưa dùng hết tiếp viện dư dả, nhưng trận hình đã tan tành, Giáo hoàng chân chính lĩnh giáo một lần sự giảo hoạt và thiên biến vạn hóa của Cố Quân khi lâm trận, tức muốn hộc máu, đành phải tạm thời lui binh, chờ thời cơ lại đến.

Cố Quân thở phào nhẹ nhõm, nói khàn khàn: "Vờ truy, không được ham chiến."

Nếu quân Tây Dương còn chưa chịu rút, sẽ nhanh chóng có một loạt đoản giao mất động lực không kịp quay về bờ tiếp nhiên liệu, đến lúc đó dù là Cố Quân cũng sẽ rất bị động, suy nghĩ của Nhã tiên sinh là chính xác, thủy quân Đại Lương lúc này còn thiếu năng lực tác chiến viễn hải.

"Chủ soái quân địch cao tuổi, là người thận trọng chặt chẽ, rất khó lừa gạt, song cũng cẩn thận, nếu hôm nay đánh với ta là tên trâu bò Hà Vinh Huy của Huyền Thiết doanh chúng ta, cho dù chủ hạm hoàn toàn nổ hắn cũng sẽ cướp một con thuyền nhỏ đến liều mạng, thế thì thật sự không dễ xử lý đâu." Cố Quân thấp giọng nói, vô thức dụi mắt – tầm nhìn đã mờ, ban nãy thần kinh kéo căng không chú ý tới, lúc này mới ý thức được mình nên uống thuốc rồi, y nở nụ cười với Diêu Trấn chưa hết hoảng, phân phó, "Quay về!"

Quay lại soái trướng, Cố Quân không dám nghỉ ngơi, y phải bổ sung một bản chiến báo khẩn cấp cho triều đình, còn phải điều phối chiến bị, để tránh lại xảy ra tình huống giật gấu vá vai thế này, bởi vậy đành phải kêu người sắc cho y một bát thuốc trước, vừa chờ dược hiệu vừa mài mực suy tính thời gian sắp tới xử lý quân Tây Dương thế nào, đột nhiên, một cơn đau nhói sinh ra từ chỗ lưng và gáy ban nãy ở trên thuyền bị đụng bầm, Cố Quân run tay, đá mài mực lại tuột tay rơi xuống.

Y cắn răng, giơ tay chống bàn, chờ đợi cơn đau này qua đi.

Nhưng lần này đau đớn tới đặc biệt dữ dội, giày vò y suốt non nửa canh giờ, lưng bết mồ hôi lạnh, mới dần dần tê lặng giảm bớt.

Lúc này, Cố Quân phát hiện một vấn đề nghiêm trọng.

Tầm mắt và thính lực vốn nên rõ lại lần nữa của y, không hề khôi phục.

Lòng Cố Quân chợt chùng xuống, giây lát sau y bỗng nhiên ý thức được điều gì đó, hơi ngỡ ngàng cúi đầu nhìn bát thuốc mờ mờ trước mắt.

Y không kinh hoảng thất thố, bởi vì sớm biết sẽ có một ngày như vậy, nhưng nhất thời cũng khó mà hoàn toàn chấp nhận – mỗi người đều biết mình sớm muộn cũng phải chết, song đến lúc nhắm mắt, đại đa số vẫn sẽ không cam tâm tình nguyện.

Trước trú địa Lưỡng Giang hỗn loạn, địch nhân hùng hổ tấn công đã rút lui, mà cảnh báo quân địch tập kích vẫn chưa giải trừ, tiếng còi chói tai vẫn vang vọng khắp nơi, nhưng vào tai Cố Quân, âm thanh ấy lại như một tiếng thổn thức xa xăm.

Thế giới của y mơ hồ và yên tĩnh, mực đen giấy trắng trên bàn vào mắt y, cũng chỉ là hai khối màu lờ mờ.

Cố Quân ngồi bên cạnh bàn không hề nhúc nhích khoảng một khắc, sau đó vô thức cầm chuỗi hạt tiên đế để lại cho y – Kể cũng thật lạ kỳ, Cố Quân ở biên cương lâu năm, lại thường xuyên bôn ba khắp nơi, hằng ngày không tránh khỏi va chạm, dây xỏ hạt châu từng đứt vài lần, nhưng mỗi lần đều không ngoại lệ có thể mất mà được lại, đến bây giờ, dây đã thay ba lần, mà hạt châu chưa mất một viên nào, vẫn lạnh lẽo tụ một tầng hơi nước nằm trên xương cổ tay hơi gồ lên của y.

... Như là cái người thương y lại hại y vẫn luôn dõi theo y.

Cố Quân bị hạt châu bằng gỗ kia cấn, cuối cùng định thần lại.

Y không làm lớn chuyện, lấy kính lưu ly dùng khi khẩn cấp cất trong lòng ra đeo lên, sau đó gập ngón tay gõ nhẹ bát thuốc, làm bát vỡ thành nhiều mảnh. Cố Quân quét mảnh vỡ vào góc nhà, đoạn ngồi vào bàn, mặt không đổi sắc viết một bản tấu và một lệnh điều động, sau đó kêu người đi truyền tin.

Diêu Trấn vừa vặn theo quan truyền lệnh đi vào, ngẩng lên nhìn thấy tròng kính trên mặt Cố Quân, nghi hoặc hỏi: "Sao vậy, Đại soái còn chưa có thời gian uống thuốc à?"

Cố Quân hiện giờ đã đọc thần ngữ rất lưu loát, điềm nhiên trả lời: "Sơ ý đánh đổ bát thuốc – Thôi, khỏi cần sắc nữa, không hề gì, dù mù hoàn toàn cũng trị được đám mũi lõ này."

Diêu Trấn nghiêng đầu thoáng nhìn mảnh gốm trong xó nhà, trong lòng cứ cảm thấy có thể phải xảy ra chuyện gì, nhưng nghĩ cả buổi cũng chẳng ra, đành phải nói với Cố Quân: "Bên phía chúng ta xảy ra chuyện, chỉ sợ kinh thành lại có biến động."

Cố Quân "Ừm" một tiếng: "Làm phiền Trọng Trạch huynh gửi một phong cấp triệu đến Bắc cương, gọi Thẩm Quý Bình tới đây một chuyến, ta muốn điều chỉnh bộ thự tứ cảnh, còn có Trần..."

Y nói một chữ "Trần" sau đó ngừng bặt, Diêu Trấn nghi hoặc hỏi: "Ai?"

"Không ai cả." Cố Quân lắc đầu, "Đi đi."

Ô Nhĩ Cốt của Trường Canh còn gửi gắm vào Trần Khinh Nhứ, y không muốn phiền nàng phân tâm nhiều.

Chập tối hôm ấy, chiến báo khẩn cấp đưa đến kinh thành, Lý Phong ngay trong đêm phái người đến Hộ Quốc tự lôi cổ Trường Canh về, Tây noãn các lại lần nữa chật ních trọng thần trong triều.

Mí mắt Trường Canh cứ giật liên tục, trên đường về cung luôn cảm thấy đã xảy ra chuyện gì rồi, trong lòng thấp tha thấp thỏm, lúc người khác đưa chiến báo tiền tuyến vào tay, Trường Canh nín thở ngưng thần, một phong chiến báo rất ngắn mà xem tới xem lui bảy tám lần – xác định đây là do Cố Quân tự tay viết, ngắn gọn rõ ràng, từng chữ ngay ngắn mạnh mẽ, chí ít lúc viết bản tấu này, người kia vẫn còn khỏe mạnh.

Trường Canh bấy giờ mới thở phào một hơi, định thần lại, hơi nhắm mắt, nghĩ thầm: "Ta sắp bị chính mình hù chết rồi."

Y bình tĩnh lại, trong lòng thoải mái theo – cuộc chiến tranh do địch nhân chủ đạo ở vùng Lưỡng Giang này với y mà nói tuyệt đối là một chuyện tốt.

Chiến sự trở nên căng thẳng, nếu bọn Phương Khâm còn dám kêu gào đòi xóa sổ Sở quân cơ, không chỉ Lý Phong, ngay cả trú quân tứ cảnh Đại Lương cũng sẽ không đồng ý, đến lúc đó họ sẽ có nhiều đường hơn.

Kết quả vậy mà là địch nhân thành toàn cho y.

Phương Khâm thì vô cùng phiền lòng, nửa năm qua hắn cả đêm khó yên, dốc hết tâm huyết mới liên kết được đám thế gia công khanh hoàn toàn năm bè bảy mảng, có thể nói là xoay hết mọi đường, cuối cùng giành được một chút thắng lợi mang tính giai đoạn, tiếng hô yêu cầu xóa bỏ Sở quân cơ càng ngày càng cao, Nhạn vương bắt đầu ốc còn không lo nổi mình ốc, trợ thủ đắc lực đều bị sự vụ quấn thân, chỉ thiếu ra sức đánh chó rơi xuống nước – người Tây Dương lại đột nhiên giở quẻ vào lúc này!

Nếu là Đại Lương chủ động xuất kích, họ còn có thể tố An Định hầu "hiếu chiến", nhưng dạ tập lần này lại là quân địch động thủ trước.

"Xóa bỏ Sở quân cơ," Lý Phong nhận một xấp tấu sớ từ tay nội thị, "Cắt giảm quân phí, nghiêm tra thương nhân bất lương dân gian chiếm đất đai..."

Trong Tây noãn các lặng ngắt như tờ.

Lý Phong chợt ném xấp tấu sớ xuống đất: "Người Tây Dương còn chưa rút sạch, mà các ngươi đã thay nhau rút củi dưới đáy nồi!"

Phương Khâm cắn răng, nuốt lại một bụng những lời muốn nói, hắn vốn định tiên phát chế nhân, ai ngờ bị Lý Phong chặn trước.

Lúc này nếu còn kẻ nào mắt mù mở miệng, có thể bị chụp mũ tội phản quốc thông địch chứ chẳng chơi.

Ánh mắt Lý Phong chuyển sang Trường Canh: "Còn ngươi nữa, ngươi cảm thấy mình rất oan ức phải không, người khác mới nói dăm ba câu, mà ngươi ngay cả chính sự cũng không thèm quản nữa, chơi trò giận dỗi về nhà với trẫm, ngươi lớn đầu rồi, còn biết chiêu nào khác không? Đường đường Sở quân cơ, từ sáng đến tối quỷ ảnh cũng chẳng thấy mống nào, chỉ còn lại hai kẻ quét rác ở cửa – Lý Mân ta nói cho ngươi biết, ngày mai lập tức cút về Sở quân cơ cho ta! Bằng không ngươi cũng khỏi cần quay lại nữa!"

Đám cốt cán Sở quân cơ quỳ xuống thỉnh tội theo Nhạn vương.

Lý Phong không thèm ngó ngàng tới họ, cứ để cho quỳ, quay sang Đại lý tự khanh: "Giang Hàn Thạch xuất thân Đại lý tự, tính ra cũng là thủ trưởng tiền nhiệm của ngươi, cho ngươi tra cựu án của hắn ngươi liền không hạ thủ được? Tính kéo dài tới tết à?"

Tai bay vạ gió, Đại lý tự khanh không dám hó hé tiếng nào, cùng quỳ chung với láng giềng Sở quân cơ.

Lý Phong lần lượt lôi đầu đám trọng thần ra mắng xối xả, Phương Khâm là thiểu số không có can hệ gì, được Hoàng thượng nói dăm ba câu rồi buông tha – so với Nhạn vương quỳ xuống không cho đứng dậy nữa, thái độ của Lý Phong với hắn cơ hồ là ôn hòa, chỉ nói một câu: "Phương ái khanh, quân Tây Dương lai giả bất thiện, chúng ta cũng không thể do hậu cần mà rơi xuống hạ phong, ngươi quản Hộ bộ, phải quan tâm hơn."

Phương Khâm không thể làm gì được, đành phải cúi đầu đáp "vâng", tựa như bị xối một gáo nước lạnh từ đầu đến chân – hắn ý thức được rằng, qua đêm nay, âm mưu mình chuẩn bị thời gian dài sẽ phải hủy trong một sớm.

Sở quân cơ cửa nẻo vắng hoe một lần nữa trở nên bận rộn, lại bắt đầu ngày qua ngày thâu đêm suốt sáng.

Nhạn vương quay về Sở quân cơ làm chuyện đầu tiên chính là dặn mọi người: "Gần đây biên cương căng thẳng, mong chư vị lấy quốc sự làm trọng, có đôi khi uất ức nên chịu cũng phải chịu, dày quá sẽ nứt, uất ức đến cuối tự có đáp đền, nhớ lấy câu này của ta. Bên phía Hàn Thạch huynh chư vị cũng yên tâm, hôm nay Hoàng thượng đã lên tiếng, chẳng mấy hôm nữa, y tự nhiên sẽ bình an vô sự."

Mọi người lặng ngắt như tờ nhìn y.

Trường Canh tiếp tục: "Trò phong hỏa phiếu không thể chơi nữa, hãy nghĩ xem phải làm thế nào với Long An ngân trang, trước đây ta từng nói phải lấy ba thứ của những người đó – hiện ngân trong tay, đất đai dưới chân, và kẻ sĩ khắp thiên hạ, loại đầu đã nắm chắc, loại thứ hai lung lay gốc rễ, ắt bị phản công, nếu chư vị có thể đứng vững, loại thứ ba... thậm chí đủ các loại sau đó có thể thủy đáo cừ thành."

Lúc này, có người hỏi: "Vương gia, tấm màn đen hoàng thương lớn nhỏ tham ô, quan thương các nơi cấu kết, còn vén hay không?"

"Lấy chiến sự và quốc kế dân sinh làm chính, nhưng nếu có tiểu nhân khăng khăng chặn đường, cũng không cần bấm bụng chịu, làm tốt việc chư vị nên làm, về phần việc khác... trời sập ta gánh cho chư vị." Trường Canh phất tay, "Thôi đi làm việc đi, ngày mai cho ta một chương trình."

Y vừa dứt câu, tựa như một tiếng cam đoan dứt khoát, cả Sở quân cơ, Linh Xu viện, Ban vận hà... Cự cổ nắm giữ rất nhiều tài lực, tân quý trong triều chiếm nửa giang sơn, tất cả đều vây quanh chủ tâm cốt này mà chuyển động đâu vào đấy, mỗi người một việc.

Năm ngày sau, Giang Sung phủi sạch án trên người, quan phục nguyên chức, trú quân Lưỡng Giang phát hịch văn "thảo phạt di khấu, giành lại cố thổ", trong vòng năm ngày giao hỏa ba lượt với quân Tây Dương, một bước cũng không nhường.

Cùng lúc đó, Cố Quân hạ lệnh điều chỉnh kết cấu trú quân toàn cảnh, trong vòng một ngày phát liền bảy thẻ lệnh, toàn bộ phải lập hồ sơ ở Sở quân cơ, khiến Sở quân cơ hành tẩu thực sự thành "hành tẩu", lúc đi qua có thể cuốn lên một cơn gió nhẹ.

Vào lúc canh tư, Trường Canh mơ mơ màng màng gục lên bàn chợp mắt chốc lát, ngủ không say – do Ô Nhĩ Cốt, hiện giờ dù y muốn gặp một cơn ác mộng hơi rõ, cũng phải chờ đủ "thiên thời địa lợi nhân hòa", nếu không cơ bản toàn mấy giấc mơ lộn xộn, tiếng lật sách cách vách hơi lớn cũng có thể đánh thức y.

Ô Nhĩ Cốt danh là tà thần, trong hầu hết tình huống, lúc vừa thức giấc trong lòng y tràn đầy xao động và lệ khí, song hôm nay, tiếng bước chân ngoài cửa đánh thức Trường Canh, y ngồi bật dậy, tim lại đập lộn xộn một cách mù mờ, không nôn nóng như thường ngày, ngược lại vừa hoảng loạn vừa khổ sở, trên tay áo còn dính một giọt nước mắt.

Đúng lúc này, ngoài cửa có người nói: "Vương gia, Giang Nam gửi thư tới."

Trường Canh bình tĩnh hít sâu một hơi: "Cầm vào đây."

Vẫn là động tác lớn của Cố Quân – y định tăng binh ở Tây Nam, không nói nguyên do, chỉ báo rõ ràng rành mạch trận địa trú quân, Thống soái, phối hợp quân chủng, đường vận chuyển lương thảo. Trường Canh vội vàng xem xong, không rành bố cục chiến lược lắm, chẳng tìm ra nguyên cớ gì, bèn theo lệ thường xử lý bỏ sang một bên lưu giữ.

Sau đó y mới phát hiện, bên dưới còn đè một phong tư tín của Cố Quân cho mình.

Nói là tư tín, kỳ thực chỉ là một tờ giấy, không đầu không đuôi viết: "Đã lâu không gặp, rất nhớ mong."

Thư của Cố Quân hoặc phong lưu, hoặc hạ lưu, hoặc là cợt nhả ngầm hay công khai, rất ít nghiêm trang nói một câu "ta nhớ ngươi", Trường Canh lập tức giật mình một chút, cơn buồn ngủ tiêu sạch, cảm thấy lời trên giấy như hóa thành một mũi tên đâm xuyên ngực, không hề có vật gì giảm lực mà xuyên qua người y.

Y chỉ hận không thể lập tức nuốt lại hào ngôn tráng ngữ lúc trước từng nói, việc quân cơ quân kiếc gì đó ném hết sang một bên, bất chấp tất cả mà đến gặp Cố Quân.

Nhưng điều đó là không thể.

Trường Canh chợt nắm tờ giấy ấy trong tay, lát sau cẩn thận cuộn lại, cất vào hà bao, cố gắng tĩnh tâm, xem kỹ một lần các điều lệ của Long An ngân trang do Sở quân cơ phác thảo, song những chữ viết nắn nót đó ngang dọc trước mắt y, lại không một chữ nào lọt vào mắt, một nén nhang sau, y cơ hồ đứng ngồi không yên.

Trường Canh không chần chừ nữa, cầm áo choàng lên, phân phó: "Người đâu, chuẩn bị ngựa!"

Mọi người thấy y hớt ha hớt hải, cho rằng y có việc gì gấp, vội vàng chuẩn bị ngựa nhường đường, để y một thớt ngựa rẽ bụi mà đi.

Y đến thiền viện Hộ Quốc tự, nơi đây sơn tự vắng vẻ, cửa nẻo đóng kín, gió thu thổi qua làm lá cây bay tung lên, chỉ có một ngọn phong đăng ngoài cửa nghiêm nghị mà đứng đó, ánh lửa hơi chập chờn, bốn bề ẩn giấu một mùi hương thoang thoảng.

Liễu Nhiên hòa thượng vốn đã ngủ, lúc Trường Canh xông vào, kinh văn trên bàn bị gió cuốn vào thổi bay lả tả khắp nơi, Liễu Nhiên đại sư giật nảy mình, trợn mắt há mồm nhìn Nhạn vương đem gió lạnh vào.

Trường Canh đáy mắt hơi đỏ, ngồi xuống hỏi: "Trà, có không?"

Liễu Nhiên khoác thêm tăng y, lục ra một gói trà khổ đinh trong ngăn tủ bằng gỗ cũ nát, đun nước.

Tuy rằng nhà hở gió lùa, chén bát thủng lỗ, nhưng hòa thượng nấu nước pha trà một loạt động tác không nhanh không chậm, lặng yên không một tiếng động, không hề tiếp xúc với ánh mắt y, khói trắng mù mịt bốc lên, không khỏi gợi nhớ tới đám hỏa cơ cương giáp nổ đùng đùng, mau chóng đông thành từng giọt nước trên nóc nhà thấp lè tè, theo xà nhà đặc biệt chậm rãi trượt xuống cuối, nhỏ vào cái bát be bé treo cao, réo rắt "tóc" một tiếng.

Ánh mắt Trường Canh đi theo một vòng quá trình từ hơi nước đến giọt nước, bắt đầu từ bình gốm cũ nát, cuối cùng rơi vào cái bát nhỏ tróc sơn ở góc tăng xá. Trường Canh khe khẽ thở ra một hơi, trái tim nôn nóng như nước sôi chậm rãi trầm xuống.

Liễu Nhiên hòa thượng dùng nước sôi pha một chén trà khổ đinh đặt trước mặt Trường Canh.

Chỉ ngửi thôi cũng cảm thấy đắng.

"Đa tạ." Trường Canh nhận lấy, bàn tay dọc đường cưỡi ngựa bị gió đêm làm lạnh cóng đã có một chút tri giác, y hớp một ngụm, vừa đắng vừa nóng, tê cả đầu lưỡi, cười khổ nói với Liễu Nhiên, "Mấy ngày nay rối ren quá, trong lòng hơi nóng nảy, không áp chế được Ô Nhĩ Cốt, để đại sư chê cười rồi."

Liễu Nhiên nhìn y ra dấu: "Người Tây Dương giỏi thừa cơ chui vào, lần này lại chọn một thời cơ không hề tốt, chứng minh họ nhìn như hùng hổ tấn công, kì thực là nỏ mạnh hết đà, Cố soái thống lĩnh tứ cảnh còn thong dong, huống chi một chiến trường Lưỡng Giang hiện giờ? Một khi đường ray dựng xong, hàng loạt người và vật tư đều có thể qua lại Giang Bắc kinh thành chỉ trong một ngày, với lượng tử lưu kim dự trữ của quân ta hiện giờ, nếu vận khí tốt, không chừng trong vòng một hai năm thật sự có thể giành lại hoàn toàn đất đai đã mất, điện hạ cần gì lo lắng?"

Đạo lý nghe đều đúng, chính bản thân Trường Canh cũng biết, nhưng y cứ cảm thấy trong lòng khó chịu một cách khó hiểu.

"Tiểu Tào ở chỗ Đỗ công à?" Trường Canh thấp giọng nói, "Nơi đó hẳn không xa Lưỡng Giang, ngươi thay ta đi gặp hắn... Hay là chờ một lát ta viết phong thư, để Tiểu Tào lĩnh chức trong quân đi, thủ đoạn dịch dung quỷ thần khó lường của hắn, đi theo Đỗ công ngoại trừ làm chân sai vặt cũng chẳng có tác dụng gì khác, không bằng ra tiền tuyến."

Liễu Nhiên gật đầu, lại ra dấu: "Điện hạ không muốn để Cố soái về kinh, đây không phải cũng vừa vặn là một cơ hội sao?"

Cố Quân là một cái thóp của Nhạn vương, mà cái thóp này chưa bao giờ bị công kích, là bởi vì chiến loạn trước mắt, không ai động được tới Cố Quân – Lý Phong tuy tầm thường, nhưng chưa mắt mù ù tai đến nông nỗi lần thứ hai tự hủy trường thành cho quân địch bao vây. Chiến trường thoạt nhìn mưa máu gió tanh vô cùng nguy hiểm, kỳ thực đối với Cố Quân mà nói, vị tất không phải là một loại bảo vệ.

Trường Canh cau mày uống cạn chén trà khổ đinh, lẩm bẩm: "Mỗi người đều lấy y làm chỗ dựa, nhưng có ai thương y đau bệnh? Ta nhiều lúc nhớ tới, thật sự là..."

Nói đến đây, y lơ đãng chạm tới ánh mắt có một chút thương xót của hòa thượng câm, lập tức kiềm chế cúi đầu cười nói: "Lại lắm lời rồi, ta nên phối thêm ít an thần tán nữa."

Liễu Nhiên hòa thượng nhận ra y chỉ muốn yên tĩnh một chút, liền không nhiều lời nữa, lấy mõ dưới gầm bàn lên, hơi nhắm mắt lại, chốc chốc gõ một cái, trong tăng xá con con chỉ còn lại tiếng mõ và tiếng nước nhỏ, Trường Canh trong thanh âm này ngồi trên sập nhắm mắt nghỉ ngơi, mãi đến hửng sáng mới cáo từ.

Lúc gần đi, Liễu Nhiên đột nhiên gõ bàn, thu hút ánh mắt Trường Canh, ra dấu nói: "Điện hạ, lần đó khi ngài hội kiến Đỗ công, tiểu tăng may mắn bàng thính, trong lòng có chút việc nghĩ không thông."

Khóe mắt hơi thâm của Trường Canh run nhẹ, y nhướng một bên mày.

Liễu Nhiên nói: "Điện hạ bảo rằng, lợi ích trên đời cộng lại chỉ to bằng cái bánh, ai cũng muốn chiếm nhiều một chút, điều này vốn không liên quan đến thiện ác, chỉ là cách của một số người muốn chiếm nhiều là thuận thế mà làm, họ có thể vừa thúc cái bánh này to hơn, vừa mở rộng thế lực của mình, loại người này có thể đặt nền móng cho quốc thái dân an, một số kẻ lại là nghịch thế mà làm, chỗ hắn chiếm cứ đã mốc meo, lại còn muốn để nhiều nơi cùng mốc hơn, loại người này chỉ có thể dẫn đến họa hoạn, hiện giờ hơn nửa cái bánh nằm trên tay cựu thế gia môn phiệt, chúng ta cần làm là đập tan cục diện này, cạo sạch từng chút nấm mốc trên giang sơn-"

Trường Canh hỏi: "Sao thế đại sư, có gì không đúng à?"

"Không hề," Liễu Nhiên lắc đầu, ống tay áo rộng thùng thình theo thủ thế của hắn phát ra tiếng "sột soạt" nho nhỏ, "Chỉ là tiểu tăng đang nghĩ, trong thiên hạ, đâu chẳng là vương thổ, pháp lệnh kích trống dung kim ngày xưa mồn một trước mắt, Vương gia vất vả tiến hành hết thảy, chưa biết chừng một phong pháp lệnh là có thể hoàn toàn thay đổi, các việc đã làm, có thể cũng chỉ là hoa trong gương trăng đáy nước."

Ngón tay Trường Canh đặt trên bàn gõ nhẹ vài cái, trên mặt không hề dao động, hiển nhiên những gì Liễu Nhiên nói y đã sớm tính đến.

"Đại sư nói đúng." Y hạ mi mắt tuấn tú, khẽ nở nụ cười.

Khuôn mặt nghiêng ấy lại thật sự giống một tà thần bức người trong đồ đằng.

Tim Liễu Nhiên đập mạnh hai phát, nhất thời miệng lưỡi hơi khô, chớp mắt liền minh bạch – Nhạn vương thoạt nhìn là đang tranh đoạt thánh tâm với thế lực cựu thế gia, ý đồ chân chính đằng sau thật sự là như vậy sao?

Tào Xuân Hoa sau khi nhận được Lâm Uyên mộc điểu không dám trì hoãn, lập tức bàn giao công việc trong tay, nhanh chóng lên đường đến trú địa Lưỡng Giang.

Vừa tới gần nơi đóng quân, Tào Xuân Hoa liền cảm thấy sự túc sát từ không trung ẩm ướt âm lãnh hất thẳng vào mặt, ẩn ẩn lộ ra mùi khói thuốc súng, hắn không tự chủ được thẳng lưng lên, hát hò cũng chẳng màng, cũng không nháy mắt đưa tình nữa, cố ra vẻ đàng hoàng. Chỉ thấy nơi đây trạm gác nghiêm ngặt, tất cả quan binh trong ca trực ngay cả một lần châu đầu ghé tai cũng không có, bốn bề yên ắng không một tiếng động, chỉ có chỗ luyện binh theo lệ ở không xa hò hét rung trời.

Tào Xuân Hoa dụi mắt, nhất thời còn tưởng mình lại nhìn thấy một Huyền Thiết doanh.

Vừa tới gần nơi đóng quân, liền có vệ binh trong ca trực chặn hắn lại, Tào Xuân Hoa không dám đùa giỡn dưới quân uy của Cố Quân, vội theo quy củ lấy ra lệnh kiện thông hành của Sở quân cơ. Tốp vệ binh kia trung bình chẳng qua mười tám mười chín tuổi, sau khi kiểm tra lệnh kiện không có vấn đề, vừa không nịnh nọt cũng không thất lễ, một người bước ra khỏi hàng, dẫn hắn đến soái trướng, Tào Xuân Hoa ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy đội vệ binh vừa nãy chớp mắt đã bù vào vị trí trống, chẳng hề nhìn ra chỗ hổng.

Vệ binh dẫn đường trước hơi ngại ngùng, sau nghe nói Tào Xuân Hoa từng đi theo Cố Quân trị Bắc man, bấy giờ mới mở máy hát: "Người Tây Dương không kiếm chác được gì từ tay Đại soái, chiến trường chính diện đánh không thắng, mấy ngày nay vẫn đi quanh mấy cảng khẩu Lưỡng Giang, không ngừng đến gây rối, ta nghe bách phu trưởng nói, khả năng là muốn so vốn liếng với chúng ta. Đại nhân, chẳng phải đều nói Đại Lương triều ta đất rộng của nhiều à, vì sao người Tây Dương cũng lắm tiền như vậy?"

"Đừng kêu đại nhân, ta cũng chỉ là một chân sai vặt thôi," Tào Xuân Hoa xua tay, lại tiếp tục, "Những việc này ta cũng không hiểu, có điều từng nghe Đỗ công nói vài câu, ngươi xem chiến thuyền của họ, đều là chuyên môn thiết kế để ra viễn hải và đánh hải chiến, năm đó cảng Giang Nam và cảng Đại Cô không phải bị một phát pháo nổ tung sao? Quân ta còn như vậy, nói chi tới các tiểu quốc chật hẹp trên biển, họ san bằng một chỗ liền triệt để 'xơi' chỗ ấy, đoạt lấy vật tư bản xứ, mở nhà xưởng trong nước không mở được, bắt tù binh làm việc cho họ, vắt cạn xương máu – lâu dần, tự nhiên có tiền thôi."

Vệ binh im lặng chốc lát, dẫn Tào Xuân Hoa một mạch đến trước lều của Cố Quân, thân vệ ở cửa đi vào báo, vệ binh trẻ tuổi nọ liền lợi dụng giây lát này, nói với Tào Xuân Hoa: "Đại nhân, trước kia ta từng nghe lão binh nói đến trú quân thủy quân Lưỡng Giang quá khứ, nói khi họ ở dưới tay Triệu tướng quân, bạc nhiều việc ít, luyện binh hằng ngày cũng thoải mái hơn trú quân nơi khác, lúc không trực còn có thể lên bờ dạo bước dưới hạnh hoa yên vũ, liền cảm thấy mình sinh không gặp thời, nếu là thời thái bình, không chừng cũng có thể thành một 'quân gia' cơ."

Tào Xuân Hoa quay đầu lại nhìn gã, tiểu vệ binh kia hơi xấu hổ cười nói: "Hôm nay nghe ngài nói như vậy, mới cảm thấy mình kiến thức hạn hẹp, người cầm được đao kiếm, thiết nghĩ luôn may mắn hơn heo chó bị lùa đi."

Chính lúc này, thân binh soái trướng đi ra nói: "Tào công tử, Đại soái mời ngài vào."

Tào Xuân Hoa định thần lại, cất bước đi vào soái trướng, vừa nhìn liền thấy trên mũi Cố Quân đeo một mảnh kính lưu ly đặc biệt cợt nhả, điêu hoa đủ các kiểu sau tấm kính lấn lướt hơn hẳn, từ mũi chạy thẳng vào tóc mai, cơ hồ che khuất non nửa khuôn mặt y, không giống kính lưu ly, trái lại giống mặt nạ hơn.

Tào Xuân Hoa ngẩn người, phản ứng đầu tiên trong lòng là "mắt Đại soái sao vậy".

Nhưng trong soái trướng đang bàn chính sự, Tào Xuân Hoa nhất thời không dám tiến lên quấy rầy.

Thẩm Dịch và Diêu Trấn đều có mặt, Diêu Trấn đang đọc một phong thư của người Tây Dương: "Đám Tây đó nói chúng là dựa trên mong muốn hữu bang hài hòa, hết sức chân thành đến hỏi ý, liệu có thể vạch bốn quận Giang Nam vào khu qua lại, cho phép trú quân tự trị, bảo vệ lợi ích của Dương thương, ngày sau nên trở thành ràng buộc trong thông thương hải vận của song phương... A, chúng còn nói mình yêu mảnh đất này, không muốn để đất đai màu mỡ phải chịu chiến tranh tàn hại nữa."

Thẩm Dịch: "Ngày hôm qua còn ba quận, sao hôm nay lại thêm một nơi rồi?"

Diêu Trấn nhìn y vẻ bất đắc dĩ: "Có thể là vì 'rất yêu' chăng?"

"Yêu con mẹ nó." Cố Quân trên mặt đeo kính lưu ly vừa nhã nhặn vừa cợt nhả, lời nói lại không giống người lương thiện, "Yêu cái đếch gì? Đến lượt bọn chúng yêu chắc?"

Thẩm Dịch: "..."

Quả thực không cách nào tiếp lời.

Tào Xuân Hoa nhất thời không nhịn nổi, bật cười thành tiếng.

Thẩm Dịch vội vẫy tay gọi hắn: "Tiểu Tào đến rồi! Chờ ngươi đã lâu, mau tới đây nói với tiên sinh, 'rắn sắt' của chúng ta khi nào có thể dựng xong?"

"Ôi trời, Thẩm tiên sinh ngài kêu thật khó nghe... sắp rồi," Tào Xuân Hoa nhẹ nhàng trả lời, "Chúng ta không thiếu nhất chính là nhân thủ làm việc, phía Bắc mấy đoạn cơ bản đã xong, đoạn phía Nam này thì tốt hơn, vào đông cũng không cần nghỉ, đến lúc đó mấy bộ phận vừa nối vào, là xe hơi nước có thể chạy từ kinh kỳ đến bờ sông. Ta nghe Đỗ công nói, nếu thuận lợi, nhanh nhất là trước cuối năm có thể hoàn thành – Đúng rồi, sao Đại soái lại đeo kính lưu ly thế?"

"Đẹp chứ?" Cố Quân cười với hắn, khóe mắt như hoa đào kia quả thực muốn bay lên, mặt dày vô sỉ nói, "Hôm trước rơi vỡ một cái, lần này tìm người thay khung khác, chuyên môn mời danh thủ phủ Dương Châu tự mình điêu, thật sự không nỡ giấu cái đẹp, đành phải đeo mỗi ngày cho mọi người ngắm."

Thẩm Dịch đau dạ dày nói: "Đại soái à, ngài cứ cất đi thì tốt hơn, mắt đám nhục thể phàm thai chúng ta thật sự không hợp với cái đẹp như vậy đâu."

Cố Quân phớt lờ y, xoay mặt sang để Tào Xuân Hoa nhìn rõ các hướng, ăn nói lung tung: "Nếu thật sự không xong thì ta sẽ đích thân ra trận dùng mỹ nhân kế, trăm vạn hùng binh e là không đối phó được, nhưng hai ba vạn chung quy không thành vấn đề, phải chứ Tiểu Tào?"

Tào Xuân Hoa thoắt cái đỏ bừng mặt.

Thẩm Dịch và Diêu Trấn đều quay mặt đi, quả thực không thể nhìn thẳng.

"Ngươi tới đúng lúc lắm," Cố Quân nhảy lên, quàng vai Tào Xuân Hoa mặt đỏ tới mang tai, đẩy hắn đến trước sa bàn, "Ta vừa vặn có chút việc không phải ngươi thì không thể, muốn nhờ người đi một chuyến, giúp ta nhé."

"Mỹ nhân kế" khác người của Cố đại soái đối với người Tây Dương hữu dụng hay không thì chưa biết, chỉ biết với Tào Xuân Hoa là rất dùng được, mặt hắn tức khắc đỏ hơn, gáy mướt mồ hôi, cảm thấy bất kể Cố Quân nói gì hắn đều có thể đáp "được được được".

Chờ tới khi choáng váng ra khỏi soái trướng, Tào Xuân Hoa mới giật nảy mình – khoan đã, không phải Nhạn vương phái mình tới trông nom Đại soái à?

Sao hắn vừa mới dừng chân, dăm ba câu đã bị Đại soái lừa đến biên cảnh Tây Nam rồi?

Ban nãy Cố Quân còn đặc ý bảo hắn là việc này cơ mật, đi ra soái trướng là nát trong bụng, ngay cả Sở quân cơ cũng không được báo lên...

Bảo hắn trở về phải ăn nói làm sao!

Thẩm Dịch tự mình sắp xếp cho Tào Xuân Hoa thất hồn lạc phách, bấy giờ mới quay lại tìm Cố Quân. Diêu Trấn đã về, trong soái trướng đèn đuốc tối om, Cố Quân gác chân lên ghế đẩu, hai tay khoanh trước ngực, chẳng biết đang nghĩ gì – từ sau khi bắt đầu không nghe thấy, y thiếu rất nhiều phiền nhiễu khi mắt nhìn tứ lộ tai nghe bát phương, rất dễ tập trung vào mạch suy nghĩ của mình.

Gió lạnh lùa vào khi Thẩm Dịch đẩy cửa tiến vào kinh động y, Cố Quân lúc này mới ngẩng đầu lên: "Sắp xếp xong chưa?"

Thẩm Dịch gật đầu, hỏi: "Rốt cuộc là ngươi thật sự muốn dùng Tiểu Tào, hay sợ hắn báo tin cho Nhạn vương điện hạ?"

"Ta là người công tư bất phân như vậy?" Cố Quân nhướng mày, song không đợi Thẩm Dịch áy náy xin lỗi, y lại nói, "Đều có."

Thẩm Dịch: "..."

Thật là chưa thấy ai phân công tư như vậy.

"Chúng ta vừa khai chiến, trong triều tất nhiên sinh biến, với tình hình của y vốn không nên quá nhọc lòng, tình huống hiện giờ cũng là bất đắc dĩ, đừng để y phân tâm thêm vì chút sai lầm nhỏ ở chỗ ta. Ngoài ra, chuyện của Tiểu Tào quả thật cũng phải tìm một người cơ biến và đáng tin đi xử lý," Cố Quân nói, "Không phải lão đầu đối diện cảm thấy mình men biển đánh tới rất trâu sao? Ta sẽ cho lão xem khác biệt của tướng và soái."

Thẩm Dịch bị những lời này chia làm đôi: Bên trái là cựu bộ Huyền Thiết doanh, hận không thể đi theo chủ soái máu chảy đầu rơi, bên phải lại bị Cố Quân chân tâm thành ý khoác lác không ngượng làm buồn nôn đến nổi da gà – một lần nữa không thể đáp được, đành phải cầu xin: "Tử Hi, cho dù ngươi mù, có thể thay một mảnh kính lưu ly bình thường không?"

Cố Quân mặc giáp chỉnh trang chuẩn bị ra ngoài tuần doanh – chủ soái mỗi ngày đích thân tuần doanh như điểm danh, cũng là nét đặc sắc của đại doanh Lưỡng Giang, cho dù y mù.

"Không," Y nghiêm trang đáp, "Ta phải noi theo Lan Lăng vương."

Thẩm Dịch cảm thấy tên khốn nạn này điều mình đến e không phải để phân ưu, mà hoàn toàn là để trêu ghẹo!

Từ sau khi đến Giang Nam, Tào Xuân Hoa chỉ kịp viết một phong thư cho Trường Canh, nói Cố soái mỗi ngày bận bịu quân vụ và bắt nạt Thẩm tiên sinh, không có gì là không tốt, sau đó chẳng còn tin tức gì nữa, cũng không biết là bị Cố Quân sai đi làm việc, hay "vui đến quên cả nước Thục" rồi. Trường Canh nhớ tới bệnh dại trai của tên này, trong lòng hoàn toàn không ghen là không thể, song vừa ghen vừa yên tâm – không có tin tức chính là tin tức tốt, có thể khiến Tào Xuân Hoa từ sáng đến tối bận dại trai, có lẽ bên phía Cố Quân quả thực thong dong như lời Liễu Nhiên hòa thượng nói.

Mà cùng lúc đó, Trần Khinh Nhứ trước Trùng dương đã đến kinh thành.

Trường Canh ở Sở quân cơ làm liên tục hơn một tháng, hiếm khi xin phép nửa ngày trở về tiếp đãi nàng.

Khi lần đầu nghe Cố Quân gửi thư nói tìm được bản dập "thần nữ bí thuật" ở chỗ Gia Lai Huỳnh Hoặc, trong lòng Trường Canh thực sự thấp thỏm không yên một thời gian, có cảm giác như khi lão yêu tinh trong trần thế liên tục trốn trốn tránh tránh nghe nói mình có thể biến thành phàm nhân vậy. Nhưng sau khi về kinh, y vừa như mưa rào gió giật chuẩn bị bày mưu, vừa như đi dây thép mà ứng phó các loại chính địch, thật sự có phần không lo được việc khác, cho đến lúc này gặp Trần Khinh Nhứ, mới nhặt tâm tư cũ lên.

Trần Khinh Nhứ chưa bao giờ thích kéo dài, vừa thấy Trường Canh, chưa kịp chào hỏi đã nói ngay một câu: "Chữa được."

Chỉ hai chữ, đóng đinh Trường Canh tại chỗ một lúc lâu, cho đến khi một hơi nén trong ngực dùng hết rồi, y mới chậm rãi thở ra, bình tĩnh xoi mói: "Ngoan tật ra khỏi bụng mẹ không lâu đã ăn sâu bén rễ cũng có thể chữa à?"

Trần Khinh Nhứ gật đầu: "Có thể."

Tay Trường Canh giấu trong ống tay rộng của triều phục co giật mạnh một phát, giọng điệu vẫn bình tĩnh bức người: "Người ta nói tà thần là đem máu thịt hai người hợp làm một, ta đây từ nhỏ chính là hai người, làm sao... Trần cô nương cũng có thể tách ra à?"

Trần Khinh Nhứ hiếm thấy mỉm cười: "Thời gian phải hơi dài, chỉ sợ điện hạ phải chịu khổ một chút."

Trường Canh thấp thỏm hỏi: "Thế Tử Hi..."

Trần Khinh Nhứ: "Trong bí thuật thần nữ có ghi chép liên quan, nhưng cách dùng thuốc không giống với chúng ta, ở chỗ ta còn rất nhiều thứ cần khảo chứng, phải chờ ta chỉnh lý rõ ràng đã."

Trường Canh hít sâu một hơi, tim đập sắp làm vỡ ngực, nhất thời quên cả trời trăng, quay đầu muốn đi ra ngoài, hận không thể lập tức cho Cố Quân biết, đi hai bước lại đột ngột dừng chân, đập đầu mình một phát, nghĩ: "Hồ đồ, không thể cho y biết, chiến trường đao kiếm không có mắt, trong lòng y vừa buông lỏng, vạn nhất xảy ra chuyện gì thì làm thế nào?"

Nhưng không nơi chia sẻ, Nhạn vương điện hạ liền lén làm một việc khiến người ta khá đỏ mặt, y thu xếp cho Trần cô nương, buổi tối quay về hầu phủ, rúc vào phòng Cố Quân mà viết một phong thư, sau đó không gửi đi, hong khô dè dưới gối của Cố Quân.

Như vậy vẫn chưa đã nghiền, y lại lôi ra hết thư từ Cố Quân từng viết mà mình âm thầm cất kỹ, nằm trên giường nhớ lại một lần tất cả những lời người nọ từng nói, tự tìm vui mà tự mình viết một phong "hồi âm" của Cố Quân, đóng kịch một vai vui vẻ hết sức.

Liên tiếp vài ngày sau đó, Trường Canh ban ngày gặp Phương Khâm, cũng thấy thuận mắt hơn không ít.

Đáng tiếc cuộc sống của Phương Khâm lại không dễ chịu lắm.

Mấy ngày nay, tấu sớ buộc tội Nhạn vương trên bàn Lý Phong chất dày cả hai thước, nếu cẩn thận lật xem, sẽ cảm thấy Nhạn vương quả thực động một tí là phạm lỗi, dù đi trên đường ho một tiếng cũng có kẻ tố tư thế y ho khi quân phạm thượng. Song hình thành đối lập rõ ràng là, từ Sở quân cơ trở xuống một đám tân quý trong triều không biết là bị sự vụ liên lụy, hay dứt khoát ngủ đông, sửa lại thái độ đối chọi gay gắt trước đó, bắt đầu đơn phương thoái nhượng.

Thái độ của Lý Phong chính là không có thái độ, đặc biệt là gặp phải mấy kẻ cậy già lên mặt nhắc tiên đế thậm chí nhắc Vũ đế.

Đối với tình huống kiểu này, sốt ruột nhất không phải Sở quân cơ như đi trên băng mỏng, mà là Phương Khâm.

Phương Khâm kỳ thực vạn phần phản đối hành vi ùa lên này: "Trong lòng Hoàng thượng rõ như gương, chư vị, thời điểm thế này hùng hổ dọa người, không sợ mất thánh tâm à?"

Lập tức có kẻ trả lời: "Phương đại nhân mở miệng ra là thánh tâm, tầm nhìn không khỏi hạn hẹp, nhớ năm ấy tiên đế chẳng qua cũng chỉ là con của một Quận vương không nổi bật trong tông thân bàng chi Lý gia, dựa vào đâu mà thuận lợi nhập chủ cung cấm? Năm đó ủng hộ tiên đế, tổ ta lực bài chúng nghị, một ngựa làm đầu, công lao cao cỡ nào? Đan thư thiết khoán còn cúng trong nhà ta, hiện giờ con cháu họ muôn đời ngồi vững giang sơn rồi, liền muốn điểu tận cung tàng à?"

Lại một kẻ nói: "Thực sự bức chúng ta đến đường cùng, thì cứ mời linh vị tiên đế ra, chẳng lẽ thiên tử dám gánh tội lỗi tày trời, coi nhẹ tổ tông lập pháp sao?"

Phương Khâm hít sâu một hơi, quát khẽ: "Xin chư công nói năng cẩn thận!"

Mọi người nể mặt hắn, nhất thời không lên tiếng, song thần sắc lại là không hề thoải mái tiếp thu.

Thế tộc công khanh Đại Lương, không liên quan gia chủ chức quan lớn nhỏ, chỉ xuất thân cũng có thể đem gia phổ đập vỡ mặt người ta, tổ tiên phần nhiều có quan hệ thông gia, cường cường liên thủ, đời đời phân tranh chặt chẽ với quyền lực hoàng thất, gia tộc có thể phồn vinh đến nay, ít nhất mỗi một đời đều đứng đúng chỗ, dần dà, liền có chút ảo giác "nhớ năm xưa Hoàng thượng đều do nhà ta một tay nâng đỡ".

Bình nhật họ cảm thấy Phương gia có thể diện, bằng lòng nghe hắn một lời, nhưng khi thật sự cãi nhau, Phương gia tuy ẩn ẩn đứng đầu thế gia, lại rất khó chân chính hữu hiệu áp chế ai – mọi người đều là thân thích, chẳng ai cao quý hơn ai, dựa vào đâu mà thứ liên quan đến cái đầu trên cổ mình và lợi ích bản thân phải do Phương gia làm chủ?

Phương Khâm đành phải hiểu chi dĩ tình, động chi dĩ lý nói: "Hoàng thượng thích đao to búa lớn, không chấp nhận được nhất là người khác khiêu chiến thiên uy, lần này quân Tây Dương xâm chiếm quy mô lớn, không khỏi khiến ngài nhớ tới chuyện năm đó kinh thành bị bao vây, nếu nói lúc trước ngài còn hơi do dự, hiện tại khẳng định là quyết tâm phải đánh tiếp trận này, chúng ta tội gì đi gây chuyện vào lúc này để mang tiếng hại nước hại dân? Ta cũng mong chư công đặt mình vào đó mà suy nghĩ một chút!"

Hắn thở dài, giọng lại dịu đi: "Nếu có thể nhịn qua đợt này, chờ đánh giặc xong, đến khi ấy quốc vô chiến sự, Sở quân cơ tất nhiên đứng trước nguy cơ cải tổ hoặc xóa bỏ, những người đó vị tất cam tâm, nhất định có động tác, đến lúc đó chẳng lẽ Hoàng thượng không nhìn ra tay họ đã thò quá dài? Mọi người ngẫm lại lệnh kích trống, lệnh dung kim năm ấy, sẽ biết trong lòng Thánh thượng chân chính là tính thế nào, lúc này bắt đầu dùng đám tiện dân thương hộ này, chẳng qua là kế tạm thời, chờ chúng vô dụng rồi, Thánh thượng sẽ còn che chở sao? Chỉ sợ đến lúc đó ngay cả Cố Quân cũng phải ngoan ngoãn nộp lại Huyền Thiết hổ phù, Sở quân cơ con con không thể một tay che trời mãi được."

Phương Khâm tự cho là mình đã nói hết nước hết cái, phân tích cặn kẽ.

Song vương công quý tộc ở đây, không phải ai cũng biết nhìn phía trước – vị ban nãy phát ngôn bừa bãi nói nhà mình có đan thư thiết khoán mở miệng hỏi: "Phương đại nhân nói có lý, nhưng quá lý tưởng, ngài nói đánh giặc xong? Xin hỏi khi nào có thể đánh giặc xong? Một hai năm là hắn, một hai mươi năm cũng là hắn, chẳng lẽ chúng ta đều bấm bụng chịu đến khi đất vàng lấp qua đầu?"

Kỳ thực Phương Khâm chẳng ưa gì đám ô hợp này, trong đám người này có một đống chuột cống quốc gia không hề có kiến thụ, luôn tự cho là siêu phàm, bị bắt thóp cũng thật sự đáng kiếp, nhưng lại không thể biểu đạt ra – bởi vì thứ giúp hắn tụ những người này lại căn bản là lợi ích, mỗi ngày hô hào lý tưởng lớn "vì nước vì dân" đến vang dội cũng không ai đếm xỉa.

"Chúng ta đừng nói dỗi, đánh một hai mươi năm thật thì quốc lực gì cũng hao hết, khỏi cần người khác, Hoàng thượng sẽ không đáp ứng, tuyệt đối không thể lâu như thế." Phương Khâm đành phải thay cách nói khác, "Ta nói với chư vị một câu từ tận đáy lòng, với thân phận của Nhạn vương, quả thật chỉ cần y không mưu phản, không ai có thể trí y vào chỗ chết, nhưng với uyên nguyên gia thế của chư vị, chỉ cần Hoàng thượng tại vị một ngày, chỉ cần chúng ta không tự loạn trận cước – ai có thể lay được gốc rễ của chúng ta?"

Lời này còn dễ nghe hơn "Ngươi không tìm chết không ai có thể giết chết ngươi" – tuy rằng là một ý – cũng gãi trúng chỗ ngứa của đám công khanh này, Phương Khâm không hổ là thế gia đệ nhất nhân của Đại Lương, chu toàn với đám này vài thập niên, đã dạn dày kinh nghiệm.

Quả nhiên, nhờ hắn chạy qua chạy lại, triều đình thái bình hơn rất nhiều, nhân mã hai phái dường như tạm thời chấm dứt chiến tranh, tất cả mâu thuẫn đều chuyển dời xuống dưới gầm bàn, nội bộ Đại Lương đón chào sự yên bình ngắn ngủi vài tháng.

Suốt hơn ba tháng-

Sau đó một sự cố khiến Phương Khâm kiếm củi ba năm thiêu một giờ đã xảy ra.

Mùng tám tháng Chạp, Cố Quân bí mật sai sứ viếng thăm Đông Doanh và chư đảo Nam Dương, đến lúc này, tiền tuyến đã giằng co hơn ba tháng, chiến tuyến đã có trong sự cò cưa không ngừng của song phương liên tục kéo dài và mở rộng, chiến hỏa từ hai bên Trường Giang lan tận đến mười ba quận Giang Nam, thậm chí lan sang Lưỡng Quảng.

Hàng loạt trú dân khốn thủ cố thổ không chịu qua sông bắt đầu tự tổ kiến dân binh, trường tý sư dân gian lưu lạc các nơi tuy không có tử lưu kim, lại nghĩ mọi cách dùng than đá và thuốc nổ thô sơ thay thế, cũng đúc rất nhiều kiểu võ trang dân gian không được đẹp lắm.

Thế là, Linh Xu viện tuyên bố thành lập phân viện ở các nơi, trao đổi truyền thụ kỹ thuật ngoài công nghiệp quân sự cơ mật cao độ.

Mà ảnh hưởng càng sâu xa do chiến tranh mang đến cũng dần dần trồi lên mặt nước.

Phương Khâm tuyệt đối không ngờ rằng, phá tan sự yên bình trong triều đình không phải đảng Nhạn vương, mà là hai viện thanh lưu-

Năm này gặp đúng đợt thi Hương ba năm một lần của Đại Lương triều, do chiến sự mà bị cắt ngang giữa chừng, sau đó lại kéo dài một thời gian, quế bảng tận đến tháng Chạp mới có, thành một tờ "mai bảng", bị thư sinh các nơi nói đùa là "mốc bảng". (Cả 2 đều là mai, mai đầu là hoa mai, mai sau là nấm mốc)

Yết bảng chưa đến ba ngày, phủ Thiểm Tây liền có tú tài tự sát một cách ly kỳ, quan viên bên dưới không dám để xảy sự cố vào thời điểm quan trọng này, cố hết sức không trình báo lên, ai ngờ ém chẳng được mấy hôm, vào lúc đại triều hội tan liền có người chặn ngay cửa Ngự sử đài cáo ngự trạng.

Nguyên do việc này nói đến cũng khá dài dòng.

Nhạn thân vương hai lần xuống Giang Nam, chém vô số cái đầu, tạo ra lại trị nghiêm khắc nhất, khiến Đại Lương từ thời Nguyên Hòa phong trào tham hủ bắt đầu ngày càng nghiêm trọng bớt lại chốc lát. Sau đó chiến loạn mấy năm liền, đến cả hoàng cung đại nội cũng thắt chặt chi phí, quan bổng đành phải giảm tới giảm lui theo, đã thế phong hỏa phiếu kia còn tuyết thượng gia sương, móc nối chặt chẽ với lại trị khảo hạch... chẳng khác nào vừa đóng nguồn vừa mở dòng, quan viên Đại Lương trăm năm qua chưa bao giờ khó sống như vậy.

Có câu từ cần kiệm vào xa hoa dễ, từ xa hoa quay về cần kiệm khó, lúc sự tình liên quan đến gia tài bạc triệu, sẽ chẳng còn ai cảm thấy "quốc gia hưng vong thất phu hữu trách".

Nhưng sống khổ cũng chẳng có cách gì – không ai dám nhận lễ, ai cũng biết sau lưng phú thương là Nhạn vương, không chừng lễ nào nhận không đúng sẽ thành bùa đòi mạng; quân phí không ai dám động, thuế phí sau cải cách nhất thời không động được, khoản cứu tế càng khỏi cần đề cập, đầu đám Dương Vinh Quế chỉ sợ vẫn chưa thành xương khô đâu.

Vừa vặn lần này thi Hương không được coi trọng lắm, cả nước đều đang bận rộn đánh giặc kiếm tiền, chẳng ai quản đám thư sinh bách vô nhất dụng này, liền lập tức có kẻ nảy sinh mưu đồ trên đây.

Kết quả là nhổ củ cải lôi cả bùn lên, tạo ra một vụ đại án gian lận liên quan chín tỉnh, chấn động cả nước.

Phương Khâm vất vả lắm mới áp chế được đám gậy chọc cứt lúc nhúc bên cạnh, chưa được mấy hôm an ổn, liền bị tấu chương của hai viện như tuyết rơi ập xuống đầu.

Kiểu nhân vật đặc thù như hai viện thanh lưu bất đồng với Nhạn vương, đảng Nhạn vương trước nay cần thiết thực, làm gì cũng có mục đích, tranh quyền đoạt thế có trật tự, rất nhiều hành vi có thể đoán trước. Nhưng đám thanh lưu mắt cao hơn đầu, coi công danh lợi lộc là cặn bã này rất nhiều lúc lại hoàn toàn là "tố vì thích tố" – đây là nghề của họ, danh vọng cá nhân chung một nhịp thở với tố ngã bao nhiêu người.

Công tử ca gia thế hiển hách rất ít vào hai viện, bởi thế đám quái thai này hầu hết xuất thân sĩ tử hàn môn. Mà khoa cử gian lận đụng vào lại vừa vặn là lợi ích của sĩ tử hàn môn.

Chó điên hai viện lâu lắm rồi không cắn ai nhất thời như tập thể bị giẫm đuôi, xù lông sủa điên cuồng, mỗi ngày đều đang chửi bới, đổi đủ cách chửi, ép Lý Phong nghiêm tra, dáng vẻ như tra không hài lòng là dàn hàng đâm đầu chết trên cột bàn long của đại điện luôn vậy.

Sư yên tĩnh ngắn ngủi mà giả dối bị đập tan.

Đại quan chín tỉnh, không biết bao nhiêu quan hệ rắc rối khó gỡ bị cuốn vào, trong đó thậm chí bao quát em trai không nên thân của Phương Khâm.

Ấu tử trưởng tôn đều là mệnh căn của lão đầu, ngay cả Phương đại học sĩ lâu không hỏi thế sự cũng bị kinh động, Phương Khâm đối với ai đều có thể hư dĩ ủy xà, nhưng với cha ruột lại không thể, thế là đầu to lên gấp đôi.

Không đợi Phương Khâm nghĩ ra đối sách, lần này Hoàng thượng chẳng biết có phải là cố ý hay không, mà trực tiếp nhảy qua Đại lý tự và Đốc sát viện, giao vụ án cho Sở quân cơ, do Giang Sung chủ đạo điều tra, những người khác chỉ phối hợp.

Giấy sắp sửa không gói được lửa.

Phương Khâm tuy xuất thân trong cẩm tú, trước kia lại luôn muốn chói lọi ngàn thu, không chịu hoàn toàn vô sỉ thông đồng làm bậy; vì thế, hắn trước là vứt bỏ Lữ Thường cả gan uy hiếp hắn, sau lại vứt bỏ lão ngu xuẩn thuần chủng Vương Quả, trước mắt rốt cuộc đến nông nỗi không thể vứt nữa – mẹ ruột còn ốm liệt giường ngay cách vách kìa.

Phương đại nhân trấn an xong người này, lại phải khai báo với người kia, ra cửa còn có một đám chờ hắn quyết định, có thể nói là sứt đầu mẻ trán, chỉ sau một đêm mà khóe miệng đã rộp hai chỗ. Vừa mới khóc một trận với lão mẫu thân, Phương Khâm đã nghe nói lại có người tới cửa, hắn mặt trầm như nước day ấn đường, lạnh lùng phân phó: "Cứ nói ta không có ở nhà, đuổi đi."

Hạ nhân im như thóc mà đi, một phụ tá lén lút tiến lại, thấp giọng hỏi Phương Khâm: "Đại nhân có phiền não trong lòng ư?"

Phương Khâm tức giận nhìn hắn một cái, may mà tu dưỡng cực tốt, mau chóng thu lại thần sắc âm trầm, chậm rãi nói: "Thư sinh tạo phản ba năm không thành, lần này từ khi xảy ra chuyện đến lên kinh thành cáo ngự trạng cũng quá nhanh rồi, thực sự như là có người hộ tống... Lý Mân kia bề ngoài ra vẻ trời quang trăng sáng, chỉ dám đâm lén dưới gầm bàn, hạng mặt và lòng đều đen này, cũng chỉ có thể giấu Hoàng thượng thôi."

Phụ tá lại hỏi: "Trong lòng đại nhân có kế hoạch chưa?"

Phương Khâm đang rất bực – phàm là hắn có thể biết trước, dù chỉ là trước một ngày, ít nhiều cũng có thể có đường xoay xở, nhưng tốc độ bùng nổ việc này thật sự quá nhanh, Hoàng thượng biết còn sớm hơn hắn, khiến hắn rơi vào một hoàn cảnh rất khó xử.

Phương Khâm thở dài: "Khó lắm, Nhạn vương là hạng hổ lang, một khi cắn được cổ con mồi, hắn sẽ không nhả ra."

Phụ tá nọ nhẹ nhàng cười nói: "Đại nhân, tôi nghe người ta nói cải cách của Nhạn vương điện hạ chưa từng triệt để hoàn thành, còn có hàng trăm điều đang tranh luận ở trong triều, tôi thấy hắn đã quá nóng vội, bước đi này quả là thông minh bị thông minh hại."

Phương Khâm dừng chân, nghe ra người bên cạnh có ý ra vẻ khôn ngoan. Phương phủ nuôi rất nhiều phụ tá, nhưng đại đa số chỉ chơi cờ bàn suông với lão đầu Phương đại học sĩ kia, có thể nói chuyện trước mặt Phương Khâm thì không được mấy, hiếm khi bắt được một cơ hội, đương nhiên liền muốn xuất đầu.

Phương Khâm vuốt râu: "Sao lại nói thế?"

Phụ tá nọ thấy cơ hội đến, dốc hết những lời chuẩn bị sẵn: "Hiện giờ việc đã đến nước này, phản án chỉ sợ là không có cơ hội, sao ta không rút củi dưới đáy nồi? Trực tiếp nghĩ mọi cách hủy tân lại pháp của Nhạn vương?"

Phương Khâm còn tưởng hắn có cao kiến gì, nghe vậy mau chóng chặt đứt hi vọng may mắn trong lòng, lạnh lùng nói: "Khoa cử gian lận ở các đời đều là trọng tội mất đầu sung quân, liên quan gì đến lại pháp cũ mới?"

Phụ tá thủng thỉnh cười nói: "Đại nhân, một người tham ô là tham ô, một người gian lận là gian lận, nhưng hiện giờ liên lụy chín tỉnh, vô số trọng thần lún sâu chân, đây là ngẫu nhiên sao? Hoàng thượng cũng sẽ nghĩ, đằng sau nhất định có nguyên nhân. Vì sao đám trọng thần triều đình này cùng hung cực ác như thế? Bởi vì mấy năm nay quả thật không dễ sống, lưu dân không dám không thu xếp, sưu cao thuế nặng không dám không nộp, quân phí không dám không chi, chỉ tiêu phong hỏa phiếu không dám không hoàn thành."

Đuôi lông mày Phương Khâm nhích nhẹ: "Phong hỏa phiếu lưu thông tương đương với vàng bạc, việc này năm đó sau khi Giang Nam xảy ra chuyện đã quy định rõ ràng, ngươi định nói thế nào?"

"Lưu thông tương đương với vàng bạc, không có nghĩa là có thể nộp lên triều đình thay vàng bạc," Phụ tá lắc đầu, nói, "Thêm nữa, rất nhiều phú thương Giang Bắc là từ phía Nam chạy tới, dân phong khai hóa khá sớm, Trung Nguyên thậm chí vùng Tây Bắc thì khác, người ta không nhận là không nhận, nếu quan phủ cưỡng chế, lại gặp phải điêu dân một gào khóc, hai náo loạn, ba thắt cổ, lỡ xảy ra sự cố, triều đình lại vấn trách, rốt cuộc là ai động một tí là phạm lỗi, lâm uyên lý băng? Đại nhân nghĩ xem, nếu thực sự liều mạng bất chấp giá nào, việc này có lẽ còn đường vãn hồi, dù tam lão gia bị cách chức, chỉ cần thế lực Phương gia còn đó, tương lai vị tất không thể Đông Sơn tái khởi." (Lâm uyên lý băng: như đứng trước vực sâu, như đi trên băng mỏng, xuất xứ từ Kinh Thi)

Phương Khâm nghe thế trầm ngâm không nói gì.

Phụ tá thấp giọng nói: "Đại nhân, thế sự khó liệu, chúng ta chờ đánh giặc xong mới lật lại chuyện cũ, bên phía Nhạn vương đương nhiên sẽ không thể không nghĩ đến. Vào những lúc thế này không được nói 'không tranh là tranh' gì đó, không chủ động tiến quân, thì chỉ có thể bị họ bức tử – học trò hôm nay lắm lời, mong đại nhân đừng chê trách, cáo lui."

Mười sáu tháng Chạp, tuần phủ Thiểm Tây một trong các chủ mưu vụ án khi bị thẩm tra, quả nhiên đương đình khóc hu hu, kể lể hạt địa mình nghèo nàn, phong hỏa phiếu khó mở rộng, chỉ có thể do quan phủ địa phương tự mua, đã thế bên trên còn liên tiếp hạ ba đợt chỉ tiêu, không hoàn thành nổi, chỉ có thể vay mượn khắp nơi, lại thật sự không có thu nhập gì, khổ không để đâu cho hết, mới không thể không ra hạ sách này.

Lời này vừa ra, như một hòn đá kích khởi ngàn tầng sóng, đám tội thần muôn miệng một lời, triệt để kéo đảng Nhạn vương bàng quan xuống nước, cũng có kẻ lưu manh nói xằng nói bậy: "Nói người ta khoa cử gian lận là gián tiếp mua quan bán chức, thế đem khảo hạch lại trị móc chung với phong hỏa phiếu, lại có khác gì bán quan bán tước?"

Tết này trôi qua trong hỗn chiến, thành thử chẳng ai màng ăn một miếng sủi cảo an tâm.

Cuối cùng, Sở quân cơ không thể không dâng tấu thỉnh tội, chính thức tuyên bố xóa bỏ điều khoản liên quan đến phong hỏa phiếu trong tân lại pháp, đồng thời tạm dừng việc bán phong hỏa phiếu.

Song chiến sự đang gay cấn, không khỏi một lần nữa xảy ra tình cảnh triều đình không có tiền dùng, Sở quân cơ lại thừa cơ đề xuất đình chỉ việc đúc bạc bản triều, học theo chính sách của người Tây Dương ở vùng bị họ chiếm và "giao tử" của tiền triều, do Long An ngân trang các nơi cho vay "bạc thế" đặc thù thay vàng bạc tiền đúc, cũng nghĩ một loạt tân quy trình lên cùng tấu thỉnh tội. (Giao tử là một loại tiền giấy phát hành thời Tống)

Long An ngân trang lẫn Ban vận hà đều thuộc phạm vi quyền lực và trách nhiệm của Sở quân cơ, chỉ cần tân quy có thể thực thi, "giao tử sắt" hay "thông bảo giấy" mọi người đều không có ý kiến, nhưng tuyệt đối không thể do Sở quân cơ nắm giữ trong tay.

Vì thế lúc này, đường sắt hơi nước sắp sửa thành hình xảy ra vấn đề trong dự liệu.

Mấy đoạn nam bắc cơ bản đã nối xong, chỉ còn một đoạn chính giữa, nối thông là đại công cáo thành, nhưng đoạn cuối cùng này lại kéo dài hơn một tháng không dám khởi công, vấn đề xảy ra trên đất đai.

Hầu hết đất đai dọc tuyến đã dự lưu tốt, nhưng một đoạn dài như vậy không thể nào tất cả đường đi qua đều là đất vô chủ, nguyên thuộc về tư nhân thì sẽ do Ban vận hà ra mặt, mua lại từ chủ đất ban đầu theo giá thị trường, đồng thời cho một vài trợ cấp phương diện khác – như là giảm miễn thuế phí vân vân. Cũng có người không muốn bán sản nghiệp tổ tiên, triều đình liền dùng cách thuê lại, viết khế ước thuê mướn, trả tiền thuê mỗi năm.

Bắt đầu từ thời Nguyên Hòa, triều đình Đại Lương đã chú trọng nhân chính, nghiêm khắc với quan viên văn võ, với hương thân dân gian lại đều rất khách khí, chính bởi vì quá khách khí, trong khế ước thuê mướn này có một sơ hở trí mạng – chỉ nói thời hạn thuê, không nói nguyên chủ không muốn cho thuê nữa thì phải làm sao.

Đại khái cũng không ngờ sẽ có người hủy khế ước của triều đình.

Mà đoạn đường cuối cùng còn lại vừa vặn là một mảnh đất lớn cho thuê, nguyên chủ là đại địa chủ, trong nhà còn có việc làm ăn khác, vốn đã thương lượng xong, tuy chưa dựng đến nơi đây, nhưng tiền thuê đã thanh toán, nào ngờ người này đột nhiên đổi ý, trả tiền lại không thiếu một xu. Người này tuy không quan không chức, nhưng rất có máu mặt, lại có quan hệ họ hàng với triều đình Triệu quốc, hắn vừa trả như vậy, xung quanh chẳng ai dám làm mất mặt hắn, ai nấy đều né không gặp Ban vận hà, khiến ray hơi nước thay đổi tuyến đường cũng không kịp, phải vòng một vòng lớn đổi đường mới được.

Do ray hơi nước đình trệ, Cố Quân liên tiếp viết mấy phong thư hỏi ngày hoàn thành, cuối cùng trình tấu lên thẳng Lý Phong, nói tiền tuyến vật tư không theo kịp, còn tiếp tục như vậy thì y sẽ bị ép co cụm chiến tuyến.

Ấu đệ của Phương Khâm vẫn chưa gột sạch tội, lúc này, Phương đại học sĩ rốt cuộc biểu đạt rõ ràng sự bất mãn với nhi tử "nhìn trước ngó sau", "thủ đoạn không đủ".

Vị từng là bán triều tọa sư này cùng một thời gian làm hai việc.

Đầu tiên, lão bí mật hội kiến ngoại sự quan triều đình bàn bạc với sứ tiết Tây Dương, khéo léo ám chỉ quốc lực Đại Lương lúc này có lẽ không đủ để đánh lâu dài với Tây Dương, đánh tiếp cũng là hao tài tốn của, lưỡng bại câu thương, có công lớn không phải đồ tể đánh nhau, mà là người cuối cùng có thể thúc đẩy việc đàm hòa, trả sự thái bình thanh minh cho giang sơn.

Ngoại sự quan từng là học trò của Phương đại học sĩ, dè dặt hỏi: "Lão sư, nếu Hoàng thượng quyết tâm muốn đánh, chúng con làm thần tử phải thúc đẩy thế nào?"

"Vậy phải xem ngươi nói với người Tây Dương thế nào." Phương đại học sĩ tiên phong đạo cốt ý tứ sâu xa nói, "Họ muốn không ngoài là lợi ích, ngươi nói họ nguyện ý tiếp tục đánh tới chết với Cố Quân, hay nguyện ý lui một bước, phối hợp với phái chủ hòa trong triều ta, sớm ngày ngưng chiến hữu hảo? Hoàng thượng và triều đình muốn thể diện, nếu người Tây Dương thực sự có thành ý, nhường thể diện cho, chúng ta cũng sẽ không keo kiệt, ngươi nói có phải không? Không có tiền tuyến chiến sự làm cớ, ta không tin Hoàng thượng sẽ mặc cho bọn Nhạn vương tiếp tục làm xằng làm bậy."

Đuổi ngoại sự quan như mới tỉnh mộng đi rồi, Phương đại học sĩ lại nhờ phu nhân đi mời một người – bà vú của Hoàng đế Long An, năm xưa sau khi xuất cung vinh dưỡng từng một độ khá được Phương phu nhân quan tâm.

Lý Phong rất có tình cảm với bà vú của mình, vốn đang bàn chính sự với Trường Canh, nghe nói bà vú trình thẻ bài tiến cung thăm hoàng hậu đau ốm lâu ngày, liền vội vàng dặn dò Trường Canh, xong xuôi chạy đến hậu cung.

Trường Canh chậm rãi rời cung đi ra ngoài, cả hoàng cung chìm trong hoàng hôn, ngàn vạn ngói lưu ly ẩn đi kim quang, rìa còn dính ít vụn băng không dễ phát hiện, có vẻ vô cùng bất cận nhân tình.

Trời lạnh như vậy, mà kinh hoa nóng đến thế.

Gần đây tiền tuyến ngày càng căng thẳng, thư từ của Cố Quân cũng giảm theo, chuyện gẫu lan man cơ bản không thấy, thi thoảng gửi phong tư tín cũng chẳng qua dăm ba câu.

Trường Canh chậm rãi thở ra một hơi, ngơ ngác đứng một lúc dưới tường cao màu son, nghĩ thầm: "Ngày kia chính là mười sáu tháng Giêng rồi."

Mà sương mù bao phủ trên giang sơn thủy chung còn chưa rẽ mây nhìn thấy mặt trời.

Dù rằng y đang từng bước một trù mưu, kết quả kia đã ngày càng gần, nhưng trong lòng y vẫn không khỏi chốc chốc lại lo sợ.

Lúc này, một đội thị vệ đi qua, thấy y liền tiến lên chào: "Vương gia."

Trường Canh không lên tiếng, cùng hai thị vệ kia trân trân nhìn nhau một lát, đột nhiên như trúng ma chướng cất bước đi ngay.

"Ta muốn gặp Cố Tử Hi." Y nghĩ, "Muốn ngay bây giờ."

Trong cuộc đời con người, luôn có nhất thời chốc lát, trong lòng không còn gì khác ngoài một ý nghĩ hoang đường vô lý do nào đó, dục vọng mạnh mẽ như có thể xơi hết thần hồn, mặc cho lý trí ở ngoài đầu óc liều mạng thò móng vuốt cào cửa cũng có thể ngó lơ.

Giống như rất nhiều năm về trước, Cố Quân ở Tây Bắc man hoang sốt đến mụ mị đầu óc, tâm vô tạp niệm nghĩ phải từ nhiệm, lang bạt thiên nhai.

Giống như rất nhiều năm về sau, Trường Canh từ trong cung cấm gió nhẹ cuốn tuyết cắm đầu đi ra, tâm vô tạp niệm muốn gặp Cố Quân xa cách ngàn dặm.

Trường Canh cắm đầu chạy về hầu phủ, hai thiết khôi lỗi tận trung chức thủ ở cửa quay người lại, im lặng nhìn y chằm chằm. Chạm tầm mắt phiếm ánh tím của khôi lỗi kia, y thình lình dừng bước.

Trường Canh như vừa tỉnh khỏi giấc chiêm bao cùng hai quái vật bằng sắt kia đối mặt rất lâu, rốt cuộc chậm rãi định thần lại khỏi trạng thái gần như tẩu hỏa nhập ma. Y khẽ thở dài một tiếng, giơ tay chạm cánh tay lạnh lẽo của thiết khôi lỗi, chầm chậm cúi đầu, khom lưng, phun ra một hơi khói trắng tích tụ.

Ngày xưa phân phân tụ tụ, cũng có khi bốn năm không gặp nhau một lần, tựa hồ đều chẳng khó khăn như lúc này, chính Trường Canh cũng không biết là mình càng sống càng mong manh, hay là đối với Cố Quân ngày càng tham lam vô độ, trong lòng y tựa như có một sợi tơ, từ khi Cố Quân đột nhiên viết thư nói nhớ mình liền bắt đầu căng lên.

Mỗi một trận đại chiến kinh tâm động phách phía Nam gửi chiến báo về kinh, sợi dây ấy sẽ kéo căng hơn, mà mỗi khi thế cục trong triều trở nên càng hiểm ác, càng phức tạp hơn, sợi tơ lòng ấy sẽ lại lần nữa kéo căng thêm, cho đến ban nãy, nó đột nhiên đứt lìa mà không hề báo trước.

Lúc này, cổng chính mở ra từ bên trong, đi ra là Hoắc Đan thống lĩnh gia tướng hầu phủ.

Hoắc Đan thấy Trường Canh dáng vẻ kỳ lạ, lấy làm kinh hãi: "Vương bá đang bảo ta đi tìm ngài, điện hạ, ngài sao vậy?"

Trường Canh vành mắt hơi đỏ, lại vẫn điều chỉnh ra nụ cười mỉm bằng tốc độ nhanh nhất, đứng thẳng dậy phủi hoa tuyết trên người: "Không có gì, đi vội nên hơi choáng thôi. Vương bá tìm ta có chuyện gì?"

Hoắc Đan là người thô lỗ, nghe vậy cũng không nhận ra dị thường, vừa tiến lên đỡ y vừa thấp giọng rỉ tai: "Có một vị khách không tiện lộ diện, nói là có việc gấp bẩm báo, y không thể đến Sở quân cơ cầu kiến, đành phải tìm tới hầu phủ."

Vị khách này là một nam tử độ ba tư ba lăm, Trường Canh không biết, nhưng khẳng định từng gặp ở nơi nào rồi, trông hơi quen mắt. Y vừa nhanh chóng điều chỉnh trạng thái tâm lý hỗn loạn, vừa cố gắng nhớ lại thân phận của khách.

May là người nọ tự mình chủ động tiến lên cho biết: "Hạ quan phó đốc sứ đoàn ngoại sự Lưu Trọng, tham kiến Vương gia."

"Sứ đoàn ngoại sự" là do một đám theo phái chủ hòa từ đầu đến đuôi của Binh bộ không biết móc nối với Hồng Lư tự thế nào mà liên thủ tạo ra, bởi sợ chọc giận Hoàng đế Long An, ngay cả "sứ đàm hòa" cũng không dám gọi, đành phải dở ngô dở khoai mang danh hào "ngoại sự đoàn", giương cờ hiệu "một văn một võ", lấy lý do chó má ra tiền tuyến "thông qua đường khác đuổi địch", thuần túy là muốn kiếm chuyện với Cố Quân thôi.

Trường Canh nhíu mày, vừa gặp mặt ấn tượng với người này đã rất xấu, ngại mất phong độ nên không biểu hiện ra, chỉ hờ hững gật đầu nói: "Lưu đại nhân sắp đi sứ, đêm khuya tới chơi, có việc gì quan trọng à?"

Lưu Trọng đột nhiên lui một bước quỳ xuống, một tay giơ lên trời nói: "Những lời hôm nay hạ quan nói nếu có nửa câu giả dối, nhất định bị sét đánh, phụ mẫu dù ở dưới cửu tuyền cũng không được an bình."

Trường Canh nghiêng người tránh nửa bước: "Lưu đại nhân làm gì vậy? Mau đứng lên."

Lưu Trọng không chịu: "Vương gia có biết chính đốc đoàn ta, người lãnh đạo trực tiếp của hạ quan, từng là học trò của Phương đại học sĩ năm đó?"

Trường Canh đương nhiên biết, chẳng những biết, còn ghê tởm một thời gian, nếu không phải gần đây hết cách phân thân, thật chỉ hận không thể lần lượt bắt hết đám gian nịnh thúc đẩy ngoại sự đoàn ra lăng trì.

"Xin Vương gia cho ta bẩm." Lưu Trọng nhanh chóng thuật lại một lần những lời Phương đại học sĩ âm thầm dặn dò ngoại sự sứ cho Trường Canh, lại nói, "Việc này hiện tại chỉ có mấy tâm phúc của chính đốc biết, hạ quan bất tài, liệt vị trong đây."

Trường Canh dùng ngón tay gõ chiếc bàn con bên cạnh: "Đại nhân đêm khuya tới chơi hầu phủ, không phải hành vi của tâm phúc đâu nhỉ?"

Lưu Trọng thi lễ sâu: "Hạ quan nguyên quán Hàng Châu, thân sinh phụ mẫu mất sớm, từ nhỏ đi theo trưởng bối trong tộc mà lớn lên, sau đó du học tứ phương, cũng từng nhiều phen làm phụ tá trong dòng dõi công hầu, nhân duyên tế hội, hợp duyên Phương gia đại gia, tiến cử ta nhập sĩ, tất nhiên là ơn tri ngộ khó mà báo đáp."

Trường Canh hơi nhướng mày.

"Hạ quan từ nhỏ có một thanh mai trúc mã, hai trẻ vô tư, vốn đã đính hôn, chưa kịp gả đi," Lưu Trọng cúi đầu rất thấp, vai co lại, "Vốn định công thành danh toại hồi hương cầu cưới, ai ngờ chưa đợi đến ngày này, đột nhiên bị cường lương xâm phạm..."

Lưu Trọng cúi đầu lau mặt, khấu đầu thật mạnh: "Người chết mặc dù đã rồi, nhưng kẻ sống luôn khó nguôi ngoai, tạ Vương gia thương hại."

Trường Canh khe khẽ thở dài: "Lưu đại nhân đứng lên rồi nói."

Hai người mật đàm rất lâu, lúc tiễn Lưu Trọng đi, trên đường đã có tiếng điểm canh, Trường Canh đứng ở cửa một lát, bóp mạnh trán, nghiêng đầu nói với Hoắc Đan: "Làm phiền thống lĩnh đi xem Trần cô nương đã ngủ chưa, nếu vẫn chưa ngủ, thì mời nàng ấy đến một chuyến."

Trần Khinh Nhứ gần đây vẫn tạm trú ở hầu phủ, chuẩn bị bắt tay vào thử trị liệu Ô Nhĩ Cốt cho Trường Canh, nhưng đây sẽ là một quá trình rất lâu dài, Nhạn vương luôn không được rỗi rãi, mươi bữa nửa tháng chưa chắc có thời gian trở về một chuyến.

Trần Khinh Nhứ vừa gặp Trường Canh, liền cảm thấy sắc mặt y rất khác thường, hỏi: "Điện hạ, suy nghĩ càng nhiều, thì càng không dễ khống chế mình, có phải gần đây ngài quá mệt rồi không?"

Trường Canh cười khổ một tiếng, y kích hóa mâu thuẫn sớm, kỳ thực rất nhiều việc chưa kịp chuẩn bị xong, mỗi một bước đều nguy hiểm, không biết khi nào sẽ hụt chân trên vách đá dốc đứng.

Nhưng y không còn thời gian.

Y sợ địch nhân sẽ không cho y thời gian, sợ Cố Quân chỉ nói chuyện tốt không nói chuyện xấu, ở nơi y không nhìn thấy chịu nỗi khổ mà y không hay biết.

Trường Canh: "Trần cô nương nếu tiện, không ngại bắt đầu thi châm từ hôm nay."

Trần Khinh Nhứ sửng sốt: "Quá trình có thể sẽ rất thống khổ, điện hạ ban ngày bận rộn triều chính, có chịu được không?"

Trường Canh lắc đầu: "Không biết, nhưng ta luôn có cảm giác không tốt lắm, mấy bữa nay áp chế ngày càng lực bất tòng tâm, cứ coi như không phá thì không xây được đi."

Một canh giờ sau, Trường Canh ý thức được rằng, mình chung quy vẫn xem nhẹ "thống khổ" theo như lời Trần Khinh Nhứ nói.

Trần Khinh Nhứ bưng một bát thuốc đến trước mặt y, chuẩn bị ngân châm sẵn sàng.

Trường Canh đưa tay nhận lấy: "Đây là cái gì?"

"Chờ điện hạ không còn bị Ô Nhĩ Cốt vây hãm nữa, ta sẽ chép phương thuốc cho ngài," Trần Khinh Nhứ nói, "Có điều trước khi uống tốt nhất là ngài đừng hỏi."

Trường Canh: "..."

Không biết là vì sao, trong ấn tượng của y, thứ liên quan đến vu độc của người man đều phiếm mùi xác chết âm trầm, nghe lời này, Trường Canh tức khắc sinh ra rất nhiều liên tưởng không tốt, lập tức không truy hỏi nữa, cố hết sức cuộn đầu lưỡi lên, bịt mũi một hơi uống cạn.

Trần Khinh Nhứ cúi người đốt một cây an thần tán, lãnh hương yên tĩnh khuếch tán ra trong phòng, nàng ngồi xếp bằng cách y ba bước, nghiêm túc nói: "Điện hạ, sau khi ta bắt đầu thi châm, ngài phải liên tục giữ vững linh đài tỉnh táo, nếu không sẽ không ai có thể đánh thức ngài, ta nói như vậy ngài hiểu chứ?"

Trường Canh gật đầu.

Trần Khinh Nhứ: "An thần hương này cháy hết thì ta sẽ bắt đầu, điện hạ hãy dùng thời gian một nén nhang này để thanh tâm, loại bỏ tạp niệm."

Mới đầu không hề có cảm giác, Trần Khinh Nhứ hạ châm ổn mà chuẩn, tay chân rất nhanh nhẹn, Trường Canh chỉ nhắm mắt dưỡng thần, bỗng nhiên, một cảm giác lành lạnh tràn ngập sợ hãi bò lên sống lưng – như là nỗi sợ hãi khi nhìn người ta giơ hung khí lên mà không thể trốn tránh, chỉ có thể nhắm mắt chờ chết, cơ sau lưng y không tự chủ được co giật, mặc dù không thể động đậy, lại có động tác tránh né theo bản năng.

Trần Khinh Nhứ lập tức không châm nổi nữa, thần sắc nghiêm trọng hẳn: "Điện hạ."

Trường Canh cảm thấy như có một cái roi vô hình quất lên lưng y, trong tai toàn tạp âm, tiếng chửi rủa của nữ nhân đã mất hơn mười năm vang lên.

Xen lẫn trong cơn ác mộng lâu năm ấy, tiếng Trần Khinh Nhứ hòa với an thần tán đâm vào tai y: "Điện hạ, đây là hầu phủ, ngài nghe thấy ta nói chứ?"

Trường Canh giật mình, dùng hết toàn lực hơi gật đầu.

Trần Khinh Nhứ cắm cây ngân châm tiếp theo, cây an thần hương thứ hai đã cháy hết, nàng liếc nhìn đồng hồ Tây Dương trên bàn: "Đây mới chỉ là bắt đầu, điện hạ có cần thêm thời gian thích ứng không?"

Trường Canh cắn nhẹ đầu lưỡi: "Không, tiếp tục đi."

Trần Khinh Nhứ không thừa lời nữa, hạ châm như bay, ảo giác vừa rút đi một lần nữa ngóc đầu trở lại, những đau đớn lúc nhỏ Tú Nương gây ra nhất nhất tái hiện trên người y.

Trần Khinh Nhứ thần sắc căng thẳng, nàng nhìn thấy một vết sẹo cũ trên xương quai xanh của Trường Canh đột nhiên vô cớ sưng đỏ lên, một dòng máu nhỏ chảy ra, mạch máu như mạng nhện dưới da nứt ra hai bên, trông cực kỳ dữ tợn.

"Điện hạ, Nhạn vương điện hạ!" Trần Khinh Nhứ gọi một tiếng.

Trường Canh không hề phản ứng.

Trần Khinh Nhứ không dám tiếp tục, bỗng nhiên, khóe mắt nàng trông thấy chân giường treo một bộ thiết kiên giáp, trông có vẻ lâu năm, hiện tại cương giáp trong quân đã thay đổi kiểu dáng từ lâu. Trần Khinh Nhứ chợt nhớ ra, năm đó khi cùng Trường Canh nói đến bệnh trạng của Ô Nhĩ Cốt, y tựa hồ vô tình nhắc tới, lần đầu tiên thoát khỏi ác mộng, là nhờ Cố Quân treo một bộ giáp trên người mình ở đầu giường.

Trần Khinh Nhứ đảo trường tụ qua, thiết kiên giáp phát ra tiếng va chạm lanh lảnh, tiếng kim thạch quét qua căn phòng yên tĩnh, hô hấp càng lúc càng dồn dập của Trường Canh đột nhiên dừng lại.

Trước mắt y có trùng trùng ma chướng, trước tiên là bị nhốt trong thân thể mình lúc nhỏ – trâm cài tóc sắc lẻm, hỏa côn nung đỏ, roi ngựa dơ dáy, đôi tay sắc như kìm sắt của nữ nhân... Mà cuối hết thảy, có một Cố Quân mặc một nửa cương giáp, cách nhiều năm, im lặng nhìn y chăm chú.

Trường Canh nhìn người ấy chằm chằm như phao cứu mạng, khó khăn duy trì một chút tỉnh táo, không biết qua bao lâu, ảo giác như yêu ma quỷ quái xung quanh mới dần dần rời xa, Trường Canh kiệt sức rã rời định thần lại, thấy an thần hương trên bàn đã cháy hết, Trần Khinh Nhứ đang gom ngân châm lại.

Bấy giờ y mới phát hiện, mình lại có thể động đậy rồi.

Trần Khinh Nhứ: "Cảm giác thế nào?"

Trường Canh hoạt động tay mình một chút, thấy trên cánh tay không biết từ khi nào có thêm rất nhiều vết trầy nhỏ, đã nhanh chóng kết vảy, hơi ngứa. Y thử nắm tay lại: "Hình như lại bò ra một lần nữa."

Sau khi Trần Khinh Nhứ đi, Trường Canh gục xuống ngủ ngay, bao nhiêu năm qua, giấc ngủ của y như một mặt hồ lặng sóng, một hòn đá cũng có thể phá tan, ngoại trừ mất máu hôn mê, y rất ít ngủ say giấc như vậy, cũng lần đầu không gặp ác mộng.

Y mơ thấy một tháp theo dõi cao chót vót, xa xa có ánh lửa, doanh địa thủ vệ nghiêm ngặt, có cảm giác gối giáo chờ sáng, một đội tướng sĩ tuần doanh trở về đang kéo cương ngựa, đột nhiên, người cầm đầu ngoảnh lại nhìn về hướng y, vậy mà là Cố Quân, trên mặt đeo tròng kính lưu ly còn lòe loẹt hơn mặt nạ, viền bạc và huyền giáp tôn nhau lên, nhìn y cười bỡn cợt.

Trong mộng, Trường Canh bật cười nói: "Ăn mặc kiểu gì thế?"

Cố Quân trên lưng ngựa giơ một tay, cánh tay sắt đốt tử lưu kim chạy động lực nhẹ nhàng kéo y lên lưng ngựa, ôm y từ đằng sau, kề tai cười nói: "Trong quân tịch mịch, dụ dỗ thêm mấy tiểu mỹ nhân ấy mà."

Người trong mơ không giỏi che giấu ý nghĩ nhỏ nhặt trong lòng mình, biết rõ y chỉ đang đùa, Trường Canh lại vẫn sinh ra một chút tủi hờn không nói ra lời: "Ta ở kinh thành cả đêm khó yên, chỉ sợ đi nhầm một bước, mỗi ngày chỉ ngóng trông nghe thấy đôi câu vài lời từ ngươi, mà mãi chẳng đợi được."

Cố Quân bất đắc dĩ nói: "Điện hạ, ngươi lặn lội tới đây chính là để làm nũng?"

Trường Canh nghe thế, cho rằng y nói đúng, rất muốn giống trong thoại bản dân gian, gây sự với Cố Quân một phen, song lúc cần dùng sách mới hận thiếu sách, tài nghệ chẳng ra gì, nhất thời hơi tắc tị, không biết phải gây từ đâu. Cố Quân lại giơ tay tháo kính lưu ly, nghiêng đầu hôn mặt y một cái: "Ngươi không thích, thì ta sẽ không đeo nữa."

Sáng sớm, Trường Canh tỉnh dậy trong tiếng sáo đáng sợ của Cố Quân, y mê hoặc bò dậy dụi mắt, cứ cảm thấy ma âm tựa hồ còn lảng vảng trong tai, thống khổ xoa xoa đôi tai nhức mỏi, khóe môi lại không nhịn được cong lên.

Đây thật là giấc mộng đẹp mỹ mãn nhất đời y.

Có khúc nhạc thiên địa kinh quỷ thần khiếp của Cố Quân làm bạn, cho dù phía trước thật sự toàn là đầu trâu mặt ngựa, y cũng có thể không sợ hãi gì.

Trường Canh không biết là, đêm hôm trước ở tiền tuyến, lúc Cố Quân tuần doanh trở về, đột nhiên có cảm giác phía sau có ai đó đang nhìn mình. Y không tự chủ được ngoảnh đầu lại, vừa vặn làm rơi kính lưu ly, lần này thấu kính không hỏng, trái lại viền hoa điêu mài tỉ mỉ kia bị kiên giáp làm mẻ một góc, đành phải buồn bực thừa nhận thứ này đẹp mà dỏm, thay loại bình thường.

Hôm sau Thẩm Dịch nghe chuyện, chỉ y mà chê cười một trận: "Không chừng là lộ thần tiên nào thấy ngươi huênh hoang nên ngứa mắt đấy."

"Thế thì thần tiên quản rộng thật," Cố Quân nói không biết ngượng, "Không chừng là thấy ta anh tuấn tiêu sái, gấp gáp muốn làm vợ ta thôi."

Thẩm Dịch: "..."

Không đợi Thẩm tướng quân ói hết cơm ăn từ tối qua, liền có tướng sĩ đến báo: "Đại soái, sứ giả ngài phái đến Đông Doanh có hồi âm rồi."

Cố Quân: "Cầm vào đây."

Tiếp tế của quân Tây Dương có một số là dưới sự phối hợp của người Đông Doanh đưa từ ngoại hải tới, trong chiến tranh, Đông Doanh dường như luôn nhúng vào, song lại giảo hoạt không chịu lộ mặt, ngay cả năm ấy Liễu Si dẫn mười mấy võ sĩ Đông Doanh ngụy trang thành hòa thượng mưu đồ bắt cóc Hoàng đế Long An – cũng là xuất phát từ tư oán cá nhân hắn, người Đông Doanh không chân chính đứng ra đòi lại công bằng cho hắn.

Thẩm Dịch: "Nói thế nào?"

Cố Quân lắc đầu: "Nói là rất lễ ngộ, nhưng thái độ mập mờ, sứ giả vừa muốn nói chính sự, thì kẻ có thể quản sự liền trốn tránh không gặp, tìm một đám vũ nữ mặt trắng tiếp khách... Người Đông Doanh có tính toán riêng trong lòng, nếu người Tây Dương có thể cắm rễ trên quốc thổ ta, họ sẽ được ăn ké một miếng thịt thối, nhưng nếu quân hạm Tây Dương bại lui, họ ngày sau vẫn là láng giềng với ta, bởi vậy vừa xuất lực vừa không muốn hoàn toàn đắc tội chúng ta."

Thẩm Dịch nhíu mày nói: "Lấy lòng cả hai bên, thứ gì vậy?"

"Thứ tốt." Cố Quân cười nói, "Họ lưỡng lự như vậy thì ta an tâm rồi, cứ chờ xem, có đại dụng đấy."

Thẩm Dịch lắc đầu: "Chúng ta hơi chờ không được nữa rồi, phía Nam chiến tuyến kéo quá dài, tử lưu kim quá căng, cho dù là ngươi điều phối, cũng không khỏi có lúc không theo kịp, hơn nữa ta lo lắng tiếp tục đánh như vậy thì trong triều sẽ có tạp âm."

Thần sắc Cố Quân nhạt đi.

Thẩm Dịch lại nhắc nhở: "Ta nghe nói triều đình cho rằng chúng ta không nên chỉ cắm đầu đánh, nên 'đánh một gậy cho một quả táo', gần đây đang tổ kiến một đám ngoại sự sứ mới, nếu đám này thật sự mang côn bổng đến tặng táo thì thôi, chỉ sợ là đặc biệt đến gây phiền phức."

Cố Quân trầm ngâm giây lát: "Khi nào đến?"

"Chắc cũng khởi hành rồi," Thẩm Dịch trả lời, "Không quá mười ngày nửa tháng – Tử Hi, ngươi muốn làm gì?"

Hai quân Đại Lương và Tây Dương giằng co rất lâu ở tiền tuyến, song phương không ai chịu thoái nhượng, giao thủ các chiến dịch lớn nhỏ vô số trận, tổng thể cơ bản là ngang sức ngang tài, chẳng ai làm gì được ai.

Ngày mười sáu tháng Giêng, một loạt chiến hạm hải giao Đại Lương xuất phát từ rạng sáng, thần không biết quỷ không hay rời cảng, trong tình huống vật tư đã bắt đầu căng, lại lần nữa chia ra một phần nhân mã, im ắng đi men theo sông.

Lúc ấy nắng mai chưa lên, Thẩm Dịch trong bóng đêm nói với Cố Quân: "Ngươi như vậy không khỏi quá mạo hiểm."

Cố Quân không để ý, chỉ ông gà bà vịt nói: "Buổi sáng kêu người nấu cho ta bát mì, phải đập một quả trứng gà vào."

Thẩm Dịch bận đến chóng mặt, nghe thế chẳng hiểu gì hết, hồi lâu mới nhớ ra hôm nay là ngày gì, lẩm bẩm: "Ngươi còn rất rảnh rỗi đó."

Y thấp giọng phân phó thân binh bên cạnh vài câu, sau đó lại tiếp tục lải nhải không buông tha: "Lúc trước không phải nói ít nhất cũng chờ đường ray lắp xong à, nếu đường ray riêng cho tử lưu kim thật sự thông, đến lúc đó phần thắng của chúng ta sẽ lớn hơn nhiều, ngươi động thủ bây giờ, vạn nhất hai bên phối hợp hơi có vấn đề, vậy thì... mạo hiểm quá!"

"Hiểm trung cầu phú quý," Cố Quân mặt không đổi sắc nói, "Ta đây một trang nam tử phong nhã hào hoa, cần gì phải cẩn thận dè dặt như lão già đối diện?"

Thẩm Dịch nghe y lại không nói tiếng người, cả giận nói: "Cố Tử Hi!"

Cố Quân thở dài, thoáng nhìn phương Bắc, thị lực của y lúc này đã không thể xuyên qua thiên sơn vạn thủy.

"Quý Bình," Cố Quân thấp giọng nói, "Nếu kinh thành suôn sẻ, chúng ta sớm đã bất chiến nhi khuất nhân chi binh, ngươi nói là chiến dịch này mạo hiểm lớn, nên tiếp tục kéo dài, kéo tới khi trong triều sinh biến mạo hiểm lớn hơn?" (Bất chiến nhi khuất nhân chi binh nằm trong Binh pháp Tôn Tử, nhường quân địch để họ tự mất khả năng chiến đấu, hòng giành chiến thắng.)

Thẩm Dịch ngẩn ra, á khẩu không trả lời được, y là tướng quân phụ trách một phương, chỉ cần bài binh bố trận, không cần suy xét bố cục tứ cảnh, cũng không cần lo âu Đại Lương năm mươi năm tới liệu có còn binh họa hay không.

"Lần này vô luận thế nào chúng ta cũng phải hạ một thành trước khi phái chủ hòa mở miệng, một khi cho họ cơ hội mở miệng, không biết sẽ bị họ kéo dài tới khi nào. Một tiếng trống tinh thần hăng hái, hai tiếng suy, ba tiếng kiệt, cho dù nghỉ ngơi lấy lại sức, cũng không thể quá dăm ba năm, nếu không đám thiên hoàng quý trụ Bắc đô sẽ dần dần lành sẹo quên đau, chờ thế hệ chúng ta chết hết, hậu nhân sẽ cho rằng nửa giang sơn phía Nam từ đầu đã là song phương cùng trị," Cố Quân liếc Thẩm Dịch một cái, nói, "Mạo hiểm một lần là đáng giá, đến lúc đó ta sẽ để Huyền Thiết hổ phù lại cho ngươi, vạn nhất... thì ngươi nhanh chóng thu gom binh lực còn thừa, không cần hoảng loạn, lập tức điều động Huyền Thiết doanh lâm thời chi viện, người Tây Dương tối đa là có năng lực trên sông nước, lên đất bằng không có gì đáng sợ, chúng ta còn đường xoay xở."

Thẩm Dịch nhíu mày sắp ra nếp nhăn.

Chính lúc này, binh tướng lo bếp núc nấu mì xong bưng lên, người bên dưới nấu cho Đại soái vô cùng tỉ mỉ, mì trường thọ từng sợi kích cỡ đều đều, trứng cũng vừa chín tới, nước ra nước thịt ra thịt, còn có sợi măng ngấm đầy nước thịt chìm nổi trong đó.

Cố Quân nhận lấy ăn vài miếng, đột nhiên hỏi: "Sao không có rau xanh?"

Thẩm Dịch ngạc nhiên nói: "Không phải ngươi không ăn à?"

"Ta bảo không ăn khi nào..." Cố Quân làu bàu một câu, và đại vài miếng, vẫn cảm thấy trong bát mì này thiếu cái gì đó, y ở tại chỗ suy tư một hồi, chợt tỉnh ngộ.

Thì ra cái gọi là ngày sinh và ngày tết, kỳ thực đều chẳng qua là sinh ra vì người ta, có một người sẵn lòng vào ngày như vậy tổ chức một "nghi thức" nho nhỏ cho y, là đang đổi cách để bày tỏ "ta đặt ngươi trong lòng".

Tư vị trong đây kỳ thực đều giấu ở câu nói đè dưới bát mì, mà không phải là mấy miếng thức ăn không mặn không nhạt này.

Năm ngày sau, Cố Quân chính thức nhận được danh sách ngoại sự đoàn, xem qua rồi đưa Thẩm Dịch, hời hợt phân phó: "Nhìn thấy chưa, chỉ có thể chuẩn bị động thủ thôi."

Thẩm Dịch không còn cách nào khác, chỉ đành tòng mệnh.

"Để phòng vạn nhất, Quý Bình, ta phải dặn dò ngươi mấy câu – nếu thật sự có chuyện gì, ngươi hãy thay ta tọa trấn trung quân, trên đất liền ngươi có sức đánh một trận với người Tây Dương, nhưng nhớ không được xuống nước, ngươi quá thiếu kinh nghiệm thủy chiến, không phải đối thủ của lão già đó." Cố Quân nói, lại lấy ra bốn phong thư đã viết sẵn ở trong soái trướng, "Nếu như đại thể không có sai sót, gửi phong chiến báo thứ nhất về kinh thành, nếu thiên mệnh không thương, chúng ta thực sự có bất trắc, vậy thì gửi phong thứ hai, để Sở quân cơ toàn lực phối hợp bổ cứu, đừng quên kèm thêm một bản tấu thỉnh tội, đóng dấu Huyền Thiết hổ phù, trách nhiệm một mình ta gánh là được... Hai phong sau là tư tín, phong thứ ba gửi Trường Canh trước, để y ổn định, chờ sự tình yên ổn, nếu có cơ hội, ngươi lại đưa phong thứ tư cho y."

Thẩm Dịch cả giận nói: "Ngươi đang dặn dò hậu sự à?"

"Bổn soái cần vì mấy con khỉ đột Tây Dương mà dặn dò hậu sự?" Cố Quân chẳng hề để ý nhướng mày nói, "Đây gọi là suy nghĩ chu toàn, đến lúc đó ta cũng đỡ phải viết lần nữa. Quân lệnh như núi, đừng nói nhảm nữa, cút đi làm việc đi!"

Đêm hôm sau, thủy quân Đại Lương đột nhiên gây sự, gióng trống khua chiêng xâm phạm trận địa quân Tây Dương, song phương đánh sắp quen rồi, vừa đối mặt thì lập tức mắt long sòng sọc. Quân Tây Dương tuy bất ngờ, vẫn nhanh chóng tổ chức phản công, vừa bắt đầu đã cảm thấy thủy quân Đại Lương lần này hung mãnh khác thường.

Nhã tiên sinh khoác áo choàng ngay ngoài áo ngủ, vô luận thế nào cũng nghĩ không thông là cái gì khiến Cố Quân đột nhiên muốn phá vỡ trạng thái tiền tuyến giằng co, theo tin tức trước mắt họ nhận được, trong Đại Lương không nên có cơ hội như vậy.

Cố Quân lần này cả quá trình thăm dò theo lệ cũng bỏ bớt, giống như căn bản không quan tâm tình hình trữ phối của quân địch, trực tiếp lên trọng pháo, "hải ô tặc" bắn ra như mưa, chủ hạm Tây Dương không kịp đề phòng trúng mấy phát, mé sườn mới sửa xong lại chìm xuống, cơ hồ tê liệt.

Trên chủ hạm Tây Dương nhất thời hỗn loạn.

"Không được hoảng, đừng hoảng!" Nhã tiên sinh lôi một cái đồng hống tới, "Đều ở tại chỗ đợi lệnh! Đoản giao lập tức tập kết, ngăn họ lại... Bệ hạ!"

Giáo hoàng chậm rãi bước ra, đi lên sàn tàu nhìn ra bên ngoài theo thiên lý nhãn.

"Bình tĩnh nào." Ngài thấp giọng phân phó.

Thủ lĩnh cao tuổi này như có thần lực có thể trấn an lòng người, chỉ một câu nhẹ nhàng, thuyền viên và vệ binh lộn xộn xung quanh tức thì đều im lặng, chờ ngài ra lệnh.

"Quy mô thuyền tiên phong của đối phương ước chừng chỉ hơn một nửa bình thường một chút, xung phong dữ dội như vậy, không phải phong cách của Cố Quân," Giáo hoàng thấp giọng nói, "Vì sao?"

Nhã tiên sinh miễn cưỡng kiềm chế cảm xúc: "Người Lương quá điên cuồng rồi, tôi thấy họ không giống xung phong, mà giống cá chết lưới rách lần cuối hơn."

Giáo hoàng vừa cho lính truyền lệnh điều chỉnh đội hình hạm đội hộ vệ, vừa lắc đầu: "Không hợp lẽ."

Nhã tiên sinh nhíu mày suy tính rất lâu, thình lình nói: "Đúng rồi! Tôi nhớ mấy hôm trước bệ hạ nhận được tin tức tới từ địch doanh báo rằng đoàn ngoại sự sắp đến tiền tuyến, liệu có phải liên quan đến việc ấy không?"

Giáo hoàng: "Ý ngươi là, nội chính của người Lương xuất hiện vết rạn, có kẻ muốn thỏa hiệp để kết thúc cuộc chiến tranh này?"

"Có chứng cứ vững chắc," Nhã tiên sinh nhanh chóng nói, "Ngài nghĩ xem, chúng ta từng tính ra thời gian hỏa xa Đại Lương lắp xong thông xe, lúc ấy bệ hạ còn nói, sau khi họ kiến thành cả tuyến đường, chúng ta sẽ rất bị động, không phải còn từng lập mấy phương án phá hoại tuyến đường sao? Nhưng dựa theo suy tính của chúng ta, tuyến đường sắt này vô luận thế nào cũng nên dựng xong từ trước cuối năm ngoái rồi, thậm chí có thể đã bắt đầu chạy thử, nhưng họ đến bây giờ vẫn không một chút động tĩnh, chứng minh nội bộ quả thật đã xảy ra vấn đề!"

Giáo hoàng khoanh tay trước ngực, một ngón tay cọ nhẹ cằm, lúc này, tiên phong của Cố Quân đã như một thanh đao nhọn đâm xuyên qua phòng tuyến chiến hạm Tây Dương, đằng đằng sát khí rẽ sóng lao đến.

Đội hộ vệ Tây Dương bao vây chủ hạm thành một quả cầu kiên cố, ưng giáp dự trữ phóng ra khỏi chủ hạm, từ trên cao lao xuống tấn công như mưa.

"Nếu là tôi," Nhã tiên sinh vẫn tiếp tục, "Tôi sẽ cho chủ hạm lui lại, cấp tốc tạo ra một vòng vây, dẫn nhánh tiên phong này vào, bọc đánh tiêu diệt, họ tuyệt đối không trụ được quá lâu trước lửa đạn mạnh như vậy, một khi đứt liên hệ với phía sau, ắt sẽ chết ở đây!"

Giáo hoàng lẳng lặng hỏi ngược lại: "Ngươi cho là Cố Quân sẽ phạm sai lầm cấp thấp kiểu này?"

Nhã tiên sinh: "..."

"Trước khi lên chiến trường, việc quan trọng nhất ngươi phải làm là hiểu rõ đối thủ – Truyền lệnh, co cụm hai cánh, phòng ngự làm chính, chuyển dời về hướng Đông Nam, lập tức gọi viện binh." Giáo hoàng vừa ra lệnh đâu vào đấy, vừa nói với Nhã tiên sinh, "Nếu ngươi thật sự từng nghiêm túc nghiên cứu mấy án lệ kinh điển Cố bình định phản loạn ở Đông Hải, bắt sơn phỉ ở Tây Nam, xét lại mấy lần giao thủ của chúng ta với y ở phương Bắc, nên có một chút hiểu biết sơ lược về Cố Quân, khi tư nguyên trên tay y thực sự nằm trong liệt thế, chẳng những y sẽ không để ngươi nhìn ra, còn có thể thiên y vô phùng kéo Huyền Thiết doanh chỉnh túc đến trước mặt ngươi, khiến ngươi sợ vỡ mật... Người Lương họ gọi đây là 'hư tức là thực, thực tức là hư'."

Nhã tiên sinh không đồng ý, nhưng ngoài mặt không dám phản đối, đành phải nói theo Giáo hoàng: "Vâng, bệ hạ."

"Ngươi nhìn đi, đây chỉ là mồi nhử thôi." Giáo hoàng cười nói, "Chúng ta hãy kiên nhẫn, kéo lưỡi câu của y chạy xa một chút, là mau chóng có thể chân chính nhìn thấy át chủ bài trong tay y."

Đúng lúc này, lính truyền lệnh chạy tới báo: "Bệ hạ, đội quân hạm thứ nhất thứ hai và thứ ba không ở trên cảng, mà đang đi 'nhiệm vụ viễn hải', ngài xem..."

"Nhiệm vụ viễn hải" là chuyên môn đi hộ tống tiếp ứng thuyền vật tư của thánh địa.

Giáo hoàng không hề quay đầu lại nói: "Hẳn là họ còn chưa đi xa, lập tức gọi về, dọc tuyến 'viễn hải' rất an toàn, hộ tống chút vật tư này không cần tới ba hạm đội, đối phó túc địch thân ái cần phải có kính ý và thành ý."

"Vâng!"

"Quay về! Thu hai cánh vào!"

"Hạm đội hộ vệ điều chỉnh hướng Đông Nam, chú ý tốc độ-"

"Ưng! Tạm thời rút về. Chủ hạm hạ tất cả tấm thép phòng ngự xuống, rẽ nước chạy."

Cả hạm đội Tây Dương cấp tốc tụ tập thành một đại vật khổng lồ chặt chẽ, hạm đội hộ vệ vật tư mới xuất cảng nhanh chóng quay về, như hổ rình mồi dõi theo hải quân Đại Lương lao tới như không sợ chết, kết thành phòng vệ vững chắc.

Mỗi lần đều là Cố Quân giữ chân người Tây Dương, lần này tình huống đột nhiên thay đổi, biến thành người Tây Dương dùng phòng vệ dày giữ tiên phong Đại Lương lại tìm kiếm khắp nơi một chỗ hạ miệng.

Hai khắc sau, nhánh quân tiên phong như chó điên của Đại Lương rốt cuộc chậm lại, hiển nhiên là đã kiệt sức.

Giáo hoàng: "Jacob, ngươi xem."

Ngài chưa dứt lời, đã thấy một loạt hạm đội tiếp ứng và tiếp tế xuống từ ba đường, át chủ bài Đại Lương rốt cuộc không giấu được nữa, trong bóng đêm nhe răng nanh dữ tợn.

Nhã tiên sinh giật nảy mình – nếu ban nãy thực sự theo lời mình, lập tức bao vây xơi tái tiên phong của Đại Lương, hai cánh bên ta thiếu ba nhánh hạm đội lập tức sẽ bị địch nhân kéo giãn làm yếu, sẽ dễ dàng bị người Lương mai phục xuyên thủng xé rách!

"Ta nói rồi," Giáo hoàng nhìn hắn hơi trách cứ, "Chỉ có hiểu rõ địch nhân, ngươi mới có thể biết cơ hội của mình chân chính ở chỗ nào – Tất cả hạm đội chuẩn bị phản kích! Nhân lúc họ chưa 'đứng vững', giáng một gậy ngay đầu!"

Ngài vừa dứt lời, lửa đạn Tây Dương liền như sóng thần đẩy ngang ra, ba lộ bộ đội chủ lực của Đại Lương vừa đối mặt liền tổn thất nặng nề, họ thậm chí chưa kịp bắn trả một phát pháo, chiến hạm hải giao trên cùng đã lũ lượt bị đánh chìm.

Thoạt nhìn, lần cung cấp hữu hiệu này cơ hồ tiêu diệt gần một phần tư sinh lực bộ đội chủ lực của thủy quân Đại Lương.

Hạm đội thủy quân Tây Dương sục sôi, bắt đầu từ ngày Cố Quân tọa trấn Lưỡng Giang, họ chưa từng được lợi lớn như vậy trên tay y!

Song bản thân Cố Quân lại không phẫn nộ và sứt đầu mẻ trán như trong tưởng tượng.

Lúc này, trên một hải giao cỡ trung không hút mắt trong thủy quân Đại Lương, Cố Quân thủng thỉnh nhìn hàng loạt "chiến hạm" của mình bị đánh chìm, mắt cũng không chớp mà nói với thân vệ bên cạnh: "Ngươi xem, ta đã nói gì? Biết người biết ta, lão già đó đánh một trận có thể chuẩn bị mười mấy năm, chắc là từng rất dụng tâm nghiên cứu về ta."

Nếu lúc này là ban ngày, có lẽ người Tây Dương sẽ dễ phát hiện chỗ đặc biệt của những con thuyền bị đánh chìm hơn.

Thuyền đều trống không, giống một loại hình thái khác của "hải ô tặc" hơn.

Đây vẫn là chủ ý dở hơi của đám cổ hủ Linh Xu viện – gom lại chiến hạm bị hỏng ở tiền tuyến, sau đó phỏng tạo hệ thống động lực của hải ô tặc, dọn sạch cả hạm thuyền, loại chiến hạm chỉ có xác này cực nhẹ, dùng chút ít động lực là có thể tự động trượt rất xa trên mặt nước, tuy không có tác dụng gì, lại là lợi khí thêm thanh thế dọa người.

Cố Quân phái ra một phần thủy quân, thực sự trực tiếp lên chiến trường, tất nhiên bị người Tây Dương nhìn ra sinh hoài nghi, bởi vậy bèn dùng cách này múa hờ một thương.

"Nếu họ có thể bị thắng lợi nhất thời làm mê muội đầu óc thì càng tốt," Cố Quân vắt chân chữ ngũ ngồi đó, "Tản ra, nhớ lấy, nhiệm vụ của chúng ta hôm nay là giữ chân kẻ địch."

Thân binh liếm môi: "Đại soái, 'bên kia' có thể theo kịp không?"

"Không dám nói chắc, không theo kịp chính là vận số của ta đã tận," Cố Quân cười khẽ một tiếng, "Chú ý cơ động."

Trên chủ hạm Tây Dương, Nhã tiên sinh quả nhiên mừng rỡ đến mụ mị, đáng tiếc bên cạnh có một Giáo hoàng bệ hạ, hắn chưa dám hí hửng thái quá.

Hơn nữa hắn mau chóng phát hiện, nhánh thủy quân Đại Lương xuất sư bất lợi này không hề dễ đối phó, người Lương sau khi ngựa mất móng trước đã cấp tốc điều chỉnh, phong cách tác chiến như lưu manh của Cố Quân lại ra trận, khiến người Tây Dương sứt đầu mẻ trán, biến trận chiến vốn nên là lấy nhiều đánh ít thành tình cảnh gần như ngang sức ngang tài.

Chủ lực hai quân đánh từ nửa đêm đến tận tảng sáng hôm sau-

Khi tia nắng đầu tiên xuyên qua mặt biển, cách cục chiến trường trải qua một đêm chiến đấu hỗn loạn trong bóng tối đột nhiên lộ ra dưới ánh mặt trời.

Trên chủ hạm Đại Lương, thân binh hớt hải nói: "Đại soái, bên kia vẫn chưa có tin tức, chúng ta triệt đi, tiếp tục như vậy thì vị trí chủ hạm sẽ bị lộ, chúng ta không có đại thiết quái nổ kiểu nào cũng không chìm như của họ, ngài không thể lấy thân mạo hiểm được!"

Cố Quân vuốt nhẹ tròng kính lưu ly: "Yên tâm đi."

Đúng lúc này, Giáo hoàng đột nhiên dúi thiên lý nhãn vào tay Nhã tiên sinh: "Con thuyền hiệu Ngô Việt kia! Đó chắc chắn là chủ hạm quân địch, Cố Quân nhất định ở trên đó, hạ nó!"

Lửa đạn dày đặc chuyển dời theo một tiếng ra lệnh của Giáo hoàng, chủ hạm có Cố Quân ở trên nhất thời không thể tránh né.

Thân binh: "Đại soái!"

Chỉ mành treo chuông, bốn năm đoản hạm trong tình huống Cố Quân chưa hề hạ lệnh tranh nhau lao ra, lấy thân hạm của mình chặn trước chủ hạm, lập tức uỳnh một tiếng.

Khuôn mặt Cố Quân chợt căng thẳng, lúc này, một thủy binh lảo đảo lao vào: "Đại soái, chúng ta không trụ được nữa!"

Cố Quân hơi nheo mắt.

"Đại soái!"

"Không sao, không cần hoảng... Hậu đội đổi thành tiền đội, giữ chân họ một lúc," Cố Quân thấp giọng phân phó, "Từ..."

Một câu chưa nói xong, đột nhiên, không trung truyền đến tiếng ưng kêu, âm thanh ấy chói tai như tiếng còi cảnh báo, ngay cả Cố Quân dở điếc cũng nghe thấy.

Cố Quân quay phắt đầu lại.

Đó là ám hiệu của Thẩm Dịch phụ trách tổng quản lý trên bờ cho y – bên kia đắc thủ rồi!

Thân binh hơi sửng sốt, sau đó nhảy cẫng lên: "Ưng của chúng ta!"

Cố Quân: "Đưa thiên lý nhãn cho ta."

Thân binh liếm đôi môi khô khốc: "Đại soái, chúng ta..."

"Cẩn thận!"

"Uỳnh" một tiếng-

Đúng lúc này, một viên đạn lạc xuyên qua khe hở của tàu hộ vệ, đánh thẳng vào phần đuôi chủ hạm Đại Lương, cả chiến hạm hải giao rung mạnh, bụi mù và hỏa hoa tóe lên.

Trong cảnh huyên náo, một mảnh kính lưu ly bay đi, nát bét.

Ngày hai mươi tư tháng Giêng, đoàn ngoại sự ăn cứt cũng chẳng kịp nóng còn chưa đến tiền tuyến, đêm hôm khuya khoắt Lý Phong đã bị chiến báo khẩn cấp từ tiền tuyến đánh thức trước.

Huyền Thiết hổ phù đóng dấu – tiền tuyến đại thắng!

Bố trí của Cố Quân nửa năm qua mới thấy đầu mối, không biết từ khi nào y đã phái người về Nam đến Nam Dương, âm thầm xúi giục chư đảo Nam Dương bị quân Tây Dương chiếm, mai phục phần lớn binh lực ở biên cảnh Tây Nam.

Đêm ngày hai mươi mốt tháng Giêng, thủy quân Đại Lương dùng một phần bộ đội chủ lực đột tập quân địch trên chiến trường chính diện, lợi dụng sự cẩn thận dè dặt của tướng lĩnh quân địch, hãm chân binh lực địch, đồng thời đoàn chiến hạm hải giao mai phục tại biên cảnh Tây Nam càn quét chư đảo Nam Dương, nội ứng ngoại hợp tiêu diệt thế lực Tây Dương chiếm cứ ở đây, sau đó lập tức phát binh, tiệt tuyến tiếp viện viễn dương của địch, thần không biết quỷ không hay bóp cổ đối phương!

Ai nói đường đường thủy quân Đại Lương đánh không được chiến dịch viễn hải?

Chiến báo rất ngắn gọn, chỉ nói kết quả, tình hình cụ thể và thương vong không nhiều lời.

Sau chiến dịch này, quân Tây Dương chật vật lui đến hải vực Đông Doanh, dân binh các nơi thừa cơ phát động tập kích quân địch trong khu vực, nửa giang sơn phía Nam nổ đến nở hoa tứ phía, là ánh rạng đông đầu tiên của tiền tuyến trầm tịch lâu ngày.

Lý Phong cơ hồ nhảy cẫng lên, nửa đêm canh ba mặc quần áo muốn mở đại triều hội.

Đoàn ngoại sự cái cứt, có thể đánh người Tây Dương cuốn gói về quê, thì một hạt cát cũng không cho họ mang đi.

Nội thị vây quanh hắn, từ sau khi Chúc Chân Nhỏ chết, bên cạnh Lý Phong đã thay vài người, đều không hợp ý lắm, lúc này hầu hạ hắn cũng là một lão nhân, không lắm lời, coi như thông minh: "Chúc mừng bệ hạ, có Cố soái, ngày thu hồi Giang Nam sắp tới rồi!"

Lý Phong cười "ha ha", nói năng cơ hồ lộn xộn: "Trẫm xuống dưới cửu tuyền nhìn chung không cần lo lắng khó lòng ăn nói với liệt tổ liệt tông nữa, thật vậy."

Lý Phong thọt đã lâu như bôi dầu dưới chân lao ra ngoài, đi đến nửa đường, vừa bị gió sớm thổi, thì đầu óc nóng lên của Hoàng đế Long An rốt cuộc nguội lại, vẻ vui mừng cũng hơi tối đi.

Đúng rồi, trận chiến này đại thắng, sau đó thì sao?

Không ít chính lệnh Sở quân cơ thi hành đều giương cờ hiệu "lấy chiến làm đầu", các đại thế gia ngoại trừ mỗi ngày lôi đan thư thiết khoán ra để cậy già lên mặt với mình, chính là chỉ muốn đình chiến.

Nếu nói trước đây Lý Phong còn có chút do dự với chiến và hòa, thắng lợi này của Cố Quân đã thêm lợi thế cho một bên, làm cán cân trong lòng hắn nghiêng hẳn về một phía.

"Đám thế gia môn phiệt này ngày càng táo tợn, ngay cả đại chiến cũng có thể can thiệp." Hoàng đế im lặng nghĩ bụng, "Có rắp tâm gì?"

Lý Phong dừng bước, không đầu không đuôi nói với nội thị: "Nhũ mẫu Triệu thị của trẫm mấy năm rồi không vào cung, ngươi còn nhớ bà ta chứ?"

Nội thị không rõ lắm, cúi đầu đáp một tiếng: "Nghe nói Triệu phu nhân hiện giờ dưới gối chỉ có một nữ nhi, còn làm việc trong cung, nhận Phương tam công tử làm nghĩa tử, dạo trước thường xuyên trình thẻ, chắc là đến cầu tình."

Lý Phong "À" một tiếng, hơi hạ mắt: "Vương tử phạm pháp còn đồng tội với thứ dân, năm đó Ngụy vương hạ ngục như thường, cũng không thấy ai đứng ra nói một câu công bằng, sao nhi tử những nhà này trái lại kẻ nào cũng quý báu?"

Nội thị nghe ra một chút sát ý, dè dặt nhìn Lý Phong một cái, nhất thời không dám lên tiếng.

Mồ hôi nóng đầy đầu Lý Phong bị gió lạnh thổi, hắn ôm ngực, ho khẽ vài tiếng, nội thị vội đem một tấm hồ cừu choàng cho hắn.

Thái tử thất tuế khán lão, người cũng thông minh, nhưng tính cách quá hiền lành nhu nhược, không giống mình lắm, ngược lại giống tiên đế Nguyên Hòa hơn, mà thời Nguyên Hòa là quang cảnh ra sao?

Lý Phong hiện giờ vẫn nhớ rõ – tiên đế luôn cảm thấy đế vị của mình danh bất chính ngôn bất thuận, dựa vào đây lại dựa vào kia, ngay cả quân quyền cũng không thể khống chế trong tay, cho dù Cố gia chỉ còn một đứa trẻ choai choai, ông vẫn mặc cho Huyền Thiết hổ phù chết người kia truyền lưu bên ngoài, một chút việc bằng mắt muỗi cũng phải hỏi ý kiến kẻ này kẻ khác, động chút là vỗ về nói tình cảm, nuôi một đám sâu mọt quốc gia, cơ hồ phá sạch của cải sung túc Vũ đế để lại.

Lý Phong mất mười năm, vẫn chưa thể dọn xong đống lộn xộn tiên đế bỏ lại.

Lý Phong hai năm nay càng cảm thấy mình lực bất tòng tâm, hắn không muốn để nhi tử rơi vào quẫn cảnh của phụ thân năm đó.

Nhưng với tình trạng trước mắt, hắn lại nên tin tưởng ai đây?

Nhạn vương ư?

"Không cưới vợ", "không sinh con", "nguyện làm Thương Quân tuẫn quốc tộ" nọ kia toàn là bản thân Nhạn vương nói, thiên hạ còn đầy những lời dễ nghe hơn, đám loạn thần tặc tử kia lúc chứng cứ chính xác cũng còn khóc lóc nói mình vì nước vì dân có nỗi khổ trong lòng, Lý Phong cố nhiên có thể bị lay chuyển nhất thời, nhưng lâu ngày có thể để hắn bình tĩnh lại.

Lý Phong trước mắt che chở Trường Canh, là vì hắn cũng nhìn thấy giá trị của cuộc cải cách này, có một điểm Nhạn vương nói đúng, chế độ và quy tắc mới là quan trọng nhất, vô luận Nhạn vương muốn thay đổi thành thế nào, xã tắc lỗ chỗ thương tích quả thật đang phát triển theo hướng tốt hơn, Lý Phong hi vọng mượn tay Nhạn vương giải quyết sạch sẽ triệt để căn bệnh trầm kha của tiền triều, mai kia để lại cho Thái tử một xã hội sáng sủa.

Song đồng thời, hắn tuyệt đối không thể giao nhi tử nhu nhược vào tay đệ đệ sát phạt quyết đoán này, nếu có một ngày hắn phải đi theo tiên đế, người đầu tiên hắn cần xử lý là Nhạn vương, và người thứ hai chính là Cố Quân.

"Không đi nữa, hồi cung, sáng sớm mai lại triệu, chờ trời sáng, ngươi gọi Thái tử tới một chuyến." Lý Phong bỗng nhiên không đầu không đuôi phân phó.

Nội thị hoang mang, không biết vừa nãy còn đang nói chuyện Triệu thị, sao Hoàng thượng trầm mặc một hồi lại sang đến Thái tử.

"Còn nữa," Lý Phong lại nói, "Bản tấu ta mang về đâu? Lấy đến ta xem."

Tấu chương kia là Từ Lệnh viết, một chương trình về cải cách Quốc Tử học, ý tưởng không thành thục lắm, thậm chí hơi non nớt, nhưng không sao, có thể ném cho Sở quân cơ phối hợp hoàn thiện. Cả triều đều đang náo loạn muốn giết người chém đầu nghiêm trị gian lận khoa cử, cũng chỉ có mấy thư sinh như vậy còn có thể nghĩ đến chuyện sau này.

Nếu như có thể, Lý Phong cũng giống một người cha bình thường, hi vọng có thể che chở cho nhi tử tuổi nhỏ thêm vài năm, cố gắng để nó ở hậu cung chơi dế cỏ, nhưng ai biết được thời đại phong vân tế hội này sẽ còn xảy ra chuyện gì?

Tinh mơ hôm sau, tin tức tiền tuyến Lưỡng Giang đại thắng đập thẳng xuống đầu, thế lực các phương đều còn chưa kịp có phản ứng với kết quả bất thình lình.

Lý Phong trên đại triều hội lần đầu tiên lập trường rõ ràng mà cương quyết thi hành hai tân chính:

Thứ nhất, đồng ý với "tân chính Long An" của Sở quân cơ về việc hủy phong hỏa phiếu, sửa đổi chính sách đúc tiền.

Thứ hai, trên nguyên tắc đồng ý chương trình cải cách Quốc Tử học do nhóm người Từ Lệnh hai viện liên danh yêu cầu, chỗ chưa hoàn thiện trong đó, lệnh cho Sở quân cơ dẫn đầu, Lễ bộ Quốc Tử giám cùng hai viện chung tay chỉnh sửa.

Đồng thời, Lý Phong ở trên đại điện lôi Giang Sung và Linh Xu viện ra quở mắng một trận, yêu cầu lập tức tăng tốc tiến độ điều tra án gian lận chín tỉnh, tất cả những kẻ liên can, bất luận xuất thân, nhất loạt nghiêm trị không tha, và giao trách nhiệm cho Linh Xu viện lập tức nghĩ cách mở rộng tuyến đường ray hơi nước từ kinh thành đến Giang Nam, tuyệt không thể cho người Tây Dương đường nghỉ xả hơi, không được lãng phí thắng lợi lần này, họ phải một tiếng trống làm tinh thần hăng hái thêm mà thắng tiếp.

Trước lúc hạ triều, Lý Phong tuyên bố quyết định cuối cùng của mình – Thái tử mười một tuổi chuẩn bị vào triều nghe chính sự.

Đây là lần đầu tiên Hoàng đế Long An thái độ luôn mập mờ biểu đạt rõ lập trường phá cựu lập tân của mình trên đại triều hội, trước đó chưa hề lộ ra nửa chữ với bất cứ ai, không riêng gì đảng Phương Khâm, đến cả Sở quân cơ cũng hoàn toàn không hiểu.

Giang Sung hoang mang nhìn Nhạn vương một cái, thầm nghĩ: "Ngô hoàng uống nhầm thuốc à?"

Trường Canh không hề xuất hiện dị sắc trên mặt, lập tức đứng ra không mặn không nhạt vỗ mông ngựa. Tuy y chơi trò quyền mưu, nhưng trời sinh có tiên khí của kẻ ngoài vòng giáo hóa, ngay cả tư thế vỗ mông ngựa cũng hết sức sủng nhục bất kinh, hoàn toàn là bộ dáng đã thông đồng nhất trí với Lý Phong.

Lập tức có kẻ biến sắc.

Trong lòng Lý Phong biết Nhạn vương cố ý mượn thế mình, văn võ cả triều thì đang ôm mưu toan riêng, song điều này không hề quan trọng, hắn có thể bắc thang cho Nhạn vương, thì cũng có thể bắc thang cho bất cứ một ai.

Lần này Lý Phong dùng hai chính lệnh đẩy Sở quân cơ lên nơi đầu sóng ngọn gió, chỉ muốn xem mấy kẻ lôi đan thư thiết khoán của tiên đế ra nói có làm gì được vị Nhạn vương giữa chừng xuất gia, cả đời chỉ từng kêu một tiếng "phụ hoàng" này hay không.

Ngày hôm ấy chốn kinh hoa lại định trước là một đêm không ngủ.

Trong Sở quân cơ, Giang Sung nói nhỏ với Trường Canh: "Vương gia, làm thế nào đây, chúng ta cứ theo kế hoạch ban đầu chứ?"

Trường Canh không chút do dự nói: "Rèn sắt nhân khi còn nóng."

Giang Sung nhìn Trường Canh một cái thâm sâu, lại hỏi: "Vương gia, nếu ép căng quá, họ chó cùng rứt giậu thì làm thế nào?"

Trường Canh quay đầu nhìn hắn, ý tứ sâu xa nói: "Ta sợ chính là họ không rứt giậu. Hàn Thạch huynh, huynh biết câu hữu dụng nhất mà đời này ta từng học là câu gì chứ?"

Giang Sung tự dưng cảm thấy hãi hùng khiếp vía.

Trường Canh nói: "Ra trận, ai không muốn chết thì chết trước."

Trên đường rời Sở quân cơ về nhà, Trường Canh vừa vặn đụng phải xa giá của Phương Khâm, liền phân phó Hoắc Đan: "Nhường Phương đại nhân đi trước đi."

Hoắc Đan vâng dạ, lát sau lại chạy về báo cáo: "Vương gia, Phương đại nhân nói không dám thất lễ, đã nhường đường rồi."

Trường Canh vén màn xe, nho nhã lễ độ chắp tay chào Phương Khâm, hai người hòa khí đi qua nhau, giống như chưa từng muốn một mất một còn.

Trường Canh dựa xe, thầm nghĩ nếu mình đổi chỗ cho Phương Khâm, tốt xấu gì cũng sẽ nhịn qua thời điểm căng thẳng này, đợi đến khi tân quý trong triều chớp nhoáng chiếm lĩnh tài chính giao thông, căn cơ bất ổn lại khuếch trương quá nhanh mà đẩy một phát, sau đó chỉ cần im lặng chờ Lý Phong ra tay là được rồi – vương công quý tộc như mạng nhện trong triều này, khắp nơi đều là cố sự, khắp nơi đều có thế lực, nếu chịu từ từ chờ thời, chờ đến hậu chiến, sẽ có cả tá cơ hội khôi phục chế độ cũ.

Trường Canh còn biết với sự ổn thỏa của Phương Khâm, trong lòng hắn nhất định cũng nghĩ như vậy.

Thế nên, dù có phải lôi mọi người cùng đi trên dây, cũng tuyệt đối không thể để hắn bình tĩnh đợi được cơ hội này.

Phương Khâm nhìn theo xa giá Nhạn vương đi xa, mới phân phó gia nhân đi tiếp. Xung quanh hoàng hôn bao phủ, chậm rãi tiến vào đêm dài đằng đẵng, hắn tựa hồ mang máng nhìn thấy đại thế như động mạch kia, tựa nước chảy mà cuồn cuộn đổ qua trước mặt. Song hắn vô lực ngăn trở, đê dài vạn dặm dưới chân hắn là do cát bụi chất thành, trông thì uy vũ hùng tráng, thực tế không chỗ mượn lực, là tình đời vô biên đang làm ngược lại hắn.

Quay về Phương phủ, trong phủ theo thường lệ đã có khách chờ đợi, Phương đại học sĩ chẳng thiết tu tiên cầu đạo nữa, tự mình tiếp đãi ở tiền sảnh. Phương Khâm vừa vào cửa thì mọi người đều đứng hết dậy, thần sắc khác nhau mà nhìn hắn.

Trong lòng Phương Khâm lại có dự cảm xấu: "Cha, sao vậy?"

Phương đại học sĩ mặt trầm như nước nói: "Nghĩa muội ngươi hôm nay ở trong cung va chạm trung cung bị tội, vừa mới bị cấm túc, không cho phép thân nhân thăm viếng."

Phương lão phu nhân có mối quan hệ rất tốt với Triệu thị nhũ mẫu của Hoàng thượng, như đùa giỡn mà để tam đệ của Phương Khâm nhận Triệu thị làm nghĩa mẫu, vốn trong đây chẳng có chuyện gì liên quan đến Phương Khâm, chỉ là để tỏ ra thân cận khách khí, trước mặt người ngoài cũng gọi con gái Triệu thị đang làm trong cung là "nghĩa muội".

Phương Khâm ngạc nhiên hỏi: "Vì sao?"

"Vì sao? Chẳng cần nguyên do gì cả," Phương đại học sĩ chậm rãi nói, "Nhớ năm ấy kim thượng gọi Cố Quân là 'thúc', từ nhỏ tình cảm sâu đậm, cũng chẳng qua một lời bất hòa liền hạ ngục, huống chi là chúng ta – kim thượng khắc bạc quả ân, vô tình vô nghĩa, thật sự khiến người ta lạnh lòng."

Phương Khâm suy tính nhanh chóng, tức thì quay đầu phân phó gia nhân: "Lập tức cho người truyền tin đến Triệu quốc công, bảo hắn đừng giở trò ấu trĩ kiểu này nữa, hãy biết điều đi."

Hắn vừa nói thế, mọi người liền ồ lên, tức khắc có kẻ đứng ra dị nghị: "Phương đại nhân, sao ngươi lại thò tay ra ngoài rồi?"

Phương Khâm lờ người khác đi, chỉ nhìn chằm chằm Phương đại học sĩ mà nói: "Cha, người còn chưa nhận ra sao, Hoàng thượng không phải là tiên đế, mọi sự chỉ có thể thuận theo y, nếu khiến y cảm thấy mình bị bức bách, tất nhiên sẽ bị dội ngược, chúng ta chỉ muốn diệt trừ đảng Nhạn vương, khiêu chiến Hoàng thượng có ích lợi gì?"

Không đợi Phương đại học sĩ mở miệng, Phương Khâm lại tiếp tục giận dữ nói: "Con cũng rất muốn bảo vệ tam đệ, nhưng nếu tiếp tục như vậy, thì bị cuốn vào sẽ không chỉ là một tam đệ. Ở đây đều là người mình, ta nói một câu không dễ nghe, các ngài thực cho là Triệu quốc công chính mông mình cũng lau sạch rồi sao? Nếu để Nhạn vương bắt được thóp mà mượn đó tấn công, đến lúc ấy chỉ có thể bị động hơn! Chỉ là một đường ray xe lửa, ngài không cho dựng, ngoại trừ hơi cản chân Lý Mân thì còn tác dụng thực tế không? Cố Quân nói động binh là động binh như thường, khiến đoàn ngoại sự cũng chẳng kịp tới tiền tuyến! Các ngài còn có thể làm gì? Cắt đứt tiếp viện tiền tuyến, bán nước luôn à?"

Trong lòng hắn khó chịu rất lâu rồi, nay rống hết ra, ngay cả cha ruột cũng chẳng thèm nể nang, mọi người im lặng chốc lát, sau đó một kẻ nói: "Thế chẳng lẽ Phương đại nhân định bấm bụng nhịn?"

Phương Khâm: "..."

Hắn phát hiện ra là mình quả thật chẳng tài nào nói thông với những người này, đặc biệt là sau khi Phương đại học sĩ một lần nữa xuất sơn.

Chắc hẳn khi thứ gì đó vận số sắp tận, không hề là mưa rào gió giật vì nguyên do bên ngoài. Trong thế gia như nấm của đại quốc mênh mông, mỗi họ chẳng cần nhiều, nếu một thế hệ có một kẻ có thể đỉnh môn lập hộ, không cần tài năng xuất chúng, không cần văn trị võ công, chỉ cần đầu óc rõ ràng, đủ tự mình biết mình, hiểu mình nên làm gì và không nên làm gì – như vậy nhờ vào mấy đời tích lũy, đảng Nhạn vương dù ba đầu sáu tay cũng tuyệt đối không leo lên đầu họ được.

Phương Khâm nhìn xung quanh, không lời nào để nói mà cười khẩy một tiếng, phất tay áo bỏ đi.

Phương đại học sĩ hạ mắt ngồi ngay ngắn lại, vuốt râu nói: "Khuyển tử không nên thân, để chư vị chê cười rồi."

Một vị công khanh sắp xuống lỗ bên cạnh nói: "Nhị công tử tài hoa hơn người, chỉ là suy cho cùng hơi trẻ tuổi khí thịnh."

Với tuổi tác của Phương Khâm, thực sự không thể nói là "tuổi trẻ khí thịnh", Phương đại học sĩ lại ý tứ sâu xa mà lắc đầu: "Quả thật, khi Vũ đế tại vị nó còn nhỏ, không trải qua những việc đó, thiếu chút rèn luyện. Ta thấy có một số thứ đừng nên để bọn tiểu bối biết, tránh để chúng lo trước lo sau, dễ hỏng việc. Các lão huynh đệ năm đó đưa tiên đế lên hoàng vị còn ở đây, trở về gom con cháu các nhà một chút, có lẽ còn có sức thành sự... Có điều bất hiếu tử kia nói cũng đúng, bảo Triệu quốc công sắp tới dẹp bớt mấy thủ đoạn trẻ con đó đi, một kích không thể tất sát, thì phí sức làm gì? Chỉ tổ bị cười chê."

Song Nhạn vương không cho Triệu quốc công cơ hội bớt lại.

Ngày hôm sau, trước là Linh Xu viện dâng tấu tuyên bố xe hơi nước đã trải qua thử nghiệm nghiêm mật, mọi sự đã sẵn sàng, ngôn từ khẩn thiết mời Hoàng đế Long An đích thân đi xem. Lý Phong vui vẻ dẫn Thái tử tới, còn tự mình ngồi một đoạn đường, kết quả là sau khi về cung không đợi sự hưng phấn mới mẻ qua đi, lại nhận được tấu giục đường ray từ Diêu Trấn, thành công chất thêm nôn nóng trong lòng hắn.

Chất đến tối, Ngự sử đài đưa tới cọng cỏ cuối cùng châm bùng lửa giận của Hoàng thượng.

Ngự sử đài tố Triệu quốc công không biết quản kẻ dưới, dung túng gia quyến biển thủ, hạ giá cướp đoạt ruộng đất của nông dân, mấy tội trạng liền.

Ban vận hà và Linh Xu viện chung tay phụ trách đường ray hơi nước vội vàng hùa theo. Hàng loạt nhân sĩ cố ý đẩy thuyền theo sóng bám sát đằng sau, mau chóng làm tình hình trở nên căng thẳng, thế lực Nhạn vương nhân mấy năm chiến loạn phát triển lộ ra một góc núi băng, con đường thăng chức từ cuối thời Vũ đế bắt đầu dần dần chật ních bị y nạy ra một góc.

Trình báo chiếm đất phi pháp các nơi liên tiếp đổ tới như có dự mưu, cuối cùng liên lụy đến vấn đề chiếm đất phi pháp tồn tại đã lâu ở Đại Lương.

Lập tức có mấy kẻ xem náo nhiệt không ngại to chuyện đứng ra yêu cầu thanh tra toàn cảnh-

Dĩ nhiên, đề nghị vớ vẩn này bị Lý Phong bác bỏ, Lý Phong dù còn muốn ra oai phủ đầu thế gia thì cũng phải từ từ từng bước, hắn một lần còn chưa đủ rộng miệng như vậy.

Song con chim đần xuất đầu là Triệu quốc công này là không chạy thoát được, chưa đến mấy hôm đã bị bắt, sau đó lại liên lụy cả đám con cháu môn khách chó cậy thế chủ, lúc áp giải xét nhà người vây xem thậm chí trèo lên tường kiễng chân ngó vào, người kể chuyện của Vọng Nam lâu hai ngày đã soạn xong một bộ mới, rất được ủng hộ.

Thái tử mới bắt đầu nghe chính sự đã gặp vụ án lớn như vậy, tiểu thiếu niên được thêm một phen kiến thức, trợn mắt há mồm mà nhìn, mở mang hơn rất nhiều.

Lúc sắp hạ triều, Nhạn vương vẫn không tỏ thái độ đột nhiên hỏi: "Thái tử điện hạ thấy thế nào?"

Tiểu Thái tử được Lý Phong bảo vệ rất tốt, hồn nhiên ngây thơ, bụng dạ chưa sâu, từng phụng mệnh Lý Phong "thỉnh giáo" tứ hoàng thúc, nghe Trường Canh hỏi liền không cần nghĩ ngợi buột miệng nói luôn lời người ta dạy: "Hàn Phi có nói, 'Quân vô thuật tắc tế vu thượng, thần vô pháp tắc loạn vu hạ*', quốc gia yên ổn nhờ vào pháp luật, người có hiền ngu trung gian, sự có thị phi đúng sai, nếu pháp luật không rõ ràng, tất khiến bè đảng hoành hành, tiểu nhân hoành hành, thế... người cầm quyền chẳng phải là không quản nổi nữa?" (*Vua không có thuật thì sẽ bị thần tử lừa dối, thần tử không có phép tắc ràng buộc ắt loạn)

Giọng trẻ con ấy còn non nớt, như một học trò nhỏ bị lôi dậy trả lời câu hỏi của sư phụ, nói xong còn tràn trề chờ mong nhìn Trường Canh.

Trường Canh chỉ cười không nói gì, Lý Phong thì đanh mặt quát to một câu: "Học vẹt còn khoe khoang cái gì, mau quay về học hành đàng hoàng, không được lười biếng."

Thái tử không dám lên tiếng, đành phải cúi đầu đáp vâng, nhưng lời trẻ con này lại là người nói vô tâm người nghe hữu ý.

Kẻ suy bụng ta ra bụng người, cho dù nhìn thấy một đứa trẻ choai choai, cũng sẽ cảm thấy người này lắm tâm cơ, câu nào cũng đầy ẩn ý như mình.

Đêm ấy, những lời này của Thái tử mười một tuổi không chân mà chạy khỏi thâm cung, Phương đại học sĩ giấu Phương Khâm, triệu tập đám lão sài lang từng ủng lập tiên đế lại, tách mỗi một giọt nước bọt của Thái tử ra phân tích một lần, hiểu được ý của Lý Phong.

"Ba đời rồi," Phương đại học sĩ cười gằn nói, "Thiên ân khó với, chắc hẳn chư vị cũng đã nhận ra, Hoàng thượng để Thái tử nghe chính sự, là quyết tâm muốn mạng đám lão già chúng ta."

Một người khác nói: "Khi đó nếu không phải Vương quốc cữu làm rối, chúng ta mưu tính thích đáng, không chừng Nhạn vương hiện giờ đã vì xáo trộn huyết thống hoàng thất mà bị tước vương vị, đày đến thâm sơn cùng cốc rồi. Dã chủng nơi nào bò ra cũng dám trèo lên đầu chúng ta diễu võ dương oai, Phương huynh, nên đoạn không đoạn, tất bị loạn."

Mặt Phương đại học sĩ căng lên đường nét sắc bén, lão chậm rãi nhìn chung quanh, thấp giọng nói: "Chư vị không ngại viết lời trong lòng vào tay."

Nhiều năm trước, đám âm mưu gia dã tâm bừng bừng này từng tụ lại, xòe bàn tay mỗi người ra, viết trên đó chính là tên của tiên đế Nguyên Hòa, lúc này họ đã gần đất xa trời, lớp chết lớp già, một lần nữa tụ lại, xòe lòng bàn tay hom hem nhăn nheo-

"Thanh quân trắc."

"Thanh quân trắc."

"Thanh quân trắc, hoàng trưởng tử không mẹ."

...

"Năm xưa Túc vương trên đường giả bệnh, là lão hủ trước đó được tin hắn tính âm thầm vào kinh, bèn thỉnh lệnh của trưởng công chúa, để Bắc đại doanh chặn lại, lấy danh 'mưu phản' bắt hắn, đẩy tiên đế thượng vị, thành tựu một phen được làm vua thua làm giặc." Phương đại học sĩ thấp giọng thì thào rất khẽ, "Hiện giờ tình hình trong kinh thành chư vị cũng nhìn thấy rồi, tiên hạ thủ vi cường như thế nào, người nào dùng được, chắc hẳn hôm nay đến đây, chư công đã có kế hoạch."

Phương đại học sĩ không hề là nóng đầu, lão biết lần này không có người của Cố gia đứng ở bên họ, muốn điều động Bắc đại doanh là không thể. Mà từ lần trước Ngự lâm quân Lưu Sùng Sơn làm loạn, biên chế Ngự lâm quân cũng đã có điều chỉnh rất lớn, phàm từ bách hộ trở lên, phải trải qua thẩm tra chặt chẽ, xác nhận gia thế trong sạch, quân công hàng thật giá thật, chặn một số kẻ lợi dụng sơ hở, đồng thời phân hai bộ song hướng quản lý, kiềm chế lẫn nhau, không can thiệp chuyện của nhau, nghiêm phòng trong Ngự lâm quân có kẻ một tay che trời, phạm thượng tác loạn.

Phàm là việc có lợi tất có hại, thế gia Đại Lương chia văn võ, võ tướng cũng có dòng dõi công hầu, song phần lớn đều suy bại, nếu không thời Nguyên Hòa đã chẳng thiếu người đến mức để một đứa trẻ choai choai lĩnh binh. Đám con cháu danh tướng dựa bóng tổ tiên này, nếu văn không thành võ không tựu, sẽ giống Lưu Sùng Sơn đi cửa sau vào Ngự lâm quân, qua vài năm có tư lịch, sẽ tìm một cái cớ kiếm quân công, một bước lên mây.

Sau nhiều năm va chạm, giữa đám lính thiếu gia và tướng sĩ chân chính này đã hình thành hình thái đặc biệt nào đó, song phương nể mặt nhau, vừa có thể cam đoan sức chiến đấu, vừa kiêm cố quan hệ và thể diện.

Tiếc thay, sự cân bằng này từ sau khi Ngự lâm quân làm phản, đã bị Lý Phong phá hủy.

Một đạo pháp lệnh của người thượng vị trong cơn kích phẫn có lẽ tự cho là tỉnh táo, lúc ấy cũng không ai nhắc nhở Lý Phong đang giận dữ, để hắn phá hỏng mộng thăng quan của đám thiếu gia kinh thành.

Thiếu gia nhà ai không phải được nuông chiều từ bé? Ai có thể cam tâm cả đời làm một quân hộ con con?

Đắc tội thiếu gia không đáng sợ, quan trọng là, Đại Lương triều trước đây trọng võ khinh văn, tổ tông lưu lại một đặc quyền – kẻ quân công phong tước có thể nuôi gia tướng, giữ lại một phần võ trang, đồng thời che chở đời sau, khi nguy nan có thể làm đạo chiến lực cuối cùng của quốc gia, khi bọn Lưu Sùng Sơn Lữ Thường phản loạn, Phương Khâm chính là dùng chiến lực này để níu chân phản quân, kéo dài tới khi Bắc đại doanh đến.

Phương đại học sĩ nhìn bốn phía, nói: "Cố Quân tăng binh Tây Nam, đồng thời lại gây chiến ở Đông Hải, người khả dụng rất thiếu, trước mắt người của hắn toàn đang trấn thủ tứ cảnh, Bắc đại doanh lại không truyền triệu không được vào. Lý Mân là hạng mua danh trục tiếng, không thích nhiều người bên cạnh, đi đến đâu cũng chỉ dẫn theo một lão già, nghe nói công phu cưỡi ngựa bắn cung của hắn không tệ, nhưng chẳng qua khoa chân múa tay vài lần trên thành lâu, chắc hẳn cũng chẳng bóp được mấy cây đinh, muốn diệt trừ hắn không khó – chỉ là không biết chư vị muốn 'ám thanh' hay 'minh thanh'?"

Bên cạnh có người hỏi: "Xin hỏi Phương công, ám như thế nào, minh như thế nào?"

Chỉ nghe vị đại học sĩ tài mãn nửa triều này mặt không đổi sắc nói: "Nếu muốn ám, chỉ cần mời khoảng hai ba mươi tử sĩ, nhân đêm mai phục trên đường Lý Mân hạ triều, tiệt sát hắn, hủy hết chứng cứ, lúc này gió êm sóng lặng, không giải quyết được gì, Hoàng thượng cũng chẳng có biện pháp. Nếu muốn minh... Vậy thì cần phải để Hoàng thượng biết, ai là trung thần lương tướng, giang sơn xã tắc của y là do ai bảo vệ, loạn thần tặc tử là bị bắt như thế nào – và trữ quân ai đảm đương được."

"Việc này... Phương công, minh chỉ sợ không dễ." Mở miệng là con trai Bình Ninh hầu một trong ba hầu tước kinh thành năm ấy, lão Hầu gia sớm qua đời, kẻ này béo ục ịch, đi cũng rất mất sức, một năm chẳng biết ra cửa mấy lần, hoàn toàn không giống hậu duệ danh tướng, đầu óc lại rõ ràng đến bất ngờ, lúc này chậm rãi nói, "Chưa bàn đến lúc động thủ nên tránh né Ngự lâm quân và cấm vệ thế nào, chỉ nói vạn nhất đắc thủ, với tính tình thà làm ngọc vỡ còn hơn ngói lành của Hoàng thượng, y sẽ không truy cứu đến cùng sao? Bắc đại doanh quả thật đã chết sạch bọn cứng đầu, hiện tại ngoan ngoãn không truyền triệu không được vào, vậy nếu Hoàng thượng trong cơn giận dữ thật sự truyền triệu thì sao? Dù họ ở xa, cấm vệ trong cung và Ngự lâm ngoài cung thì sao? Đảng Lưu Sùng Sơn Lữ Thường làm phản đến nay phong ba còn chưa qua, chỉ sợ không dễ dàng đâu."

"Trong cung không phải nơi nào cũng có cấm vệ, Ngự lâm quân càng không phải nơi nào cũng vào được, nửa tháng sau đại thọ Hoàng thượng, năm nay tiền tuyến Đông Hải Lưỡng Giang có tin chiến thắng, Lễ bộ nịnh hót tất sẽ nhân thời cơ này đề xuất làm to, cơ hội sẽ rất nhiều," Phương đại học sĩ hờ hững nói, "Về phần Hoàng thượng sau đó phát tác..."

Nói đến đây, lão dừng lại, cười khà khà, mí mắt hẹp dài hơi cụp nâng lên: "Vậy thì đành phải khiến y 'phát tác không nổi'... Sao nào, chư công thực sự cho rằng không còn Lý Mân thì Hoàng thượng sẽ dễ dàng bỏ qua cho chúng ta? Lời của Thái tử hôm nay lúc lâm triều chư vị cũng đều nghe thấy rồi, Thái tử là một đứa trẻ ranh, biết gì quốc gia đại sự, những lời đó là ai dạy? Mới mười một tuổi, mà mở mồm ra là 'pháp bất dung tình', 'trừ bè diệt đảng', đương đình chỉ dâu mắng hòe, thiếu mỗi chỉ mũi chúng ta nói rặt một lũ tiểu nhân, chư vị nên quyết mà không quyết, chẳng lẽ muốn đợi ngày sau Thái tử đăng cơ, ban cho một trượng bạch lăng?"

Lời ấy không hề mập mờ, ly kinh phản đạo mà kinh thế hãi tục. Phương đại học sĩ không hổ là lão thần từng đưa tiên đế Nguyên Hòa lên đài, to gan lớn mật, không hành động thì thôi, vừa xuất sơn liền làm lớn, nói thẳng "Hoàng đế không làm thì làm hoàng hoàng đế", "Thái tử không nghe lời, thì đổi đại ca đã mất mẹ đến làm con rối". (Hoàng là vua nhưng hoàng hoàng là lo sợ)

Bình Ninh hầu nghẹn họng trố mắt rất lâu, hơi cà lăm đưa ra vấn đề chết người kia: "Thế... Cố Quân há chịu để yên?"

"Đoàn ngoại sự còn ở trên đường, đều đã an bài xong rồi," Phương đại học sĩ cười khẽ một tiếng, "Tiền tuyến, phiên bang tặc khấu như hổ rình mồi, sứ đoàn – thế nào, thiên thời địa lợi như vậy, chẳng lẽ chư vị không nhớ hai mươi năm trước từng xảy ra chuyện gì?"

Một cơn bão đang ấp ủ ngay trung tâm, nhưng Nhạn vương trong tâm bão lại tựa hồ không hề hay biết, vẫn mỗi ngày điểm danh đúng giờ, dốc hết sức thi hành tân chính.

Còn mới vui vẻ nhận được một phong thư đến từ Cố Quân.

Phong thư này Cố Quân gửi thẳng về nhà, hoàn toàn là một phong thư nhà, lúc Hoắc Đan đưa y, đôi mắt đột nhiên sáng lên của Trường Canh làm Hoắc thống lĩnh đỏ bừng mặt.

"Y còn có ba đầu sáu tay hay sao?" Trường Canh vừa giơ phong thư kia lên nhắm ngay hướng ánh sáng, thật cẩn thận cách bao thư xem nội dung bên trong, vừa nửa thật nửa giả phàn nàn với Hoắc Đan, "Vừa đối phó người Tây Dương, vừa có nhàn tình dật trí, bảo ta phải nói gì đây."

Hầu phủ chưa bao giờ có "nữ chủ nhân" trên ý nghĩa truyền thống, Hoắc bá hộ vệ cận thân này mơ hồ biết chút gì đó, song đến nay vẫn khó mà thích ứng, đặc biệt không cách nào cùng vị "chủ nhân còn lại" này thảo luận thư nhà của Đại soái. Nghe Nhạn vương nói vậy, hắn cảm thấy vai diễn của mình từ thống lĩnh gia tướng biến thành một ma ma lắm mồm, đành phải hết sức ngượng ngùng đứng đó, làm một cây cột nhà đỏ bừng mặt.

Từ khi khai chiến tới nay, đây là lần đầu tiên Cố Quân gửi một phong thư nhà dày như vậy cho Trường Canh, Trường Canh nhất thời không nỡ mở, cầm phong thư vuốt tới vuốt lui, để lên mũi khẽ ngửi một vòng, phảng phất có thể ngửi thấy một chút mùi của người phương xa, vẻ mặt mê mẩn.

Máu trên mặt Hoắc Đan sắp chảy ra lỗ chân lông, hắn cà lăm nói: "Vương, Vương gia, ngài... ngài làm gì thế?"

Trường Canh quét mắt nhìn hắn một cái, giống như cảm thấy bộ dáng đỏ mặt tới mang tai của Hoắc Đan đặc biệt thú vị, liền cố ý trêu: "Hôm qua nằm mơ còn mơ thấy nghĩa phụ ta, nửa đêm tỉnh dậy không ngủ được nữa, xem như đã một lần biết thế nào là 'trằn trọc', kết quả là hôm nay liền nhận được thư của người, ngươi nói có khéo không?"

Hoắc Đan: "..."

Ba chữ "nghĩa phụ ta" khiến hắn rùng mình, Hoắc Đan vô cùng đau đớn mà nghĩ: "Tiểu Hầu gia làm việc gì thế này? Sao càng lớn càng không ra gì! Đây là muốn lão soái và công chúa dưới cửu tuyền tức đến sống lại mà!"

Trường Canh lén nở nụ cười, đang định lấy tiểu đao mở phong thư, đột nhiên, một con Lâm Uyên mộc điểu lao vào – ngày ấy Lưu Trọng đến quy phục, Trường Canh không tin tưởng hắn lắm, phái hai người của Lâm Uyên các một minh một ám đi theo đến Lưỡng Giang, minh giả trang tiểu tư Lưu gia, liên lạc giữa Lưu Trọng với kinh thành, ám là một vị cao thủ, bám đuôi đoàn sứ tiết tra xét các loại dị động, tùy thời truyền tin về kinh thành.

Trường Canh vội cất phong tư tín của Cố Quân vào lòng, mở mộc điểu ra xem trước.

Giây lát sau, y cười gằn một tiếng – có một số kẻ nghĩ còn rất chu toàn.

Một con chim gỗ chưa bay vào soái trướng thì đã bị thân vệ bắt, hắn cầm con vật bé tí này trong tay lật qua lật lại ngắm nghía mấy lần, chẳng tìm được gì, đang như lâm đại địch muốn cầm đi nhờ linh xu trong quân xem thử, thì bên cạnh chợt có người thấp giọng nói: "Đưa ta đi."

Thân vệ ngẩng đầu lên, thấy Thẩm Dịch từ bên ngoài đi vào, vội hai tay đưa con chim gỗ kia.

Thẩm Dịch sờ cái đầu chim trọc lóc một phen, thân vệ sửng sốt, cảm thấy hình như mình đã nghe Thẩm tướng quân thở dài.

Chim gỗ bị nam châm Chung Thiền tướng quân để lại dẫn đến, Thẩm Dịch nhẹ tay nhẹ chân cầm nó đi vào lều, bên trong tối om, mấy quân y im lặng ra ra vào vào, mùi thuốc nồng nặc xộc vào mùi, còn lẫn mùi máu tươi gột không sạch.

Diêu Trấn đứng ở bên kia, quay đầu lại nhìn Thẩm Dịch, thần sắc nặng nề.

Ngày đó trong trận thủy chiến do kéo dài thời gian mà chủ hạm Cố Quân đứng bị quân địch bắn trúng, chủ hạm đương trường tan tành, hộp vàng nổ tung trên mặt nước, may mà Cố Quân tuy vừa điếc vừa mù nhưng phản ứng nhanh nhạy, sau khi cảm thấy không đúng thì lập tức lệnh cho mọi người bỏ thuyền nhảy xuống biển.

Do nhảy kịp thời, lúc ưng giáp vớt y từ dưới nước lên, tốt xấu gì vẫn chưa bị nướng chín.

Quân Tây Dương bị cắt đứt tuyến tiếp viện viễn dương, thượng du nội giang lại sớm bị binh Cố Quân tăng ở Tây Nam khống chế, hai tuyến tiếp viện đứt sạch, buộc lòng phải rút khỏi thủy vực Đông Doanh.

Nếu không phải chủ soái trọng thương, trận chiến này tuyệt đối là đại thắng hoàn mỹ có thể ghi vào sử sách.

Lần này Cố Quân đã chuẩn bị ổn thỏa tất cả chiến báo thư nhà một loạt đạo cụ, giấu hết ngoại nhân lẫn nội nhân, ngay cả trong đại doanh Lưỡng Giang, tin tức cũng bị ém chặt, trừ mấy tướng lĩnh cao tầng, thân vệ, quân y và mấy ưng giáp cứu y về, nhất loạt không hay biết gì.

Có thể đoán được lúc này áp lực Thẩm Dịch và Diêu Trấn phải gánh nặng nề cỡ nào.

Thẩm Dịch: "Thế nào?"

"Đến đúng lúc lắm, người đang tỉnh," Diêu Trấn thấp giọng nói, "Cố soái điều huynh đến thật sự là quá giỏi dự đoán, Quý Bình huynh, nếu không có huynh đến, chắc ta phải cảm thấy trời sập rồi."

Thẩm Dịch cười khổ nói: "Đâu nào, trước lạ sau quen... huynh nghỉ ngơi trước đi, để ta nói với y vài câu."

Diêu Trấn gật đầu, phất tay dẫn các quân y đi, Thẩm Dịch khẽ khàng đi tới, cầm bàn tay Cố Quân yếu ớt buông thõng bên giường lên.

Màn vừa buông, người ra người vào trong soái trướng Cố Quân nhất loạt không nhận thấy, cho đến lúc này, cảm giác được những vết chai sần do cát phong nhận mài ra trong lòng bàn tay này, y mới biết người đến là Thẩm Dịch.

Cả người Cố Quân chẳng được mấy chỗ lành lặn, nẹp đầy tấm thép, bị cố định đến không thể quay đầu, lúc mê man lúc lại tỉnh vì đau, vừa mở mắt thì mồ hôi lạnh trên thái dương bắt đầu chảy xuống, đôi mắt dù mở cũng chẳng đúng tiêu cự, quân y nói người trong cự chấn vốn dễ bị thương tai và mắt, y còn không chỉ một lần tự mình tuyết thượng gia sương, hiện tại mắt mở ra chỉ có thể cảm thấy tí chút ánh sáng, đừng nói kính lưu ly, dù là thiên lý nhãn e cũng chẳng ăn thua gì.

"Chẳng biết còn có thể khỏi không." Cố Quân lặng lẽ nghĩ thầm trong lòng, "Về sau sẽ không thực sự mù luôn chứ?"

Thẩm Dịch vừa thấy ánh mắt mơ màng của Cố Quân thì mũi liền cay xè, viết vào lòng bàn tay y: "Lâm Uyên các có thư."

Cố Quân chớp mắt.

Thẩm Dịch mở chim gỗ ra, chuẩn bị viết cho y, ai ngờ vừa lướt qua nội dung trên tờ giấy, sắc mặt đã tự căng thẳng trước.

Cố Quân đợi một lúc lâu không thấy lên tiếng, ngón tay nghi hoặc gõ mu bàn tay Thẩm Dịch.

Thẩm Dịch là người tốt tính, trừ lúc cãi nhau với Cố Quân sẽ nửa thật nửa giả gào thét vài câu thì cực ít khi nổi giận thật, lúc này y im lặng ngồi bên giường, bàn tay cầm con chim gỗ đột nhiên run rẩy, ngực phập phồng mạnh mấy lần, "Rắc" một tiếng, chim gỗ bị y bẻ đầu.

"Thế này là thế nào?" Y nghĩ, "Thế này là thế nào! Chúng ta vào sinh ra tử vì ai, cúc cung tận tụy lại vì ai? Con mẹ nó có ý nghĩa gì không?"

Cố Quân căng thẳng, chỉ sợ lại sinh thêm rắc rối, chẳng màng để ý chuyện mắt mù nữa, cố gắng mở miệng: "Sao... khụ..."

Trên cổ y có một vết thương bị mảnh đạn cứa, suýt làm bị thương đại mạch, cơ hồ trùng với vết thương cũ ngày trước, tuy chưa đến mức biến thành một Liễu Nhiên khác, nói chuyện lại rất trầy trật, như một cái ống bễ hỏng vậy.

Ống bễ hỏng hỏi: "Trong triều vẫn khăng khăng muốn nghị hòa?"

Thẩm Dịch mắt toàn tơ máu viết vào tay Cố Quân: "Lâm Uyên các phái người chuyên môn giám thị đoàn ngoại sự, phát hiện trong số họ có kẻ đang bí mật qua lại với sứ giả Tây Dương, có một đám người thân phận lai lịch không rõ trà trộn vào đoàn ngoại sự."

Cố Quân tức khắc thở phào, khó nhịn cựa cựa cái cổ bị nẹp cứng: "Ta còn tưởng có chuyện gì... Danh sách đoàn ngoại sự không phải đã đưa tới sao? Không có đạo lý đột nhiên thêm người, nếu thực sự như vậy, có thể chặn họ ở ngoài trú địa, không sao đâu."

Thẩm Dịch: "Vì cuộc chiến này, đoàn ngoại sự vốn không có lý do gì để đến tiền tuyến nữa, họ ở lại Bành thành đợi lệnh, thỉnh chỉ triều đình. Lý Phong nói vô công mà về cũng không ổn, lệnh cho họ ở Bành thành nghỉ ngơi chỉnh đốn một chút, chờ triều đình chuyển vật tư khao quân đến, sẽ cùng đưa đến tiền tuyến Lưỡng Giang, coi như..."

Cố Quân hơi nhướng một bên mày, Thẩm Dịch khó khăn dừng một chút, viết từng nét vào bàn tay y: "Khao quân."

Hai chữ này đối với tất cả cựu bộ Huyền Thiết doanh mà nói đều quá nhạy cảm, Cố Quân rõ ràng hơi co giật, lập tức lại bị tấm thép trên người ép quay về nguyên vị, mồ hôi lạnh lập tức túa xuống thái dương.

Thẩm Dịch cuống quýt đè y lại: "Tử Hi!"

Cố Quân như vậy làm băng vải ở ngực rướm máu rõ ràng, mùi máu xua đi mùi thuốc nồng nặc, tan vào không trung, khiến sắc mặt y càng trắng bệch.

Thẩm Dịch có ảo giác như cả người y đều đang chậm rãi bốc hơi lên.

Mà y lại vẫn không chịu ngoan ngoãn ngất xỉu đi.

Lại vẫn muốn đối nội đối ngoại đều gượng ra một giả tượng thong dong.

Một người quên cả sống chết, sinh tiền phí công giành được, có thể có cái gì đây?

Dù có công danh ngàn thu ghi vào sử xanh, ngày sau cũng chẳng qua là một tấm bài vị.

Vương công quý tộc đời sau nhớ tới, rỗi rãi liền lấy ra biên vài điển cố, hoặc còn cố ý chê trách mấy câu, hòng thể hiện ta đây kiến thức uyên bác, không giống người khác.

Bách tính nhớ tới, thì quá nửa thích biên mấy vụ tai tiếng vô căn cứ, ghép cuộc đời vội vã của y với một hồng tụ nào đó, bỏ trốn hàng trăm lần, diễm phúc đều ở sau khi chết.

Thẩm Dịch: "Ta sẽ lập tức viết thư cho Trần cô nương, ta ta... ta cùng ngươi từ quan về nhà, ngươi cứ bắt cóc điện hạ theo đi, muốn dưỡng thương thì dưỡng thương, muốn chữa bệnh thì chữa bệnh, mặc xác Lý gia Trương gia gì đó! Ta..."

Cố Quân thở dài, nhẹ nhàng nắm lấy tay y.

Thẩm Dịch thoáng cái rối đến không nói nên lời, ở chỗ Cố Quân không nhìn thấy làm ra biểu cảm chuẩn bị gào khóc, lại không dám run rẩy thút thít quá mức để bị Cố Quân phát hiện, khóc cũng chẳng dám ra tiếng, im lặng dùng miệng hít vào, nước mắt còn phải dùng cương giáp của mình đón.

Nhưng Cố Quân vẫn cảm giác được, chỉ là không vạch trần, vỗ về y nói khẽ: "Không phải việc gì to tát, không cần xù lông... Có tin tức gì của Trường Canh không?"

"Có." Thẩm Dịch run rẩy viết, "Điện hạ nói, để ngươi không cần cố kỵ gì khác, nếu có kẻ xấu rắp tâm làm loạn, cứ việc giết là được, kinh thành dù trời sập y cũng gánh được."

Cố Quân yếu ớt nở nụ cười.

Mất máu sẽ làm đầu óc không tỉnh táo lắm, y phải tiêu tốn tinh lực gấp mấy lần, toàn lực ứng phó mới có thể tập trung tinh thần nghĩ rõ chuyện trong đây: "Ta nói làm sao bên này... chiến tranh còn chưa kết thúc, đã có kẻ muốn xử lý ta trước... Khụ khụ, quả nhiên là kinh thành biến động, có kẻ chó cùng rứt giậu. Giữa chúng ta và người Tây Dương tất còn một trận chiến, trước mắt ta đi không được, không thể giúp y nhiều lắm... Ngươi cho đoàn ngoại sự vào, sau đó lập tức khống chế, canh chừng cẩn thận, cắt đứt liên lạc của họ với kinh thành, người Tây Dương nếu cũng... khụ khụ... đóng một vai gì đó trong đây... chi bằng tương kế tựu kế..."

Thẩm Dịch không lên tiếng.

Cố Quân: "... Quý Bình?"

Thẩm Dịch đột nhiên hỏi: "Ngươi cảm thấy có đáng không?"

Cố Quân sửng sốt.

Thẩm Dịch nhanh chóng nhìn lướt qua vết máu ở ngực y, kề sát tai Cố Quân, ngắt từng chữ đưa lời mình nói vào tai kẻ điếc kia: "Trong lòng ngươi nghĩ là giữa chúng ta và người Tây Dương tất còn một trận chiến, người khác nghĩ là làm sao lôi Đại tướng quân ngươi xuống ngựa, ngươi cảm thấy có đáng không?"

Trong lòng Cố Quân dĩ nhiên không thể hoàn toàn không khúc mắc, đáng tiếc bất đắc dĩ bên cạnh có một Thẩm Dịch ưa xù lông, hai người ở chung, bất kể vốn nghĩ thế nào, tụ lại luôn phải có một phụ trách xù lông, một phụ trách bình tĩnh, Thẩm Dịch giành chiếm vai trước, Cố Quân đành phải tâm tính bình hòa đảm đương vai sau.

Cố Quân: "Ngươi bỏ năm lượng bạc mua cây trâm cài tóc xấu hoắc cho Trần cô nương, chẳng lẽ cũng rất đáng, không phải phung phí à?"

Thẩm Dịch: "Ta phạm tiện đối với nữ nhân ta thích, đó là bổn phận, ta không mất mặt, ngươi lại làm tiện nhân cho ai?"

Cố Quân chậm chạp trả lời: "Quả nhiên bệnh lâu trước giường chẳng thấy bóng hiếu tử, đồ bất hiếu nhà ngươi, học được mắng người luôn rồi."

Thẩm Dịch: "..."

Suốt nửa đời nhung mã gấp gáp, trong lòng Cố Quân bao nhiêu lần trỗi lên ý nghĩ chạy lấy người, thì trong lòng Thẩm Dịch bấy nhiêu lần trỗi lên ý nghĩ "không để ý tên khốn nạn này nữa". Y hất tay Cố Quân, quay lưng muốn đi, nghĩ bụng: "Ngươi thích chết thì tùy."

Cố Quân: "Quý Bình!"

Tay y quơ loạn không mục đích, chẳng bắt được gì, ngón tay bị băng vải và thuốc trị thương buộc gần như dị dạng, năm ngón không thể khép lại, trên làn da tái nhợt chi chít vết thương, từ dưới băng vải nặng nề lộ ra, thoáng cái làm lòng Thẩm Dịch rất khó chịu, tức khắc không còn thái độ gì nữa.

Thẩm Dịch: "Đừng nhúc nhích!"

Cố Quân khẽ nói: "Vài ngày tới... Đông Doanh nhất định có sứ giả âm thầm tìm đến thương lượng, Trọng Trạch dù sao cũng là quan văn, phải dựa vào ngươi..."

Thẩm Dịch xót xa vô cùng: "Được rồi, đừng nói nữa, ta biết."

Cố Quân bị y cắt ngang, cũng không nổi giận, chẳng biết nghĩ tới điều gì, chợt bật cười, thở không ra hơi mà hổn hển một hồi, nói với Thẩm Dịch: "Cố thủ một gia một quốc, thành danh tướng một thời, trăm năm sau lão bách tính sẽ phong thần quan lập từ đường cho ngươi, ăn hương hỏa mà sống thật tốt biết mấy."

Thẩm Dịch trào phúng: "Phong ngươi là gì? Dù sao thì môn thần đã có, chẳng lẽ thành song hộ thần? Sàng thần?" (Môn thần là thần giữ cửa, song hộ thần là thần cửa sổ, sàng thần là thần giường?)

"Đều thế cả," Cố Quân cười nhẹ nói, "Dù sao họ bất kể bái... bái miếu nào, cầu đều chẳng khác mấy... Ờ, thăng quan phát tài, nhân duyên như ý... rồi thì con cái."

Thẩm Dịch nghe thế, nghĩ bụng, hay lắm, đây không phải là kẻ lừa đảo, bà mối với Quan Âm ban con à?

Y lập tức càng bi phẫn hơn, không muốn làm bạn với loại người này chút nào.

Cố Quân thều thào: "Thẩm đại tiên, lấy cây sáo trong cái hộp ở đầu giường cho ta."

Thẩm Dịch thở dài, lấy cái hộp nhỏ y cất bên gối soái trướng, trong đó có một cây sáo bạch ngọc quang hoa nội liễm, một xấp dày cộp, không biết là giấy Hải Văn gì, và mấy chuôi cát phong nhận khắc các tên người khác nhau.

Trong cái hộp be bé này, như chứa đựng tất cả tình và nghĩa của Cố Quân.

"Ta sẽ không chết." Đầu ngón tay Cố Quân nắm sáo ngọc lạnh ngắt, trong lòng kiên định nghĩ, "Chúng không đương trường nổ chết ta, thì ta sẽ không chết, Ô Nhĩ Cốt của Trường Canh còn chưa giải, trong kinh còn nhiều kẻ muốn gây phiền toái cho y, ta há có thể..."

Há có thể cái gì? Y chưa kịp nghĩ, đã lại lần nữa chìm vào hôn mê do kiệt sức.

Cách ngàn dặm, nửa đêm canh ba, Phương phủ.

Phương Khâm mặt trầm như nước ngồi trong phòng, im lặng rất lâu, chậm rãi ngẩng đầu lên, hỏi: "Thật sao? Ngươi chính tai nghe thấy?"

Tiểu tư quỳ trước mặt hắn run rẩy khó kiềm chế, nhanh chóng gật đầu.

Đương gia Phương gia thế hệ này bỗng bật cười, lát sau, hắn một tay bưng kín mặt, hai vai run run, chẳng biết là khóc hay cười. Phương Khâm từng bày cho Lữ Thường đi lên con đường này, từng nghĩ Nhạn vương dã tâm bừng bừng có lẽ một ngày kia sẽ đi lên con đường này, tuyệt đối không liệu được, lên đường trước một bước lại là cha ruột mình.

Mỗi một văn nhân lúc nhỏ lần đầu tiên đọc đến bốn câu "Vì thiên địa lập tâm, vì sinh dân lập mệnh, vì vãng thánh kế tuyệt học, vì vạn thế khai thái bình" của Hoành Cừ tiên sinh, đều từng động tâm đầu huyết muốn mình một ngày kia trở thành quốc sĩ vô song, có năng lực cáng đáng giang sơn vạn vạn năm. Song chút tâm đầu huyết này chung quy sẽ bị công danh lợi lộc mài đi một tẹo, thời gian phí hoài mài đi một tẹo, thế đạo khó lường mài thêm ít nữa, mài tới mài lui, cả đời liền rơi vào "khuôn mẫu cũ"...

Từ xưa đến nay, cao tài năng nhân nhiều biết bao, mà chân quốc sĩ được mấy người?

Đêm hôm ấy, Phương Khâm ngồi thừ ra trong thư phòng một đêm, sáng sớm hôm sau phân phó tâm phúc trong nhà, âm thầm đưa thê nhi mình đi.

Canh tư khi tiếng gà gáy đầu tiên vang lên, Phương Khâm cho là mình sẽ lao ra, lôi Nhạn vương dậy, một năm một mười mà cho hay vụ dự mưu phản loạn sắp xảy ra.

Đáng tiếc quá trình này tưởng tượng trong đầu hắn hàng trăm ngàn lần, rốt cuộc không thành hành động.

Trung hiếu khó lưỡng toàn, hắn biết mình định trước không làm được quốc sĩ, đành phải tòng nhất nhi chung.

Năm ngày sau, một tin tức đường nhỏ mập mờ bay vào kinh thành, truyền vào tai đám dã tâm gia lớn nhỏ – đoàn ngoại sự đổi thành đi khao quân đến đại doanh Giang Bắc chưa được mấy hôm, đại doanh Giang Bắc đột nhiên không rõ nguyên do phong bế toàn diện.

Tin tức Phương gia nhận được thì tỉ mỉ hơn một chút, Phương đại học sĩ nhận được một tờ giấy của học trò mình, trên chỉ đơn giản viết hai chữ "sự thành".

Đến đây, Phương đại học sĩ thở phào một hơi dài, hiển nhiên chính bản thân cũng không liệu được sẽ thuận lợi như vậy, người Tây Dương như hổ rình mồi rốt cuộc giúp lão một đại ân, trong lòng lão tràn ngập hưng phấn không thể diễn tả, bởi vì "nửa giang sơn" đã thành, hùng đồ bá nghiệp sắp sửa vào tay.

Cùng lúc đó, công việc cho thọ thần tổ chức lớn của Lý Phong quả nhiên có Lễ bộ đề xuất, Phương Khâm đi đầu phụ họa, ngay cả đảng Nhạn vương lần này cũng không ra kiếm chuyện, thống nhất nhất trí tán đồng làm lớn.

Tiên đế Nguyên Hòa năm nào cũng làm một lần, dưới thời Long An mới dần dần tiết kiệm, bởi vậy lưu trình đều có sẵn. Để bảo đảm vỗ mông ngựa không trúng đùi, Lễ bộ đã sớm bắt đầu âm thầm chuẩn bị, Hoàng thượng vừa phê chuẩn thì lập tức đâu vào đấy mà vận hành, cho đến hôm ấy, sứ giả Tây Bắc nhao nhao dâng lễ, trên cửu môn khói lửa mù trời, kim ngô không cấm, chuông trống vang trời, náo nhiệt vô cùng.

Hoàng thượng tế thiên, cho liệt tổ liệt tông biết mình năm nay không lớn uổng một tuổi, cũng có chút công tích. Lần này hắn đã rút kinh nghiệm, mười ba cấm vệ theo sát, văn võ bá quan không đáng tin một kẻ cũng chẳng dẫn theo, chỉ dẫn một Thái tử, dưới đàn Nhạn vương dẫn Sở quân cơ và bá quan đi theo.

Tế thiên địa, bái tổ tông, một đống việc trật tự rõ ràng, không xảy ra chuyện gì nữa, Lý Phong sau cùng thở phào nhẹ nhõm, đậy bóng ma lần trước lại, hạ lệnh hồi cung.

Hoàng thượng bộ liễn khởi giá hồi cung, Ngự lâm quân và cấm vệ bàn giao ở ngoài hoàng thành, đúng lúc này sinh biến.

Không biết là ai đột nhiên quát to một tiếng: "Có thích khách!"

Lời còn chưa dứt, mấy mũi phi tiêu Đông Doanh đã phóng tới, trực tiếp xuyên qua đám đông bá quan, sượt tay áo một vị hàn lâm, hàn quang lẫm lẫm đánh một loạt, vị lão hàn lâm kia chẳng rên được tiếng nào, hai mắt trợn trắng ngất xỉu đi, hai đội hộ vệ quân trong ngoài đồng thời có phản ứng, người hô "Hộ giá", kẻ la "Tróc nã thích khách".

Ai ngờ đột nhiên một Ngự lâm quân vung đao chém Thái tử, Trường Canh ở gần Thái tử nhất, chợt tiến lên một bước, túm đai lưng kéo Thái tử lại, vừa vặn thoát hiểm.

Trong cảnh hỗn loạn có người la lên: "Ngự lâm quân phản rồi!"

Thống lĩnh Ngự lâm quân chấp hành nhiệm vụ hộ vệ chủ yếu đang mù tịt, bật thốt ra: "Cái rắm!"

Mà lúc này, có kẻ mặc quần áo cấm vệ lấy một cái nỏ nhỏ trong lòng bắn tới bộ liễn của Lý Phong, Lý Phong suýt nữa lăn xuống bộ liễn, vị thống lĩnh Ngự lâm quân nọ nghĩ bụng: "Cấm vệ mưu phản, còn mưu toan để chúng ta mang tiếng oan, lý nào lại thế!"

"Chậm đã! Trong cấm vệ quân có phản đồ, ám sát Hoàng thượng, bắt!"

Ngự lâm quân sau này sửa thành hai bộ song song, hiệp chế lẫn nhau, song phương vốn không trao đổi, lại là quan hệ cạnh tranh, một phương chấp hành hộ vệ chủ yếu, một phương hợp tác giám sát, hợp tác dĩ nhiên bị thiệt, toàn phải đi theo, làm việc đều giống nhau, lại không thể lộ diện trước mặt Hoàng thượng, trong lòng làm sao có thể phục?

Hộ vệ chính cho rằng trong cấm vệ quân ẩn giấu thích khách, đội hộ vệ hợp tác cho rằng đội hộ vệ chính mưu đồ làm loạn, cấm vệ cho rằng Ngự lâm quân tạo phản, dưới sự châm ngòi cố ý của kẻ rắp tâm, ba phương tức khắc sa vào hỗn loạn.

Mà tất cả tướng quân dùng được trong triều cơ hồ đã bị Cố Quân điều hết đến trú quân các nơi, trước mắt còn lại trong kinh thành trừ loại bỏ đi thì là âm mưu gia rắp tâm xấu xa, ở đây tức khắc gà bay chó sủa om sòm.

Đám người Phương Khâm nhắm chuẩn cơ, cố ý chật vật lao đến trước mặt Lý Phong, ùa lên nói: "Nơi đây nguy hiểm, xin Hoàng thượng mau mau rời khỏi."

Một đám hộ vệ lạ mắt đến theo, Phương Khâm: "Xin Hoàng thượng xuống bộ liễn! Chúng thần thề chết hộ vệ Hoàng thượng."

Lý Phong trong sự hoảng loạn cũng không chú ý rất nhiều chi tiết nhỏ, túm tay Phương Khâm: "Thái tử đâu?"

Phương Khâm ra hiệu cho thị vệ bên cạnh, nói với Lý Phong: "Thái tử đã có người bảo vệ, ban nãy thần nhìn thấy Nhạn vương cũng ở bên đó, sợ là nhất thời bị tách ra rồi, người cứ đi trước, thần sẽ lập tức sai người tìm."

Lý Phong cả giận nói: "Truyền Bắc đại doanh! Đồ vô pháp vô thiên..."

Phương Khâm đáp lời, lập tức sai người của mình làm bộ làm tịch chạy đi "truyền lệnh". Việc này họ cũng đã tính kỹ từ lâu, không thể để cấm vệ có phản ứng, phải sớm cách ly Hoàng đế ra, cắt đứt liên lạc của hắn với cấm vệ và Bắc đại doanh.

Phương Khâm vừa dụ vừa lừa mà thúc giục Lý Phong, người bên cạnh đều thay quần áo cấm vệ, lúc này ùa hết lên, Lý Phong nhất thời cũng không chú ý, chờ hắn phản ứng được thì đã không còn kịp rồi.

Mà lúc này, tiền tuyến cũng đã xảy ra dị động.

Giáo hoàng nhận được tin tức của nội gian trà trộn vào đoàn ngoại sự, Đại Lương xảy ra chính biến, sứ đoàn khao quân đế đô Đại Lương phái đến nơi đóng quân kỳ thực được giao nhiệm vụ ám sát, họ định tái hiện màn ở Huyền Thiết doanh Tây Bắc hai mươi năm trước, Cố Quân trọng thương, thậm chí rất có khả năng đã chết rồi. Trú quân đang cố gắng phong tỏa tin tức, nhưng nội bộ đã hỗn loạn vô cùng, chính là cơ hội tốt để phản kích.

Nếu là bình thường, có lẽ Giáo hoàng sẽ không dễ tin vào tin tức kiểu này, chí ít sẽ phái người chứng thực tới lui từ nhiều góc độ khác, song ngài đã không còn đường này.

Thủy quân Đại Lương cắt đứt hai tuyến liên lạc trọng yếu với trong nước, thêm nữa, một mặt tranh đấu giữa đảng phái ở thánh địa đã đến hồi ác liệt, một mặt thuộc địa vốn ngoan ngoãn ở chư đảo Nam Dương bắt đầu dấy lên một cuộc phản loạn dậy sóng, họ căn bản hết cách phân thân, hiện tại chỉ có thể đi qua tuyến Viễn Đông của người Đông Doanh.

Giáo hoàng trên cơ bản không tin người Đông Doanh, luôn cảm thấy đám sài cẩu đó có thể táp ngược một phát bất cứ lúc nào, cho nên nóng lòng phá tan cục diện bế tắc.

Không ai hiểu rõ hơn ngài, uy phong trên biển của thủy quân Tây Dương là dựa vào nguồn sinh lực dồi dào, không có tử lưu kim số lượng lớn làm hậu thuẫn, đó căn bản là một đống sắt vụn.

Nhã tiên sinh chiêng trống rùm beng làm bộ thự chiến lược nghiêm mật, phái người đưa đến Mạc phủ Đông Doanh, thỉnh cầu phối hợp.

Người Đông Doanh cúi đầu khom lưng nhận lấy, khách khí tiễn đi, đoạn quay đầu đi vào sân nhà mình, đóng cửa lại.

Một võ sĩ Đông Doanh đường xa mệt nhoài không biết từ khi nào tiến vào theo lối cửa sau, bỏ mũ xuống, thấp giọng nói: "Ta đã gặp Cố tướng quân rồi."

"Như vậy Cố Quân không trọng thương, cũng chưa chết, đúng không?"

"Ta không thể khẳng định, chỉ vội vàng gặp qua Cố Quân, thân phận của ta không đủ để trò chuyện với y. Nhưng trú quân trật tự ngay ngắn, lửa đạn nhồi đầy, không mảy may hỗn loạn, như là tùy thời chuẩn bị tiến công. Ta cũng không thấy cái gọi là 'đoàn ám sát', nếu như có, khả năng đã bị bí mật khống chế rồi."

"Ta biết rồi, vất vả."

Một con chim gỗ chưa bay vào soái trướng thì đã bị thân vệ bắt, hắn cầm con vật bé tí này trong tay lật qua lật lại ngắm nghía mấy lần, chẳng tìm được gì, đang như lâm đại địch muốn cầm đi nhờ linh xu trong quân xem thử, thì bên cạnh chợt có người thấp giọng nói: "Đưa ta đi."

Thân vệ ngẩng đầu lên, thấy Thẩm Dịch từ bên ngoài đi vào, vội hai tay đưa con chim gỗ kia.

Thẩm Dịch sờ cái đầu chim trọc lóc một phen, thân vệ sửng sốt, cảm thấy hình như mình đã nghe Thẩm tướng quân thở dài.

Chim gỗ bị nam châm Chung Thiền tướng quân để lại dẫn đến, Thẩm Dịch nhẹ tay nhẹ chân cầm nó đi vào lều, bên trong tối om, mấy quân y im lặng ra ra vào vào, mùi thuốc nồng nặc xộc vào mùi, còn lẫn mùi máu tươi gột không sạch.

Diêu Trấn đứng ở bên kia, quay đầu lại nhìn Thẩm Dịch, thần sắc nặng nề.

Ngày đó trong trận thủy chiến do kéo dài thời gian mà chủ hạm Cố Quân đứng bị quân địch bắn trúng, chủ hạm đương trường tan tành, hộp vàng nổ tung trên mặt nước, may mà Cố Quân tuy vừa điếc vừa mù nhưng phản ứng nhanh nhạy, sau khi cảm thấy không đúng thì lập tức lệnh cho mọi người bỏ thuyền nhảy xuống biển.

Do nhảy kịp thời, lúc ưng giáp vớt y từ dưới nước lên, tốt xấu gì vẫn chưa bị nướng chín.

Quân Tây Dương bị cắt đứt tuyến tiếp viện viễn dương, thượng du nội giang lại sớm bị binh Cố Quân tăng ở Tây Nam khống chế, hai tuyến tiếp viện đứt sạch, buộc lòng phải rút khỏi thủy vực Đông Doanh.

Nếu không phải chủ soái trọng thương, trận chiến này tuyệt đối là đại thắng hoàn mỹ có thể ghi vào sử sách.

Lần này Cố Quân đã chuẩn bị ổn thỏa tất cả chiến báo thư nhà một loạt đạo cụ, giấu hết ngoại nhân lẫn nội nhân, ngay cả trong đại doanh Lưỡng Giang, tin tức cũng bị ém chặt, trừ mấy tướng lĩnh cao tầng, thân vệ, quân y và mấy ưng giáp cứu y về, nhất loạt không hay biết gì.

Có thể đoán được lúc này áp lực Thẩm Dịch và Diêu Trấn phải gánh nặng nề cỡ nào.

Thẩm Dịch: "Thế nào?"

"Đến đúng lúc lắm, người đang tỉnh," Diêu Trấn thấp giọng nói, "Cố soái điều huynh đến thật sự là quá giỏi dự đoán, Quý Bình huynh, nếu không có huynh đến, chắc ta phải cảm thấy trời sập rồi."

Thẩm Dịch cười khổ nói: "Đâu nào, trước lạ sau quen... huynh nghỉ ngơi trước đi, để ta nói với y vài câu."

Diêu Trấn gật đầu, phất tay dẫn các quân y đi, Thẩm Dịch khẽ khàng đi tới, cầm bàn tay Cố Quân yếu ớt buông thõng bên giường lên.

Màn vừa buông, người ra người vào trong soái trướng Cố Quân nhất loạt không nhận thấy, cho đến lúc này, cảm giác được những vết chai sần do cát phong nhận mài ra trong lòng bàn tay này, y mới biết người đến là Thẩm Dịch.

Cả người Cố Quân chẳng được mấy chỗ lành lặn, nẹp đầy tấm thép, bị cố định đến không thể quay đầu, lúc mê man lúc lại tỉnh vì đau, vừa mở mắt thì mồ hôi lạnh trên thái dương bắt đầu chảy xuống, đôi mắt dù mở cũng chẳng đúng tiêu cự, quân y nói người trong cự chấn vốn dễ bị thương tai và mắt, y còn không chỉ một lần tự mình tuyết thượng gia sương, hiện tại mắt mở ra chỉ có thể cảm thấy tí chút ánh sáng, đừng nói kính lưu ly, dù là thiên lý nhãn e cũng chẳng ăn thua gì.

"Chẳng biết còn có thể khỏi không." Cố Quân lặng lẽ nghĩ thầm trong lòng, "Về sau sẽ không thực sự mù luôn chứ?"

Thẩm Dịch vừa thấy ánh mắt mơ màng của Cố Quân thì mũi liền cay xè, viết vào lòng bàn tay y: "Lâm Uyên các có thư."

Cố Quân chớp mắt.

Thẩm Dịch mở chim gỗ ra, chuẩn bị viết cho y, ai ngờ vừa lướt qua nội dung trên tờ giấy, sắc mặt đã tự căng thẳng trước.

Cố Quân đợi một lúc lâu không thấy lên tiếng, ngón tay nghi hoặc gõ mu bàn tay Thẩm Dịch.

Thẩm Dịch là người tốt tính, trừ lúc cãi nhau với Cố Quân sẽ nửa thật nửa giả gào thét vài câu thì cực ít khi nổi giận thật, lúc này y im lặng ngồi bên giường, bàn tay cầm con chim gỗ đột nhiên run rẩy, ngực phập phồng mạnh mấy lần, "Rắc" một tiếng, chim gỗ bị y bẻ đầu.

"Thế này là thế nào?" Y nghĩ, "Thế này là thế nào! Chúng ta vào sinh ra tử vì ai, cúc cung tận tụy lại vì ai? Con mẹ nó có ý nghĩa gì không?"

Cố Quân căng thẳng, chỉ sợ lại sinh thêm rắc rối, chẳng màng để ý chuyện mắt mù nữa, cố gắng mở miệng: "Sao... khụ..."

Trên cổ y có một vết thương bị mảnh đạn cứa, suýt làm bị thương đại mạch, cơ hồ trùng với vết thương cũ ngày trước, tuy chưa đến mức biến thành một Liễu Nhiên khác, nói chuyện lại rất trầy trật, như một cái ống bễ hỏng vậy.

Ống bễ hỏng hỏi: "Trong triều vẫn khăng khăng muốn nghị hòa?"

Thẩm Dịch mắt toàn tơ máu viết vào tay Cố Quân: "Lâm Uyên các phái người chuyên môn giám thị đoàn ngoại sự, phát hiện trong số họ có kẻ đang bí mật qua lại với sứ giả Tây Dương, có một đám người thân phận lai lịch không rõ trà trộn vào đoàn ngoại sự."

Cố Quân tức khắc thở phào, khó nhịn cựa cựa cái cổ bị nẹp cứng: "Ta còn tưởng có chuyện gì... Danh sách đoàn ngoại sự không phải đã đưa tới sao? Không có đạo lý đột nhiên thêm người, nếu thực sự như vậy, có thể chặn họ ở ngoài trú địa, không sao đâu."

Thẩm Dịch: "Vì cuộc chiến này, đoàn ngoại sự vốn không có lý do gì để đến tiền tuyến nữa, họ ở lại Bành thành đợi lệnh, thỉnh chỉ triều đình. Lý Phong nói vô công mà về cũng không ổn, lệnh cho họ ở Bành thành nghỉ ngơi chỉnh đốn một chút, chờ triều đình chuyển vật tư khao quân đến, sẽ cùng đưa đến tiền tuyến Lưỡng Giang, coi như..."

Cố Quân hơi nhướng một bên mày, Thẩm Dịch khó khăn dừng một chút, viết từng nét vào bàn tay y: "Khao quân."

Hai chữ này đối với tất cả cựu bộ Huyền Thiết doanh mà nói đều quá nhạy cảm, Cố Quân rõ ràng hơi co giật, lập tức lại bị tấm thép trên người ép quay về nguyên vị, mồ hôi lạnh lập tức túa xuống thái dương.

Thẩm Dịch cuống quýt đè y lại: "Tử Hi!"

Cố Quân như vậy làm băng vải ở ngực rướm máu rõ ràng, mùi máu xua đi mùi thuốc nồng nặc, tan vào không trung, khiến sắc mặt y càng trắng bệch.

Thẩm Dịch có ảo giác như cả người y đều đang chậm rãi bốc hơi lên.

Mà y lại vẫn không chịu ngoan ngoãn ngất xỉu đi.

Lại vẫn muốn đối nội đối ngoại đều gượng ra một giả tượng thong dong.

Một người quên cả sống chết, sinh tiền phí công giành được, có thể có cái gì đây?

Dù có công danh ngàn thu ghi vào sử xanh, ngày sau cũng chẳng qua là một tấm bài vị.

Vương công quý tộc đời sau nhớ tới, rỗi rãi liền lấy ra biên vài điển cố, hoặc còn cố ý chê trách mấy câu, hòng thể hiện ta đây kiến thức uyên bác, không giống người khác.

Bách tính nhớ tới, thì quá nửa thích biên mấy vụ tai tiếng vô căn cứ, ghép cuộc đời vội vã của y với một hồng tụ nào đó, bỏ trốn hàng trăm lần, diễm phúc đều ở sau khi chết.

Thẩm Dịch: "Ta sẽ lập tức viết thư cho Trần cô nương, ta ta... ta cùng ngươi từ quan về nhà, ngươi cứ bắt cóc điện hạ theo đi, muốn dưỡng thương thì dưỡng thương, muốn chữa bệnh thì chữa bệnh, mặc xác Lý gia Trương gia gì đó! Ta..."

Cố Quân thở dài, nhẹ nhàng nắm lấy tay y.

Thẩm Dịch thoáng cái rối đến không nói nên lời, ở chỗ Cố Quân không nhìn thấy làm ra biểu cảm chuẩn bị gào khóc, lại không dám run rẩy thút thít quá mức để bị Cố Quân phát hiện, khóc cũng chẳng dám ra tiếng, im lặng dùng miệng hít vào, nước mắt còn phải dùng cương giáp của mình đón.

Nhưng Cố Quân vẫn cảm giác được, chỉ là không vạch trần, vỗ về y nói khẽ: "Không phải việc gì to tát, không cần xù lông... Có tin tức gì của Trường Canh không?"

"Có." Thẩm Dịch run rẩy viết, "Điện hạ nói, để ngươi không cần cố kỵ gì khác, nếu có kẻ xấu rắp tâm làm loạn, cứ việc giết là được, kinh thành dù trời sập y cũng gánh được."

Cố Quân yếu ớt nở nụ cười.

Mất máu sẽ làm đầu óc không tỉnh táo lắm, y phải tiêu tốn tinh lực gấp mấy lần, toàn lực ứng phó mới có thể tập trung tinh thần nghĩ rõ chuyện trong đây: "Ta nói làm sao bên này... chiến tranh còn chưa kết thúc, đã có kẻ muốn xử lý ta trước... Khụ khụ, quả nhiên là kinh thành biến động, có kẻ chó cùng rứt giậu. Giữa chúng ta và người Tây Dương tất còn một trận chiến, trước mắt ta đi không được, không thể giúp y nhiều lắm... Ngươi cho đoàn ngoại sự vào, sau đó lập tức khống chế, canh chừng cẩn thận, cắt đứt liên lạc của họ với kinh thành, người Tây Dương nếu cũng... khụ khụ... đóng một vai gì đó trong đây... chi bằng tương kế tựu kế..."

Thẩm Dịch không lên tiếng.

Cố Quân: "... Quý Bình?"

Thẩm Dịch đột nhiên hỏi: "Ngươi cảm thấy có đáng không?"

Cố Quân sửng sốt.

Thẩm Dịch nhanh chóng nhìn lướt qua vết máu ở ngực y, kề sát tai Cố Quân, ngắt từng chữ đưa lời mình nói vào tai kẻ điếc kia: "Trong lòng ngươi nghĩ là giữa chúng ta và người Tây Dương tất còn một trận chiến, người khác nghĩ là làm sao lôi Đại tướng quân ngươi xuống ngựa, ngươi cảm thấy có đáng không?"

Trong lòng Cố Quân dĩ nhiên không thể hoàn toàn không khúc mắc, đáng tiếc bất đắc dĩ bên cạnh có một Thẩm Dịch ưa xù lông, hai người ở chung, bất kể vốn nghĩ thế nào, tụ lại luôn phải có một phụ trách xù lông, một phụ trách bình tĩnh, Thẩm Dịch giành chiếm vai trước, Cố Quân đành phải tâm tính bình hòa đảm đương vai sau.

Cố Quân: "Ngươi bỏ năm lượng bạc mua cây trâm cài tóc xấu hoắc cho Trần cô nương, chẳng lẽ cũng rất đáng, không phải phung phí à?"

Thẩm Dịch: "Ta phạm tiện đối với nữ nhân ta thích, đó là bổn phận, ta không mất mặt, ngươi lại làm tiện nhân cho ai?"

Cố Quân chậm chạp trả lời: "Quả nhiên bệnh lâu trước giường chẳng thấy bóng hiếu tử, đồ bất hiếu nhà ngươi, học được mắng người luôn rồi."

Thẩm Dịch: "..."

Suốt nửa đời nhung mã gấp gáp, trong lòng Cố Quân bao nhiêu lần trỗi lên ý nghĩ chạy lấy người, thì trong lòng Thẩm Dịch bấy nhiêu lần trỗi lên ý nghĩ "không để ý tên khốn nạn này nữa". Y hất tay Cố Quân, quay lưng muốn đi, nghĩ bụng: "Ngươi thích chết thì tùy."

Cố Quân: "Quý Bình!"

Tay y quơ loạn không mục đích, chẳng bắt được gì, ngón tay bị băng vải và thuốc trị thương buộc gần như dị dạng, năm ngón không thể khép lại, trên làn da tái nhợt chi chít vết thương, từ dưới băng vải nặng nề lộ ra, thoáng cái làm lòng Thẩm Dịch rất khó chịu, tức khắc không còn thái độ gì nữa.

Thẩm Dịch: "Đừng nhúc nhích!"

Cố Quân khẽ nói: "Vài ngày tới... Đông Doanh nhất định có sứ giả âm thầm tìm đến thương lượng, Trọng Trạch dù sao cũng là quan văn, phải dựa vào ngươi..."

Thẩm Dịch xót xa vô cùng: "Được rồi, đừng nói nữa, ta biết."

Cố Quân bị y cắt ngang, cũng không nổi giận, chẳng biết nghĩ tới điều gì, chợt bật cười, thở không ra hơi mà hổn hển một hồi, nói với Thẩm Dịch: "Cố thủ một gia một quốc, thành danh tướng một thời, trăm năm sau lão bách tính sẽ phong thần quan lập từ đường cho ngươi, ăn hương hỏa mà sống thật tốt biết mấy."

Thẩm Dịch trào phúng: "Phong ngươi là gì? Dù sao thì môn thần đã có, chẳng lẽ thành song hộ thần? Sàng thần?" (Môn thần là thần giữ cửa, song hộ thần là thần cửa sổ, sàng thần là thần giường?)

"Đều thế cả," Cố Quân cười nhẹ nói, "Dù sao họ bất kể bái... bái miếu nào, cầu đều chẳng khác mấy... Ờ, thăng quan phát tài, nhân duyên như ý... rồi thì con cái."

Thẩm Dịch nghe thế, nghĩ bụng, hay lắm, đây không phải là kẻ lừa đảo, bà mối với Quan Âm ban con à?

Y lập tức càng bi phẫn hơn, không muốn làm bạn với loại người này chút nào.

Cố Quân thều thào: "Thẩm đại tiên, lấy cây sáo trong cái hộp ở đầu giường cho ta."

Thẩm Dịch thở dài, lấy cái hộp nhỏ y cất bên gối soái trướng, trong đó có một cây sáo bạch ngọc quang hoa nội liễm, một xấp dày cộp, không biết là giấy Hải Văn gì, và mấy chuôi cát phong nhận khắc các tên người khác nhau.

Trong cái hộp be bé này, như chứa đựng tất cả tình và nghĩa của Cố Quân.

"Ta sẽ không chết." Đầu ngón tay Cố Quân nắm sáo ngọc lạnh ngắt, trong lòng kiên định nghĩ, "Chúng không đương trường nổ chết ta, thì ta sẽ không chết, Ô Nhĩ Cốt của Trường Canh còn chưa giải, trong kinh còn nhiều kẻ muốn gây phiền toái cho y, ta há có thể..."

Há có thể cái gì? Y chưa kịp nghĩ, đã lại lần nữa chìm vào hôn mê do kiệt sức.

Cách ngàn dặm, nửa đêm canh ba, Phương phủ.

Phương Khâm mặt trầm như nước ngồi trong phòng, im lặng rất lâu, chậm rãi ngẩng đầu lên, hỏi: "Thật sao? Ngươi chính tai nghe thấy?"

Tiểu tư quỳ trước mặt hắn run rẩy khó kiềm chế, nhanh chóng gật đầu.

Đương gia Phương gia thế hệ này bỗng bật cười, lát sau, hắn một tay bưng kín mặt, hai vai run run, chẳng biết là khóc hay cười. Phương Khâm từng bày cho Lữ Thường đi lên con đường này, từng nghĩ Nhạn vương dã tâm bừng bừng có lẽ một ngày kia sẽ đi lên con đường này, tuyệt đối không liệu được, lên đường trước một bước lại là cha ruột mình.

Mỗi một văn nhân lúc nhỏ lần đầu tiên đọc đến bốn câu "Vì thiên địa lập tâm, vì sinh dân lập mệnh, vì vãng thánh kế tuyệt học, vì vạn thế khai thái bình" của Hoành Cừ tiên sinh, đều từng động tâm đầu huyết muốn mình một ngày kia trở thành quốc sĩ vô song, có năng lực cáng đáng giang sơn vạn vạn năm. Song chút tâm đầu huyết này chung quy sẽ bị công danh lợi lộc mài đi một tẹo, thời gian phí hoài mài đi một tẹo, thế đạo khó lường mài thêm ít nữa, mài tới mài lui, cả đời liền rơi vào "khuôn mẫu cũ"...

Từ xưa đến nay, cao tài năng nhân nhiều biết bao, mà chân quốc sĩ được mấy người?

Đêm hôm ấy, Phương Khâm ngồi thừ ra trong thư phòng một đêm, sáng sớm hôm sau phân phó tâm phúc trong nhà, âm thầm đưa thê nhi mình đi.

Canh tư khi tiếng gà gáy đầu tiên vang lên, Phương Khâm cho là mình sẽ lao ra, lôi Nhạn vương dậy, một năm một mười mà cho hay vụ dự mưu phản loạn sắp xảy ra.

Đáng tiếc quá trình này tưởng tượng trong đầu hắn hàng trăm ngàn lần, rốt cuộc không thành hành động.

Trung hiếu khó lưỡng toàn, hắn biết mình định trước không làm được quốc sĩ, đành phải tòng nhất nhi chung.

Năm ngày sau, một tin tức đường nhỏ mập mờ bay vào kinh thành, truyền vào tai đám dã tâm gia lớn nhỏ – đoàn ngoại sự đổi thành đi khao quân đến đại doanh Giang Bắc chưa được mấy hôm, đại doanh Giang Bắc đột nhiên không rõ nguyên do phong bế toàn diện.

Tin tức Phương gia nhận được thì tỉ mỉ hơn một chút, Phương đại học sĩ nhận được một tờ giấy của học trò mình, trên chỉ đơn giản viết hai chữ "sự thành".

Đến đây, Phương đại học sĩ thở phào một hơi dài, hiển nhiên chính bản thân cũng không liệu được sẽ thuận lợi như vậy, người Tây Dương như hổ rình mồi rốt cuộc giúp lão một đại ân, trong lòng lão tràn ngập hưng phấn không thể diễn tả, bởi vì "nửa giang sơn" đã thành, hùng đồ bá nghiệp sắp sửa vào tay.

Cùng lúc đó, công việc cho thọ thần tổ chức lớn của Lý Phong quả nhiên có Lễ bộ đề xuất, Phương Khâm đi đầu phụ họa, ngay cả đảng Nhạn vương lần này cũng không ra kiếm chuyện, thống nhất nhất trí tán đồng làm lớn.

Tiên đế Nguyên Hòa năm nào cũng làm một lần, dưới thời Long An mới dần dần tiết kiệm, bởi vậy lưu trình đều có sẵn. Để bảo đảm vỗ mông ngựa không trúng đùi, Lễ bộ đã sớm bắt đầu âm thầm chuẩn bị, Hoàng thượng vừa phê chuẩn thì lập tức đâu vào đấy mà vận hành, cho đến hôm ấy, sứ giả Tây Bắc nhao nhao dâng lễ, trên cửu môn khói lửa mù trời, kim ngô không cấm, chuông trống vang trời, náo nhiệt vô cùng.

Hoàng thượng tế thiên, cho liệt tổ liệt tông biết mình năm nay không lớn uổng một tuổi, cũng có chút công tích. Lần này hắn đã rút kinh nghiệm, mười ba cấm vệ theo sát, văn võ bá quan không đáng tin một kẻ cũng chẳng dẫn theo, chỉ dẫn một Thái tử, dưới đàn Nhạn vương dẫn Sở quân cơ và bá quan đi theo.

Tế thiên địa, bái tổ tông, một đống việc trật tự rõ ràng, không xảy ra chuyện gì nữa, Lý Phong sau cùng thở phào nhẹ nhõm, đậy bóng ma lần trước lại, hạ lệnh hồi cung.

Hoàng thượng bộ liễn khởi giá hồi cung, Ngự lâm quân và cấm vệ bàn giao ở ngoài hoàng thành, đúng lúc này sinh biến.

Không biết là ai đột nhiên quát to một tiếng: "Có thích khách!"

Lời còn chưa dứt, mấy mũi phi tiêu Đông Doanh đã phóng tới, trực tiếp xuyên qua đám đông bá quan, sượt tay áo một vị hàn lâm, hàn quang lẫm lẫm đánh một loạt, vị lão hàn lâm kia chẳng rên được tiếng nào, hai mắt trợn trắng ngất xỉu đi, hai đội hộ vệ quân trong ngoài đồng thời có phản ứng, người hô "Hộ giá", kẻ la "Tróc nã thích khách".

Ai ngờ đột nhiên một Ngự lâm quân vung đao chém Thái tử, Trường Canh ở gần Thái tử nhất, chợt tiến lên một bước, túm đai lưng kéo Thái tử lại, vừa vặn thoát hiểm.

Trong cảnh hỗn loạn có người la lên: "Ngự lâm quân phản rồi!"

Thống lĩnh Ngự lâm quân chấp hành nhiệm vụ hộ vệ chủ yếu đang mù tịt, bật thốt ra: "Cái rắm!"

Mà lúc này, có kẻ mặc quần áo cấm vệ lấy một cái nỏ nhỏ trong lòng bắn tới bộ liễn của Lý Phong, Lý Phong suýt nữa lăn xuống bộ liễn, vị thống lĩnh Ngự lâm quân nọ nghĩ bụng: "Cấm vệ mưu phản, còn mưu toan để chúng ta mang tiếng oan, lý nào lại thế!"

"Chậm đã! Trong cấm vệ quân có phản đồ, ám sát Hoàng thượng, bắt!"

Ngự lâm quân sau này sửa thành hai bộ song song, hiệp chế lẫn nhau, song phương vốn không trao đổi, lại là quan hệ cạnh tranh, một phương chấp hành hộ vệ chủ yếu, một phương hợp tác giám sát, hợp tác dĩ nhiên bị thiệt, toàn phải đi theo, làm việc đều giống nhau, lại không thể lộ diện trước mặt Hoàng thượng, trong lòng làm sao có thể phục?

Hộ vệ chính cho rằng trong cấm vệ quân ẩn giấu thích khách, đội hộ vệ hợp tác cho rằng đội hộ vệ chính mưu đồ làm loạn, cấm vệ cho rằng Ngự lâm quân tạo phản, dưới sự châm ngòi cố ý của kẻ rắp tâm, ba phương tức khắc sa vào hỗn loạn.

Mà tất cả tướng quân dùng được trong triều cơ hồ đã bị Cố Quân điều hết đến trú quân các nơi, trước mắt còn lại trong kinh thành trừ loại bỏ đi thì là âm mưu gia rắp tâm xấu xa, ở đây tức khắc gà bay chó sủa om sòm.

Đám người Phương Khâm nhắm chuẩn cơ, cố ý chật vật lao đến trước mặt Lý Phong, ùa lên nói: "Nơi đây nguy hiểm, xin Hoàng thượng mau mau rời khỏi."

Một đám hộ vệ lạ mắt đến theo, Phương Khâm: "Xin Hoàng thượng xuống bộ liễn! Chúng thần thề chết hộ vệ Hoàng thượng."

Lý Phong trong sự hoảng loạn cũng không chú ý rất nhiều chi tiết nhỏ, túm tay Phương Khâm: "Thái tử đâu?"

Phương Khâm ra hiệu cho thị vệ bên cạnh, nói với Lý Phong: "Thái tử đã có người bảo vệ, ban nãy thần nhìn thấy Nhạn vương cũng ở bên đó, sợ là nhất thời bị tách ra rồi, người cứ đi trước, thần sẽ lập tức sai người tìm."

Lý Phong cả giận nói: "Truyền Bắc đại doanh! Đồ vô pháp vô thiên..."

Phương Khâm đáp lời, lập tức sai người của mình làm bộ làm tịch chạy đi "truyền lệnh". Việc này họ cũng đã tính kỹ từ lâu, không thể để cấm vệ có phản ứng, phải sớm cách ly Hoàng đế ra, cắt đứt liên lạc của hắn với cấm vệ và Bắc đại doanh.

Phương Khâm vừa dụ vừa lừa mà thúc giục Lý Phong, người bên cạnh đều thay quần áo cấm vệ, lúc này ùa hết lên, Lý Phong nhất thời cũng không chú ý, chờ hắn phản ứng được thì đã không còn kịp rồi.

Mà lúc này, tiền tuyến cũng đã xảy ra dị động.

Giáo hoàng nhận được tin tức của nội gian trà trộn vào đoàn ngoại sự, Đại Lương xảy ra chính biến, sứ đoàn khao quân đế đô Đại Lương phái đến nơi đóng quân kỳ thực được giao nhiệm vụ ám sát, họ định tái hiện màn ở Huyền Thiết doanh Tây Bắc hai mươi năm trước, Cố Quân trọng thương, thậm chí rất có khả năng đã chết rồi. Trú quân đang cố gắng phong tỏa tin tức, nhưng nội bộ đã hỗn loạn vô cùng, chính là cơ hội tốt để phản kích.

Nếu là bình thường, có lẽ Giáo hoàng sẽ không dễ tin vào tin tức kiểu này, chí ít sẽ phái người chứng thực tới lui từ nhiều góc độ khác, song ngài đã không còn đường này.

Thủy quân Đại Lương cắt đứt hai tuyến liên lạc trọng yếu với trong nước, thêm nữa, một mặt tranh đấu giữa đảng phái ở thánh địa đã đến hồi ác liệt, một mặt thuộc địa vốn ngoan ngoãn ở chư đảo Nam Dương bắt đầu dấy lên một cuộc phản loạn dậy sóng, họ căn bản hết cách phân thân, hiện tại chỉ có thể đi qua tuyến Viễn Đông của người Đông Doanh.

Giáo hoàng trên cơ bản không tin người Đông Doanh, luôn cảm thấy đám sài cẩu đó có thể táp ngược một phát bất cứ lúc nào, cho nên nóng lòng phá tan cục diện bế tắc.

Không ai hiểu rõ hơn ngài, uy phong trên biển của thủy quân Tây Dương là dựa vào nguồn sinh lực dồi dào, không có tử lưu kim số lượng lớn làm hậu thuẫn, đó căn bản là một đống sắt vụn.

Nhã tiên sinh chiêng trống rùm beng làm bộ thự chiến lược nghiêm mật, phái người đưa đến Mạc phủ Đông Doanh, thỉnh cầu phối hợp.

Người Đông Doanh cúi đầu khom lưng nhận lấy, khách khí tiễn đi, đoạn quay đầu đi vào sân nhà mình, đóng cửa lại.

Một võ sĩ Đông Doanh đường xa mệt nhoài không biết từ khi nào tiến vào theo lối cửa sau, bỏ mũ xuống, thấp giọng nói: "Ta đã gặp Cố tướng quân rồi."

"Như vậy Cố Quân không trọng thương, cũng chưa chết, đúng không?"

"Ta không thể khẳng định, chỉ vội vàng gặp qua Cố Quân, thân phận của ta không đủ để trò chuyện với y. Nhưng trú quân trật tự ngay ngắn, lửa đạn nhồi đầy, không mảy may hỗn loạn, như là tùy thời chuẩn bị tiến công. Ta cũng không thấy cái gọi là 'đoàn ám sát', nếu như có, khả năng đã bị bí mật khống chế rồi."

"Ta biết rồi, vất vả."

Tiểu Thái tử trong cảnh binh hoang mã loạn bị dọa đến mất vía, hoàn toàn không biết phải làm sao, chỉ có thể nắm chặt tay Trường Canh.

Hai quân loạn lên, văn võ bá quan bỏ chạy tứ tán, bộ liễn thiên tử lộn xộn vứt dưới đất, mà người vừa tan đi, thì mục tiêu ngược lại tập trung – đám thích khách ban nãy cố ý khuấy đục nước cùng lao tới Trường Canh và Thái tử.

Trước khi đến Phương đại nhân đã dặn là "Cần phải giết chết Nhạn vương, nếu có cơ hội cũng không được buông tha Thái tử".

Đám thích khách thấy hai mục tiêu này lại đứng chung một chỗ, quả thật là đặc biệt tạo thuận lợi cho chúng!

Một mũi tên sượt qua đỉnh đầu Thái tử, Thái tử bị Trường Canh xách đi như chó con, kêu cũng chẳng nổi, chỉ có thể im lặng thút thít.

Đột nhiên, có người lau nước mắt trên mặt mình, xuyên qua đôi mắt nhòe lệ, Thái tử nhìn thấy tứ hoàng thúc sau khi lau nước mắt cho mình, giơ tay để lộ Huyền Thiết oản khấu, tụ trung ty chớp mắt bắn ra gọn gàng làm nứt cổ tay một thích khách, Nhạn vương đoạt đao của thích khách, chuôi đao xoay nhẹ, lẹ làng chém ra một đường.

"Lúc bằng tuổi Thái tử, ta từng bị một đám sói đói vây công ở ngoài Bắc đại quan." Trường Canh nói bằng giọng rất vững vàng, "Khi đó trời băng đất tuyết, xa gần không người, trên tay ta chỉ có một thanh tiểu đao bọn trẻ con ở nông thôn chơi – rượt theo ta không phải sói hoang bình thường, mà là do người man dùng cách của họ chăn nuôi, chuyên môn dùng để giết người, đầu rất to, đứng lên còn cao hơn ta."

Nhạn vương luôn lấy phong tư trác tuyệt trứ danh, vô luận địch nhân hay bằng hữu đều không thể không thừa nhận điểm này, y bất đồng với phần lớn quý công tử nhà công khanh từ nhỏ sống ở kinh thành, không hề hào nhoáng, cũng khác với sĩ tử hàn môn hoặc tướng sĩ xuất thân quân công, không hề có sự thanh hàn và phỉ khí. Y thoạt nhìn cực kỳ trầm tĩnh, nhưng không phải sự trầm tĩnh của thanh đăng cổ phật như Liễu Nhiên đại sư, y giống một bức tượng hung thần đặt trong chùa – nghiêm nghị đáng sợ, lại rơi đầy tàn hương quạnh quẽ. Rất nhiều người trộm học vẻ thong dong ưu nhã của Nhạn vương, vô luận thế nào người ta cũng khó lòng liên hệ y với bầy sói đói ở tái ngoại.

Tiểu Thái tử nghe đến ngây ra.

Lúc này, hai thích khách một trước một sau lao tới, một kẻ chém tiểu Thái tử trong tay Trường Canh, toan bức y lui lại, một kẻ khác từ phía sau phong chết đường lui của y.

Trường Canh khẽ cười khẩy một tiếng.

Đứa trẻ từ nhỏ chơi đao kiếm với thiết khôi lỗi của hầu phủ mà lớn lên, há sẽ lui bước trước mặt đối thủ trình độ này?

Trường Canh hoành đao đỡ kiếm trong tay thích khách, đối phương dưới sự kinh hãi không kịp triệt kiếm, lưỡi kiếm sắc lẻm tức khắc văng đi, hắn giơ hai tay trước ngực chắn đại, bị Nhạn vương "nhất đao lưỡng đoạn".

Sau đó Trường Canh không dừng chân, phi thân tiến lên ba bước, mượn lực khi quay người để xoay tay ném mũi đao ra, khiến truy binh kia sợ quá lui hai bước liền, đâm vào mũi trường thương của một Ngự lâm quân đang xông lên.

Tiểu Thái tử ngay cả giết gà còn chưa thấy, huống chi là giết người? Lập tức hoảng sợ vô cùng, vội nhắm chặt mắt lại, dù vậy vẫn bị mùi máu tanh tưởi hất vào mặt làm buồn nôn từng cơn, yếu ớt kêu: "Tứ hoàng thúc..."

"Không có gì đáng sợ cả." Trường Canh nhàn nhạt nói, "Kẻ thật sự có bản lĩnh, hiện tại không phải ở tiền tuyến thì đã da ngựa bọc thây rồi, còn lại đám hèn nhát này, chẳng có bản lĩnh ra trận giết địch, cũng chỉ có thể dọa trẻ con thôi – ngươi còn là trẻ con sao?"

Thái tử oan ức nghĩ bụng: "Thì đúng là thế mà."

Trường Canh dường như biết trong lòng nó đang nghĩ gì, khóe môi hơi cong lên.

"Còn là một đứa trẻ," Y thầm nghĩ, "Sẽ rất nhanh không phải nữa."

Đúng lúc này, Ngự lâm quân cầm thương kia lao tới hô to: "Vương gia! Thái tử điện hạ! Bên này!"

Tiểu Thái tử theo bản năng muốn tới, bị Trường Canh dùng vỏ đao móc áo kéo lại.

Thái tử bước chân lảo đảo còn chưa kịp đứng vững đã bị máu bắn đầy vào mặt, chỉ thấy kẻ vừa gọi chớp mắt chia làm đôi, một nhánh trọng giáp quân không biết từ nơi nào xông ra-

Lúc này, Lý Phong bị khống chế rốt cuộc phát hiện hướng đám người hộ tống hắn đi đến không phải là về cung, mà là đang chạy đến nơi không người, tim hắn đập thót, sinh ra một phỏng đoán khó tin nổi, hắn lập tức quay đầu lại chất vấn: "Chuyện này là thế nào? Phương khanh, các ngươi muốn dẫn trẫm đi đâu?"

Phương Khâm không dừng bước, không quỳ không bái, cất cao giọng nói: "Khải tấu bệ hạ, thần có bản thượng tấu."

Lý Phong nói vẻ khó tin: "Ngươi nói cái gì? Dừng lại! Trẫm bảo các ngươi dừng lại!"

Không ai để ý đến hắn, hai cấm vệ giả một trái một phải nâng long thể Hoàng thượng lên, ép hắn đi.

"Thần muốn tố cáo đương triều Nhạn thân vương Lý Mân," Phương Khâm vẫn ngắt từng chữ nói, "Hắn cấu kết hạ thương vô lương, mượn danh phong hỏa phiếu, bán quan bán tước đến vô liêm sỉ, đại tội này là một. Sinh làm con, đối với tiên đế không mảy may có lòng hiếu thuận cung phụng, ngược lại để lôi kéo quân tâm, thường xuyên ngủ lại hầu phủ, sau khi tập tước vẫn xưng 'nghĩa phụ', đây là đại tội thứ hai lòng lang dạ thú, vô phụ vô quân..."

Nếu Lý Phong còn không hiểu tình huống này là gì thì chắc là não úng nước rồi, hắn rất đỗi hoảng sợ, lập tức quát to một tiếng: "Phương Khâm, ngươi muốn làm gì!"

Phương Khâm lên giọng nói: "Bệ hạ, hiện giờ chúng ta đã bố trí trùng trùng mai phục, chỉ chờ nghịch thần tặc tử kia đền tội, chúng thần tuy vô năng, cũng nguyện noi theo tiên hiền, nếu gian thần khó chế, thề chết thanh quân trắc!"

Lời còn chưa dứt, đám vây cánh xung quanh lập tức phụ họa: "Nếu gian thần khó chế, thề chết thanh quân trắc!!"

Lý Phong đứng chết trân, khi hắn nhìn xung quanh, chỉ thấy trước mắt toàn những gương mặt xa lạ, ngụy cấm quân mặc giáp lom lom mắt hổ vây quanh hắn, những khuôn mặt nhìn quen trên triều điện đó hiện giờ mỗi kẻ xa lạ hơn một kẻ, tất cả đều phảng phất là quỷ mị khoác da người, mặt xanh nanh vàng chuẩn bị lao tới hắn.

Đây là quân thần.

Thời điểm Vũ đế cầm quyền cũng là như vậy sao?

Thời điểm tiên đế Nguyên Hòa cầm quyền cũng là như vậy sao?

Lý Phong tự biết mình không bằng cuộc đời Vũ đế mở mang bờ cõi, nhưng chẳng lẽ ngay cả vị phụ thân trong lòng hắn vẫn âm thầm bất mãn kia cũng thua kém?

Vô luận thế nào hắn cũng không thể chấp nhận điểm này.

Thế nhưng, dù không thể chấp nhận, đây tựa hồ cũng là sự thật, bởi vì thời điểm tiên đế Nguyên Hòa tại vị, không hề có ngoại địch bao vây kinh thành, cũng không có hết đợt này đến đợt khác phản tặc muốn kéo ông xuống kim loan bảo tọa.

Sát na này, Lý Phong không kịp có quá nhiều phẫn nộ hay sợ hãi, chỉ cảm thấy một cái tát giáng mạnh xuống mặt mình. Từ khi kế vị tới nay đã hơn ba ngàn ngày đêm, hắn chưa từng được một đêm ngon giấc, cả đêm vất vả ngược xuôi, hiện giờ xem ra đều là phí công, ngược lại không bằng tiên đế nhu nhược cả ngày đắm mình trong đám nữ nhân mà thương xuân bi thu.

Hắn trơ mắt nhìn tự tôn của mình nứt ra từng tấc, tan thành tro bụi trước đám phản quân thần sắc lạnh nhạt.

"Được..." Toàn thân Lý Phong run lên, "Các ngươi thật là... quá to gan!"

Phương Khâm cúi đầu, không tiếp xúc với tầm mắt hắn, đến nước này rồi, Phương Khâm hiểu mình đã không còn khó giả làm trung thần lương tướng gì đó nữa: "Xin Hoàng thượng thứ tội, Lý Mân kia một tay che trời, không coi pháp luật ra gì, xem thường tổ tông, chúng thần lo lắng cho xã tắc, không còn cách khác, mới ra hạ sách này, thật sự tội đáng muôn chết. Song trước mắt tặc nhân hoành hành, bè đảng thế lực rộng khắp toàn cảnh, Nhạn vương chết, những kẻ này tất làm loạn, xin Hoàng thượng sớm quyết đoán, tra rõ xử lý sạch."

Lý Phong nghiến răng nghiến lợi nói: "Ngươi còn muốn uy hiếp trẫm?"

Phương Khâm nhanh nhẹn quỳ xuống, mặt không đổi sắc nói: "Vi thần không dám, vi thần biết Hoàng thượng bị giật mình, tâm thần bất an, đã nghĩ sẵn chỉ dụ, mời bệ hạ xem qua."

Nói xong, bên cạnh lập tức có kẻ hai tay dâng một bản thánh chỉ, quả nhiên tỉ mỉ cặn kẽ, chú ý đến mọi mặt, chỉ thiếu ngọc tỷ đóng dấu thôi.

Lý Phong nổi điên hất hai kẻ khiêng mình, chợt tiến lên một bước, giơ tay túm cổ áo kẻ cầm thánh chỉ, kế đó đẩy mạnh một phát-

Trong cơn thịnh nộ, Lý Phong hoàn toàn quên mất cái chân què vẫn chưa khỏi hẳn, lần này không đứng vững, kẻ bị hắn đẩy chẳng nhúc nhích, chính hắn lại nghiêng về một phía trước.

Dưới đất trời sáng sủa, xung quanh là một vòng con dân Đại Lương, vậy mà không ai đỡ hắn, thế gia thật và cấm quân giả cứ thế giương mắt ếch nhìn thiên tử phẫn nộ ngã phịch mông, khinh miệt mà thờ ơ.

Đúng lúc này, một kẻ ăn mặc kiểu cấm vệ chạy chầm chậm tới, chắc hẳn cũng là hàng giả, hắn ta nhìn Lý Phong một cái trước, lập tức lại quay đầu báo với Phương Khâm: "Đại nhân, loạn thần tặc tử đã đền tội!"

Hai chân Lý Phong hoàn toàn mất đi sức lực, động tác buồn cười mà ngồi dưới đất, gằn từ kẽ răng ra mấy chữ: "Thái tử thì sao?"

Cấm vệ giả mạo nhìn Phương Khâm trước, được cho phép, mới dè dặt nói với Lý Phong: "Thái tử... Thái tử bị thích khách... Ơ, xin Hoàng thượng nén bi thương."

Trong đầu Lý Phong nổ "Uỳnh" một tiếng.

Ngực hắn lạnh ngắt, chờ định thần lại thì đã ho ra một búng máu. Lý Phong ngồi dưới đất, nhìn dòng máu dinh dính hóa đen chảy qua đầu ngón tay, mù mờ nghĩ thầm: "Tại sao trẫm lại thảm hại thế này?"

Trên mặt Phương Khâm thoáng qua thần sắc do dự, vô thức giơ tay, tựa hồ muốn đỡ Lý Phong, nhưng rốt cuộc vẫn không đụng vào hắn, tay giơ nửa chừng lại rụt về, vẻ do dự và không đành lòng trên mặt rút đi như thủy triều, lạnh lùng nói: "Hoàng thượng đâu phải chỉ có mình Thái tử, cho dù tam hoàng tử tuổi còn nhỏ, còn có đại điện hạ cần khẩn hiếu học, thông minh lương thiện, xin người bảo trọng long thể vì giang sơn xã tắc, lấy việc quan trọng trước mắt làm trọng!"

Nói xong, hắn một tay lôi thánh chỉ thủ hạ đang cầm, trình đến trước mặt Lý Phong: "Mời Hoàng thượng xem qua!"

Lý Phong vung tay đánh bay "thánh chỉ giả" trên tay Phương Khâm: "Ngươi nằm mơ!"

Phương Khâm im lặng quệt khuôn mặt bị thánh chỉ giả giáng một phát, giữ nguyên tư thế quỳ dưới đất, thân trên hơi nghiêng về phía trước, khẽ thở dài, dùng ngữ khí hết sức hòa hoãn mà thấp giọng nói: "Hoàng thượng, long thể của người đang ở trong tay chúng thần, bên ngoài dẫu hàng trăm ngàn... dẫu Bắc đại doanh đến, cũng chẳng ai dám có hành động, hôm nay thánh chỉ này, người hạ cũng phải hạ, không hạ cũng phải hạ – Hoàng trưởng tử có gì không tốt? Thần nghe nói tính tình y ôn hòa nội liễm, rất có phong phạm hoàng gia, không giống với dã chủng Nhạn vương lai lịch không rõ, đây mới là khí độ nên có của hoàng thất Đại Lương, người không cảm thấy sao?"

Ngực Lý Phong đau nhói, cả người như rơi vào hầm băng, lạnh thấu tim, hắn thở gấp mấy hơi, cười gằn nói: "Sau đó thì sao? Chư vị ái khanh tất nhiên sẽ không chờ trẫm mai này tính sổ. Sau đó các ngươi định làm gì trẫm? Giam lỏng? Hay trực tiếp giết luôn? Hoàng hậu thân thể mảnh mai không quản việc, đại hoàng tử nhà mẹ mãn môn sao trảm, không nơi dựa dẫm, trời sinh có tài làm con rối... Quả nhiên tính toán rất hay!"

Phương Khâm lắc đầu không tỏ rõ ý kiến: "Không thì sao đây, Hoàng thượng? Thái tử bất hạnh lâm nạn, gian tặc Lý Mân cũng đã đền tội... A, đương nhiên, nếu người muốn, còn có thể hạ chiếu truyền ngôi cho tam điện hạ. Nhưng tam điện hạ quá nhỏ, còn chưa đi học, người làm vậy chẳng phải là lấy giang sơn của tổ tông ra đùa giỡn?"

Trên thân một người, có lẽ có ngàn vạn điều lễ giáo ước thúc, nhìn thì tưởng là trói vững như thành đồng, nhưng kỳ thực không hề chắc, chỉ cần buông liêm sỉ xuống một lần, vượt Lôi Trì một bước, là sau này có thể thoải mái vô sỉ, không còn cấm kỵ.

Chí ít chính Phương Khâm cũng chưa từng nghĩ đến, một ngày kia hắn sẽ không đổi sắc mà nói ra mấy lời thế này.

Đương khi hắn hơi thất thần, mặt đất bỗng nhiên chấn động, nhất thời tất cả đều căng thẳng – tiếng bước chân chỉnh tề thế này rõ ràng chỉ đội ngũ huấn luyện nghiêm túc mới có, dựa theo chấn động để phán đoán, thì trong đây chí ít có trọng giáp!

Chẳng lẽ là Bắc đại doanh?

Trong lòng Phương Khâm "Thịch" một phát, rắc rối này không có trong kế hoạch, chỉ sợ là sinh biến rồi! Hắn quyết đoán kịp thời vung tay, mấy tên tay sai lao tới bắt Lý Phong: "Phiền Hoàng thượng hộ tống chúng ta một đoạn."

Mấy cấm vệ giả bao vây bốn phía Lý Phong, dẫn hắn rút lui theo một hướng khác, ai ngờ vừa rẽ, kẻ mở đường chợt dừng lại – phía trước lại có một đội cấm vệ chờ từ lâu!

Rốt cuộc họ làm sao thoát thân được?

Không... Thoát thân trái lại không là gì, tuy hơi nhanh hơn suy tính, nhưng một khi trong cung nghe thấy phong thanh, cấm vệ sẽ lập tức dốc toàn bộ lực lượng, quả thật rất dễ dàng áp được cục diện.

Vấn đề là làm sao họ tìm đến được?

Phương Khâm thoáng cái sững ra, quay đầu lại quét mắt nhìn một vòng, phát hiện thám tử mới chạy tới hồi báo "Nhạn vương và Thái tử đều chết rồi" đã không thấy đâu.

Có phản đồ!

Tiếng bước chân phía sau dần dần tới gần, nhìn lại mới thấy, thì ra khiến họ hoảng hốt chạy bừa căn bản không phải trọng giáp, mà chỉ là một đống thiết khôi lỗi chẳng biết từ nhà ai lôi ra!

Phương Khâm vã mồ hôi lạnh, chợt định thần lại, biết họ đã rơi vào bẫy của người khác.

Song việc đã đến nước này, không cho phép hắn suy sâu tính kỹ, hắn túm Lý Phong, kề lợi kiếm trên cổ rồng yếu ớt của Hoàng thượng, quát: "Ai dám tới!"

Hoàng thượng là vật quý giá, chẳng ai muốn gánh tiếng gián tiếp giết vua, cấm vệ quân nhất thời đều dừng bước.

Phương Khâm dù nằm mơ cũng không ngờ mình sẽ đại nghịch bất đạo như vậy, nhất thời sợ ngây ra, họng khô khốc, thở dốc vài hơi, cái đầu đặc sệt như hồ chưa kịp nghĩ ra đối sách gì, Ngự lâm quân lộn xộn rốt cuộc cũng chậm nửa nhịp chạy tới, cùng lúc đó, ngoài cửu môn có tiếng ưng kêu, là ưng của Bắc đại doanh đang thỉnh cầu qua lưới cấm không!

Chỉ nghe bên cạnh "Phịch" một tiếng, một tên tay chân sợ quá quỵ xuống.

Phương Khâm cắn răng nói với Hoàng đế Long An: "Xin Hoàng thượng lệnh cho họ rút đi."

Lý Phong thảm hại vô cùng, vẫn cười gằn: "Nằm mơ!"

Đúng lúc này, một mũi tên đột nhiên từ phía sau bắn tới, vừa vặn sượt qua đầu vai Phương Khâm, tuy vẫn chưa tạo thành thương tổn thực chất, chớp mắt da tróc thịt bong đau đớn rát bỏng ấy lại thoáng cái làm đứt sợi dây trong đầu Phương Khâm.

Thế cân bằng vi diệu bị phá tan.

Lý Phong nhắm chuẩn cơ hội, đẩy mạnh hắn, lập tức muốn xông ra.

Song cái chân què kia lại lần nữa cản bước, Lý Phong vừa cất bước thì chân liền mềm nhũn, không thể khống chế lảo đảo ngã xuống, đồng thời, Phương Khâm trong cơn sợ hãi rút kiếm đuổi theo, đâm kiếm về phía trước theo bản năng-

Lý Phong co giật dữ dội, ưỡn người như cá hấp hối, Phương Khâm trắng bệch mặt, vô thức buông tay cầm kiếm, lui ba bước liền, trừng mắt nhìn thanh kiếm cắm sau lưng Lý Phong như gặp ma.

Cấm vệ vốn sợ ném chuột vỡ đồ thoáng cái ầm lên.

Đột nhiên, Lý Phong nghe tiếng trẻ con khóc đến khản giọng xuyên qua vô số loạn thần tặc tử chui vào tai, hắn khó khăn ngẩng đầu lên, thấy tiểu Thái tử vừa kêu "phụ hoàng" vừa chạy tới, mà không xa phía sau, Nhạn vương – tứ đệ hắn, lông tơ cũng không mất một cọng đứng ở đó, gặp ánh mắt hắn, Nhạn vương dừng chân, hai tay chắp sau lưng, dùng ánh mắt trầm tĩnh riêng biệt của y, từ trên cao nhìn xuống Hoàng đế thảm hại.

Cấm vệ và Ngự lâm quân hò hét xông lên, mau chóng dẹp đám loạn thần tặc tử ngây ra như phỗng, Lý Phong bị khiêng ra, thủ lĩnh cấm vệ chạy đến hớt hải lao đi mời Thái y, song trong lòng đều biết rõ, mời cũng chẳng ăn thua gì.

Tiểu Thái tử nằm vật trên người hắn hoang mang khóc lóc.

Lý Phong rất muốn sờ tiểu nhi tử mềm mại này, nhưng chưa đợi hắn tích đủ sức, một bàn tay đã đặt lên vai Thái tử, Nhạn vương trầm mặc đứng bên cạnh, vỗ về vai và cổ Thái tử như an ủi, mọi người đều thấy đây là một đôi thúc điệt vừa bi thương vừa ấm áp, chỉ có Lý Phong cảm thấy mình hiểu được sự uy hiếp ẩn hàm trong động tác tay của y.

Lý Phong nhìn chằm chằm ánh mắt bình tĩnh của Nhạn vương, nhớ tới lời nói oán độc của mẫu thân mất sớm – đám man nữ đó đều là yêu nghiệt, tiểu dã chủng sinh ra cũng đều là hạng xui xẻo hại nước hại dân.

"Kẻ xui xẻo" Nhạn vương quỳ một gối xuống, tay lại vẫn đặt ở giữa vai và cổ Thái tử, thấp giọng hỏi Lý Phong: "Hoàng huynh còn gì muốn phân phó?"

Lý Phong: "Ngươi... ngươi..."

Nhạn vương hạ giọng thấp hơn, ngắt từng chữ nói ngay bên tai hắn: "Người yên tâm, thần đệ sẽ trông nom Thái tử."

Môi Lý Phong run dữ dội, trong mắt tựa hồ có một ngọn lửa, sau đó ánh lửa kia theo sinh mệnh hắn trôi qua mà chậm rãi tắt lụi, hắn run rẩy giơ một tay, bị Nhạn vương cầm lấy.

... Thì ra trong lòng bàn tay lạnh băng như vậy cũng có thể nặn ra huynh hữu đệ cung hư tình giả ý.

Lúc này, các đại thần vừa bị loạn quân tách ra lộn xộn mới lũ lượt sấp ngửa chạy tới, tựa một đàn dê co cẳng lao như điên. Nhạn vương ở một góc người khác đều không nhìn thấy, nhẹ nhàng nở nụ cười với Lý Phong, âm thanh lại bi thương đến rất có thành ý: "Hoàng huynh, người còn lời gì muốn nói?"

Tiểu Thái tử khóc đến không đứng dậy nổi, Lý Phong nhìn nó, kế đó khẽ nhắm mắt.

Cả đời hắn chưa bao giờ thỏa hiệp với ai, thủy chung cứng rắn đến cùng, ai ngờ đoạn đường sau cuối lại rơi xuống tuyệt cảnh này... Cường lương vây quanh, âm mưu trùng trùng, mà con thơ non dại, không nơi gửi gắm.

"Trẫm... cả đời tầm thường," Hắn thấp giọng nói hầu như không thể nghe thấy, hai viện thư sinh và nội thị chăm lo cuộc sống thường ngày nghe thế liền biết hắn muốn nói gì, nhất thời đều chẳng màng khóc lóc, tất cả hướng lại đây nín thở tập trung lắng nghe, chỉ sợ để sót đôi câu vài lời của Hoàng thượng.

Khóe mắt Lý Phong như ngấn lệ, hắn nói tiếp: "Cúi đầu ngẩng đầu thẹn với thương thiên lê dân, hơn mười năm qua, lòng... thật khó yên, sau khi trẫm mất... Thái tử... Thái tử... Thái tử tuổi nhỏ, khó gửi gắm trọng trách..."

Trường Canh nhẹ nhàng quay mặt đi, nhìn đám thiết khôi lỗi xa xa ngoài đám đông, trong số quái vật thiết giáp không sinh mệnh, có một con đang ôn nhu nhìn y chăm chú, nó từng luyện kiếm với y, cầm điểm tâm cho y, vô số lần theo y đi gõ cửa phòng người kia.

Lúc này, trong mắt nó hơi lóe lên ánh sáng màu tím, như có một người thân tại tiền tuyến phương xa, xuyên qua thứ kềnh càng không sinh mệnh này, lẳng lặng nhìn y.

"... Truyền ngôi cho Nhạn thân vương, kế trẫm đăng cơ, đừng phụ liệt tổ liệt tông."

Mùng một tháng Ba năm Long An thứ mười, Long An đế Lý Phong băng hà, chết dưới tay loạn thần tặc tử, khi lâm chung lại chính miệng bỏ qua Thái tử, truyền ngôi cho Nhạn thân vương, cũng là một việc lạ.

Nhạn vương dao sắc chặt đay rối dọn dẹp thế gia phản loạn, nhổ tận gốc mấy thế gia vọng tộc kinh thành dính dáng trong đây.

Danh chính ngôn thuận huyết tẩy triều đình, Sở quân cơ trong một đêm thi hành ba pháp lệnh liền, mạnh tay ổn định thế cục kinh thành.

Không đợi đám Giang Sung biểu diễn xong tam cự tam thỉnh, Nhạn vương – chuẩn Hoàng đế hiện giờ đã không hề báo trước mà rời khỏi kinh thành.

Nếu không phải đám nòng cốt của y ở Sở quân cơ loạn cục gì cũng từng trải qua, trời sập cũng gánh được, chắc đã sớm ầm lên nữa rồi.

Trường Canh gọi Giang Sung tới, tỉ mỉ dặn dò cả đống việc, lập tức giao hết dụ lệnh viết sẵn cất trong hộp cho hắn, rõ ràng là dáng vẻ sớm muốn đi vô cùng, chỉ hận không thể bay đi ngay, Giang Sung chỉ nghĩ do chiến sự Giang Nam, gần đây có thể y phải xuất hành, song không liệu được y đi bất ngờ thế, thậm chí hôm sau nghe tin mà giật mình.

Trường Canh ngay trong đêm điều tạm một đội ưng giáp hộ vệ của Bắc đại doanh, định bay thẳng về phương Nam.

Y dám khẳng định tiền tuyến Lưỡng Giang tuyệt đối không thái bình – vô luận là hai Lâm Uyên trà trộn trong đoàn ngoại sự, hay Tào Xuân Hoa y phái đến bên cạnh Cố Quân, thậm chí bản thân Cố Quân... Thư họ gửi đều thể hiện tiền tuyến rất ổn, chỉ đợi giành lại vạn dặm non sông, điều này không bình thường.

Cố Quân chỉ nói chuyện tốt không nói chuyện xấu thì thôi, nhưng Lâm Uyên sở dĩ tên "Lâm Uyên", chính là phải có sự cẩn thận và nhìn rõ mọi việc khi "đối diện vực sâu, đi trên băng mỏng", cho dù tiền tuyến thật sự giành thắng lợi áp đảo, họ cũng sẽ tìm ra hết thảy nguy hiểm có thể phát sinh, không phân lớn nhỏ mà nhắc nhở cả Cố Quân lẫn chủ nhân mộc bài Lâm Uyên ở kinh thành.

Nhưng không có, ngay cả một chữ cũng chẳng đề cập, không thích hợp chút nào.

Trường Canh ở kinh thành tầng tầng thúc đẩy bộ thự của mình, nhìn như thong dong, thực tế đã sớm ngồi không yên.

Thế nhưng y không thể đi thăm Cố Quân vào lúc sống còn này, trong kinh thành có quá nhiều biến số, chưa đến giờ khắc cuối cùng, y không biết mình có thể thuận lợi đạt thành mục đích hay chăng – một khi có chút xíu bất trắc, chưa biết chừng cuối cùng y sẽ phải tự tay cầm đao binh, gánh tiếng "loạn thần tặc tử" và "thí huynh sát điệt", nên trong cả quá trình y không thể có một chút dính dáng với Cố Quân.

Chỉ có thể đặt đối phương ở tiền tuyến nơi mình không nhìn thấy.

Ưng bay nam bắc, trên đường không thể không nghỉ ngơi, đương khi Trường Canh tâm thần bất an ở trong một trạm dịch quân dụng chờ ưng giáp nạp thêm nhiên liệu, công văn khẩn đánh dấu đỏ vừa vặn đi qua, bị thống lĩnh Bắc đại doanh chặn lại, đưa đến tay y.

Quân Tây Dương từ hải vực Đông Doanh ngang nhiên xuất binh, điên cuồng phản công-

"Rốt cuộc khi nào mới có thể chuẩn bị xong ưng?" Trường Canh cố hết sức dằn sự nôn nóng và cơn giận xuống mà hỏi.

Thống lĩnh Bắc đại doanh đi cùng vội nhỏ giọng trả lời: "Xin bệ hạ chớ nôn nóng, sẽ xong ngay thôi."

"Đừng gọi bệ hạ, danh bất chính ngôn bất thuận." Trường Canh không thoải mái gạt lời nịnh nọt này đi, nói xong chính y cũng nhận thấy mình đứng ngồi không yên, lập tức hít sâu một hơi, kéo nhẹ ống tay áo như tìm kiếm an ủi.

Trong tay áo y cất một mảnh vải, chẳng biết dùng tay xé hay là cắt, trông nham nhở như chó gặm, được Cố Quân kẹp trong thư nhà cho y, mới nhìn hoàn toàn không biết là thứ gì. Trên thư Cố Quân bảo rằng đây là một đoạn đai lưng mình không dùng, thiếu chính là một năm nhung nhớ, chờ tương lai lấp đầy sẽ để y may lại giúp, còn nói bản thân có một chút tư nguyện, phong thư này viết không được, phong tiếp theo sẽ cho biết.

"Tiên đế đã hạ thánh chỉ, mấy cái khác chẳng qua là hình thức, bệ hạ hà tất câu nệ?" Thống lĩnh cắt ngang mạch suy nghĩ của y, thống lĩnh Bắc đại doanh nhiệm kỳ này hoàn toàn bất đồng với Đàm Hồng Phi, làm việc lẫn ăn nói đều khá giỏi, "Người nghĩ xem, Cố soái đã dùng diệu kế cắt đứt tuyến tiếp viện của quân Tây Dương, hiện tại họ phản công cũng chẳng qua là nỏ mạnh hết đà, có Đại soái bày mưu lập kế, bệ hạ hà tất lo lắng?"

Trường Canh không đáp gì, y cũng biết tin tức giả đoàn ngoại sự "đắc thủ" lúc trước tuy là do Lưu Trọng và Lâm Uyên tung ra, nhưng nhất định đã qua Cố Quân thẩm duyệt và ngầm đồng ý, như vậy sau đó đóng kín đại doanh Lưỡng Giang, cũng chỉ là dụ địch đến xâm phạm thôi. Tĩnh tâm cân nhắc cẩn thận, lần này Cố Quân mượn gió đông trong việc thế gia kinh thành mưu nghịch, vừa vặn có thể tiêu diệt người Tây Dương, cuộc chiến tranh này đủ để ghi vào sử sách, thực sự không có gì phải nhọc lòng.

Những việc này thống lĩnh Bắc đại doanh cũng hiểu, làm sao Trường Canh có thể không hiểu?

Thế nhưng lòng y cứ nóng như lửa đốt.

... Dĩ nhiên, có lẽ "như lửa đốt" cũng không phải là nóng lòng, mà là tư niệm quá dài lâu.

Đúng lúc này, người của trạm dịch chạy tới báo ưng giáp đã chuẩn bị xong, có thể lên đường rồi. Trường Canh vừa đứng dậy thì trú quân Lưỡng Giang liên tiếp đưa đến ba phong tín hàm – đây không phải là gửi cho kinh thành, một khi bắt đầu giao chiến, tiền tuyến sẽ gửi lệnh kiện cảnh cáo trạm dịch quân dụng xung quanh và trú quân các nơi, để họ chuẩn bị sẵn sàng tăng viện hoặc nâng cao cảnh giới.

Phong thứ nhất "Quân địch đến xâm phạm", phong thứ hai "Chiến dịch quan trọng", phong thứ ba trực tiếp lên tới cấp cảnh báo cao nhất, "Địch dốc tổ mà ra, bên ta toàn lực nghênh địch" – tất cả chỉ trong vòng một nén nhang.

Thống lĩnh Bắc đại doanh ngứa ran da đầu, lập tức nói: "Bệ hạ, cấp cảnh báo của tiền tuyến quá cao rồi, xin người chớ nôn nóng, hãy ở trạm dịch chờ tin tức trước, đợi bên kia an ổn một chút lại..."

Hắn còn chưa dứt lời, Trường Canh đã đứng dậy: "Nói đúng lắm, ngươi ở lại đi."

Thống lĩnh: "..."

Lúc này không ai biết tân đế sẽ bất ngờ giá đáo, thần kinh mọi người ở tiền tuyến trú địa đều căng lên cao độ.

Từ khi Cố Quân bị thương ở trên biển đến bây giờ, đã qua hơn một tháng, nhớ năm ấy khi y thủ kinh thành, từ lúc được đào ra khỏi núi thi thể đến một lần nữa mặc giáp trụ đi Tây Bắc, cũng chẳng qua vài ngày mà thôi, hiện giờ tính ra chỉ hai ba năm ngắn ngủi, mà những điều này lại đã thành "cái dũng năm ấy" của hảo hán.

Trong lúc này, y khi mê khi tỉnh hơn nửa tháng, gầy tong gầy teo, sau đó Thẩm Dịch nói, đoạn thời gian ấy một độ hơi thở y mỏng manh đến mức phảng phất có thể mất luôn bất cứ lúc nào, không biết là cái gì níu y thoi thóp đến hiện tại, vậy mà qua khỏi. Song y muốn đứng dậy vẫn rất khó khăn, tích sức cả buổi sáng mới đủ miễn cưỡng đi một vòng trong phòng, tấm thép nẹp trên người cũng không dám tháo, ngồi lâu sẽ đau buốt tim.

Cố Quân chưa bao giờ sợ đau, bởi đã quen rồi, hơn nữa y luôn cho rằng đau đớn là một loại tự bảo vệ của thân thể, không phải chuyện xấu, đây vẫn là lần đầu tiên từ lúc chào đời tới nay y lĩnh giáo cảm giác đau đớn hư thoát.

Dĩ nhiên cũng có tin tốt, tin tốt là mắt y đang từ từ phục hồi. Diêu Trấn nhờ người lặn lội tìm được một lão tượng nhân dân gian, làm cho y một bộ kính lưu ly đặc chế, đeo lên có thể miễn cưỡng nhìn thấy trong vòng một trượng, tốt xấu gì cũng trao đổi được với người khác. Vết thương trên cổ không sâu, đã khép lại rồi, nhưng một khi nói nhiều sẽ rất khàn.

Đáng tiếc y còn chưa thể nói.

Người Tây Dương rõ ràng là liều một trận cuối cùng, quan chỉ huy của đối phương là lão Giáo hoàng nhiều lần ngang tài ngang sức với Cố Quân trong thủy chiến, mặc dù trong đây có một đám người Đông Doanh lưỡng lự phá rối, sớm tiếp xúc không rõ ràng với Đại Lương, song muốn họ hữu dụng, đầu tiên cần kiến lập trong tình huống thủy quân Đại Lương có thể chiếm ưu thế tuyệt đối – nếu không chưa chắc là ai bị đâm cho một nhát.

Bắt đầu từ khi Đông Doanh phái người bóng gió cho họ biết Tây Dương đang chuẩn bị liều mạng lần cuối, Cố Quân chưa được ngủ trọn một giấc.

Trong lòng có quá nhiều việc lại thêm vết thương đau – chủ yếu vẫn là vết thương đau, làm y thường xuyên nằm trên giường đến hừng đông, dẫu bên ngoài chưa động một binh một tốt, trong đầu y đã đánh hàng trăm ngàn trận, hận không thể suy tính một lần mọi tình huống.

Vì lần thu quan hung hiểm này, Cố Quân điều động toàn bộ Huyền Ưng bộ của ba bộ Tây Bắc, đám Hà Vinh Huy có ý cất nhắc người trẻ tuổi, còn nhất tịnh dẫn cả Thái tiểu tướng quân và mấy tiểu tướng mới ra đời đến để thêm kinh nghiệm.

Lúc này, trên thủy có Thẩm Dịch và Diêu Trấn phối hợp, không trung có Hà Vinh Huy và huyền ưng chân chính, nhóm võ trang mạnh nhất của cả Đại Lương tôi luyện ra trong mấy năm chiến loạn đều ở chiến trường Giang Nam, lần này trong soái trướng trung quân không chỉ mình Cố Quân, Tiểu Thái tướng quân với một đám cựu bộ Huyền Thiết doanh đều tập trung ở đây, ưng giáp qua lại, tất cả chiến báo lập tức trình lên truyền xuống.

Người Tây Dương mới đầu toan tính dùng trọng pháo vây cảng, muốn nhân thời cơ "trú địa Lưỡng Giang nội loạn" để đánh họ trở tay không kịp, trú địa dưới sự "hoảng loạn" quả nhiên không thành quân, đành phải dựng "rào sắt", tiêu cực chống cự.

"Hàng rào sắt" gần đây mới gia cố, lực phòng ngự kinh người, một tốp tiên phong nấp đằng sau bắn trộm, khiến quân Tây Dương tự tiêu hao lửa đạn.

Mai phục nhanh chóng bố trí, Diêu Trấn đã ở trên chiến hạm hải giao, Thẩm Dịch và Hà Vinh Huy chuẩn bị hoàn tất tùy thời đợi lệnh. Mà tin tức "Hoàng thượng băng hà" là kèm trong chiến báo lui tới đâu vào đấy truyền vào cùng mệnh lệnh.

Phong văn kiện khẩn xanh trắng giao nhau này nằm lẫn trong một đống chiến báo ngắn gọn hết sức nổi bật, mới đầu nghe nói là chuyện của triều đình, bị ném sang bên không ai ngó ngàng, chờ bên này bày trận xong, lửa đạn của Tây Dương cũng tạm nghỉ, thì Tiểu Thái mới vui vẻ cầm ống thư đến.

Thẩm Dịch đi ra ngoài, Tiểu Thái vừa bóc giúp Cố Quân, vừa tò mò hỏi: "Đại soái, dấu đỏ là văn kiện quan trọng của triều đình, dấu trắng thì có ý nghĩa gì ạ?"

Cố Quân gắng gượng cả buổi, tinh lực đã rõ ràng không đủ, vừa ấn trán thật lực, vừa mơ hồ hỏi: "... Cái gì?"

Tiểu Thái thoáng nhìn sắc mặt y khó coi, không dám ồn ào thêm, vội kéo chăn đắp cho Cố Quân, đỡ y nằm xuống: "Hãy nghỉ ngơi một lúc trước, có việc ta lại kêu ngài sau."

Nói xong, chàng thanh niên này nhẹ tay nhẹ chân lui sang một bên, tự mình im lặng mở thư ra, định xem lướt qua rồi bỏ vào đống "chờ bàn sau", để đánh giặc xong tính tiếp.

Ai ngờ mới xem lướt qua, gã liền ngây ngẩn cả người. Dù sao thì tiểu tướng quân chẳng qua tuổi nhược quán, còn là một chàng thanh niên ngốc nghếch làm tiên phong chạy trận tiền dưới tay cha, chưa bao giờ đối mặt với phong vân biến ảo của triều đình, nhất thời sững người ra.

Hà Vinh Huy đang vừa rửa mặt vừa chỉ huy thân vệ chuẩn bị ưng giáp cho hắn, quay đầu lại liền nhìn thấy bộ dáng ngây ra như phỗng ấy, hỏi: "Tiểu Thái đừng đần ra, mau chuẩn bị đi theo ta, lề mề gì thế?"

Tiểu Thái tướng quân ra sức chớp mắt, lẩm bẩm: "Hà đại ca, họ nói là... nói là Hoàng thượng băng hà rồi..."

Cố Quân sau khi trọng thương sợ lạnh, quan tâm y, mọi người làm cho soái trướng đặc biệt ấm áp, người Hà Vinh Huy rất nóng, nên không thể không cách một lúc lại chạy ra cửa dùng nước lạnh rửa mặt, lúc này hắn vểnh mông, bọt nước trên mặt theo râu nhỏ xuống, nghe lời ấy chầm chậm thẳng lưng lên, há hốc mồm hỏi: "Gì cơ?"

"Hoàng thượng băng hà..." Tiểu Thái luống cuống liếm môi, chần chừ tại chỗ giây lát, không thể không hạ quyết tâm quỳ bên sập, dè dặt kéo chéo áo Cố Quân, gọi khẽ, "Đại soái, Đại soái."

"Ngươi gọi vậy y không nghe thấy đâu." Hà Vinh Huy rảo bước tới, lôi Cố Quân dậy, bóp vai y lắc lắc, hét lên như chiêng đồng, "Đại soái! Đại soái ơi! Ngài mau tỉnh lại đi! Xảy ra đại sự, tiểu tử Hoàng đế kia ngỏm rồi!"

Tiểu Thái tướng quân: "..."

Cố Quân ý thức hơi mơ hồ, bị hắn lắc tỉnh, vẻ mặt mù mờ.

Hà Vinh Huy lại nghĩ tới điều gì đó, quay đầu hỏi Tiểu Thái: "Không đúng, hắn chết rồi thì ai làm Hoàng đế? Cái... tên nhãi cao bằng này hả?"

Hắn vừa nói vừa giơ tay lên ngang eo mình, bàn tay to như quạt hương bồ hết sức không tôn trọng mà đè xuống, vẻ mặt đầy khinh thường.

Thái tiểu tướng quân: "... Hoàng thượng lúc lâm chung truyền ngôi cho Nhạn vương điện hạ."

Hà Vinh Huy tuy tính tình thô lỗ bộp chộp nhưng không ngốc, nghe vậy đương trường ngớ ra, hoang mang nói: "Không truyền cho con mà truyền cho Nhạn vương? Vô lý, chẳng lẽ hắn uống lộn thuốc?"

Cố Quân vội vàng xem qua thần ngữ của hai người, nhìn chung đã hiểu họ đang nói gì, lập tức giật mình tỉnh hẳn: "Đưa đây ta xem!"

Tin tức trong soái trướng do sự bất ngờ thình lình xảy đến mà tạm gián đoạn, Thẩm Dịch chỉnh trang và Tào Xuân Hoa đóng giả Cố Quân đợi một lúc không nhận được lệnh, hơi lấy làm lạ, định phái người đến hỏi.

Không ai liệu được, khi mọi người ở đây còn chưa tiêu hóa xong tin tức này, tân hoàng trong truyền thuyết lại đích thân tới!

Thời chiến không như bình thường, trú quân thủ vệ cực kỳ nghiêm ngặt, vệ binh ban đầu cho rằng mình nghe lầm, mãi đến khi thống lĩnh Bắc đại doanh lấy ra hổ phù trong tay Hoàng thượng, một đội vệ binh mới sấp ngửa chạy đi báo tin. Trường Canh không đợi hắn, trực tiếp dẫn người xông vào, chưa đến soái trướng đã đụng trúng Tào Xuân Hoa chuẩn bị lên chiến hạm.

Tào Xuân Hoa mang khuôn mặt giống y hệt Cố Quân, bất ngờ đụng phải Trường Canh, trợn mắt nhìn nhau. Trường Canh cửu biệt trùng phùng, tim đập điên cuồng, còn chưa kịp thở phào thì đã thấy "Cố Quân" kia tựa hồ hoảng sợ vô cùng, mắt đảo một vòng, kéo mạnh cương ngựa, không nói hai lời quay đầu muốn chạy.

Trường Canh: "..."

Qua động tác này, Trường Canh dùng lông mày nhìn cũng biết tên này là ai, định mở miệng quát đối phương, lời ra đến môi lại sợ phá hỏng bộ thự bí mật gì của Cố Quân, vội phi thân đuổi theo, túm cương ngựa của "Cố Quân", giữ cả người lẫn ngựa lại, gằn ra hai chữ: "Tiểu, Tào."

Tào Xuân Hoa khóc không ra nước mắt, cúi đầu nhìn Trường Canh vẻ mặt đòi nợ, lộn nhào xuống ngựa.

Lúc này hắn còn chưa kịp nghe nói tin tức lớn long trời lở đất trong kinh thành, chỉ lí nhí nói với vẻ mặt khóc tang: "Điện hạ."

Trường Canh hung tợn trừng hắn: "Ta cho ngươi đến thay ta trông nom y, vậy mà y nói gì ngươi cũng nghe răm rắp? Chỉ giỏi qua loa với ta!"

Tào Xuân Hoa dùng khuôn mặt Cố Quân làm ra vẻ đau khổ vô lại, Trường Canh nhìn mà đau dạ dày quay đi chỗ khác, thật sự không hiểu người này mấy lần lẻn vào trận địa địch, rốt cuộc làm sao mới có thể không bị nhận ra.

"Tướng ở bên ngoài... Quân lệnh cũng phải có lúc không nghe mà," Tào Xuân Hoa vừa dẫn Trường Canh lề mề đi, vừa rỉ tai y, "Không có Đại soái cho phép, ta ta ta ta cho dù muốn truyền tin tức gì cũng truyền không được mà..."

Trường Canh tức giận hừ một tiếng, xem như tha cho hắn lần này, lại hỏi: "Các ngươi lại diễn trò gì vậy? Nguyên soái thật và giả?"

Tào Xuân Hoa trong lòng thấp thỏm, ậm ừ lấy lệ, vừa ứng phó Trường Canh vừa trộm liếc về phía Thẩm Dịch. Hắn bên này kéo Trường Canh, Thẩm Dịch bên kia liền thừa cơ chuồn về lều, hai người ở trong doanh địa nhà mình như điệu hổ ly sơn, một kinh hồn táng đảm kéo dài "địch tình", một mau chóng quay về soái trướng báo tin.

Thấy Thẩm Dịch đã quay đầu chuồn về soái trướng trung quân, Tào Xuân Hoa mới khe khẽ thở phào, song còn chưa thở hết thì bất ngờ nghe thấy Trường Canh gằn từng chữ hỏi: "Ngươi nhìn ai thế?"

Tào Xuân Hoa: "..."

Trường Canh càng lúc càng cảm thấy không bình thường, hất Tào Xuân Hoa ra. Y từng nán lại đại doanh Lưỡng Giang hơn một tháng, đảo mắt qua liền tìm được soái trướng trung quân, sải bước đi tới.

"Điện hạ! Điện hạ!" Tào Xuân Hoa hấp tấp túm tay áo Trường Canh, khó khăn nuốt nước bọt, "Điện hạ, lát nữa ngài... nhất định phải bình tĩnh."

Lúc này, Thẩm Dịch đã kinh hoảng thất thố chạy tới trước mặt Cố Quân, hệt như bị Giáo hoàng Tây Dương lái đại hải quái rượt theo: "Tử Tử Tử... Tử Hi!"

Hà Vinh Huy bực bội nói: "Quý Bình lão huynh, sao ngươi ỉu xìu vậy?"

Thẩm Dịch chẳng buồn chấp nhặt với hắn, lao tới đầu giường Cố Quân, thở không ra hơi nói: "Tiểu điện hạ nhà ngươi đến rồi, ngươi ngươi ngươi..."

Mọi người trong soái trướng còn chìm trong sự kinh ngạc "Nhạn vương vậy mà đăng cơ làm Hoàng đế", nhất thời chưa kịp phản ứng cách xưng hô xưa cũ "tiểu điện hạ" trong miệng Thẩm Dịch là chỉ ai. Hà Vinh Huy và Tiểu Thái trố mắt nhìn nhau, Cố Quân chậm nửa nhịp để thần ngữ của Thẩm Dịch đi qua đầu một lần, nói vẻ khó tin: "Trường Canh?"

Thẩm Dịch gật đầu lia lịa như cha mẹ chết.

Cố Quân tức khắc thất sắc, suýt nữa nhảy dựng lên... Ai ngờ hữu tâm vô lực, không nhảy nổi, y giống như hái hoa bắt bướm bị vợ bắt tại trận, líu lưỡi nói: "Dưới gầm giường có chỗ cho ta trốn không? Lão Hà đừng cản đường, xê ra xê ra... Khụ khụ khụ..."

Cố Quân dưới tình thế cấp bách, cổ họng chưa khỏi hẳn liền ho sặc sụa, chưa ho xong thì một trận gió xuân nhè nhẹ từ ngoài trướng hất vào mặt, thổi qua mu bàn tay tái nhợt của kẻ vừa điếc vừa mù ấy, xuyên qua kính lưu ly đặc biệt, Cố Quân mang máng nhìn thấy một bóng dáng trường thân ngọc lập ở cửa.

Cố Quân: "..."

Nhất thời cả soái trướng lặng ngắt như tờ, Cố Quân đơn thuần là bị dọa, những người khác thì là nhìn thấy "tân hoàng" trong thư sờ sờ đứng trước mặt mà giật mình.

Chỉ có Thẩm Dịch không nằm trong trạng thái phá tan sự im lặng: "... Không thể trách ta chạy chậm được."

Hà Vinh Huy lúc ở Tây Bắc có biết Nhạn vương áp tải quân lương, là người thứ nhất kịp phản ứng, mở miệng nói: "Hoàng thượng?"

Mọi người như vừa tỉnh khỏi cơn mê, nhao nhao muốn dùng đại lễ chào, Trường Canh không rời mắt khỏi Cố Quân, động tác hơi căng thẳng xua tay, miễn cưỡng giữ thể diện mà nói: "Lần trước gặp mặt chư vị còn xưng nhau là huynh đệ, không cần như vậy."

Thẩm Dịch rất đỗi nghi hoặc, nhìn Trường Canh chậm rãi đi tới, thậm chí nho nhã lễ độ gật đầu chào mình, sau đó vượt qua y đi tới bên sập, nhìn chằm chằm Cố Quân đến mức mắt đau như bị kim đâm, song vẫn muốn nhìn.

Trên người Cố Quân rất nhiều chỗ phải nẹp tấm thép, băng vải dưới vạt áo còn dính máu, lộ ra xương quai xanh và cổ tay tựa hồ chỉ có một lớp da yếu ớt bao trên xương, đôi môi ngay cả một chút huyết sắc cũng không có, kính lưu ly đặc biệt mấy lớp thấu kính dày cộp cơ hồ dán lên nửa khuôn mặt y, một con mắt khác không tiêu cự, vẫn có thể nhận ra sự căng thẳng không dễ phát hiện.

Trường Canh ở trước mắt bao người, chậm rãi ngồi bên sập, kéo chăn giúp Cố Quân, liếc nhìn ống đựng lệnh kiện mở ra bên cạnh, sau đó phân phó thống lĩnh Bắc đại doanh đi theo đang ở ngoài trướng: "Lấy hổ phù, báo cho giao, giáp, ưng, kỵ các lộ tướng sĩ, có trẫm ở đây, tiến thoái cùng chư vị đồng chí, chư vị nhất định bách chiến bách thắng."

Chúng tướng sĩ trong soái trướng lặng im một thoáng, sau đó không biết là ai khởi đầu, nhất tề tam hô vạn tuế.

Âm thanh ấy mau chóng truyền ra soái trướng, như mọc cánh bay qua cả vùng đóng quân. Mấy trăm năm qua, hai hổ phù lần đầu xuất hiện ở cùng một địa điểm, như Định hải thần châm cắm trên quân kỳ phần phật, sóng biển lẫn lửa đạn đều không thể lay động, mà tân hoàng dù chưa chính thức lên ngôi, đã lập tức được tướng lĩnh tứ cảnh chấp nhận.

Tiếng pháo tấn công hàng rào sắt của người Tây Dương lại vang lên, Cố Quân không dám trì hoãn thêm, chúng tướng quân nhanh chóng nối đuôi nhau mà ra, mỗi người một việc, lũ lượt nhận lệnh mà đi, quan truyền lệnh thức thời lui ra ngoài, trong soái trướng rốt cuộc chỉ còn lại hai người là Cố Quân và Trường Canh.

Chớp mắt người ngoài cuối cùng rời khỏi, Cố Quân đang không biết phải nói gì, Trường Canh lại như bị rút mất cột sống, cả người lảo đảo, suýt nữa quỵ xuống. Tiếp đó, ngực y phập phồng mạnh vài cái, như là đau cực kỳ, lại như là thở không ra hơi, một tay ôm ngực, cắn chặt răng, sống lưng căng như muốn gãy.

Cố Quân giật nảy mình, vội chống một tay cẩn thận ấn lưng y: "Trường Canh, sao vậy?"

Trường Canh, hoảng loạn nắm lấy tay đối phương, liều mạng túm chặt như phao cứu mạng, chỉ thở đến không nói nên lời, gân xanh hiện đầy trên huyệt thái dương.

Cố Quân nuôi y đến bằng này, chưa từng biết y có bệnh tim bệnh suyễn, lập tức gọi to: "Quân y đâu, đến..."

Thân vệ đợi lệnh ở cửa nghe vậy, vừa mới thò đầu vào.

Trường Canh gằn ra mấy chữ: "Ra ngoài! Đừng tới đây!"

Thân vệ không hiểu gì hết, song không dám làm trái thánh mệnh, lật đật lui ra ngoài.

Cố Quân hơi luống cuống nhìn y, Trường Canh hai mắt sung huyết, đồng tử phảng phất có xu thế tách ra, rồi lại như bị một cây châm xâu vào một chỗ, y chầm chậm quay sang Cố Quân, Cố đại soái đã cố gắng chuẩn bị sẵn sàng nghe y mắng một trận.

Nhưng đợi cả buổi, Trường Canh lại chỉ chậm rãi hỏi: "Nếu ta đến muộn hơn một chút, có phải sẽ không gặp được ngươi nữa?"

Cố Quân: "..."

"Ta ở tận kinh thành, nghe bọn họ hô to gọi nhỏ, tiếp đó lòng dạt dào vui mừng chờ ngươi trở về, muốn cho ngươi xem đường ray hơi nước sẽ lập tức nối liền, muốn nói với ngươi thật nhiều lời, muốn vá lại vạt áo rách kia cho ngươi, sau đó thì sao?" Trường Canh nhẹ nhàng hỏi, từ từ siết chặt tay Cố Quân mà nâng đến trước mắt mình, y cúi đầu nhìn bàn tay tái nhợt ấy, "Ta còn có thể đợi được ngươi không?"

Tim Cố Quân như bị cương châm đâm xuyên, bỗng chốc chẳng biết phải nói gì.

"Ta hận ngươi chết đi được." Trường Canh nói, "Ta hận ngươi chết đi được Cố Tử Hi à."

Câu này kể từ lúc Cố Quân lần đầu tiên bỏ y lại hầu phủ, một mình lén chạy tới Tây Bắc, vẫn đè nén trong lòng y cùng với Ô Nhĩ Cốt thường xuyên phát tác.

Mà nay, sau trị liệu tra tấn dài lâu, Ô Nhĩ Cốt bớt quá nửa, không đường áp chế nữa, rốt cuộc bị y nói ra.

Trường Canh bỗng nhiên sụp đổ, tạm thời ra khỏi con đường "chỉ đổ máu, không đổ lệ" từ nhỏ lựa chọn.

Trong soái trướng, tân hoàng bệ hạ ban nãy còn hùng hồn nói ở bên chư tướng đau đớn bật khóc thành tiếng.

Cố Quân lời cạn từ nghèo, muốn dang tay ôm lấy y, nhưng kéo hai cái y chẳng nhúc nhích, đành phải im lặng ngồi đó không dám lên tiếng, chờ Trường Canh một hơi khóc hết những tủi hờn hơn chục năm qua.

Song chỉ sợ là mệnh tân hoàng không tốt, khóc một trận cũng chẳng thể tận hứng, không đợi y khóc đến kiệt sức, bên ngoài đã vang lên một tiếng pháo nổ, cả soái trướng trung quân rung mạnh.

Kế đó là tiếng cánh ưng khổng lồ lướt qua không trung từ xa dần lại gần, Trường Canh chỉ kịp quay người đi, một lính truyền lệnh ưng giáp đã xông vào: "Đại soái, hàng rào sắt đã bị phá, người Tây Dương vào vòng vây rồi!"

Đầu ngón tay Cố Quân còn dính nước mắt Trường Canh, y thản nhiên nắm chặt ngón tay ấy, bình tĩnh gật đầu: "Biết rồi, cứ ngăn chặn theo kế hoạch là được."

Lính truyền lệnh mũi chân chạm đất giây lát lại quay người bay ngay đi.

Trường Canh lúc này mới quay sang nhìn y, nước mắt trên mặt chưa khô, trông rất tủi thân, Cố Quân không chịu nổi vẻ mặt này nhất, đương trường tước vũ khí đầu hàng, ôn nhu dỗ dành: "Trường Canh tới đây, để ta lau nước mắt cho ngươi."

Trường Canh: "Lời ngon tiếng ngọt của ngươi đâu?"

Cố Quân thản nhiên thở dài, biết điều hạ giọng thấp hơn: "Tâm can lại đây, ta liếm sạch nước mắt cho ngươi."

Trường Canh: "..."

Y nhất thời tức đến không thốt nên lời.

Nhưng chỉ thoáng ngây người, Cố Quân lại cật lực vịn mép giường bò dậy, hông Cố Quân cơ hồ không thể chịu được lực, lúc dậy tấm thép giữa hai chân nặng nề đập trúng mép sập, gân cổ từ dưới băng vải chỗ cổ áo lồi hẳn lên, mái tóc rối tung lướt qua đầu vai, xuyên qua sợi dây đeo kính lưu ly.

Trường Canh: "Ngươi làm gì thế!"

Y tiến lên một bước, muốn đè Cố Quân xuống, Cố Quân lại thuận thế ôm chầm y vào lòng.

Cố Quân vừa cử động thì thái dương đã rịn một lớp mồ hôi lạnh, sức nặng của quá nửa thân thể đè lên Trường Canh, hô hấp hơi dồn dập, tấm thép cấn người đặc biệt vướng víu chặn giữa hai người. Y chậm rãi thở ra, nhẹ nhàng nhắm mắt lại, vuốt ve sống lưng căng cứng của Trường Canh, thấp giọng nói: "Cho ta ôm một lúc đi, ta nhớ ngươi lắm! Sau đó ngươi đánh ta không đánh trả, ngươi mắng ta không mắng lại, được không?"

Trường Canh vừa bình tĩnh chỉ chớp mắt lại hơi cay mũi, không thể khống chế ôm hông Cố Quân, cảm giác vạt áo dư ra tuyệt không chỉ ngắn bớt một đoạn kẹp trong thư: "Ta..."

Mới nói một chữ thì tiếng y đã nhanh chóng chìm trong một tràng lửa đạn điên cuồng, lại lần nữa bị cắt ngang.

Cố Quân hơi nghiêng mặt đi, hôn mặt y một cái, vậy mà thật sự nói chuyện giữ lời, xuôi dòng nước mắt đi xuống, cuối cùng dừng lại trên đôi môi có vị nước mắt. Môi Trường Canh liên tục run rẩy, chẳng biết là đau là giận hay là kích động, Cố Quân dừng lại, đầu lưỡi nạy mở môi y ra.

Tay Trường Canh đang đỡ thắt lưng Cố Quân bỗng siết chặt-

Tiếc rằng còn chưa nếm được vị ngọt thì bên ngoài lại có một tiếng ưng kêu chói tai đến mức dở điếc cũng nghe thấy.

Trường Canh: "..."

Có thôi đi không!

Hai quân đối trận, từng ấy tinh binh lương tướng, danh tướng lứa mới của cả Đại Lương cơ hồ đều tụ tập trong một trận chiến, mà đám khốn nạn này nhất định phải chuyện gì cũng đến soái trướng xin chỉ thị à?

Vào lúc thế này, bệ hạ lại chẳng mảy may suy xét y ở giữa lửa đạn vang trời túm chủ soái tứ cảnh khóc lóc làm mình làm mẩy mà yêu đương vụng trộm có gì là không đúng.

Huyền ưng lao vào: "Đại soái, quân Tây Dương thấy tình thế không ổn, đang chuẩn bị chạy rồi! Thẩm tướng quân đã dùng hải ô tặc tiệt chủ hạm quân địch, Hà tướng quân hỏi huyền ưng khi nào sẽ xuất động với số lượng lớn?"

Cố Quân lau nhẹ khóe môi: "Đợi thêm lúc nữa, chờ tới khi chủ hạm của họ thả ra đòn sát thủ."

Huyền ưng vội đáp một tiếng, quay người lao vút đi.

Còn lại hai người hơi xấu hổ nhìn nhau, trống ngực của Trường Canh vẫn chưa yên, bất đắc dĩ cực kỳ, y đành phải nở nụ cười nửa chua nửa chát.

Y nửa bế nửa đỡ Cố Quân lên sập, kéo chăn đắp cho, lấy đoạn vải Cố Quân gửi cho mình từ trong lòng ra, lại lấy kim chỉ cất trong hà bao – màu chỉ đều hợp với bố y màu xanh kia, hiển nhiên là có chuẩn bị mà đến. Y kéo đai lưng của Cố Quân, cẩn thận lật xem, quả nhiên một đầu bị xé một cách thô lỗ, đầu sợi xù ra, rách bươm.

Trường Canh bất đắc dĩ hỏi: "Đại soái mỗi ngày chỉ mặc quần áo rách rưới kiểu này đi khắp nơi à?"

"Không phải," Cố Quân híp mắt cẩn thận đọc thần ngữ của y, thấp giọng cười nói, "Hôm nay trùng hợp mặc bộ này, đại khái là lúc nằm mơ tâm linh tương thông, biết hôm nay có bệ hạ đích thân tới vá quần áo cho."

Động tác trên tay Trường Canh khựng lại, song không đợi y ngước lên nhìn biểu cảm của Cố Quân, một bàn tay đã đặt trên mặt, ngón tay ôn nhu trượt từ cằm sang tai y: "Có khổ không?"

Trường Canh mau chóng chớp mắt một cái, cảm giác sự đau đớn ban nãy quá kịch liệt, hôm nay e rằng hốc mắt phải vỡ đê, người nọ nói ba chữ mà suýt nữa làm y trào nước mắt: "Ngươi có đau không?"

Y cho rằng Cố Quân sẽ không trả lời, ai ngờ sau khi im lặng một lát, Cố Quân lại thản nhiên nói: "Đau vô cùng, thường xuyên ngủ không yên."

Trường Canh run tay, bị kim đâm một phát.

Cố Quân lại nói: "Không đau như lúc nhìn thấy ngươi khóc, ta có thể gặp ác mộng cả đời."

Trường Canh: "..."

Y từ nhỏ đã chẳng phân ra câu nào của Cố Quân là lời thật lòng không chút để ý, câu nào là đang nghiêm túc dỗ dành y, vì thế đành nhất loạt coi là thật, bị dăm ba câu làm nhũn ra.

Cố Quân: "Ô Nhĩ Cốt đi không ít rồi đúng không? Trần cô nương chăm sóc ngươi không tệ – Cuộc chiến này sẽ không xảy ra bất trắc, lần này quân địch khuynh sào xuất động chạy vào vòng mai phục của chúng ta, một khi vào rọ, sẽ có rất nhiều hải ô tặc chĩa vào chủ hạm của họ, chủ hạm kia có một nhược điểm trí mạng, chính là lúc gặp nguy cơ không đủ tính cơ động, Giáo hoàng Tây Dương bị ép đến đường cùng, sẽ..."

Y còn chưa dứt lời thì đã bị một trận nổ đất rung núi chuyển cắt ngang, tuy nghe không đặc biệt rõ lắm nhưng Cố Quân cảm giác được giường rung, y thủng thỉnh nở nụ cười, lẳng lặng đợi chừng một khắc, trận rung kia dần dần bình ổn, bấy giờ mới tiếp tục: "Sẽ mở hết trọng pháo giấu dưới mai rùa chủ hạm, muốn dùng sức mạnh lao ra. Trên chủ hạm Tây Dương chở theo rất nhiều tử lưu kim và đạn dược, song khi lâm trận rất ít lộ ra hình dáng, chúng ta đã phân tích rất lâu từ rất nhiều góc độ, phỏng đoán thứ nhất là bởi vì không kham nổi tiêu hao, thứ hai là do chủ hạm một khi đi vào chiến đấu, sẽ lập tức không cách nào kiêm cố cả đội chiến hạm hải giao phụ thuộc vào nó-"

Huyền ưng đáp xuống, trình phong chiến báo thứ ba: "Đại soái, Tây Dương quả thật dần dần có vấn đề kia, Thẩm tướng quân đã nhân loạn bọc đánh, ban nãy trong hỗn loạn thủy quân Tây Dương mất trật tự, chìm hết gần nửa! Huyền ưng đã chuẩn bị truy kích..."

Hắn còn chưa dứt lời thì một tiếng ưng kêu gần như đinh tai nhức óc lướt qua trường thiên mà đến, đó là âm thanh khi mấy vạn sát thủ không trung đón gió sải cánh.

Cố Quân quay sang Trường Canh: "Bệ hạ, ngài muốn đi xem... quân ta giành lại Giang Nam như thế nào chứ?"

Khi y phân tích cặn kẽ mà nói những lời này, y phảng phất không phải một bệnh nhân chỉ có thể nằm trên giường bệnh, lại thành Đại tướng quân một mình xông vào đám phản quân Ngụy vương, lực áp chư phỉ Tây Nam, bình Tây định Bắc, dẹp yên Giang Nam.

Trường Canh nghiêm mặt trả lời: "Đại tướng quân ta nhất ngôn cửu đỉnh, bách chiến bách thắng."

Trú địa Lưỡng Giang vậy mà có một cỗ hồng đầu diên phòng ngự cấp bậc rất cao, Trường Canh dìu Cố Quân lên, hồng đầu diên chầm chậm bay lên từ soái trướng, hướng thiên lý nhãn xuống có thể thu hết chiến trường vào mắt – biển xanh dậy sóng, thiết hạm như giao, hoành hành nhập hải, bát phương khói lửa...

Hải quân Tây Dương ngoan cố chống cự hơn hai canh giờ, rốt cuộc không thể tiếp tục được nữa, chủ hạm thủng lỗ chỗ cuốn chiến hạm tan tác lên hốt hoảng chạy về hướng biển Đông Doanh.

Ba lộ thủy quân Đại Lương đuổi theo không tha, phớt lờ lời đồn đãi nhảm nhí "thủy quân Đại Lương đánh không được viễn hải chiến", ròng rã một đêm, ngang nhiên xâm nhập hải vực Đông Doanh.

Cố Quân cầm cự qua cả trận chiến mỉm cười.

Đông Doanh, là trạm cuối cùng.

Quân Tây Dương vừa rút lui vừa gửi liền bốn lá thư thỉnh cầu chi viện cho Đông Doanh, mà ngay sau khi họ bị thủy quân Đại Lương bám riết không tha đuổi vào hải vực Đông Doanh, người Tây Dương kinh ngạc phát hiện một đội chiến hạm hải giao Đông Doanh chỉnh túc chặn trước mặt – số hải giao đó còn là năm xưa họ đưa đến cho đám giặc Oa này!

Song phương mau chóng tới gần nhau, quân Tây Dương vẫy tín hiệu cờ sắp rơi xuống nước, song "quân bạn" không hề phản ứng, chỉ truyền đến một tiếng hiệu lệnh khàn khàn ngân nga-

Chiến hạm Đông Doanh nhắm thẳng tất cả nòng pháo vào minh hữu dốc sức bồi dưỡng ngày xưa.

"Uỳnh"-

Trên biển sinh ra một vòng tà dương đỏ như máu, dường như là một kết thúc cho loạn thế lắng bụi.

Trong hỏa hoa bùng lên nơi viễn hải, Cố Quân khẽ nở nụ cười, y gắng gượng hết toàn bộ hành trình, thân thể thật sự hơi cạn kiệt, mệt mỏi đến mức tựa hồ nằm xuống là ngủ ngay. Trường Canh lại chợt cúi người xuống, nâng cằm y lên hỏi: "Ngươi nói có một tư nguyện, phong thư trước viết không được, lần sau sẽ cho ta biết, là gì vậy?"

Cố Quân bật cười.

Trường Canh không buông tha: "Rốt cuộc là cái gì?"

Cố Quân kéo y lại, ghé tai y nói nhỏ: "Cho ngươi... trọn đời đến già."

Trường Canh hít sâu một hơi, một lúc lâu mới bình tĩnh lại: "Là ngươi nói đấy, Đại tướng quân nhất ngôn cửu đỉnh..."

Cố Quân tiếp lời: "Bách chiến bách thắng."

Năm Long An thứ mười, mùng bốn tháng Ba, từ thăm dò lẫn nhau, quyết chiến đến cuối cùng Đông Doanh lâm trận phản chiến, đánh trọn một ngày một đêm, thủy quân Tây Dương chiếm vùng Đông Hải mấy năm đã tan tác.

Cố Quân hoàn thành sứ mệnh, bị tân hoàng lôi về kinh thành tĩnh dưỡng.

Mười sáu ngày sau, ray xe lửa chính thức nối liền, mệnh mạch lớn xuyên suốt nam bắc khánh thành, hàng loạt cương giáp hỏa cơ tử lưu kim có thể lập tức chờ về Nam. Trú quân Lưỡng Giang nhanh chóng thành lập căn cứ trên thủy, lục quân do Thẩm Dịch tổng điều hành, quét sạch trú quân Tây Dương chiếm đóng nửa giang sơn phía Nam.

Trú quân Tây Dương không còn thủy quân hùng mạnh và chi viện trong nước như lá rụng bị gió thu cuốn sạch, chiến tuyến yếu ớt tan tác ngàn dặm. Chiến tranh lục địa giằng co gần hai tháng nữa, đến đầu tháng Năm, liên quân Tây Dương chính thức đầu hàng, hàng loạt tù binh bị cầm tù ở Đại Lương, kể cả bản thân Giáo hoàng.

Vì thể diện, thánh địa không thể không phái người đàm phán nghị hòa, kết thúc bằng một tờ hiệp nghị bồi thường chiến tranh, một tay giao người một tay giao tiền.

Đến đây thì nửa giang sơn phía Nam đã tan hết mây đen, năm qua năm, Giang Nam lại thoang thoảng mùi hoa quế mới trồng.

Nghe nói Giáo hoàng gần đất xa trời mất trên đường quay về cố thổ, không biết là tử vong tự nhiên hay là bị ám sát – song đều đã không còn quan trọng.

Lý Mân từng là Nhạn thân vương chính thức đăng cơ, dự tính năm sau đổi thành "Thái Thủy".

Vừa đăng cơ, tân hoàng liền hạ chỉ lệnh con cái tiên đế không cần dọn khỏi cung, không thay đổi trữ quân, không thu quân quyền, Huyền Thiết hổ phù vẫn nằm trong tay Cố Quân, cùng y tọa trấn kinh thành, tùy thời điều phối quyền lực tứ cảnh, đồng thời, Huyền Thiết tam bộ ngày xưa chia ra sắp xếp vào trú quân các nơi, một nhóm tướng dũng mãnh lớn dần trong chiến hỏa tiếp nhận di huấn của người đi trước mà trú thủ tứ phương.

Thái Thủy tại vị mười tám năm, thủy chung tự xưng là "Quyền Hoàng đế", tự mình ban hành một loạt hiến lệnh, hạn chế từ vị "Quyền Hoàng đế" là mình đến bá quan văn võ thậm chí bá tính thiên hạ, là bộ phạm chế quyền trách bình đẳng, hòng thường xuyên tự xét lại mình. (Chữ quyền ở đây tức là chỉ tạm giữ chức Hoàng đế thay Lý Phong để chờ Thái tử lớn lên)

Một cuộc cải cách oanh oanh liệt liệt xua tan căn bệnh trầm kha và sương mù suốt hơn một ngàn năm chậm rãi được thi hành.

Kết thúc của một thời đại, luôn là khởi điểm của một thời đại khác.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com