Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

LocDinhKy5

Hồi 223

HOạT QUốC BảO ĐI ĐÂU MấT BIếN

Công chúa hỏi:

- Nếu Hoàng đế ca ca phái ngươi đổ nước tiểu, quét chuồng ngựa

thì sao?

Vi Tiểu Bảo tức giận đáp:

- Ta cũng chịu, nhưng hàng ngày phái nàng làm thay.

Công chúa thấy gã nổi nóng không dám nói nữa.

Mộc Kiếm Bình giục:

- Thuyên tỷ tỷ! Thuyên tỷ tỷ nói mau đi! Tiểu Bảo nổi nóng rồi.

Tô Thuyên trầm ngâm đáp:

- Hoàng đế phái ngươi làm gì ta không thể biết được, nhưng ta đoán rằng

Hoàng đế có một ngày kia sẽ kêu ngươi trở về Bắc Kinh. Hoàng đế bắt ngươi đầu

hàng và phải chịu đi trừ diệt Thiên Địa Hội. Còn ngày nào ngươi chưa chịu là

ngươi phải chịu đau khổ ngày ấy. Tiểu Bảo! Ngươi muốn làm anh hùng hào kiệt thì

phải giữ vẹn lòng nghĩa khí với bạn hữu. Đó là một điều đau khổ ngươi phải chịu

đựng. Nếu làm anh hùng hào kiệt mà chỉ phải nghe những câu hát Thập bát mô thì

ra làm anh hùng dễ lắm hay sao?

Vi Tiểu Bảo nghe mụ nói có lý liền đứng dậy cười hỏi:

- Ta vừa làm anh hùng, vừa hát khúc Thập bát mô, được không?

Gã nói rồi cất tiếng hát:

- "Một ta sờ... hai ta sờ... sờ đến đầu tóc của Thuyên tỷ tỷ"

Gã vừa hát vừa vươn tay sờ đầu Tô Thuyên.

Mọi người đều bật tiếng cười khúc khích. Thế là trận phong ba tiêu tan mất.

Từ đó trở đi hết ngày này qua ngày khác, hết năm này qua năm khác, Vi Tiểu

Bảo cùng thất nữ tiếp tục ở trên đảo Thông Cật.

Hằng năm cứ đến tháng chạp, Vua Khang Hy lại phái người ra ban thưởng. Vi

Tiểu Bảo được thưởng một bộ xúc xắc bằng thủy tinh, một cỗ bài cẩu bằng ngọc

phỉ thúy, cùng bao nhiêu đồ để đánh bạc khảm ngọc dát vàng, kể không xiết

được.

May ở chỗ trên đảo Thông Cật có thêm năm trăm quan binh, Vi Tiểu Bảo

chẳng thiếu gì đối thủ về cờ bạc, nên gã tiếp tục cuộc đời trên đảo không đến

nỗi tẻ nhạt.

Một năm Tôn Tư Khắc đem chỉ dụ của nhà Vua ra. Vi Tiểu Bảo thấy hắn đội

mũ có dính viên Hồng Bảo thạch mà lại mặc sắc phục của võ quan vào hàng nhất

phẩm, biết là hắn đã được thăng chức Đề đốc, gã liền nhìn hắn chúc mừng:

- Tôn tứ ca! Cung hỷ Tứ ca lại được thăng quan.

Tôn Tư Khắc hớn hở tươi cười dâng lời thỉnh an, đáp:

- Đây đều là ơn điển của Hoàng thượng mà cũng là sự tài bồi của Vi Tước

gia.

Hắn mở thánh chỉ ra tuyên đọc. Nguyên đạo chỉ này nói về triều đình bình

định tam phiên. Bình Tây Vương Ngô Tam Quế ở Vân Nam, Bình Nam Vương Thượng

Chỉ Tín ở Quảng Đông, Tinh Nam Vương Cảnh Tinh Trung ở Phúc Kiến lần lượt bị

đánh dẹp.

Nhà Vua luận công phong thưởng, Nhị đẳng Thông Cật Bá là Vi Tiểu Bảo có

công tiến cử đại tướng làm nên việc lớn, cũng được thăng chức lên Nhất đẳng

Thông Cật Bá. Trưởng tử là Vi Hổ Đầu được tập ấm làm Vân Kỵ úy.

Vi Tiểu Bảo tạ ơn xong thu lấy những đồ vật mà nhà Vua ban thưởng. Trong

món này có cả tấm bình phong bằng đá Đại lý. Chính là tấm bình phong mà Vi

Tiểu Bảo đã thấy Ngô Tam Quế đặt ở Ngũ Hoa cung. Nó là một trong Tam bảo của

Ngô Tam Quế.

Bọn Trương Dũng, Triệu Lương Đống, Vương Tiến Bảo, Tôn Tư Khắc cũng

đều được ban đồ lễ rất hậu.

Tối hôm ấy, Vi Tiểu Bảo thiết tiệc, Tôn Tư Khắc nhân lúc ăn tiệc kể lại công

cuộc bình định Ngô Tam Quế.Trương Dũng lập được nhiều công lớn trong những trận đánh tan đại quân

của Ngô Tam Quế ở miền Cam Túc, Ninh Hạ đã được phong Nhất Đẳng Hầu, gia

chức Thiếu phó, kiêm Thái tử thái bảo. Quan tước của hắn cao hơn Vi Tiểu Bảo

nhiều.

Tôn Tư Khắc lại nói:

- Ngày trước Trương Hầu Gia bị Quy Tân Thụ đánh một chưởng, thuỷ chung

không bình phục được. Hầu gia chẳng thể cưỡi ngựa mà cũng không đứng vững. Khi

lâm trận, Hầu gia ngồi trong kiệu chỉ huy ba quân.

Vi Tiểu Bảo tấm tắc khen là chuyện kỳ rồi nói:

- Những phu khiêng ngựa kiệu phải là những tay dũng sĩ mới được. Nếu không

lúc Trương lão ca hô xung phong, bốn tên kiệu phu khiêng chạy lùi lại thì thật

hỏng bét.

Tôn Tư Khắc đáp:

- Đúng thế! Trương hầu gia lâm trận, sau kiệu phải có đao phủ thủ đi theo

đề phòng khi bọn kiệu phu muốn lùi lại là bị chém liền.

Tôn Tư Khắc lại kể cả việc Triệu Lương Đống lấy Dương Bình Quan, bình

định Hán Trung, chiếm cứ Thành Đô, đánh xuống Côn Minh. Hầu gia lập nhiều công

lớn nên Hoàng thượng phong y làm Dũng lược tướng quân, kiêm tổng đốc Vân

Quí, gia hàm Binh bộ thượng thư.

Vương Tiến Bảo cùng hắn vì ra sức đánh giặc mà được thăng chức lên Đề

đốc.

Vi Tiểu Bảo thấy hắn mặt mày hớn hở, mà gã không gặp cơ hội thịnh vượng,

nên lộ vẻ buồn phiền. Có điều bốn người hảo bằng hữu của gã đều lập được đại

công, phong quan lớn, gã cũng nức lòng nở dạ cho đồng bạn.

Tôn Tư Khắc nói:

- Bọn thuộc hạ thường nói với nhau: Mấy năm nay được đi đánh trận thật là

khoan khoái! Uống nước nhớ nguồn. Đây là nhờ ơn tri ngộ của Hoàng thượng, cùng

đức tiến cử của Vi Tước gia...

Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:- Giả tỷ Vi Tước gia làm Bình Tây Đại nguyên soái dẫn người bọn thuộc hạ đi

đánh Ngô Tam Quế thì hay biết chừng nào!

Hắn lại kể:

- Triệu nhị ca và Vương tam ca hai người thường gây lộn với nhau, có khi cả ở

trước mặt Hoàng thượng, Trương đại ca cũng không dẹp nổi. Hoàng thượng mấy lần

đã nhắc tới Vi tước gia. Ngài phán bảo họ gây lộn thế này thì có điều không phải

với Vi tước gia. Hai người mới thôi không dám gây gổ nữa.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười hỏi:

- Hai vị đó hễ thấy mặt nhau là gây lộn. Nhưng sao đã làm đến Đại tướng

quân mà tính nết cũng không thay đổi?

Tôn Tư Khắc đáp:

- Thế mới thành chuyện. Hai vị còn làm tấu chương kể tội nhau nữa. May mà

được Hoàng thượng khoan hồng đại độ, nhất thiết bỏ đi không xét. Nếu không thì

e cả hai đều bị cách chức rồi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Tình trạng của lão tiểu tử Ngô Tam Quế ra làm sao? Tôn tứ ca có nắm bím

tóc mà đá vào đít con mẹ nó mấy cước không?

Tôn Tư Khắc lắc đầu đáp:

- Lão tiểu tử đó hên vận lắm...!

Vi Tiểu Bảo kinh hãi hỏi:

- Hắn trốn thoát rồi ư?

Không phải đâu. Hắn đi đến thất bại đến đấy. Những đất chiếm được cũng bị

mất hết. Hắn nhận ra không chống được nữa liền làm Hoàng đế cho thỏa chí bình

sinh trước khi lâm tử. Hắn liền mặc áo Hoàng bào lên ngôi Đại bảo, đóng đô ở

Hành Châu. Bọn thuộc hạ nghe nói hắn lên làm Hoàng đế liền vào đánh một trận

nhừ đòn. Hắn vừa tức giận vừa kinh hãi rồi lìa bỏ cõi đời.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Té ra là thế! Nếu vậy thì thật phước cho lão tiểu tử.Tôn Tư Khắc nói:

- Ngô nghịch chết rồi, bọn thuộc hạ cùng chư tướng của hắn liền lập cháu là

Ngô Thế Phiên lên kế vị, chạy lui về đóng ở Côn Minh.

Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:

- Triệu nhị ca đánh tới Côn Minh bắt bọn thuộc hạ của hắn là Đại tướng Hạ

Quốc Tương, Mã Bảo chém đầu. Ngô Thế Phiên cũng tự sát. Thế là thiên hạ thái

bình.

Vi Tiểu Bảo nói:

- ở Côn Minh có một món quốc bảo, không hiểu ra sao?

Tôn Tư Khắc hỏi lại:

- Món quốc bảo gì? Thuộc hạ không nghe ai nói tới.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Đây là một món quốc bảo sống động, một mỹ nhân đệ nhất thiên hạ tên

gọi Trần Viên Viên.

Tôn Tư Khắc nói:

- Té ra là Trần Viên Viên. Thuộc hạ không hiểu nàng lạc lõng nơi đâu, nàng

chết trong đấm loạn quân hay trốn đi rồi?

Vi Tiểu Bảo la lên:

- Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc!

Gã nghĩ bụng:

- A Kha là vợ ta thì Trần Viên Viên là nhạc mẫu đại nhân chính thức. Triệu nhị

ca mà bắt được bà, y biết bà là nhạc mẫu của ta, dĩ nhiên đưa đến Thông Cật

đảo để hai mẹ con được đoàn tụ. Mẹ con nàng đoàn tụ hay không đoàn tụ ta

cũng chẳng cần, nhưng nhạc mẫu và nữ tế đoàn tụ mới là tuyệt diệu. ta chưa cần

nói đến chuyện gì khác. Nguyên một việc được nghe bà gẩy đàn tỳ bà, hát khúc

Viên Viên đã là hay lắm rồi! Trượng mẫu nương ở đảo Thông Cật mà không ăn

được, nhưng nữ tế nhìn trượng mẫu phải đếm chảy nước miếng là cái chắc.A Kha nghe nói mẫu thân không hiểu lạc lõng nơi đâu, tuy cô bị Cửu Nạn bắt

trộm đem đi từ ngày còn nhỏ, không ở bên mẫu thân, nhưng dù sao cũng mẫu nữ

thâm tình, vẻ thương tâm lộ ra ngoài mặt.

Vi Tiểu Bảo khuyên cô bất tất phải lo âu. Gã còn nói bất luận mẫu thân cô

đi tới đâu, Bách thắng đao vương Hồ Dật Chi cũng theo kè kè bên cạnh, không

dời nửa bước.

Gã nói:

- A Kha! Hồ đại ca võ công rất cao thâm, nàng đã được mắt thấy rồi đấy. Y

bảo vệ một mình lệnh đường là việc dễ như trở bàn tay.

A Kha cho là gã nói có lý nên cũng bớt nỗi bi ai.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên vỗ bàn la:

- Trời ơi! Hỏng rồi!

A Kha kinh hãi hỏi:

- Điều chi? Ngươi bảo mẫu thân ta gặp nguy hiểm rồi chăng?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bà chẳng có chuyện gì nguy hiểm mà là một chuyện đại nguy hiểm cho ta.

Hồ đại ca đã cùng ta tám lạy kết giao thành một đôi nghĩa huynh nghĩa đệ. Nếu y

gặp chỗ vắng vẻ hoang lương tất cùng mẫu thân nàng làm chuyện nọ chuyện kia thì

ra y trở nên nhạc phụ của ta hay sao? Trường hợp này khiến cho vai vế thành rối

bét.

A Kha bĩu môi lườm gã nói:

- Hồ bá bá... à quên, Hồ đại ca là con người thành thực, mực thước, ngươi

tưởng bao nhiêu đàn ông trong thiên hạ đều giống ngươi, hễ thấy đàn bà là ôm

đại lấy rồi làm chuyện nọ chuyện kia cả hay sao?

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Lại đây! Chúng ta ôm nhau một lúc.

Gã nói rồi giang tay, ôm lấy A Kha.Vi Tiểu Bảo sau khi được thăng chức Nhất đẳng Thông Cật bá, bọn nhà bếp,

nam bộc, nữ tỳ cũng thêm lên mấy chục người. Trên đảo thành ra náo nhiệt.

Vi Hổ Đầu còn nằm trong cái nôi, bú sữa mẹ đã được phong tước Vân kỵ úy.

Cách sinh hoạt trên hoang đảo ăn toàn ngọc thực, mặc toàn gấm vóc lụa là,

thật là vinh hoa phú quý! Có điều cuộc sống an nhàn bình thản quá cũng chẳng

lấy làm chi thú vị.

Vi Tiểu Bảo nghĩ trăm phương nghìn kế để gây chuyện động trời cho thành

những vụ cổ quái. Gã cho là nếu không làm việc hoang đường thì còn chi là sinh

thú?

Nhưng bảy vị phu nhân người nào cũng nghiêm cẩn, ngày đêm quản cố gã. Cả

Công chúa nguyên là con người ngang ngược nhất cũng không chịu theo gã gây

chuyện sóng gió. Thế là Nhất đẳng Thông Cật bá như người bị cột hết tay chân,

chỉ còn đường thở ngắn than dài.

Vi Tiểu Bảo đã được nghe Vương Tiến Bảo kể chuyện đánh Ngô Tam Quế từ

trận lớn cho chí trận nhỏ. Khi thì muôn vàn gian nan, khi thì khoái trá mê ly. Gã

tiếc mình không được dự vào những trận đó để phô trương tài nghệ.

Gã tự nhủ:

- Nếu mình cũng hiện diện ở các nơi chiến trận thì nhất quyết không để Ngô

Tam Quế chết một cách dễ dàng cho hết chuyện, mà phải nghĩ cách bắt sống hắn

bỏ vào tù xa đưa qua đường Hồ Nam Hành Châu lên tới Bắc Kinh.

Gã tự nhủ:

- Trong khi đó ta lập ra một thể lệ: Ai muốn coi mặt Ngô Tam Quế phải trả

năm đồng. Muốn nhổ bọt vào mặt hắn thì lấy một lạng. Trẻ con giảm phần nửa. Mỹ

nữ coi miễn phí. Bách tính trong thiên hạ đều căm hận tên Hán gian này thấu

xương, mà Vi Tiểu Bảo được xài không hết tiền.

Gã nghĩ tới bảy vị phu nhân, hai cậu trai, một cô gái luôn luôn theo sát bên

mình thì chẳng khác gì phải đeo mười khối đá lớn trên đầu trên cổ.Gã tính rằng muốn đem tất cả đi rời khỏi Thông Cật đảo, thật khó khăn vô

cùng. Chi bằng bỏ hết mười người kia lại, nghĩ cách chuồn đi một mình có phần dễ

dàng hơn.

Vi Tiểu Bảo tiễn chân Vương Tiến Bảo trở về rồi, ngày nào gã cũng băn

khoăn lo nghĩ về chủ ý mình.

Một hôm Vi Tiểu Bảo ngồi trên tảng đá lớn buông câu tưởng tượng ra mình

cưỡi trên lưng một con rùa lớn chạy ra biển cả, lướt sóng mà đi về thẳng tới Trung

Nguyên là một cảnh khoan khoái nhất.

Ngày đã gần tới tiết Trung thu, nhưng khí trời vẫn nóng bức.

Vi Tiểu Bảo cầu cá một lúc rồi trong lòng buồn bực, ngồi tựa phiến đá sắp

đi vào giấc ngủ triền miên, đột nhiên gã nghe có tiếng gọi:

- Khải bẩm Vi tước gia! Đức Đông Hải long vương muốn triệu thỉnh tước gia.

Vi Tiểu Bảo rất lấy làm kỳ ngưng thần nhìn ra thì thấy trên mặt biển nổi lập lờ

một con rùa lớn. Nó cất đầu nghển cổ miệng nói tiếng người.

Con rùa nói tiếp:

- Đông Hải long vương ở Thủy tinh cung rất tịch mịch quạnh hiu, nên sai tiểu

tướng lên cung thỉnh tước gia phó yến. Sau yến tiệc sẽ mở một canh bạc lớn,

Long vương có san hô, có của báu. Những ngân phiếu trên mặt đất cũng thông

dụng được.

Vi Tiểu Bảo cả mừng reo lên:

- Diệu tuyệt! Thật là tuyệt diệu! Ông bạn hàng xóm lịch sự quá, dĩ nhiên bản

tước phải xuống bồi tiếp.

Con rùa nói:

- Dưới cung Thủy tinh có một bộ Côn khúc ban tử, Mạc Lăng Luận, Phong

cảnh ngộ, Đào hoa phiến và những ban hát rất mới mẻ. Dưới đó cũng có thầy đồ

kể Anh liệt truyện nhà Đại Minh, truyện Thủy Hử và rất nhiều sách.

Nó ngừng lại một chút rồi tiếp:- Lại chẳng thiếu những ả ca nữ hát đủ các lối hát vặn như Thán ngũ canh,

Thập bát mô, Tứ quý tương tư chẳng thiếu thứ gì. Đông Hải Long vương có bảy vị

Công chúa, cô nào cũng nguyệt thẹn hoa nhường và vẫn hâm mộ Vi tước gia là

một nhân vật phong lưu lanh lợi, mong được hội diện.

Vi Tiểu Bảo khác nào gãi trúng chỗ ngứa, nức nở khen ngợi:

- Hay quá! Hay quá! Vậy chúng ta đi ngay.

Con rùa lớn lại nói:

- Vậy mời Tước gia ngồi lên lưng tiểu tướng để xuống Thủy tinh cung.

Vi Tiểu Bảo tung mình nhảy vọt ra ngồi lên lưng rùa.

Con rùa rẽ sóng yên ổn đưa gã xuống Thủy Tinh cung.

Đông Hải Long vương ra tận ngoài cung nghênh tiếp, dắt tay gã vào cung.

Nam Hải Long vương đã chờ hắn ở đây rồi.

Trong lúc yến tiệc vui vẻ, lại có tân khách nhộn nhịp tới nơi. Trong đám này

Trư Bát Giới và Ngưu Ma Vương là hai con yêu tinh.

Trương Phi, Lý Đạt, Ngưu Niết, Trình Giảo Kim là bốn vị Đại tướng.

Trụ Vương, Sở Bá Vương, Tùy Dạng Đế, Minh Chính Đức là bốn vị Hoàng đế.

Bốn vị Hoàng đế, bốn Tướng, một Trư, một Ngưu, nhị Long là bốn vị thần mà

từ xưa tới nay họ len lỏi cả trên trời dưới đất và là những nhân vật rất hồ đồ.

Lúc đánh bạc, Vi Tiểu Bảo làm cái, luôn luôn dở thói tệ nhũng. Ván nào gã

cũng móc được Chí Tôn Bảo, không thì một đôi Thiên.

Mười hai người thua bạc thét len be be. Kim ngân tài bảo hết sạch sành

sanh. Sau cùng Trụ Vương đưa Đắc Kỷ ra đặt cuộc, Minh Chính Đức đặt cuộc

bằng Lý Phụng Cơ, Sở Bá Vương bằng ngựa Ô Truy, Trương Phi bằng thanh Bát

xà mâu cũng bị thua hết.

Đến lúc Lý Đạt đặt cửa bằng hai cây búa cũng bị thua, nhưng hắn là người

xấu chơi. Bộ mặt đen sì ửng đỏ lên lớn tiếng quát:- Quân chó đẻ! Người ta thu nhặt những cái gì tốt đẹp. Ngươi được vợ con

ngươi ta cũng chẳng hề chi, nhưng cả cái cần câu cơm của lão gia ngươi cũng lấy

mất thì chẳng còn chút nghĩa khí nào nữa.

Hắn nắm lấy ngực Vi Tiểu Bảo giơ lên rồi vung quyền đấm vào đánh binh một

tiếng, khiến cho gã chấn động màng tai, chỉ nghe những tiếng vo vo.

Vi Tiểu Bảo thét lên một tiếng. Hai tay gã nhấc bổng cần câu bạt lên theo.

Dây câu rớt vào sau cổ gã. Gã giựt mạnh một cái, lưỡi câu móc vào thịt làm cho

gã giật bắn người.

Chỉ trong chớp mắt những Lý đạt, Trương Phi, Hải Long vương gì gì không

biết đi đâu hết.

Vi Tiểu Bảo tỉnh táo lại thì ra mình vừa ngủ mơ.

Lại nghe những tiếng đùng đùng vang lên. Thanh âm này phát ra ở trên mặt

biển.

Vi Tiểu Bảo ngẩng đầu nhìn ra tận đằng xa thấy trên mặt biển có đến mười

mấy thuyền lớn, đườn buồm thuận gió đang chạy tới đảo Thông Cật. Gã thấy tình

thế bất lợi toan vứt cần câu bỏ chạy, nhưng lưỡi câu đã móc vào sau gáy gã. Gã

đau nhói lên, trong lúc nhất thời không gỡ ra được liền co giò chạy ngay, kéo lê

thê cái cần câu ở phía sau.

Gã nghĩ bụng:

- Đây chắc là tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng dẫn quân ra trả nợ ta. Gã trả nợ là

hay lắm, nhưng thiếu nợ mà lúc tới nơi lại nổ súng, khí thế hung hãn thì chắc không

phải là điềm tốt.

Gã chưa chạy về đến cửa thì tham tướng họ Bành đã hốt hoảng chạy ra,

miệng lắp bắp:

- Vi... Vi tước gia!... Nguy to rồi!... Những binh thuyền của Đài Loan... đánh tới

nơi...

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Sao ngươi biết đó là binh thuyền của Đài Loan?

Bành tham tướng vừa thở vừa đáp:- Tỵ chức... vừa rồi đã dùng Thiên lý kính để nhìn ra, thấy đằng lái thuyền...

không... không phải, đầu thuyền vẽ một vừng thái dương và một vành nguyệt. Đó

là... huy hiệu của Trịnh... Trịnh tặc. Một con thuyền chứa năm trăm binh tướng, hai

thuyền chứa hai ngàn, ba thuyền đến bảy, tám ngàn...

Vi Tiểu Bảo đón lấy ống Thiên lý kính trong tay hắn dướn lên nhìn. Gã đếm

được mười ba con thuyền thật lớn, lại dòm kỹ đầu thuyền thì quả nhiên lờ mờ thấy

vẽ hình mặt trời và mặt trăng để làm huy hiệu.

Gã liền quát:

- Ngươi mau đem quân bố trí cuộc phòng thủ, canh giữ ở bờ biển. Hễ thấy

địch nhân ngồi mủng nhỏ lên bờ là ra lệnh cho bọn cung thủ phát xạ.

Bành tham tướng vâng dạ luôn miệng rồi chạy như bay.

Lúc này bọn Tô Thuyên đã được tin vội chạy ra.

Bỗng nghe những thuyền mới đến phát xạ "đoàng đoàng".

Công chúa hỏi A Kha:

- A Kha muội tử! khi muội tử về Đài Loan có đem theo Hổ Đầu đi không?

A Kha dậm chân tức giận hỏi lại:

- Lúc này mà tỷ tỷ!... còn nói giỡn được ư?

Vi Tiểu Bảo tức giận hơn cất tiếng thóa mạ:

- Để nàng Công chúa thối tha đem cả Song Song đi Đài Loan.

Song Nhi bỗng la lên:

- Ô hay! Đạn rớt xuống biển sao không xô đẩy thành những cây nước.

Lại nghe hai tiếng "đoàng đoàng" vang lên. Miệng súng khói đen mờ mịt,

nhưng súng không bắn lên đảo mà đạn cũng không rớt xuống nước.

Vi Tiểu Bảo ngơ ngác một chút rồi nổi tràng cười ha hả nói:

- Đây là pháo mừng chứ không phải để làm khó dễ chúng ta.

Công chúa nói:

- Chúng ta hãy dùng cách "tiên lễ hậu binh" để đối phó với họ.Vi Tiểu Bảo tức giận hỏi:

- Còn con nha đầu Song Song thì sao? Đem nó lại đây cho lão gia đét vào

đít nó.

Công chúa hỏi:

- Chẳng có chuyện gì sao lại muốn đánh con gái?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Ai bảo má má nó làm cho người ta chán ngấy!

Đoàn thuyền mỗi lúc một gần, dương thiên lý kính lên nhìn đã thấy rõ Hoàng

Long Kỳ của nhà Đại Thanh, chứ không phải Nhật Nguyệt Kỳ của Đài Loan.

Vi Tiểu Bảo vừa kinh ngạc vừa vui mừng, đưa Thiên lý kính cho Tô Thuyên nói:

- Tỷ tỷ! Tỷ tỷ hãy coi đi! Thế có kỳ không?

Tô Thuyên dòm một lúc rồi mỉm cười đáp:

- Đây là Thủy quân của nhà Đại Thanh, chứ không phải quân Đài Loan...

Vi Tiểu Bảo lại đón lấy ống kính nhìn ra, vừa cười vừa nói:

- Phải rồi! Đúng là thủy binh của nhà Đại Thanh. Trời ơi! Làm gì thế này? Con

mẹ nó đau quá!

Gã quay đầu lại thấy A Kha bồng Vi Hổ Đầu. Đứa nhỏ nắm lấy giây câu hết

sức kéo. Lưỡi câu còn móc vào da cổ Vi Tiểu Bảo, bấy giờ có người kéo làm cho

gã đau đớn.

A Kha nhìn cười tháo lưỡi câu ra nói:

- Xin lỗi Tiểu Bảo! Đừng bực mình nhé!

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Thẳng nhỏ này khôn quá. Bé thế mà đã có thủ đoạn của Khương Thái Công.

Công chúa hắng giọng một tiếng nói:

- Thật là đồ quỉ!

Bỗng thấy Bành tham tướng chạy đến la lên:- Vi Tước gia! Trên thuyền trương cờ hiệu nhà Đại Thanh. Ty chức e vụ này

có điều giả trá.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Đúng thế! Chỉ cho một mủng nhỏ đem người lên đảo để hỏi rõ rồi sẽ tính.

Bành tham tướng lĩnh mệnh rồi đi ngay.

Công chúa nói:

- Nhất định tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng xảo quyệt nêu cờ hiệu nhà Đại

Thanh, đoàn thuyền này đúng ở Đài Loan đến đây.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Càng tốt! Càng tốt! Công chúa! Dạo này dung nhan Công chúa xinh đẹp

quá.

Công chúa sửng sốt, nhưng được trượng phu khen mình đẹp cũng khoan

khoái, mỉm cười hỏi:

- Bao giờ cũng vậy. Đẹp gì mà đẹp?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Nàng mặt trắng môi hồng, lông mày cong vút, chẳng khác Hằng Nga giáng

thế. Trịnh Khắc Sảng ngó thấy tất phải điên đảo thần hồn.

Công chúa hừ một tiếng, quay đầu chạy di.

Chẳng bao lâu thuyền đã tới gần, hạ neo đình lại. Mười mấy tên Thủy binh

chèo hai cái mủng nhỏ vào bờ.

Bành tham tướng chỉ huy quân sĩ dương cung lắp tên nhằm vào con mủng nhỏ.

Khi mủng áp mạn, một người bắc loa hô:

- Thánh chỉ tới nơi! Quan Thủy sư đề đốc là Thi đại nhân đưa chỉ dụ đến cho

Vi tước gia.

Hồi 224

MắNG THI LANG Là ĐứA HáN GIAN

Vi Tiểu Bảo cả mừng lên tiếng chửi đổng:

- Con mẹ nó! Thằng cha Thi Lang làm gì mà kỳ vậy? Hắn ngồi chiến

thuyền của Đài Loan tới đây truyền chỉ là nghĩa làm sao?

Tô Thuyên đáp:

- Chắc Thi tướng quân gặp bọn Thủy quân của Đài Loan. Hai bên khởi cuộc

thủy chiến rồi y thắng trận và tịch thu chiến thuyền.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Đúng thế rồi! Thuyên tỷ tỷ liệu sự như thần.

Công chúa ra chiều không phục lên tiếng:

- Ta đoán chắc là Thi Lang đã đầu hàng Đài Loan. Trịnh Khắc Sảng phái hắn

đến giả truyền thánh chỉ.

Vi Tiểu Bảo nghe nàng nói vậy trong lòng hoan hỷ nên không thóa mạ nữa,

thò tay béo đít nàng một cái rồi lật đật chạy ra bãi biển tiếp chỉ.

Quả nhiên Thi Lang ngồi trong mủng nhỏ tiến vào bờ. Hắn lên bãi cát lớn

tiếng tuyên đọc thánh chỉ.

Nguyên Vua Khang Hy phái Thi Lang tấn công Đài Loan, Bành Hồ. Thủy quân

Đài Loan bị đại bại. Thi Lang thừa thế xông lên đảo.

Diên Bình quận vương nhà Đại Minh là Trịnh Khắc sảng chưa đánh đã đầu

hàng. Từ đây đảo Đài Loan thuộc vào bản đồ nhà Đại Thanh.

Vua Khang Hy luận công ban thưởng. Nhà Vua nghĩ tới Thi Lang ngày trước

ngồi rỗi ở Bắc Kinh không được trọng dụng. Nhờ Vi Tiểu Bảo tiến cử, hắn mới lập

nên công lớn. Ngài liền đặc cách thăng cho Vi Tiểu Bảo lên Nhị đẳng Thông Cật

hầu, ban cho một cặp Nhãn hoa linh, gia hàm Thái tử Thái bảo, người con tập ấm

cũng được thăng Nhất đẳng Khinh xa đô úy.

Vi Tiểu Bảo tạ ơn rồi, trong lòng thờ thẫn như người mất của. Gã không ngờ

đảo Đài Loan lại bị Thi Lang dẹp xong ngay.

Sự thực giữa Vi Tiểu Bảo và Trịnh Khắc Sảng trước nay tính tình không hợp,

lại thù nghịch nhau nữa. Sư phụ của gã là Trần Cận Nam bị Trịnh Khắc Sảng sát hại,

nên gã giận hắn thấu xương, nhưng đảo Đài Loan dẹp xong là thiên hạ của nhà

Đại Minh không còn một tấc đất. Gã nghĩ tới điểm này cảm thấy bâng khuâng

trong dạ.

Từ thuở nhỏ Vi Tiểu Bảo chưa từng đọc sách, gã chẳng quan tâm gì đến

chuyện phân chia kẻ Mãn người Hán, cùng mối cừu hận về quốc tộc, nhưng gã ở

trong Thiên Địa Hội lâu ngày, thường được nghe anh em nhắc tới nhiều lần và dĩ

nhiên gã nhận thấy người Mãn Châu chiếm mất giang sơn của người Hán là việc

đáng buồn. Vì vậy gã nghe nói Thi Lang bắt Trịnh Khắc Sảng đưa về Bắc Kinh,

chẳng lấy chuyện đó làm mừng.

Gã lại nghĩ tới sư phụ suốt đời tận tâm kiệt lực chỉ mong khôi phục thiên hạ.

Dù chẳng thành công trong công cuộc lớn lao này thì cũng cần bảo vệ Đài Loan

một cách vĩnh viễn, gọi là còn một mảnh đất ở hải ngoại của nhà Đại Minh. Ngờ

đâu sư phụ gã bị hại chưa lâu, đảo Đài Loan lại mất nốt. Dù Trịnh Khắc Sảng có là

kẻ phản nghịch, nhưng sư phụ gã ở dưới âm cung mà biết việc này, tất lão nhân gia

phải khóc hết nước mắt.

Bữa trước sư phụ gã bị hại cũng vì nguyên nhân ông đã cùng Thi Lang chiến

đấu đến sức cùng lực kiệt, nên mới bị Trịnh Khắc Sảng ám toán, đâm vào sau lưng

một cách dễ dàng.

Vi Tiểu Bảo thấy bộ mặt Thi Lang nhơn nhơn đắc ý, trong lòng rất căm tức, gã

hỏi:

- Thi đại nhân lập được đại công này, chắc là thăng quan lớn lắm rồi?

Thi Lang mỉm cười đáp:

- Nhờ ơn điển của Hoàng thượng, ty chức được gia phong Tam đẳng Tĩnh Hải

hầu.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Cung hỷ! Cung hỷ!Gã nghĩ bụng:

- Ta trước đã là Nhất đẳng Thông Cật bá, nếu thăng một cấp là lên Tam đẳng

Thông Cật hầu, nhưng tiểu Hoàng đế lại thăng lên hai cấp là có ý để ta ở ngôi

cao hơn tên tiểu tử Thi Lang này. Nếu cả hai người cùng Tam đẳng hầu chẳng hóa

ra cá mè một lứa?

Thi Lang thỉnh an rồi cung kính nói:

- Hoàng thượng triệu ty chức vào bệ kiến. Ngài vỗ về bằng lời lẽ ôn nhu, lại

khích lệ một hồi sau cùng ngài hỏi: "Thi Lang! Chuyến này ngươi ra quân lập nên

công trạng, có biết ai đã bồi tài cho ngươi không? Trước ngươi ở Bắc Kinh, chẳng

ma nào nhìn đến, ai đã tiến cứ ngươi?".

Ty chức liền tâu:

- Tâu Hoàng thượng! Đó là Vi tước gia đã hết lòng đề bạt bảo tấu lên Thánh

thượng, mới được tắm gội Hoàng ân.

Hoàng thượng lại phán:

- Ngươi cũng là kẻ không quên nguồn gốc. Có thế mới phải. Vậy ngươi lập

tức ra Thông Cật đảo để tuyên chỉ cho Vi Tiểu Bảo. Trẫm gia quan tấn tước cho

gã để khen ngợi gã biết được người hay mà tiến cử đặng lập công danh cho triều

đình.

Thi Lang nói tiếp:

- Ty chức nghe phán liền lập tức đăng trình.

Vi Tiểu Bảo thở dài bụng bảo dạ:

- Ta đề bạt người nào cũng lập nên công trạng hết. Còn chính ta thì lại bị

giam cầm trên hòn đảo hoang này, không được dời xa nửa bước. Tiểu Hoàng đế

không ngớt gia phong quan tước cho ta, mà thực ra ta có được phong đến Thông

Cật vương cũng chẳng lấy chi làm hoan hỉ.

Ngoài miệng gã nói:

- Thi đại nhân! Đại nhân ngồi chiến thuyền của Đài Loan tới đây khiến ta giật

bắn người lên, tưởng là thủy quân của Đài Loan kéo tới tấn công. Ai ngờ lại là đại

nhân đến đây diễu võ dương oai.Thi Lang vội tạ tội rồi giải thích:

- Không dám! Không dám! Ty chức phụng tuân thánh chỉ, trong lòng nóng nẩy

muốn được gặp đại nhân. Ty chức cảm thấy chiến thuyền của Đài Loan chế tạo rất

hay, và vượt biển lại mau lẹ, nên ngồi thuyền Đài Loan để đi cho chóng đến nơi.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Té ra chiến thuyền của Đài Loan vượt biển mau lẹ. Đầu thuyền còn huy

hiệu mặt trăng mặt trời vẽ bằng sơn. Ban đầu ta phỏng đoán Thi đại nhân đã xưng

vương ở Đài Loan nên trong lòng không khỏi rất đỗi lo âu.

Thi Lang giật mình kinh hãi vội đáp:

- Ty chức quả là hồ đồ! Lời chỉ điểm của đại nhân phải lắm! Trong lúc hành

động vội vàng, ty chức quên cả cạo bỏ huy hiệu trên chiến thuyền của Đài Loan.

Sự thực không phải hắn sơ xuất trong vụ này. Hắn dẹp xong Đài Loan rồi,

trong lòng đắc ý vô cùng, Hắn ngồi trên chiến thuyền đã cướp được của Đài Loan

rồi đi ngược lên Thiên Tân đoạn lại quay xuống phía Nam ra đảo Thông Cật cố ý

để nguyên huy hiệu ở đầu thuyền cho những người ngó thấy phải chỉ trỏ bàn tán

về lai lịch chuyến thuyền này, khiến chiến công của hắn thêm phần rực rỡ.

Không ngờ Vi Tiểu Bảo lại nói gã đem lòng ngờ vực Thi Lang muốn tự lập làm

Đài Loan vương. Đây là một điều vi phạm rất trọng đại. Thi Lang bất giác sau lưng

toát mồ hôi lạnh ngắt. Hắn nghĩ thầm:

- Tiểu Hoàng đế cực kỳ sủng ái gã thiếu niên này! Mình phải huyết chiến cự

nhọc mới bình xong Đài Loan, còn gã ngồi nhàn hạ trên hải đảo mà công lao lại

lớn hơn mình. Gã được phong Nhị đẳng hầu, mà mình mới là Tam đẳng hầu. Nếu gã

triều kiến Hoàng thượng đưa hơi một vài câu là đại họa đổ xuống đầu mình.

Trong lòng hoảng sợ, Thi Lang mất hết vẻ ngạo nghễ, không dám ngông

nghênh như lúc vừa tới nơi nữa. Hắn vội truyền lệnh cho bọn thuộc quan nhất nhất

phải lên đảo bái kiến Nhị đẳng hầu Vi Tước gia.

Trong bọn thuộc quan này có hai người Vi Tiểu Bảo đã quen biết, vì chúng

vẫn tùy tùng Trần Cận Nam và gã đã gặp họ ở Liễu Châu. Một người là Lâm Hưng

Châu, một người là Hồng Triều phó thủ của Lâm Hưng Châu.Vi Tiểu Bảo vừa thấy chúng, trong lòng sửng sốt, tự hỏi:

- Bọn này là tướng lãnh ở Đài Loan, sao nay lại làm thủ hạ của Thi Lang.

Lâm Hưng Châu và Hồng Triều lên bờ nhìn thấy Vi Tiểu Bảo cũng xiết đỗi

kinh nghi, bụng bảo dạ:

- Gã là tiểu đồ đệ của Trần quân sư, sao lại làm quan lớn với triều đình Mãn

Thanh? Cả Thi đề đốc cũng đối với gã bằng một thái độ cực kỳ kính cẩn?

Vi Tiểu Bảo nghe hai người tự báo chức hàm thì một tên là Thủy sư đô ty,

một tên là Thủy sư thủ bị.

Thi Lang liền giới thiệu:

- Lâm đô ty và Hồng thủ bị nguyên là những nhân vật trong quân tướng Đài

Loan, nay theo Trịnh Khắc Sảng tước gia và Lưu Quốc Hiên đại nhân quy thuận

triều đình. Hai vị này am hiểu mọi việc ngoài hải đảo, nên ty chức đem họ đi theo

để họ trông nom công việc về thuyền bè của Đài Loan.

Vi Tiểu Bảo "ủa" một tiếng rồi nói:

- Té ra là thế!

Lâm Hưng Châu và Hồng Triều đều cúi gầm mặt xuống, ra chiều rất hổ thẹn.

Đảo Đài Loan từ ngày Trịnh Thành Công lập thành vương phủ đã mở cửa

thông thương với các nước Nhật Bản, Lữ Tống, Tiêm La, Việt Nam, trở nên rất thịnh

vượng, giầu có.

Thi Lang bình Đài Loan lấy được rất nhiều đồ trân bảo, dị vật của nước ngoài

đưa về dâng triều đình. Vua Khang Hy sai gã đem một ít ban cho Vi Tiểu Bảo.

Ngoài ra Thi Lang còn có phần lễ vật riêng của hắn đưa kính tặng Vi Tước gia.

Tối hôm ấy, Vi Tiểu Bảo đặt tiệc khoản đãi. Gã mời Thi Lang ngồi vào thủ

tịch, ngoài ra còn bốn võ quan cao cấp. Gã lại mời cả Lâm Hưng Châu và Hồng

Triều cùng đến bồi tiệc để hai vị này thuật chuyện về tình hình Đài Loan cho gã

nghe.

Rượu đã ba tuần, Vi Tiểu Bảo hỏi:- Lâm đô ty! Diên Bình quận vương ở Đài Loan là Trịnh Kinh vương gia sao lại

biển đổi tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng vào? Nghe nói hắn là con thứ hai của Trịnh

vương gia thì không đến lượt hắn làm Vương gia mới phải chứ?

Lâm Hưng Châu đáp:

- Dạ! Xin phúc trình Tước gia rõ: Trịnh vương gia đã qua đời vào ngày 28

tháng giêng năm nay. Ngài di mệnh cho đại công tử Trịnh Khắc Tang lên kế vị. Đại

công tử là người anh minh, cương nghị. Hết thảy quân dân ở Đài Loan đều đem

lòng kính phục. Nhưng Thái phu nhân Đổng quốc thái không ưa Đại công tử, liền

phái Phùng Tích Phạm hành thích giết y, lập nhị công tử là Trịnh Khắc Sảng lên

thay.

Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:

- Trần phu nhân, vợ Đại công tử, vô cùng uất ức, vào ra mắt Đông quốc thái

chất vấn Đại công tử phạm tội gì mà phải thác oan? Nhưng Đông quốc thái nổi

giận đùng đùng sai ngươi đánh đuổi phu nhân ra. Trần phu nhân ôm lấy thi thể Đại

công tử khóc lóc thê thảm một hồi rồi cũng treo cổ tự ải. Vụ này khiến cho nhân

dân trên đảo Đài Loan từ trên xuống dưới đều ôm mối bất bình.

Vi Tiểu Bảo đập bàn quát mắng:

- Con mẹ nó! Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng đã ngu tối hồ đồ, lại lòng dạ tiểu

nhân thì làm Vương gia con chó cũng không xong, cai trị nhân dân Đài Loan thế

nào được?

Lâm Hưng Châu đáp:

- Nhị công tử lên kế vị rồi, phong Phùng Tích Phạm làm Trung Thành Bá. Bao

nhiều chính sự ở Đài Loan đều vào tay lão. Nhưng lão xử sự bất công. Việc gì

cũng có tư tâm. Ai lớn mật đưa ra mấy lời công đạo liền bị lão giết chết. Vì vậy mà

văn võ bách quan trong lòng căm hận nhưng miệng không dám nói ra. Ai cũng thì

thầm bảo nhau: Quốc tích gia phải gian lao cực nhọc, tốn bao nhiêu tâm lực mới

gây dựng được sự nghiệp như ngày nay. E rằng cơ đồ này sẽ bị tan vỡ vì bàn tay

của ba người là Đổng quốc thái, Nhị công tử và Phùng Tích Phạm...

Hắn dừng lại một chú rồi kể tiếp:- Trong vòng nửa năm, số người trốn đi ngoại quốc và trở về lục địa rất

nhiều, Đổng quốc thái trong lòng nóng nẩy, nhưng chẳng có biện pháp nào cứu

vãn. Đại công tử và Trần phu nhân thác oan lại thường thường hiển linh hồn báo

oán. Đổng quốc thái bị quỷ hồn về nhát, sợ quá mà chết vào khoảng tháng tư.

Vi Tiểu Bảo reo lên:

- Hay quá! Hay quá! Đổng quốc thái xuống âm cung, chắc Quốc tính gia cũng

không chịu buông tha mụ.

Lâm Hưng Châu nói tiếp:

- Đúng thế đó. Vụ Đổng quốc thái bị oan hồn đòi mạng sợ quá phải bỏ

mạng đồn đại ra ngoài, toàn thể đảo Đài Loan từ bắc chí nam, ai cũng hả dạ. Nhân

dân đốt pháo trong ba ngày liền, ngoài miệng nói là để trừ ma đuổi quỷ mà thực

ra là ăn mừng cái chết của mụ bất nhân.

Vi Tiểu Bảo nổi tràng cười ha hả nói:

- Thú thiệt! Thú thiệt!

Thi Lang xen vào:

- Việc ma quỷ hiện hồn chưa chắc đã là chuyện thật. Có điều Đổng quốc

thái đã hạ sát cháu đích tôn, lại bức tử cháu dâu, tất trong lòng khắc khoải không

yên. Huống chi bà lại tuổi già, có tật giật mình, thần hồn nát thần tính, suốt ngày

thâu đêm lúc nào cũng nghĩ đến oan hồn hiện lên báo oán, mà tưởng tưởng ra như

vậy.

Vi Tiểu Bảo vẻ mặt nghiêm nghị ngắt lời:

- ác quỷ là chuyện có thật. Nhất là những người bị chết oan sau khi chết

thành quỷ rồi, nhất định hiện lên đòi mạng...

Gã nhìn thẳng vào mặt Thi Lang nói tiếp:

- Thi đại nhân! Chuyến này đại nhân đi bình trị Đài Loan giết rất nhiều người.

Theo nhận xét của huynh đệ thì trong những chiến thuyền của Đài Loan kia chẳng

thiếu gì ác quỷ ẩn hiện, đại nhân nên cẩn thận là hơn.

Thi Lang hơi biến sắc cười đáp:- Chúng ta là võ tướng ra trận chiến đấu, chẳng tài nào tránh khỏi chuyện

giết người. Nếu những tướng sĩ bị chết trận biến thành quỷ rồi hiện lên đòi mạng

thì những kẻ làm tướng chẳng một ai được chết yên lành.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:

- Thi đại nhân nói thế là sai. Trường hợp lâm trận chiến đấu, mỗi người một

khác chứ không phải ai cũng như ai. Đại nhân nguyên là một viên đại tướng của

Quốc tính gia ở Đài Loan, nay lại quay về đánh giết binh tướng ở Đài Loan thì

những oan hồn bị giết nhất định bất phục. Trường hợp này không thể kể như

những vị tướng quân khác lâm trận giết địch.

Thi Lang lẳng lặng không nói gì, trong lòng rất tức giận. Hắn là người ở Tấn

Giang tỉnh Phúc Kiến. Bộ thuộc của Trịnh Vương ở Đài Loan mười phần có đến

tám chín là người Phúc Kiến, nhất là số người phía nam tỉnh này lại càng đông.

Sau khi Thi Lang bình xong Đài Loan từng nghe người ta chửi bóng gió hắn là

Hán gian, Mãn gian. Lại có người viết văn làm thơ nhưng dấu tên để thóa mạ hắn.

Trong lòng hắn đã ngấm ngầm xấu hổ, nhưng người ra mặt công nhiên bài xích hắn

thì chỉ có Vi Tiểu Bảo là một. Hắn không làm gì được gã liền trút giận lên đầu Lâm

Hưng Châu. Hắn trợn mắt nhìn y, tự nhủ:

- Sau khi dời khỏi đảo này, ngươi sẽ biết tay ta.

Vi Tiểu Bảo thở dài nói:

- Thi đại nhân! Đại nhân thật là hên vận! Nếu gia sư chưa bị hại thì lão nhân

gia ở Đài Loan bảo vệ Trịnh Khắc Tang. Đổng quốc thái và bọn Trịnh Khắc Sảng

chẳng thể cướp ngôi được. Gia sư thống lãnh quân dân cố thủ Đài Loan trên dưới

một lòng thì chưa chắc đại nhân đã thành công được.

Thi Lang trầm mặc nghĩ thầm:

- Tài năng của ta thật còn thua Trần Cận Nam xa lắm. Lão mà không chết thì

dĩ nhiên cục diện ở Đài Loan khác hẳn hôm nay.

Hồng Triều đột nhiên xen vào:- Vi tước gia dạy rất phải. Binh tướng cùng trăm họ ở Đài Loan đều nói thế

cả. Ai cũng oán hận Trịnh Khắc Sảng sát hại tôi lương đống, khác nào tự hủy bức

trường thành. Y quả là đứa cháu bất hiếu của Quốc tính gia.

Thi Lang tức giận hỏi:

- Hồng thủ bị! Ngươi đã đầu hàng nhà Đại Thanh mà còn dám thốt ra những

điều đại nghịch vô đạo như vậy ư?

Hồng Triều vội đứng dậy đáp:

- Ty chức biết mình hồ đồ. Xin đại nhân lượng thứ.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hồng đại ca! Đại ca nói chuyện thành thực thì dù đức Hoàng thượng có

nghe thấy cũng không làm tội. Đại ca cứ ngồi xuống uống rượu

Hồng Triều dạ một tiếng, rón rén ngồi xuống. Y nâng chung rượu lên hai tay

run bần bật, rượu rớt ra ngoài đến nửa chung.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi:

- Gia sư bị tên tiểu rử Trịnh Khắc Sảng gia hại, nhân dân ở Đài Loan đều

biết hết cả rồi chứ?

Hồng Triều vẫn run rẩy đáp:

- Dạ... Trịnh Khắc Sảng sau khi về tới Đài Loan... hắn nói Trần quân sư bị...

bị...

Y đưa mắt nhìn Thi Lang rồi không dám nói tiếp nữa.

Vi Tiểu Bảo giục:

- Đại ca nói nốt đi! Chỉ cần đại ca nói thật là không ai phiền trách cả.

Hồng Triều đáp:

- Dạ dạ! Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm đem mấy tên vệ sĩ xuống ngồi

trong mủng nhỏ trôi nổi lềnh bềnh ngoài biển cả, may mới gặp một chiếc thuyền

đánh cá cứu được đưa về Đài Loan. Trịnh Khắc Sảng nói với mọi người là Trần

quân sư bị Thi tướng quân giết chết. Trịnh Vương gia nghe được tin này khóc lócthảm thiết mấy ngày trời. Nguyên lão nhân gia mắc bệnh từ trước lại gặp mối

thương tâm quá độ. Chẳng bao lâu lão nhân gia về chầu trời.

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

- Sau tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng lên ngôi mới nói với mọi người là chính tay

hắn đã hạ sát Trần quân sư. Số đông bộ hạ Trần quân sư không phục, vào chất

vấn hắn Trần quân sư phạm tội gì mà hắn hạ sát thì những người này đều bị Phùng

Tích Phạm phái thủ hạ bắt lấy giết đi.

Vi Tiểu Bảo dằn mạnh chung rượu xuống bàn quát mắng:

- Tổ bà nó.

Đột nhiên gã nổi lên tràng cười ha hả nói:

- Hàng ngày chúng ta thường dùng câu •Tổ bà nó• để thóa mạ, nhưng bà

lão này bị thóa mạ thật oan uổng, chỉ có bà Trịnh Khắc Sảng mới đáng thóa mạ

thôi.

Thi Lang nghe Vi Tiểu Bảo thóa mạ Đổng quốc thái rất lấy làm thích thú. Sở

dĩ hắn đắc tội với Trịnh Thành Công đến nỗi toàn gia phải chết chém cũng đều

do Đổng quốc thái mà ra. Hắn liền lên tiếng:

- Vi tước gia nghị luận như vậy là rất đúng. Quốc tính gia anh hùng hào kiệt,

hay giỏi về đủ mọi phương diện, chỉ lầm một điểm lấy phải bà vợ đanh ác.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:

- Người ta bất cứ ai thóa mạ mẹ con bà Trịnh Khắc Sảng đều được, nhưng

khắp thiên hạ chỉ một mình Thi tướng quân là không nên thế. Những công danh phú

quý của Thi tướng quân đều do mụ ác phụ đó mà nên. Tuy phụ mẫu, thê nhi của

tướng quân bị giết về tay mụ, nhưng đánh đổi lấy chức Đề đốc, hàm Tam đẳng

Tĩnh Hải thì món hàng này được giá lắm.

Thi Lang mặt đỏ bừng lên, trong lòng phẫn nộ, mắng thầm:

- Ta muốn lôi ông tổ mười tám đời nhà ngươi ra mà thóa mạ.

Hắn nâng chung rượu lên uống một hớp để ráng đè lửa giận xuống, nhưng hơi

tức trào ngược lên, rượu uống vào tới cổ họng liền nổi con ho kịch liệt.Một tên Thủy quân phó tướng họ Lộ cũng ngồi trên bàn tiệc thấy Thi Lang

mặt đầy vẻ phẫn nộ, hắn chỉ sợ giữa Thi Lang và Vi Tiểu Bảo xẩy ra cuộc gây gổ

khó lòng vãn hồi được, liền lên tiếng xen vào:

- Vi Tước gia! Chuyến này Thi tướng quân ra bình Đài Loan thật đã dầy công

hãn mã. Ngày 4 tháng 6, Thi tướng quân vâng thánh chỉ thống lãnh hơn sáu trăm

chiến thuyền, đem theo ngoài sáu vạn binh sĩ. Chiến thuyền vừa ra khơi liền bị

gió thổi ngược chiều, phải đi mười ngày mới tới Bành Hồ. Ngày 16, Thi tướng quân

khởi cuộc đại chiến với Lưu Quốc Hiên thống lãnh quân đội Đài Loan. Thật là một

trận trời sầu, đất thảm, nhật nguyệt lu mờ.

Vi Tiểu Bảo thấy Lâm Hưng Châu và Hồng Triều vẫn cúi đầu, vẻ mặt hầm hầm

ra chiều tức giận. Gã chắc hai người này cũng tham dự vào trận đánh Bành Hồ và

đã bị thất bại với Thi Lang, nên không muốn nghe Lộ phó tướng kể những thành

tích đắc ý của y.

Gã liền hỏi:

- Thi tướng quân! Ngày trước Quốc tính gia đánh lấy Đài Loan chắc cũng bắt

đầu bằng tấn công Bành Hồ phải không?

Thi Lang đáp:

- Đúng thế!

Vi Tiểu Bảo lại hỏi:

- Khi đó Thi tướng quân là thuộc hạ của Quốc tính gia, chắc cũng biết rõ

trận đánh Bành Hồ ngày ấy thế nào?

Thi Lang đáp:

- Bọn quỷ tóc đỏ người Hà Lan không phái binh đến giữ Bành Hồ...

Vi Tiểu Bảo chưa nghe hết chuyện đã quay sang hỏi Lâm Hưng Châu:

- Ngày Quốc tính gia khóa hải chinh Đông, nghe nói Lâm đại ca dẫn đội quân

đằng bài chém chân quỷ. Không hiểu cách chém ra sao?

Lâm Hưng Châu bụng bảo dạ:- Vụ quân đằng bài chém chân quỷ, ta đã kể cho gã nghe rồi, bấy giờ gã còn

hỏi lại thì dĩ nhiên gã không muốn nghe Thi Lang nói về thiên xú sử bình Đài, mà

chỉ muốn ta thuật lại những sự tích anh hùng của Quốc tính gia cùng Trần quân sư.

Vụ này ta không nên nói nhiều về những việc liên quan đến ta vì trong lòng Thi

Lang ôm mối bất bình, nhất định hắn sẽ tìm cách hại ta. Vậy ta cứ tâng bốc hắn lên

là hơn.

Y tính vậy liền đáp:

- Quốc tính gia triệu tập chư tướng thương nghị có nên khóa hải thi dông

hay không? Số đông tướng lãnh đều nói đảo Đài Loan hiểm trở tấn công rất khó

khăn, ngoài biển lại sóng to gió cả, thêm vào bọn quỷ tóc đỏ có súng ống cực kỳ

lợi hại. Vụ này thật muôn vàn nguy hiểm. Nhưng Trần quân sư và Thi Lang tướng

quân cực lực tán thành. Sau quả nhiên lập nên công lớn.

Thi Lang nghe y nói vậy bất giác mặt tươi lên.

Lâm Hưng Châu kể tiếp:

- Năm Vĩnh lịch, thứ 15, tháng 2...

Thi Lang ngắt lời:

- Lâm đô ty! Không nên nhắc đến niên hiệu nhà Tiền Minh. Hồi ấy vào năm

Thuận Trị thứ 18 nhà Đại Thanh.

Lâm Hưng Châu đáp:

- Dạ dạ!

Rồi y kể tiếp:

- "Tháng 2 năm ấy, đại bản doanh của Quốc tính gia dời đến đóng ở thành

Kim Môn.

Ngày 1 tháng 3 toàn quân lập lời thề sư, tế cáo hải thần.

Ngày mười, Quốc tính gia và Trần quân sư thống lãnh đạo thân binh gồm Hữu

võ vệ, Tả hữu hộ vệ, Kiêu Kỵ trấn, Tả tiên phong, Trung xung hậu vệ trấn, Tuyên

nghị hậu vệ trấn, Viện tiểu hậu trấn cùng thuyền bè các lộ, tập trung cả ở Liệu La

để chờ thời cơ thuận tiện.Ngày ấy lòng quân rất hoang mang, đại đa số sợ việc ra khơi. Quốc tính gia,

Trần quân sư và Thi Tướng quân phải chia nhau đến các doanh trấn để cổ võ

cùng khích lệ quân tâm.

Mãi đến trưa ngày 23, trời mới tạnh nắng, gió lặng sóng êm. Đại quân liền khai

thuyền ra khơi và tới Bành Hồ vào chiều ngày 24."

Lâm Hưng Châu dừng lại một chút rồi kể tiếp:

- "Đại quân vừa tới Bành Hồ, trời lại nổi gió to, sóng biển dữ dội. Mấy ngày

liền không khai thuyền được. Trên các hải đảo ở Bành Hồ chẳng có gì làm lương

thực. Quan quân đành ăn củ khoai, củ sắn để độ nhật. Lòng quân lại một phen

xao xuyến.

Chờ đến ngày 30 và không thể chờ đợi hơn được nữa, Quốc tính gia đành

hạ lệnh xuất quân, bất chấp sóng to gió cả cũng lên đường đông chinh. Đêm hôm

ấy vào khoảng canh một, Quốc tính gia cho kéo cờ đại soái trên thuyền lớn giữa

trung quân, đoạn nổi ba phát phái hiệu rồi chuông trống vàng trời, chiến thuyền

dương buồm tiến về phía đông..."

Hồi 225

ĐáNH NGườI NGOạI QUốC

Lâm Hưng Châu kể tiếp:

- Lúc đó bầu trời mây kéo đen nghịt. Sóng biển nhô lên như từng

trái đồi đập vào thuyền. Mưa to gió lớn khiến cho mọi người đều ướt sũng.

Quốc tính gia đứng ở đầu thuyền, tay cầm trường kiếm, miệng lớn tiếng hô:

- Tận trung báo quốc, không sợ sóng gió!

Mấy vạn binh tướng đồng thanh hô theo:

- Tận trung báo quốc, không sợ sóng gió!

Tiếng hô từ thuyền nọ truyền sang thuyền kia, vang dội một góc trời tưởng

chừng muốn lấn át cả tiếng cuồng phong đại lãng.

Vi Tiểu Bảo nhìn Thi Lang hỏi móc:

- Lúc ấy chắc Thi tướng quân cũng hô lớn như vậy, phải không?

Thi Lang đáp:

- Ty chức ở Hạ Môn đã xẩy ra chuyện xích mích với Trịnh Vương nên không

đi Đài Loan.

Tế ra là thế! Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc!

Phó tướng họ Lộ xen vào:

- Trịnh vương đến Bành Hồ bất quá chỉ gặp sóng to gió cả. Còn Thi tướng

quân đến Bành Hồ mới đây phải hứng chịu một trận huyết chiến kinh tâm động

phách. Lưu Quốc Hiên thống lãnh thủy quân ở Ngưu Tâm loan, đảo Kê Lung bố trí

phòng thủ vùng Bành Hồ. Dọc bờ biển hai mươi dặm đều đắp thành lũy đất. Cứ

cách một quãng lại đặt một khẩu súng lớn. Thủy quân của nhà Đại Thanh vừa tới

nơi. Trên bờ nhất tề nổ súng ầm ầm, ngoài ra còn hỏa tiễn, phún đồng (ống phun).

Chà chà! Thật là nguy hiểm hết chỗ nói.

Vi Tiểu Bảo cười ngắt lời:

- Lộ phó tướng! Ta xem chừng trái mật của phó tướng cũng không kém trái

mật của ta mấy tí.

Lộ phó tướng đáp:

- Không dám! Ty chức khi nào bì kịp tước gia được!

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Phó tướng kém cả ta ư?

Lộ phó tướng đáp:

- Dĩ nhiên ty chức còn kém xa!

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Nếu vậy thì kỳ thiệt! Trái mật của ta nhỏ như mật chuột, tưởng đã là quá rồi.

Không ngờ phó tướng còn vô dụng hơn ta. Ha ha! Lạ thiệt! Quả là lạ thiệt!

Lộ phó tướng đỏ mặt lên không dám nói nữa.

Vi Tiểu Bảo quay sang hỏi Lâm Hưng Châu:

- Quốc tính gia thống lãnh đại quân ra khơi rồi sao nữa?

Lâm Hưng Châu kể tiếp:

- Chiến thuyền ra đi vào lúc sóng to gió cả trong vòng hai trống canh. Đến

canh ba đột nhiên gió lặng sóng êm. Mây đen tan hết. Thế gió đổi chiều thành ra

thuận lợi. Các quân sĩ hô "Vạn tuế" vang động ngoài khơi. Ai cũng cho là có

Hoàng thiên bảo hựu. Chuyến đi nhất định thắng trận.

Sáng sớm mồng một, chiến thuyền đến cửa Mộc Nhĩ, dùng sào đo nước, chỗ

này nông quá thuyền không đi được.

Quốc tính gia trong lòng nóng nảy, liền sai bày hương án đảo các Hoàng

thiên. Chẳng mấy chốc, đột nhiên nước thủy triều dâng cao. Các chiến thuyền

nhất tề kéo vào cửa Lộc Nhĩ.

Trên bờ quân Hồng Mao liền nổ súng lớn oanh kích. Bọn quỷ Hồng mao đã

đắp hai tòa thành trì ở đây. Một tòa kêu bằng Nhiệt Lai Già thành, một tòa kêu

bằng Phổ La Dân Già thành.Vi Tiểu Bảo cười ngắt lời:

- Những tên thành của bọn quỷ Hồng mao nghe cũng ly kỳ cổ quái. Cái gì mà

Nhiệt Lai Già với Lãnh Lai Già? Nam Mô Ba La Mễ Đa Quân Thế Âm Già?

Lâm Hưng Châu mỉm cười kể tiếp:

- "Lúc ấy Quốc tính gia dùng Thiên lý kính quan sát thấy bọn quỷ Hồng mao

có hai chiến hạm lớn làm chủ lực, tuần dương hạm hai cái, lại còn thuyền ván và

mủng nhỏ mấy trăm con, nhất tề xông ra.

Quốc tính gia liền hạ tướng lệnh sai quan trấn đốc Tuyên Nghị Tiền là Trần

Trạch lãnh một đội chiến thuyền đổ bộ lên cửa Lộc Nhĩ đóng ở Bắc Sán để chẹn

đường quân tiếp viện của bọn Hồng mao. Ngài lại phái Hoàng Chiêu dẫn đội lính

súng năm trăm tên, liên hoàn pháo hai chục cỗ, chia làm ba toán bày trận ở phía

sau để phòng thủ địch quân tràn xuống phía nam. Rồi ngài phái ty chức lãnh năm

trăm tay quân đằng bài quanh ra phía sau đánh vào cạch sườn mé tả quân địch.

Ngài lại phái Tiêu Cung Trần lãnh hai chục con thuyền lẹ đi tuần tiễu. Hễ thấy hạm

đội Hồng mao kéo đến tấn công thì lập tức giả vờ đổ bộ đánh thành để khiêu

chế bọn chúng. Quân địch mà hoang mang là mất chí chiến đấu. Các tướng lĩnh

mệnh thi hành công tác chia đi các ngả. Trên thuyền liền nổ súng phản kích.

Bên kia, Trần quân sư thống lãnh thủy quân bao vây hai chiến hạm chủ lực

của Hồng mao địch rồi đánh thốc vào. Tiếng súng nổ và tiếng hò hét vang dội

một vùng. Trên mặt biển ngột ngạt khói đen lửa đỏ.

Cuộc đại chiến kéo dài chừng hơn một giờ, bỗng nghe đánh ầm một tiếng

rùng rợn. Một chiến hạm chủ lực của Hồng mao quỷ bị quân ta đánh chìm. Sau mới

biết chiến hạm này mang tên Bối Khắc Đức á và là đoàn thủy quân tinh nhuệ của

Hồng mao quân. Còn một chiến hạm nữa mang tên Mã Lợi á cũng bị trọng thương

phải chạy trốn về phía Đông rồi không biết đi đâu.

Hai chiếc tuần dương hạm của bọn quỷ Hồng mao cũng rút lui.

Lúc ấy toán binh của Trần Trạch đổ bộ rồi gặp bọn lục quân của bọn Hồng

mao quỷ. Ai nấy hăng hái xung phong giết hết địch quân không còn mảnh giáp.

Cuộc đại chiến này cả trước sau không đầy hai giờ mà lưỡng lộ thủy lục của

Hồng mao quỷ đều bị đánh bại. Quân ta đổ bộ phá tan Phổ La Dân Già thành."Lời chú của tác giả: Trịnh Thành Công từ Bành Hồ tấn công Đài Loan đổ bộ

lên khu phụ cận của Đài Nam ngày nay. Hồi ấy nước Hà Lan đặt trọng binh đồn trú

khắp giải Đài Nam.

Vi Tiểu Bảo rót chung rượu hai tay cầm đưa cho Lâm Hưng Châu nói:

- Lâm đại ca! Trận đánh hay quá! Tiểu đệ kính mừng đại ca một chung này.

Lâm Hưng Châu đứng dậy đón lấy chung rượu uống một hơi cạn sạch rồi kể

tiếp:

- "Quân Hồng Triều đổ bộ vùng Xích Khảm liền được người Trung Quốc nô

nức chạy ra hoan nghênh. Số đông mừng rỡ đến chảy nước mắt khóc ròng. Họ lớn

tiếng hô:

- Cứu tinh của bọn ta đã đến!

Lão thái gia của Quốc tính gia là Trịnh Chi Long thái sư nguyên trước làm

nghề "buôn không vốn" trên mặt biển. Đài Loan là căn cứ địa của lão nhân gia.

Sau lão nhân gia dẫn anh em thủ hạ về Trung Nguyên. đảo Đài Loan liền bị bọn

quỷ Hà Lan và quỷ Tây Ban Nha chiếm cứ.

Hà Lan quỷ ở miền Nam. Tây Ban Nha quỷ ở mặt bắc. Hai bọn quỷ xẩy ra cuộc

tranh chấp. Bọn quỷ Tây Ban Nha bị thất bại. Toàn đảo Đài Loan liền bị quỷ Hà

Lan chiếm hết.

Thời bấy giờ người Trung Quốc chúng ta ở trên đảo rất đông bị bọn quỷ

Hồng mao Hà Lan tàn sát cực kỳ thê thảm.

Một vị huynh đệ bộ hạ cũ của Trịnh thái sư tên gọi Quách Hoài Nhật là một

tay đại anh hùng, đại hảo hán ở lại trên đảo chứ không bỏ đi.

Quách Hoài Nhật thấy người Trung Quốc chúng ta bị quân quỷ Hồng mao

khinh khi quá độ liền ngấn ngầm tập họp anh em thông tri cho nhân tài các nơi ở

Trung Quốc, ước định nhất tề khởi sự vào ngày trung thu rằm tháng tám nổi lên

giết hết bọn quỷ Hồng mao trên toàn đảo.

Ngờ đâu một Hán gian tên gọi Phổ Tử đi mật báo với thái thú Hồng mao..."

Vi Tiểu Bảo nghe nói tới đây tức giận không nhịn được, đạp bàn quát mắng:- Tổ bà nó! Công việc của người Trung Quốc lại bị bọn Hán gian phá hoại

rồi!

Lâm Hưng Châu kể tiếp:

- "Đúng thế! Khi đó Quách Hoài Nhật đại ca thấy Phổ Tử trốn đi biết là cơ

sự nguy rồi, lập tức thống lãnh hơn một vạn sáu ngàn người đánh Phổ La Dân Già

thành, phóng hỏa đốt cháy hết những dinh thự của bọn quan lại Hồng mao quỷ.

Nhưng kế đó bọn Hồng mao quỷ điều động đại quân mở cuộc phản công. Súng

ống của bọn chúng cực kỳ lợi hại. Còn người Trung Quốc chúng ta thì ngoài mấy

cây hỏa long thương, toàn dùng đại đao, thiết thương, thuổng cuốc, côn gỗ làm võ

khí.

Cuộc chiến đấu ở Xích Khảm kéo dài mười lăm ngày. Quách Hoài Nhật đại ca

không may bị đại pháo của Hồng mao quỷ bắn chết."

Vi Tiểu Bảo lại la lên:

- Trời ơi! Thế là hỏng bét!

Lâm Hưng Châu kể tiếp:

- "Đúng thế! Quách đại ca chết đi, bọn người Trung Quốc chúng ta lâm vào

tình trạng quân vô tướng, hổ vô đầu, thua to phải bỏ thành mà chạy ra ngoài.

Đến bên hồ lớn lại huyết chiến bảy ngày bảy đêm. Người Trung Quốc bị

đánh chết hơn bốn ngàn.

Đàn bà và trẻ con thà chết không chịu khuất phục bị chúng giết chết năm

trăm người.

Những người bị bọn Hồng mao quỷ bắt thì đàn bà con gái phải làm doanh kỹ,

đàn ông chẳng bị ngũ mã phanh thây cũng bị lấy sắt nung vào dí vào cho đến

chết."

Vi Tiểu Bảo phẫn nộ vô cùng la lên:

- Bọn quỷ Hồng mao này dã man tàn nhẫn như vậy thì so với hồi quân Thanh

tàn sát Dương Châu còn độc ác hơn nhiều!

Thi Lang và Lộ phó tướng ngơ ngác nhìn nhau, đành gượng cười cho xuôi

chuyện. Chúng nghĩ thầm:- Gã thiếu niên này ăn nói lỗ mãng, chẳng biết trọng khinh.

Lâm Hưng Châu kể tiếp:

- Đó là những việc xẩy ra vào hồi tháng tám năm Vĩnh Lịch thứ sáu...

Hồng Triều ngắt lời:

- Năm Vĩnh Lịch thứ sáu tức là niên hiệu Thuận Trị nhà Đại Thanh năm thứ 7.

8... 9. Đúng rồi, vào năm Thuận Trị cửu niên.

Lâm Hưng Châu nói:

- "Phải đó. Sau cuộc thảm sát kinh người này nhân dân Trung Quốc ở Đài

Loan coi bọn quỷ Hồng mao là những kẻ thù truyền đời.

Vì bọn Hồng mao quỷ tàn sát người Trung Quốc, nên người Trung Quốc vừa

thấy đại quân của Quốc tính gia tới nơi liền coi ngài là đức Bồ Tát đến cứu mạng.

Nam phụ lão ấu trên đảo tới tấp chạy đến kể lể nỗi thống khổ với bọn tại hạ.

Tối hôm đó, thái thú của Hồng mao quỷ là Quĩ Nhất, sau cuộc thất bại liểng

xiềng, phẫn nộ hết thảy người Trung Quốc. Chúng bắt người mình bất luận già trẻ

gái trai đều giết chết. Số người bị giết lên tới năm trăm.

Hôm sau, Quốc tính gia phái binh đến đánh Phổ La Dân Già thành. Trần quân

sư sắp đặt kế hoạch, tập luyện cho quân đằng bài lăn mình dưới đất chém vào

chân bọn quỷ tóc đỏ rồi kéo vào thành hạ được."

Vi Tiểu Bảo nói:

- Vụ này công lao của lão huynh thật lớn!

Lâm Hưng Châu đáp:

- Đây toàn trông vào diệu kế của Trần quân sư, còn ty chức chẳng có công

lao gì dáng kể.

Lâm Hưng Châu lại nói tiếp:

- "Tiếp theo Quốc tính gia xua quân đánh Nhiệt Lai Già thành là đại bản

doanh của thái thú Quỉ Nhất. Trên thành súng lớn súng trường phát xạ cực kỳ lợi

hại. Quân ta bị thương vong rất nhiều. Mã Tín tướng quân và Lưu Quốc Hiên tướng

quân hết sức đánh vào Nhất Côn Thân.Quốc tính gia thấy anh em chết trận quá nhiều, liền cho quân khởi cuộc đắp

tường đất bao vây chung quanh Nhiệt Lai Già thành. Trên tường đặt súng lớn bắn

vào trong thành.

Chẳng bao lâu đệ nhị lộ thủy quân bên ta nào Tả xung, Tiền xung, nào Trí

võ, Anh binh, Du binh, Điện Binh, các trấn cưỡi thuyền đến Đài Loan, thanh thế

cực kỳ hùng dũng.

Quốc tính gia một mặt cho quân khẩn điền cấy lúa, một mặt bay vây thành trì.

Sau năm tháng bao vây, đột nhiên viện binh của Hồng mao quỷ từ Ba Đạt

Duy á kéo đến. Bọn Hồng mao quỷ trong thành đánh ra, ngoài đánh vào, mở cuộc

đại chiến cả hai đường thủy lục. Quân ta hăng hái giết giặc. Nước biển cũng

nhuộm máu đỏ hồng."

Vi Tiểu Bảo vỗ bàn nức nở ca ngợi:

- Thật là lợi hại! Thật là lợi hại!

Gã lại nhìn Thi Lang nói:

- Đáng tiếc là Thi tướng quân có chuyện xích mích với Quốc tính gia quá

sớm, không thì cũng được dự vào những trận đại chiến này mà giết con mẹ nó mấy

trăm tên Hồng mao quỷ cho đáng mặt anh hùng hảo hán.

Thi Lang lẳng lặng không nói gì.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi Hồng Triều:

- Hồng đại ca! Khi đó đại ca đánh ở mặt trận nảo?

Hồng Triều đáp:

- Ty chức lúc ấy ở dưới trướng Lưu Quốc Hiên tướng quân, cùng Trần Trạch

tướng quân thống lãnh thủy binh vây đánh quân tiếp viện Hồng mao. Cuộc đại

chiến diễn ra trên một giải Bắc Sán vĩ. Chiến hạm của Hồng mao quỷ rất lớn, mà

súng cực kỳ lợi hại! Hỏa lực của bên chúng ta bắn vào chiến hạm đều bị vỏ tàu

bằng gang thép hất ra, không sao làm tổn thương được.

Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:- Sau Lâm Tiến Thân tướng quân ở Tuyên Nghị tiền trấn thấy mình không

chống nổi liền đốc suất hai trăm quân cảm tử, mình đeo hỏa dược liều chết nhẩy

lên chiến hạm của Hồng mao quỷ, đốt chất nổ phá hoại những súng lớn trên chiến

hạm. Bọn quỷ Hồng mao thấy quân ta dũng cảm không sợ chết, tấn công một cách

táo tợn như vậy, chúng liền rối loạn cả lên. Kết quả đưa đến bên ta giết chết

được một tên hạm trưởng Hồng mao quỷ, tịch thu hai chiến hạm chủ lực. Thế là

thủy quân Hồng mao quỷ bị tan vỡ, không thành đội ngũ gì nữa.

Hồng Triều hít một hơi chân khí, nói tiếp:

- Trên bộ Trần quân sư dẫn binh mở cuộc đại chiến cũng được toàn thắng.

Sau trên mình quân sư bị trúng bảy viên đạn chì của bọn Hồng mao, phải mổ lấy

ra.

Vi Tiểu Bảo thở dài nói:

- Hừ! Gia sư lâm trận dũng cảm như vậy không bị chết vì súng đạn của Hồng

mao quỷ, mà lại uổng mạng dưới lưỡi kiếm của con bà nó tên tiểu tử Trịnh Khắc

sảng mới thật đáng giận.

Gã quay lại hỏi Thi Lang:

- Thi tướng quân! Đã là nam tử hán, là đại trượng phu, cần đánh giết bọn quỷ

ngoại quốc để giữ vững giang sơn mới đáng mặt anh hùng. Còn mình lại giết người

mình thì dù giết đến bao nhiêu cũng chẳng đáng kể là hảo hán. Có đúng thế

không?

Thi Lang hằng dặng một tiếng không trả lời.

Lâm Hưng Châu kể tiếp:

- Bọn Hồng mao quỷ rất nhiều quỷ kế. Chúng thấy bị thất bại mấy trận liền,

toan đốt lương thực của chúng ta, nhưng lần nào cũng bị Trần quân sư khám phá

ra. Rốt cục định cắp gà chẳng được mà nắm gạo cũng không. Hồng mao thú là Quĩ

Nhất cố thủ cô thành đành chịu bó tay, sau hắn lại phái người vượt biển đến liên

lạc với tổng đốc của nhà Đại Thanh ở Mãn Triết là Lý Suất Thái, xin y phái binh

cứu viện. Lý đại nhân xử sự rất hứng thú, phúc thơ cho Hồng mao quỷ hãy phái

binh đến Phúc Kiến để bình định giải Kim Môn, Hạ Môn của Quốc tính gia, rồi

quân Đại Thanh sẽ kéo tới Đài Loan nội ngoại giáp công. Khi đó Hồng mao quỷbảo vệ mình còn chưa xong, chẳng khác con rùa rụt đầu rụt cổ ẩn trong thành

Nhiệt Lai Già, còn nói chi đến chuyện phái binh đi đánh Kim Môn, Hạ Môn.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Nhà Đại Thanh ta đã hứa lời chắc cũng phải giữ. Sau có phái binh đi không?

Dù chậm lại vài ba chục năm, cái đó cũng không hề gì? Hồi Thi tướng quân dẫn

binh đến đánh Đài Loan có bọn Hồng mao quỷ trong đánh ra ngoài đánh vào

không?

Thi Lang nghe tới đây không nhẫn nại được nữa, đứng phắt dậy hỏi:

- Vi Tước gia! Huynh đệ cùng tước gia là nhất điện chi thần đều làm quan với

nhà Đại Thanh Tại sao tước gia lại lạnh nhạt với huynh đê, nói toàn những câu mạt

sát?

Vi Tiểu Bảo lấy làm kỳ hỏi lại:

- Ô hay! Thế này thì lạ thiệt! Tiểu đệ có dám mạt sát Thi tướng quân hồi nào

đâu? Thi tướng quân không cấu kết với nước ngoài là hay lắm rồi. Giả tỷ có cấu

kết với ngoại quốc, tiểu đệ nhận thấy hãy còn kịp thời. Thi tướng quân tay giữ

trọng binh, chắc bọn Hồng mao quỷ, Tây Ban Nha quỷ. Bồ Đào Nha quỷ, La Sát

quỷ đều thích kết giao với Thi tướng quân.

Thi Lang trong lòng run lên, bụng bảo dạ:

- Nguy rồi! Tên tiểu quỷ này mà đưa cáo trạng về Hoàng thượng vu hãm tâu

về tội giao thông với ngoại quốc thì đời ta tất bị hủy diệt về tay gã.

Hắn hiểu sâu xa Vi Tiểu Bảo được Vua Khang Hy rất sủng ái. Bất giác hắn rất

lấy làm hối hận vừa rồi để lửa giận bốc lên, thốt ra mấy lời vô lễ. Hắn vội tươi cười

nói:

- Bửa nay tiểu đệ quá chén thành có chuyện xung chàng, xin Vi tước gia tha

tội cho.

Vi Tiểu Bảo thấy vừa rồi hắn nổi giật cũng hơi khiếp sợ, bây giờ nét mặt gã

dịu lại nhỏ lời xin lỗi, liền biết là gã sợ mình. Gã cười đáp:

- Nếu Thi tướng quân thực tình muốn tự lập làm Vua ở Đài Loan thì cứ việc

giết tiểu đệ đi để bịt miệng, chẳng còn đâu mà bí mật cáo tố với Hoàng thượng.Bằng tướng quân chỉ lớn tiếng om sòm hay nổi giận lôi đình thì tiểu đệ dù nhỏ mật

cũng không sợ đâu?

Thi Lang sắc mặt lợi lạt, đứng dậy xá dài nói:

- Vi tước gia! Người ta thường nói: "Bậc đại nhân không chấp nhặt kẻ tiểu

nhân". Ty chức ăn nói hoang đường, cam bề lãnh phạt. Còn chuyện tự lập làm Vua

hay thông giao ngoại quốc gì gì thì ty chức nhất quyết không hề nghĩ tới. Ty chức

chỉ một lòng một dạ vì đức Hoàng thượng ra sức. Thủy chung chữ Trung vẫn đội

trên đầu, chẳng bao giờ lòng một dạ hai.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Mời tướng quân ngồi xuống, ngồi xuống! Chúng ta cứ nói chuyện tự nhiên.

Đoạn gã quay sang hỏi Lâm Hưng Châu:

- Lâm đại ca nói chuyện nghe thú hơn cả thầy đồ giảng sách. Còn vụ Quốc

tính gia luyện binh ở Đài Loan khiến bọn Hồng mao quỷ són vãi phân về sau ra

làm sao?

Lâm Hưng Châu đáp:

- Hồi ấy Quốc tính gia thống lãnh đại quân đánh tới đảo Đài Loan, chẳng

bao lâu tin tức lan truyền vào nội địa. Huỳnh Ngô đại nhân liền hiến kế với triều

đình, đưa ra mưu lực kêu bằng "Kiên bích thanh đã bình hải ngũ sách".

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Quỳnh Ngô là ai vậy?

Lâm Hưng Châu liếc mắt nhìn Thi Lang hắng dặng luôn mấy tiếng, nhưng chưa

trả lời ngay.

Thi Lang đáp:

- Huỳnh đại nhân nguyên trước là bộ hạ dưới trướng Quốc tính gia làm chức

tổng binh. Sau đại nhân quy thuận triều đình, bước hoạn đồ rất hanh thông. Khi

đại nhân qua đời đã được phong đến Nhất đẳng Hải Trừng công.

Vi Tiểu Bảo nói:

- ồ! tế ra cũng là một tên đại Hán...Còn chữ "gian" gã kịp nuốt vào không thốt ra nữa.

Thi Lang đỏ mặt lên mắng thầm:

- Mi thóa mạ ta là Hán gian thì xem chừng cái vỏ người Mãn Châu của mi chỉ là

giả mạo. Té ra gã cũng là người Hán như mình.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Huỳnh Ngô luồn đít đưa ra diệu sách gì mà được phong đến tước công?

Chúng ta nên nghiên cứu lại kế hoạch của hắn xem sao.

Lâm Hưng Châu đáp:

- Nguyên Quốc tính gia phái Huỳnh Ngô canh giữ Hải Trừng. Không ngờ lão

đem Hải Trừng dâng triều đình để đầu hàng. Những tướng sĩ không chịu theo lão

qui thuận đều bị giết hết. Hồi đó triều đình đang chẳng có cách gì bắt được

Quốc tính gia, mà đột nhiên bên đối phương có một vị đại tướng kéo quân về

đầu hàng, lại dâng luôn cả thành thị, dĩ nhiên triều đình rất lấy làm hoan hỉ, liền

phong thưởng đặc biệt cho Huỳnh Ngô.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Té ra là thế. Hắn dâng kế hoạch đó cho triều đình với dụng ý gì?

Lâm Hưng Châu thở dài đáp:

- Lão đưa ra "Bình hải ngũ sách" làm cho bách tính muôn phần điêu đứng!

Bình hải ngũ sách gồm năm điều:

- Điều thứ nhất: Những nhân dân ở miền duyên hải phải thiên cư vào nội địa.

Thế là những đảo Kim Môn, Hạ Môn và Đài Loan không còn nhận được đồ tiếp tế

nữa.

- Điều thứ hai: Bao nhiêu thuyền bè ven biển nhất thiết đều phóng hỏa đốt

cho kỳ hết. Từ đó không một tấm ván nào được hạ xuống biển.

- Điều thứ ba: Hạ sát phụ thân của Quốc tính gia là Trịnh thái sư.

- Điều thứ tư: Khai quật mồ mả tổ tiên của Quốc tính gia để phá hoại về mặt

phong thủy.- Điều thứ năm: Những quan binh bộ thuộc hạ cũ của Quốc tính gia đầu hàng

triều đình đều đưa đi khẩn hoang tại các tỉnh trong vùng nội địa để tuyệt mối lo

về sau.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Chà chà! Kế hoạch của hắn thật là thâm độc!

Lâm Hưng Châu đáp:

- Dĩ nhiên là thế. Khi ấy Thuận Trị Hoàng gia vừa mới băng hà. Hoàng thượng

lên kế vị còn nhỏ tuổi quá, bao nhiêu quyền binh vào hết trong tay Ngao Bái nắm

giữ...

Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:

- Tên gian tặc Ngao Bái nhận thấy "Bình hải ngũ sách" của Huỳnh Ngô rất hữu

lý, liền hạ lệnh dọc miền duyên hải kể từ Liêu Đông qua Trực Lệ, Sơn Đông,

Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến cho đến Quảng Đông không ai được cư trú

trong phạm vi ba mươi dặm biển. Bao nhiêu thuyền bè phải siêu hủy cho hết.

Hàng triệu bách tính ở miền duyên hải thời bấy giờ phải lưu ly thất tán, mất cả nơi

ăn chỗ làm, khó lòng sống nổi.

Thi Lang lắc đầu nói:

- Kế hoạch của Huỳnh Ngô thực là quá tệ! Mãi đến ngày đức Hoàng thượng tự

mình chấp chính, Vi đại nhân giết chết Ngao Bái, lệnh cấm ở ven biển mới được

thủ tiêu, nhưng trăm họ bảy tỉnh duyên hải không biết đã phải hứng chịu bao

nhiêu là gian lao khổ sở. Thời kỳ triều đình ra nghiêm lệnh hễ bách tính phạm vào

liền bị bắt chém đầu lập tức. Rất nhiều dân nghèo không kế sinh nhai phải ra bờ

biển bắt cá rồi bị quan binh sát hại khá nhiều. Trịnh thái sư cũng bị giết vào hồi

đó. Ngao Bái đặc phái Binh bộ thượng thơ là Tô Nạp Hải đến những huyện Toàn

Châu, An Nam, tỉnh Phúc Kiến khai quật mổ mả nhà họ Trịnh.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Ngao Bái tự xưng là dũng sĩ mà hành động thế này thì thật là vô vị. Hắn có

bản lãnh sao không dùng đao thương đến đánh nhau thực sự với Quốc tính gia để

phân thắng bại? Hắn bắt trăm họ miền duyên hải phải thiên cư vào nội địa tức là

tỏ ra sợ người rồi còn gì?Gã thở dài nói tiếp:

- Đức Hoàng thượng rất thương yêu trăm họ. Kế hoạch này của Huỳnh Ngô mà

trình lên đến tai ngài, tất hắn phải rơi đầu.

Thi Lang đành nói hùa theo:

- Đúng thế! Vi tước gia dậy rất phải. Huỳnh Ngô chết sớm thật là phước cho

hắn.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi Lâm Hưng Châu:

- Rồi sau sao nữa?

Lâm Hưng Châu đáp:

- Tin này truyền ra tới Đài Loan, Quốc tính gia sợ lòng quân nao núng liền

tuyên bố đây chỉ là lời phao đồn vô căn cứ, không nên nhẹ dạ cho là sự thực.

Nhưng chính lão nhân gia biết rõ là tin đích xác không phải giả dối.

Hắn thở dài nói:

- Theo lời thân binh kể lại thì thường thường vào lúc nửa đêm, Quốc tính gia

vẫn khóc thầm...

Lâm Hưng Châu dừng lại một chút rồi tiếp:

- Quốc tính gia còn nói với Trần quân sư và mấy vị đại tướng là kế hoạch của

Huỳnh Ngô cực kỳ tàn độc. Giả tỷ không kéo đến đánh Đài Loan thì mười mấy vạn

đại quân ở lại Kim Môn, Hạ Môn, không còn đất đứng. Hồi đó quân ta vây thành đã

lâu, quân Hồng mao mấy phen muốn phá vòng vây đều bị đánh bật trở về. Thế rồi

Quốc tính gia hạ tướng lệnh tấn công Nhiệt Lai Gia Thành trước tết.

Hồi 226

MUốN ĐếN ĐàI LOAN, Hạ THUYếT Từ

Lâm Hưng Châu kể tiếp:

- "Ngày 22 tháng 11, quân ta trèo lên mặt tường nhất tề bắn súng lớn

vào làm sạt một góc thành. Chòi gác mặt đông và mặt tây cũng bị phá vỡ. Bọn

Hồng mao quỷ liều chết xông ra. Mấy trăm tên bỏ mạng tại chiến trường rồi phải

lui vào.

Hồng mao thái thú là Quĩ Nhất liền kéo cờ trắng đầu hàng.

Khi đó nhân dân Trung Quốc ở Đài Loan đều muốn báo thù định giết cho kỳ

hết giống Hồng mao quỷ, nhưng Quốc tính gia huấn dụ trăm họ:

- Trung Quốc chúng ta là một nước trọng điều nghĩa lễ, không nên tàn sát kẻ

địch đã đầu hàng.

Lão nhân gia liền thuận cho Hồng mao thái thú ký hàng thư mười bốn khoản

rồi dẫn tàn binh bại tướng xuống thuyền dời khỏi Đài Loan, trốn về Ba Đạt Duy

á.

Bọn quỷ Hồng mao chiếm cứ Đài Loan 38 năm từ năm Thiên Khải thứ tư triều

nhà Minh đến Năm Vĩnh Lịch thứ mười lăm, tức là năm thứ mười tám niên hiệu Thuận

Trị nhà Đại Thanh, Đài Loan trở về bản đồ Trung Quốc nhằm ngày 29 tháng 11."

Hồng Triều nói:

- Quốc tính gia hạ lệnh không cho giết những quân Hồng mao đã đầu hàng,

nhưng trăm họ Trung Quốc phẫn uất quá chừng, hoặc nhổ bọt, hoặc ném đá vào

mặt quân Hồng mao. Bọn trẻ nhỏ lại ca hát những bài chế giễu bại binh. Bọn Hồng

mao kẻ thì gãy tay, người thì cụt chân, ôm đầu lủi thủi ra đi, cả tiếng quỷ thoại

cũng không dám nói. Khi bọn chúng khai thuyền kéo cờ lên lại hạ xuống, rồi đốt

pháo làm lễ tạ ơn Quốc tính gia tha cho không giết.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Người Trung Quốc chúng ta quả là oai phong bát điện, hào khí tứ

phương. Bọn Hồng mao quỷ súng ống lợi hại như vậy mà quân ta hạ được Đài Loan

thật không phải chuyện dễ dàng.

Lâm Hưng Châu nói:

- Quốc tính gia đổi tên Nhiệt Lai Già thành làm Bình An Trấn, Phổ La Dân Già

thành làm Thừa Thiên phủ. Từ đó lão nhân gia vĩnh viễn trọng trấn đảo Đài Loan.

Lộ phó tướng từ nẫy giờ lẳng lặng ngồi nghe, bây giờ mới lên tiếng xen vào:

- Thi tướng quân đến lấy Đài Loan cũng theo đường cũ của Quốc tính gia

tức là tiến vào cửa Lộc Nhĩ...

Gã chưa dứt lời, Vi Tiểu Bảo đã xua tay cản lại rồi ngáp dài nói:

- Nghe chuyện nửa ngày trời mệt quá rồi! Câu chuyện người Trung Quốc

đánh quỷ tóc đỏ cúp đuôi chạy trốn thì còn lọt tai, chứ chuyện người mình đánh

với người mình thì trở đi trở lại cũng chỉ có bấy nhiêu.

Rồi gã nhìn Thi Lang nói:

- Thi tướng quân! Chúng ta uống rượu như vậy tưởng cũng đủ rồi. Bây giờ tan

tiệc quách!

Thi Lang đứng dậy đáp:

- Dạ! Đa tạ tước gia ban cho yến tiệc. Ty chức xin cáo từ.

Rồi hắn hành lễ cất bước đi ra.

Vi Tiểu Bảo vào nội đường kể lại đã ngăn cản Thi Lang bằng cách nào, không

để hắn mở miệng khoa trương chiến công đánh lấy Đài Loan.

Mấy vị phu nhân nghe gã kể đều bật cười. Chỉ mình A Kha lẳng lặng không

nói gì. Nàng nghĩ bụng:

- Ngày trước nếu ta lấy Trịnh Khắc Sảng tất cũng bị bắt theo về Bắc Kinh.

Người phụ nữ vong quốc khó lòng tránh khỏi bị họ làm nhục.

Hôm nàng xuống con mủng nhỏ dời khỏi đảo Thông Cật, đã chẳng quan tâm

đến cuộc sinh tử tồn vong của mình. Bây giờ nàng nghe Trịnh Khắc Sảng mất nước

đầu hàng địch nhân lại càng không để ý.A Kha nghĩ tới ngày trước vì thấy Trịnh Khắc Sảng phong tư diêm dúa mà đem

lòng say mê. Nàng cũng biết rõ hắn là người chẳng có khí phách gì, không ra

tuồng con nhà hào kiệt, mà nàng cứ mê muội như kẻ đui mù. Bây giờ nàng hồi

tưởng lại mà vẫn còn hổ thẹn.

Công chúa nói:

- Hoàng đế ca ca đối đãi với người ngoài nhân hậu quá chừng! Tên Trịnh

Khắc Sảng đã phải đầu hàng mà còn được phong Nhất đẳng công tước, tức là cao

hơn Vi Tiểu Bảo. Vụ này thật khiến cho người ta phải tức mình.

Vi Tiểu Bảo xua tay đáp:

- Không cần đâu! Không cần đâu! Quốc tính gia là một đại anh hùng, đại hảo

hán. Hoàng thượng vì nể mặt Quốc tính gia mà phong cho con cháu lão nhân gia

quan hàm Nhất đẳng công tước. Còn nói về tên Trịnh Khắc Sảng thì chỉ đáng

phong cho cái Nhất đẳng mao trùng mà thôi.

Hôm sau, Vi Tiểu Bảo chỉ mời Lâm Hưng Châu và Hồng Triều, hai người đến dự

một bữa yến tiệc để nói chuyện Thi Lang lấy Đài Loan thế nào?

Lâm Hưng Châu và Hồng Triều liền cho gã hay: Quân Thanh và quân Đài Loan

huyết chiến mấy ngày ở Ngưu Tâm loan, Kê Lung tự tại vũng Bành Hồ.

Ban đầu Thi Lang thua trận, sau thủy quân của Thanh triều đến tiếp viện lại

mở cuộc đại chiến. Thuyền bè Đài Loan bị đốt cháy rất nhiều nên phải bại trận.

Tướng sĩ chết mất hơn vạn người. Chiến thuyền vừa bị đắm vừa bị đốt cháy hơn

ba trăm chiếc.

Lưu Quốc Hiên dẫn tàn binh lui về Đài Loan.

Thi Lang kéo quân đến đánh. Cửa Lộc Nhĩ nông quá chiến thuyền không vào

được phải neo lại ngoài biển mười hai ngày.

Đang lúc vô kế khả thi thì đột nhiên mây kéo đầy trời, nước thủy triều dâng

lên rất lớn. Chiến thuyền quân Thanh liền kéo ùa vào.

Những tướng sĩ trên đảo Đài Loan từ trên xuống dưới xiết nỗi kinh hoàng. Ai

cũng nói:- Ngày trước Tiên Vương quân phải nhờ nước triều dâng mới vào được cửa

Lộc Nhĩ để lấy Đài Loan. Bây giờ nước triều lại dâng lên, hiểm trở thiên nhiên

không còn nữa. ý trời đã muốn vậy, dù có chiến đấu cũng bằng vô dụng.

Trịnh Khắc Sảng vừa hay tin thuyền bè chở quân Thanh lại vào cửa Lộc Nhĩ

đã sợ hãi chẳng còn hồn vía nào nữa, chân tay luống cuống.

Phùng Tích Phạm khuyên hắn đầu hàng, dĩ nhiên hắn chịu liền. Có điều hắn

sợ Thi Lang ngày trước bị tru lục toàn gia muốn báo tư cừu, tất làm khó dễ với

con cháu nhà họ Trịnh.

Lưu Quốc Hiên liền viết thư đến Thi Lang nói cho hay Đài Loan ưng chịu đầu

hàng nhưng với điều kiện phải bảo toàn sinh mạng cho con cháu Trịnh Thành

Công. Nếu không thì hết thẩy quân dân ở Đài Loan thầm cảm ơn nghĩa của Quốc

tính gia đành là chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.

Thi Lang lập tức phúc đáp không nghĩ tới thù oán ngày trước và thề rằng nếu

không giữ lời hứa sẽ bị trời tru đất diệt, tuyệt tử tuyệt tôn.

Thế là Trịnh Khắc Sảng, Phùng Tích Phạm, Lưu Quốc Hiên dẫn toàn thể văn

võ bá quan ở Đài Loan ra đầu hàng.

Tôn thất nhà Minh quy thuận Thanh triều chỉ có nhà Giám quốc Lỗ Vương thê

tử chín người.

Ninh Tỉnh Vương Thuật Quế tự sát, thiếp là Viên thị, Vương thị, Tú Cô, Mai

Cô, Hà Thư năm người cũng tuẫn tiết. Trăm họ hay tin này đều tới tấp chạy đến

vừa khóc vừa phục xuống đất.

Minh Kỷ đến đây là hết.

Vi Tiểu Bảo nghe đoạn này, tự hỏi:

- Hoàng đế Minh triều đến hồi mạt vận có con cháu tự sát để tuẫn quốc, lại

năm bà vợ cũng tuẫn tiết. Nếu Vi Tiểu Bảo bày tự sát thì không hiểu trong bảy cô

vợ được mấy cô chết theo? Song Nhi nhất định bầu bạn với ta rồi. Công chúa

chắc không chịu đi theo. Còn năm cô, đại khái họ sẽ gieo xúc xắc để quyết định

ai sống ai chết.

Lâm Hưng Châu lại nói:- Thi Lang kéo quân đổ bộ lên Đài Loan rồi vẫn thủ tín, không làm khó dễ gì

đến con cháu nhà họ Trịnh. Y còn thân hành đến trước miếu Diên Bình Vương

Trịnh Thành Công làm lễ tế diện. Y khóc lóc một hồi bằng một giọng rất bi thiết.

Hồng Triều nói theo:

- Bài văn tế của Thi Lang có mấy câu:

- "Từ khi Đồng An hầu đến Đài Loan, trên đảo mới có dân cư".

"Đến ngày Minh triều ban cho Quốc tính gia mở rộng đất đai mới thành biên

cương. Công lao này chẳng phải của Quốc tính gia thì còn ai nữa?

Nay Thi Lang nhờ uy linh của thiên tử, lực lượng của tướng soái lấy được đất

này. Sở dĩ Thi Lang không nghĩ tới chuyện diệt quốc là để tận trung với triều đình

và hết chức phận với bậc đàn anh. Từ ngày Lang vào quân ngũ đã cùng Quốc tính

gia có mối duyên ngư thủy. Trung gian vì sự hiềm khích nhỏ mọn mà gây nên cừu

hận trọng đại.

Giữa Lang và Quốc tính gia tuy thành thù nghịch, tình còn tôi chúa, quyết

chẳng noi gương "kẻ cùng kỹ trong bụi lau". Hai bề công nghĩa, ơn tư, đến vậy mà

thôi".

Lâm Hưng Châu nói tiếp:

- Mấy câu này được truyền tụng trong một thời.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Hắn nói lý la lý lố cái gì, tiểu đệ chẳng hiểu chi hết.

Hồng Triều đáp:

- Kẻ cùng sĩ ở trong bụi lau là nói về Ngũ Tử Tư. Ngày trước Ngũ Tử Tư bị Sở

Bình Vương giết cha anh, trốn sang nước Ngô mượn quân về diệt sở. Khi đó Sở

Bình Vương chết rồi. Ngữ Tử Tư còn quật mồ lên để đánh vào xác ba trăm roi để

rửa hận cho phụ huynh. Thi Lang nói quyết không hành động theo Ngũ Tử Tư.

Vi Tiểu Bảo cười lạt hỏi:

- Chà! Liệu hắn có dám làm không, hay là hắn nói láo? Quốc tính gia tuy đã

qua đời, nhưng hắn vẫn sợ muốn chết. Hắn phá bại cơ nghiệp nhà Trịnh mà vẫn loanh linh Quốc tính gia tìm đến hắn để quấy rầy, nên hắn phải đến Quốc tính gia

dập đầu năn nỉ. Thằng cha này xảo quyệt vô cùng! Các vị đừng mắc bẫy hắn.

Lâm Hưng Châu và Hồng Triều đều khen phải.

Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Thiên cố sự về Ngũ Tử Tư, tiểu đệ đã được coi hát cô tấn nói về "Ngũ Tử

Tư qua ải". Chỉ có một đêm lo nghĩ mà ông đầu đã bạc phơ. Có đúng thế không?

Hồng Triều đáp:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Trí nhớ của Tước gia hay quá!

Vi Tiểu Bảo lâu nay không được nghe ai nói chuyện cổ tích, liền hỏi sự tích

Ngũ Tử Tư ra làm sao?

Hồng Triều ngày trước đã thi đỗ Tú tài. Trong bụng y chứa đựng ít nhiều văn

mặc liền đem truyện Ngũ Tử Tư thuật từ đầu đến cuối.

Vi Tiểu Bảo nghe y kể rất lấy làm hứng thú, liền bảo y:

- Tiểu đệ ở trên hoang đảo này buồn quá. May được hai vị đến đây nói

chuyện cổ tích giải khuây cho. Vậy hai vị hãy nán lưu lại đây mấy bữa vội về làm

chi?

Lâm Hưng Châu đáp:

- Bọn ty chức là hàng tướng ở Đài Loan. Hôm qua vô tình lại nói mấy câu đắc

tội với Thi tướng quân. Thi tướng quân muốn rửa hận thì đối với bọn ty chức chỉ

như bóp chết hai con kiến. Tướng quân có thể tùy tiện khép vào tội lòng dạ

phản phúc, mưu đồ bất chính là tiền trảm hậu tấu ngay. Dù Thi tướng quân chém

rồi không tâu, vĩnh viễn cũng chẳng ai hỏi đến.

Đoạn hắn năn nỉ Vi Tiểu Bảo:

- Vi đại nhân! Xin đại nhân nói với Thi tướng quân lưu bọn ty chức ở lại phục

thị đại nhân.

Vi Tiểu Bảo cả mừng quay lại hỏi Hồng Triều:

- Hồng đại ca tính sao?

Hồng Triều đáp:- Đêm qua ty chức đã cùng Lâm đại ca thương nghị hồi lâu. Nếu chẳng được

Vi đại nhân cứu mạng thì bọn ty chức chết không có đất chôn.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hai vị đã theo tiểu đệ thì nhất thiết phải nghe tiểu đệ mới được.

Lâm Hưng Châu và Hồng Triều khom lưng đáp:

- Vi đại nhân! Bất luận đại nhân sai bảo điều gì bọn ty chức cũng xin tuân

lệnh.

Vi Tiểu Bảo cả mừng khôn xiết nghĩ bụng:

- Đã có hai tay trợ thủ này, ta sẽ tìm cách dời khỏi nơi đây.

Nguyên Vua Khang Hy đã phái Bành tham tướng đem quân canh giữ đảo

Thông Cật. Trước khi lên đường, hắn còn được nghiêm chỉ của đức Vua nhất quyết

không cho Vi Tiểu Bảo cùng gia nhân rời khỏi đảo nửa bước. Trên đảo lại không

thuyền bè, nếu muốn chặt cây đóng mảng thì đảo Thông Cật nhỏ bé làm sao che

được tai mắt mọi người?

Bành tham tướng trí não đã không linh hoạt, lại chẳng có bản lãnh gì, nhưng

đối với thánh chỉ của Hoàng thượng thì dù hắn có bị chặt đến mấy chục cái đầu

cũng chẳng dám tơ hào phản bội. Nhà Vua sai hắn canh giữ là hắn trông coi ráo

riết. Giả tỷ Vi Tiểu Bảo muốn giết hắn thì chỉ cất tay một cái là xong, nhưng dù

giết cả năm trăm lẻ một tướng khán thủ cho kỳ hết sạch sành sanh, vẫn chẳng có

cách nào rời khỏi đảo Thông Cật.

Bây giờ Vi Tiểu Bảo nghe Hồng Triều nói đến bài văn tế của Thi Lang bái

điện Trịnh Thành Công cùng thiên cố sự về Ngũ Tử Tư, gã chợt động tâm, nghĩ ra

một kế, liền cho mời Thi Lang đến.

Vi Tiểu Bảo, Lâm Hưng Châu, Hồng Triều và Thi Lang, bốn người ngồi trong

sảnh đường. Vi Tiểu Bảo đứng dậy đóng cửa lại hỏi:

- Thi tướng quân! Liệu tướng quân có ở lại đây chơi với ta được một vài tháng

không?

Thi Lang đáp:- Bản tâm ty chức muốn ở lại đây một thời gian khá lâu để thường thường

được nghe giáo huấn. Có điều Đài Loan mới bình định xong, nhân tâm chưa được

ổn định, ty chức tưởng sáng mai cáo từ đại nhân trở về Đài Loan.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Thi tướng Đài Loan bảo muốn ở với ta lâu ngày để thường thường nghe lời

giáo huấn. Ta không hiểu đây là chân tâm của tướng quân, hay chỉ là những câu đãi

lòng?

Thi Lang đáp:

- Dĩ nhiên đó là những lời tâm can phế phủ của ty chức, ngàn vạn lần đúng là

sự thực, tuyệt không mảy may giả dối.

Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:

- Ty chức nhớ lại năm trước tùy tùng đại nhân đóng binh ở đảo Thông Cật

này, nổ súng hạ Thần Long giáo. Hàng ngày ty chức được kính cẩn nghe lời giáo

huấn của đại nhân, lại được cùng đại nhân uống rượu, đánh bạc, cười nói tự nhiên.

Đó là những ngày sung sướng nhất của ty chức.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Giả tỷ bây giờ chúng ta lại có những ngày như vậy, tướng quân còn vui

thích không?

Thi Lang đáp:

- Cái đó dĩ nhiên ty chức khoan khoái vô cùng! Sau này đức Hoàng thượng

giao phó cho đại nhân những trọng nhiệm về quân quốc đại sự, ty chức mong rằng

được lệnh theo hầu đại nhân.

Vi Tiểu Bảo gật đầu nói:

- Cái đó dễ lắm! Tướng quân muốn theo ta để nghe ta cười nói thật chẳng

có gì khó khăn. Sáng mai chúng ta cùng đi Đài Loan với nhau là được.

Thi Lang giật mình kinh hãi đứng dậy đáp:

- Cái đó... cái đó... Vụ này chưa được chỉ dụ của Hoàng thượng, ty chức

không dám vâng mệnh. Mong rằng... mong rằng đại nhân lượng thứ cho.Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Ta đi Đài Loan có mục đích gì đâu? Bất quá nghe các vị nói ngoài đó rất

náo nhiệt: Quốc tính gia mở mang cương thổ tại Đài Nam, Đài Bắc tạo dựng lên

một thế giới vui tươi sầm uất, ta chỉ muốn tới đó coi cho biết. Chúng ta ngồi

chung một khoang thuyền lớn đến Đài Loan có phải tướng quân thường được

nghe lời giáo huấn của ta không? Cái đó là tự miệng tướng quân nói ra. Ta nhận

thấy tướng quân là người rất tốt, trước kia lại đi theo ta một thời gian. Mối giao

tình giữa thượng ty và thuộc cấp của chúng ta không phải tầm thường, ta mới miễn

cưỡng nghĩ ra biện pháp này để thỏa mãn lời thỉnh cầu của tướng quân.

Vi Tiểu Bảo thấy Thi Lang trầm ngâm liền nói tiếp:

- Chúng ta đi Đài Loan thưởng ngoạn một vài tháng rồi lại trở về, thần không

hay quỷ không thấy. Chỉ cần tướng quân dấu nhẹm, ta cũng không nói ra thì đức

Hoàng thượng làm sao mà biết được?

Thi Lang vẻ mặt cực kỳ ngơ ngác. Hắn khom lưng đáp:

- Vi đại nhân! Vụ này thật khó khăn vô cùng! Đại nhân đã ra lệnh đáng lý ty

chức phải tuân theo, ngặt vì đức Hoàng thượng mà làm tội thì thật là nguy hiểm.

Bổn phận kẻ làm tôi không bao giờ được dấu diếm quân thượng. Tội khi quân ty

chức thực tình không dám phạm vào.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Mời tướng quân ngồi xuống! Ngồi xuống! Thi tướng quân đã không chịu thì

cái việc cỏn con này bất tất phải nói nữa.

Thi Lang khác nào trút bỏ gánh nặng ngàn cân, luôn miệng khen phải, từ từ

ngồi xuống.

Vi Tiểu Bảo lại cười nói:

- Kể về tội khi quân thì chẳng dấu gì Thi tướng quân, ta đã mấy phen lừa dối

Thánh thượng. Có điều Thánh thượng khoan hồng đại lượng, sau khi ngài biết ra

rồi cũng đến cười xóa bỏ đi, chứ chẳng coi đó là chuyện trọng đại.

Thi Lang đáp:- Dạ dạ! Ai cũng bảo đức Hoàng thượng đối đãi với Vi đại nhân ân thâm đức

trọng thật là hãn hữu. Có thể nói nghĩa quân thần hòa hợp như vậy cổ kim chưa

từng có. Nhưng ty chức bất quá là một tên tiểu tướng ngoại thần làm gì được nhiều

phúc phận như vậy? Vụ này ty chức muôn đời không dám bắt chước Vi đại nhân.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười hỏi:

- Thi tướng quân ngoài miệng tuy nhát gan, nhưng bản tước xem ra chẳng phải

con người nhỏ mật. Nghe nói tướng quân hạ Đài Loan xong đã làm bài văn điếu tế

Quốc tính gia. Phải vậy không?

Thi Lang đáp:

- Bẩm đại nhân! Ba chữ "Quốc tính gia" không thể dùng được. Hiện nay Quốc

tính là ái Tân Giác La. Vậy chúng ta khi nhắc tới Trịnh Thành Công muốn nói cho

lịch sự, chỉ có thể hô "Tiền Minh tử tính". Vì vậy trong bài văn tế đó, ty chức chỉ

xưng hô Trịnh Thành Công bằng hai chứ "Tử tính", quyết chẳng khi nào dám lớn

mật phạm điều cấm kỵ.

Hắn đã tiên liệu mình không chịu đưa Vi Tiểu Bảo đến Đài Loan tất gã bới

lông tìm vết, moi móc cho ra chỗ lầm lỗi. Hắn tự nhủ:

- Mọi người đã quen dùng ba chữ "Quốc tính gia", nhưng Trịnh Thành Công

được Minh triều ban cho lấy họ Chu. Quốc tính của Trịnh Thành Công là Quốc

tính nhà Minh, chứ không phải là Quốc tính của Thanh triều. Nếu Vi Tiểu Bảo nắm

lấy ba chữ Quốc tính vu cho mình vẫn còn tưởng niệm Quốc tính gia họ Chu mà

báo về triều đình thì vụ này nhỏ bằng cái kim có thể lớn tầy đình. Không chừng

gây nên đại họa.

Thi Lang nghĩ như vậy, nên hắn phải cướp lời giải thích trước.

Thực ra, Vi Tiểu Bảo là con người vô học, chẳng có mưu thuật gì, gã chưa

nghĩ tới điểm này. Gã nghe Thi Lang biện thuyết như vậy, liền nắm lấy cơ hội để

xoay đối phương. Gã nói:

- Thi tướng quân đã từng hưởng tước lộc của Minh triều, thì trong lòng tưởng

niệm đến "Tứ tính" của tiên triều cũng chẳng có chi đáng trách. Nhưng giả tỷ tướng

quân thật dốc dạ trung thành với nhà Đại Thanh ta thì nên hô Trịnh Thành Công là

"Nghịch tính", "Ngụy tính", "Phỉ tính" hay "Cẩu tính" mới phải.Thi Lang cúi đầu không nói gì. Tuy trong lòng hắn muốn cãi lại, nhưng hắn cảm

thấy không nên tranh luận nhiều về điểm này. Hắn cũng cho là kêu Trịnh Thành

Công bằng "Tứ tính" quả còn có chỗ sơ hở, vì nó vẫn ngụ ý chưa quên Tiên triều.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi:

- Bài văn tế đó của Thi tướng quân nhất định hay lắm rồi. Tướng quân thử

đọc lại cho bản tước nghe được chăng?

Thi Lang là một võ tướng, chỉ biết giàn quân đánh trận, làm gì viết nổi văn tế?

Bài văn tế kia do một tên sư gia làm tân khách đã làm thay hắn.

Tôn sư gia là một tay tài học, bài văn tế của y văn chương lưu loát, từ ý thiết

tha. Thi Lang đã được nghe nhiều người tán dương, trong lòng rất lấy làm đắc ý,

nên nhiều câu hắn thuộc lòng. Hắn nghe Vi Tiểu Bảo hỏi tới liền đáp:

- Ty chức lạc thảo mấy câu, chẳng bõ làm trò cười cho Vi đại nhân.

Thế rồi hắn đọc mấy đoạn trong văn tế.

Vi Tiểu Bảo nghe hắn đọc xong đoạn:

- "Lang này vốn ở trong hàng ngũ, cùng "Tứ tính" đang vui vầy cá nước duyên

may. Ngờ đâu vì vụ tỵ hiềm nhỏ mọn mà gây nên chuyện tầy đình.

"Lang cùng "Tứ tính" trở thành đối nghịch. Tình cũ chúa tôi, quyết chẳng làm

kẻ cùng sĩ trong bụi lau. Tư ơn công nghĩa, đến vậy mà thôi"

Gã gật đầu ca ngợi:

- Hảo văn chương! Hảo văn chương! Đoạn văn này dù có bắt bản tước đem

chặt đầu cũng không thể làm được. Dù đã có người làm cho mà bảo bản tước học

thuộc lòng, e rằng đọc cả mười ngày cũng không nhớ. Thi tướng quân quả nhiên

văn võ song toàn, trí nhớ lại càng tuyệt hảo khiến bản tước khâm phục không biết

đến thế nào mà kể!

Thi Lang đỏ mặt lên, bụng bảo dạ:

- Gã biết rõ bài văn tế không phải tự ta làm ra mà có kẻ khác viết thay. Ta

đọc cho gã nghe, gã lại đưa lời trào phúng. Vậy ta không nên nói nhiều với gã.

Vi Tiểu Bảo hỏi:- Trong đoạn này có câu: "Quyết chẳng làm theo kẻ cùng sĩ trong bụi lau"

có ngụ ý gi? Bản tước kém bề học vấn không sao hiểu được. Tướng quân giải

thích cho bản tước nghe được chăng?

Thi Lang đáp:

- Kẻ cùng sĩ trong bụi lau là nói về Ngũ Tử Tư. Ngày trước Ngũ Tử Tư, người

nước Sở, phải trốn sang nước Ngô lánh nạn. Ngũ Tử Tư đi đến bờ sông, một ngư

ông chở qua bờ bên kia rồi, lại đi lấy cơm cho y.

Hắn dừng lại một chút rồi kể tiếp:

- "Ngũ Tử Tư sợ truy binh đuổi đến tróc nã phải ẩn vào trong bụi lau ở bờ

sông. Ngư ông trở lại thấy trong bụi lau có người ẩn nấp, liền cất tiếng hô:

- Người trong bụi lau ơi! Người trong bụi lau ơi! Phải chăng người là kẻ cùng

sĩ?

Sau Ngũ Tử Tư mượn quân nước Ngô đưa về đánh phá nước Sở rồi quật mả

lôi xác Sở Bình Vương đánh ba trăm roi để trả mối thù Sở Vương đã giết cha

anh."

Thi Lang kể xong sự tích Ngũ Tử Tư, nói tiếp:

- Trịnh Thành Công đã giết cha anh cùng vợ con của ty chức, nhân sĩ ở Đài

Loan sợ ty chức sau khi hạ Đài Loan rồi cũng quật thây báo thù, nên ty chức nói

trong văn tế quyết không làm việc đó. Trịnh Thành Công có linh thiêng cũng yên

tâm được và quân dân Đài Loan bất tất phải lo nghĩ về vụ này.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Té ra là thế! Thi tướng quân chỗ này đã so mình với Ngũ Tử Tư.

Hồi 227

ĐổI THÔNG CậT ĐảO THàNH ĐIếU NGƯ ĐảO

Thi Lang vội đáp:

- Ngũ Tử Tư là một bậc đại anh hùng, đại hào kiệt. Khi nào ty chức dám so

bì? Có điều Ngũ Tử Tư toàn gia bị nạn rồi một mình trốn đi. Sau y đem quân về

báo cừu tuyết hận. Cuộc tao ngộ của ty chức trong điểm này cũng tương tự như

vậy mà thôi.

Vi Tiểu Bảo lẩm nhẩm gật đầu nói:

- Bản tòa mong sao Thi tướng quân không đến nỗi đi vào kết quả như Ngũ Tử

Tư. Bằng không thì thật là bất diệu!

Thi Lang tái mặt. Bàn tay hắn đặt trên kỷ trà bất giác run lên bần bật.

Nguyên Ngũ Tử Tư lập được công lớn cho nước Ngô rồi sau lại bị Ngô vương

xử tử bêu đầu.

Gã lắc đầu nói tiếp:

- Thi tướng quân! Giữa bản tước và tướng quân trước đã có mối liên can là

thượng cấp và bộ hạ. Tình nghĩa không phải tầm thường. Có điều tướng quân tự kỷ

với Ngũ Tử Tư quả là chuyện đại nghịch vô đạo. Bài văn tế kia đã đồn đại vào

đến Bắc Kinh và dĩ nhiên đức Hoàng thượng nghe thấy rồi. Nếu không có ai phân

thuyết giúp tướng quân trước mặt Hoàng thượng thì bản tước đại nhân rằng... hà

hà... trường công lao này sẽ trôi theo dòng nước.

Thi Lang vội cãi lại:

- Xin đại nhân minh xét. Ty chức chỉ nói không làm theo hành động của Ngũ

Tử Tư, chứ không dám so mình với Ngũ Tử Tư. Trong điểm này... khác hẳn nhau.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bài văn tế của tướng quân lưu truyền khắp nơi và vụ tướng quân tự so mình

với Ngũ Tử Tư là một chuyện khắp thiên hạ ai cũng biết rồi.

Thi Lang đứng dậy, cất tiếng run bần bật:

- Hoàng thượng là bậc anh minh. ¥n đức coi bằng trời biển. Những kẻ công

thần đều được bảo toàn. Ty chức được thờ một vị minh quân là tốt số hơn Ngũ Tử

Tư nhiều lắm.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Lời tướng quân tuy rất đúng. Bụng dạ Ngũ Tử Tư thế nào, bản tước không

hiểu rõ. Chỉ khi coi tuồng hát thấy lúc Ngô Vương xử tử Ngũ Tử Tư thì ông nói:

"Các ngươi đem mắt ta khảm vào cửa thành, để ta được nhìn thấy quân Việt kéo

vào kinh đô trừ diệt Ngô quốc". Sau dường như Ngô quốc quả nhiên bị diệt vong.

Thi tướng quân văn võ toàn tài, nhất định biết thiên cố sự này. Có đúng thế

không?

Thi Lang nghe gã nói mấy câu sau bất giác ớn lạnh xương sống. Ban đầu hắn

chỉ nghĩ đến Ngũ Tử Tư đã lập đại công rồi sau bị Ngô Vương giết. Nhưng hắn

không thuộc lịch sử và mấy câu nói của Ngũ Tử Tư lúc lâm tử.

Hắn lại nghĩ tới câu "Quyết chẳng làm theo kẻ cùng sĩ trong bụi lau" tuy nói

lên không hành động theo Ngũ Tử Tư, nhưng ý kiến tỷ mình với Ngũ Tử Tư lại in vào

tai mắt mọi người. Huống chi trong bài văn tế nhắc tới chuyện Ngũ Tử Tư quật thây

báo cừu, liệu có khỏi bị Vi Tiểu Bảo nắm lấy làm lời nguyền rủa vong quốc không?

Vụ này có thể phạm vào tội lớn mà khi người ta đã khoác cho mình thì nguy hiểm

vô cùng!

Hắn lại tự nhủ:

- Một khi những câu của Vi Tiểu Bảo lọt vào tai Hoàng đế thì dù ngài là bậc

thánh minh không bắt tội mình, nhưng nhất định trong lòng ngài có ấn tượng không

hay, và mình đừng hòng được Hoàng thượng gia quan tấn tước cho nữa. ấy là chưa

kể đến nếu Hoàng đế còn kẻ thân tín như Vi Tiểu Bảo thêm mắm muối vào, gièm

pha mình có lòng oán vọng, chê bai triều đình giết kẻ công thần, thì cái đầu trên

cổ khó mà giữ vững.

Thi Lang càng nghĩ càng hối hận về việc điếu tế Trịnh Thành Công. Hắn càng

hối hận hơn về vụ bảo sư gia làm văn tế, khiến cho tên tiểu quỷ tinh ranh cổ quái

nắm được cẳng để quật mình.

Thi Lang đứng thộn mặt ra, trong lòng lo lắng, không biết phân biện cách nào

cho được.

Hắn còn đang bối rối. Vi Tiểu Bảo lại cất tiếng hỏi:

- Thi tướng quân! Đức Hoàng thượng lên chấp chính, việc đầu tiên của ngài là

việc gì?

Thi Lang đáp:

- Việc đầu tiên của đức Hoàng thượng là hạ sát tên gian thần Ngao Bái.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Đúng rồi! Ngao Bái cố nhiên là gian thần, nhưng hắn lại là cố mạng đại thần.

Ngày trước hắn đã đánh thành phá giặc lập được rất nhiều công lớn cho nhà Đại

Thanh ta.

Rồi gã kể tiếp:

- Lúc giết Ngao Bái Hoàng thượng đã nói một câu: "Trẫm hạ sát Ngao Bái đại

nhân rằng có kẻ bảo trẫm không thể tuất công thần". Ngài còn nói cái gì chim, cái

gì cung nhưng bản tước không nhớ. Tướng quân có biết không?

Thi Lang đáp:

- Đó là câu: "Chim muông hết cung tên xếp xó".

Vi Tiểu Bảo nói:

- Phải rồi! Phải rồi! Cả tướng quân cũng nói như vậy.

Thi Lang vội ngắt lời:

- Không phải thế! Không phải thế! Ty chức chỉ nhắc lại câu thành ngữ mà

Hoàng thượng thốt ra.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Tướng quân đọc câu thành ngữ để hình dung Hoàng thượng lúc hạ sát Ngao

Bái chứ gì?

Thi Lang vội đáp:

- Không phải thế. Vì đại nhân hỏi ty chức về câu thành ngữ đó, nên ty chức

chỉ nói ra để đáp lại câu hỏi của đại nhân mà thôi. Ty chức có mười cái đầu cũng...

chẳng khi nào dám buông lời phỉ báng Hoàng thượng.

Vi Tiểu Bảo dương mắt lên nhìn chằm chằm vào mặt Thi Lang, khiến hắn cực kỳ

hoang mang lo sợ.

Từ xưa đến nay, kẻ thần tử tự cho mình lập nên công lớn mà phần thưởng bạc

bẽo không xứng đáng, Hoàng đế nhất định tức giận. Đạo làm tôi không bao giờ

được thốt lời oán trách, chỉ trong lòng có ý oán hờn cũng đủ tội chết rồi.

Thi Lang trong lúc tâm thần bàng hoàng, bị Vi Tiểu Bảo dẫn dụ phọt ra câu

"Điểu tận cung tàng", nghĩa là chim muông hết cung tên bỏ xó. Hắn biết là nguy

rồi nhưng không thu về kịp nữa, huống chi ngoài Vi Tiểu Bảo, còn Lâm Hưng Châu

và Hồng Triều ngồi đó làm chứng, thì dù hắn muốn chối cãi cũng không thể được.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Thi tướng quân nói câu "Điểu tận cung tàng" phải chăng là phỉ báng Hoàng

thượng? Bản tước ít học không thể hiểu được. ở triều đình chẳng thiếu gì đại học

sĩ, thượng thơ học nhiều hiểu rộng, chúng ta sẽ xin các vị đó bình luận.

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Bản tước được kề cận Hoàng thượng trong những thời gian khá lâu dường

như ngài thích người ta xưng tụng là "Điểu Sinh Dủy Thang" (Nghiêu Thuấn Vũ

Thang), mà không thích ai nói câu "Điểu tận cung tàng". Đầu hai câu đều có chữ

"Điểu", mà nghĩa lại trái ngược nhau, chắc là một hảo điểu, một ác điểu. Có đúng

thế không?

Thi Lang vừa kinh hãi, vừa tức giận, bất giác bụng bảo dạ:

- Trời không chịu đất thì đất chẳng chịu trời. Gã định vu hãm ta thì ta đành

liều giết cả ba thằng này đi cho hết mầm họa.

Hắn nghĩ tới đây, bất giác mắt chiếu ra những tia sáng hung dữ.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên nhó thấy Thi Lang đằng đằng sát khí, mặt mũi đanh ác,

trong lòng không khỏi khiếp sợ. Gã gượng cười nói tiếp:

- Thi tướng quân là bậc đại trượng phu thì nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy.

Hiện giờ tướng quân chỉ có hai đường. Một là đem bản tước cùng Lâm, Hồng nhị vị

giết ngay đi. Tiếp theo hạ sát cả những bảy vị phu nhân và mấy đứa con của bản

tước, rồi kéo quân đến Đài Loan tự lập làm Vua. Có điều bọn tùy tùng của tướng

quân đều là quan binh nhà Đại Thanh, chưa chắc chúng chịu theo tướng quân làm

phản, mặt khác quân dân ở Đài Loan vị tất đã tâm phục tướng quân.

Thi Lang mới thầm tính trong bụng, đã nghe Vi Tiểu Bảo nói huỵch toẹt mưu

toan của hắn làm hắn bở vía. Bao nhiêu vẻ hung dữ tiêu tan hết. Thi Lang ngắt lời:

- Ty chức tuyệt không có ý nghĩ như vậy, đại nhân bất tất phải đa nghi mà

buộc tội danh vào ty chức.

Hắn dừng lại một chút rồi hỏi:

- Còn đường thứ hai thế nào? Xin đại nhân rộng ơn chỉ điểm cho.

Vi Tiểu Bảo nghe giọng nói đối phương mềm nhũn, gã cũng yên tâm một chút,

liền gác chân rung đùi đáp:

- Đường thứ hai là tướng quân phải được hai vị Lâm, Hồng cùng huynh đệ

giúp đỡ mới xong...

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Vừa rồi Thi tướng quân nhắc tới Hoàng thượng đã nói đến chữ "Điểu" là

kính cẩn xưng tụng đức Hoàng thượng như "Điểu sinh dủy thang" thì hay quá rồi!

Mai đây huynh đệ có dịp bái kiến Hoàng thượng nhất định sẽ tâu lên Thi tướng

quân chữ Trung đội ở trên đầu, lúc nào cũng tâm niệm ơn đức bao la của Hoàng

thượng. Trong khi đàm luận, tướng quân thường chê Ngũ Tử Tư quên ân phụ nghĩa.

Ngô Vương đã phát binh giúp họ Ngũ trả xong mối thù giết cha anh thì đáng lý về

sau Ngô Vương sai y làm gì, dù phải nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng không lùi

bước mới phải. Sao y lại ôm lòng bất mãn thốt lời phán vọng? Giả tỷ ngày đó Thi

tướng quân là Ngũ Tử Tư thì chẳng những hết sức giữ vững giang sơn nước Ngô

muôn ngàn năm mà đừng nói chuyện giữ một Tây Thi mỹ nhân, nếu có Đông Thi,

Nam Thi, Bắc Thi, Trung Thi cũng cướp hết đem về dâng Ngô Vương. Ngũ Tử Tư lúc

nào cũng chỉ nghĩ đến mình. Còn Thi tướng quân thì ngày ngày tâm niệm đức Thánh

minh thiên tử của nhà Đại Thanh. Kẻ hảo tâm tất được đền đáp xứng đáng. Đức

Hoàng thượng luận công ban thưởng, dĩ nhiên Thi tướng quân được phong công

hầu vạn đái.

Thi Lang nghe Vi Tiểu Bảo thuyết một hồi, sung sướng như mở cờ trong bụng.

Hắn vội đứng dậy chắp tay xá dài đáp:

- Nếu được đại nhân tâu bày Hoàng thượng bằng những lời hoa mỹ như vậy thì

ty chức suốt đời chẳng dám lãng quên ơn cao đức cả của đại nhân.

Vi Tiểu Bảo cũng đứng lên đáp lễ, mỉm cười nói:

- Lời nói chẳng mất tiền mua mà lại được ân huệ. Có điều huynh đệ vui dạ thì

dĩ nhiên lời tâu càng văn vẻ, khúc chiết.

Thi Lang tự hỏi:

- Nếu ta không để gã đi Đài Loan một chuyến thì tâm tình gã làm sao vui vẻ

cho được?

Hắn liền đáp:

- Đài Loan mới bình xong, lòng người chưa ổn. Ty chức muốn tâu lên Thánh

thượng phái một viên đại đức cao vọng trọng tới đó tuyên thị thánh đức, vỗ yên

trăm họ. Vị đại viên này dĩ nhiên là Vi đại nhân xứng đáng hơn hết. Ty chức lập

tức viết biểu tâu trình xin Hoàng thượng giáng chỉ phái đại nhân đến Đài Loan

tuyên dụ.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:

- Thi tướng quân dâng biểu về kinh để chờ chỉ ý của Hoàng thượng thì

nguyên thời giờ vãng phản đã mất mấy tháng rồi. Trong khoảng thời gian này, e

rằng miệng thế phôi pha, những điều này tiếng kia lọt vào tai Hoàng thượng rồi.

Vụ này phải làm thật gấp, không thì sai một ly đi một dặm.

Vi Tiểu Bảo thở phào nói tiếp:

- Hay hơn hết là tướng quân mời một viên thân tín của Hoàng thượng cùng đi

Đài Loan mở cuộc điều tra lập tức. Có thế mới chứng minh được tướng quân tuyệt

chẳng có ý tự lập làm Vua ở Đài Loan.

Rồi gã nói:

- Bên ngoài người ta phao ngôn Thi tướng quân đã tự đặt cả danh hiệu là Đại

Minh Đài Loan Tĩnh Hãi Vương gì đó, có đúng thế không?

Thi Lang nghe đến bảy chữ "Đại Minh Đài Loan Tĩnh Hải Vương" bất giác sợ

hết hồn, bụng bảo dạ:

- Lời phao ngôn kia mà đồn đại tới Bắc Kinh thì triều đình dù còn hoài nghi,

nhất định cũng tin là chuyện thực đề phòng ngừa, còn hơn bảo là không mà chuẩn

bị. Vụ này có thể đưa ta đến chỗ chết không còn đất chôn.

Hắn vội đáp:

- Bọn gian nhân dựng đứng len những lời phao ngôn, xin đại nhân chớ tin

tưởng họ.

Vi Tiểu Bảo thủng thẳng nói:

- Nhất định là thế! Huynh đệ cùng tướng quân biết nhau đã lâu, dĩ nhiên

chẳng khi nào tin lời đồn bậy. Có điều tướng quân đến bình định Đài Loan, không

thể tránh khỏi giết người nhiều quá nên oan gia nhất định tìm cách buộc tội để

rửa hờn. Cừu nhân đã âm mưu làm hại tướng quân thì huynh đệ tưởng khó nỗi đề

phòng cho xiết. Mối oan khiên nào phải chuyện giải thích dễ dàng cho rõ được?

Người ta đã có câu: "Trong triều không có người đỡ đầu thì đừng làm quan" thật là

phải lắm. Chẳng hiểu Thi tướng quân đã có vị đại lão nào ở trong triều làm hậu

thuẫn hết sức bênh vực mình chưa?

Thi Lang càng hồi hộp trong lòng. Tại triều hắn chẳng có nhân vật nào ủng

hộ. Chả thế mà năm trước, hắn đến Bắc Kinh bơ vơ lạc lõng, vào cửa nào cũng

không lọt. Mãi về sau được Vi đại nhân đây đỡ đầu mới thành công.

Hắn nghiến răng đáp:

- Vi đại nhân có lòng chỉ điểm khiến ty chức cảm kích vô cùng! Tình thế đã

cấp bách như vậy, ty chức đánh bạo xin đại nhân sáng mai thượng lộ đến Đài

Loan để điều tra cho rõ ngọn ngành.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nhưng gã nghĩ tới hắn đã cầu mình thì cũng làm khó dễ

một phen cho hả.

Gã tính vậy liền nói:

- Vì việc minh oan cho tướng quân thì huynh đệ có phải cực nhọc một phen

cũng chẳng có chi đáng kể. Nhưng huynh đệ ở trên đảo Thông Cật lâu ngày quá

rồi, nay lại ra khơi chỉ sợ say sóng. Đồng thời vợ con huynh đệ ngày nào cũng ở

bên mình, nhất đán khó nỗi phân ly.

Thi Lang mắng thầm trong bụng:

- Người vượt bể không biết bao nhiêu lần rồi, mà ta có thấy ngươi say sóng

con mẹ nó lần nào đâu? Đây là ngươi cố ý làm bộ với ta.

Trong lòng nghĩ vậy, nhưng ngoài mặt hắn làm bộ tươi cười đáp:

- Các vị phu nhân, công tử cùng tiểu thư dĩ nhiên đi theo đại nhân. Ty chức

sẽ lựa con thuyền thật lớn, thật êm để đại nhân nằm ngồi. Dạo này bể lặng sóng

yên, đại nhân bất tất phải quan tâm.

Vi Tiểu Bảo nhíu cặp lông mày nói:

- Đã vậy huynh đệ vì mối giao tình giữa chúng ta mà gắng gượng đi một

chuyến để giúp dùm Thi tướng quân.

Thi Lang luôn miệng tạ ơn.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo cùng bảy vị phu nhân, hai trai là Hổ Đầu, Đồng Trùy,

một gái là Song Song xuống ngồi thuyền lớn có treo cờ của Thi Lang.

Bành tham tướng toan cản trở, Thi Lang lập tức hạ lệnh cột y vào gốc cây.

Đoàn thuyền khởi hành ra khơi.

Vi Tiểu Bảo nhìn lên hòn đảo gã đã cư trú mấy năm, cười nói:

- Nhà cái đã dời đảo thì nơi đây không nên kêu bằng Thông Cật đảo nữa.

Chúng ta tìm một tên khác đổi lại mới được.

Thi Lang đáp:

- Đúng thế! Xin đại nhân xem tên gì hay đổi lại là hơn.

Vi Tiểu Bảo ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Đức Hoàng thượng phái người đến truyền chỉ đã nói: Chu Văn Vương có

Khương Thái Công câu cá, Hán Quang Vũ có Nghiêm Tử Lăng câu cá. Hễ có thánh

minh thiên tử là có trung thần câu cá. Hoàng thượng phái huynh đệ ở đây câu cá.

Vậy chúng ta đổi tên hòn đảo này làm Điếu Ngư đảo quách.

Thi Lang vỗ tay hoan hô nói:

- Đại nhân đặt tên như vậy là tuyệt hảo rồi! Điểm thứ nhất xưng tụng đức

Hoàng thượng sánh với Chu Văn Vương, Hán Quang Vũ. Điểm thứ hai tỏ rõ đại

nhân văn võ toàn tài như Khương Thái Công, lại thanh cao phong nhã bằng Nghiêm

Tử Lăng. Phải lắm! Phải lắm! Từ nay, chúng ta kêu trái đảo này bằng Điếu Ngư đảo.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Đây bất quá là huynh đệ muốn đổi tước Thông Cật hầu làm Điếu Ngư hầu.

Nếu ngày sau còn được thăng quan sẽ kêu bằng Điếu Ngư Công gì đó thì lại

không "ngon" nữa.

Thi Lang cười nói:

- "Ngư ông đắc lợi" là điểm tốt rồi. Ty chức vẫn thấy ngon lắm.

Vi Tiểu Bảo gật đầu đáp:

- Hoàng thượng phong huynh đệ làm Thông Cật bá, rồi Thông Cật hầu. Huynh

đệ nghe rất lọt tai, nhưng mấy vị phu nhân lại không hứng thú. Ngày sau sẽ tâu

trình Hoàng thượng đổi làm Điếu Ngư hầu, chắc là mọi người đều hoan hỷ.

Thi Lang cười thầm trong bụng, tự hỏi:

- Cái gì mà Thông Cật bá với Thông Cật hầu? Đây bất quá Hoàng thượng

muốn làm cho gã vui dạ và coi gã là kẻ vi thần lãng mạn chứ nào phải có ý tôn

trọng. Dù cho đổi làm Điếu Ngư hầu cũng chẳng có chi hay ho hết.

Nhưng ngoài miệng hắn nói:

- Từ ngàn xưa đã có câu "Ngư, tườu, canh độc". Ngư ông đứng đầu, người đọc

sách xuống hàng thứ tư. Vậy Điếu Ngư công hay Điếu Ngư vương so với trạng

nguyên, hàn lâm còn tôn quý hơn nhiều.

Điếu Ngư đảo phải chăng đời sau kêu bằng Điếu Ngư hải đảo? Đáng tiếc

trong sử sách không chỗ nào nói đến, thành ra khó bề kê cứu. Nếu muốn tìm di

tích của Vi Tiểu Bảo ở trên đảo, cũng chỉ thấy nói từ mấy năm đầu Vua Khang Hy,

hòn đảo này do người Trung Quốc trường kỳ cư trú và triều đình có phái năm

trăm quân xa đồn trú.

Vi Tiểu Bảo ngồi trên kỳ hạm của Thi Lang đi tới Đài Loan, lên bờ ở phủ An

Bình.

Dọc đường, Lâm Hưng Châu và Hồng Triều trỏ cho gã hay ngày trước Trịnh

Thành Công tiến binh thế nào, đại phá quân Hồng mao ra sao?

Vi Tiểu Bảo nghe hai người nói rất lấy làm thú vị. Lúc này gã nghiêm trang

thốt ra những lời trào phúng.

Thi Lang đặt tiệc lớn ở phủ tướng quân khoản đãi cực kỳ long trọng.

Mọi người đang yến ẩm, chợt nghe báo có chỉ dụ ở Đế Kinh đưa tới.

Thi Lang vội ra tiếp chỉ. Lúc hắn trở vào vẻ mặt lo âu, nhìn Vi Tiểu Bảo nói:

- Vi đại nhân! Thượng dụ truyền ra phế bỏ Đài Loan không đồn trú nữa. Vụ

này thật là hỏng bét!

Vi Tiểu Bảo lấy làm kỳ hỏi:

- Sao lại thế được?

Thi Lang đáp:

- Thượng dụ ra lệnh cho ty chức chuẩn bị bỏ Đài Loan và đưa hết quân dân

toàn Đài Loan đi vào nội địa. Không một nhà, một người nào được ở trên đảo...

Hắn thở dài nói tiếp:

- Ty chức đã hỏi sứ thần thì đây là kiến nghị của các đại thần trong triều nói

Đài Loan là hòn đảo cô lập ở hải ngoại dễ biến thành sào huyệt của đạo tặc.

Triều đình khống chế khó khăn. Nếu phái đại quân đồn trú phải tiêu phí nhiều

lương tiền. Vì thế mà quyết định rút đi.

Vi Tiểu Bảo trầm ngâm một lúc rồi hỏi:

- Thi tướng quân có biết dụng ý chân chính của các vị đại lão trong triều là

thế nào không?

Thi Lang kinh hãi cất giọng run run đáp:

- Chẳng lẽ... chẳng lẽ câu chuyện Ngũ Tử Tư gì đó đã đồn đại vào đến Bắc

Kinh.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói:

- Người ta đã có câu: "Điều hay không ra khỏi cửa, việc dở truyền đi ngàn

dặm". Triều đình sợ tướng quân quả có ý muốn làm Đại Minh Đài Loan Tĩnh Hải

Vương gì gì đó.

Thi Lang càng sợ hãi, miệng ấp úng:

- Biết làm... làm thế nào bây giờ? Trăm họ ở Đài Loan có đến hàng chục vạn

người đã an cư lạc nghiệp mấy chục năm mà nay nhất đán đưa vào nội địa thì họ

sinh hoạt bằng cách nào? Nếu bức bách cuộc thiên di đi này tất sinh đại biến.

Huống chi quan binh nhà Đại Thanh bỏ đi, quân Hồng mao lại đến chiếm cứ. Người

Trung Quốc chúng ta phải bao nhiêu tân khổ mới gây dựng nên cơ nghiệp ở đây

mà nay dâng cho bọn Hồng mao quỷ thì bách tính cam tâm thế nào được.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bản tước nhận thấy vụ này không đến nỗi hoàn toàn vô phương cứu vãn.

Đức Hoàng thượng rất mực nhân từ, yêu thương trăm họ. Bây giờ tướng quân thỉnh

mạng cho bách tính, may ra Hoàng thượng chuẩn tấu cũng chưa biết chừng.

Thi Lang nghe gã nói đã yên tâm một phần. Hắn hỏi:

- Nhưng trong triều đã phong phanh chuyện gì mà ty chức tâu trình như vậy

tựa hồ không muốn dời khỏi Đài Loan, lại càng tỏ ra... có lòng phản nghịch thì

sao?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Tướng quân nên lập tức trở về Bắc Kinh đem tình trạng này diện tấu Hoàng

thượng. Tướng quân tới Bắc Kinh rồi thì những lời phao vu vụ tự lập làm Đài Loan

Vương dĩ nhiên không còn ai tin nữa.

Thi Lang nói:

- Phải lắm! Phải lắm! Lời chỉ giáo của đại nhân hay tuyệt. Sáng mai ty chức

phải thượng lộ ngay.

Hắn chợt động tâm cơ nói tiếp:

- Những văn võ quan viên ở Đài Loan, xin đại nhân tạm thời thống lãnh giùm

cho, Đức Hoàng thượng hết lòng tín nhiệm đại nhân. Chỉ cần đại nhân trấn giữ Đài

Loan là các đại thần ở trong triều chẳng ai dám nói ra nói vào nữa.

Vi Tiểu Bảo mừng thầm nghĩ bụng:

- Ta ở Đài Loan làm quan ít lâu cho biết mùi kể ra cũng thú.

Gã cười hỏi:

- Tướng quân chưa được thánh chỉ, mà thiện tiện giao đại quyền binh mã cho

bản tước, nếu Hoàng thượng phiền trách thì làm thế nào?

Thi Lang nghe gã hỏi lại phân vân trong dạ, nghĩ thầm:

- Gã là đệ tử của Trần Cận Nam, là đồng đảng của bọn Thiên Địa Hội phản

nghịch. Vì thế đức Hoàng thượng tuy sủng ái gã mà mấy năm nay bắt ở lại Thông

Cật đảo, không giao quyền bính hoặc cho làm một việc gì. Nếu gã cầm quyền

binh mã vào tay rồi cùng bọn Thiên Địa Hôi tạo phản thì ta... chắc bị xử tử.

Sau một lúc xoay chuyển ý nghĩ, hắn tìm ra kế hoạch tự nhủ:

- Ta đem toàn bộ thủy quân đưa đi là gã không dám cử động gì nữa. Nếu gã

lớn mật làm càn, mưu đồ tạo phản, thì ta dẫn binh quay lại cũng dẹp được ngay.

Hắn liền cười đáp:

- Ty chức nghĩ rằng đem đại quyền ở Đài Loan giao cho người khác có khi

Hoàng thượng trách phạt, nhưng trao vào tay đại nhân thì chẳng có điều chi phải

úy kỵ.

Sau khi tan tiệc, Thi Lang hạ lệnh ngay đêm triệu tập văn võ quan viên ở Đài

Loan đến tham kiến Vi Tiểu Bảo để giới thiệu việc trao quyền chỉ huy lại cho gã.

Thi Lang lại mời sư gia viết bản tấu cho Vi Tiểu Bảo nói là vì lo việc quân

quốc mà tam thời trấn thủ Đài Loan để triều đình khỏi mối lo về mặt đông, đồng

thời xin triều đình tha cho tội tự ý chuyên quyền.

Mọi việc xong xuôi toan xuống thuyền khởi hành ngay.

Hồi 228

CUộC ĐÔNG TIếN CủA QUÂN LA SáT

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Còn một việc lớn, tướng quân đã chuẩn bị chưa?

Thi Lang hỏi lại:

- Ty chức không hiểu còn đại sự gì?

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Chuyến này tướng quân bình trị Đài Loan, công lao không phải là nhỏ.

Tướng quân phải đưa ít nhiều lễ vật cho mỗi vị đại thần ở trong triều.

Thi Lang ngơ ngác hỏi:

- Đây là nhờ uy lực của thiên tử, công lao của tướng sĩ mà bình được Đài

Loan. Các đại thần trong triều có giúp sức gì đâu?

Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:

- Lão Thi ơi! Lão Thi đắc ý lại đâm ra chứng nào tật ấy. Lão Thi bình trị Đài

Loan người ta đều tưởng lão là cây tiền núi bạc. Lão Thi phát tài một mình nuốt

hết. Các quan trong triều chẳng ai là không đỏ mắt.

Thi Lang vội nói:

- Đại nhân minh xét cho. Thi Lang này mà lấy một lạng bạc nào của Đài Loan

thì chuyến này lên Bắc Kinh cam chịu đức Hoàng thượng xử tội lăng trì, ngàn đao

phanh thây.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Bản tước biết rồi. tướng quân tự mình muốn làm một vị quan thanh liêm thì

được, nhưng không thể bắt mọi người theo mình làm thanh quan. Tướng quân càng

thanh liêm, người ta càng dễ gièm pha tướng quân. Họ bảo tướng quân ở Đài Loan

mua chuộc lòng người, mưu đồ bất chính. Chuyến này tướng Đài Loan lên Bắc Kinh

với hai bàn tay trắng, chẳng đem theo lễ vật mà toàn được ư?

Thi Lang đáp:

- Thổ sản ở Đài Loan có những thứ gỗ khắc, giỏ tre, chiếu cỏ, níp da, đành

đem đi mỗi thứ một ít.

Vi Tiểu Bảo nổi lên tràng cười hô hố. Gã cười lăn cười lộn khiến cho Thi Lang

thẹn đỏ mặt lên. Nhưng rồi hắn tỉnh ngộ ngay, nhìn Vi Tiểu Bảo xá dài nói:

- Đa tạ đại nhân có lòng chỉ điểm. Chuyến này ty chức xuýt nữa lại gây nên

vạ lớn.

Vi Tiểu Bảo triệu tập văn võ quan viên lại, nói:

- Này Thi tướng quân lên Bắc Kinh để thỉnh mạng cho trăm họ. Nếu không

thành công thì toàn đảo phải nhà tan cửa nát. Khoản thỉnh mạng phí này chẳng lẽ

để một mình Thi tướng quân phải bỏ ra? Các vị lão huynh! Các vị mau mau thu

xếp đỡ đần cho tướng quân mới được.

Thi Lang trị quân rất nghiêm chỉnh, làm quan rất thanh liêm. Hắn đến Đài Loan

chưa từng lấy tiền bạc vàng lụa của dân gian một chút nào. Nay Vi Tiểu Bảo tiếp

tay, lệnh đầu tiện của gã là đưa ra khoản thỉnh mạng phí. May mà trăm họ ở Đài

Loan làm ăn cần kiệm, nhà nào cũng phú túc. Họ lại phong phanh có chỉ dụ ban ra

cho quân dân phải thiên cư, ai nấy đều hồi hộp lo sợ. Bây giờ nghe nói Thi Lang

muốn tiến kinh thỉnh mạng cho trăm họ khỏi phải thiên cư, nên khoản thỉnh mạng

phí ai cũng vui lòng gom góp. Mới nửa ngày đã thu được trên ba chục vạn lạng.

Vi Tiểu Bảo lại hạ lệnh mượn ở công khố ngoài sáu chục vạn lạng nữa là một

trăm vạn lạng. Gã còn chỉ điểm cho Thi Lang cửa nào cần đưa nhiều tiền và chỗ

nào chỉ phải đưa ít.

Thi Lang cảm kích vô cùng! Hắn lật đật thu xếp cho tới canh một mới khai

thuyền được.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo ra công đường, nhìn các quan nói:

- Về vụ Thi tướng quân đêm qua khởi hành tiến binh, khoản thỉnh mạng phí

tính lui tính tới còn thiếu hơn trăm vạn lạng. Bản tước vì bảo vệ trăm họ mà phải

đem hết bao nhiêu tiền gom góp bấy lâu, lấy cả châu báu cùng đồ trang sức của

bảy vị phu nhân mới đủ số để giao cho Thi tướng quân đem đi sử dụng. Hỡi ơi!

Làm quan ở Đài Loan thật không phải chuyện dễ dàng. Huynh đệ bất quá tạm thờixử lý mà ngày đầu tiên đã mất không một trăm vạn lạng. Thế là nước lã ra sông,

trong nhà sạch sành sanh.

Viên tri phủ ở Đài Loan khom lưng đáp:

- Khải bẩm đại nhân! Đây là đại nhân vì thương yêu trăm họ mà hết lòng. Đại

nhân làm cha mẹ dân chẳng khác gì Phật sống của bách tính. Ngoài trừ số tiền hơn

sáu chục vạn lạng mượn ở công khố, một trăm vạn lạng của đại nhân dĩ nhiên đều

do trăm họ gom góp để kính hoàn.

Vi Tiểu Bảo gật đầu nói:

- Các vị mỗi người đều phải góp tiền là lại hai bàn tay trắng. Cái đó huynh

đệ biết lắm. Bây giờ các vị quan to phải góp đến hàng vạn lạng, quan nhỏ cũng

mấy ngàn hay mấy trăm không nhất định. Các vị đồng tâm hiệp lực cũng chỉ vì trăm

họ mà thôi. Về khoản này dĩ nhiên nhân dân địa phương sẽ trả lại. Có điều chúng

ta đã là quan phụ mẫu thì chẳng thể tính lời với trăm họ. Chỗ đó đành chịu thiệt

vậy.

Các quan nghe nói cả mừng, đều ngỏ lời tạ ơn. Họ nhận thấy Vi đại nhân rất

thể tình cho người dưới. Phát tài đều được hưởng chung. Đúng là một vị thượng

cấp tuyệt hảo.

Vi Tiểu Bảo làm quan ngày đầu tiên đã khoét được một trăm vạn lạng bạc. Từ

đó trở đi tài nguyên tiếp tục cuồn cuộn đưa vào. Nghề xoay tiền của gã rất khôn

ngoan, bất tất phải thuật kỹ.

Sau mấy bữa, Vi Tiểu Bảo lại sai chuẩn bị lễ vật đến nhà từ đường tế điện

Trịnh Thành Công để coi hình dạng của một vị Quốc tính gia lừng danh thiên hạ

xem thế nào?

Vi Tiểu Bảo vào nhà từ đường, ngẩng đầu nhìn lên thấy tượng Trịnh Thành

Công ngồi nghiêm trang trên ghế. Khuôn mặt tròn trĩnh, môi trên môi dưới và nơi

cằm mọc râu đen tua tủa.

Vi Tiểu Bảo nhìn tượng Trịnh Thành Công thấy tai to nhưng mắt nhỏ, cặp lông

mày cong cong. Tướng mạo đầy vẻ hiền hòa, tuyệt không ra chiều hảo mại anh

hùng. Trong lòng không khỏi thất vọng, gã liền quay lại hỏi:

- Tướng mạo Quốc tính gia có giống hệt thế này không?Lâm Hưng Châu đáp:

- Pho tượng này tạc theo chân tướng của Quốc tính gia dĩ nhiên giống hệt.

Quốc tính gia nguyên là người đọc sách xuất thân. Ngài nổi tiếng đại anh hùng đại

hào kiệt, song tướng mạo rất nho nhã.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Té ra là thế!

Gã lại ngó thấy hai bên đặt hai pho tượng nhỏ. Pho bên trái là phụ nữ, pho

bên phải là nam nhân. Gã hỏi:

- Hai pho tượng kia là ai?

Lâm Hưng Châu đáp:

- Pho nữ tượng là Đổng thái phi, còn nam tượng là Tự vương gia.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Tự vương gia là ai?

Lâm Hưng Châu đáp:

- Là Đại công tử của Quốc tính gia, lên tiếp nhiệm làm Vương gia.

Vi Tiểu Bảo gật đầu nói:

- à!Thế ra là Trịnh Kinh. Tướng mạo Tự vương gia cũng hao hao giống tên tiểu

tử Trịnh Khắc Sảng.

Gã lại hỏi:

- Còn tượng gia sư là Trần quân sư đặt ở đâu?

Lâm Hưng Châu đáp:

- Trần quân sư không có tượng.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Mụ Đổng thái phi tồi bại quá chừng! Mau mau hạ tượng mụ xuống và kêu thợ

tạc ngay pho tượng Trần quân sư đặt vào đó để bầu bạn với Quốc tính gia.Lâm Hưng Châu cả mừng, lập tức chuồn vào khám thờ, hạ tượng Đổng thái phi

xuống.

Vi Tiểu Bảo quỳ lạy trước mặt tượng Trịnh Thái Công. Gã dập đầu mấy cái

rồi khấn.

Khải bẩm Quốc tính gia! Ngài là bậc anh hùng hào kiệt. Vãn bối khấu đầu làm

lễ chắc Ngài cũng vui lòng. Mụ kiền bà này làm hư đại sự của Ngài mà hàng ngày

bầu bạn với Ngài, nhất định làm cho Ngài phải bực mình. Vãn bối giúp Ngài đuổi mụ

đi cho và đặt tượng của gia sư tức Trần quân sư thế vào để bồi tiếp ngài.

Gã nghĩ tới sư phụ bị thảm tử, bất giác dòng châu lã chã khôn cầm.

Trăm họ ở Đài Loan đều căm hận Đổng phi thấu xương. Còn Trần Vinh Hoa

lại chăm việc khẩn điền, mở mang việc học, chấn hưng điều lợi, trừ bỏ điều hại,

thương yêu trăm họ. Nhân dân đều xưng hô ông là Gia Cát Lượng ở Đài Loan.

Nhưng gặp lúc Trịnh Khắc Sảng cầm quyền, không ai dám nói đến những điều tệ

hại của Đổng thái phi mà cũng không dám ca tụng Trần Vinh Hoa câu nào. Bây giờ

Vi Tiểu Bảo hạ lệnh dẹp bỏ tượng Đổng thái phi khiến cho mọi người khoan khoái

vô cùng! Lại thấy Vi Tiểu Bảo sụp lạy trước tượng Quốc tính gia, nước mắt đầm

đìa, trăm họ đều cảm kích.

Tuy Vi đại nhân đòi tiền khá nặng, nhưng một là y làm đệ tử của Trần quân sư

nên nhân dân Đài Loan đem lòng kính ái. Hai là Thi Lang dẫn quân Thanh đến lấy

Đài Loan trừ diệt mảnh giang sơn của nhà Đại Minh ở ngoài biển. Vì thế mà chẳng

ai ưa, mặc dù hắn là vị quan thanh liêm.

Trăm họ còn nhận thấy ở vị thiếu niên Vi đại nhân này tính nết hòa ái dễ bề

thân cận và đều mong y trấn thủ Đài Loan, hay hơn hết là Thi Lang vĩnh viễn không

trở về.

Nhưng sự thực trái với tâm nguyện. Sau đó hơn một tháng. Thi Lang dẫn thủy

binh trở về Đài Loan.

Vi Tiểu Bảo ra bờ biển nghênh tiếp. Gã thấy Thi Lang bồi tiếp một vị đại

quan mặc phẩm phục vào hàng nhất phẩm đưa lên bờ.

Vị đại quan này vừa bước lên cầu thang đã lớn tiếng hô:

- Vi huynh đệ! Huynh đệ mạnh giỏi chứ? Ca ca nhớ huynh đệ muốn chết.Vi Tiểu Bảo ngưng thần nhìn lại thì ra Sách Ngạch Đồ. Gã mừng rỡ vô cùng

lật đật tiến ra.

Hai người tay bắt mặt mừng đứng trên cầu thang, miệng cười ha hả.

Sách Ngạch Đồ cười nói:

- Vi huynh đệ! Ca ca đem tin mừng đến đây. Đức Hoàng thượng xuống chỉ

cho huynh đệ trở về Bắc Kinh.

Vi Tiểu Bảo vừa mừng vừa lo, nghĩ bụng:

- Nếu ta chịu đi Bắc Kinh thì đã đi từ trước rồi. Vị tiểu Hoàng đế này rất cố

chấp, không chịu đầu hàng ta. Ta không ưng đánh lại Thiên Địa Hội, Ngài cũng

không cần nhìn mặt ta nữa.

Thi Lang cũng cười hì hì nói tiếp:

- Hoàng ân bát ngát không thể nói xiết được! Đức Hoàng thượng đã chuẩn

tấu thu hồi chỉ dụ thiên di nhân dân ở Đài Loan vào nội địa.

Quân dân ở Đài Loan hơn một tháng nay ngày đêm lo ngay ngáy, chỉ sợ

Hoàng đế kiên trì việc phế bỏ Đài Loan, vì họ cho là Kim khẩu của đức Hoàng đế

phán ra quyết không thay đổi. Bây giờ Thi Lang nói câu này, quan viên trên bờ

vừa nghe lọt tai, không nhịn được lớn tiếng reo hò và đồng thanh hoan hô:

- Muôn năm! Muôn năm! Đức kim thượng vạn vạn tuế.

Tin này không có chân mà chạy thật nhanh. Chỗ nào cũng có tiếng hoan hô

nổi dậy tưng bừng. Tiếp theo là tiếng pháo nổ rền không ngớt, so với cuộc đốt

pháo ngày tết còn náo nhiệt hơn.

Theo sử chép thì hồi ấy triều đình đã có quyết nghị bỏ Đài Loan. Sau này

Thi Lang hết sức tranh đấu, quan đại học sĩ Lý úy cũng xoay dùm mới thành quyết

định thiết lập nha quan, phái quân đồn trú. Lúc đương thời việc này tựa hồ nhỏ

mọn, nhưng ảnh hưởng rất lớn cho hậu thế.

Ngày ấy nếu Thi Lang đấu tranh bất lực thì Thanh đình bình xong họ Trịnh rồi

liền phóng khí Đài Loan, bắt quân dân toàn Đài Loan phải thiên di vào nội địa, tất

người Hà Lan trở lại chiếm cứ và từ đó đảo Đài Loan không còn thuộc về bản đồ

Trung Quốc nữa.Đương thời tuy rất nhiều người thóa mạ Thi Lang là Hán gian, nhưng đối với

dân tộc Trung Hoa, hắn đã ra sức tranh đấu cho triều đình thu hồi quyết nghị bỏ

Đài Loan, bảo toàn được mảnh đất lớn lao trên bản đồ Trung Quốc, vậy công lao

này không phải là nhỏ. Thi Lang lại tâu lên Hoàng đế xin giảm thuế điền địa cho

đảo Đài Loan và được đức Vua theo lời. Vậy hắn cũng có công với trăm họ ở Đài

Loan.

Con thứ của Thi Lang là Thi Thế Luân làm quan rất thanh liêm. Gặp trường

hợp bình dân có chuyện tranh chấp với quan viên, Thi Thế Luân tất nhiên che chở

bình dân. Vì thế mà nhân dân xưng hô ông bằng Thi Thanh Thiên.

Thi Thế Luân là vai chính trong truyện Thi Công án để lại cho đời sau.

Con thứ sáu của Thi Lang là Thi Thế Loa làm Thủy sư đề đốc tỉnh Phúc Kiến

đồn trú ở Đài Loan năm Khang Hy thứ 16.

Sử chép rằng:

"Ngày 13 tháng 8 trời nổi quái phong bạo vũ gây nên tai nạn làm cho quân

dân chết hại khá nhiều. Thế Loa đứng suốt đêm ngoài trời rồi mắc bệnh mà chết ở

trong quân vào khoảng tháng chín.

Đức Vua hạ chỉ lân tuất truy tặng hàm Thái tử Thái bảo."

Thế Loa suốt đêm ở bên ngoài tắm mưa gội gió chỉ huy cuộc cứu thiên tai

nhân đó mà bị bệnh mà thác, cũng đáng kể là một viên quan hết lòng thương yêu

bách tính. Đó là việc về sau, hãy xin tạm gác.

Nhắc lại Sách Ngạch Đồ truyền chỉ dụ tưởng thưởng Vi Tiểu Bảo và sai gã lập

tức lai kinh để bổ nhiệm vào việc khác.

Vi Tiểu Bảo tạ ơn xong, hai người liền vào nội đường truyền cho tả hữu lui ra

để bàn chuyện kín.

Sách Ngạch Đồ nói:

- Huynh đệ! Thể diện của huynh đệ phen này không phải là nhỏ, đức Hoàng

thượng sợ trong lòng huynh đệ còn có điều úy kỵ nên đặc biệt sai tiểu huynh

đến thúc giục. Huynh đệ có biết Hoàng thượng sắp phái huynh đệ đi làm sứ mạng

gì không?Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:

- Đức Hoàng thượng thần cơ diệu toán thì bọn nô tài chúng ta làm sao mà

đoán thấu được?

Sách Ngạch Đồ ghé miệng vào bên tai gã khẽ nói:

- Đánh La Sát quỷ!

Vi Tiểu Bảo sửng sốt rồi nhảy reo lên:

- Tuyệt diệu!

Sách Ngạch Đồ nói:

- Đức Hoàng thượng đã bảo huynh đệ được tin này nhất định cao hứng vô

cùng, quả nhiên đúng thiệt. Huynh đệ! Bọn quỷ La Sát chiếm cứ một giải Hắc Long

Giang của chúng ta từ triều Thuận Trị. Bọn chúng rất đỗi ngông cuồng. Đức tiên

đế khoan hồng đại lượng, không muốn chấp trách. Ngờ đâu bọn quỷ La Sát được

đằng chân lân đằng đầu, chiếm đất mỗi ngày mỗi nhiều. Tỉnh Liêu Đông là nơi căn

bản của nhà Đại Thanh ta thì để bọn quỷ đó uy hiếp thế nào được? Hiện nay đã

dẹp xong loạn Tam Phiên và bình trị họ Trịnh ở Đài Loan rồi, nhà nước không còn

việc gì nữa, nên đức Hoàng thượng quyết dùng binh để đối phó với La Sát.

Vi Tiểu Bảo ăn không ngồi rồi ngoài đảo Thông Cật chắn ngán chẳng khác gì

đánh bài cẩu rút phải "mười tịt" hoài. Nay gã được tin này nức lòng nở dạ, há hốc

ra không ngậm lại được nữa.

Sách Ngạch Đồ lại nói:

- Đức Hoàng thượng không muốn bới việc đã gửi mấy đạo chỉ dụ cho Quốc

vương nước La Sát mà thủy chung họ không phúc đáp. Sau có sứ thần nước Hà

Lan chuyển bẩm nói là nước La Sát tuy lớn nhưng rất man di mọi rợ. Khắp nước

không một người nào hiểu được văn tự Trung Quốc. Họ tiếp được chỉ dụ của

Hoàng đế ta mà chẳng hiểu chi hết, nên không biết đường phúc đáp. Đã thế quân

La Sát thủy chung vẫn không đình chỉ việc chiếm đất.

Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Đức Hoàng thượng còn nói Trung Hoa chúng ta là thượng quốc, biết điều

nhân nghĩa, chẳng thể không giáo huấn man di đã mở cuộc giết tróc. Vậy trướchết là xử hòa hài, huấn dụ họ một phen dể họ có cơ hội cải quá. Nếu sau khi

huấn dụ, họ vẫn bướng bỉnh không tuân giáo hóa, bây giờ sẽ ra tay tru lục. Các vị

đại thần ở trong triều không thông hiểu ngôn ngữ La Sát, chỉ có một mình huynh

đệ.

Lời chú của tác giả: Thời bấy giờ cuộc giao thiệp Trung - Nga, hai bên không

hiểu ngôn ngữ, không thông văn tự là chuyện thật. Sử chép rằng: Sa Hoàng nước

Nga gửi thư cho Vua Khang Hy có câu: "Trước đức Hoàng đế có ban cho cuốn

sách, nhưng hạ quốc không sao hiểu được, hãy còn bỏ đó".

Vi Tiểu Bảo nghĩ bụng:

- Té ra là vì ta hiểu tiếng quỷ La Sát mà tiểu Hoàng đế chịu đầu hàng ta.

Vẻ đắc ý của gã lộ ra mặt.

Sách Ngạch Đồ hỏi:

- Huynh đệ tinh thông nói cùng văn tự nước La Sát dĩ nhiên là điều đáng quý

lắm rồi, nhưng còn một chuyện lớn càng không ai theo kịp. Nghe nói tỷ tỷ của

Quốc Vương La Sát cũng làm Nhiếp chính mà vị nữ vương này lại là chỗ rất thân

mật với huynh đệ có đúng thế không?

Vi Tiểu Bảo cười ha hả đáp:

- Nữ nhân nước La Sát đầy mình lông lá. Nhiếp chính nữ vương Tô Phi á tướng

mạo coi được, nhưng nàng da to, sờ vào ráp lắm.

Sách Ngạch Đồ cười nói:

- Đức Hoàng thượng đã muốn huynh đệ xuất mã, huynh đệ ráng làm cho nên

việc, dù có phải sờ mó cũng cố mà chịu.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:

- Không tiêu được đâu! Không tiêu được đâu!

Sách Ngạch Đồ nói:

- Huynh đệ sờ một cái mà hai nước giao hảo, từ đây khỏi tai họa binh đao.

Đó là một kỳ công để an bang định quốc.

Vi Tiểu Bảo cười nói:- Té ra đức Hoàng thượng chẳng phải phái tiểu đệ dẫn quân đi đánh giặc mà

là đi thi triển "Thập bát mô thần công". Ha ha! Thế này thì tức cười đến chết!

Đoạn gã hắng giọng cất tiếng hát:

- "Một ta sờ, hai ta sờ, sờ vào mái tóc vàng hoe của nữ vương nước La Sát.

Tóc nữ vương chẳng khác hoàng kim. Vi Tiểu Bảo tha hồ mà xài"

Hai người trông nhau cả cười.

Vi Tiểu Bảo chợt nhớ tới một điều vội hỏi:

- Tại sao đức Hoàng thượng lại biết chuyện tiểu đệ dính dấp với nữ vương

nước La Sát? Minh kiến của ngài trông xa muôn dặm, chẳng lẽ cả chuyện này Ngài

cũng nhìn thấy?

Sách Ngạch Đồ cười nói:

- Cái đó thì tiểu huynh không thể biết được. Hoặc giả trong bọn thuộc hạ

của huynh đệ có người khải tấu đến tai Hoàng thượng.

Vi Tiểu Bảo vỗ đùi nói:

- Phải rồi! Nhất định là thằng cha Phong Tế Trung đã tâu động cửu trùng.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi đến tình hình nước La Sát xâm chiếm Hắc Long Giang.

Sách Ngạch Đồ liền thuật một cách tường tận:

- Nguyên từ đời Vạn Lịch nhà Minh, người La Sát đã quyết ý xâm lẫn phương

Đông.

Nước La Sát tức là nước Nga La Tư. Trong những truyện Thanh sử cảo, Lang

Viên có nói: Nga La Tư hay La Sát chỉ là phiên âm mau hay chậm mà thôi. Đọc chậm

là Nga La Tư mà đọc nhanh thành La Sát. Theo bản âm của tiếng Nga thì đọc thành

La Sát tương đối giống hơn.

Nước La Sát kế tiếp xây những thành Thác Mộc Tư Khắc, Diệp Ni Tái Tư Khắc,

Nhã Khố Thứ Khắc, Ngạc Hoắc Thứ Khắc ở đất Tây Bá Lợi á.

Năm Thuận Trị thứ sáu, người La Sát lại xây thành trên núi Lộc Đỉnh kêu bằng

A Nhĩ Ba Thành, người Trung Quốc gọi là Nhã Tát Khắc thành. Đồng thời chúngtheo dòng sông tiến về phía Đông. Dọc đường chúng cướp bóc nhũng nhiễu

nhân dân.

Năm Thuận Trị thứ chín, quan đô thống nhà Mãn Thanh ở Ninh Cổ Tháp là Hải

Sắc dẫn hai ngàn quân đánh đuổi bọn La Sát ở bên bờ sông Hắc Long Giang.

Về sau lại có cuộc giao phong ở cửa sông Tùng Hoa giang, quan đô thống

nhà Mãn Thanh là Minh An Đạt Lý, dũng cảm tiến đánh, phá tan quân La Sát.

Quân La Sát lui về phía tây đắp thành ở Ni Bố Sở, một mặt sai sứ về Mạc Tư

Khoa xin viện binh. Sứ giả dọc đường phao ngôn là suốt giải Hắc Long Giang đầy

rẫy kim ngân, trâu ngựa từng đàn. Phòng ốc của dân cư đều dát vàng. Vì thế người

La Sát mơ mộng một phen đại phát tài, liền kết thành từng đội tiến về phía đông.

Dọc đường chúng cướp bóc tàn hại trăm họ, nhất là toán kỵ binh Kha Tát Khắc lại

càng tàn bạo.

Quan đô thống nhà Mãn Thanh ở Ninh Cổ Tháp là Sai Nhĩ Hổ Đạt và tướng

quân Ba Hải lĩnh binh cự địch vào những năm Thuận Trị thứ 16, 17, thắng liền mấy

trận, giết chết viên đại tướng thống lĩnh quân La Sát và chém giết toán kỵ binh

Kha Tất Khắc đến quá nửa. Từ đó, người La Sát không dám tiến đến bờ sông Hắc

Long Giang nữa.

Mấy năm đầu Vua Khang Hy, quân dân La Sát lại kéo đến, dùng Nhã Tát Khắc

thành làm căn cứ địa.

Vua Khang Hy dần dần lớn tuổi biết dã tâm của người La Sát rất lớn, liền hạ

lệnh gia tăng cuộc phòng thủ và dời đội thủy quân ở Cát Lâm đến trú phòng tại

Hắc Long Giang.

Quân La Sát cũng không ngớt gia tăng thêm mỗi ngày một nhiều, chúng đắp

thành Nhã Tát Khắc rất kiên cố. Đồng thời đặt nhà trạm trên đường giao thông

đến bản độ nước La Sát. Chúng quyết ỷ lấy cả khu vực rộng lớn theo giải Hắc

Long Giang.

Khi ấy Vua Khang Hy đang đem toàn lực để đối phó với Ngô Tam Quế,

không thể chia quân chống cự bọn xâm lược La Sát, phải chờ khi bình xong tam

Phiên, họ Trịnh ở Đài Loan cũng quy hàng, không còn lo mối lo nội bộ, ngài mới

yên tâm đối ngoại.Nhà Vua nhớ tới Vi Tiểu Bảo đã qua Mạc Tư Khoa, chẳng những gã hiểu nội

tình nước La Sát mà còn có mối quan hệ không phải tầm thường với Nhiếp chính nữ

vương hiện đang nắm quyền bính nước La Sát. Gã còn được nàng phong tước cho

nữa. Đây là một con cờ lợi hại trong tay khi nào Hoàng đế lại không dùng tới?

Nhà Vua vừa hay tin Vi Tiểu Bảo đã đến Đài Loan, liền sai Sách Ngạch Đồ đi

triệu về tức khắc.

Vi Tiểu Bảo đem theo vợ con, lại sai phu khuân vác món tiền "thỉnh mạng tài"

lấy được ở Đài Loan xuống thuyền bắc tiến.

Lúc lâm hành gã còn đòi Thi Lang trả lại những tướng lãnh thủ hạ của họ Trịnh

ngày trước là Hà Hựu, Lâm Hưng Châu, Hồng Triều cùng năm trăm đằng giáp binh.

Thi Lang biết chuyến này gã tiến kinh nhất định lại được trọng dụng. Hắn còn

trông cậy gã ở trong triều bảo vệ cho mình, nên gã đòi điều gì hắn cũng chịu

ngay. Hắn còn đưa tặng một phần hậu lễ cho Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch Đồ.

Trăm họ ở Đài Loan biết triều đình sở dĩ thủ tiêu quyết định di dân vào nội

địa là nhờ công đức cao cả của thiếu niên Vi đại nhân này, nên ai ai cũng đem

lòng cảm kích. Nhân dân lấy cả Vạn dân tán, Hộ dân kỳ ra làm hành trang để tiễn

đưa.

Lúc Vi Tiểu Bảo xuống thuyền, hai vị kỳ lão trụt giày gã ra giơ cao lên nói là

xin lưu lại để làm kỷ niệm.

Lễ thoát hài này nguyên chỉ dành cho những quan địa phương thanh chính của

Thanh triều. Trăm họ quyến luyến mới dùng nghi tiết này.

Vi Tiểu Bảo là một viên quan ăn tiền mà cũng được hưởng vinh dự đó thì thật

là chuyện tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả. Cuộc hoan tống còn pháo nổ rầm trời,

tiếng reo dậy đất, tưởng không cần thuật kỹ.

Hồi 229

TƯởNG HồN MA HóA RA NGƯờI SốNG

Một hôm thuyền tới Đường Cô, Vi Tiểu Bảo cùng Sách Ngạch Đồ lên bờ,

qua Thiên Tân về đến Bắc Kinh.

Vi Tiểu Bảo vào đến cửa thành, tưởng chừng như đã qua một đời người. Gã

nức lòng hởi dạ, tấm thân nhẹ nhàng như muốn bay lên tiên cảnh. Gã vào bái yết

đức Hoàng đế ngay tức khắc.

Vua Khang Hy đang ở Ngự thư phòng truyền chỉ cho gã vào triều kiến.

Vi Tiểu Bảo vén rèm cửa tiến đến trước mặt nhà Vua phục xuống dập đầu

lạy. Gã chưa đứng thẳng người lên, bất giác trong lòng nổi mối bi thương, cứ nằm

phục dưới đất lớn tiếng khóc ròng.

Nhà Vua ngó thấy gã, trong lòng nửa phần hoan hỷ, nửa phần tức giận, bụng

bảo dạ:

- Thằng nhỏ này vô pháp vô thiên dám trái thánh chỉ. Chuyến này tuy phái gã

đi sứ, nhưng cũng cần trừng giới gã một phen để gã khỏi ỷ mình được sủng ái mà

sinh kiêu ngạo. Nếu không thế gã sẽ thành con ngựa bất kham khó mà kiềm chế

được.

Tuy đức Vua định bụng như vậy, không ngờ Ngài thấy Vi Tiểu Bảo khóc lóc,

long tâm lại nhũn ra. Ngài cười hỏi:

- Con mẹ nó! Thằng lỏi này vừa thấy lão gia, sao lại khóc òa lên?

Vi Tiểu Bảo vừa khóc vừa tâu:

- Nô tài đã tưởng kiếp này không còn cơ hội thấy mặt Hoàng thượng nữa. Mà

bữa nay nô tài lại được triều kiến long nhan. Nỗi mừng vui quá độ khiến nô tài xúc

động không cầm được nước mắt.

Vua Khang Hy cười nói:

- Dậy đi! Dậy đi! lại đây cho ta coi.

Vi Tiểu Bảo lồm cồm đứng lên, mặt mũi đầy nước mắt nước mũi, bên môi lộ

một nụ cười.

Đức Vua cười nói:

- Con mẹ nó! Thằng lỏi này cao lớn gớm rồi!

Bất giác Ngài nổi đồng tâm, dời khỏi ngự tọa, nói:

- Chúng ta thử so xem ta cao hay là ngươi cao.

Ngài tiến lại đứng sát vào lưng Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo thấy bề cao của nhà Vua cũng tương tự như mình, nhưng Ngài đã

muốn so sánh cao thấp, chẳng lẽ lại để tôi cao hơn chúa, gã liền co đầu gối lại

một chút.

Vua Khang Hy đưa tay lên sờ hai cái đầu, thấy mình cao hơn một tấc liền cười

nói:

- Chiều cao của chúng ta tương tự như nhau.

Đoạn Nhà Vua trở gót bước đi mấy bước, vừa cười vừa hỏi:

- Tiểu Quế Tử! Ngươi sinh hạ được mấy trai mấy gái rồi?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Nô tài kém cỏi lắm, mới được hai trai một gái.

Nhà Vua cười ha hả nói:

- Vụ này ta giỏi hơn ngươi. Hiện nay đã có bốn trai ba gái.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Thánh thượng hùng tài đại lược, dĩ nhiên... dĩ nhiên không ai bì kịp.

Nhà Vua cười nói:

- Đã mấy năm qua mà đường học vấn của ngươi chẳng tiến thêm được chút

nào. Việc sinh hạ tử nữ thì có liên quan gì đến hùng tâm đại lược.

Vi Tiểu Bảo tâu:- Ngày trước Vua Văn Vương nhà Chu sinh hạ một trăm con. Đại phàm các vị

hảo Hoàng đế đều đông con.

Vua Khang Hy cười hỏi:

- Sao ngươi biết chuyện đó?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Hoàng thượng phái nô tài đi câu cá cũng tỷ như Chu Văn Vương và Khương

Thái Công. Dĩ nhiên nô tài phải hỏi cho biết chuyện Chu Văn Vương, phòng khi

Hoàng thượng hỏi đến, biết đường mà tấn đối.

Mấy năm nay Vua Khang Hy lo lắng việc đánh dẹp Ngô Tam Quế. Ngài bận bã

suốt ngày đêm lo mưu tính kế, điều động quốc gia đại sự. Bên mình Ngài thiếu Vi

Tiểu Bảo, một kẻ thần tử nhỏ tuổi, đàm tiếu để giải khuây. Nhiều lúc Ngài cảm thấy

cô đơn. Bây giờ quân thần trùng hội, lòng dạ thảnh thơi, liền nói chuyện phiếm

một lúc. Đức Vua hỏi đến các sinh nhai của hắn ở đảo Thông Cật cũng như dân

tình ở Đài Loan.

Vi Tiểu Bảo kể lại tình hình sinh sống của gã ngoài hải đảo rồi đáp:

- Đất cát ở Đài Loan rất phì nhiêu, mức sản xuất thật khả quan. Trăm họ ở

trên đảo đều sinh hoạt sung túc. Dân chúng được tin Hoàng thượng chuẩn cho họ

ở lại Đài Loan đều cảm kích hoàng ân không biết đến thế nào mà kể! Họ coi

Hoàng thượng như trời cao đất dầy, như cha sinh mẹ đẻ.

Vua Khang Hy gật đầu nói:

- Việc thi chính trước hết là đừng quấy nhiễu nhân dân. Trăm họ đã an cư lạc

nghiệp ở Đài Loan mà cưỡng ép họ phải thiên cư vào lục địa là một vụ rất phiền

nhiễu. Các đại thần trong triều chẳng hiểu gì về tình hình Đài Loan nhắm mắt đưa

ra đề nghị càn rỡ, xuýt nữa làm lỡ đại sự. Ngươi cùng Thi Lang hết sức khuyên can.

Công lao này không phải là nhỏ.

Vi Tiểu Bảo nhảy xổ lại, quỳ mọp xuống dập đầu tâu:

- Nô tài mấy lần vi chỉ, dù phải chặt đầu đến 17, 18 lần cũng đáng lắm. Bất

luận nô tài có công lao gì, Hoàng thượng cũng bất tất phải để tâm. Nô tài chỉ khẩncầu đại đức tha mạng và chuẩn cho nô tài được phục thị luôn bên mình Hoàng

thượng.

Vua Khang Hy mỉm cười đáp:

- Ngươi đã biết chặt đầu đến 17, 18 lần cũng đáng, nhưng tiếc rằng ngươi lại

chẳng có 18 cái đầu, nếu không ta nhất định chặt đi 17 cái.

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Dạ dạ! Nô tài không cần nhiều đâu, chỉ cầu Hoàng thượng để lại một cái

cho còn miệng ăn cơm và nói năng được là đủ lấy làm thỏa mãn lắm rồi.

Vua Khang Hy nói:

- Cái đầu này còn để hay không là ở nơi ngươi. Từ nay trở đi ngươi hết lòng

trung, không bao giờ dám vi chỉ thì đầu còn, mà trái lại là mất.

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Nô tài chữ trung vẫn đội trên đầu, trung tâm cảnh cảnh, xích đảm trung tâm,

tận trung báo quốc.

Nhà Vua cười hỏi:

- Những thành ngữ về chữ trung, ngươi nhớ được khá nhiều. Còn gì nữa

không?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Cả tấm lòng của nô tài là một chữ trung, dĩ nhiên nhớ nhiều. Còn... còn

trung quân ái quốc, trung thần bất phụ tử, phụ tử bất trung thần... lại còn trung

hậu lão thực...

Vua Khang Hy nói:

- Đứng dậy đi! Ngươi mà trung hậu lão thực thì trong thiên hạ chẳng còn một

tên nào điêu ngoa giảo hoạt nữa.

Vi Tiểu Bảo đứng dậy nói:

- Tâu Hoàng thượng! Nô tài chỉ trung với một người là đức Hoàng thượng, còn

đối với kẻ khác dĩ nhiên không trung mấy, có khi còn gian nữa là khác. Nô tài có

tính lưu manh, cái đó Hoàng thượng cũng biết rồi. Nhưng đối với Hoàng thượngdốc dạ trung tâm, đối với bạn bè hết lòng nghĩa khí. Gặp trường hợp trung nghĩa

khôn vẹn hai bề, nô tài đành rụt đầu rụt cổ ngồi câu cá ngoài đảo Thông Cật.

Nhà Vua đáp:

- Ngươi bất tất phải lo âu. Ta không bắt ngươi đi đánh Thiên Địa Hội nữa...

Ngài chắp tay để sau lưng, bước đi mấy bước, chậm rãi nói tiếp:

- Đối với bằng hữu hết lòng nghĩa khí, đó là một đức tốt, ta cũng không trách

ngươi. Thánh nhân giảng đạo trung thứ chì chữ trung không phải chỉ nói về việc

thờ Vua mà đối với ai đã tận tâm kiệt lức cũng là hết lòng trung. Hai chữ trung

nghĩa tuy một mà hai, tuy hai mà một. Ngươi chẳng thà chịu chết chứ không phụ

bạn, không vì vinh hoa phú quý mà bán đứng bạn hữu là một điều hiếm có, theo

đúng phong độ của cổ nhân. Ngươi đã không phụ bạn hữu, dĩ nhiên là không phụ

ta. Tiểu Quế Tử! Ta miễn tội trạng cho người chẳng phải hoàn toàn vì người đã lập

nhiều công lao từ trước, cũng không phải vỉ ngươi chơi với ta từ thuở nhỏ, mà là vì

ngươi biết trọng nghĩa khí.

Vi Tiểu Bảo cảm kích vô cùng. Gã nghẹn ngào tâu:

- Nô tài... nô tài chẳng hiểu chi hết, mà chỉ biết người ta thật lòng đối đãi với

mình, thì mình không thể phản bạn được.

Vua Khang Hy gật đầu hỏi:

- Nhiếp chính nữ vương nước La Sát đối với ngươi tử tế lắm, nay ta phái ngươi

đi đánh y thì ngươi tính sao?

Vi Tiểu Bảo bật lên tiếng cười hích hích đáp:

- Nhiếp chính nữ vương bị người giam lại xuýt nữa bỏ mạng. Nô tài xui nàng

cổ động bọn lính súng đoạt được ngôi cao. Như thế là đã trả ơn rồi. Nàng phái

binh định cướp đoạt giang sơn cẩm tú của Hoàng thượng thì chẳng thể nào dung

tha được. Người đàn bà này cực kỳ lãng mạn. Bữa nay đi theo một nam nhân, ngày

mai lại dính dấp với kẻ khác. Như thế chẳng thể nói là chân tâm được. Đáng tiếc

nước La Sát ở xa quá, không thì nô tài dẫn một cánh quân đến bắt nữ vương đó

đưa về để Hoàng thượng coi, kể ra cũng thú.

Vua Khang Hy nói:- Năm chữ "Nước La Sát xa quá" là một điều khẩn yếu. Chúng ta phải tính làm

sao đánh một trận cho thắng ngay. Hỏa khí của La Sát tuy lợi hại, kỵ binh của La

Sát tuy kiêu dũng, nhưng bọn chúng ở xa, mà chúng ta ở gần. Quân La Sát vượt

đường vạn dặm, việc tiếp tế binh sĩ, lừa ngựa, hỏa khí, đạn dược, lương thảo, quần

áo không phải chuyện dễ dàng...

Nhà Vua dừng lại một chút rồi tiếp:

- Hiện ta đã phái Hộ bộ thượng thư là Y Tang xây đắp hai thành ái Huy và Hô

Mã Nhĩ, chứa lương thảo cùng đạn dược rất nhiều, lại thiết lập mười nhà trạm lớn

để cung ứng quân nhu lương thảo một cách dễ dàng và liên tục không bị gián

đoạn. Hôm trước ta lại truyền chỉ đến Mông Cổ không cho họ giao dịch với người

La Sát. Ta còn phái Hắc Long Giang tướng quân là Tát Bố Tố dẫn kỵ binh đến

những nơi trồng lúa tiểu mạch và cao lương của người La Sát để phóng hỏa đốt

hết, hoặc thấy lừa ngựa của quân La Sát cũng giết con mẹ nó đi.

Lời chú của tác giả:

- Những lời thuật trên đây đều là sự thực theo trong sử ký. Vua Khang Hy

dụng binh thắng được nước La Sát chẳng phải là chuyện may mắn mà vì kế hoạch

chu đáo, chỉ huy đúng phép, chiến lược chuẩn đích.

Vi Tiểu Bảo cả mừng tâu:

- Hoàng thượng điều động như vậy thì đúng là ngồi trong... cái gì... để quyết

thắng ra ngoài ngàn dặm. Trận đánh này thế là thắng được phần nửa rồi.

Vua Khang Hy nói:

- Chưa chắc đâu. La Sát là một nước lớn. Theo lời Nam Hoài Nhân thì địa đồ

La Sát còn rộng hơn Trung Quốc chúng ta, nhất quyết không thể khinh địch. Bọn

ta mà thất bại để mất Liêu Đông là dao động đến Trung Nguyên. Còn bọn họ có

thua cũng không quan hệ đến đại cục, chỉ phải lui về phía tây mà thôi. Vì thế trận

đánh này nhất định phải thắng, không thể thua được. Ngươi mà thất bại thì ta phải

lĩnh binh thân chinh. Khi ấy việc đầu tiên của ta là chặt đầu ngươi.

Nhà Vua nói mấy câu này vẻ mặt cũng như thanh âm đều nghiêm khắc.

Vi Tiểu Bảo sợ hãi tâu:- Xin Hoàng thượng vạn an. Cái đầu của nô tài không giữ vững được ở trên

cổ thì đã bị quân La Sát chém rồi, quyết không đến Hoàng thượng phải ra tay.

Vua Khang Hy nói:

- Ngươi hiểu rõ được điểm này là hay. Binh cơ hung hiểm, chiến sự nguy nan

không ai nắm vững được phần thắng. Ta chỉ cần ngươi chớ coi thường. Đánh trận

không phải trò đùa.

Vi Tiểu Bảo kính cẩn đáp:

- Dạ dạ! Nô tài xin thận trọng.

Vua Khang Hy lại nói:

- Nếu chỉ có việc hành quân đánh trận thì không cần đến ngươi đi. Nhưng

chuyến này khai chiến với nước La Sát không phải để tiêu diệt họ, chỉ cốt cho họ

thấy khó mà rút lui, không dám xâm phạm cương thổ của ta nữa. bản ý của ta là

như vậy. Vì thế cần kiêm dùng cả ân lẫn uy. Bọn họ đội đức cảm ơn, hai nước vĩnh

viễn hòa hảo mới là thượng sách. Nếu chỉ một đường chém giết thì nước La Sát có

bại trận cũng làm cho quốc vương họ thẹn quá hóa giận, sẽ điều động cả nước

sang đánh. Dù chúng ta có thắng trận cũng gây nên mối họa về binh đao không

bao giờ chấm dứt được. Lão tử đã nói: "Việc binh đao là chuyện bất tường, không

phải hành động quân tử, bất đắc dĩ mới phải dùng tới". Nếu hòa được thì hòa đi là

hơn. Không đánh mà khiến cho quân đội của người phải khuất phục là thượng

thượng đại cát.

Nhà Vua nhìn thẳng vào mặt gã nói tiếp:

- Nếu ngươi thuyết phục được Nhiếp chính nữ vương nước La Sát hạ lệnh lui

binh, hai nước giảng hòa thì công lao của người lại càng lớn nữa.

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Nô tài gặp tướng La Sát sẽ đem thánh dụ của Hoàng thượng mở đường cho

bọn họ, lại bảo họ chuyển lời đến Nhiếp chính nữ vương.

Vua Khang Hy nói:- Ta đã sai mấy vị giáo sĩ ở Tây dương đi hỏi cho biết những cố sự trải bao

triều đại của nước La Sát, cùng là phong thổ, địa lý, quân chinh, nhân sự ở nước

này...

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Hay lắm! Hay lăm! Thế là Hoàng thượng đã biết người biết mình, tất nhiên

bách chiến bách thắng.

Nhà Vua mỉm cười nói:

- Bọn giáo sĩ đều nói người La Sát khinh khi kẻ hiền lành, sợ hãi người hung

dữ. Nếu ngươi chỉ một niềm dùng lời tử tế với họ thì họ được đằng chân lân đằng

đầu, lại càng làm dữ. Vì thế cần lộ ra cho họ biết lực lượng và không dám trêu

vào tay bọn ta. Do đó chúng ta một mặt phải huy động đại quân, chuẩn bị đầy

đủ, muốn đánh là đánh. Mặt khác mình tỏ ra là một thượng quốc chuộng lễ nghĩa

không ỷ mạnh để uy hiếp ai.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Nô tài hiểu rồi. Chúng ta có lúc phải đỏ mặt rút đao tỏ vẻ hùng hổ, có khi

đưa bộ mặt trắng ra cười hì hì để vuốt ve họ. ý như Gia Cát Lượng thất cầm Mạnh

Hoạch khiến họ thua mà phải tâm phục không dám tạo phản nữa.

Vua Khang Hy cười khành khạch đáp:

- Chính là thế đó.

Vi Tiểu Bảo thấy tiếng cười của nhà Vua có điều cổ quái, gã xoay chuyển ý

nghĩ, hiểu rõ lý lẽ, liền cười nói:

- Lại tỷ như đức vạn tuế thất cầm Tiểu Quế Tử, khiến cho nô tài vừa cảm kích

vừa sợ hãi, từ nay không dám dở quẻ. Tiểu Quế Tử lại ví như Tôn Ngộ Không, dù

thần thông quảng đại cũng không tài nào nhảy ra khỏi bàn tay nhà Phật của đức

vạn tuế.

Vua Khang Hy cười nói:

- Ngươi càng lớn tuổi lại càng khiêm nhường. Giả tỷ muốn nhảy ra khỏi lòng

bàn tay ta thì ta cũng không nắm giữ được.

Vi Tiểu Bảo đáp:- Nô tài được ở trong lòng bàn tay Hoàng thượng thì trong dạ khoan khoái

vô cùng, khi nào còn nhẩy ra nữa?

Vua Khang Hy nói:

- Về vụ Ngô Tam Quế, kể ra công lao của ngươi không phải là nhỏ. Trong

công cuộc này không biết ngươi có theo kịp chăng? Nay ta phái ngươi thống lãnh

Thủy lục tam quân đi đánh nước La Sát, đã cho đắp thành Nhã Tát Khắc trên núi

Lộc Đỉnh và phong ngươi làm Tam đẳng Lộc Đỉnh Công, Phủ viễn đại tướng quân.

Võ tướng có bọn đô thống Bằng Xuân, Hắc Long Giang tướng quân Tát Bố Tố,

Ninh Cổ Tháp tướng quân Ba Hải giúp sức, văn có Sách Ngạch Đồ giúp đỡ. Trước

hết chúng ta hãy lấy một vạn quân mã bộ, năm ngàn thủy binh. Nếu chưa đủ thì

muốn lấy thêm bao nhiêu nữa cũng được. Trong thành ái Huy, Ninh Cổ Tháp đã

dồn chứa lương thảo đủ dùng cho đại quân được ba năm. Ngoài ra, quân nhu, lừa

ngựa đều chuẩn bị đầy đủ. Về dã chiến pháo có một trăm năm mươi cỗ, súng đánh

thành năm mươi cỗ. Như vậy đã đủ chưa?

Vua Khang Hy nói một câu, Vi Tiểu Bảo lạy tạ ơn một lời. Gã chờ đức Vua

nói xong rồi quỳ xuống dập đầu lia lịa.

Vua Khang Hy lại nói:

- Kỵ binh và bộ binh của nước La Sát đóng ở Nhã Tát Khắc và Ni Bố Sở

không đầy hai ngàn. Chúng ta dùng binh lực gấp bảy tám lần để đối phó, thế là

sức nặng muôn cân đối với họ rồi. Ngươi đừng để oai danh của người Trung Hoa

bị tổn thương mới được.

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Trận đánh này nô tài đại biểu cho đức Hoàng thượng để xuất binh, bọn nô

tài chỉ chùn nhụt một chút cũng đủ khiến người La Sát coi thường. Xin Hoàng

thượng cứ yên tâm.

Nhà Vua hỏi:

- Ngươi còn cần dùng gì nữa không?

Vi Tiểu Bảo đáp:- Nô tài có đem theo năm trăm quân đằng giáp ở Đài Loan về kinh. Bọn

chúng đã đánh trận với quân Hồng Mao, chuyên chống cự hỏa khí. Nô tài tưởng

nên dẫn bọn này đi chinh tiễu La Sát.

Vua Khang Hy cả mừng nói:

- Như vậy càng hay. Bọn cựu bộ của Trịnh Thành Công đã đả bại toán quân

Hồng Mao nước Hà Lan mà ngươi dẫn đi chiến đấu với bọn La Sát thì chúng ta lại

nắm chắc thêm mấy phần thủ thắng. Ta vẫn lo âu hỏa khí của quân La Sát rất lợi

hại có thể gây nên thương vong quá nhiều cho tướng sĩ bên ta.

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Đằng bài có thể cản trở súng đạn đối phương. Quân đằng giáp lại lăn mình

dưới đất xông tới dùng đao chém vào chân quân địch.

Nhà Vua nức nở khen:

- Thế thì tuyệt diệu! Thế thì tuyệt diệu!

Vi Tiểu Bảo lại tâu:

- Nô tài có một tiện thiếp, ngày trước đã theo đến Mạc Tư Khoa, nên thị

cũng tinh thông La Sát quỷ thoại. Nô tài thỉnh cầu Hoàng thượng gia ân chuẩn cho

thị được đi theo trong quân đề phòng khi dùng đến.

Nên biết lề luật của Thanh triều lúc ra quân mà đem thao gia quyền là một

tội lớn, vì thế Vi Tiểu Bảo phải tấu trình trước.

Vua Khang Hy gật đầu đáp:

- Ta biết rồi. Ngươi đi lập công cho lẹ.

Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ ơn lui ra. Gã vừa tới cửa phòng, nhà Vua lại hỏi:

- Nghe nói sư phụ ngươi là Trần Vinh Hoa bị Trịnh Khắc Sảng giết chết phải

không?

Vi Tiểu Bảo sửng sốt đáp:

- Dạ!... Đúng thế!

Nhà Vua dặn:- Nay Trịnh Khắc Sảng đã quy hàng triều đình và ta chuẩn cho rồi. Vậy con

cháu họ Trịnh nhất luật được bảo toàn. Ngươi đừng làm khó dễ gì với hắn.

Vi Tiểu Bảo không làm sao được dĩ nhiên phải vâng chỉ.

Chuyến này gã lai kinh định kiếm Trịnh Khắc Sảng để rửa hận. Ngờ đâu Vua

Khang Hy đã tiên liệu và dăn dò như vậy mà còn đụng đến hắn tức là vi chỉ. Gã tự

hỏi:

- Chẳng lẽ mối thù hạ sát sư phụ mà ta bỏ qua được ư?

Gã cúi đầu từ từ cất bước. Bỗng nghe tiếng người hô:

- Vi đại nhân! Cung hỷ đại nhân.

Vi Tiểu Bảo nghe thanh âm rất quen thuộc, ngửng đầu lên nhìn thấy người

đứng trước mặt thân cao vai rộng, đang cười hề hề nhìn mình. Người này chính là

quan Ngự tiền thị vệ tổng quản Đa Long.

Vi Tiểu Bảo giật nẩy mình lên. Ngày trước gã trốn ra khỏi Hoàng cung về phủ,

chính gã đã vung đao đâm chết Đa Long. Gã tự hỏi:

- Phải chăng đây là hồn ma xuất hiện để đòi mạng?

Gã sợ quá, toàn thân run bần bật đã toan xoay mình bỏ chạy rồi lại muốn

quỳ xuống năn nỉ xin tha, nhưng hai chân gã vẫn đóng đinh xuống đất, không sao

di động được nửa bước. Hạ thể trước sau đều cấp bách, còn thiếu té đái vãi

phân.

Bỗng thấy Đa Long tiến gần lại nắm lấy tay gã cười nói:

- Hảo huynh đệ! Lâu nay không thấy mặt, ca ca lúc nào cũng tưởng nhớ. Mọi

việc đều được như ý cả chứ? Nghe nói huynh đệ ở Thông Cật đảo câu cá cho

Hoàng thượng. Thỉnh thoảng lại được Thánh chúa vinh thăng quan tước. Ca ca cũng

vui mừng.

Vi Tiểu Bảo thấy bàn tay lão nóng hổi. ánh mặt trời đã chiếu vào hành lang.

Bên người lão có bóng hẳn hoi, dường như không phải ma quỷ. Nỗi kinh hãi đã

giảm bớt một phần.

Gã ngần ngừ đáp:- Dạ dạ!...

Bây giờ gã lại sợ Đa Long nghĩ tới mối thù cũ tính bài trả oán. Gã rất nghi

ngờ vì hiển nhiên gã đã phóng trủy thủ đâm vào trái tim lão thì sao lại không

chết?

Trong lúc hoang mang, gã không tìm ra được đáp án.

Lại nghe Đa Long nói:

- Ngày đó ca ca ở trong phủ huynh đệ bị người ám toán may nhờ huynh đệ

đánh đuổi thích khách, ca ca mới được toàn mạng. Vụ này ca ca chưa có dịp ngỏ

lời tạ ơn, nhưng trong lòng lúc nào cũng ghi nhớ.

Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Huynh đệ ở Đài Loan còn gửi Thi Lang cho quà, ca ca thật cảm động quá!

Vi Tiểu Bảo thấy vẻ mặt lão rất thành khẩn, quyết không phải đưa lời móc

máy. Gã nghĩ thầm:

- Lão làm Ngự tiền thị vệ tổng quản, làn cận thần bên mình Hoàng thượng, Thi

Lang chuyến vừa rồi về kinh đút lót dĩ nhiên lão phải có phần. Chắc là lão hỏi Thi

Lang về chuyện ta nên họ Thi nhân tiện mua chút nhân tình đã nói là trong lễ vật

có phần của ta để tỏ vẻ hắn kết giao thâm hậu với ta ở Đài Loan. Kể ra Thi Lang

cũng khôn ngoan. Hắn nói thế phòng khi có ai làm khó dễ cũng phải nể mặt ta

phần nào.

Rồi gã tự hỏi:

- Nhưng lão bảo ta đánh đuổi thích khách cứu lão khỏi chết thì làm gì có

chuyện đó? Vụ này khiến ta phải điên đầu cũng không nghĩ ra.

Đa Long thấy sắc mặt Vi Tiểu Bảo lúc trắng bợt, lúc xanh lè, hình như trong

lòng hồi hộp lo âu, liền cho là vừa rồi gã đã bị nhà Vua chỉ trích điều gì, liền tìm

lời an ủi:

- Dạo này đức Hoàng thượng thường khi nóng lòng nóng ruột, chắc là vì nước

La Sát khinh ta thái quá. Huynh đệ bất tất phải quan tâm. Lát nữa chúng ta vào

quấy Hoàng thượng một bữa rồi sẽ nói chuyện.

Vi Tiểu Bảo đáp:- ¥n đức của Hoàng thượng như trời cao đất dầy. Ngài vừa mới thăng quan

cho tiểu đệ. Tiểu đệ hết lòng cảm kích, không biết thế làm thế nào để báo đáp

quân ân.

Đa Long cười nói:

- Cung hỷ! Cung hỷ! Huynh đệ làm việc mẫn cán, chia sẻ mối lo của Hoàng

thượng được thăng quan là việc dĩ nhiên.

Lão nói câu này cũng lộ vẻ vui mừng.

Hồi 230

THốNG LãNH BA QUÂN LàM ĐạI SOáI

Vi Tiểu Bảo thấy giọng nói và vẻ mặt của Đa Long đối với mình vừa ra

chiều thân thiết, vừa tỏ vẻ thành thực hâm mộ. Gã lại biết lão là một hán

tử thẳng thắn, không quen làm bộ giả dối, bao nhiêu nỗi lo âu sợ hãi trong lòng

đều tiêu tan hết. Gã cười nói:

- Đa tạ đại ca! Xin đại ca chờ một chút. Tiểu đệ mắc đi tiểu quá rồi. Vì hầu

chuyện Hoàng thượng rất lâu phải nín nhịn cho đến bây giờ thì không nín được

nữa rồi.

Đa Long cười hơ hớ. Lão biết Hoàng đế đã tuyên triệu vào bệ kiến thì thần

tử chưa thấy nhà Vua xuống chỉ cho lui ra, chẳng khi nào dám cáo thoái. Kẻ thần

tử gặp lúc mót đái là một chuyện thật rầy rà. Nhưng trường hợp này cũng hiếm lắm.

Chỉ vì Vi Tiểu Bảo là hạng sủng thần, Hoàng đế mới nói chuyện lâu với gã. Còn

đối với đại thần khác, Ngài chỉ nói vài ba câu đã xuống chỉ cho rút lui không đến

nỗi té đái vãi phân.

Giữa Đa Long và Vi Tiểu Bảo trước kia rất thân thiết với nhau, nay lại cửu

biệt trùng phùng, dĩ nhiên trong lòng cao hứng kể sao cho xiết! Lão liền dắt tay

gã đưa đến cửa căn nhà gianh rồi đứng chờ.

Hôm ấy, Vi Tiểu Bảo gặp trường hợp bất đắc dĩ mà phải phóng lao đâm Đa

Long. Gã nghĩ tới bình nhật lão đối với mình rất tử tế, thân mật, trong lòng gã

không khỏi ân hận.

Ai ngờ lão lại không chết và tuyệt chẳng có ý gì phiền trách gã nên gã vào

tiểu tiện càng thêm phần khoan khoái. Gã định đi tiểu xong trở ra sẽ tìm cách dò

hỏi cho biết rõ tình trạng ngày trước.

Nhưng gã vừa ra, Đa Long đã nói ngay:

- Hôm ấy lúc ca ca tỉnh lại, hỏi ra mới biết mình nằm liệt giường đã ba ngày

bốn đêm. Quan thái y cho hay may mà trái tim của ca ca mọc lệch đi, nên nhát

đao của thích khách chỉ đâm vào phổi, chứ chưa chạm đến trái tim. Thái y còn bảo

những người trái tim mọc lệch như ca ca thì hàng chục vạn người cũng khó có một.

Vi Tiểu Bảo la thầm:

- Trời ơi! Thật đáng thẹn cho ta! Té ra vì vậy mà lão không chết.

Gã cười đáp:

- Tiểu đệ cứ tưởng đại ca là một hảo hán tâm trường thẳng thắn, dè đâu lại

có trái tim thiên lệch. Trái tim đại ca đã thiên lệch thì nhất định cũng thiên ái một

vị tiểu di thái thái nào đó đặc biệt hơn các vị thái thái khác?

Đa Long ngạc nhiên một chút rồi cười đáp:

- Huynh đệ không nhắc, ca ca cũng không nghĩ tới. Thực tình ca ca sủng ái đệ

bát phòng tiểu thiếp gấp đôi các phòng khác. Đó chắc cũng vì lẽ trái tim thiên

lệch mà ra.

Hai người lại cười ồ.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Tên thích khách đó võ công rất cao cường. Hắn đến ám toán đại ca mà tiểu

đệ cũng không phát giác.

Đa Long nói:

- Phải rồi!

Lão hạ thấp giọng xuống nói tiếp:

- Vừa gặp lúc Kiến Ninh Công chúa điện hạ đến thăm huynh đệ, chúng ta là

phận nô tài không dám hỏi nhiều về vụ này. Ca ca phải dưỡng thương ba tháng

mới bình phục. Hoàng thượng cho hay Vi huynh đệ đã liều mạng giải cứu ca ca

được toàn sinh và đâm chết thích khách. Những chi tiết tường tận về vụ này, huynh

đệ bất tất nhắc tới nữa. Nói tóm lại, ca ca rất cảm ơn huynh đệ.

Vi Tiểu Bảo là hạng mặt dầy, có thể nói là mặt dầy số nhất số nhì tại triều

Khang Hy, nhưng nghe lão nói mấy câu này cũng không khỏi thẹn đỏ mặt lên.

Bây giờ gã mới hay Hoàng đế đã dấu diếm cho mình. Một là chính miệng

Hoàng đế nói ra, dĩ nhiên Đa Long tin ngay, không còn nghi ngờ gì nữa. Hai là vụnày dính líu đến chuyện tư tình của Công chúa, thì người trong cung càng ít người

biết càng hay. Dù ai nghi ngờ đến đâu cũng phải dấu kín trong lòng.

Nếu không thế, Vi Tiểu Bảo cũng phải bịa chuyện hoang đường để che lấp,

là một điều khổ tâm cho gã.

Vi Tiểu Bảo trong lòng vô cùng hổ thẹn. Gã định bụng đối với người bạn

trung hậu thành thực này phải có phen báo đáp để đền bù tội lỗi.

Gã liền nói:

- Tiểu đệ ở Đài Loan có đem về một ít thổ nghi. Lúc trở về sẽ sai người đem

tới biếu đại ca.

Đa Long xua tay lia lịa gạt đi:

- Bất tất phải thế! Chúng ta như người một nhà, sao huynh đệ còn ra chiều

khách sáo? Lần trước Thi Lang đã đưa lễ vật của huynh đệ về cho ca ca. Thế là

nhiều quá rồi.

Vi Tiểu Bảo chợt nhớ tới điều gì bụng bảo dạ:

- Vụ này làm ơn được mà không mất tiền. Hoàng thượng có biết ra cũng

chẳng thể bảo là ta vi chỉ.

Gã liền cười hì hì hỏi:

- Đa đại ca! Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng sau khi quy hàng ở Bắc Kinh làm trò

gì?

Đa Long đáp:

- Hoàng thượng đối đãi với hắn cũng tử tế, phong cho hắn hàm Nhất đẳng

công. Thằng lỏi đó thật vô tích sự, bất quá nhờ phước ấm của tổ tiên mà tước vị

còn cao hơn huynh đệ một bậc.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Ngày trước chúng ta giỡn chơi đã vu cho hắn thiếu nợ bọn thị vệ một vạn

lạng bạc, do tiểu đệ bỏ ra trả nợ cho hắn. Vụ đó đại ca còn nhớ không?

Đa Long cười khanh khách đáp:- Nhớ chứ! Nhớ chứ! Vị cô nương mà huynh đệ ưa thích đó về sau ra làm sao?

Nếu cô còn đi theo hắn thì chúng ta tới đó đoạt cô lại.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười đáp:

- Vị cô nương đó đã thành vợ của tiểu đệ và sinh con rồi.

Đa Long cười nói:

- Cung hỷ! Cung hỷ! Nếu không thế thì tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng ở đất

Kinh sư mới là Nhất đẳng công, Nhị đẳng công, một vị tước gia chỉ có hư danh mà

không quyền thế phỏng có khác gì hổ lạc bình nguyên bị chó lờn?... Con mẹ nó!

Tiểu huynh nói lầm rồi. Chúng ta tới tận nhà, chắc thằng lỏi đó phải sợ co vòi,

đến phát trung tiện cũng không dám phóng ra...

Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Loài phiên vương đã đầu hàng thì suốt ngày nơm nớp lo sợ. Chúng ta đại

nhân là đại nhân Hoàng thượng thường nghi ngờ hắn trong lòng bất phục rồi toan

bài tạo phản.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Chúng ta cũng bất tất phải khinh khi gã. Có điều giết người thì phải thường

mạng, thiếu nợ thì phải trả tiền. Đó là việc thiên kinh địa nghĩa. Đừng nói gã bất

quá mới là Nhất đẳng công, dù đến bậc thân vương quốc thích cũng chẳng thể

quịt nợ ai được.

Đa Long nói:

- Phải lắm! Phải lắm! Ngày ấy hắn thiếu huynh đệ một vạn lạng bạc. Trong bọn

ngự tiền thị vệ của chúng ta rất đông người chứng kiến. Vậy chúng ta đến đòi nợ.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói:

- Thằng lỏi đó thật chẳng ra gì. Nguyên một vạn lạng bạc đó chưa đáng kể.

Sau hắn còn tiếp tục vay tiểu đệ nhiều lần. Chính hắn hạ bút viết giấy thiếu nợ

đưa cho tiểu đệ giữ. Ba đời họ Trịnh nhà hắn ở Đài Loan làm Vương gia tích lũy

kim ngân tài bảo nào phải ít của? Lần này nhất định hắn đem cả đến Bắc Kinh.

Trịnh Thành Công và Trịnh Kinh là hảo nhân, có khi không khoét tiền của trăm họ,

nhưng tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng chẳng lẽ cũng chịu nới tay? Hắn làm Vương giamột ngày, ít ra cũng thu được hàng trăm vạn lạng, hai ngày hai trăm vạn, ba ngày

ba trăm vạn. Hắn làm Vương gia mấy ngày thì đại ca cứ tính ra mà lấy nợ.

Đa Long há miệng líu lưỡi đáp:

- Thật là lợi hại! Thật là lợi hại!

Vi Tiểu Bảo nói:

- Tiểu đệ về tìm những giấy nợ đưa cho đại ca. Khoản tiền đòi được, tiểu đệ

không lấy nữa...

Đa Long vội ngắt lời:

- Thế thì không được. Tiểu huynh chỉ đòi dùm thôi và nhất định đưa lại không

thiếu một đồng. Tiểu huynh đã đem bọn thị vệ dưới trướng đến nhà đòi nợ thì dù

hắn lớn mật đến đâu cũg chẳng dám chống cự không trả.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Khoản nợ này lớn lắm! Thằng lỏi đó ngày trước ăn xài dữ quá, phung phí

tiền bạc như cỏ rác. Nay muốn đòi một lần mà lấy đủ đại nhân không phải chuyện

dễ dàng. Bây giờ làm thế này vậy. Đại ca đưa người đến đòi mà trong vòng mươi

ngày lấy không được thì đành để hắn trả làm nhiều lần và cắt ra thành từng món

nhỏ, bắt hắn viết văn tự lại để anh em thị vệ đứng tên trái chủ. Mỗi tấm văn tự

hoặc một ngàn lạng cũng được. hay hai ngân lạng cũng nên. Tên thị vệ nào đòi

được là của y.

Đa Long đáp:

- Như thế không được. Bọn thị vệ đều là cựu bộ hạ của huynh đệ. Nay chúng

đòi nợ dùm thượng cấp cũ là việc nhỏ mọn mà lại lấy thưởng thì còn ra thế nào?

Vi Tiểu Bảo nói:

- Bọn chúng là thuộc hạ cũ của tiểu đệ thì cũng là hảo huynh đệ, hảo bằng

hữu. Mấy năm nay tiểu đệ bước tiền trình hiển đạt, mấy phen gia quan tấn tước mà

chưa có gì đối xử với anh em, trong lòng thật áy náy. Vậy mấy trăm vạn lạng bạc

này để đoàn thị vệ chia nhau là phải.

Đa Long kinh hãi hỏi:- Sao... Mấy trăm vạn lạng kia ư?

Vi Tiểu Bảo mỉm cười đáp:

- Kể tiền vốn thì không nhiều đến thế. Nhưng bên trong còn nợ cờ bạc, nợ

không tên. Vốn lãi chồng chất mãi lên thành ra số mục lớn. Về khoản này dĩ nhiên

đại ca cũng dự một phần kha khá.

Đa Long vẫn không tin, miệng lẩm bẩm:

- Mấy trăm vạn lạng kia ư? Cái này... cái này hơi nhiều quá!

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Vì thế mà nên chia ra viết thành nhiều văn tự để đòi cho tiện.

Gã thấp giọng xuống nói tiếp:

- Vụ này đại ca đừng để dính líu gì đến tiểu đệ. Nếu bọn ngự sử biết chuyện

sẽ làm bản tấu hặc tiểu đệ về tội giao thông với ngoại Phiên, phóng trái kiếm lời

thì tội danh không lớn nhưng cũng không nhỏ. Nhưng nếu bọn Ngự tiền thị về đến

đòi nợ hắn mỗi tên một hai nghìn lạng thì thành chuyện nhỏ chẳng can hệ gì.

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Nếu đại ca sợ riêng một bọn thị vệ được ăn, mối can hệ hãy còn quá lớn

thì cho cả quan quân ở Kiêu Kỵ Doanh cùng đi. Bọn chúng cũng là cựu bộ hạ của

tiểu đệ, nên chia chác cho họ.

Đa Long luôn miệng khen phải.

Lão đã định bụng món nợ này đòi về ít ra cũng phải trả cho Vi Tiểu Bảo

phân nửa. Lão cho là tuy gã khẳng khái khoáng đạt, nhưng chẳng thể để cho gã

mất cả món tiền huyết mạch.

Vi Tiểu Bảo ra khỏi Hoàng cung, trong lòng cực kỳ đắc ý. Gã nghĩ tới Đa

Long dẫn đoàn thị vệ cùng quan quân Kiêu Kỵ Doanh hùng hổ đến đòi nợ khiến

cho Trịnh Khắc Sảng phen này phải điên đầu, càng lấy làm khoan khoái vô cùng!

Vua Khang Hy đã căn dặn Vi Tiểu Bảo không được đến làm khó dễ Trịnh

Khắc Sảng để trả mối thù hắn đã sát hại sư phụ, nhưng gã chơi trò này thì ít ra

hắn cũng bị phá sản mất nửa cơ nghiệp.Trịnh Khắc Sảng dù bị vố đau cũng đành câm miệng, ngậm bồ hòn làm ngọt,

không dám hó hé để tiếng tăm đồn đại ra ngoài. Dù có người biết tới thì đây chỉ

là việc riêng về công nợ, cờ bạc, giữa hắn cùng bọn ngự tiền thị vệ và bọn quan

quân ở Kiêu Kỵ Doanh. Người ta sẽ cho là Trịnh Khắc Sảng ỷ con nhà giàu có, ăn

chơi đàng điếm, không cẩn trọng trên đường lập thân, đã phải quy hàng đến Bắc

Kinh còn dong chơi cờ bạc, chứ chẳng ai phiền trách Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo vừa ở Hoàng cung đi ra liền gặp bọn Khang Thân Vương Kiệt

Thư, Lý úy, Minh Châu, Sách Ngạch Đồ, Lặc Đức Hồng, Vương Hy, Huỳnh Cơ, Ngô

Chính Trị, Tống Đức Nghi toàn là đại thần cả người Mãn lẫn người Hán đến chờ sẵn

ở cửa cung. Ai nấy xúm xít lại đưa lời hỷ dạ, rồi cùng kéo nhau đến ngõ Đông

Mạo.

Đoàn người chưa tới nơi đã nhìn thấy một tòa phủ đệ rất hùng vĩ ngạo nghễ

hiện ra trước mắt. Tòa phủ đệ này so với Bá tước phủ ngày trước đồ sộ gấp mấy

lần.

Trên cổng lớn đã treo một tấm biển sơn son nhưng còn trống trơn chưa viết

chữ nào.

Vi Tiểu Bảo tuy ít học, nhưng treo biển không chữ cũng phải nhận ra. Gã còn

đang ngơ ngác thì Khang Thân Vương cười nói:

- Vi huynh đệ! Đức Hoàng thượng đối với huynh đệ ơn đức thật bao la như

trời cao đất dày. Năm trước Bá tước phủ bị phát hỏa thiêu rụi, huynh đệ không ở

kinh thành. Đức Hoàng thượng hay tin liền phái ca ca xây dựng lại phủ đệ cho

huynh đệ. Trong thánh chỉ không ấn định khoản tiền xây cất là bao nhiêu, chỉ nói

nhất thiết mọi vật ứng dụng cùng tiền bạc cứ vào nội khố mà lấy. Đây là đức

Hoàng thượng có ý thưởng công cho huynh đệ thì ca ca hà tất phải dè dụm đồng

tiền mà Hoàng thượng đã ban cho? Dĩ nhiên ca ca thực hành công việc kiến trúc

một cách rộng rãi. Huynh đệ thử coi đã hợp ý chưa?

Lão vừa nói vừa vuốt râu mỉm cười.

Vi Tiểu Bảo vội ngỏ lời tạ ơn.

Gã qua cổng lớn đi vào quả nhiên thấy phủ đệ cực kỳ hoàn mỹ, so với phủ

Khang Thân Vương chẳng kém mấy.Khang Thân Vương lại nói:

- Tòa phủ đệ này xây dựng đã lâu để chờ huynh đệ trở về cư trú...

Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Có điều ca ca chưa biết Hoàng thượng còn gia ơn cho huynh đệ thế nào,

phong quan tước gì, nên tấm biển treo ở cổng phủ hãy còn để trống chưa viết

chữ vào. Nay được biết huynh đệ được sắc phong Lộc Đỉnh Công. Vậy bốn chữ

"Lộc Đỉnh Công Phủ" phải chờ đến Lý đại học sĩ vẫy bút một phen vậy.

Lý úy làm Bảo Hòa điện đại học sĩ kiêm Hộ Bộ thượng thư, là một vị uyên

thâm nhất trong làng đại học sĩ. Dĩ nhiên Lý úy cũng không chối từ, cầm bút kính

cẩn theo lối khải thư viết bốn chữ "Lộc Đỉnh Công Phủ".

Kẻ tòng lại hạ biển xuống sai công tượng thiếp chữ vàng vào biển rồi treo

lên.

Tối hôm ấy, trong Lộc Đỉnh Công Phủ mở đại yến khoản đãi các vị đại thần

cùng Hoàng thân quốc thích đến mừng.

Bọn Trịnh Khắc Sảng, Phùng Tích Phạm cùng nhân viên ở Đài Loan quy hàng

cũng đưa đồ lễ, nhưng không thân hành đến mừng.

Vi Tiểu Bảo tiễn tân khách ra về rồi lại mở gia yến cùng bảy vị phu nhân

chuốc chén khánh hạ.

Gã nói cho mọi người hay sẽ đưa Song Nhi đi theo trong cuộc Bắc chinh.

Sáu vị phu nhân kia đều khó chịu bảo gã lòng dạ thiên lệch.

Vi Tiểu Bảo lại một phen hoa ngôn xảo ngữ, nói đây là ngự chỉ của Hoàng

thượng. ngài biết Song Nhi đã qua La Sát quốc, am hiểu ngôn ngữ của nước này,

nên phái thị đi theo để giúp việc trong quân trướng.

Sáu vị phu nhân nghe gã nói đành im tiếng, không dám dị nghị gì nữa.

Hay ở chỗ Song Nhi là người ôn nhu khiêm hòa, mối tình đối với cả sáu vị rất

tha thiết, nên không ai sinh lòng đố kỵ.

Chí có Kiến Ninh Công chúa nghĩ mình ở địa vị cành vàng lá ngọc ngự muội

của đức Hoàng thượng, mà không bằng một tên tiểu nha đầu xuất thân ty tiện,trong lòng không khỏi bực tức. Nhưng bình thời nếu trong bảy vị phu nhân xảy

cuộc tranh chấp thì sáu vị kia sẽ về một bè để đối phó với Công chúa.

Kiến Ninh Công chúa đã thân thế cô đơn, lại chẳng được Vi Tiểu Bảo bênh

vực. Mấy năm nay nết đành hanh của nàng đã thu lại nhiều, không dám gây hấn một

cách khinh suất.

Hôm sau, Vi Tiểu Bảo sai Song Nhi lấy tờ huyết thư vay nợ của Trịnh Khắc

Sảng viết ngày ở Thông Cật đảo. Gã mời Đa Long tới để trao cho lão.

Đa Long cả mừng nói:

- Đã có bằng chứng này trong tay thì chúng ta có thể rán sành ra mỡ. Nếu

tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng dám lớn mật cãi xóa để quịt nợ thì bọn Ngự tiền thị

về và Kiêu Kỵ Doanh chúng ta còn làm việc ở trong kinh thế nào được?

Sau mấy bữa, Vua Khang Hy ngày nào cũng tuyên triệu Vi Tiểu Bảo tiến cung,

lấy tấm địa đồ rất lớn chỉ điểm cho gã cách tiến quân thế nào, đánh địch ở đâu,

vây thành làm sao phải tiếp viện thế nào.

Nhà Vua nhất nhất chỉ thị một cách tường tận, lại dùng bút son khuyên rõ

trên đồ hình.

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Cuộc Bắc chinh này là đức Hoàng thượng thân hành tự cầm quân. Kẻ nô tài

không dám chủ trương bất cứ một quyết định nào. Nói tóm lại là nô tài nhất nhất

tuân chỉ của Hoàng thượng để tiến hành công việc mà thôi. Nếu không thế thì nô

tài có thắng trận cũng chẳng làm cho Hoàng thượng được vui lòng.

Vua Khang Hy mỉm cười gật đầu. Vi Tiểu Bảo nói vậy rất hợp ý ngài.

Nhà Vua thuở nhỏ đã học võ nghệ mà chẳng có cách nào thi triển, chỉ được

cùng Vi Tiểu Bảo giỡn chơi cho vui. Về sau ngài lại phái Vi Tiểu Bảo ra ngoài làm

việc không ngớt. Trong nội tâm nghĩ đều coi gã như người thay mặt mình.

Vi Tiểu Bảo nhỏ tuổi hơn Nhà Vua. Về võ công, mưu trí, học vấn, kiến thức

nhất nhất gã còn kém ngài xa. Gã mà thành công được dĩ nhiên ngài càng nổi

tiếng.Ngài nghĩ tới Chính Đức Hoàng đế triều nhà Minh tự phong làm Uy Võ Đại

tướng quân Trấn Quốc Công, thân hành lĩnh binh ra trận thì chỗ dụng ý chân chính

cũng chỉ là không cam chịu cảnh tịch mịch, muốn phô trương thân thủ mà thôi.

Hành động của Vua Khang Hy không nhộn nhịp như Chính Đức Hoàng đế,

nhưng do việc phái Vi Tiểu Bảo ra quân, trong lòng ngài cũng lấy làm thỏa mãn.

Mấy năm trước, Ngô Tam Quế tạo phản, cần những mãnh tướng đánh quen

trăm trận đối phó, chứ không phải chuyện tầm thường. Nếu Ngài cho Vi Tiểu Bảo

thống lãnh đại binh, nhất định hỏng việc.

Cuộc đánh mấy năm đó, tuy Vua Khang Hy không thân hành lâm trận, nhưng

chiến dịch nào ngài cũng hỏi cho biết rõ chỗ lợi chỗ hại tựa hồ trông thấy trước

mặt. Nhân cuộc chiến vừa qua, ngài hiểu thêm binh pháp.

Chuyến này đi đánh La Sát, bất luận việc to việc nhỏ, nhà Vua đã dự bị kế

hoạch hoàn thiện. Đại quân chưa ra khỏi cửa, ngài đã nắm chắc phần thắng, khác

hẳn việc trừ loạn Ngô Tam Quế, lúc nào ngài cũng hồi hộp lo âu, chứ chẳng được

vững tâm như ngày nay.

Tòa khâm thiên giám lựa ngày Hoàng đạo để ra quân.

Vua Khang Hy ban yến ở điện Thái Hòa.

Ngoài cửa ngọ môn cũng phô trương nghi lễ, đặt nơi ngự tọa, bày sắc ấn.

Vương công bách quan đều đủ mặt.

Vua Khang Hy bước lên ngồi ngự tọa.

Phủ Viễn Đại tướng quân Lộc Đỉnh Công Vi Tiểu Bảo thống lĩnh bọn xuất

chinh quan là Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Hà Hựu, Lâm Hưng Châu, cùng bọn vận lương

quan Sách Ngạch Đồ tiến ra quỳ xuống. Nội viện đại thần tuyên đọc sắc như

theo ba thể chữ Mãn, Mông, Hán để trao sắc ấn Đại tướng quân và ban y mã cung

đao.

Các tướng quan xuất chinh chia ban thệ lập ở phía Bắc cầu Kim Thủy.

Hai bên tả hữu tấu nhạc, bày các cuộc vui.

Nhà Vua ban lệnh cho Đại tướng quân tiến lên trước ngự tòa dặn dò Phương

lược rồi ban ngự tửu.Đại tướng quân quỳ xuống khấu đầu, uống rượu.

Tiếp theo bọn đô thống, phó đô thống tiến lên, Hoàng đế sai thị vệ ban

rượu.

Sau nữa bách quan cùng ba quân đều được uống rượu, ban cho kim tiền và

vải lụa.

Quan quân tạ ơn rồi đại quân bắt đầu khởi hành.

Vua Khang Hy thân hành tiễn đưa ra khỏi cửa Ngọ môn. Đại tướng quân cùng

các quan quỳ xuống xin Nhà Vua hồi giá rồi thủy lục đại quân lên đường Bắc

chinh.

Từ ngày Vi Tiểu Bảo vâng mệnh Hoàng đế đi hành sự, chưa bao giờ được

vinh hạnh như lần này. Trong lòng gã vô cùng đắc ý, khỏi cần tường thuật. Có điều

gã biết đây là công cuộc rất hệ trọng, bao nhiêu trò khôi hài đều phải thu lại.

Trong quân không dám mở cuộc đổ bát. Dọc đường những lúc rỗi rãi chỉ mời mấy

tên đại tướng vào gieo xúc xắc, ai thua phải uống rượu mà thôi.

Bát nhật, đại quân ra khỏi Sơn Hải quan, tiến vào Liêu Đông.

Vi Tiểu Bảo trùng du cựu địa. Có điều năm trước gã cùng Song Nhi phải vào

rừng sâu bắt hươu làm bữa, hành trình trốn lủi rất là thảm hại, đâu được oai phong

như cuộc Bắc chinh như ngày nay?

Đại quân tiếp tục tiến về phía Bắc. Một hôm đi tới còn cách thành Nhã Tát

Khắc chừng hơn trăm dặm, đội tiên phong của Hà Hựu đến đại doanh báo cáo là

được trăm họ cho hay quân La Sát bốn bề nhũng nhiễu nhân dân, giết người

phóng hỏa, gian dâm cướp bóc, cực kỳ tàn ác. Cứ mười mấy ngày chúng lại làm một

chuyện. Họ tiên liệu chỉ mấy bữa nữa địch quân sẽ gây cuộc cướp bóc.

Vi Tiểu Bảo đã được Vua Khang Hy chỉ thị mưu cơ, liền ra lệnh cho đại quân

hạ trại, không tiến binh nữa.

Gã lại sai Hà Hựu thống lĩnh hai mươi đội, mỗi đội một trăm người, chia đi mai

phục ngấm ngầm, cách thành Nhã Tát Khắc ba mươi dặm. Hễ thấy đại đội binh mã

La Sát kéo đến thì không được đổ ra chiến đấu, tránh cuộc giao binh. Chỉ những

khi gặp tiểu đội địch quân mới xông ra mà giết, mà bắt cho kỳ hết, đừng để một

tên nào về thành.Hà Hựu vâng lệnh đi ngay.

Qua mấy bữa, một hôm vào buổi chiều, vẳng nghe có tiếng đao thương từ

phía xa vọng lại. Chỗ này yên lặng, thì chỗ kia nổi lên hồi lâu không ngớt. Vi Tiểu

Bảo biết là quân tiên phong bên mình đang giao chiến với quân La Sát.

Đến lúc gần tối, Hà Hựu phái người về đại doanh báo tin thắng trận: Giết

được tám mươi lăm quân La Sát, bắt được mười hai tên.

Vào khoảng canh hai, tướng tiên phong dẫn mười hai tên quân La Sát đưa tới

đại doanh.

Vi Tiểu Bảo thân hành mở cuộc thẩm vấn.

Mười hai tên quân La Sát nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếng La Sát đều không khỏi

kinh hãi. Nhưng bọn chúng rất quật cường, nói là vì trúng mai phục mới bị thất bại.

Chúng còn chê Thanh binh ỷ nhiều thắng ít, chẳng lấy gì làm vinh dự.

Vi Tiểu Bảo cả giận gọi hai tên La Sát lại. Gã móc trong bọc lấy bộ xúc xắc

ra nói:

- Hai ngươi hãy gieo xúc xắc đi!

Trò gieo xúc xắc các nước ở Tây Phương đã có từ xưa. Người Ai Cập đào

cổ mộ lấy được bộ xúc xắc, cũng giống như xúc xắc ở Trung Quốc.

Hồi 231

TướNG LA SáT XUA QUÂN TIếN ĐáNH

Hai tên quân La Sát ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu viên tướng quân nhỏ

tuổi nhà Thanh này dở trò gì, chúng theo lời gieo xúc xắc xuống. Một

tên gieo được bảy điểm, một tên gieo được năm điểm.

Vi Tiểu Bảo trỏ vào tên năm điểm nói:

- Ngươi thua rồi! Tử man cơ!

Theo tiếng La Sát "Tử man cơ" nghĩa là phải chết chém.

Gã quay lại bảo thân binh:

- Đem hắn ra chém đầu.

Bốn tên thân binh liền lôi tên quân La Sát ra cửa trại, vung đao chém chết.

Mười một tên quân La Sát còn lại thấy vậy đều cả kinh thất sắc.

Vi Tiểu Bảo lại trỏ vào hai tên quân La Sát khác nói:

- Các ngươi lại gieo đi!

Hai tên này khi nào chịu gieo nữa. Chúng đồng thanh đáp:

- Ta không gieo.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Giỏi lắm! Các ngươi không gieo cũng chết.

Gã lại bảo thân binh:

- Lôi hai tên này ra chém đầu.

Thế là lại hai tên nữa bị giết.

Vi Tiểu Bảo trỏ hai tên quân La Sát khác nói:

- Hai ngươi vào gieo đi!

Hai tên này biết mình không gieo cũng chết liền, thà rằng cứ gieo còn có

chút hy vọng sống sót.

Một tên run cầm cập lượm hai con xúc xắc toan gieo xuống thì tên kia cướp

lấy, nhìn Vi Tiểu Bảo nói:

- Ta gieo với ngươi.

Thái độ của hắn cực kỳ ngạo mạn.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Hay lắm! Ngươi lớn mật dám khiêu chiến với ta. Vậy ngươi gieo trước đi.

Tên quân gieo xuống được bảy điểm.

Vi Tiểu Bảo gieo thành mười điểm. Gã cười hỏi:

- Thế nào?

Tên quân kia mặt buồn rười rượi đáp:

- Vận khí ta xui quá, còn nói gì được nữa?

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Ngươi đến đất Trung Quốc của chúng ta đã giết bao nhiêu người rồi?

Tên quân kia ngang nhiên đáp:

- Không nhớ rõ bao nhiêu, nhưng ít ra là 17, 18 người. Ngươi có giết ta, ta

cũng không thua thiệt.

Vi Tiểu Bảo lại sai thân binh đem hắn ra chém. Gã trỏ một tên quân La Sát

khác bảo:

- Ngươi vào gieo đi!

Tên quân này tay lượm xúc xắc mà người run cầm cập. Hai hàm răng đụng vào

nhau bật lên những tiếng lách cách.

Hai con xúc xắc trước sau ngã xuống bàn, cộng được mười một điểm, dĩ

nhiên phần thắng rất nhiều.

Vi Tiểu Bảo muốn dở trò gian lận gieo thành mười hai điểm. Ngờ đâu lâu nay

ít rèn luyện, thủ pháp không linh. Hai mặt lục không ngửa lên mà lại úp xuống, chỉ

còn hai điểm.

Gã sửng sốt một chút rồi cười khanh khách nói:- Ta thắng rồi!

Tên quân kia vội hỏi:

- Ta nhưng mười một điểm, ngươi chỉ có hai điểm sao lại thắng được?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Lần này ai ít điểm là được, nhiều điểm là thua.

Tên quân kia không phục cãi:

- Điểm lớn dĩ nhiên là được. Lề luật của nước La Sát chúng ta trước nay là

thế đó.

Vi Tiểu Bảo ngửng mặt lên hỏi:

- Nơi đây là đất Trung Quốc hay đất La Sát?

Tên quân đáp:

- Là... là đất Trung Quốc.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Đã ở đất Trung Quốc dĩ nhiên phải theo luật Trung Quốc. Ai bảo

các ngươi đến Trung Quốc làm chi? Sau này ta có đến La Sát đánh xúc xắc với

các ngươi cũng phải theo lề luật của La Sát. Ngươi bị •Tử man cơ• rồi.

Gã liền quay lại hạ lệnh cho thân binh:

- Lôi hắn ra chém đi!

Gã lại gọi một tên quân La Sát vào. Tên này rất tinh tế, đặt câu hỏi trước:

- Theo lệ luật Trung Quốc thì lần này nhiều điểm thắng hay ít điểm thắng?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Theo lề luật Trung Quốc thì người Trung Quốc thắng. Điểm nhiều là thắng

nhiều, điểm ít là thắng ít.

Tên quân kia nói:

- Thế là ngươi chơi lối ăn hiếp chẳng có đạo lý nào nữa.

Vi Tiểu Bảo nói:- Các ngươi là quân La Sát lại xâm nhập Trung Quốc giết người cướp bóc.

Người Trung Quốc chúng ta chẳng ai qua La Sát giết người cướp của. Thế thì

người La Sát dã man, hay người Trung Quốc dã man?

Tên quân kia lẳng lặng không nói gì nữa.

Vi Tiểu Bảo giục:

- Gieo lẹ đi! Gieo lẹ đi!

Tên quân kia nói:

- Đằng nào ta cũng thua rồi, còn gieo làm chi nữa?

Vi Tiểu Bảo hô:

- Không gieo ư? Tử man cơ! Tử man cơ!

Gã lại gọi tên khác vào. Tên này thân hình cao lớn, râu ria xồm xoàm, lớn

tiếng:

- Trung Quốc tiểu tử! Ngươi đừng dở trò nữa. Mau mau giết ta đi là xong.

Chuyến này bọn ngươi đông người mai phục trong vùng đất tuyết đột nhiên xô ra

tập kích, được cũng chẳng vinh gì. Đại binh của nước La Sát chúng ta mà kéo đến

sẽ giết hết các ngươi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Ngươi bị chúng ta bắt mà không phục ư?

Tên quân kia đáp:

- Dĩ nhiên không phục.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Nếu nhân số bên ta ngang với các ngươi rồi hai bên đối diện tỷ đấu thì

ngươi tin rằng nhất định sẽ thắng chúng ta phải không?

Tên quân kia ngạo nghễ đáp:

- Cái đó đã hẳn. Một người La Sát chúng ta có thể thắng nổi năm người Trung

Quốc. Nếu không thế chúng ta đã chẳng dám lần mò đến nước ngươi. Ta đánhcuộc với ngươi: Ngươi phái năm người đấu với ta. Các ngươi thắng thì giết ta đi,

bằng ta thắng thì lập tức tha ta về.

Nguyên tên quân này là một dũng sĩ nổi danh ở nước La Sát, thần lực phi

thường. Hắn thấy những quân tướng ở dưới trướng Vi Tiểu Bảo người nào cũng bé

nhỏ thấp lùn, ít nhất hắn còn cao hơn một cái đầu. Hắn cho là một mình hắn địch

với năm người cũng nắm chắc phần thắng.

Song Nhi ngồi một bên nghe tên quân La Sát ăn nói ngạo mạn, liền lên tiếng:

- Người La Sát các ngươi toàn đồ vô dụng. Nam nhân ở Trung Quốc không

thèm đánh với ngươi, vì nữ nhân ở Trung Quốc đã đủ thắng ngươi rồi.

Thị vừa nói vừa đứng dậy đi đến bên Vi Tiểu Bảo.

Tên quân La Sát kia thấy người thị bé nhỏ, dung mạo xinh đẹp, hắn không

nhịn được, cười hỏi:

- Ngươi muốn tỷ võ với ta ư?

Vi Tiểu Bảo sai thân binh chặt dây trói hai tay cho tên quân La Sát rồi mỉm

cười nói:

- Hảo Song Nhi! Song Nhi hãy cho hắn biết mùi lợi hại của nữ nhân bên chúng

ta.

Tên quân kia nói:

- Nữ nhân ở Trung Quốc mà biết nói tiếng La Sát. Hay lắm! Hay lắm!

Song Nhi nói tiếng La Sát còn kém Vi Tiểu Bảo xa. Thị thấy mình không phô

diễn được hết ý kiến, nên không muốn nói nhiều. Thị liền vung chưởng đánh dứ

một chiêu vào trước mặt tên quân La Sát.

Tên quân kia ngửa đầu về phía sau, đồng thời đưa tay ra gạt.

Song Nhi vung chân đá đánh "bốp" một cái trúng vào bụng dưới đối Phương.

Tên quân La Sát đau quá gầm lên một tiếng, vung quyền đánh liền mấy thoi.

Hắn là một tay hảo thủ về môn quyền ở nước La Sát. Những thoi quyền đánh

tới vừa mau vừa cực kỳ trầm trọng.Song Nhi thấy đối phương sức mạnh không dám tỷ đấu chính diện với hắn.

Thân hình thấp thoáng, thị đã nhảy đến sau lưng đối phương ra chiêu Tả hữu

phùng nguyên veo véo đánh tới.

Bốp bốp hai tiếng vang lên! Hai chân thị đã đá trúng vào sau lưng địch nhân.

Tên quân La Sát đau quá phải gò lưng xuống. Hắn la lên:

- Ngươi dùng chân. Thế là phạm luật!

Nguyên người La Sát chỉ tỷ quyền đã quy định không được dùng đến hai

chân.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Đây là đất Trung Quốc, vậy cuộc đấu võ phải theo lề luật của người Trung

Quốc.

Song Nhi lên tiếng:

- Người La Sát kia! Bề nào ta cũng thắng.

Thị lạng mình chuyển đến trước mặt tên quân La Sát, vung chưởng đánh vào

bụng dưới hắn. Tên quân La Sát đưa tay ra gạt, nhưng thoi quyền này của Song

Nhi chỉ là hư chiêu. Thị không chờ hắn đỡ gạt đã rụt quyền về, phóng quyền tay

trái đánh tới trước ngực hắn.

Tên quân La Sát đưa cánh tay lên gạt.

Song Nhi liên tiếp tấn công mười hai quyền cả hai bên tả hữu mà thoi quyền

nào cũng chỉ đánh dứ. Lối đánh này trong võ thuật Trung Quốc kêu bằng Hải thị

thần thâu, cực kỳ huyền ảo, vì mỗi chiêu đã không đánh thực sự lại không phát huy

hết nội lực, có điều so với quyền pháp thông thường, lối đánh này mau lẹ gấp

mấy lần.

Tên quân La Sát đỡ gạt đều vào quãng không. Hắn cười khanh khách nói:

- Con nhỏ này đùa giỡn, đồ vô dụng...

Hắn chưa dứt lời, bỗng nghe bốp bốp hai tiếng. Hai bên má hắn lại trúng

chưởng.

Hắn "ối" lên một tiếng rồi hai tay vung lên bổ xuống, tấn công ráo riết.Song Nhi nghiêng mình né tránh. Đột nhiên thị vung chỉ điểm trúng vào huyệt

Thái dương bên phải đối phương.

Tên quân La Sát choáng váng, người hắn lảo đảo mấy cái.

Song Nhi nhảy xổ lại vung cườm tay chém vào huyệt Ngọc Chẩm ở sau gáy

tên quân kia.

Ngọc Chẩm là một đại huyệt trong người. Tên quân kia dù thân hình to lớn

cũng không chống nổi, té huỵch xuống đất, không bò dậy được nữa.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, dắt tay Song Nhi, rồi đá vào đầu tên quân La Sát hỏi:

- Ngươi đã chịu phục chưa?

Tên quân kia hồ đồ đáp:

- Đàn bà Trung Quốc... dùng yêu pháp... là yêu nhân.

Vi Tiểu Bảo quát mắng:

- Con heo thối tha này! Làm gì có yêu pháp! Lôi hắn ra chém đi! Bọn La Sát

các ngươi còn tên nào không phục thì tỷ võ đi?

Năm tên quân La Sát còn lại nhìn nhau. Chúng thấy mấy tên dũng sĩ khỏe

mạnh đều thua hết rồi, biết mình không địch nổi chẳng dám nói gì.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Các ngươi chịu thua đầu hàng đi, ta sẽ tha cho. Nếu không thì vào đây

gieo xúc xắc với ta. Theo luật lệ Trung Quốc, ai thắng ta thì sống, ai thua là chịu

tử man cơ.

Gã vừa nói vừa vung tay ra thủ thế chém đầu.

Năm tên quân nghĩ thầm: Chiếu theo luật Trung Quốc thì bất luận bên mình

gieo được gì họ cũng thắng.

Một tên quân liền khom lưng đáp:

- Xin đầu hàng.

Vi Tiểu Bảo cả mừng nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Lấy rượu thịt ra cho hắn ăn uống.Thân binh liền ra hậu trướng rót một bát rượu lớn và lấy một đĩa thịt đầy rồi

cởi trói tên quân La Sát cho hắn ăn uống.

Khí hậu nước La Sát cực kỳ rét lạnh, nên người nước này ai cũng thích uống

rượu.

Vi Tiểu Bảo tuy chẳng ham mê rượu chè, nhưng cũng đem theo trong quân

toàn những thứ cao lương mỹ tửu. Rượu vừa rót ra, mùi thơm sực nức khắp quân

trướng.

Bốn tên quân La Sát đứng ngoài vừa ngửi thấy mùi rượu đã thèm chảy nước

miếng. Lúc thấy tên quân kia uống vào mặt mày hớn hở, trong lòng càng thấy ngứa

ngáy khó chịu. Tên nào cũng hô:

- Đầu hàng! Đầu hàng! Xin uống rượu!

Vi Tiểu Bảo liền hạ lệnh cởi trói cho cả bốn tên này, và sai thân binh lấy

bốn phần rượu thịt chia cho chúng ăn uống.

Năm tên quân La Sát ăn uống hết rồi mà vẫn chưa đủ. Vi Tiểu Bảo lại sai lấy

rượu thịt thưởng cho chúng thêm một phần nữa.

Năm tên quân La Sát ăn uống no say, cầm tay nhau hát vang lên một hồi.

Chúng nghĩ đến mình đã thoát chết lại còn được ăn uống thỏa thích, liền nhìn Vi

Tiểu Bảo khom lưng tạ ơn.

Mấy bữa sau, tướng tiên phong là Hà Hựu vẫn tiếp tục bắt được quân La Sát

giải về. Ngày nào nhiều được đến 16, 17 tên mà ít ra cũng được một vài tên.

Những tên bị bắt sau hỏi chuyện đám bị bắt trước liền biết là nếu gieo xúc

xắc với tướng nhà Đại Thanh thì thế nào cũng chết, bằng chịu đầu hàng sẽ được

khoản đãi rượu thịt, nên tên nào cũng đầu hàng ngay.

Nên biết bọn quân La Sát này đều là hạng lưu manh vô lại, không phải đầu

trộm đuôi cướp cũng là tử tù trọng phạm. Mười tên có đến tám chín là phường tàn

ác bất nhân. Chúng đã mạo hiểm Đông tiến là chẳng còn chút lương tâm nào.

Ban đầu bọn quân La Sát giết hạng bình dân Trung Quốc một cách rất dễ

dàng thuận lợi, chúng liền có ý khinh thường cả những người địa vị cao sang. Vìthế tuy chúng đã bị bắt vẫn ra vẻ ngông cuồng ngạo mạn. Mãi đến khi Vi Tiểu

Bảo lập nghiêm ra lệnh chém đầu mấy tên, bọn còn lại mới biết là lợi hại.

Những quân dã man ngang ngược thường khinh khi người thiện lương, lại khiếp

sợ kẻ hung dữ. Chúng thấy đối phương ngang tàng tàn bạo hơn mình, liền chịu riu

ríu đầu hàng.

Đại tướng La Sát - Tổng đốc binh nhung ở thành Nhã Tát Khắc là Đồ Nhĩ Bố

Thanh (Alexi Tolbusin) thấy những tiểu đội ra ngoài cướp bóc nhiều ngày đều mất

hút, đã phái người đi thám thính mà thủy chung không ai trở về phúc trình. Hắn

biết là tình thế bất diệu, liền điểm lấy một nửa binh mã trong thành tổng cộng hơn

hai ngàn người đem theo súng ống, giàn thành đội ngũ ra ngoài quan sát.

Hà Hựu được thám tử đưa tin, liền tức tốc phi ngựa về đại doanh báo cáo.

Vi Tiểu Bảo truyền tướng lệnh sai Tát Bố Tố dẫn năm ngàn quân Thanh mai

phục ở đường mé tả.

Lại sai Bằng Xuân lãnh năm ngàn quân chẹn đường sau bên địch. Hễ nghe

súng nổ là lập tức đánh thành.

Vi Tiểu Bảo lại sai Lâm Hưng Châu dẫn năm trăm quân ra dụ địch giả vờ thua

chạy về phía có cắm cờ Hoàng Long.

Chúng tướng lãnh mạng ra đi.

Nhắc lại Đồ Nhĩ Bố Thanh mở cửa thành tiến quân, chẳng thấy bóng địch binh

đâu mà chỉ gặp những người Trung Quốc trú ngụ trong các nông xá liền hạ lệnh

phóng hỏa đốt nhà. Bất luận nam nữ đều bị giết hết.

Đoàn quân La Sát đi được hơn hai chục dặm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn

dập. Một toán kỵ binh chừng năm trăm người xông lại.

Đồ Nhĩ Bố Thanh vừa ra lệnh cho quân sĩ tấn khai đội ngũ, thì thấy một đội

quân Thanh phóng ngựa chạy đến dương cung bắn loạn xạ.

Đồ Nhĩ Bố Thanh cười ha hả nói:

- Bọn man tử ở Trung Quốc chỉ biết bắn tên thì sao địch nổi súng ống của

người La Sát chúng ta?

Hắn hạ lệnh nổ súng. Lập tức mười mấy tên Thanh binh ngã ngựa liền.Viên tướng thống lãnh đội Thanh binh này chính là Lâm Hưng Châu, y thấy

quân La Sát bắn súng liền hạ lệnh khua chiêng thu binh.

Hiệu chiêng choang choang vừa nổi lên, quân Thanh liền xoay ngựa chạy về

phía Nam.

Đồ Nhĩ Bố Thanh hạ lệnh rượt theo, nhưng đội Thanh binh cưỡi đoàn tuấn mã

chạy rất nhanh, không sao theo kịp.

Đoàn quân La Sát đuổi theo chừng bảy, tám dặm thì thấy bên rừng cây phía

trước dựng một cây Hoàng Long kỳ.

Quân La Sát đuổi tới nơi thấy khu này có dựng bảy tám doanh trướng quân

Thanh.

Quân La Sát liền nổ súng. Mấy chục tên quân Thanh bỏ trướng đào tẩu đồng

thời dương cung bắn mấy phát rồi chạy về phía Nam.

Đội tiên phong La Sát xông vào doanh trại thì quân Thanh đã trốn hết rồi.

Đồ Nhĩ Bố Thanh xuống ngựa vào trại thấy trên bàn còn bày la liệt rượu thịt,

hơi bốc lên nghi ngút.

Dưới đất đầy những thoi vàng đĩnh bạc cùng là châu báu, xiêm y, gấm đoạn.

Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng nói:

- Đây là tên nguyên soái của bọn Trung Quốc man tử vội chạy tháo thân,

đến kim ngân cũng không mang đi hết được phải bỏ lại chạy lấy người. Chúng ta

hãy rượt gấp!

Hắn lại tuyên bố:

- Ai bắt được nguyên soái man tử sẽ có trọng thưởng. Bên mình chủ soái man

tử còn đem theo rất nhiều vàng bạc châu báu, các ngươi tha hồ mà cướp lấy.

Bọn binh tướng La Sát thấy vàng bạc châu báu, tới tấp thu lượm. Một phần

vồ lấy rượu thịt trên bàn mà ăn uống.

Chúng nghe chủ soái hạ lệnh liền lớn tiếng hoan hô, kéo ùa ra khỏi doanh

trại, lên ngựa rượt theo. Dọc đường còn thấy rải rác những đĩnh vàng, thoi bạc,

đao thương, cung nỏ.Bọn binh tướng trông thấy vàng bạc thi nhau lượm lấy. Chúng cho là quân

Trung Quốc vừa nghe đại binh La Sát kéo đến đã khiếp sợ đến té đái vãi phân,

liệng cả binh khí chạy lấy người, không còn thiết gì nữa.

Đoàn người ngựa tiếp tục rượt theo một hồi, lại thấy bên đường còn có mấy

đôi giầy và những mũ đỏ liệng trên cành cây thấp bên đường.

Đồ Nhĩ Bố Thanh la lên:

- Bọn man tử Trung Quốc chạy vỡ mật. Nguyên soái của chúng cải trang để

hòng thoát thân. Chắc hắn giả làm tiểu tốt. Vậy chúng ta bắt được tên nào cũng

phải tra khảo tường tận, đừng để mắc lừa chúng.

Bọn tùy tùng đồng thanh đáp:

- Tướng quân liệu việc như thần. Nhất định đúng thế.

Đồ Nhĩ Bố Thanh sai quân thu lượm cả giầy mũ rồi nói:

- Hễ bắt được bọn man tử Trung Quốc thì bất luận là tiểu tốt hay đầu bếp

cũng bắt chúng thử đội mũ đi giầy. Tên nào giầy mũ vừa đúng thì chắc là đại tướng

đó.

Bọn thuộc hạ lại ca ngợi trí thông minh sáng suốt của chủ tướng ít người bì

kịp.

Đoàn quân La Sát đuổi thêm mấy dặm thì đến một tòa doanh trại của Thanh

binh. Chúng thấy lác đác trên mặt đất ngoài vàng bạc khí giới, còn khá nhiều áo

quần phụ nữ màu xanh màu hồng rất rực rỡ.

Bên ngoài doanh trướng còn có những hộp son phấn, khăn tay, vòng vàng là

những đồ trang sức của phụ nữ. Quan quân lại động lòng sắc dục la lên:

- Rượt cho mau! Rượt cho mau! Bọn man tử Trung Quốc đem cả phụ nữ đi

theo.

Thế là dọc đường quân La Sát rượt theo đã chiếm được bảy tòa doanh trại.

Bỗng trước vẳng nghe có tiếng kêu gào khóc lóc. Đồ Nhĩ Bố Thanh đứng

trên yên ngựa lấy Thiên Lý kính ra soi thì thấy ngoài mấy dặm có một đội binh

Trung Quốc đang tức tưởi chạy trốn, cờ xí tán loạn, đội ngũ tơi bời. Hắn cả mừng

hô lớn:- Đuổi kịp chúng rồi!

Hắn lại rút đao ra chém lên không, miệng hô:

- Xung phong! Giết giặc!

Hắn dẫn binh tướng xông về phía trước. Bên đường cách quãng lại gặp một

vài con ngựa chết nằm lăn ra đó. Cả thảy có đến hơn hai chục con. Bọn binh

tướng cả mừng reo lên:

- Ngựa cưỡi của bọn man tử không đủ sức để chạy trốn nữa rồi.

Chúng liền giục ngựa đuổi theo mỗi lúc một gần.

Bỗng thấy quân Thanh chạy vào con đường hẹp giữa hai dãy núi.

Đồ Nhĩ Bố Thanh rượt đến cửa hang thấy địa thế hiểm trở, không khỏi ngần

ngừ nghĩ bụng:

- Nếu địch nhân bố trí mai phục nơi đây thì thật là nguy hiểm!

Đột nhiên trong hang núi ở phía trước mặt có người hò bằng tiếng La Sát:

- Trung Quốc man tử! Sao không đầu hàng đi?

Lại có tiếng người nói theo:

- Ha ha! Phen này bọn man tử Trung Quốc đã bị thảm bại!

Chính là ngữ âm của quan binh bản quốc, không còn sai được nữa.

Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng, chẳng ngần ngại gì nữa, tung ngựa tiến vào. Hơn

một ngàn năm trăm quân kỵ binh ở phía sau cũng kéo ùa vào sơn cốc.

Đồ Nhĩ Bố Thanh lên tiếng hỏi:

- Phía trước là đội nào vậy? Các ngươi ở đâu?

Lại nghe phía sau vách núi có tiếng hơn mười người đồng thanh đáp:

- Bọn thuộc hạ ở đây. Quân man tử Trung Quốc bị thảm bại rồi!

Đồ Nhĩ Bố Thanh hô lớn:

- Hay lắm!

Hắn vừa giật cương cho ngựa chạy, bỗng nghe mặt sau súng nổ đoàng đoàng.Đồ Nhĩ Bố Thanh giật mình kinh hãi quay đầu nhìn lại thì thấy cửa hang khói

bụi mịt mờ. Hai bên vách núi trong rừng cây ánh lửa thấp thoáng. Súng ống bày

thành hàng bắn xuống. Quan quân La Sát la hoảng vang trời.

Đồ Nhĩ Bố Thanh lớn tiếng hô:

- Mau mau quay ngựa lùi ra khỏi hang núi.

Lập tức hai bên vách đá có đến mấy ngàn người tiếng reo dậy đất:

- Binh tướng La Sát! Đầu hàng đi! Đầu hàng đi!

Tiếp theo những tảng đá lớn cùng những khúc cây từ hai bên sườn núi đổ

xuống ào ào. Chỉ trong khoảnh khắc đã vít chặt cửa hang.

Bọn quan binh La Sát ở trong hang núi chen chúc nhau. Tiếng người huyên

náo lẫn tiếng ngựa hý rối loạn cả lên.

Quân Thanh ở trên cao vừa nổ súng vừa bắn tên xuống như mưa.

Đồ Nhĩ Bố Thanh không ngớt la thầm:

- Nguy to rồi! Nguy to rồi!

Hắn biết là trúng phải ngụy kế của địch nhân, lại thấy mặt sau bị chặn đường,

đành phải quay ngựa lại hô lớn:

- Chúng ta phải xông về phía trước.

Nhưng vừa chạy được vài trượng, lại nghe súng lớn nổ đoàng đoàng, đạn bay

tới tấp. Lập tức mấy chục tên quân sĩ bị tan xác.

Đồ Nhĩ Bố Thanh chẳng còn hồn vía nào nữa. Hắn không ngờ hỏa lực của

Thanh binh cũng ghê gớm như vậy, lại mai phục đại pháo ngay trên đường sơn đạo

cheo leo này.

Hắn nhảy xuống ngựa lớn tiếng hô:

- Bỏ hết ngựa lại, tập trung hỏa lực, dò đường cũ xông ra.

Quân La Sát tới tấp xuống ngựa trở ra cửa hang trèo lên gỗ đá vượt qua.

Hậu đội đi hai bên vách đá nổ súng yểm hộ.Hỏa lực của quân La Sát rất mãnh liệt, tầm bắn lại xa, nên chúng giết được

khá nhiều Thanh binh.

Đại pháo của quân Thanh cũng bắn xuống không ngớt khiến binh mã La Sát

máu thịt bắn lên tung tóe.

Hồi 232

BạC THUA CãI CốI PHảI ĂN ĐòN

Mấy trăm binh tướng La Sát vừa bò ra khỏi đống gỗ đá thì đột nhiên

nghe những tiếng đoàng đoàng vang dội từ dưới lòng đất tung lên.

Bọn này người thì bị hất tung lên cao đến mười mấy trượng, kẻ bị đứt đầu gãy

chân, máu thịt tan tành bắn tung tóe. Tên nào may mắn chưa chết hốt hoảng bò

quay trở lại.

Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy hai mặt trước sau đều không đường rút lui đành thúc

thủ vô sách.

Một tên quan binh cực kỳ dũng mãnh dẫn mấy chục tên ở đội cảm tử trèo lên

vách núi mé Bắc với ý định xung sát địch quân tìm đường thông lộ chạy đi.

Nhưng vách núi đứng dựng lại nhẵn nhụi, không có chỗ đặt chân để lấy đà.

Bọn này mới trèo lên được mấy trượng đã có hơn mười tên rớt xuống, chẳng

chết cũng bị thương.

Quân Thanh ở trên đỉnh núi liệng đá đẩy lui mấy chục tên còn lại phải nhảy

xuống hết.

Bọn này bể óc chết ngay lập tức.

Lúc này đại pháo quân Thanh nổ đoàng đoàng không ngớt. Quân La Sát

chen chúc nhau trong khe núi kêu rú cực kỳ thê thảm.

Xem chừng chỉ một lúc nữa là toàn quân phải tiêu diệt, Đồ Nhĩ Bố Thanh liền

hô lớn:

- Không đánh nữa! Xin đầu hàng! Xin đầu hàng!

Nhưng tiếng súng nổ và tiếng binh tướng kêu la át hẳn thanh âm của hắn.

Mấy tên quan binh đứng gần thấy chủ tướng muốn đầu hàng, liền đồng thanh

la lên:

- Đầu hàng! Đầu hàng!

Tiếp theo bao nhiêu quân La Sát đều hô •đầu hàng• vang dội cả vùng sơn

cốc.

Quân Thanh dừng tiếng súng. Có người dùng tiếng La Sát hô:

- Quẳng hết súng ống đao thương, cởi bỏ y phục toàn thân.

Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận vô cùng la lên:

- Chỉ quăng vũ khí, không cởi áo quần.

Trong đám Thanh binh lại có tiếng hô:

- Quăng vũ khí cởi bỏ áo quần rồi ra đây uống rượu. Kẻ nào không thoát y

phục là tử man cơ.

Đồ Nhĩ Bố Thanh lại la:

- Nhất định không cởi bỏ áo quần.

Hắn vừa dứt lời, những tiếng đoàng đoàng lại nổi lên. Quân Thanh bắn súng

lớn xuống.

Trong đoàn quân La Sát, một số sợ chết tới tấp quẳng khí giới và bắt đầu

thoát y.

Đồ Nhĩ Bố Thanh rút súng lục bắn chết một tên đang cởi áo. Hắn quát:

- Tên nào cởi áo đều phải xử tử.

Quân Thanh bắn dữ quá. Nghiêm lệnh của chủ tướng, quân La Sát không lý gì

đến. Chớp mắt đã mười mấy tên mình trần trùng trục trèo qua đống gỗ đá ra

ngoài.

Quân Thanh ở hai bên sườn núi đều vỗ tay cười rộ, la lớn:

- Cởi bỏ áo quần cho mau! Cởi bỏ áo quần cho mau!

Số binh sĩ thoát y mỗi lúc một nhiều. Đồ Nhĩ Bố Thanh nổ súng lục liên thanh

bắn chết hai tên nữa mà vẫn không ngăn cản được. Về sau cả trong đám quan

binh cũng có người mình trần như nhộng bò ra ngoài.

Quân Thanh tạm ngưng nổ súng. Trên đỉnh núi vẫn có tiếng hô lớn:

- Muốn sống phải thoát y cho lẹ!Lúc này quân La Sát không còn ý chí phấn đấu, mười phần có đến tám, chín

tới tấp cởi áo tụt quần.

Đồ Nhĩ Bố Thanh buông tiếng thở dài, giơ súng lục lên toan bắn vào huyệt

Thái Dương để tự sát, nhưng phó tướng đứng bên hắn đoạt lấy súng nói:

- Tướng quân! Làm thế không được. Chim ưng để hai cánh lại mới bay qua

được núi cao.

Câu thành ngữ La Sát này cũng đồng nghĩa với câu "Non xanh còn đó lo gì

hết củi đun".

Lại nghe trong đám quân Thanh có người hô bằng tiếng La Sát:

- Anh em hãy lột quần áo Đồ Nhĩ Bố Thanh đi! Không thì ta lại nổ súng.

Câu nói tiếng La Sát này rất đúng điệu. Hiển nhiên là những quân La Sát đã

đầu hàng vâng lệnh tuyên bố.

Đồ Nhĩ Bố Thanh cực kỳ phẫn nộ cơ hồ không chịu nổi, lại thấy mấy tên bộ

thuộc trợn mắt lên nhìn mình tỏ ra muốn hành động bất pháp, hắn liền xoay tay

rút yêu đao. Nhưng tay hắn vừa đụng vào đốc đao thì một tên quân ở phía sau

nhảy xổ lại ôm chặt lấy đầu hắn. Năm, sáu tên quân nữa xô lại đè hắn xuống đất

động thủ lột hết quần áo của chủ tướng rồi khiêng ra ngoài.

Bọn binh tướng La Sát trước đây một khắc đều ủ rũ lo âu, đột nhiên thấy

chủ tướng bình nhật rất oai nghiêm hà khắc mà bây giờ cũng biến thành tình trạng

thảm hại này. Chúng không nhịn được nổi lên tràng cười hô hố.

Trên núi dưới núi chỗ nào cũng toàn những tiếng cười vang dội tưởng chừng

để khua tan làn mù thảm mây sầu.

Cứ một tên quân La Sát vừa bò ra là lại có hai tên Thanh binh đón lấy bắt

quặt hai tay chúng buộc ra sau lưng rồi áp giải đến khu bình nguyên rộng rãi cách

đó chừng vài dặm.

Đoàn quân La Sát lúc ra đi là hơn hai nghìn người. Bây giờ trừ những kẻ bị

chết và bị trọng thương không nhúc nhích được độ sáu, bảy trăm tên. Hiện còn

một nghìn tám trăm vừa quân vừa tướng đều bị trói chặt cánh khuỷu, thân thể trần

truồng xếp thành đội ngũ.Quân Thanh áp giải Đồ Nhĩ Bố Thanh đến đứng trước đội quan binh La Sát.

Quân La Sát thấy chủ tướng mình trần như nhộng hở cả đít ra, mấy chục tên

không nhịn được phải phì cười.

Người ta nói tiếng cười rất dễ truyền nhiễm. Mấy người cười trước rồi sau cả

toán cùng cười. Hơn nghìn quan binh đều cười rộ vang dội cả một vùng.

Đồ Nhĩ Bố Thanh tức muốn vỡ mật quay lại lớn tiếng quát:

- Lập nghiêm! Cười cái gì?

Trên người hắn không còn một mảnh áo lại làm bộ oai nghiêm, coi càng hoạt

kê vô cùng!

Bọn quân tướng ngày thường đối với hắn đều sợ hãi rất mực, nhưng lúc này

không thể nhịn cười được.

Giữa lúc tiếng cười huyên náo, bỗng nghe những tiếng đùng đùng nổi lên rồi

đến tiếng trống tiếng tù và vang dội. Một đội quan quân bên Thanh từ sau núi đi

ra. Những quân cầm cờ xanh bày hàng ở phương Đông. Tiếp theo ba đội quân

Thanh nữa trương cờ hiệu màu hồng, màu trắng, màu lam đứng sắp hàng ở ba mặt

Nam, Tây, Bắc quây bọn quân La Sát ở giữa.

Quan binh La Sát thấy quân Thanh hoặc cầm trường thương, hoặc sử đại đao,

hoặc dùng cung tên, lại có cả đội lính súng. Hàng ngũ chỉnh tề, khôi giáp rực rỡ,

khí giới sắc bén, cực kỳ oai nghiêm, mà bọn chúng đều mình trần trùng trụ, càng

cảm thấy bị địch quân uy hiếp. Tên nào tên nấy không dám cười nữa. Sắc mặt đều

lộ vẻ khủng khiếp.

Đội ngũ quân Thanh sắp hàng đâu đấy rồi, phía sau núi nổ ba tiếng súng lớn,

tiếp theo là tiếng đàn sáo nổi lên.

Hai lá cờ lớn tung bay trước gió. Lá cờ mé tả viết hàng chữ "Phủ Viễn Đại

tướng quân Vi".

Lá cờ mé hữu viết bốn chữ "Lộc Đỉnh Công Vi".

Mấy trăm tên quân cầm đao hộ vệ một vị tướng quân nhỏ tuổi cưỡi ngựa đi

ra.Vị tướng quân này đầu đội mũ chóp đỏ, mình mặc áo giáp vàng, mặt mày hớn

hở. Tay trái phe phẩy cây quạt lông theo điệu Gia Cát Lượng. Tay mặt cầm ngược

thanh đại đao, nghiễm nhiên như Quan Vân Trường.

Viên tướng này chính là Vi Tiểu Bảo.

Gã tung người nhảy xuống rồi ngửa mặt lên trời cười ha hả ba tiếng.

Đây là gã bắt chước bộ điệu của Tào Tháo trong tuồng hát. Đáng tiếc bên

mình gã không có người đóng trò ra hỏi một câu:

- Sao tướng quân lại bật cười?

Đồ Nhĩ Bố Thanh đang tức giận đầy ruột không nơi phát tiết, hắn chẳng sợ

hãi gì nữa vì đã gác chuyện sinh tử ra ngoài, hắn lớn tiếng thóa mạ:

- Tên tiểu quỷ Trung Quốc kia! Ngươi dùng ngụy kế bắt được ta, không đáng

mặt anh hùng. Ngươi muốn giết thì giết đi, sao còn làm nhục ta?

Vi Tiểu Bảo vừa cười vừa hỏi lại:

- Ta làm gì mà bảo là vũ nhục tướng quân?

Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận đáp:

- Ta... ta thành người thế này mà còn bảo... không phải vũ nhục ư?

Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Quần áo của tướng quân bị ai lột ra?

Gã nói câu này khiến Đồ Nhĩ Bố Thanh câm họng. Hắn nghĩ bụng:

- Ta bị bọn thuộc hạ bóc lột quần áo mà trách mạ tên tiểu quỷ Trung Quốc

kể ra không đúng lý thực.

Hắn tức giận như người điên, mặt đỏ bừng lên, xông lại định liều mạng với Vi

Tiểu Bảo.

Bốn tên thân binh đi kèm Vi Tiểu Bảo vội chĩa mũi trường thương sáng loáng

nhằm vào trước ngực và dưới bụng Đồ Nhĩ Bố Thanh.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Tướng quân có chịu đầu hàng không?Đồ Nhĩ Bố Thanh đáp:

- Không hàng! Ngươi băm nát ra như tương, lão gia cũng không đầu hàng.

Vi Tiểu Bảo cất giọng cao hỏi bọn quan binh La Sát:

- Các ngươi có chịu đầu hàng không?

Bọn quan binh La Sát cúi đầu xuống, lẳng lặng không đáp.

Vi Tiểu Bảo trỏ vào đội cờ trắng ở mé Tây nói:

- Những quan binh và binh sĩ đầu hàng thì đứng qua bên đó.

Bọn quan binh La Sát vẫn đứng thộn mặt ra không nhúc nhích.

Sự thực rất nhiều quan binh muốn đầu hàng, nhưng không thấy người nào tiến

ra, nên chẳng ai dám đi trước.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Các ngươi không ai chịu đầu hàng cả. Nhà bếp đâu?

Đội đầu bếp mười mấy tên ở phía sau đội thân binh, nửa người trên để mình

trần, tay cầm tiêm đao, dùi nhọn tiến lên khom lưng vâng lệnh.

Vi Tiểu Bảo nhìn Đồ Nhĩ Bố Thanh nói:

- Ngày trước ta qua Mạc Tư Khoa đã được nếm món "Hà Thư Ni Khắc" của

nước La Sát các ngươi. Món đó quả thật ngon lành. Bây giờ ta lại muốn ăn.

Gã quay lại bảo mười tên đầu bếp:

- Các ngươi hãy làm món "Hà Thư Ni Khắc"!

Mười tên đầu bếp dạ ran đáp:

- Xin tuân lệnh!

Lập tức hai mươi tên binh sĩ đẩy mười cái lò sắt lớn ra. Trong lò đã đốt than

hồng.

Bọn quan binh La Sát thấy tình trạng này không khỏi ngơ ngác nhìn nhau.

Chúng vẫn chưa hiểu vị tướng quân Trung Quốc muốn dở trò gì.Vi Tiểu Bảo vẫy tay một cái. Hai mươi tên thân binh liền chạy đến lôi mười

tên quân La Sát lại.

Vi Tiểu Bảo hô bằng tiếng La Sát:

- Xẻo thịt bọn chúng đem nướng làm món "Hà Thư Ni Khắc".

Nguyên Hà Thư Ni Khắc là món thịt xiên chả nướng trên than lửa và là một

món ngon nhất của nước La Sát.

Mười tên đầu bếp thân thể to lớn sấn đến trước mặt mười tên quân La Sát.

Chúng giơ mũi tiêm đao sáng loáng lên rồi bổ xuống.

Mười tên quân La Sát bật tiếng rú thê thảm.

Bọn thân binh đem mười tên quân La Sát ra phía sau sườn núi. Máu tươi lênh

láng trên mặt đất.

Mười tên đầu bếp tay trái đều cầm những dùi sắt xâu thịt đem vào lò nướng.

Bọn quan binh La Sát ngó thấy kinh hãi nhìn nhau.

Bốn bề im lặng như tờ, chỉ nghe tiếng than nổ lách cách cùng tiếng mỡ rót

xuống lửa cháy xèo xèo.

Vi Tiểu Bảo lại hô lớn:

- Lôi mười tên quân La Sát khác ra làm Hà Thư Ni Khắc.

Hai mươi tên thân binh dạ một tiếng chạy lại bắt quân La Sát.

Trong mười tên quân này, bốn tên la:

- Đầu hàng! Đầu hàng!

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Tên nào đầu hàng thì đưa qua bên kia.

Bọn thân binh liền đưa hàng binh đến đứng dưới lá cờ trắng và đem rượu thịt

cho ăn uống.

Bốn tên đầu hàng rồi, bọn thân binh lại kéo bốn tên khác thay vào.

Bốn tên này thấy bọn đầu hàng khỏi chết lại được uống rượu ăn thịt. Còn kẻ

không chịu đầu hàng bị xẻo thịt là Hà Thư Ni Khắc đều khiếp sợ vô cùng!Tuy chúng không nhìn rõ bọn Thanh binh lóc thịt ở chỗ nào nhưng thấy toán

đầu bếp cứ mắt la mày lét nhìn xuống hạ bộ mình lại càng kinh tâm động phách,

bất giác lớn tiếng hô:

- Đầu hàng!

Sáu tên quân La Sát lúc trước rất quật cường bây giờ cũng nhìn ra. Chúng

không nhịn được, hô theo:

- Đầu hàng!

Đã có người dẫn đầu cuộc đầu hàng, cánh quân La Sát chẳng dám sinh cường

mà cũng không e dè nữa, liền chịu đầu hàng hết. Phần lớn không chờ bọn thân

binh lại dẫn đi mà tự động chạy đến đứng dưới lá cờ trắng.

Chỉ trong khoảnh khắc, hơn nghìn quan quân La Sát đều đầu hàng hết. Chỉ

còn một mình Đồ Nhĩ Bố Thanh vẫn đứng sừng sững đương trường.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Tướng quân có đầu hàng không?

Đồ Nhĩ Bố Thanh đáp:

- Ta thà chết chứ không đầu hàng.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Vậy ta tha ngươi trở về thành Nhã Tát Khắc.

Gã sai Hồng Triều đem năm trăm quân hộ tống Đồ Nhĩ Bố Thanh trở về Nhã

Tát Khắc.

Đồ Nhĩ Bố Thanh đã tưởng mình quật cường như vậy là vị tướng quân bên

Thanh sai đem chém đầu. Hắn không ngờ gã lại buông tha, liền nói:

- Ngươi đã buông tha ta thì trả lại áo quần cho ta mặc.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Không thể trả quần áo được.

Gã quay lại dặn Hồng Triều:- Tướng quân đưa y đến chân thành Nhã Tát Khắc và truyền tướng lệnh của ta

hãy tạm đình việc đánh thành rồi dắt vị tướng quân La Sát trần truồng này đi vòng

quanh trên tường thành ba lượt xong hãy thả y vào thành.

Hồng Triều lĩnh mệnh dẫn quân áp giải Đồ Nhĩ Bố Thanh đưa đi.

Lâm Hưng Châu hỏi:

- Xin hỏi đại soái: Đã bắt được tướng La Sát sao lại buông tha? Xin đại soái

cho hay chỗ ảo diệu bên trong được chăng?

Vi Tiểu Bảo cười hỏi lại:

- Tướng quân có biết cuộc đại thắng của chúng ta bữa nay là theo kế hoạch

nào không?

Lâm Hưng Châu đáp:

- Đây là thần cơ diệu toán của đại soái. Thuộc hạ khâm phục vô cùng.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:

- Không phải thần cơ diệu toán của bản soái mà là xảo kế của Hoàng thượng.

Đức Hoàng thượng phán bảo: Ngày trước Gia Cát Lượng thất cầm Mạch Hoạch là

kế rất hay. Ngài dặn ta phải theo kế đó.

Rồi gã hỏi:

- Tướng quân đã coi vở tuồng "Thất cầm Mạch Hoạch" bao giờ chưa? Dù chưa

coi tuồng hát thì chắc cũng được nghe thầy đồ giảng sách rồi. Trong tích này Gia

Cát Lượng phái Ngụy Diên thua liền mười lăm trận, bỏ bảy tòa doanh trại cho

Mạch Hoạch cướp lấy mới dẫn dụ được hắn xông vào Bàn Xà cốc rồi phóng hỏa

đốt cánh quân đằng giáp. Kế hoạch của chúng ta bữa nay là theo kế của Gia Cát

Lượng ngày trước.

Chúng tướng nghe gã nói đều bái phục.

Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Đức Hoàng thượng tâm địa nhân từ. Ngài bảo Gia Cát Lượng hỏa thiêu đằng

giáp binh là tàn nhẫn quá đến nỗi phải giảm thọ. Nếu quân La Sát chịu đầu hàng

thì tha mạng cho chúng.Phó đô thống Lang Thản nói:

- Nếu không được đại soái dùng kế "Hà Thư Ni Khắc" xẻo thịt mười tên quân

La Sát đem nướng chả khiến chúng kinh hồn táng đởm thì bọn quân La Sát quật

cường kia chưa chắc đã chịu đầu hàng. Diệu kế này còn hơn cả Gia Cát Lượng.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Mười tên đầu bếp đã dấu mười miếng thịt bò sống. Chúng chỉ rạch mấy dao

vào đùi bọn quân La Sát cho chúng kêu rú lên. Còn thịt nướng chả là thịt bò

thượng hảo. Các vị thử nếm coi mùi vị thế nào?

Chúng tướng đều cười ồ.

Vi Tiểu Bảo sai bọn đầu bếp đem món Hà Thư Ni Khắc bằng thịt bò thái ra

cho mọi người ăn. Món này quả nhiên vừa thơm vừa mềm, ăn rất ngon lành.

- Chúng tướng lại hỏi:

Đại soái bắt được tướng giặc lại tha về, phải chăng là theo phép "Thất cầm

thất túng" để từ nay hắn không dám phản nghịch nữa?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Không phải đâu. Vụ này bản soái khi ở Bắc Kinh đã thỉnh thị Hoàng thượng.

Bản soái hỏi: Hoàng thượng là Điểu sâng dủy thang rộng lượng khoan hồng. Chúng

ta có nên bắt chước Gia Cát Lượng khi tóm được nguyên soái nước La Sát cũng

tha hắn bảy lần không? Hoàng thượng đáp: Cái đó không được. Học Gia Cát

Lượng là phải học một cách linh động chứ không thể học một cách mù quáng.

Mạch Hoạch là một tù trưởng đất Man di. Y tuyên bố không phản là vĩnh viễn

không bao giờ tạo phản nữa. Còn hoàn cảnh nước La Sát lại khác hẳn. Những nhân

vật cầm quyền nước này là Sa hoàng và Nữ Nhiếp chính vương. Nguyên soái chỉ là

kẻ vâng lệnh bậc quân thượng đem quân đến xâm lược bờ cõi nước ta, có thể

thay đổi luôn, không chỉ định một ai.

Chúng tướng gật đầu khen phải.

Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Thám tử về báo quân thủ thành Nhã Tát Khắc cực kỳ hung hăng, hỏa pháo

vô cùng lợi hại. Sĩ tốt của chúng ta đánh thành bị tử thương rất nhiều mà không hạđược. Ta tha cho nguyên soái La Sát trở về nhưng lột trần truồng người hắn dong

đi quanh trên mặt thành ba vòng để quân La Sát trong thành ngó thấy đem lòng

khinh khi hắn. Nguyên soái mất hết oai phong thì về sau hiệu lệnh tất không linh

nghiệm nữa.

Chư tướng lại đồng thanh khen phải.

Lâm Hưng Châu hỏi:

- Có phải đức Hoàng thượng đã chỉ thị cho đại soái lột hết áo quần của

tướng soái bên địch không?

Vi Tiểu Bảo cười ha hả đáp:

- Đức Hoàng thượng là đấng tôn nghiêm khi nào chỉ thị những điều hỗn loạn

như vậy? Ngài chỉ bảo ta nghĩ cách làm phấn khởi ý chí của quan binh bên mình mà

hủy diệt oai phong của quân tướng La Sát. Ngài phán: quân La Sát vừa cao lớn,

đầy mình lông lá, chẳng khác người man dã. Hỏa khí của chúng lại cực kỳ lợi hại.

Quân ta ngó thấy hình dạng man mọi thường sinh lòng khiếp sợ. Phải làm mất nhuệ

khí của họ là mình thắng trận dễ dàng hơn.

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Hoàng thượng lại dặn: "Tiểu Quế Tử! Ngươi cũng nhiều trò khôi hài, vậy tìm

cách khiến quân binh bên ta từ trên xuống dưới coi thường bọn Man tử là được".

Bản soái nghĩ lui nghĩ tới không tìm được biện pháp gì. Thế rồi một hôm chợt nhớ

tới chuyện đánh bạc ngày còn nhỏ...

Các tướng ngơ ngác tự hỏi:

- Chủ soái đánh bạc hồi nhỏ thì có dính líu gì đến chuyện đi đánh La Sát.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói tiếp:

- Hồi nhỏ ta ở Dương Châu cùng người đánh bạc thua rồi không có tiền trả

đành phải cãi xóa, họ muốn đánh muốn chửi như thế nào ta cũng không sợ. Một

lần ta đã bị họ chỉnh rất thảm hại. Người được bạc bắt ta lột hết quần áo để ta

trần truồng chạy về nhà. Lúc đi qua đường phố, ai ngó thấy cũng vỗ tay cười hô

hố. Từ đó ta đánh bạc phải thận trọng hơn.

Các tướng nghe gã nói đều cười ồ.Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Hoàng thượng dạy phép chiến đấu cần linh động, biến hóa. Ngài chỉ đưa ra

những phương lược, những kế hoạch đại khái, còn lúc thực hành đi vào chi tiết thì

chính ta phải huy động cân não làm cho nên việc. Ta nghĩ rằng ngày mình nhỏ tuổi

đã sợ kẻ khác lột quần áo thì khi nào binh tướng La Sát lại không sợ? Quả nhiên

vừa bị lột quần một cái, bọn chúng riu ríu đầu hàng.

Các tướng đồng thanh ca ngợi, trong lòng rất khâm phục. Có người lẩm bẩm:

- Phép lột quần áo trong "Tôn Tử binh pháp" cũng không nói đến. Vậy điều

này phải kêu bằng "Vi Tử binh pháp" và là một điểm rất lợi hại.

Vi Tiểu Bảo sai bọn hàng binh La Sát mặc áo giáp của quân Thanh vào, gã lại

phái một tên tham tướng dẫn hai nghìn quân Thanh áp giải hàng binh đến Bắc Kinh

tâu trình Hoàng đế hiến công.

Một vị sư gia ở trong trướng viết biểu chương tâu về triều đình nói: Phủ

Viễn Đại tướng quân Vi Tiểu Bảo tuân theo phương lược ngự chế của Hoàng

thượng mở cờ đắc thắng. Quân La Sát ngưỡng mộ Trung Hoa thượng quốc, tận tâm

quy thuận, Thánh đức của Ngô hoàng bao la thiên địa, cảm hóa man di...

Tối hôm ấy Vi Tiểu Bảo hạ lệnh mở tiệc khao thưởng ba quân.

Sáng hôm sau gã thân hành dẫn quân đến ngoài thành Nhã Tát Khắc.

Chủ tướng đánh thành này là Bằng Xuân vào trướng bẩm báo nói hỏa pháo ở

trong thành rất mãnh liệt, không thể tới gần để tấn công.

Vi Tiểu Bảo hạ lệnh:

- Chúng ta bắc súng lớn bắn con mẹ nó vào.

Bằng Xuân truyền lệnh ra ngoài. Chẳng bao lâu cả bốn mặt Đông, Nam, Tây,

Bắc súng nổ vang trời bắn vào trong thành.

Người La Sát kinh doanh thành Nhã Tát Khắc từ lâu, cách kiến trúc cực kỳ kiên

cố. Binh tướng La Sát ẩn ở phía trong thành lũy.

Quân Thanh khai hỏa bắn sập rất nhiều phòng ốc, nhưng quân La Sát vẫn

kiên thủ không ra, nên Thanh binh chẳng làm gì được.Cuộc đánh kéo dài mấy ngày rồi, Hà Hựu dẫn một nghìn dũng sĩ tiến gần lại

trèo lên, nhưng súng ống ở trên mặt thành bắn xuống từng loạt. Bên Thanh binh

bị chết bốn, năm trăm người.

Bằng Xuân thấy tình thế bất lợi liền khua chiêng thu binh.

Quân La Sát đứng trên mặt thành vỗ tay gieo cười. Lại có mấy chục tên vén

quần đi tiểu xuống thái độ rất ngạo mạn.

Hồi 233

Vi Tiểu Bảo NIệU Xạ LộC ĐỉNH SƠN

Hắc Long Giang tướng quân là Tát Bố Tố cả giận, thân hành đốc suất

quan quân đánh thành.

Trên mặt thành hàng loạt súng bắn xuống. Tát Bố Tố trúng đạn ngã ngựa.

Thanh quân rối loạn cả lên.

Cửa thành mở, mấy trăm quân La Sát xông ra.

Lâm Hưng Châu dẫn đội đằng bài lăn mình dưới đất xông vào, tay cầm đại

đao vung múa. Quân La Sát vội tung mình nhảy lên né tránh.

Đội quân đằng bài này do Lâm Hưng Châu ra tay huấn luyện phép "Địa

đường đao pháp" cực kỳ thuần thục. Bọn chúng lăn mình dưới đất, tay trái cầm

đằng bài che đỡ súng đạn bên địch. Tay mặt vung đại đao chém vào chân quân

La Sát.

Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy tình thế bất lợi vội hạ lệnh thu binh.

Lâm Hưng Châu cứu Tát Bố Tố đưa về. Tát Bố Tố bị trúng đạn ở trán may

chưa vào tới óc. Hắn bị thương rất nặng nhưng không nguy đến tính mạng.

Trận này cả hai bên cùng tổn thất, có điều quân Thanh bị tử thương nhiều

hơn.

Vi Tiểu Bảo đã đưa quân y đi theo, liền cho Tát Bố Tố ở trong trướng trị

thương và trọng thưởng Lâm Hưng Châu. Gã hạ lệnh lui binh hai mươi dặm hạ trại.

Tối hôm ấy Vi Tiểu Bảo ở trong trướng hội họp chư tướng, thương nghị kế

hoạch đánh thành.

Có người nói:

- Bữa nay quân đằng bài đã lập được công lớn, vậy sáng mai lại khiêu chiến

dẫn dụ bọn quỷ La Sát ra ngoài thành rồi huy động quân đằng bài chém quân

giặc.

Có kẻ bàn:

- Quân địch đã mất hết nhuệ khí, e rằng chúng không dám xuất chiến. Chi

bằng đắp lũy cao bốn mặt vây hãm cho chúng chết đói.

Lại có người bày kế: Nên đào đường hầm tiến quân vào thành tấn công.

Theo địa đạo đánh thành nguyên là kế hoạch từ xưa của Trung Quốc. Câu

này nhắc nhở Vi Tiểu Bảo nhớ tới trong thành Nhã Tát Khắc đã có đường hầm.

Nguyên năm trước gã ôm Tô Phi á Công chúa thân thể lõa lồ dưới địa đạo,

nhưng hiện nay nàng đã thành Nhiếp Chính Nữ Vương, địa vị rất tôn quý, trong tay

nắm đại quyền về quân chính của nước La Sát, mà gã lại đang đánh nhau ở đây với

bộ hạ của nàng. Bất giác gã lẩm bẩm:

- Giả tỷ nàng chỉ huy binh tướng ở trong thành Nhã Tát Khắc thì ta theo địa

đạo chuồn vào bò lên giường nàng để sờ. Một ta sờ, hai ta sờ, sờ vào tấm thân

mềm nhũn của nàng, tất nàng phải chịu đầu hàng.

Các tướng nghị luận một hồi thấy Vi Tiểu Bảo trầm ngâm không nói, miệng lại

tủm tỉm cười, thì cho là gã đã nghĩ ra diệu kế, nên ai nấy thảy đều im tiếng, lẳng

lặng chờ đợi nghe lệnh của đại soái. Ai mà biết được trong lòng gã lúc này đang

nghĩ tới chuyện sờ soạng vào da dẻ đầy lông lá của nàng Tô Phi á.

Bỗng thấy cặp mắt gã nửa nhắm nửa mở, miệng lảm nhảm:

- Hỏng bét! Không tiêu được!

Các tướng ngơ ngác nhìn nhau. Bỗng nghe đại soái nói:

- Con mẹ nó! Mình bị phát đá từ trên giường rớt xuống.

Chúng tướng cũng chẳng hiểu ra làm sao. Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Nước La Sát tuy lợi hại, nhưng rồi lão gia sẽ có biện pháp đối phó.

Bằng Xuân nói theo:

- Đại soái nói phải lắm! Bọn quỷ La Sát dù lợi hại đến đâu, chúng ta cũng có

cách đối phó.

Vi Tiểu Bảo giật mình mở bừng mắt ra hỏi:

- Chúng ta nào? Ngươi cũng có đến đó ư?

Nhưng rồi gã tỉnh ngộ ngay cười ha hả nói:- Phải rồi! Phải rồi! Đường địa đạo đó hẹp quá chỉ lọt một người đi vào mà

cửa hầm lại ở trong phòng tướng quân. Chắc hiện nay họ vít chặt rồi. Chúng ta

nên đào đường khác là hơn.

Các tướng lại càng mờ mịt chẳng hiểu chi hết.

Vi Tiểu Bảo đứng dậy nói:

- Kế hoạch của các vị tướng quân đều tuyệt diệu. Những cửa Thanh Long,

Bạch Hổ, Thiên Môn của chúng ta đều ăn thông hết. Sáng sớm mai chúng ta chia

nhau đôn đốc đắp thành bao vây, đào đường hầm, đồng thời nổ súng lớn dẫn dụ

bọn La Sát xuất chiến, để quân đằng bài lăn vào chém chân bọn quỷ sứ.

Các tướng thấy kế hoạch của mình đề nghị đều được đại soái thu dụng, ai

nấy hoan hỷ lui ra.

Hôm sau, trời chưa sáng rõ, các tướng đã dẫn bọn bộ thuộc chia nhau hành

động.

Bằng Xuân đốc suất binh lính đắp tường đất bao vây. Lang Thản chỉ huy đội

phóng pháo. Hà Hựu đôn đốc việc đào đường hầm. Hồng Triều dẫn năm trăm quân

đã học được ít tiếng La Sát của bọn hàng binh về những câu chửi bới, đến chân

thành lớn tiếng thóa mạ.

Đáng tiếc là người La Sát hủ lậu kém văn chương, rất ít từ ngữ thóa mạ.

Thanh âm của binh lính tuy vang dội nhưng hàm nghĩa rất bình thường, quanh

đi quẩn lại chỉ có mấy câu "Ngươi là con heo thối tha", "Ngươi ăn phân không biết

thối..."

Những lời thóa mạ của nước La Sát so với Trung Hoa thật còn kém xa, làm gì

có chuyện biến hóa vô cùng ?

Vi Tiểu Bảo nghe một lúc rồi phát ngán.

Bọn quân La Sát hôm qua đã nếm mùi chặt chân đau khổ, lại thấy quân Thanh

thế mạnh, quả nhiên kiên thủ không ra. Chúng ẩn mình ở sau tường để chửi lại.

Quân Thanh nổ súng bắn vào thành, nhưng không gây được tổn hại đáng kể.

Nên biết thời bấy giờ nhồi hỏa dược vào nòng súng rồi đốt lửa để bắn đạn

sắt đạn chì. Ai bị trúng đạn trực tiếp mới bị bong gân gẫy xương, còn đạn rơixuống đất thì không sao. Đâu có được như đời sau một phát đạn nổ sát thương

rất nhiều người.

Trăm họ ở quanh vùng này đã bị quân La Sát tàn hại mười mấy năm. Nhà tan

người chết không biết bao nhiêu mà kể! Nay họ được tin Hoàng thượng phái binh

đến đánh bọn quỷ La Sát, ai nấy mừng rỡ như phát điên. Kẻ đem cơm rượu úy lạo

ba quân, người đem quang gánh thuổng cuốc giúp việc đào đất đắp lũy bao vây.

Tin tức truyền đi rất mau chóng cả nhân dân ở ngoài mấy trăm dặm cũng đến

trợ lực cuộc tấn công.

Đồ Nhĩ Bố Thanh lên mặt thành nhìn xuống thấy người đông như kiến cỏ, hăm

hở đào đất đắp lũy bao vây ngoài thành mỗi ngày một cao. Cứ tình thế này thì

quân La Sát sẽ bị vây hãm đến chết.

Hắn chỉ mong thành Ni Bố Sở ở phía Tây phát binh cứu viện, nội ngoại giáp

công mới có cơ thủ thắng.

Ngờ đâu Vua Khang Hy đã tiên liệu chuyện này, chỉ thị cho một đội kỵ binh

kéo đến giả vờ tấn công thành Ni Bố Sở để cầm chân.

Tướng thủ thành Ni Bố Sở cũng mong Đồ Nhĩ Bố Thanh đem quân đến cứu

viện.

Súng ống La Sát vừa mạnh vừa bắn xa khiến quân Thanh không dám tiến vào

gần tấn công. Thành Nhã Tát Khắc lại dùng làm căn cứ địa của quân La Sát để tiến

về phía Đông, nên được gia cố rất vững vàng.

Người La Sát hoài bão dã tâm rất lớn, chuẩn bị chiếm cứ giải đất rộng mông

mênh ở miền Hắc Long Giang và Trung Hoa Giang rồi sẽ tràn xuống phía Nam, mưu

đồ lấy cả Trung Quốc sát nhập vào nước La Sát, khiến mấy trăm triệu người trở

thành nông nô cho chúng.

Tường thành Nhã Tát Khắc rất kiên cố. Trong thành đạn dược đầy đủ, lương

thảo chất thành non. Dù phải cố thủ mấy năm cũng không lo thiếu thốn.

Ngoài ra, chúng còn đào giếng sâu để giải quyết vấn đề nước uống.

Đồ Nhĩ Bố Thanh sợ người Trung Quốc ở trong thành nổi loạn để làm nội

ứng, nên lôi hết lên mặt thành giết chết rồi quẳng xác xuống.Người Trung Quốc ở ngoài thành thấy vậy vô cùng phẫn nộ, lớn tiếng thóa

mạ.

Hiện thời đường địa đạo đã đào đến bên thành.

Vi Tiểu Bảo nghĩ tới núi Lộc Đỉnh là chỗ long mạch phát tích đế nghiệp của

nhà Thanh, nếu đào đường là tổn thương long mạch, nguy hại đến tính mạng Nhà

Vua là một điều không ổn.

Gã liền hạ lệnh không được đào đường hầm tiến thẳng vào trong thành, mà

chỉ đào men theo chân tường rồi đặt chất nổ phá thành cho đại quân xông vào.

Không ngờ một hôm trong thành có mấy chỗ nước giếng vọt lên. Đồ Nhĩ Bố

Thanh chuyên nghề dụng binh được tin báo, hắn suy nghĩ rồi đoán biết địch quân

đào đường hầm trúng phải mạch nước mới có hiện tượng này. Hắn liền suy đoán

phương vị, đặt chất nổ trên đường địa đạo rồi châm ngòi cho nổ tung.

Hơn trăm quân Thanh bị chết dưới địa đạo và đường hầm cũng bị vít lại.

Việc đánh thành Nhã Tát Khắc không thể hạ được trong một thời gian ngắn,

khí trời lại mỗi ngày một thêm khá lạnh.

ở miền cực Bắc này, tới mùa thu khí hậu đã hàn lạnh phi thường. Sang mùa

đông nước đóng thành băng. Người nào bất cẩn một chút hay phòng vệ không

được chu đáo là lỗ mũi lỗ tai nước đọng nghẹt cứng. Còn chân tay cóng lại rồi bị

hủ nát là chuyện thường.

Mấy ngày trời xuống tuyết lớn, trăm họ đến giúp cuộc tấn công không chịu

nổi phải từ biệt quan quân trở về để chờ mùa hạ sang năm tuyết tạnh băng tan sẽ

trở lại trợ lực.

Mọi người còn khuyên quan quân lui về phía Nam để tránh giá lạnh nơi băng

thiên tuyết địa.

Bọn Tát Bố Tố, Lang Thản đã đóng quân lâu ngày ở miền Bắc đều biết cục

diện mùa đông rất nguy hiểm. Nếu đêm đến gặp hàn trào thì quan binh bị chết

rét phân nửa là sự thường.

Quân La Sát ở trong phòng đã có tường vách ngự hàn, nên đỡ phần giá lạnh.

Còn quân Thanh ở doanh trại ngoài hoang dã muốn đốt lửa sưởi cũng không được.Vi Tiểu Bảo buồn rầu nghĩ thầm:

- Đức Hoàng thượng phái ta dẫn quân Bắc chinh mà không hạ nổi một tòa

thành đã phải lui binh thì thật là đồ vô dụng.

Gã do dự mấy bữa thủy chung không tìm được chủ ý gì thì bộ tướng vào báo

mấy chục thương binh không chịu nổi giá lạnh chết cóng rồi.

Vi Tiểu Bảo đang chán nản bỗng có thánh chỉ đưa tới.

Vua Khang Hy ban thượng dụ nói:

- "Phủ Viễn Đại tướng quân Vi Tiểu Bảo ra quân đắc lợi thật đáng khen

thưởng.

Nay đã phái hàng tướng La Sát mang sắc thư của nhà Đại Thanh đến Mạc Tư

Khoa tuyên dụ cho Quốc vương La Sát bãi chiến lui binh để hai nước vĩnh viễn

hòa hảo.

Hiện nay tiết trời giá lạnh, binh tướng lao khổ, nằm băng giãi tuyết khiến lòng

trẫm không khỏi đau thương. Vậy Vi Tiểu Bảo lui quân về phía Nam đóng ở hai

thành ái Huy và Hô Mã Nhi để sĩ tốt nghỉ ngơi điều dưỡng.

Nếu sang xuân quân La Sát vẫn ngoan cố không chịu hàng phục sẽ hạ lệnh

tiến binh đánh dẹp.

Nay ban cho Phủ Viễn Đại tướng quân cùng quan binh dưới trướng từ Đô

thống, phó Đô thống trở xuống đều được dự phần y phục, kim ngân tửu thực.

Các tướng hãy thể theo ý trẫm, thương xót ba quân, chớ có tham công tốc

chiến để sĩ tốt và nhân dân phải chịu gian lao, giá lạnh.

Cuộc Bắc chinh của vương sư nguyên vì mục đích bảo vệ nhân dân mà binh

sĩ cũng là nhân dân vậy".

"Khâm thử"

Vi Tiểu Bảo cùng các tướng tiếp chỉ tạ ơn.

Các tướng đều biết đức Vạn tuế thương yêu tướng sĩ, ơn đức bao la. Có

điều mọi ngươi nghĩ tới bây giờ triệt binh bỏ dở cuộc bao vây không khỏi uổng

phí tiền công, nên trong lòng hối tiếc.Quan khâm sai truyền chỉ dụ đến các doanh trại ban thưởng ba quân, sĩ tốt

hoan hỷ reo hò như sấm dậy.

Hôm sau, Vi Tiểu Bảo hạ lệnh cho Tát Bố Tố dẫn binh rút lui trước. Gã lại sai

Hà Hựu và Lâm Hưng Châu lĩnh binh đoạn hậu. Nếu quân La Sát kéo ra đuổi theo

thì phải đánh giết chúng tơi bời hoa lá.

Quân La Sát thấy Thanh binh triệt thoái, trong thành reo hò vang dội cả góc

trời.

Mấy trăm tên quân La Sát đứng trên mặt thành đi tiểu xuống.

Vi Tiểu Bảo tức quá cũng hạ lệnh cho sĩ tốt nhất tề ngó lên thành mà đi tiểu.

Trên thành dưới thành tiếng cười hô hố pha lẫn với tiếng thóa mạ náo loạn cả

lên.

Có điều quân La Sát ở trên cao đi tiểu xuống thì được, còn quân Thanh ở

dưới không thể bắn nước tiểu lên thành đành là chịu thua.

Mé tường thành chỗ nào cũng có nước tiểu mà gặp gió lạnh chỉ trong khoảnh

khắc đã đóng lại thành một mửng vàng khè.

Vi Tiểu Bảo nổi tính trẻ nít, không chịu được cái tức này. Gã trỏ lên mặt

thành chửi cha chửi mẹ quân La Sát.

Quan Khâm sai liền tìm lời khuyên giải nói:

- Quân La Sát chẳng khác gì bầy dã thú. Đại soái bất tất phải chấp với

chúng.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Không được! Mình thua là mất thể diện.

Gã hạ lệnh lấy vòi rồng đến.

Vòi rồng là đồ dùng cứu hỏa, dĩ nhiên quân đội phải đem theo để phòng khi

chữa lửa.

Bọn thân binh kéo mười mấy cái vòi rồng đến. Vi Tiểu Bảo sai chúng bắc lên

mặt lũy.Hiện thời nước sông đóng lại thành băng không thể dùng được. Gã liền sai

hỏa phu bắc những nồi lớn lên đun cho băng chảy ra rồi đổ nước nóng vào vòi

rồng.

Vi Tiểu Bảo lại vén quần đi tiểu vào nước nóng và hạ lệnh cho thân binh:

Các ngươi hãy thụt nước lên thành.

Bọn thân binh thấy chủ soái nghĩ ra được diệu kế liền hăm hở huy động vòi

rồng phun nước nóng lên mặt thành.

Bọn thân binh vừa thụt nước vừa hô:

- Vi đại soái ban nước tiểu cho bọn quỷ La Sát các ngươi giải khát.

Nước nóng bắn vào, quân La Sát kêu la, thóa mạ ầm ĩ và tới tấp né tránh.

Các tướng có người lẩm bẩm:

- Nhộn quá!

Có người muốn lấy lòng đại soái, đứng lên reo hò để trợ oai.

Nhưng trời lạnh quá nước trong vòi rồng chỉ sau giây lát đã đóng thành băng,

cứ phải đổ nước nóng hoài.

Vi Tiểu Bảo thấy mình thắng được một trận chiến đấu bằng nước tiểu, trong

lòng rất cao hứng, mình lại tự khen mình:

- Gia Cát Lượng hỏa thiêu Bàn Xà Cốc, Vi Tiểu Bảo niệu xạ Lộc Đỉnh Sơn.

Cả hai vụ đều oai phong chẳng kém gì nhau.

Đột nhiên hai mắt gã trợn ngược, ngơ ngẩn xuất thần. Hắn quát một tiếng lớn

rồi nhảy lên cười ha hả hô:

- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu!

Phó Đô thống là Lang Thản đứng bên ca tụng:

- Một bầu nước tiểu của đại soái đủ làm cho bọn quỷ La Sát phải chùn nhụt

nhuệ khí.

Vi Tiểu Bảo lại sai đánh trống triệu tập chúng tướng vào trong trướng hỏi:

- Trong doanh trại chúng ta cả thảy có bao nhiêu vòi rồng?Tên tham tướng phụ trách quân nhu đáp:

- Khải bẩm đại soái! Tất cả có mười tám bộ.

Vi Tiểu Bảo chau mày hỏi:

- ít quá! ít quá! Sao không mang nhiều đi?

Tham tướng dạ một tiếng.

Hắn nghĩ bụng:

- Quân doanh thất hỏa chẳng phải là chuyện thường xảy ra. Mười tám bộ vòi

rồng đủ dùng rồi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Ta cần dùng một nghìn bộ vòi rồng. Bây giờ sai người đi trưng dụng ở các

thành thị lân cận thì bao giờ mới có đủ?

Nơi đây là biên thùy cực Bắc, đất rộng người thưa. Thành thị gần nhất cũng

xa tới mấy trăm dặm. Thị trấn lại nghèo nàn, lèo tèo chỉ mấy trăm nhà, chứ không

sầm uất như ở Trung Nguyên. Tại thị trấn chưa chắc đã có vòi rồng. Muốn trưng

tập nghìn bộ thì nhất quyết không sao tìm đủ được.

Tên tham tướng vẻ mặt đăm chiêu đáp:

- Khải bẩm đại soái! ở quan ngoại mà muốn kiếm đủ một nghìn bộ vòi rồng thì

e rằng không sao có đủ. Vậy phải tiến vào quan ải đến Bắc Kinh, Thiên Tân thu

thập và chuyển vận tới đây.

Vi Tiểu Bảo tức giận nói:

- Thối lắm! Từ đây trở về Bắc Kinh, Thiên Tân lấy được vòi rồng đưa tới mất

bao nhiêu ngày giờ? Việc đánh nhau là phải thần tốc, nửa ngày còn không chậm

được.

Tên tham tướng vâng dạ luôn miệng. Hắn sợ hãi thất sắc than thầm:

- Phen này thì cái đầu ta đến phải lìa khỏi cổ mất!

Quan Khâm sai ngồi bên không nhịn được liền khuyên giải:- Đại soái! Quý niệu đã bắn lên mặt thành của người La Sát rồi. Cái đó... cái

đó quý ở chỗ tinh vi chứ không cần nhiều. Chúng ta đã thắng một trận rồi. Theo

ngu kiến củ tiểu đệ thì giặc đến bước đường cùng không nên... bắn theo nữa.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:

- Không được. Phải đủ một nghìn vòi rồng mới làm nên đại sự.

Viên Khâm sai bụng bảo dạ:

- Gã này làm đại soái mà rắc rối quá chừng! Vụ bắn nước tiểu để tranh hơi,

ngẫu nhiên đùa giỡn một chút thì không tổn thương gì đến đại thể, đâu có thể mở

cờ gióng trống làm trò vô vị. Thiếu niên Hoàng đế ưa dùng tướng quân nhỏ tuổi.

Quân thần họ ý hợp tâm đầu nên người ngoài không dám nói nhiều. Nhưng gã đùa

dai thái quá chẳng còn ra thể thống gì nữa, tất không tránh khỏi bị thiên hạ chê

cười.

Y muốn đưa lời khuyên giải, bỗng nghe Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Các vị tướng quân! Vị nào nghĩ ra được diệu kế gì điều động đến đây ngay

lập tức một hai nghìn cỗ vòi rồng để dùng chăng? Đây là một công lao rất lớn.

Bằng Xuân hỏi lại:

- Xin hỏi đại soái: Phải chăng đại soái muốn dùng một nghìn vòi rồng để...

để bắn nước tiểu lên thành?

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Nếu chúng ta có đủ nghìn vòi rồng mà dùng vào việc bắn nước tiểu lên

thành thì lấy đâu ra được nhiều nước tiểu như vậy? Bản soái tưởng cả trăm vạn

nhân mã đi tiểu cũng không đủ dùng.

Bằng Xuân cười nói:

- Đúng thế! Thuộc hạ thật là ngu muội! Xin đại soái chỉ thị cho.

Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Vừa rồi bản soái thấy "quý niệu" của bản soái bắn lên mặt thành lập tức

đóng lại thành băng. Nếu chúng ta dùng một vài nghìn cỗ vòi rồng suốt ngày thâu

đêm bắn nước nóng lên mặt thành thì sẽ ra sao?Chúng tướng sửng sốt một chút ròi những người đầu óc linh mẫn nổi lên hoan

hô. Về sau ai cũng vỡ lẽ, tiếng reo hò như sấm động trong doanh trướng.

Chúng tướng hô lớn:

- Diệu kế chân diệu kế! Nước tràn Nhã Tát Khắc! Băng đóng Lộc Đỉnh Sơn!

Sau một lúc, tiếng hoan hô dừng lại. Có người nói:

- Dù phải đến Bắc Kinh, Thiên Tân lấy một nghìn vòi rồng cũng phải ra sức đi

suốt ngày đêm vận tải đưa về đây.

Lập tức mấy tên phó tướng, tá lãnh tự nguyện tận tâm kiệt lực và xin lệnh đi

trưng tập vòi rồng,

Hồng Triều chức vị thấp kém đứng ở hàng sau cùng, bây giờ mới khom lưng

lên tiếng:

- Khải bẩm chủ soái! Mạt tướng xin đưa ra ý kiến nông cạn để chủ soái định

đoạt.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Tướng quân có ý kiến gì cứ nói ra.

Hồng Triều nói:

- Mạt tướng là người ở Phúc Kiến, làng mạc nghèo nàn không làm nổi vòi

rồng. Khi hương thôn phát hỏa, nhân dân liền dùng ống thụt bằng tre để chữa

cháy. Thứ ống thụt này chỉ cần dùng một cây bương lớn đục cho rỗng ruột. Một

đâu khoan lỗ nhỏ bằng đồng tiền. Còn một đầu lắp khúc gỗ vừa khít. Khi cứu hỏa

thì dùng đầu có lỗ nhỏ xuống nước, kéo mạnh khúc gỗ lên hút nước đầy vào ống

tre. Tiếp theo đẩy mạnh khúc gỗ để bắn nước vào chỗ lửa cháy.

Vi Tiểu Bảo ồ lên một tiếng rồi suy nghĩ cách làm ống thụt.

Hà Hựu nói:

- Khải bẩm chủ soái! ống thụt này muốn làm lớn nhỏ thế nào cũng được. Hồi

ty chức còn nhỏ thường cùng bạn bè dùng ống thụt nước bắn nhau chơi. Trò này

rất thú vị.

Y dừng lại một chút rồi tiếp:- Đáng tiếc giải đất này không có giống tre bương thật lớn để làm ống thụt

đựng nhiều nước. Thứ tre này phải qua sông Trường Giang mới có nhiều.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi Hồng Triều:

- Tướng quân còn có biện pháp nào không?

Hồng Triều đáp:

- Mạt tướng nghĩ rằng: Nơi đây tuy không có trúc lớn nhưng rất nhiều cây

tùng cây sam. Chúng ta chặt nhiều cây lớn khoét ruột đi có thể làm thành ống

thụt nước.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Muốn khoét ruột cây súng lớn đâu phải chuyện dễ dàng?

Một tên phó tướng họ Ban xuất thân là thợ mộc ở Sơn Tây tiến ra đáp:

- Khải bẩm chủ soái! Vụ này không khó khăn gì. Trước hết lấy cưa xẻ dọc cây

gỗ lớn ra làm hai nửa. Mỗi nửa khoét ruột rỗng thành hình bán nguyệt bào cho

nhẵn rồi lắp hai nửa vào thì thành cái ống tròn rỗng ruột. Khi lắp hai nửa muốn cho

đẹp thì dùng khâu sắt đóng vào, bằng làm sơ sài thì chỉ đóng đinh sắt cũng được.

Vi Tiểu Bảo cả mừng reo lên:

- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu.

Rồi gã hỏi:

- Làm một cây ống thụt lớn như vậy phải mất bao nhiêu thì giờ?

Ban phó tướng đáp:

- Tiểu tướng tự mình ra tay thì một ngày có thể xong một cây. Làm cả đêm thì

được hai cây.

Vi Tiểu Bảo chau mày nói:

- Chậm lắm, chậm lắm! Tướng quân đến khắp doanh trại tìm kiếm những tay trợ

thủ, cần thật đông người làm. Tướng quân đóng vai sư phụ dạy cho các đồ đệ

khởi công tức khắc.

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:- Vụ này chỉ cần làm cho được việc chứ có phải tân nương tử về nhà chồng

đâu mà làm đồ đẹp. Cũng chẳng phải tài chủ đóng quan tài cần làm cho kỹ. Vỏ

cây làm ống thụt cũng không cần đến nữa. Chỉ cốt sao bắn nước lên thành là

được.

Gã lại lớn tiếng hô:

- Chư tướng! Chúng ta lập tức động thủ, phạt mộc làm ống thụt.

Chúng tướng được lệnh liền dẫn quân bộ thuộc vào rừng đốn cây phạt mộc.

Hồi 234

Hạ THàNH KHÔNG MấT MộT TÊN QUÂN

Bên ngoài quan ải, khắp nơi mọc đầy những cây tùng, cây sam. Cả một giải

ven sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp chi chít rừng rậm. Cây cao ngất trời hàng

trăm năm không biết bao nhiêu mà kể. Quân Thanh phát động không đầy nửa ngày

đã đốn được mấy ngàn cây lớn.

Binh sĩ trong quân có hơn trăm tên nguyên là thợ mộc được Ban phó tướng

điều động khởi công. Hắn lựa thêm bốn, năm trăm quân khéo tay giúp việc chế

tạo ống thụt ngay đêm hôm ấy.

Chính Ban phó tướng làm một cây kiểu mẫu. Cây ống thụt này đường kính hai

thước, dài hơn một trượng. Đầu ống thụt lắp khúc gỗ để nằm ngang. Sáu tên quân

chia ra đứng hai bên nắm quai khúc gỗ này thụt ra thụt vào.

ống thụt hút nước nóng vào rồi, Ban phó tướng hạ lệnh cho sáu tên quân

hết sức xô đẩy khúc gỗ nằm ngang để bắn nước nóng ra xa được hai trăm bộ.

Vi Tiểu Bảo coi diễn thử trầm trồ khen ngợi.

Gã nói:

- Cái này không phải là ống thụt mà là súng bắn nước.

Gã ngẫm nghĩ nói tiếp:

- Chúng ta phải dặt cho nó một cái tên, kêu bằng... Bạch Long thủy pháo.

Gã lấy vàng bạc khao thưởng Ban phó tướng và quan binh chế tạo thủy

pháo. Đồng thời gã đốc thúc binh tướng làm việc suốt ngày đêm.

Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy quan Thanh đã rút lui rồi quay trở lại, liền lên mặt

thành quan sát. Hắn ngó thấy trong trại binh xếp từng đống gỗ rất lớn, nghĩ thầm:

- Bọn man tử Trung Quốc đốn nhiều gỗ thế kia là để làm củi đốt lửa sưởi ấm.

Chắc bọn chúng ở lại vây thành không rút lui nữa.

Rồi hắn lẩm bẩm:

- Hừ! Chỉ nửa tháng nữa là gió to tuyết dữ. Ta thử coi bọn ngươi có chịu nổi

không? Dù các ngươi đốt bao nhiêu củi lửa cũng chẳng thể cản được âm phong

hàn khí ở trong vòng địa ngục này tiết ra.

Hắn trở về doanh trướng sai thân binh đốt lò lửa, rót thứ rượu mạnh La Sát ra

uống, lại gọi hai thiếu nữ Trung Quốc bắt được từ trước vào trướng hầu rượu.

Bên này bọn Bằng Xuân, Hà Hựu sai kỵ binh thu lượm nồi đồng, chảo gang

của trăm họ để lại trong mấy dặm vuông vào một chỗ. Chúng lại sai binh sĩ đào

đất làm bếp.

Củi khô cùng băng tuyết xếp thành từng đống cao như những trái núi nhỏ.

Bao nhiêu Bạch Long thủy pháo đều dùng cành cây che lấp để bọn quân La Sát

khỏi phát giác.

Đến ngày thứ chín, Ban phó tướng báo cáo đã chế tạo được ba ngàn Bạch

Long thủy pháo.

Hôm sau là ngày hoàng đạo, Vi Tiểu Bảo thăng trướng từ giờ mão. Gã nổi

trống tụ tập chúng tướng rồi hạ lệnh khiêng hết thủy pháo đặt lên mặt lũy. Miệng

súng nằm hướng vào thành Nhã Tát Khắc.

Trong quân hiệu trống và tù và nổi lên inh ỏi. Súng nổ đoàng đoàng liền chín

phát.

Tướng sĩ các doanh trại nhất tề động thủ khuân băng tuyết bỏ vào nồi đồng

chảo gang và đốt lửa đun lên.

Đồ Nhĩ Bố Thanh đang trùm chăn ngủ kỹ chợt nghe ngoài thành pháo nổ rầm

trời. Hắn hốt hoảng bổ dậy, vội vã mặc quần áo, bên ngoài khoác áo cừu, rồi lật

đật lên mặt thành quan sát.

Lúc này gió to tuyết dữ, bầu trời ảm đạm, Đồ Nhĩ Bố Thanh chỉ nhìn thấy lờ

mời trên mặt tường lũy, quân Thanh đặt đầy những cây gỗ lớn mà không hiểu để

làm gì?

Đồ Nhĩ Bố Thanh còn đang nghi hoặc, bỗng nghe quân Thanh lớn tiếng reo

hò, uy thế tựa trời long núi lở.Đột nhiên mấy ngàn cây gỗ lớn phun nước ra. Cả bốn mặt tám phương đều

bắn nước vào thành.

Đồ Nhĩ Bố Thanh cả kinh. Bỗng hắn thét lên một tiếng:

- úi chao!

Một làn nước nóng bắn trúng ngực hắn.

Tiết trời lạnh quá. Nước nóng bắn tới nơi nhiệt lực đã giảm sút rất nhiều,

nhưng Đồ Nhĩ Bố Thanh chân không đứng vững, lảo đảo người đi rồi ngã quay ra.

Bọn thân binh đứng bên vội lại đỡ hắn dậy.

Bốn mặt tiếng quân reo hò pha lẫn với tiếng ào ào lướt qua trên đầu bọn

quân La Sát. Chúng ngửng mặt lên nhìn tưởng chừng đoàn Bạch Long đang phun

tên nước vào thành.

Chỉ trong khoảnh khắc, trên thành Nhã Tát Khắc bao phủ một làn mù mịt mờ

do hơi nước gặp khí lạnh gây ra.

Đồ Nhĩ Bố Thanh ruột rối như mớ bòng bong, trong lòng cực kỳ xao xuyến,

hắn lớn tiếng la:

- Bọn Man tử Trung Quốc lại dùng yêu pháp rồi!

Hắn thấy nước từ trong cây lớn phun ra rất lấy làm kỳ và cho đây là bên

quân Thanh thi triển yêu pháp, không còn nghi ngờ gì nữa.

Trong lúc hoang mang, Đồ Nhĩ Bố Thanh hô lớn:

- Các ngươi phải nổ súng, đừng để bọn Man tử Trung Quốc xông lên mặt

thành.

Nhưng từ hôm hắn bị Vi Tiểu Bảo lột trần truồng dong đi trên mặt thành ba

vòng, uy tín hắn bị tổn thương rất nhiều. Trước kia, một khi hắn phát hiệu lệnh là

bọn thuộc hạ đều tuân theo răm rắp, mà lần này chúng tỏ ra uể oải, lơ là.

Có điều quân La Sát thấy Thanh binh vây thành đánh rát, chúng sợ thành vỡ

tất không thoát chết mà phải cố sức phòng thủ.

Lúc này chúng thấy tình thế biến đổi bất ngờ. Mấy nghìn thủy pháo bắn tên

nước vào thành, bỏ chạy tán loạn, chẳng còn ai nhìn đến chủ tướng nữa.May mà quân Thanh chỉ bắn nước lên chứ không thừa cơ đánh thành. Binh

tướng La Sát hoang mang một lúc, vừa bình tĩnh được một chút, lại thấy dưới đất

nước đóng thành băng. Trên đầu từng cây cột nước như rót vào đổ xuống ầm ầm.

Bao nhiêu đàn ông Trung Quốc ở trong thành Nhã Tát Khắc đã bị quân La

Sát giết sạch sành sanh. Chúng chỉ lưu lại bọn phụ nữ ít tuổi làm doanh kỹ để

chúng gian dâm thủ lạc.

Ngoài bọn quân tướng La Sát trong thành chỉ có những quan văn do Mạc Tư

Khoa phái đến, hoặc những giáo sĩ truyền giáo, hay những người thương mại đi

theo trong quân để bán hàng. Bọn này nghĩ rằng cuộc Đông tiến là một dịp đại

phát tài, nên rất nhiều quân trộm cắp trà trộn vào.

Chỉ trong khoảnh khắc, người nào người nấy ướt như chuột lột.

Ban đầu nước còn hơi ấm, nhưng sau một lúc áo ướt bắt đầu kết lại thành

băng.

Quân dân thấy vậy kinh hãi vô cùng, tới tấp cởi áo tụt giầy.

Nên biết áo ướt một khi đóng thành băng là dính liền vào da thịt, mà ngón

tay mọi người giá lạnh cứng đơ, không còn sức để cởi nữa. Dù có bạn giúp đỡ,

cũng chỉ thọc tay vào xé rách áo quần mới lôi ra được. Như vậy vẫn nguy hiểm vô

cùng.

Nước đọng dưới đất đóng lại mỗi lúc một cao. Trên mặt đất bầy nhầy trơn

như mỡ đổ.

Bọn người La Sát tụt bỏ hết giầy dép, chỉ còn chân không dẫm lên băng giá

lạnh thấu xương. Chúng không chịu nổi, hai chân nhảy lên như cào cào, miệng kêu

la:

- Lạnh đến chết người, lạnh đến chết người!

Mọi người tới tấp chạy lên chỗ cao để tránh nước đọng. Có kẻ liều lĩnh bò

lên nóc nhà.

Bỗng trong đám đông, một người hô lớn:

- Đầu hàng đi, đầu hàng đi! Nếu không đầu hàng là chết sạch đến nơi bây

giờ.Đồ Nhĩ Bố Thanh mình khoác áo cừu, tay trái cầm dù. Hắn cưỡi trên lưng con

ngựa lớn, đầu cao nghêu nghện, đi lại tuần tiều, vừa nghe tiếng hô •đầu hàng•

liền nổi giận quát tháo:

- Kẻ nào ở trong này làm náo loạn quân tâm? Bọn gian tế rồi! Phải bắn chết

đi!

Mọi người thấy hắn khoác áo da cừu chống được nước, trong mình vẫn ấm áp,

mới đi lại diễu võ dương oai. Xung quanh hắn toàn là quân dân mình trần trùng

trục bị khí lạnh hành hạ còn thiếu chết đi sống lại, ai cũng đem lòng căm phẫn.

Giữa lúc ấy, một người cúi xuống lượm khối băng dưới đất, nhắm Đồ Nhĩ Bố

Thanh liệng tới.

Đồ Nhĩ Bố Thanh liền giơ súng lục lên bắn vào đám đông •đẹt đẹt• hai

phát. Lập tức hai người ngã lăn ra chết.

Những người đứng kế bên thấy thế càng cáu giận, đều lượm mảnh băng ném

vào hắn loạn lên.

Lại có người nhảy xổ tới lôi hắn xuống ngựa.

Bọn vệ binh múa đao chém giết cũng không cản trở được.

Đang khi náo loạn, một đội kỵ binh chạy tới, bọn loạn dân La Sát mới bị giải

tán.

Đồ Nhĩ Bố Thanh lồm cồm bò dậy.

Giữa lúc ấy, trên đầu hai tia nước rót thẳng vào khiến toàn thân hắn ướt đầm.

Hai chân nhảy loạn lên, Đồ Nhĩ Bố Thanh lớn tiếng thóa mạ, đồng thời bọn vệ

binh giúp sức cởi áo tụt giầy.

Quân Thanh bắn thủy pháo có lúc nước dựng lên như cây cột có luồng phun

ra tản mát như thủy châu trên mặt thành, lại tựa hồ mưa rào đổ xuống. Có tia nước

bắn lên cao, có tia bắn thấp hơn văng trúng vào người.

Nên biết những thủy pháo này chế tạo một cách rất thô sơ. Có cây luồng lực

đạo bắn đi xa, có cây xạ trình rất gần. Lại có nhiều cây chỉ bắn mấy lần ống súng

đã bể nát làm bị thương khá nhiều "pháo thủ" bên Thanh.Ba nghìn cỗ thủy pháo bắn trong vòng hơn một giờ, đã có sáu bảy trăm cây

bị hư hại.

Mặt khác, việc đun băng tuyết tan thành nước nóng chậm hơn không đủ cung

ứng cho thủy pháo. Về sau "đạn dược" tiếp ứng không kịp.

Quân Thanh thấy tình trạng quân La Sát trong thành tất tưởi khốn đốn, chúng

đứng trên mặt lũy reo hò như sấm dậy. Một số đông lại cất tiếng Nam giọng Bắc

ca hát râm ran.

Trong đám này có cả Vi Tiểu Bảo cử bài "Thập Bát mô"... một ta sờ, hai ta

sờ...

Bằng Xuân cùng các tướng lật đật trong việc chỉ huy đội pháo binh. Ban phó

tướng cũng cực nhọc điều động bọn mộc tượng sửa chữa những cây pháo bị hư

hoại.

Đội binh sĩ phụ trách đun nước, gia sức cuốc băng bỏ vào chảo. Đội thủy

binh khuân hết thùng lớn thùng nhỏ nước nóng đổ vào nòng súng.

Nòng súng đầy nước rồi, đội pháo thủ ấn đầu súng cho miệng súng hướng lên

rồi hô:

- Một, hai, ba, bắn!

Sáu tên pháo thủ liền đẩy mạnh phiến gỗ thụt bắn nước vào thành.

Cuộc bắn tiếp tục hơn nửa giờ nữa, số thủy pháo mỗi lúc hư hại một nhiều.

Nước nóng mỗi lúc một thiếu hụt thêm. Sau chỉ còn tám, chín trăm cỗ thủy pháo

phát xạ. Dĩ nhiên uy lực giảm đi rất nhiều.

Vi Tiểu Bảo đang cảm thấy trong lòng nao núng, bỗng cổng thành Nhã Tát

Khắc mở rộng. Mấy trăm người La Sát mình trần như nhộng ào ào kéo ra, lớn miệng

hô:

- Đầu hàng, đầu hàng!

Lúc này Tát Bố Tố, vết thương trên đầu đã lành được quá nửa liền dẫn một

nghìn kỵ binh chạy lại hô:

- Ai đầu hàng thì ngồi cả xuống đất!Người La Sát ngơ ngác nhìn nhau chẳng hiểu hắn nói gì.

Một tên bá tổng trong đội quân Thanh liền ngồi xuống đất la lên:

- Ngồi xuống! Ngồi xuống!

Giữa lúc ấy, cổng thành đóng sập lại. Trên mặt thành từng loạt súng bắn

xuống làm chết mấy chục người La Sát.

Bọn người ra hàng thấy trên thành bắn súng xuống bỏ chạy tán loạn.

Quân Thanh liền lái thủy pháo nhằm bắn vào binh tướng La Sát đứng trên mặt

thành nổ súng. Bọn chúng hoảng sợ tới tấp nhảy xuống.

Lúc này trong thành ngập nước đến hơn hai thước đã đóng thành băng. Nếu

muốn toàn thành đầy nước để trở nên một tòa đại băng thành thì phải tiếp tục

bắn nước lên hàng nửa tháng hay ít ra cũng phải mười ngày.

Nhưng quân tướng La Sát đã không quần áo lại chẳng thể đốt lửa sưởi ấm,

người nào người nấy bị rét cóng, toàn thân run bần bật như thằn lằn đứt đuôi, sắc

mặt xanh xám. Mấy tên quân phải ôm nhau cho đỡ lạnh.

Đồ Nhĩ Bố Thanh vẫn lớn tiếng quát tháo, đốc thúc binh tướng thủ thành,

nhưng sĩ tốt ngoảnh mặt làm ngơ, không lý gì đến hắn.

Đồ Nhĩ Bố Thanh tức quá giơ tay lên tát một tên quân.

Tên quan quân này lùi lại né tránh. Đồ Nhĩ Bố Thanh rượt theo trượt chân té

xuống.

Một tên quân sĩ đứng bên liền đưa tay ra đẩy hắn xuống hố đầy nước đọng.

Đồ Nhĩ Bố Thanh hết sức giẫy dụa để bò lên, nhưng chân tay lạnh cóng

không sao lên được. Hắn lớn tiếng la:

- Cứu ta! Cứu ta!

Các binh tướng lờ đi như không nghe thấy, xúm quanh khối nước dương mắt

lên nhìn hắn.

Chẳng bao lâu, nước trong hố đóng thành băng vít chặt Đồ Nhĩ Bố Thanh

thành một khối không nhúc nhích được. Nửa người trên hắn chìa ra ngoài hố, miệngthở hồng hộc. Từ ngực trở xuống chìm vào trong khối băng như người bị chôn

sống.

Các binh tướng La Sát chẳng ai bảo ai mà cùng chung một quan điểm, mở

rộng cửa thành, hô lớn:

- Đầu hàng, đầu hàng!

Quân dân La Sát, ngoại trừ những người bị rét cóng không nhúc nhích được,

hết thảy kéo ùa ra như đàn ong để xin đầu hàng.

Vi Tiểu Bảo sung sướng như người phát điên. Gã khoa chân múa tay, miệng

nói ba hoa. Hiệu lệnh của gã chẳng còn ra đường lối nào nữa.

May ở chỗ những tướng lĩnh bên Thanh toàn là tay lão luyện trong quân

trường, trải qua rất nhiều chiến trận. Miệng chúng lớn tiếng hô:

- Xin tuân lệnh.

Rồi tự ý xử trí với cuộc tiếp thu đầu hàng, cùng thi hành thủ tục tiếp thu,

nhập thành, kiểm soát khí giới, thanh lý mọi việc cần thiết rất có phép tắc, thường

khi ra ngoài hiệu lệnh của đại soái.

Có điều trước khi bắn nước vào thành chỉ lo không đủ, mà bây giờ trái lại

thấy nhiều quá. Công cuộc hóa băng, tiêu nước trong thành thật không phải

chuyện dễ dàng,

Lang Thản đốc thúc quan binh trước hết là dọn dẹp Tổng đốc phủ, mời Vi

Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ và quan Khâm sai vào ngồi.

Kế đó hắn đi niêm phong những kho hỏa dược, súng ống, kim ngân và phái

binh coi giữ.

Hiện thời uy thế Thanh triều mới cường thịnh, kỷ luật trong quân rất nghiêm

minh, chẳng ai dám tơ hào đụng chạm đến. Dĩ nhiên các quan lớn là bọn Vi Tiểu

Bảo, Sách Ngạch Đồ càng thừa cơ phát tài.

Tối hôm ấy thành nội thành ngoại giết trâu mổ cừu mở tiệc khánh chúc.

Bọn Sách Ngạch Đồ hết lời tâng bốc Vi Tiểu Bảo, ca tụng Vi đại soái dụng

binh như thần. Dù Tôn, Ngô phục sinh cũng không thể bì kịp.Viên Khâm sai theo hùa lên tiếng:

- Chuyến này tiểu đệ dời khỏi kinh sư, đức Hoàng thượng ân cần nhắn nhủ Vi

đại soái không nên làm tổn thương nhân mạng quá nhiều. Bữa nay Vi đại soái hạ

thành khắc địch dĩ nhiên là một kỳ công, nhưng tuyệt ở chỗ chẳng cần động dụng

đến đao thưng kiếm kích, cung tên hỏa khí. Bên thành không một ai chết trận.

Trong một ngày trời phá đại địch, hạ thành trì, mà không hao tổn một chiến tướng,

một tên quân thì tự cổ chí kim chỉ có một mình Vi đại soái làm được mà thôi. Tiểu

đệ nhận thấy đây là công cuộc chẳng những tiền vô cổ nhân mà còn dám chắc hậu

vô lai giả nữa.

Vi Tiểu Bảo nhơn nhơn đắc ý lại càng ba hoa khoác lác. Gã đáp:

- Muốn phá thành Nhã Tát Khắc sự thực không phải là việc khó, nhưng khó ở

chỗ hoàng ân bát ngát, thương tiếc quân dân, mình phải giữ sao tránh được

thương vong quá nhiều cho khỏi trái với tâm nguyện của Hoàng thượng. Vì thế mà

tiểu đệ phải chờ tới bữa nay mới trù liệu xong kế hoạch, để Khâm sai đại thần

thân hành chứng kiến: Bọn tiểu đệ vì Hoàng thượng ra sức phá giặc đoạt thành mà

thành công không phải chuyện lạ. Cái khó là ở chỗ phải ngừa tuân thánh ý, thắng

trận nhưng không giết người.

Các tướng tuy biết gã khoe khoang khoác lác, nhưng sự thực thắng trận hạ

thành mà không giết một người nào quả là một việc khó khăn hơn cả lên trời, nên

ai cũng lẩm nhẩm gật đầu ra chiều rất khâm phục.

Sách Ngạch Đồ nói:

- Trước công cuộc hiện đại này, Sách mỗ chỉ có thể kết luận bằng một câu:

Đây là hồng phúc của Hoàng thượng, kỳ tài của Vi đại soái.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Công cuộc bữa nay phải nói là từ trên xuống dưới, ai cũng đóng góp một

phần công lao rất lớn. Tỷ như không được Khâm sai đại nhân và Sách đại nhân

thân lâm trận thượng, ra sức đốc chiến thì bọn tiểu đệ làm sao thắng trận được

dễ dàng?

Khâm sai và Sách Ngạch Đồ nghe gã nói trong lòng khoan khoái lại vô cùng

cảm kích. Lúc đối trận vừa rồi, hai vị văn quan này ẩn lánh ở đằng xa, chỉ sợ tênbay đạn lạc, làm gì có chuyện thân lâm trận thượng, gia sức đốc chiến? Nhưng Vi

Tiểu Bảo đã tuyên bố như vậy là trong bản tâu báo tin thắng trận, họ cũng dự

một phần công lớn trong vụ này.

Người ta thường nói: "Rung rinh cỗ kiệu người khiêng người". Sách lễ cũng

nói: "Có đi có lại mới toại lòng nhau". Vi Tiểu Bảo là một tay rất thạo nghề làm

quan. Gã dâng Khâm sai một phần công lớn là được ơn mà chẳng thiệt gì cho

mình. Chuyến này Khâm sai trở về Bắc Kinh, dĩ nhiên sẽ thổi phồng gã lên ở trước

mặt Hoàng đế. Dù công lao gã chỉ đáng ba phần, lão cũng tăng lên mười phần.

Còn những chuyện vượt ra ngoài vòng luật pháp ở trong quân, Khâm sai cùng

Sách Ngạch Đồ dĩ nhiên bưng kín miệng bình.

Mọi người ăn uống một lúc rồi, bộ hạ của Lâm Hưng Châu đưa bọn hàng binh

La Sát vào báo cáo là chúng đã đào hố băng lôi Đồ Nhĩ Bố Thanh ra ngoài, hiện

khiêng đến để dưới thềm.

Lúc này Đồ Nhĩ Bố Thanh đã chết cóng từ lâu. Toàn thân hắn biến thành màu

xanh xám.

Vi Tiểu Bảo ngó thấy liền thở dài nói:

- Cha này đặt cái tên xúi quá! Nếu hắn không phải là Đồ Nhĩ Bố Thanh mà là

Đồ Nhĩ Bố Tài thì chẳng đến nỗi chết xanh chết xám thế này mà còn phát tài nữa.

Gã lại sai người lấy quan tài gỗ để thu liệm Đồ Nhĩ Bố Thanh.

Đêm hôm ấy Vi Tiểu Bảo ngủ với Song Nhi ở trong ngọa phòng tại phủ Tổng

đốc. Nơi đây đã có lửa đỏ hồng, lại đủ chăn đoạn đệm gấm, đầy vẻ xuân tình.

Ngày trước Vi Tiểu Bảo đã vào phòng này. Cựu địa trùng du, gã mở nắp

rương ở cạnh giường lên coi thấy trong rương đựng toàn quân phục cùng súng

ống.

Song Nhi cười hỏi:

- Phải chăng tướng công mở rương coi xem có Công chúa La Sát chui lên.

Vi Tiểu Bảo cũng cười đáp:

- Nàng là Công chúa Trung Quốc, so với Công chúa La Sát còn hay hơn

nhiều.Song Nhi lại cười nói:

- Đáng tiếc là Công chúa Trung Quốc của tướng công hiện ở Bắc Kinh chứ

không có ở đây.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Hảo Song Nhi! Bữa nay chúng ta có thể coi như "Đại công cáo thành" được

không?

Song Nhi mỉm cười, hai má đỏ hồng.

Tuy thị cùng Vi Tiểu Bảo thành vợ thành chồng đã lâu ngày, nhưng nghe

trượng phu nhắc câu "Đại công cáo thành" thị vẫn bẽn lẽn.

Vi Tiểu Bảo giang tay ra ôm lưng thị. Hai người sóng vai ngồi ở cạnh giường.

Gã nói:

- Song Nhi giáp tấm địa đồ hao tổn rất nhiều tâm huyết. Nay chúng ta lại lấy

được Lộc Đỉnh Sơn. Đức Hoàng thượng đã phong thành làm Lộc Đỉnh công, chắc

ngài giao thành thành này quản thủ. Trong lòng đất dưới đây cất dấu số Kim ngân

tài bảo. Chúng ta từ từ đào lên mà lấy. Ta phải đổi tên Vi Tiểu Bảo thành tên Vi

Đa Bảo cho hợp.

Song Nhi đáp:

- Tướng công hiện đã có rất nhiều vàng bạc, tiêu xài không hết, lấy thêm

châu báu cũng bằng vô dụng. Tiện thiếp tưởng cứ là Vi Tiểu Bảo hay hơn.

Vi Tiểu Bảo khẽ hôn vào má thị, nói:

- Đúng lắm, đúng lắm! Mấy bữa nay ta không quyết định được chủ ý. Nếu

đào đất tìm châu báu e làm đứt long mạch nguy hại đến tính mạng tiểu Hoàng đế.

Ngài là đại cữu tử mà trước nay đối đãi với ta rất tử tế. Nếu hành động của mình

làm ngài chết oan thì yên tâm thế nào được? Nhưng không đào lên để lấy bảo vật

thực cũng đáng tiếc. Bây giờ đành thế này vậy. Chúng ta tạm thời hoãn việc khai

quật bảo tàng, chờ sau khi Hoàng thượng ngự giá thăng thiên mà chúng ta nghèo

đói, khi ấy sẽ bắt đầu khai quật cũng chưa muộn...

Gã vừa nói tới đây, bỗng thấy bức rèm lay động rồi trong rương gỗ bật lên

những tiếng lạch cạch.Hai người đưa mắt ra hiệu với nhau, chăm chú nhìn xuống rương gỗ.

Sau một lúc lâu không thấy động tĩnh gì nữa, Vi Tiểu Bảo khẽ vỗ tay ba cái.

Song Nhi ra mở cửa phòng. Lập tức bốn tên thân binh chầu chực bên ngoài

chạy vào khom lưng chờ lệnh.

Vi Tiểu Bảo trỏ cái rương khẽ nói:

- Trong đó có người.

Bốn tên thân binh giật mình kinh hãi chạy lại mở nắp rương thì chỉ thấy bên

trong xếp đầy quần áo.

Vi Tiểu Bảo đánh tay ra hiệu. Bọn thân binh liền bốc quần áo bỏ ra ngoài,

lật đáy rương lên ngó thấy huyệt động.

Giữa lúc ấy, bỗng nghe tiếng nổ rùng rợn. Một cây súng từ trong huyệt thò

lên.

Một tên thân binh bật tiếng la:

- úi chao!

Vai gã trúng đạn, người ngả về phía sau.

Song Nhi vội kéo Vi Tiểu Bảo đưa ra sau lưng để che chở cho gã.

Vi Tiểu Bảo trỏ vào đống than lò lửa rồi đánh tay làm hiệu.

Một tên thân binh liền tiến lại bưng lò than đổ xuống huyệt động.

Trong động nổi lên những tiếng kêu rú bằng La Sát ngữ. Tiếp theo là tiếng

ho sù sụ không ngớt.

Vi Tiểu Bảo hô bằng tiếng La Sát:

- Quẳng súng lên trước rồi hãy chui ra.

Lập tức một cây súng lục từ trong huyệt động liệng ra. Tiếp theo một tên

quân La Sát thò đầu lên.

Một tên thân binh nắm tóc tên quân La Sát giật ngửa về phía sau. Một tên

thân binh nữa chí đao vào cổ hắn.Hàm râu tên quân La Sát đang bị lửa cháy chưa tắt. Hắn đau quá thét lên be

be, lồm cồm bò ra ngoài, trông rất thảm hại.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- ở dưới còn người nào không?

Trong động có tiếng hô:

- Còn một người. Đầu hàng, đầu hàng.

Hồi 235

NịNH KHÔNG PHảI ĐườNG Bị QUở TRáCH

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Liệng súng lên đi!

Cửa động lấp loáng ánh bạch quang. Một thanh mã đao quăng ra. Tiếp theo

một vùng lửa cháy nhô lên.

Nguyên tên quân La Sát này đầu tóc đang bị cháy đỏ hồng.

Đội thân binh canh giữ ngoài cửa nghe tiếng đại soái ở trong phòng quát

tháo liền có một bọn chạy vào. Bảy tám tên giữ lấy hai tên quân La Sát, dập tắt

lửa cháy trên râu tóc bọn chúng rồi trói lại.

Đột nhiên Vi Tiểu Bảo trỏ vào một tên quân La Sát hô:

- Ô kìa! Ngươi là Vương Bát Tử Kê.

Tên quân đó lộ vẻ vui mừng reo lên:

- Dạ dạ! Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài chính là Hoa Bá Tư Cơ.

Một tên nữa cũng reo lên:

- Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài... là Tề Lạc Nặc Phu.

Vi Tiểu Bảo chú ý nhìn hắn thấy hàm râu cháy xém tơi bời, mặt mũi chỗ đỏ

chỗ sưng, nhưng sau gã cũng nhận ra liền đáp:

- Phải rồi! Ngươi là Trư La Nọa Phu.

Tề Lạc Nặc Phu cả mừng hô:

- Đúng lắm, đúng lắm! Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài là bạn cũ của đại

nhân.

Nguyên Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu là hai tên vệ sĩ của Tô Phi á Công

chúa. Ngày trước chúng đã làm quen với Vi Tiểu Bảo ở thành Nhã Tát Khắc rồi lại

cùng đi Mạc Tư Khoa.

Hai tên vệ sĩ này hồi ở Liệp cung đã theo bọn lính súng làm phản lập được

chút công lao.

Khi Tô Phi á Công chúa lên nắm quyền quốc chính liền thăng quan cho bọn

vệ sĩ hầu cận để đền công chúng đã tùy tùng và ra sức.

Chuyến này có bốn tên vệ sĩ đi theo Đồ Nhĩ Bố Thanh trong cuộc Đông

tiến và chúng đều làm Đội trưởng. Trong bọn một tên chết trận, một tên chết rét.

Còn lại hai tên này gặp cơn binh biến, thành vỡ, lén lút chui xuống đường hầm

định trốn ra ngoài thành, không ngờ cửa ra đã vít chặt. Hai tên hết đường tiến

thoái rồi tung tích bị bại lộ.

Ngày trước Vi Tiểu Bảo kêu chúng bằng Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu

(Nguyên Hoa Bá Tư Cơ đọc hơi giống Vương Bát Tử Kê nghĩa là gà chết khốn nạn,

Tề Lạc Nặc Phu đọc tương tự Trư La Nọa Phu nghĩa là chó lợn hèn hạ. Vi Tiểu Bảo

hô tên chúng như vậy cho dễ nhớ và cũng là để chế diễu chúng).

Hai tên này đâu có hiểu được ý nghĩ của Vi Tiểu Bảo, chúng vui vẻ chịu liền,

hễ gọi đến tên Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu là chạy tới ngay.

Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu nghe Công chúa kêu Vi Tiểu Bảo là "Trung

Quốc tiểu hài", ban đầu chúng cũng xưng hô gã như vậy. Sau Vi Tiểu Bảo lập

được công trạng, Công chúa phong tước cho gã. Bọn vệ sĩ mới kêu gã bằng

"Trung Quốc tiểu hài đại nhân" để tỏ lòng tôn kính.

Vi Tiểu Bảo hỏi rõ lai lịch rồi sai bọn thân binh cởi trói và lấy rượu thịt

khoản đãi chúng.

Bọn thân binh sợ dưới đường hầm còn có gian tế liền chui xuống soát hết

một lượt, lại điều tra khắp mọi chỗ thì trong phòng ngoài đường hầm này không có

địa đạo cùng ngõ ngách nào khác, chúng mới lui ra.

Tên đội trưởng bọn thân binh sợ hãi vô cùng, luôn miệng xin tha tội. Hắn nghĩ

rằng đây là cái may tầy đình... Nếu hai tên quân La Sát này chờ tới nửa đêm ở

dưới đường hầm chui lên đâm chết Vi đại soái thì hắn sẽ bị toàn gia tru lục.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo kêu Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ra hỏi thăm tình

hình Tô Phi á Công chúa.Hai tên cho gã hay: Công chúa điện hạ nắm hết công việc triều chính. Vương

công đại thần, tướng quân, chủ giáo trong toàn nước La Sát không ai dám chống

cự nàng. Hai vị Sa hoàng còn nhỏ tuổi, nhất thiết đều nghe theo lời tỷ tỷ.

Tề Lạc Nặc Phu còn nói:

- Công chúa điện hạ vẫn tưởng nhớ Trung Quốc tiểu hài đại nhân. Điện hạ

dặn bọn nô tài tới đây dò la tin tức của đại nhân và hễ gặp đại nhân thì mời qua

Mạc Tư Khoa du ngoạn, điện hạ sẽ ban thưởng cho.

Hoa Bá Tư Cơ nói:

- Công chúa điện hạ chưa biết Trung Quốc tiểu hài đại nhân đem binh đến

đây chinh phạt. Nếu không thì hai bên thân ái vui vẻ như tình bằng hữu. Cuộc

chiến cũng không xảy ra nữa.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Các ngươi nói nhăng nói càn để lừa gạt ta. Làm gì có chuyện Công chúa

dặn dò như vậy?

Hai tên liền thề sống thề chết là đã nói đúng sự thực, không nửa lời sai trái.

Vi Tiểu Bảo nghĩ bụng:

- Bản tâm Hoàng thượng muốn ta nghĩ cách giảng hoà cùng La Sát. Vậy ta bảo

hai tên này về tâu lại với Tô Phi á Công chúa cũng chẳng hề gì.

Gã nghĩ vậy liền nói:

- Ta muốn gửi thư cho Công chúa các ngươi, nhưng không biết viết chữ ngoằn

ngoèo như giun bò của nước La Sát, vậy các ngươi viết giùm ta.

Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ngơ ngác nhìn nhau ra chiều khó nghĩ. Cả

hai tên này chỉ biết cưỡi ngựa bắn súng, còn chuyện viết chữ thì chẳng hiểu gì.

Tề Lạc Nặc Phu đáp:

- Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Đại nhân muốn viết thư tình thì bọn nô tài

không làm được. Để nô tài... đi kêu một vị giáo sĩ đến viết dùm cho.

Vi Tiểu Bảo ưng ngay, sai chúng đi kiếm trong bọn người La Sát đã đầu hàng.

Lát sau hai tên dẫn vào một vị giáo sĩ râu quai nón.Thời bấy giờ phần lớn quân nhân La Sát không biết chữ. Những giáo sĩ đi

theo trong quân ngoài việc cầu đảo Thượng đế, khích lệ chiến sĩ, còn chức vụ

trọng yếu là viết gia thư giùm cho các binh tướng.

Vị giáo sĩ này người cao lớn lại vận quân phục của Thanh binh, áo quần chật

hẹp như người đóng rọ rất tức cười.

Giáo sĩ sợ run bần bật theo hai tên đội trưởng vào tham kiến Vi Tiểu Bảo. Y

hô:

- Cầu đức Thượng đế ban phước lành cho Trung Quốc đại tướng quân! Đại

tước gia! Cầu chúc Trung Quốc đại tướng quân toàn gia an bảo.

Vi Tiểu Bảo bảo y ngồi xuống rồi nói:

- Ngươi viết cho ta một phong thư gửi đến Tô Phi á Công chúa.

Giáo sĩ vâng dạ luôn miệng.

Bọn thân binh đã lấy văn phòng tứ bảo để trên bàn.

Giáo sĩ tay cầm bút lông, mở to giấy bản, viết chữ La Sát ngùng ngoèo.

Y nhận ra cây bút lông mềm nhũn quá, nét chữ chỗ lớn chỗ nhỏ coi rất tức

cười, nhưng y tuyệt nhiên không dám bình luận gì về bút mực Trung Quốc, chỉ sợ

vị Trung Quốc tướng quân này nổi giận.

Vi Tiểu Bảo nói:

Ngươi theo lời ta đọc mà viết:

- "Sau buổi chia tay, lúc nào ta cũng tưởng nhớ Công chúa, chỉ mong lấy

được nàng làm vợ..."

Giáo sĩ giật bắn người lên. Tay run rẩy, ngọn bút lông chấm xuống giấy một

vết mực lớn.

Tề Lạc Nặc Phu đứng bên cổ vũ giáo sĩ:

- Vị Trung Quốc tiểu hài đại nhân này là người yêu của Tô Phi á Công chúa

điện hạ. Công chúa điện hạ rất thương mến đại nhân. Điện hạ thường nói tình

nhân Trung Quốc hay hơn tình nhân La Sát gấp trăm lần.

Hắn muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo nên đã phóng đại ra như vậy.Vị giáo sĩ vâng dạ luôn miệng, đáp:

- Phải rồi! Phải rồi! Hơn gấp trăm lần, hơn gấp trăm lần...

Trong lòng hồi hộp, văn tứ trì trệ, nhưng y không dám dừng bút nghĩ ngợi,

đành dùng những câu thường nhật đã viết giùm binh tướng La Sát gửi cho vợ con

hoặc tình nhân ở cố hương và toàn là những câu tha thiết về thể xác. Nào là "Có

gần gũi mới thỏa lòng", nào là "Đêm qua ta lại mộng thấy mình", nào là "Hôn mình

muôn ngàn cái"...v.v

Vi Tiểu Bảo thấy giáo sĩ cầm bút viết như gió cuốn, rất lấy làm thỏa mãn. Gã

đọc tiếp:

- "Quân La Sát của nàng chiếm đất Trung Quốc của ta và giết tróc trăm họ

người Trung Quốc. Trung Quốc đại Hoàng đế tức giận vô cùng, phái ta đem quân

đến đây để bắt hết bọn binh tướng của nàng xẻo từng miếng thịt nướng thành Hà

Thư Ni Khắc..."

Giáo sĩ lại giật mình kinh hãi, bất giác bật tiếng la:

- Trời ơi!

Rồi miệng hô:

- Lạy đức Thượng đế! Lạy đức Thượng đế!

Vi Tiểu Bảo đọc tiếp:

- "Nhưng ta nể mặt Công chúa, tạm thời hãy để chúng đó, chưa xẻo thịt

nướng chả. Nếu nàng ưng chịu từ nay trở đi không cho quân La Sát đến xâm phạm

cương giới Thanh thì ta sẽ tha hết bọn chúng. Đồng thời Trung Quốc và nước La

Sát vĩnh viễn thành tình bằng hữu.

Bằng nàng không chịu nghe lời, ta sẽ phái binh đến giết cho kỳ hết đàn ông

La Sát, nàng không còn nam nhân để ngủ chung nữa. Nếu nàng muốn ngủ chung với

nam nhân thì khắp thiên hạ chỉ có đàn ông Trung Quốc mà thôi".

Giáo sĩ rất lấy làm bất phục, bụng bảo dạ:

- Trong thiên hạ ngoài đàn ông La Sát, bao nhiêu nước khác thiếu gì nam

nhân, há phải riêng một Trung Quốc mới có? Câu này thật vô lý không thể viết

vào được.Y lại nhận định viết thư lên Công chúa điện hạ, nhất thiết không thể hành văn

một cách vô lễ. Y liền nhất quyết đổi mấy câu này vừa tỏ ra kính cẩn vừa đầy vẻ

thân mật.

Giáo sĩ tiên liệu vị tướng quân Trung Quốc này không biết chữ La Sát, tất

chẳng khám phá ra nổi. Nhưng bản tính thận trọng, y sợ Vi Tiểu Bảo nhìn thấy chỗ

sơ hở liền viết bằng chữ La Tinh. Thỉnh thoảng trên môi lại điểm một nụ cười.

Vi Tiểu Bảo đọc tiếp:

- "Nay ta sai Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu đưa phong thư này đến tay

nàng, lại tặng lễ vật cho nàng nữa. Nàng muốn làm tình nhân hay là kẻ thù của ta,

cái đó tự nàng quyết định lấy"

Giáo sĩ còn đem mấy câu sau cùng đổi thành lời văn rất kính cẩn. Y viết:

- "Kẻ tiểu thần ở Trung Quốc lúc nào cũng nhớ đến ân thâm đức trọng của

điện hạ. Nay kính cẩn dâng đồ cống vật để tỏ chút dạ trung thành.

Tiểu thần còn sống ngày nào, năm nào cũng là kẻ thần hạ trung tâm bất nhị

ngày ấy năm ấy của điện hạ.

Tiểu thần chỉ mong lưỡng quốc hòa hợp. Những quân La Sát hiện còn ở Nhã

Tát Khắc mà được trùng qui cố thủ đều là nhờ ơn đức cao dầy của điện hạ"

Mấy câu sau cùng do tâm tư của giáo sĩ nghĩ ra. Y cho rằng vạn nhất cuộc

nghị hòa của hai nước không thành thì y cùng bao nhiêu người La Sát đầu hàng tất

phải chết vùi chết dập ở nơi tha hương đất khách, vĩnh viễn không mong gì trở về

quê quán.

Vi Tiểu Bảo chờ giáo sĩ viết xong, nói:

- Hết rồi! Ngươi đọc lại cho ta nghe.

Giáo sĩ hai tay cầm tờ giấy đứng nghiêm trang tuyên đọc. Những chỗ nào y

thay đổi vẫn đọc theo ý của Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo hiểu biết tiếng La Sát chẳng được bao nhiêu, gã nghe giáo sĩ

đọc lại chắc là không sai trật. Gã lại tiên liệu chẳng khi nào giáo sĩ dám tự ý thay

đổi lời lẽ của mình.

Vi Tiểu Bảo nghe giáo sĩ đọc xong, nói:- Hay lắm!

Đoạn gã lấy ấn "Phủ Viễn đại tướng quân Vi" đóng dấu son vào.

Thế là phong thư này thư tình chẳng ra thư tình, công văn chẳng ra công văn,

nhưng cũng xong việc.

Vi Tiểu Bảo cho giáo sĩ lui ra lĩnh thưởng. Gã lại sai vị sư gia trong doanh

trại bỏ thư vào bao, ngoài đề bằng chữ Trung Quốc gửi cho Tô Phi á Công chúa.

Sư gia mài mực thật đặc, dầm bút cho kỹ. Hàng đầu viết:

- "Đại Thanh Quốc Lộc Đỉnh Công, Phủ Viễn Đại tướng quân Vi phụng thư".

Hàng thứ hai viết:

- "Nga La Tư Quốc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Hà Cố Luân trưởng Công

chúa điện hạ".

Nguyên hai chữ "La Sát" trong kinh Phật là một thứ quỷ dữ, nếu dùng để

xưng hô nước Nga là có điều khinh mạn, nên trong văn thư kêu bằng "Nga La Tư".

Sư gia lại nhận thấy ba chữ "Tô Phi á" không được thuần nhã và chữ "Phi"

nghĩa là phất phơ khiến cho người ta tưởng đến câu "Phương thảo phi phi" nghĩa

là cỏ thơm phất phơ, tựa hồ có ý chê toàn người nàng đầy những lông lá, nên y

đổi là "Tô Phi Hà" (Phi Hà là ráng chiều bay).

Y dùng điển cố trong câu "Lạc hà dữ cô tế tề thí" nghĩa là ráng chiều bay

song song với chim trĩ. Lại có câu "Phi hà phát diện" tả cảnh đẹp ráng bay trước

mặt.

Còn "Cố Luân trưởng Công chúa" là một phong hiệu rất tôn quý của một vị

Công chúa Thanh triều. Em gái Hoàng đế kêu bằng trưởng Công chúa. Con gái

Hoàng đế là cười.

Tô Phi á đã làm đến Nhiếp chính, lại là tỷ tỷ của hai vị Sa hoàng, dĩ nhiên

nàng là Công chúa hàng đầu.

Lại nghe Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Giữa ta và nàng Công chúa La Sát này đã có mối liên quan. Mấy năm chưa

gặp, không hiểu tình trạng nàng hiện nay như thế nào?Tên sư gia liền viết vào mặt sau bao thư hai hàng chữ:

- "Phù hòa Nhung Địch, quốc chi phước dã. Như nhạc chi họa vô sở bất tài.

Thỉnh dữ tử lạc chi".

Y nghĩ bụng:

- Những câu này lấy trong sách Tả Truyện, nhưng La Sát là một nước Nhung

Địch chưa chắc đã hiểu được những câu trong kinh truyện nước Trung Hoa. ý

nghĩa ở hai câu song quan lại càng khó hơn.

Thực ra chẳng những "Cố Luân trưởng Công chúa nước Nga La Tư" quyết

chẳng thể nào hiểu được ý nghĩa sâu sắc về những chữ Trung Quốc này, mà cả

đến "Đại Thanh quốc tam đẳng Lộc Đỉnh Công, Phủ Viễn đại tướng quân Vi Tiểu

Bảo" thì ngoài ba chữ tên mình và hai chữ "Đại", "Tiểu" là gã mù tịt.

Vi Tiểu Bảo thấy sư gia viết trên bao thư đầy những chữ là chữ, liền nói:

- Đủ rồi! Đủ rồi! Ngươi viết chữ hay lắm! Hay hơn cả tên rậm râu nước La Sát.

Gã lại dặn sư gia chuẩn bị một món lễ vật quý trọng mà là những đồ đã thu

được ở trong thành Nhã Tát Khắc, chứ không tốn một đồng một chữ nào.

Vi Tiểu Bảo kêu hai tên Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu đến, truyền cho

chúng lựa lấy một trăm người trong bọn hàng binh La Sát để làm vệ đội và lập tức

đăng trình về Mạc Tư Khoa đưa thư.

Hai tên đội trưởng mừng như bắt được vàng, sì sụp lạy mãi không ngớt.

Chúng lại kéo tay Vi Tiểu Bảo ra mà hôn vào lưng bàn tay gã rất lâu.

Vi Tiểu Bảo bị hàm râu của hai tên đội trưởng xát vào lưng bàn tay ngứa

ngáy không chịu được, gã bật lên tràng cười hơ hớ.

Thành Nhã Tát Khắc nhỏ bé không đủ chỗ để cho đại quân đồn trú.

Vi Tiểu Bảo liền cùng Khâm sai và Sách Ngạch Đồ thương nghị việc đóng

quân. Gã phái Lang Thản, Lâm Hưng Châu lĩnh hai nghìn quân ở lại trong thành

phòng thủ. Còn đại quân kéo xuống miền Nam chia ra đóng ở hai thành ái Huy và

Hô Mã Nhi để chờ đợi thánh chỉ.

Đồng thời phái kỵ binh chạy về Bắc Kinh báo tin thắng trận lên Hoàng đế.Lúc ra đi, Vi Tiểu Bảo căn dặn hai tướng Lang Thản và Lâm Hưng Châu không

được đào giếng hay đào đường hầm trong thành Nhã Tát Khắc.

Đại quân rầm rộ nhằm hướng Nam tiến phát.

Vi Tiểu Bảo cung bọn Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân đóng ở ái Huy. Tát Bố Tố

lãnh một cánh quân đóng ở Hô Mã Nhi.

Vi Tiểu Bảo nhàn rỗi không có việc gì làm, chỉ uống rượu đánh bạc vui chơi,

bất tất phải tường thuật.

Gã sai hàng binh La Sát mặc quân phục Thanh binh và phái người dạy tiếng

Trung Hoa, cần cho chúng thuộc lòng những câu "Nga hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn

tuế"... "Trung Quốc Hoàng đế đức bì tứ hải, uy chấn tuyệt vực"... "Vạn tuế gia

thần thánh văn võ, Hoàng ân hạo đăng"... "Thánh Thiên tử vạn thọ vô cương"...

Đó toàn là những câu cầu chúc và phụng sự nhà Vua.

Sau khi bọn hàng binh La Sát thuộc kỹ những câu này rồi, Vi Tiểu Bảo phái

binh đưa chúng về Bắc Kinh và dặn chúng khi đi qua những đường phố tại kinh

thành phải hô lớn những khẩu hiệu đã thuộc kỹ. Nhất là lúc vào triều kiến Vua

Khang Hy càng phải hô thật lớn. Gã bảo chúng: Tên nào hô càng lớn, đức Hoàng

thượng càng ban thưởng nhiều.

Sau hơn một tháng, Vua Khang Hy ban chiếu thư đến khen ngợi nhiệt liệt các

tướng sĩ xuất chinh.

Vi Tiểu Bảo được thăng tước Nhị Đẳng Lộc Đỉnh Công. Kỳ dư các tướng sĩ

đều được thăng thưởng.

Viên Khâm sai truyền chỉ lại giao cho Vi Tiểu Bảo một cái hộp gỗ niêm

phong sơn đỏ nói là của đức Hoàng thượng ngự tứ.

Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ ơn, mở hộp gỗ coi, gã không khỏi ngẩn người.

Nguyên trong hộp gỗ đựng một cái bát ăn cơm bằng Hoàng kim, trong bát

khắc bốn chữ "Gia quan tấn tước" phảng phất giống như cái bát mà Thi Lang đã

tặng gã ngày trước. Có điều những hoa văn và tự tích bị sây sứt thì đã được tu

bổ hoàn chỉnh.Vi Tiểu Bảo nhớ lại cái bát vàng này ngày trước để ở Bá Tước phủ trong hẻm

Đông Mạo. Đêm hôm ấy, gã hoang mang chạy trốn không kịp đem theo. Sau khi

ngẫm nghĩ hồi lâu, gã hiểu liền ra lý lẽ.

Đêm hôm ấy chắc là sau khi nổ súng bắn vào Bá Tước Phủ, đội quân Tiền

Phong Doanh nhặt nhạnh những đồ vật còn lại, cả những thứ bị sứt mẻ cũng kê

vào thành đơn phúc trình Hoàng thượng.

Cái bát vàng này tuy đã vỡ nhưng chưa đến nỗi tan tành. Nhà Vua liền sai thợ

hàn gắn lại và bây giờ ban cho gã.

Dĩ nhiên nhà Vua muốn nhắn nhủ gã: Cái bát vàng gã đã bị sứt mẻ một lần,

phen này phải giữ gìn cẩn thận đừng để nó phải tan tành.

Vi Tiểu Bảo nghĩ vậy rồi tự nhủ:

- Tiểu Hoàng đế đã dùng nghĩa khí đối đãi với ta thì ta cũng phải có đi có

lại, không đào hầm hố để khỏi tổn thương long mạch mà gây tai hại đến vận mạng

của ngài.

Qua mười mấy bữa nữa, Vua Khang Hy lại ban thượng dụ tới nơi. Lần này ngài

nặng lời quở trách, phán rằng: Vi Tiểu Bảo có những hành động phá quấy vì gã

bắt hàng binh La Sát hô khẩu hiệu "Vạn thọ vô cương" là một điều rất đáng buồn.

Trong thượng dụ nói:

- "Bậc nhân quân giữ việc chăn dắt nhân dân phải thể theo lòng trời, thương

yêu bách tính".

"La Sát tuy là nước Man Di, xa với vương hóa, nhưng dân tộc nước này cũng

là người. Chúng đã quy thuận hàng phục, thì không thể khinh nhờn vũ nhục họ

được".

"Ngươi đã làm đại thần nên can gián quân thượng những điều tàn tệ, thi hành

nhân chính tới muôn dân".

"Nếu trẫm có ơn huệ với trăm họ thì dù chẳng sống lâu cũng là bậc minh

quân. Bằng trẫm kiêu sa tàn bạo thì "Vạn thọ vô cương" chỉ tổ làm khổ thiên hạ".

"Kẻ đại thần xu nịnh quân thượng, đưa chúa vào hành vi bất đức là tội nặng

lắm. Ngươi phải nhớ mà răn mình".Chuyến này Vi Tiểu Bảo bợ đít ngựa mà lại vỗ vào chân để nó đá hộc máu

mồm.

Nếu ở địa vị người khác tất lấy vụ này làm lo âu, buồn bã. May ở chỗ gã là kẻ

mặt dầy, vẫn chẳng quan tâm. Trước mặt quan Khâm sai truyền chỉ, gã tự mắng mình

tội thật đáng chết, nhưng trong lòng lại tự nhủ:

- Trong thiên hạ còn ai là người không ăn phỉnh? Nhất định vụ này bọn quân

La Sát thốt lời Trung Quốc không được hoàn hảo, khiến tiểu Hoàng đế nghe

chẳng ra sao nên mới bực mình.

Gã liền kêu mấy tên sư gia đã dạy Hoa ngữ cho bọn quân La Sát đến thống

mạ một hồi.

Sau đó gã lại cùng bọn chúng mở cuộc đánh bạc. Gã gieo mấy bàn xúc xắc

rồi là bao nhiêu lời huấn giới của Nhà Vua bay lên chín tầng mây hết.

Thì giờ thấm thoát, đông qua xuân tới, Vi Tiểu Bảo ở thành ái Huy tuy được

nhàn hạ, nhưng thường thường nhớ tới bọn A Kha, Mộc Kiếm Bình mấy người thê tử.

Thỉnh thoảng gã lại sai thân binh đưa đồ về nhà. Sáu vị phu nhân cũng gửi ra y

phục cùng phẩm vật. Ai cũng biết gã không hiểu chữ nghĩa nên không gửi gia thư

mà chỉ dặn lời là trong nhà đều bình yên cả, mong mỏi Đại soái ca khúc khải hoàn

về kinh cho sớm.

Một hôm, có thượng dụ ban ra, khâm mạng cho Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch

Đồ làm những đại thần trong cuộc nghị hòa để cùng sứ thần nước La Sát kiềm

đính hòa ước.

Trong kinh còn phái đến bốn nhân vật giúp đỡ công cuộc này là Hán quân

Hoàng Kỳ Đô thống Đông Quốc Cương, Hộ quân thống lĩnh Mã Lạt, Thượng thư A

Nhĩ Ni và Tả đô Ngự sử Mã Tề.

Đông Quốc Cương tuyên đọc thượng dụ xong, lại lấy ra một đạo công văn

đọc tiếp.

Đạo công văn này là Quốc thư của hai vị Sa hoàng La Sát gửi lên Vua Khang

Hy. Tờ quốc thư đã do hai vị truyền giáo sĩ người Hà Lan ở Bắc Kinh dịch ra Hán

văn.

Bức quốc thư như sau:"Cẩn phụng thượng:

Đức Đại thánh Hoàng đế.

Ngồi chơi hoa hạ, ảnh hưởng bao trùm hoàn vũ, hướng dẫn tôi hiền trong

cuộc phân chia cương thổ, cai trị muôn dân. Trung Quốc gồm thâu Mãn Hán, oai

danh lừng lẫy bốn Phương.

Nguyên tiền triều A Liệt Khắc Tịch Mễ Hàn ở hạ quốc đã phái bọn Ni Quả Lai

qua thiên triều mưu việc giao hảo cho hai nước.

Kẻ sứ thần không am tường điển lễ Trung Quốc, cử chỉ có điều thô lỗ, ngữ

ngôn lại thiếu văn hóa, đành trông vào đức độ khoan hồng của thượng quốc.

Cả việc ca tụng Hoàng đế cũng không khỏi phạm vào thất thể, vì hạ quốc ở

nơi hẻo lánh xa xăm, vương hóa khó bề phổ cập. May mà thượng quốc cũng

không hạch tội.

Ngày trước Hoàng đế đã gửi quốc thư, nhưng hạ quốc không ai biết chữ,

chẳng hiểu thánh ý ra sao.

Sau bọn Ni Quả Lai trở về, Hạ quốc hỏi ra mới biết thượng quốc chất vấn về

vụ bọn Cán Đặc Mộc Nhĩ bôn đào qua hạ quốc. Trong quốc thư còn đề cập đến

những việc quấy nhiễu biên thùy.

Mới đây hạ quốc được tin Hoàng đế hưng binh đến vùng biên cảnh, khiến

tình giao hảo hai bên bị tổn thất.

Nếu dân gian hạ quốc ở chốn biên cương quả đã gây hấn làm càn thì thiên

triều chỉ cần minh thị là hạ quốc bắt về nghiêm trị ngay, hà tất phải dấy động can

qua?

Nay hạ quốc phụng tiếp chiếu chỉ mới rõ đầu đuôi, liền hỏa tốc hạ lệnh cho

tướng sĩ không được giao binh.

Cung thỉnh thiên triều minh xét những tên nào đã gây họa loạn để hạ quốc

đem ra chính pháp.

Ngoài việc phái sứ thần quyết định biên giới, hạ quốc lại sai bọn Phật Nhi

Ngưu Cao, Nghi Phiên, Pháp Nga La Ngõa mang thư đi suốt ngày đêm để dâng

thượng quốc.Xin thiên triều rút cuộc bao vây Nhã Tát Khắc. Nếu còn xẩy chuyện lôi thôi,

cứ phái sứ thần đưa thư hiểu dụ là hai nước vĩnh viễn giữ cuộc hòa mục.

Một vị đại thần ở thượng quốc là Vi Tiểu Bảo các hạ năm trước có quen biết

Hoàng tỷ ở hạ quốc là Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á điện hạ. Vi đại nhân lại tới

kinh thành Mạc Tư Khoa giúp việc dẹp loạn lập nên công lớn ở hạ quốc. Đây thật

là một ơn huệ của thượng quốc ban cho. Chúa tôi hạ quốc không bao giờ quên

ơn đức này.

Kính dâng trọng lễ trên Đại thánh Hoàng đế bệ hạ. Thứ nhì là trọng lễ phụng

tặng Vi Tiểu Bảo đại thần các hạ, để tỏ lòng thành tín hòa mục của hạ quốc".

Đông Quốc Cương đọc quốc thư rồi, sư gia liền đem những ý tứ trong thư

giải thích cho Vi Tiểu Bảo cùng chúng tướng nghe.

Đây là một thông lệ ở trong quân, vì những văn thư qua lại thường gặp chữ

nghĩa sâu xa khó hiểu mà số đông binh tướng lại không biết chữ. Dù nhiều người

đã đọc sách mấy năm, nhưng kiến thức vẫn còn kém cỏi. Những văn kiện trong

quân quan hệ đến quân cơ đại sự, nếu xảy chuyện hiểu lầm sẽ đưa tới hậu quả

cực kỳ nghiêm trọng. Vì thế mà quân chế nhà Mãn Thanh phải đặt sư gia vào việc

giải thích văn thư.

Đông Quốc Cương nói:

- Vị Nhiếp Chính Nữ Vương La Sát vẫn nhớ mối tình cố cựu với Vi đại soái,

đưa tặng rất nhiều lễ vật. Đức Hoàng thượng phải tiểu đệ đêm hết tới đây để

giao lại cho đại soái thu nhận.

Vi Tiểu Bảo chắp tay đáp:

- Đa tạ, đa tạ!

Gã nói tiếp:

- Người La Sát không hiểu lễ tiết, chẳng nhún mình là lòng thành lễ bạc lại

khoe khoang đồ lễ quý trọng. Phần lễ trọng nhất dâng lên Hoàng thượng, còn

phần lễ trọng thứ hai gì đó đưa tặng tiểu đệ. Họ nói thế mà không sợ người ta

cười cho.

Đông Quốc Cương nói:- Vi đại soái phái quân giải bọn người đầu hàng nước La Sát về kinh thành,

đức Hoàng thượng thân hành thẩm vấn. Ngài phát giác trong bọn tiểu tốt có một vị

đại quan La Sát trà trộn vào...

Vi Tiểu Bảo "ủa" lên một tiếng, nhảy bổ lên hỏi:

- Có chuyện đó ư?

Đông Quốc Cương đáp:

- Người này thật giảo quyệt! Hắn trà trộn vào trong đám tiểu tốt, nhất thiết

không động thanh sắc, hôm ấy Hoàng thượng thẩm vấn bọn người đầu hàng đã sai

một vị giáo sĩ Hà Lan làm thông ngôn. Sau Hoàng thượng nói mấy câu Lạp Đinh (La

Tinh) với giáo sĩ. Trong bọn người La Sát đầu hàng có một tên tiểu binh đột nhiên

lộ vẻ khác lạ. Hoàng thượng liền hỏi có phải hắn hiểu tiếng Lạp Đinh không, nhưng

hắn chỉ lắc đầu. Hoàng thượng lại dùng tiếng Lạp Đinh ra lệnh: •Đem tên tiểu

binh này ra chém đầu!•. Hắn sợ hãi thất sắc, quỳ xuống năn nỉ xin tha và thú

nhận có hiểu tiếng Lạp Đinh.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Tiếng Lạp Đinh là thế nào? Có phải người La Sát khi lôi bọn tráng đinh đi

vận tải quân nhu thì nói thứ tiếng này? Sao Hoàng thượng lại hiểu được ngôn ngữ

đó?

Đông Quốc Cương đáp:

- Tiểu đệ cũng không hiểu đạo lý vụ này. Khi nào đại soái có dịp bái kiến

Hoàng thượng khẽ dập đầu xin ngài giải thích cho.

Vi Tiểu Bảo gật đầu hỏi:

- Hoàng thượng xử trí với hắn ra sao?

Đông Quốc Cương đáp:

- Người đó không thể dấu diếm được, phải thổ lộ hết chân tình. Tên hắn là á

Nhĩ Thanh Tư Cơ, làm Đô tổng quản hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc.

Mọi người nghe nói không khỏi giật mình kinh hãi, bất giác •ủa• lên một

tiếng.Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Thế ra chức quan của thằng cha đó lớn lắm ư?

Đông Quốc Cương đáp:

- Phải rồi! Những quan chức mà nước La Sát phái đến mặt Đông, địa vị hắn

lớn hơn hết. Hôm thành Nhã Tát Khắc bị hạ, hắn cải trang làm tên tiểu tốt nên

không ai nhận ra được.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu cười nói:

- Ngày hạ thành Nhã Tát Khắc thì người La Sát từ Đại tướng cho đến tiểu tốt,

từ quan lớn cho đến quan nhỏ, nhất thời đều bị lột trần như nhộng. Ngó lui ngó

tới ai cũng như ai, trong mình chẳng còn tý gì để phân biệt. Như vậy thì vụ này

không nhận ra tên đại quan La Sát này cũng không phải là lỗi ở bọn tiểu đệ.

Chúng tướng nổi lên tràng cười ha hả.

Mọi người liền thuật lại tình hình hôm đánh phá thành Nhã Tát Khắc cho Đông

Quốc Cương nghe.

Đông Quốc Cương cười nói:

- Té ra là thế. Như vậy quả không trách ai được.

Lão lại kể tiếp:

- Đức Hoàng thượng phán: Vi Tiểu Bảo bắt được Đô tổng quản của nước La

Sát trông coi hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc là một công trạng rất lớn. Đáng

tiếc y tưởng người này cũng là tên tiểu tốt tầm thường. Y đã phạm vào tội làm

việc hồ đồ, vậy công kia chuộc lại lỗi này là xong. Việc đó thành ra vô thưởng vô

phạt.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Đức Hoàng thượng cầm cân nảy mực rất đúng. ¥n điển của ngài khiến cho

bọn nô tài chúng tôi muôn vàn cảm kích.

Đông Quốc Cương nói:

- Đức Hoàng thượng thẩm vấn á Nhĩ Thanh Tư Cơ liên tiếp sáu ngày liền.

Chẳng những ngài biết hết về quân chính đại sự nước La Sát, mà cả việc phân chiacương vực, phong tục tập quán, thổ sản địa Phương ngài cũng hiểu rõ một cách tỷ

mỷ. Đức Hoàng thượng của chúng ta quả được trời ban cho tài trí thông minh khác

đời. Ngài chỉ biết qua thái độ của á Nhĩ Thanh Tư Cơ mà phát hiện ra chuyện bí

mật.

Lão nhìn Vi Tiểu Bảo vừa cười vừa nói tiếp:

- Theo lời Vi đại soái thì á Nhĩ Thanh Tư Cơ lúc bị bắt cũng thân thể trần

truồng như mọi người. Ai ngờ hắn vẫn dấu được văn kiện bí mật.

Hồi 236

TRAI LA SáT TOàN Là Đồ Bỏ

Vi Tiểu Bảo tức mình thóa mạ:

- Tổ bà nó! Thằng cha á Nhĩ Tử Kê gì đó quả là quỷ kế đa đoan.

Lần sau còn gặp hắn phải xét kỹ mới được. Văn kiện bí mật hắn dấu ở chỗ nào?

Đông Quốc Cương đáp:

- Bọn người La Sát đầu hàng trước khi vào triều kiến Hoàng thượng dĩ nhiên

đã bị bọn Ngự tiền thị vệ lục soát trong mình rất kỹ. Người ta moi móc cả trong

túm râu, mớ tóc. Chúng còn phải tụt giầy cởi quần để thị vệ khám xét không sót

một chỗ nào. bọn người Phiên bang lòng dạ hiểm sâu khôn lường! Chỉ sơ hở một

chút để chúng mang lợi khí trong mình thì nguy hiểm vô cùng!...

Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Tên á Nhĩ Thanh Tư Cơ này dĩ nhiên cũng bị lục soát như ai. Trong người

hắn chẳng có vật gì. Nhưng đức Hoàng thượng rất tinh tế. Ngài thấy trên vai bên

phải hắn cao gồ lên một chút. Thỉnh thoảng hắn lại liếc mắt nhìn vào chỗ đó.

Hoàng thượng liền hỏi hắn: Trên cánh tay có vật gì. á Nhỉ Thanh Tư Cơ kéo tay áo

lên. Cánh tay hắn buộc băng vải thật dày. Hắn nói là đã bị thương ở Nhã Tát Khắc.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Hắn dấu văn kiện trên vai hay sao?

Đông Quốc Cương kể tiếp:

- Hoàng thượng bảo hắn tiến gần lại rồi bóp mạnh cánh tay hắn một cái. á Nhĩ

Thanh Tư Cơ la lên một tiếng "úi chao!" nhưng tiếng la không lộ vẻ gì đau đớn...

Vi Tiểu Bảo bật cười nói:

- Thú thật! Tên quỷ La Sát này giả vờ bị thương rồi.

Đông Quốc Cương nói:

- Nhất định là thế, Hoàng thượng liền sai thị vệ cởi bỏ băng quấn trên cánh

tay hắn ra. Lập tức mặt hắn tái mét, toàn thân run bần bật.

Đông Quốc Cương nói tới đây, nhìn Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Vi đại soái! Đại soái thử đoán xem á Nhĩ Thanh Tư Cơ đã dấu vật gì dưới

lần băng đó?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Khâm sai vừa nói trong người hắn có văn kiện bí mật, phải chăng là cái đó?

Đông Quốc Cương vỗ tay cười nói:

- Chính thị! Trách nào Hoàng thượng thường khen ngợi đại soái rất thông

minh, quả nhiên đoán việc gì cũng trúng. á Nhĩ Thanh Tư Cơ dấu một văn kiện bí

mật dưới lần băng tay kia. Văn kiện này là một đạo mật dụ của Sa hoàng nước La

Sát hửi cho hắn.

Đông Quốc Cương kể tiếp:

- Hoàng thượng liền gọi giáo sĩ Hà lan dịch văn kiện đó ra Hán văn. Bản sao

tiểu đệ có đem tới đây.

Lão nói rồi lấy bản văn kia ra lớn tiếng đọc:

- "Ngươi nên nói cho Hoàng đế Trung Quốc biết rằng:"

"Nga Hoàng bệ hạ thống lĩnh toàn bộ Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch

Nga La Tư, độc tài đại quân chủ Hoàng đế cùng đại vương kiêm trị nhiều nước,

quyền oai rất lớn bao trùm cả những nước xa xôi. Rất nhiều quân vương các nước

đã được đặt dưới quyền thống trị tối cao của Đại Hoàng đế bệ hạ."

"Vậy Hoàng đế Trung Quốc cũng nên cầu khẩn được lĩnh ơn huệ của Đại

Hoàng đế bệ hạ như toàn bộ Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư. Đại

Hoàng đế bệ hạ sẽ hết lòng bảo vệ cho Hoàng đế Trung Quốc được hưởng

hoàng ân bát ngát và giữ cho địch nhân khỏi xâm phạm cương thổ. Hoàng đế

Trung Quốc chỉ phải triều cống Đại quân chủ bệ hạ là vĩnh viễn bình yên vô sự"

"Ngoài ra Đại Hoàng đế bệ hạ còn ưng chuẩn cho những thuộc quốc được

doanh thương tự do ở Trung Quốc."

"Ngược lại, Trung Quốc Hoàng đế cũng chuẩn cho sứ thần của Đại Hoàng đế

bệ hạ được đi lại không bị cản trở.""Ngươi lấy thư phúc đáp của Hoàng đế Trung Quốc đưa về trình Đại Hoàng

đế bệ hạ."

Đông Quốc Cương cứ đọc một câu là Vi Tiểu Bảo lại mắng một tiếng:

- Thối lắm!

Lão đọc hết bản mật dụ, không hiểu Vi Tiểu Bảo đã mắng bao nhiêu câu

"thối lắm!".

Đông Quốc Cương lại nói:

- Hoàng thượng phán rằng: Người La Sát dã tâm bồng bột, lại cực kỳ vô lễ! Vị

Hoàng đế La Sát ra đạo mật dụ này là phụ thân của hai vị Sa hoàng hiện nay. Vị

Hoàng đế kia đã chết rồi. Khi ấy họ chưa hiểu người Trung Quốc ta lợi hại nên

mới coi thường. Nhưng hiện nay người La Sát đã nếm mùi đau khổ, chắc không dám

càn rỡ như trước nữa. Có điều khi nghị hòa cùng chúng, ta cần phải vừa cương vừa

nhu, chớ có khinh suất.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Đúng thế! Hoàng thượng đã dặn dò như vậy thì chúng ta cứ việc tát vào

mặt, đá đít bọn chúng. Đồng thời còn đập vai, sửa lưng chúng nữa.

Đông Quốc Cương nói:

- Vị nữ Nhiếp Chính Vương La Sát cũng giảo quyệt vô cùng! Y giả vờ không

biết thành Nhã Tát Khắc đã bị chúng ta hạ rồi, nói là hạ lệnh cho binh tướng La

Sát không được giao phong với quân ta. Nhưng y đã khôn lại không ngoan, trong

quốc thư để lòi đuôi ở câu: Xin Hoàng thượng trả những người La Sát bị bắt về

cho họ chính pháp.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Đâu có chuyện dễ dàng thế được? Y tặng cho tiểu đệ mấy tấm da điêu,

vài viên bảo thạch mà bảo là trọng lễ thứ nhì để đòi thả quân binh của y mà được

ư?

Đông Quốc Cương nói:- Hoàng thượng dặn bảo: Người La Sát đã cầu hòa thì mình nghị hòa với họ

cũng không sao, nhưng chúng ta phải đem đại quân đi để họ cùng ký điều ước

"thành hạ chi minh".

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Thành hạ chi minh là cái gì?

Đông Quốc Cương đáp:

- Hai nước giao binh. Đại quân bên ta vây thành trì Phiên bang. Phiên bang

xin hòa. Ta cùng họ ký hòa ước ở dưới chân thành. Cái đó kêu bằng "thành hạ chi

minh". Phiên bang tuy không đầu hàng, nhưng thế là đã nhận thua.

Vi Tiểu Bảo nói:

- à thì ra thế. Thực tình chúng ta ra quân hạ Ni Bố Sở cũng chẳng khó gì.

Đông Quốc Cương đáp:

- Hoàng thượng phán bảo: Muốn thắng mấy trận nữa, kể ra mình đã nắm vững,

nhưng La Sát là một nước lớn trên thế giới hiện nay, có rất nhiều nước nhỏ bị đặt

dưới quyền thống trị. Nếu bọn họ thua xiểng liểng ở mặt Đông thì oai phong bị

tổn thương rất lớn, khiến cho những nước nhỏ thuộc quyền bất phục. Trường hợp

này mà xảy ra, tất La Sát phải kéo đại quân đến báo thùm gây nên nạn binh hỏa

lâu dài, lại đưa đến nỗi cừu địch khó bề thu thập, chẳng biết bao giờ mới kết

thúc...

Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Đức Hoàng thượng đã thẩm vấn á Nhĩ Thanh Tư Cơ và biết rằng phía Tây

nước La Sát có một nước lớn nữa là nước Thụy Điển. La Sát và Thụy Điển đang

lâm vào tình trạng căng thẳng, chỉ va chạm thêm một chút là chiến tranh bùng nổ.

Nếu La Sát bị cả hai mặt Đông Tây giáp công tất phải điên đầu. Chúng ta nhân cơ

hội này ký hòa ước với La Sát là chiếm phần tiện nghi nhiều lắm. ít ra mình khỏi lo

về mặt Bắc và giữ được thái bình hàng trăm năm.

Vi Tiểu Bảo sau mấy trận đại thắng, những muốn thừa thế xông lên tấn công

hạ thành Ni Bố Sở. Gã nghe nói Hoàng thượng thuận cho La Sát cầu hòa, không

khỏi cụt hứng. Đây là quyết sách của Hoàng đế thì gã muốn "ngồi trong cái gì đểquyết thắng ra ngoài cái gì" cũng đành đình chỉ, vì chẳng khi nào kẻ vi thần dám

chống lại mệnh lệnh của Nhà Vua.

Rồi gã lại nghĩ:

- Lão là mẫu cửu của Hoàng thượng, đồng thời cũng là mẫu cửu của cô vợ ta.

Kể theo vai vế, lão là trưởng bối trên ta một bậc. Mặt khác lão là Nhất Đẳng

Công, còn ta vừa mới được thăng Nhị Đẳng Công. Thế mà chuyến này đi nghị hòa

với La Sát, Hoàng thượng lại phái lão làm phó cho ta, là ngài nể mặt ta lắm.

Gã nghĩ tới chi tiết đó, trong lòng rất lấy làm đắc ý.

Nguyên phụ thân của Đông Quốc Cương là Đông Đồ Lại. Đông Đồ Lại là

phụ thân của Hiếu Khang Hoàng hậu, mẹ Vua Khang Hy, cũng dòng Hán tộc. Vì thế

mà người ta nói huyết thống Vua Khang Hy nửa phần là Mãn, nửa phần là Hán.

Hiện nay, Đông Đồ Lại chết rồi. Đông Quốc Cương tập ấm được phong làm

Nhất Đẳng Công.

Ngày trước Đông Đồ Lại lập được nhiều quân công lừng lẫy, oai danh rất lớn,

nhưng Vi Tiểu Bảo nhận thấy lão rất dở. Gã lẩm bẩm:

- Đồ Lại! Đồ Lại! Đồ Lại nghĩa là chỉ chực cãi cối. Cái đó thuyết minh hễ lão

thua bạc là cãi cối. Đường đường một vị quốc trượng, sao lại chơi kiểu đó?

Tối hôm ấy, sau bữa tiệc tiếp phong, các đại thần theo lời đề xướng của Vi

Tiểu Bảo mở cuộc đánh bạc. Đông Quốc Cương thua bạc liền lấy ngân phiếu sáu

trăm lạng ra trả đàng hoàng và thản nhiên như không, chẳng cãi cối chi hết.

Vi Tiểu Bảo thấy lão chơi sòng phẳng, không giống phong độ của ông bố, gã

không khỏi ngạc nhiên.

Khi về phòng lên giường ngủ, gã chợt tỉnh ngộ, bụng bảo dạ:

- Tên lão này là Đông Cốt Quang (Quốc Cương gã đọc trạnh thành Cốt

Quang) đã chứng minh lão đánh bài thua mà vẫn quang minh lỗi lạc. Vậy đổ tính

của lão rất tốt, ta nên kết bạn với lão.

Hôm sau, Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần thương nghị quốc sự. Các quan đều

nói: Ta đã cùng đối phương sắp ký hòa ước "thành hạ chi minh" vậy nên dẫn đạiquân đến trước chờ họ tức là kế "dĩ dật đãi lao" (Mình nhàn rỗi đối với bên kia

nhọc mệt).

Vi Tiểu Bảo khen phải. Gã liền phát tướng lệnh cho hai cánh quân đống ở ái

Huy và Hô Mã Nhĩ nhắm thành Ni Bố Sở tiến phát. Cuộc hội sư sẽ diễn ra ở dưới

chân thành này.

Hiện thời đã hết xuân sang hạ, băng rữa tuyết tan, khí trời ấm áp. Việc tiến

quân rất phương tiện.

Một hôm đại quân đi tới bờ sông Hải Lạp Nhĩ, đội tiên phong báo cáo có

toán quân La Sát nhỏ xin ra mắt đại soái.

Vi Tiểu Bảo truyền cho vào.

Hai tên đội trưởng toán quân này là Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu.

Vi Tiểu Bảo cả mừng nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Té ra là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu.

Hai người khom lưng thi lễ xong, đệ trình bức thư phúc đáp của Tô Phi á

Công chúa.

Vị giáo sĩ La Sát vẫn còn lưu lại trong quân trướng để phòng khi có việc

dùng đến.

Vua Khang Hy cũng sai một giáo sĩ Hà Lan đến giúp việc trong công cuộc

kiềm đính hòa ước.

Vi Tiểu Bảo truyền cho cả hai vị giáo sĩ vào trong trướng để họ phiên dịch

phúc thư của Công chúa. Giáo sĩ La Sát ngày trước đã thay đổi nguyên ý trong

bức thư tình của Vi Tiểu Bảo, lúc này trong lòng rất là hồi hộp. Y chỉ sợ trong

phúc thư của Công chúa sẽ lòi ra những điều không ăn khớp với bức thư kia. Y

vội cầm lấy bức phúc thư coi hết một lượt, chẳng thấy chỗ nào đáng ngại mới yên

lòng.

Y liền đem văn tự La Sát trong thư dịch ra chữ La Tinh. Kế đó vị giáo sĩ Hà

Lan lại dịch sang Hoa ngữ.

Trong thư nói: Từ buổi chia tay ta hằng tưởng nhớ. Mong rằng sau khi ký hòa

ước, Vi Tiểu Bảo qua Mạc Tư Khoa một chuyến để tự sự tình cố nhân. Vi Tiểu Bảođược quân thượng hai nước cùng có lòng sủng ái, vậy nên giải thích những chỗ

hiểu lầm cho đôi bên, hầu tiêu trừ mọi xích mích, xây dựng nền hòa hảo muôn đời

trong lưỡng quốc.

Trong thư còn nói:

- Trung Hoa và La Sát một nước ở mé Đông, một nước ở phương Tây đều là

nước lớn nhất trên thế giới. Nếu lưỡng quốc liên minh là có thể bao trùm thiên hạ,

chẳng còn quốc gia nào kháng cự được.

Bằng nghị hòa bất thành, cuộc chiến tranh còn kéo dài, tất không tránh khỏi

cả hai bên cùng bị kiệt quệ.

Vì những lẽ trên, Tô Phi á Công chúa mong Vi Tiểu Bảo xúc tiến giúp vụ này

cho thành tựu, dĩ nhiên gã lập công lớn ở Trung Quốc. Đồng thời nước La Sát

cũng đền ơn trọng hậu.

Công chúa lại xin Vi Tiểu Bảo tiến ngôn lên Hoàng đế Trung Quốc thỉnh cầu

ngài buông tha những tướng sĩ La Sát bị bắt cho họ trở về đoàn tụ vui vẻ với gia

đình.

Giáo sĩ Hà Lan dịch thư xong, Vi Tiểu Bảo thấy Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc

Phu đưa mắt ra hiệu mấy lần. Gã biết là còn có biệt tình, liền cho hai vị giáo sĩ lui

ra rồi hỏi:

- Các ngươi còn điều chi muốn nói?

Hoa Bá Tư Cơ nói:

- Công chúa điện hạ dặn bọn tiểu nhân nói với Trung Quốc tiểu hài đại nhân

là ngài vẫn tưởng nhớ đại nhân. Bọn đàn ông La Sát kém lắm, chỉ có Trung Quốc

tiểu hài đại nhân là hay nhất thiên hạ. Ngài nhất định mời đại nhân qua Mạc Tư

Khoa.

Vi Tiểu Bảo hắng giọng một tiếng, nghĩ bụng:

- Đây là mê thang của nước La Sát, ta không thể tin được.

Tề Lạc Nặc Phu nói:

- Công chúa điện hạ còn mấy việc nữa muốn nhờ Trung Quốc tiểu hài đại

nhân lo dùm. Cái này là Công chúa điện hạ tặng cho đại nhân.Hắn nói rồi cời sợi giây đồng buộc trên cổ xuống. Đầu dưới sợi dây buộc

một cái túi da.

Hoa Bá Tư Cơ cũng cởi cái túi da ở trên cổ xuống. Đây chắc là hai người

bạt thiệp trường đồ sợ xảy chuyện thất lạc mà phải dùng giây đồng buộc vào cổ.

Miệng túi da khóa bằng khóa đồng.

Hoa Bá Tư Cơ lại cởi chiếc chìa khóa ở giây lưng ra mở khóa đồng trên túi

da của Tề Lạc Nặc Phu.

Tề Lạc Nặc Phu cũng lấy chìa khóa mở túi da của Hoa Bá Tư Cơ.

Hai người kính cẩn đặt túi da lên án trước mặt Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo cầm túi da đảo lộn nghe những tiếng loảng xoảng vang lên. Gã

đổ ra mấy chục viên bảo thạch, màu sắc khác nhau coi rất ngoạn mục.

Những viên bảo thạch này rất lớn và đủ thứ: Hồng bảo thạch, Lam bảo thạch,

Lục bảo thạch, Hoàng bảo thạch.

Còn cái túi da nữa trong đựng kim cương, toàn thạch và ngọc phỉ thúy.

Trong lúc nhất thời, Vi Tiểu Bảo trông hoa cả mắt. ánh bảo quang tỏa ra

khắp quân trướng.

Châu báu đối với gã là thường, nhưng những viên bảo thạch vừa lớn vừa

nhiều thế này thì gã chưa từng được thấy qua.

Gã liền cười nói:

- Công chúa đưa hậu lễ tặng ta thế này, ta nhận thế nào được?

(Lời chú của tác giả:

Theo bài lược khảo về cuộc mậu dịch sơ khởi giữa Trung Hoa và nước Nga

của Lưu Tuyển Dân đăng trên Yên Kinh Học Báo số 25 thì Nga hoàng phái đại sứ

là Quả La Văn sang Trung Quốc đàm phán về việc chia cương thổ và việc thông

thương giữa hai nước.

Dọc đường Đông du, Quả La Văn lại tiếp được mật dụ của Nga hoàng trịnh

trọng chỉ thị: Nếu cuộc đàm phán về cuộc giao thương với Trung Quốc mà thắng

lợi thì dù có phải nhường thành Nhã Tát Khắc cho Trung Quốc cũng được, miễn làđừng để tổn thương đến uy danh Nga hoàng. Sứ giả còn bí mật đưa lễ vật đút lót

đại biểu Trung Quốc.)

Hoa Bá Tư Cơ nói:

- Công chúa điện hạ còn dặn tiểu nhân trình Trung Quốc tiểu hài đại nhân là

nếu làm xong đại sự, Công chúa điện hạ sẽ tặng lễ vật quý trọng. Ngoài ra còn

lựa mỹ nữ của mười nước là Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Kha Tát

Khắc, Thát Đát, Thụy Điển, Ba Tư, Ba Lan, Lập Đào Uyển, Đan Mạch mỗi nước một

cô, cô nào cô ấy đều nhỏ tuổi xinh đẹp và toàn là xử nữ chứ không phải quả phụ

đưa đến tặng cho Trung Quốc tiểu hài đại nhân.

Vi Tiểu Bảo cười khanh khách đáp:

- Hiện ta đã có bảy cô vợ mà mình ứng phó chưa được chu đáo, nếu lại thêm

mỹ nữ mười nước thì cái mạng của Trung Quốc tiểu hài đại nhân này đến phải ô hô

ai tai mất!

Hoa Bá Tư Cơ vội nói:

- Không phải đâu! Không phải đâu. Mười vị xử nữ xinh đẹp này, Công chúa

điện hạ chuẩn bị cả rồi. Chính mắt bọn tiểu nhân đã trông thấy, cô nào tướng mạo

cũng như bông mai côi, da mỡ như sữa bò, tiếng nói như dạ oanh.

Vi Tiểu Bảo trống ngực đánh thình thình hỏi:

- Công chúa điện hạ muốn ta làm việc gì?

Tề Lạc Nặc Phu đáp:

- Việc thứ nhất là hai nước hòa hiếu, hoạch định cương giới một cách công

bằng. Từ nay trở đi không xảy cuộc giao binh nữa.

Vi Tiểu Bảo tự nhủ:

- ý kiến của Hoàng đế cũng muốn như vậy. Việc này có thể làm được.

Nhưng gã chau mày hỏi:

- Phía Tây nước La Sát các ngươi có một nước Thụy... Thụy gì đó đã phái sứ

giả đến yêu cầu Trung Quốc chúng ta đồng thời ra quân giáp công La Sát cả hai

mặt Đông và Tây để chia đôi giang sơn của các ngươi. Khi đó thì những gì Đại NgaLa Tư, Tiểu Nga La Tư, bất dại bất diểu Trung Nga La Tư, Hắc Nga La Tư, Bạch Nga

La Tư, Ngũ Hoa Thập Sắc Nga La Tư chẳng thiếu gì giai nhân mỹ nữ, muốn bao nhiêu

có bấy nhiêu, chẳng cần phải Công chúa điện hạ của các ngươi đưa tặng nữa.

Huống chi mỗi thứ chỉ đưa tặng có một cô là keo kiệt quá!

Hai tên đội trưởng La Sát nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy không khỏi giật mình kinh

hãi.

Hồi ấy, Quốc Vương nước Thụy Điển là Lý đệ thập bát mới lên ngôi là một vị

anh quân niên thiếu, chỉnh đốn quân cơ, sửa sang võ bị, có ý muốn khởi binh đánh

La Sát. Bọn văn võ đại thần ở triều đình Mạc Tư Khoa đều lấy làm lo lắng, vì ngày

ngày cho đại đội binh mã không ngớt kéo qua mặt Đông. Chẳng ngờ Thụy Điển lại

toan tính đến việc liên minh với Trung Quốc. La Sát tuy cường thịnh, nhưng hai

mặt trước sau đều thụ địch thì đại cuộc tất lâm nguy.

Vi Tiểu Bảo nhìn mặt Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu biết là mình đánh đòn

gió đã sinh hiệu lực, liền nói tiếp:

- Nhưng giữa ta và Công chúa điện hạ là chỗ hảo bằng hữu tâm đầu ý hợp thì

khi nào còn nhận lời đề nghị của bọn man tử nước Thụy gì gì đó? Hiện giờ Trung

Quốc Hoàng đế chưa quyết định chủ ý, nếu quả nước La Sát thành tâm cầu hòa

thì ta đuổi sứ giả nước Thụy gì đó về.

Hai tên đội trưởng cả mừng vội đáp:

- Nước La Sát rất mực chân thành, tuyệt chẳng có điều chi giả dối. Xin Trung

Quốc tiểu hài đại nhân đuổi ngay sứ giả Thụy Điển về nước, hay chặt đầu hắn đi

càng tốt.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:

- Việc chặt đầu sứ giả thì không được đâu. Huống chi hắn lại đưa tặng ta rất

nhiều kim cương bảo thạch và mỹ nữ mười mấy nước thì làm sao chém chết hắn cho

đành? Có đúng thế không?

Hai tên đội trưởng luôn miệng khen phải. Chúng nghĩ thầm:

- Té ra nước Thụy Điển cố ý giao hảo với Trung Quốc. Họ thả vỏ quít trước

rồi ăn mắm rươi sau. Thủ đoạn của họ còn sáng nước hơn mình.Rồi chúng tự nhủ:

- May mà gã Trung Quốc tiểu hài đại nhân này giao hảo với Công chúa nhà

mình, không thì vụ này thật nát bét, khó bề vãn hồi được.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi:

- Công chúa còn muốn ta làm việc gì nữa?

Hoa Bá Tư Cơ mỉm cười đáp:

- Công chúa điện hạ chân thành mời Trung Quốc tiểu hài đại nhân tới điện

Cẩm Linh thành Mạc Tư Khoa để cùng bàn việc trong tẩm thất.

Vi Tiểu Bảo bật tiếng cười khành khạch bụng bảo dạ:

- Đây lại là món mê thang của La Sát hay gọi tắt là La Sát thang cho tiện, La

Sát thang ăn được nhưng không thể tin được.

Gã cười nói:

- Té ra bọn đàn ông La Sát toàn là đồ bỏ.

Tề Lạc Nặc Phu mỉm cười đáp:

- Chẳng phải đàn ông La Sát toàn là đồ vô dụng, nhưng Công chúa điện hạ

đặc biệt tưởng niệm Trung Quốc tiểu hài đại nhân.

Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm:

- Lại thêm một chén La Sát thang nữa.

Gã liền hỏi:

- Chỉ có vậy thôi, không còn việc gì nữa chứ?

Hoa Bá Tư Cơ đáp:

- Công chúa thỉnh cầu Trung Quốc Hoàng đế bệ hạ chuẩn cho các nhà buôn

hai nước được đi lại tự do thông thương.

Tề Lạc Nặc Phu nói theo:

- Một khi thương nhân hai nước đi lại thường xuyên, Công chúa thời thường

có thể viết thư, đưa lễ gửi sang cho đại nhân.Vi Tiểu Bảo mắng thầm:

- Con mẹ nó! Lại thêm một chén La Sát thang nữa.

Gã liền hỏi:

- Ngươi nói thế thì hai nước giao thương là làm việc riêng cho Công chúa hay

sao?

Tề Lạc Nặc Phu đáp:

- Dạ dạ! Hoàn toàn vì Trung Quốc tiểu hài đại nhân.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hiện giờ ta không còn là trẻ nít, các ngươi không được xưng hô Trung

Quốc tiểu hài gì gì đó.

Hai tên liền khom lưng hô:

- Dạ dạ! Trung Quốc đại nhân các hạ.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười đáp:

- Được rồi! Các ngươi hãy lui về nghỉ ngơi. Bọn ta sẽ đến Ni Bố Sở. Các

ngươi cùng theo đi là xong.

Hai tên kinh hãi đưa mắt nhìn nhau tự hỏi:

- Đại quân Trung Quốc kéo đến Ni Bố Sở làm gì? Chẳng lẽ họ lại đánh

thành?

Vi Tiểu Bảo nói tiếp:

- Các ngươi cứ yên lòng. Ta đã nhận lời với Công chúa là hai nước hòa hiếu,

không còn chuyện giao tranh nữa.

Hai tên khom lưng nói:

- Đa ta Trung Quốc tiểu... à quên... đại nhân các hạ.

Hoa Bá Tư Cơ lại nói:

- Công chúa nghe nói những cầu ở Trung Quốc xây cất rất hay. Bất luận

trường giang đại hà đều dùng đá lớn để bắc cầu. Phía dưới không cần thạch trụ,

kiều đôn. Công chúa đem lòng yêu mến Trung Quốc đại nhân các hạ, nên ưu thíchcả những cái gì của Trung Quốc. Điện hạ xin đại nhân phái mấy tên thợ giỏi

chuyên nghiệp bắc cầu qua Mạc Tư Khoa để dựng mấy tòa thạch kiểu thuần kỳ.

Hàng ngày Công chúa điện hạ ra chơi thạch kiều Trung Quốc, đi lại tản bộ trên

cầu cũng như hàng ngày được thấy mặt đại nhân các hạ.

Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm:

- La Sát thang đưa hết chén này đến chén khác, ta mà ăn mãi vào tất phải ộc

ra mất. Tại sao Công chúa La Sát lại đặc biệt thẩm mỹ những tòa thạch kiều của

Trung Quốc? Trong vụ này tất có điều chi ngoắt ngoéo. Ta không thể để mắc

vào cạm bẫy của hồ ly tinh nước La Sát.

Gã liền đáp:

- Công chúa mà tưởng niệm ta cũng bất tất phải bắc cầu đá cho tốn nhiều

công trình. Ta tặng nàng mấy tấm chăn bông và gối đầu ở Trung Quốc là đủ. Khi

nàng ngủ cứ ôm chăn và gối của ta thì cũng như nàng ngủ chung với Trung Quốc

đại nhân các hạ.

Hai tên đội trưởng La Sát đưa mắt nhìn nhau, vẻ mặt đều ra chiều bẽn lẽn.

Tề Lạc Nặc Phu ngập ngừng nói:

- Cái đó... dường như...

Hoa Bá Tư Cơ đầu óc linh hoạt hơn, liền đỡ lời:

- Chủ ý của đại nhân các hạ rất cao minh. Chăn gối Trung Quốc do bọn tiểu

nhân đưa về để Công chúa điện hạ không ôm Trung Quốc đại nhân các hạ thì ôm

chăn gối Trung Quốc cũng hay rồi. Có điều chăn gối chỉ được mấy năm là rách

nát, chẳng thể kiên cố bằng cầu đá. Vậy xin đại nhân phái mấy kỹ sư qua dựng

thạch kiều mới là tuyệt diệu.

Vi Tiểu Bảo nghe giọng lưỡi hai tên đội trưởng La Sát rất tha thiết về việc

phái kỹ sư đi bắc cầu, liền nghi là chúng có âm mưu ngụy kế. Gã chưa hiểu thời

bấy giờ kỹ thuật bắc cầu của Trung Quốc đứng vào bậc nhất thiên hạ. Người

ngoại quốc đến Trung Hoa thấy những cây thạch kiều hùng vĩ đều tấm tắc khen là

kỳ dị. Ai cũng tán thưởng không ngớt. Họ tự hỏi:- Những cây thạch kiều ở đáy dưới không có cột chống mà sao bắc qua sông

được? Thật là thần diệu khôn lường!

Người La Sát cũng mong học được phương pháp bắc cầu bằng cách này, vì

họ rất ca ngợi môn kỹ thuật về khoa học của Trung Quốc mà thôi, chứ chẳng có

âm mưu nào khác.

(Lời chú của tác giả:

"Năm Khang Hy thứ 15 những Nga phái Tư Ba Tháp Lôi (N. G. Spatinary) làm

khâm sai, đem theo những chuyên gia về bảo thạch, chuyên gia về dược tài đến

Bắc Kinh, đưa ra mấy khoản yêu cầu.

Trong những khoản này có một điều xin chuẩn cho nước Nga được mượn kỹ

sư bắc cầu của Trung Hoa.

Viên Khâm sai La Sát vì không chịu quỳ xuống dập đầu trước mặt Hoàng đế

Trung Quốc nên bị Thanh đình đuổi về nước.")

Vi Tiểu Bảo bụng bảo dạ:

- Những tên này đòi hỏi hết điều nọ đến điều kia. Chúng càng đòi hỏi, ta

càng không chịu ưng thuận.

Gã liền nói:

- Ta biết rồi. Các ngươi hãy lui ra.

Hai tên đội trưởng không dám nói gì nữa. Chúng thi lễ rồi rút lui.

Đại quân lên đường tiến về phía Tây, một hôm đến gần thành Ni Bố Sở.

Khâm sai đại thần nước La Sát là Phi Yến Đa La được tin báo đại quân bên

Thanh kéo đến không khỏi giật mình kinh hãi. Y vội viết thư sang xin quân Thanh

đồn trú ở ngoài rồi y lập tức đến tương hội.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bất tất phải khách sáo. Cứ để bọn ta đến chào khách là được.

Quân Thanh rầm rầm rộ rộ kéo đến tận chân thành Ni Bố Sở.

Bọn Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Mã Lạt chia lấy ba đội nhân mã đi quanh giữ ba

mặt Bắc, Tây, Nam thành Ni Bố Sở, đóng trên những yếu đạo để ngăn chặn đườngrút lui của quân La Sát trong thành, lại cản trở cả đường viện binh của quân tiếp

viện từ mặt Tây kéo đến.

Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ cùng bọn Đông Quốc Cương thống lĩnh trung

quân đồn trú ở ngoài thành phía Đông.

Trung quân bắn pháo thay phiên. Bốn mặt cũng nổi hiệu súng vang rền.

Các đại thần và quan quân La Sát trong thành Ni Bố Sở thấy quân Thanh tập

hợp đông như kiến, khí thế rất là hùng dũng, không khỏi khiếp sợ.

Phi Yến Đa La liền sắp sửa lễ vật phái người đưa đến doanh trướng quân

Thanh và đệ thư lên khâm sai đại thần Trung Quốc.

Trong thư nói: Hoàng đế hai nước đã quyết định bãi binh nghị hòa, vậy cuộc

hội ngộ này chuyên về việc kiềm đính hòa ước. Quân đội hai bên không nên gần

nhau quá để tránh khỏi xảy cuộc xung đột bất ngờ, có thể đưa đến chỗ tổn

thương tình giao hảo giữa hai nước.

Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần thương nghị, đều nói: Trung Hoa là thượng

quốc không xử sự ngang trái, cần giữ điều tiên lễ hậu binh.

Vi Tiểu Bảo liền hạ lệnh lui binh mấy dặm, đồn trú ở phía Đông sông Thân

Nhĩ Khắc. Đồng thời gã ra lệnh cho ba cánh quân đóng ở ba mặt Bắc, Tây, Nam

cũng rút vào trong núi chờ đợi.

Phi Yến Đa La thấy quân Thanh triệt thoái mới hơi yên dạ. Y lại viết văn thư

đưa ra bốn điều kiện về cuộc tương hội.

Điều thứ nhất: Cuộc hội kiến diễn ra tại khu vực giữa thành Ni Bố Sở và sông

Thập Nhĩ Khắc.

Điều thứ hai: Ngày hội kiến, Khâm sai hai nước đều đêm bốn chục tùy viên.

Điều thứ ba: Hai nước đều giàn hàng năm trăm quân. Quân Nga sắp hàng ở

dưới chân thành. Quân Thanh sắp hàng ở bờ sông.

Điều thứ tư: Hai nước đều đem kèm đội vệ binh gồm hai trăm sáu chục người.

Ngoài đao kiếm, vệ binh không được mang một thứ vũ khí nào khác.

Sở dĩ bên La Sát phải đưa bốn điều đề nghị này vì uy thế quân Thanh rất

lớn mà quân Nga ít người. Nếu không hạn chế nhân số thì bên Nga lâm vào tình thếhạ phong. Mặt khác võ khí quân La Sát lợi hại hơn quân Thanh mà không hạn chế

khí giới thì quân Nga lại chiếm thế thượng phong, chắc đối phương không chịu. Vì

vậy, họ đề nghị trước là khôn và quy định vệ binh chỉ được mang theo đao kiếm.

Vi Tiểu Bảo sau khi thương nghị với các đại thần, nhận thấy đề nghị này có

thể theo được, liền tiếp nhận ngay.

Ngay đêm hôm ấy, Vi Tiểu Bảo phái thân binh dựng doanh trướng để làm hội

sở.

Sáng sớm hôm sau, bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương

dẫn hai trăm sáu chục tên quân đằng bài đến hội sở.

Bỗng thấy cử thành Ni Bố Sở mở rộng, hơn hai trăm quân kỵ Kha Tát Khắc

đều cầm trường đao hộ vệ cho quan viên La Sát đến hội sở.

Đội kỵ binh này người cao ngựa lớn, oai phong lẫm liệt. Còn quân đằng bài

bên Thanh đều là bộ binh, coi về ngoài không hùng dũng bằng quân La Sát.

Hồi 237

LầN ĐầU TIÊN NếM MóN TRUNG HOA

Đông Quốc Cương cất tiếng thóa mạ:

- Tổ bà nó! Bọn quỷ La Sát thật là xảo quyệt! Mới bước đầu mình

đã mắc hợm. Chúng bảo mỗi bên đem đi hai trăm sáu chục tên vệ binh, mình quên

không hỏi kỵ binh hay bộ binh. Bây giờ chúng đem đoàn kỵ binh thành ra hơn

mình hai trăm sáu chục con ngựa.

Sách Ngạch Đồ nói:

- Vụ này nhắc nhở chúng ta phải rất thận trọng, mỗi khi giao dịch với bọn

quỷ La Sát chớ có sơ hở. Mình chỉ bất cẩn một chút là mắc lừa chúng.

Trong khi hai người đang nói chuyện thì bọn quan binh La Sát đã gần tới

trước mặt.

Đông Quốc Cương nói:

- Chúng ta tuân chiếu lời phán bảo của Hoàng thượng thì việc gì cũng phải

theo lễ nghĩa Trung Hoa là thượng quốc. Vậy chúng ta xuống ngựa đi.

Vi Tiểu Bảo hô:

- Phải lắm! Hết thảy mọi người phải xuống ngựa!

Quan quân nghe lệnh nhất tề hạ mã, chắp tay đứng nghiêm chỉnh.

Khâm sai Phi Yến Đa La thấy vậy cũng hạ lệnh cho quan viên La Sát xuống

ngựa, khom lưng hành lễ.

Hai bên đều tiến gần vào nhau.

Phi Yến Đa La hô:

- Khâm sai nước Nga La Tư là Phi Yến Đa La vâng mệnh Sa hoàng kính chúc

Đại Thanh quốc Hoàng đế thánh thể an khang.

Vi Tiểu Bảo bắt chước hắn, đáp lại:

- Khâm sai Đại Thanh quốc là Vi Tiểu Bảo vâng mệnh Hoàng thượng kính chúc

Sa hoàng nước La Sát thánh thể an khang.

Gã lại thêm một câu:

- Và chúc Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á Công chúa xinh đẹp, bình yên.

Phi Yến Đa La mỉm cười nghĩ bụng:

- Đại Thanh Hoàng đế chúc Công chúa bên ta xinh đẹp, bình yên thì thật là

một câu ly kỳ cổ quái, song Công chúa nghe thấy tất lấy làm hoan hỷ.

Hai bên đưa ra những câu chúc tụng, có điều Vi Tiểu Bảo nghe tiếng La Sát

câu được câu chăng, mà gã nói càng văn phạm đảo diên, từ cú lệch lạc. May chỉ là

những lời khách sáo, chẳng có gì quan hệ.

Vi Tiểu Bảo thấy quan viên La Sát đứng nghiêm trang kính cẩn nghe lời, lễ

mạo cũng chu đáo, nhưng hai trăm sáu chục tên quân kỵ Kha Tát Khắc vẫn ngang

nhiên cưỡi trên lưng ngựa, tay cầm trường đao xếp thành đội ngũ. Chúng ngồi

trên cao trông xuống, phảng phất có vẻ uy hiếp. Gã càng nhìn càng tức, liền hỏi:

- Đội vệ binh bên quý quốc rất vô lễ! Chúng tham kiến Trung Quốc đại

nhân các hạ mà sao không xuống ngựa?

Phi Yến Đa La đáp:

- Theo luật lệ của tệ quốc thì kỵ binh đang ở trong đội ngũ dù tham kiến Sa

Hoàng bệ hạ cũng không phải xuống ngựa.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Đây là đất Trung Quốc. Đã đến Trung Quốc là phải theo luật lệ Trung

Quốc.

Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:

- Xin lỗi Trung Quốc đại nhân các hạ! Các hạ lầm rồi. Chỗ này là lãnh thổ

của Sa Hoàng nước Nga La Tư, chứ không phải đất Trung Quốc.

Vi Tiểu Bảo cãi:

- Đây hiển nhiên là đất Trung Quốc, các vị đến cưỡng chiếm mà thôi.

Phi Yến Đa La đáp:- Xin lỗi các hạ. Trung Quốc Khâm sai đại thần các hạ lầm rồi đó. Đây là lãnh

thổ Sa Hoàng nước Nga. Thành Ni Bố Sở do người Nga La Tư dựng lên.

Cuộc hội đàm lần này nguyên là để phân chia ranh giới hai nước, nên chỗ đất

này thuộc về Trung Quốc hay thuộc về Nga Quốc phân định cho rõ là một điều

trọng yếu. Khâm sai đại thần hai nước vừa gặp mặt, chưa kịp vào trướng mở cuộc

đàm phán đã xảy chuyện tranh chấp.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Người La Sát các vị đắp thành lên đất Trung Quốc rồi tự nhận là lãnh thổ

của mình mà được ư? Trong thiên hạ sao lại có chuyện kỳ thế?

Phi Yến Đa La cãi:

- Chỗ này nhất định là lãnh thổ nước Nga. Người Nga La Tư xây thành ở đây,

người Trung Quốc không xây thành đắp lũy đủ chứng minh là đất nước Nga. Bây

giờ Trung Quốc đại thần các hạ bảo là đất Trung Quốc thì có gì làm chứng cứ

không?

Thực ra một giải Ni Bố Sở trước nay chẳng có gì ước thúc. Nó là chỗ biên

thùy hai nước Trung, Nga nhưng chưa vạch rõ cương giới. Nó thuộc về Trung Quốc

hay thuộc về nước Nga, chẳng ai có bằng chứng đưa ra.

Vi Tiểu Bảo nghe đối phương hỏi đến chứng cứ không khỏi tắc họng. Gã

muốn cưỡng biện, khốn nỗi gã không thông suốt từ ngữ La Sát. Ngay những câu

đối đáp tầm thường đã cảm thấy khó khăn thì làm sao đủ tiếng để trình bày biện

bác được?

Gã nói ẩu:

- Đây là đất Trung Quốc, chẳng thiếu gì chứng cứ.

Rồi gã dùng tiếng Dương Châu thóa mạ:

- Con mẹ quân chó đẻ! Ta nguyền rủa tổ tôn mười tám đời bọn quỷ La Sát

các ngươi.

Gã thốt câu này rồi tiếp đến những lời thô tục tuôn ra như nước chảy, thao

thao bất tuyệt, thóa mạ cao tổ mẫu, tằng tổ mẫu rồi đến tổ mẫu, mẫu thân, tỷ muội,ngoại bà, di má, cô mẫu nhà Phi Yến Đa La. Gã chửi tưới hạt sen, chửi vung xích

chó. Bao nhiêu đàn bà nhà họ Phi nước La Sát gã chửi tuốt chẳng tha một ai.

Các quan viên cả hai bên Trung, Nga thấy Khâm sai đại thần Trung Quốc nổi

lôi đình đều băn khoăn kinh hãi. Có điều gã mồm năm miệng mười đưa ra từng

tràng như pháo nổ liên thanh, đừng nói Phi Yến Đa La chẳng hiểu gì mà cả quan

viên Trung Quốc cùng thông dịch viên hai bên cũng lờ mờ.

Nên biết những câu chửi rủa của Vi Tiểu Bảo này toàn là lời thô tục đê hèn

trong đám dân quê ở Dương Châu. Ngay những vị thân sĩ, thục nữ người Dương

Châu cũng chưa chắc đã hiểu được mấy phần. Bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc

Cương, hoặc là người Bát Kỳ, hoặc là võ quan ở phương Bắc từ lâu thì còn lý hội

làm sao được?

Vi Tiểu Bảo thóa mạ hồi lâu đã tiết hận, trong lòng khoan khoái. Gã không

nhịn được lại nổi lên tràng cười khanh khách.

Phi Yến Đa La ban đầu tuy không hiểu ngữ ngôn của gã, nhưng coi vẻ mặt

cùng nghe giọng nói cũng đoán là gã đang nổi giận. Sau lại thấy gã đột nhiên cười

rộ không khỏi ngơ ngác, cất tiếng hỏi:

- Xin hỏi quý sứ đưa ra trường thiên đại luận đó để chỉ giáo điều gì? Ngôn

từ của quý sứ sâu xa và huyền diệu, mà tệ nhân lại học thức thô sơ, kiến văn hủ

lậu, khó bề thông tình đạt lý. Xin quý sứ nói chậm chạp từng câu một, để tệ nhân

lãnh giáo.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bản sứ vừa nói quý sứ không hiểu đạo lý gì hết. Bản sứ muốn quý tổ mẫu

đến đây làm người bạn lòng và làm bà vợ.

Phi Yến Đa La mỉm cười đáp:

- Tổ mẫu của tệ nhân là người đẹp nổi danh ở thành Mạc Tư Khoa. Lão nhân

gia là con gái của Bỉ Đắc Lạc Phu Tư Cơ Bá tước. Té ra Trung Quốc đại nhân các

hạ cũng biết tiếng tệ tổ mẫu. Tệ nhân thực lấy làm vinh hạnh vô cùng! Đáng tiếc

tệ tổ mẫu đã chết trước đây ba mươi tám năm.

Vi Tiểu Bảo nói:- Thế thì bản sứ muốn giao du thân mật với lệnh mẫu để lấy bà làm vợ.

Phi Yến Đa La nở mày nở mặt, càng lộ vẻ hoan hỷ đáp:

- Má má của tệ nhân là con nhà danh môn vọng tộc ở thành Cơ Phụ. Nước da

người vừa trắng vừa non. Người biết làm thơ chữ Pháp. ở thành Mạc Tư Khoa chẳng

thiếu gì bậc vương công, tướng quân rất sùng bái người. ở tệ quốc còn có một vị

đại thi nhân đã làm mấy chục bài thơ tán dương sắc đẹp của tệ má má. Hiện nay

tuy người đã ba mươi sáu tuổi nhưng tướng mạo còn non trẻ chỉ bằng một thiếu

phụ dưới ba mươi. Trung Quốc đại nhân các hạ mai đây có dịp qua Mạc Tư Khoa,

tệ nhân nhất định giới thiệu đại nhân các hạ với má má. Việc kết hôn thì đại nhân

rằng không được, còn làm bạn tâm tình thì có thể.

Nguyên theo phong tục Tây dương thì ai có mẫu thân hoặc thê tử xinh đẹp

được người tán tụng, chẳng những họ không lấy thế làm hỗn xược, trái lại họ cho

là một điều rất vinh hạnh và khoan khoái hơn cả ca tụng chính họ.

Vi Tiểu Bảo không hiểu phong tục Tây dương, lại cho là Phi Yến Đa La sợ

mình, có ý muốn bái mình làm cha hờ, mới chịu phụng hiến thân mẫu.

Gã sướng quá, bao nhiêu lửa giận tiêu tan hết, liền cười đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Sau này nếu quả bản sứ có dịp qua Mạc Tư Khoa nhất

định sẽ vào làm thượng khách của quý phủ.

Gã dắt tay Phi Yến Đa La đi vào doanh trướng. Bọn tùy tùng hai bên liền

theo sau tiến vào.

Bọn Vi Tiểu Bảo ngồi ở đằng Đông. Bọn Phi Yến Đa La ngồi ở mé Tây.

Phi Yến Đa La lên tiếng:

- Nhiếp Chính Nữ Vương Công chúa điện hạ bên tệ quốc đã dặn bảo cuộc

hòa đàm chuyến này để hoạch định cương giới. Tệ quốc hết sức thành ý, mong hai

bên giữ mực công bằng, đừng ai lấn át đối phương. Vì vậy tệ quốc đề nghị lấy

sông Hắc Long Giang làm giới hạn cho hai nước. Mặt Nam sông này là Trung Quốc.

Mặt Bắc thuộc về Nga La Tư. Sau khi cương giới đã hoạch định, quân Nga La Tư

không được qua sông tràn xuống phía Nam. Quân Trung Quốc cũng không được

qua sông tiến lên miền Bắc.Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Thành Nhã Tát Khắc ở Giang Nam hay Giang Bắc?

Phi Yến Đa La đáp:

- Nhã Tát Khắc ở Giang Bắc. Thành này do người La Sát xây đắp. Cái đó

chứng tỏ mặt Bắc sông Hắc Long Giang đều là lãnh thổ của nước Nga.

Vi Tiểu Bảo nghe nói lại nổi cơn tức giận hỏi:

- Trong thành Nhã Tát Khắc có một trái núi nhỏ. Các hạ có biết tên trái núi

này là gì không?

Phi Yến Đa La quay lại hỏi tùy viên rồi đáp:

- Trái núi đó kêu bằng Cao Trợ Lược Sơn.

Vi Tiểu Bảo hiểu được tiếng La Sát, Cao Trợ Lược tức là con hươu, liền nói:

- Người Trung Quốc kêu bằng Lộc Đỉnh Sơn.

Rồi gã hỏi:

- Quý sứ có biết bản sứ được phong tước vị gì không?

Phi Yến Đa La đáp:

- Các hạ là Lộc Đỉnh Công. Nếu nói bằng tiếng La Sát tức là Cao Trợ Lược

Sơn Công tước.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Thế là các hạ còn có lòng muốn lấn át bản sứ. Các hạ đã biết rõ bản sứ là

Lộc Đỉnh Công sao còn cưỡng chiếm Lộc Đỉnh Sơn của bản sứ? Phải chăng các

hạ bảo bản sứ không phải là Công tước?

Phi Yến Đa La đáp:

- Không không! Tệ nhân quyết chẳng có ý đó.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi:

- Tước hiệu của các hạ là gì?

Phi Yến Đa La đáp:- Tệ nhân là Mạc Nặc Sa Phạt Hầu tước.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Vậy thì Lạc Nặc Sa Phạt thuộc về lãnh thổ Trung Quốc.

Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi rồi mỉm cười nói:

- ấp phong của tệ nhân Lạc Nặc Sa Phạt còn ở phía Tây Mạc Tư Khoa, cách

xa Trung Quốc vạn dặm, sao lại thuộc về lãnh thổ Trung Quốc được?

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Quý sứ bảo ấp phong của mình kêu bằng Lão Miêu Lạp Thi Pháp...

Phi Yến Đa La sửa lại:

- Lạc Nặc Sa Phạt.

Vi Tiểu Bảo không lý gì đến hắn, tiếp tục câu hỏi:

- Từ thành Bắc Kinh bên bản sứ tới Lão Miêu Lạp Thi Pháp cộng bao nhiêu

dặm đường?

Phi Yến Đa La đáp:

- Từ Lạc Nặc Sa Phạt đến Mạc Tư Khoa đã hơn trăm dặm, phải đi mất bốn

ngày. Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh phải đi ba tháng nữa.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Nếu vậy từ Bắc Kinh đến Lão Miêu Lạp Thi Pháp phải đi mất ba tháng lẻ

năm ngày. Lộ trình xa quá nhỉ?

Phi Yến Đa La đáp:

- Xa lắm! Xa lắm!

Vi Tiểu Bảo nói:

- Đường đất đã xa như vậy thì Lão Miêu Lạp Thi Pháp dĩ nhiên không phải là

lãnh thổ Trung Quốc.

Phi Yến Đa La đáp:

- Công gia nói đúng lắm!Vi Tiểu Bảo nâng chung rượu lên nói:

- Mời quý sứ xơi rượu.

Người La Sát quý rượu như tính mạng. Chung rượu đặt ở trước mặt Phi Yến

Đa La đã lâu, mùi thơm tho xông lên mũi hắn từng hồi, nhưng chủ nhân chưa nâng

chung, hắn không dám thiện tiện uống trước.

Bây giờ Phi Yến Đa La thấy Vi Tiểu Bảo nâng chung, hắn mừng quá cầm

chung rượu uống một hơi cạn sạch.

Bọn tùy viên bên Thanh lại rót rượu vào chung cho hắn rồi lấy đồ nhắm

trong hộp ra và toàn là những món do đầu bếp nổi tiếng ở Bắc Kinh nấu nướng.

Thời bấy giờ nước La Sát mới được khai hóa, nên cách ăn mặc hãy còn thô

sơ. Về sau Bỉ Đắc đại đế lớn lên, đoạt lại quyền hành ở tay tỷ tỷ là Tô Phi á

Công chúa rồi giam nàng vào ni am. Bỉ Đắc đại đế từ đó mới thâu nhập phần lớn

văn hóa Tây Âu.

Hồi nước La Sát giao thiệp với Vi Tiểu Bảo, nhất thiết khí vật, chế độ, văn

hóa đều kém Trung Quốc nhiều. Về cách nấu nướng thì cho tới ngày nay La Sát

so với Trung Quốc vẫn còn cách xa vạn dặm.

Đây là lần đầu tiên Phi Yến Đa La được nếm những thức ăn tuyệt hảo của

nước Trung Hoa ở ngoài thành Ni Bố Sở, dĩ nhiên hắn phải trợn mắt há miệng, cơ

hồ muốn nuốt luôn cả cái lưỡi của mình vào bụng.

Vi Tiểu Bảo bồi tiếp Phi Yến Đa La nếm đủ các món ăn và giải thích cho hắn

nghe vây cá là thế nào? Yến sào là gì? Chân vịt làm thế nào cho thành món trân

quý? Gan gà chế hóa làm sao cho thành món tối hảo trong bữa ăn?...

Phi Yến Đa La ăn ngon miệng quá vui mừng khôn xiết, khen không ngớt

miệng.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi:

- Quý sứ dời thành Mạc Tư Khoa ngày nào?

Phi Yến Đa La đáp:

- Tệ nhân vâng chỉ dụ của Công chúa điện hạ ngày 12 tháng 4 ở thành Mạc Tư

Khoa ra đi.Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Quý sứ cạn chung này đi! Đông Công gia ở bên bản sứ tửu lượng

cũng khá lắm. Hai vị hãy đối ẩm mấy chung.

Đông Quốc Cương liền kính tửu Phi Yến Đa La, đối ẩm ba chung.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Phải chăng quý sứ mới tới Ni Bố Sở trong tháng này?

Phi Yến Đa La đáp:

- Tệ nhân đến đây ngày rằm tháng bảy.

Vi Tiểu Bảo nói:

- ồ! Quý sứ ra đi ngày 12 tháng 4 đến đây ngày rằm tháng bẩy, tức là mất

hơn ba tháng lộ trình.

Phi Yến Đa La đáp:

- Dạ. Đi mất hơn ba tháng là may nhờ tiết trời ấm áp, dọc đường không bị

điều gì khó khăn cản trở.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Phen này quý sứ nói thật đi! Chịu thừa nhận thành Ni Bố Sở không phải ở

trên đất nước La Sát.

Phi Yến Đa La uống rượu mười mấy chung rượu, đã ngà ngà say. Hắn nghe Vi

Tiểu Bảo nói vậy ngạc nhiên hỏi:

- Tệ nhân... tệ nhân có thừa nhận hồi nào đâu?

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Từ Bắc Kinh đến Lão Miêu Lạp Thi Pháp đi mất hơn ba tháng, lộ trình xa

quá, nên Lão Miêu Lạp Thi Pháp không phải đất Trung Quốc. Từ Mạc Tư Khoa đến

Ni Bố Sở, quý sứ cũng phải đi hơn ba tháng, tức là đường đất chẳng gần gũi gì.

Cái đó chứng tỏ Ni Bố Sở dĩ nhiên không phải là đất nước La Sát.

Phi Yến Đa La dương to cặp mắt. Trong lúc nhất thời không biết nói sao.

Hắn ngẩn người ra hồi lâu mới đáp:- Nước Nga La Tư bên tệ nhân đất rộng bao la, không phải như những nước

khác.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Nước Đại Thanh bên bản sứ phạm vi cũng không nhỏ hẹp.

Phi Yến Đa La cười gượng đáp:

- Trung Quốc đại nhân khéo nói giỡn. Hai vụ đó... không thể... nghị luận

giống nhau...

Vi Tiểu Bảo nói:

- Nếu quý sứ nhất định bảo Ni Bố Sở là lãnh thổ nước La Sát thì chúng ta làm

một cuộc trao đổi. Bản sứ tới Mạc Tư Khoa xin Công chúa điện hạ phong quý sứ

làm Ni Bố Sở Bá tước, và phong bản sứ làm Lão Miêu Lạp Thi Pháp Công tước.

Thành Lão Miêu Lạp Thi Pháp được kể là đất Trung Quốc.

Phi Yến Đa La đỏ mặt lên đáp:

- Cái đó... nhất định không được...

Trong lòng hồi hộp, hắn nghĩ bụng:

- Công chúa là tình nhân của gã, nếu lúc đầu gối tay ấp nàng bị gã cho ăn

thuốc mê mà ưng thuận cuộc trao đổi thì thật là nét bét. Lạc Nặc Sa Phạt là ấp

phong tổ truyền của ta, sản vật rất phong phú. Nếu Công chúa cải phong cho ta

đến Ni Bố Sở là một nơi khí hậu rét mướt, dân cư thưa thớt, thì có khác gì giết ta

không? Huống chi ta đang làm Hầu tước mà lại cải phong làm Ni Bố Sở Bá tước thì

ra bị giáng cấp hay sao?

Hắn nghĩ tới điểm này, bất giác nét mặt lộ ra rất khó coi.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Tâm địa của quý sứ tệ hại quá chừng! Quý sứ đã muốn chiếm cứ cả thành

Nhã Tát Khắc là đất phong của bản sứ, khi đó bản sứ không còn là Lộc Đỉnh Công

thì bản sứ biết làm thế nào? Đành là làm Lão Miêu Lạp Thi Pháp Công tước vậy.

Tuy ấp phong của quý sứ mang cái tên cứt mèo, cứt chó gì đó thật khó nghe, bản

sứ cũng cam chịu vậy.Phi Yến Đa La tính thầm trong bụng:

- Gã là người Trung Quốc mà muốn chiếm thành Lạc Nặc Sa Phạt của ta

quyết không thể được, nhưng gã đã được phong tước ở nước La Sát mà lại mưu

lấy ấp phong của ta tất không khỏi rắc rối cho ta. May ở chỗ Công chúa đã dặn

có thể lui cương giới về đến Ni Bố Sở. Sự thực chúng ta cũng không cần đòi Nhã

Tát Khắc. Thành Nhã Tát Khắc đã bị bọn họ hạ rồi mà bảo họ rút lui, dĩ nhiên họ

không chịu.

Gã tính vậy liền lộ vẻ tươi cười đáp:

- Thành Nhã Tát Khắc đã là ấp phong của đại nhân, thì bọn tệ nhân xin thoái

nhượng một bước. Hai nước vẫn lẫy sông Hắc Long Giang làm giới hạn, nhưng thành

Nhã Tát Khắc và phạm vi chung quanh thành này trong vòng mười dặm thuộc về

lãnh thổ Trung Quốc. Đây là bọn tệ nhân hoàn toàn nể mặt quý sứ và đã làm một

cuộc nhượng bộ rất lớn rồi đó.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:

- Bọn ngươi thua trận mà còn lên mặt như vậy. Nếu trận đánh vừa rồi quân La

Sát các ngươi thắng thì đại nhân rằng các ngươi đòi cả thành Bắc Kinh cũng là lãnh

thổ của các ngươi nữa.

Gã nghĩ vậy liền hỏi:

- Chúng ta đã trải qua một trận giao phong. Không hiểu các vị thắng hay là

bản sứ thắng?

Phi Yến Đa La chau mày đáp:

- Đó mới là cuộc đụng độ nhỏ bé, chưa đáng kể ai thắng ai bại. Công chúa

điện hạ bên tệ quốc đã ra nghiêm lệnh không cho tướng sĩ được chính thức giao

phong để duy trì hòa hiếu giữa hai nước. Vì thế lúc quân đội quý quốc tấn công,

tướng sĩ bên tệ quốc không phản kích. Nếu cuộc giao binh thật sự diễn ra thì cục

diện sẽ khác hẳn.

Vi Tiểu Bảo nghe nói cả giận hỏi:

- Té ra quân La Sát đã nổ súng mà chưa kể là phản kích ư?

Phi Yến Đa La đáp:- Đây bất quá là tướng La Sát hành động để bảo vệ lãnh thổ cho bản quốc

chứ không phải phản kích. Nếu người La Sát đánh trận thực sự thì chẳng khi nào

chỉ thủ chứ không công. Một khi cuộc đại chiến xảy ra giữa hai nước thì đội hỏa

thương thủ La Sát và đội kỵ binh kha Tát Khắc đã đến tấn công thành Bắc Kinh

rồi.

Vi Tiểu Bảo tức quá mắng thầm:

- Tổ bà nó! Bọn quỷ sứ lông lá các ngươi chuyên nói khoác để hăm người. ta

mà sợ các ngươi hăm dọa thì sẽ theo họ ngươi mà làm con ngươi. Ta chẳng phải Vi

Tiểu Bảo nữa mà là Tiểu Bảo Phi Yến Đa La.

Gã đến thành Mạc Tư Khoa đã biết tập quán của người La Sát đặt tên trước

họ. Phi Yến Đa La là họ chứ không phải tên.

Gã liền nói:

- Vậy thì hay lắm! Thưa Hầu tước đại nhân đáng kính đáng sợ! Hầu tước đại

nhân có biết trong lòng bản sứ mong mỏi điều gì nhất không?

Phi Yến Đa La đáp:

- Tệ nhân không rõ. Xin đại nhân chỉ giáo.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hiện nay bản sứ mới là Công tước, trong bụng chỉ mong mỏi được gia quan

tấn tước thăng làm quận vương hay thân vương.

Phi Yến Đa La nghĩ bụng:

- Gia quan tấn tước thì ai mà chẳng muốn?

Hắn mỉm cười đáp:

- Công tước đại nhân tinh minh mẫn cán lại được Hoàng đế quý quốc đem

lòng tin yêu sủng ái thì chỉ lập tiếp mấy vụ công lao là nhất định sẽ thăng đến

quận vương, thân vương chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Tệ nhân chân thành kính chúc

đại nhân sớm đặng thành công.

Vi Tiểu Bảo khẽ nói:- Vụ này cần được Bá tước đại nhân giúp đỡ, nếu không thì chẳng còn cơ hội

nào khác.

Phi Yến Đa La ngạc nhiên hỏi:

- Dĩ nhiên tệ nhân hết sức, nhưng chưa hiểu tệ nhân giúp đại nhân bằng cách

nào?

Vi Tiểu Bảo cúi xuống ghé vào tai Phi Yến Đa La khẽ nói:

- Theo lề luật nước Đại Thanh bên bản sứ thì chỉ khi nào đánh trận đại thắng,

lập nhiều quân công mới được phong vương. Nhưng hiện giờ trong nước thái bình

vô sự, bao nhiêu quân phản nghịch đã bị dẹp tan. Phải chờ hai ba chục năm nữa

đại nhân rằng cũng chưa chắc đã xẩy chiến tranh. Như vậy việc phong vương của

bản sứ khó quá...

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Vậy việc phân chia cương giới, nghị định hòa ước này, rất mong quý sứ

đừng nhượng bộ chút gì. Hay hơn là quý sứ phái binh khiêu chiến với tệ quốc,

giết chết một hai vị đại thần bên bản sứ. Hai nước chúng ta xẩy cuộc đại chiến

rồi, quý sứ phái đội hỏa thương thủ La Sát và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến tấn

công thành Bắc Kinh, bản quốc sẽ cùng Thụy Điển liên minh phái binh đến đánh

Mạc Tư Khoa. Có đánh nhau cái bụi mịt mù, trời sầu đất thảm, máu chảy thành sông

thì cuộc phong vương của bản sứ mới mong thành tựu. Đây là một điều bản sứ ký

thác ở nơi quý sứ. Xin quý sứ hết lòng giúp cho. Quý sứ nói gì xin hạ thấp giọng

xuống, đừng để người ngoài nghe thấy.

Hồi 238

CUộC ĐàM PHáN PHÂN CHIA CươNG GIớI

Phi Yến Đa La càng nghe càng kinh hãi, nghĩ thầm:

- Gã thiếu niên này lớn mật làm càn. Vì mong được phong vương, gã

không quản gây cuộc chiến tranh giữa hai nước. Trận đánh này rồi ai thắng ai bại

tuy không thể biết trước, nhưng hiện giờ bên họ đông người mà ta ít, lực lượng hai

bên chênh lệch quá xa thì cái thua thiệt trước mắt nhất định mình phải hứng chịu.

Hắn càng nghĩ càng hối hận là đã huênh hoang hăm dọa nói những gì dẫn đội

hỏa thương La Sát và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến đánh thành Bắc Kinh, ai ngờ

gã thiếu niên lại cho là sự thực. Chẳng những gã không sợ mà còn hoan hỷ vô

cùng.

Phi Yến Đa La thấy mình đã trót khéo quá hóa vụng, nhưng nếu để lộ vẻ

khiếp nhược thì không khỏi bị đối phương khinh nhờn.

Trong lúc nhất thời, hắn không biết làm thế nào, đâm ra luống cuống.

Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Mạc Tư Khoa cách đây xa quá. Quân Đại Thanh kéo đến tấn công thực ra

cũng chẳng nắm chắc được phần thắng. Nếu bại trận, Hoàng đế còn thống trách

bản sứ...

Phi Yến Đa La nghe chừng có cơ xoay chuyển, hắn lộ vẻ vui mừng vội nói:

- Dạ dạ! Tệ nhân kính cẩn khuyên can đại nhân đừng mạo hiểm là hơn.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bản sứ chỉ muốn lập công để được phong vương chứ không muốn diệt nước

La Sát. Đất đai bên quý quốc rất rộng, nhất định bản sứ không đủ bản lãnh để

trừ diệt.

Phi Yến Đa La luôn miệng khen phải.

Vi Tiểu Bảo khẽ nói:

- Bây giờ chúng ta đành làm thế này. Quý sứ phát binh đi đánh Bắc Kinh.

Bản sứ phát binh đánh Ni Bố Sở. Anh em mình đường ai nấy đi. Đánh được Bắc

Kinh là công lao của quý sứ. Hạ được Ni Bố Sở là công lao của bản sứ. Quý sứ

thử tính xem có phải kế này tuyệt diệu không?

Phi Yến Đa La ngấm ngầm kêu khổ. Trong tay hắn chỉ có hơn hai nghìn nhân

mã, muốn phản công lấy lại Nhã Tát Khắc cũng chưa đủ lực lượng, còn nói chi đến

chuyện đi đánh Bắc Kinh?

Hắn nghĩ bụng:

- Nếu mình không nhận lỗi thì gã thiếu niên này lộng giả thành chân cũng chưa

biết chừng.

Hắn liền nhăn nhó cười nói:

- Xin Công tước đại nhân bất tất phải quan tâm. Vừa rồi tệ nhân bảo kéo

đội hỏa thương thủ và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến đánh thành Bắc Kinh chỉ là

câu chuyện hồ đồ chứ không phải sự thực. Tệ nhân đã đưa ra ý kiến lầm lẫn, bây

giờ xin thu về.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Quý sứ đã tuyên bố rồi còn thu về sao được?

Phi Yến Đa La đáp:

- Tệ nhân xin Công tước đại nhân vì tình mà quên câu chuyện này đi.

Vi Tiểu Bảo cười khanh khách hỏi:

- Quý sứ nói vậy thì ra bãi việc dẫn quân La Sát đến đánh Bắc Kinh hay

sao?

Phi Yến Đa La đáp:

- Không đi đâu. Nhất định là không đi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Các vị còn muốn cưỡng chiếm thành Nhã Tát Khắc của bản sứ nữa hay thôi?

Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:- Không có đâu. Không có đâu.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Cả thành Ni Bố Sở các vị cũng không được đụng đến chứ?

Phi Yến Đa La sửng sốt đáp:

- Thành Ni Bố Sở này là lãnh thổ của Sa Hoàng bên tệ quốc. Xin Công tước

đại nhân lượng cho.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:

- Người ta thường nói: •Bạn hàng nói thách, khách mua giá cao•. Ta mà đòi

hắn lấy thành Ni Bố Sở, nhất định là không được rồi. Vậy ta thử đòi từ chân thành

Ni Bố Sở lăn về phía Tây xem sao?

Gã liền hỏi:

- Cuộc nghị hòa của chúng ta phen này nhất định phải cho công bằng, đừng

lừa già dối trẻ, không để ai thua thiệt. Phải vậy không?

Phi Yến Đa La đáp:

- Đúng thế. Hai nước cùng chân thành hoạch định cương giới, dựng nên nền

hòa bình vĩnh cửu.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Thế là hay lắm! Nếu biên giới cắt gần thành Mạc Tư Khoa quá thì người La

Sát phải thiệt thòi. Ngược lại, gần Bắc Kinh qua thì người Trung Quốc thua thiệt.

Cách hay nhất là chia biên giới quãng giữa, theo phép •Nhị nhất thiêm tác ngũ•.

Phi Yến Đa La hỏi:

- Nhị nhất thiêm tác ngũ là thế nào?

Vi Tiểu Bảo hỏi lại:

- Phải chăng từ Mạc Tư Khoa đến Bắc Kinh lộ trình mất ước hơn ba tháng?

Phi Yến Đa La đáp:

- Phải rồi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:- Ba tháng chia đôi là bao nhiêu ngày?

Phi Yến Đa La không hiểu ý gã, cũng đáp:

- Một nửa là tháng rưỡi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Vậy chúng ta khỏi cần đàm thoại nữa. Bên nào về kinh thành bên ấy. Các vị

từ Mạc Tư Khoa đi sang phía Đông. Bọn bản sứ xuất phát từ Bắc Kinh, tiến về

phía Tây. Hai bên cùng đi một tháng rưỡi rồi đụng đầu nhau, phải không?

Phi Yến Đa La đáp:

Đúng thế! Nhưng chưa hiểu đại nhân làm như vậy với dụng ý gì?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Đó là cách chia ranh giới công bình nhất. Chỗ hai bên giáp nhau dùng làm

biên thùy của hai nước. Các vị không chiếm phần tiện nghi mà bên bản sứ cũng

chẳng dành phần hơn. Bên bản sứ thắng trận vừa rồi coi như bỏ đi. Đã là hảo

bằng hữu với nhau, việc mua bán lại cần sòng phẳng.

Phi Yến Đa La mặt mũi đỏ bừng, miệng ấp úng:

- Cái đó... cái đó...

Rồi hắn đứng lên.

Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Quý sứ cũng nhận thấy phương pháp này là rất công bình phải không?

Phi Yến Đa La xua tay lia lịa đáp:

- Không, không! Nhất định là không được! Phân chia địa giới như vậy há chẳng

là đem nửa phần đất nước Nga La Tư cắt cho quý quốc?

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Có đâu mà một nửa? Phía Tây Mạc Tư Khoa quý quốc còn rất nhiều đất đai,

phần ấy khỏi phải dùng phép "Nhị nhất thiềm tác ngũ" cắt cho Trung Quốc nữa.

Hà tất quý sứ còn khách sáo như vậy?

Phi Yến Đa La tức quá, râu tóc dựng đứng cả lên hồi lâu mới nói:- Công tước đại nhân! Nếu đại nhân thành tâm nghị hòa thì nên đưa ra chủ

trương thông tình đạt lý. Cách này... là cắt lấy nửa phần lãnh thổ của tệ quốc.

Thật là... thật là khinh người thái quá!

Hắn vừa nói vừa thở hồng hộc, đặt đít đánh bình một cái ngồi xuống, làm ghế

rung động vang lên những tiếng lách cách.

Vi Tiểu Bảo khẽ hỏi:

- Nói tình thực với quý sứ thì nghị hòa hay phân chia cương giới chẳng có chi

thú vị. Chúng ta hãy đánh nhau một trận đã. Quý sứ bảo có nên không?

Phi Yến Đa La vẫn chưa hết thở hồng hộc, phẫn nộ cơ hồ nhịn không nổi,

những muốn đập bàn đứng lên quát lớn:

- Đánh nhau thì đánh nhau chứ sợ gì?

Nhưng hắn nghĩ tới nếu xảy cuộc chiến tranh, hậu quả sẽ cực kỳ nghiêm

trọng! Bên mình tuyệt không hy vọng thủ thắng.

Hắn đành ráng nhịn, lẳng lặng không nói gì.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên vỗ tay xuống bàn, cười nói:

- Có rồi, có rồi! Bản sứ còn một biện pháp khác rất công bằng.

Gã luồn tay vào bọc móc ra hai con xúc xắc, ghé miệng vào thổi một hơi rồi

liệng xuống bàn nói:

- Quý sứ đã không muốn đánh nhau, lại không thích dùng phép •Nhị nhất

thiêm tác ngũ•. Vậy chúng ta gieo xúc xắc...

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Từ Bắc Kinh tới Mạc Tư Khoa hãy kể là một vạn dặm đường. Chúng ta chia

làm mười phần. Mỗi phần một ngàn dặm. Chúng ta liệng xúc xắc xuống mười bàn,

mỗi bàn đặt cuộc ngàn dặm quốc gia. Nếu quý sứ thắng cả mười bàn thì giải đất từ

đây cho đến chân thành Bắc Kinh thuộc về nước La Sát.

Phi Yến Đa La đằng hắng một tiếng rồi hỏi:

- Thế nhỡ tệ nhân thua cả mười bàn thì sao?

Vi Tiểu Bảo cười nói:- Có lẽ để quý sứ tự nói ra hay hơn.

Phi Yến Đa La hỏi:

- Chẳng lẽ giang sơn muôn dặm của tệ quốc về mé Đông thành Mạc Tư Khoa

lại thuộc hết về Trung Quốc?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bản sứ đoán vận khí của quý sứ không đến nỗi xúi quẩy như ngài nghĩ. Đâu

có lý nào không ăn một bàn? Quý sứ chỉ thắng được một bàn là giữ được nghìn

dặm lãnh thổ, hai bàn được hai nghìn dặm. ¡n đến bốn bàn là chiếm phần tiện nghi

rồi.

Phi Yến Đa La hỏi:

- Sao như thế lại chiếm tiện nghi? Từ Mạc Tư Khoa đi về phía Đông đến Bắc

Kinh đa phần là đất của nước Nga. Bảy nghìn dặm, tám nghìn dặm là thuộc về lãnh

thổ Nga Quốc.

Hai bên tranh luận hồi lâu. Giáo sĩ phiên dịch đứng bên khẽ dịch sang Trung

Quốc thoại.

Bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương nghe ngóng, ban đầu còn tưởng Phi

Yến Đa La ngang ngạnh vô lý, đòi lấy sông Hắc Long Giang làm giới hạn, uy hiếp

tỉnh Liêu Đông của Trung Quốc. Thế thì Mãn Châu là nơi phát tích gây dựng

nghiệp rồng cũng để bọn di dịch uy hiếp hay sao? Trong lòng bọn họ đều cực

kỳ phẫn nộ.

Sau họ nghe Vi Tiểu Bảo kéo dằng kéo dọ. Nào là trao đổi ấp phong, nào

là dùng phép Nhị nhất thiêm tác ngũ, nào là gieo xúc xắc để hoạch định cương

giới, mỗi bàn ăn nghìn dặm thổ địa, họ mới biết là gã nói nhăng nói càn, đối

phương quyết chẳng ưng thuận.

Nhưng họ thấy Phi Yến Đa La khí thế chùn nhụt, lại nghe Vi Tiểu Bảo nói chỉ

ham đánh trận lập công để mong cắt đất phong vương. Còn sứ thần nước Nga

hiển nhiên ngoài mặt hung hăng mà trong lòng mềm nhũn không dám đối lời. Ai nấy

đều nghĩ bụng:Người La Sát ngang ngược dã man, quả nhiên danh bất hư truyền. Nếu đàm

phán một cách nghiêm chỉnh với chúng là mình bị kém thế. Đức Hoàng thượng phái

Vi Công tước chủ trương hòa nghị, quả là có tài dùng người một cách rất sáng

suốt. Bọn quỷ phiên bang là hạng người dã man, chỉ có Vi Công gia bất học vô

thuật nhưng đủ điều dân dã lưu manh mới dư bản lĩnh đối phó với chúng. Thật là

vỏ quít dày gặp móng tay nhọn.

Nên biết bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương lên mặt đại thần, tuy bề

ngoài họ tỏ ra cực kỳ lễ độ cung kính đối với Vi Tiểu Bảo, mà thực ra trong lòng

coi gã rất tầm thường.

Họ đều cho Vi Tiểu Bảo bất quá là thằng hề được Hoàng thượng sủng ái làm

nên quan lớn. Hành động cùng ngôn từ bình nhật của gã biểu lộ xấu xa hèn hạ mà

chính gã không biết xấu hổ.

Họ còn đinh ninh chuyến này gã đụng chạm với sứ thần ngoại quốc tất để

ngoại bang cười cho và làm mất thể diện của Quốc gia.

Ngờ đâu đức Hoàng thượng liệu tài bổ chức, thu dụng gã vào việc trọng đại

này thật xứng đáng.

Giả tỷ Hoàng thượng không sai phái một nhân vật chuyên nói chuyện trò bậy

và cãi chầy cãi cối là Vi Tiểu Bảo vào công cuộc hòa đàm, thì trong các văn võ

đại thần đầy rẫy chốn triều đường, thực không tìm được nhân vật thứ hai nào làm

nổi.

Các đại thần càng nghe càng khâm phục và càng tôn sùng đức Hoàng thượng

anh minh tài trí, chúng thần chẳng ai bì kịp.

Sách Ngạch Đồ nghe tới đây đột nhiên xen vào:

- Mạc Tư Khoa nguyên trước cũng là đất của Trung Quốc.

Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi nghĩ bụng:

- Thằng lỏi kia giở giọng thiên hô bách sát đã đành. Sao cả lão già này cũng

nhắm mắt nói mò như tuồng vô sỉ? Hắn bảo thành Mạc Tư Khoa của nước mình là

đất Trung Quốc mới thật là kỳ?

Lại nghe Sách Ngạch Đồ nói:- Theo lời quý sứ thì người La Sát tạm thời chiếm cứ nơi nào là nơi ấy cũng

thuộc lãnh thổ La Sát hay sao?

Phi Yến Đa La đáp:

- Như vậy cũng còn có lý. Quý sứ nói là Mạc Tư Khoa thuộc đất Trung Quốc

thì, hà hà... tức cười đến nẻ ruột.

Sách Ngạch Đồ nói:

- Nhân dân La Sát gồm nhiều chủng tộc: Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch

Nga La Tư, lại còn Kha Tát Khắc, Thát Đát gì gì nữa cũng đều là người La Sát?

Phi Yến Đa La đáp:

- Nhất định là thế. Đất đai tệ quốc rộng bát ngát, nhân dân dưới quyền

thống trị cũng nhiều lắm.

Sách Ngạch Đồ nói:

- Trăm họ bên tệ quốc cũng gồm rất nhiều chủng tộc: Người Hán có, người

Mông có, người Mãn có, người Miêu có, người Hồi có, người Tạng có...

Phi Yến Đa La đáp:

- Chính thế! Nga La Tư là nước lớn. Trung Quốc cũng là nước lớn. Hai nước

chúng ta là nước lớn nhất trong những nước lớn.

Sách Ngạch Đồ nói:

- Chuyến này quý sứ đem đội vệ binh đi, dường như toàn là kỵ binh Kha Tát

Khắc?

Phi Yến Đa La mỉm cười đáp:

- Kỵ binh Kha Tát Khắc nổi tiếng anh hùng vô địch. Có thể họ là những dũng

sĩ lợi hại nhất thiên hạ.

Sách Ngạch Đồ hỏi:

- Kỵ binh Kha Tát Khắc còn lợi hại hơn cả người Nga La Tư nữa ư?

Phi Yến Đa La đáp:- Câu chuyện không phải như vậy. Người Kha Tát Khắc là trăm họ của nước La

Sát, người Nga La Tư cũng là trăm họ trong nước La Sát, chẳng có gì phân biệt. Tỷ

như người Mãn Châu cũng là bách tính của Trung Quốc, người Mông, người Hán...

cũng là bách tính của Trung Quốc, chẳng có gì phân biệt.

Sách Ngạch Đồ gật đầu nói:

- Thế thì phải rồi. Vì vậy mà thành Mạc Tư Khoa cũng là lãnh thổ của Trung

Quốc.

Vi Tiểu Bảo nghe hai người nói tới đây, còn chưa rõ chỗ dụng ý của Sách

Ngạch Đồ. Gã biết đích Mạc Tư Khoa cách đây xa hàng vạn dặm, quyết chẳng

phải lãnh thổ Trung Quốc, nhưng nghe lý thuyết của Sách Ngạch Đồ thì dường

như có chứng cứ. Còn Phi Yến Đa La trán nổi gân xanh, sắc mặt lúc xám lại, lúc

đỏ bừng. Hiển nhiên trong lòng hắn tức giận như phát điên, gã liền xen vào:

- Mạc Tư Khoa thuộc đất Trung Quốc là đúng lắm, tuyệt không sai lầm. Đức

Hoàng đế Trung Quốc khoan hồng đại lượng cho các vị mượn ở đã lâu. Bản sứ

tưởng bây giờ nên trả lại là phải, đừng bắt chước kiểu Lưu Bị tá Kinh Châu rồi

muốn chiếm cứ vĩnh viễn, chẳng bao giờ hoàn lại.

Dĩ nhiên Phi Yến Đa La chẳng hiểu tích Lưu Bị tá Kinh Châu ý nghĩa thế nào,

mà chỉ biết bọn Man tử Trung Quốc này không hiểu đạo lý, ăn nói hoàn toàn khác

hẳn người văn minh. Hắn cười lạt nói móc:

- Trước kia tệ nhân nghe nói đến lịch sử Trung Quốc và tưởng là người Trung

Quốc học vấn sâu rộng. Không ngờ... ha ha... toàn nói những chuyện mù tịt chẳng

có chứng cứ gì.

Sách Ngạch Đồ đáp:

- Quý sứ là một đại thần nước La Sát, dù chẳng có học vấn gì mấy, nhưng ít

ra cũng biết lịch sử nước La Sát chứ?

Phi Yến Đa La đáp:

- Lịch sử bên tệ quốc đều có sách vở chứng minh rõ ràng, quyết chẳng khi

nào căn cứ vào những lời loạn thuyết của kẻ bạ đâu nói đấy.

Sách Ngạch Đồ nói:- Thế thì hay lắm! Trước kia Trung Quốc có một vị Hoàng đế tên gọi Thành

Cát Tư Hãn...

Phi Yến Đa La vừa nghe đến bốn chữ Thành Cát Tư Hãn, bất giác la lên một

tiếng:

- ái chà!

Hắn than thầm:

- Hỏng bét, hỏng bét! Sao ta lại hồ đồ đến thế, quên khuấy cả việc lớn đó?

Sách Ngạch Đồ nói tiếp:

- Vị Thành Cát Tư Hãn này, bên Trung Quốc kêu bằng Nguyên Thái Tổ, vì ngài

là Hoàng đế dựng ra cơ nghiệp nhà Nguyên ở Trung Quốc. Ngài là người Mông

Cổ. Quý sứ vừa nói: Người Mãn Châu, người Mông Cổ hay người Hán đều là người

Trung Quốc chẳng có gì phân biệt.

Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Ngày ấy đạo kỵ binh Mông Cổ lên đường chinh Tây đã cùng quân La Sát

đánh mấy trận lớn. Lịch sử quý quốc có chép rõ ràng. Quyết chẳng phải loạn

thuyết của kẻ bạ đâu nói đấy. Không hiểu trong mấy trận đó người Trung Quốc

thắng hay người La Sát thắng?

Phi Yến Đa La lặng thinh, hồi lâu mới đáp:

- Người Mông Cổ thắng.

Sách Ngạch Đồ hỏi vặn:

- Người Mông Cổ có phải là người Trung Quốc không?

Phi Yến Đa La đành phải gật đầu.

Vi Tiểu Bảo hoàn toàn không hiểu ngày trước đã có vụ này. Gã vừa nghe nói

bất giác nở mặt nở mày, lên tiếng:

- Người Trung Quốc mà đánh với người La Sát thì người La Sát tất phải thất

bại không còn nghi ngờ gì nữa. Bản lĩnh của các vị còn kém một bậc. Lần sau có

đánh nhau, bên bản sứ chỉ dùng một tay đánh nhau cũng đủ. Nếu không thế thì lực

lượng hai bên chênh lệch nhau quá, cuộc chiến đấu chẳng còn thú vị nữa.Phi Yến Đa La tức quá trợn mắt lên nhìn, miệng lẩm bẩm:

- Nếu không phải Công chúa điện hạ ban nghiêm lệnh lần này chỉ cho hòa

chứ không cho đánh, thì gã buông lời nhục mạ người La Sát ta thế này, ta quyết

đấu với gã một phen.

Vi Tiểu Bảo cười ha hả hỏi Sách Ngạch Đồ:

- Sách đại ca! Ngày trước Thành Cát Tư Hãn đánh bại quân La Sát sự tích thế

nào? Đại ca kể lại nghe chơi.

Sách Ngạch Đồ đáp:

- Hồi đó Thành Cát Tư Hãn phái hai đội quân đi chinh Tây, mỗi đội một vạn

người, cộng là hai vạn nhân mã mà đánh cho mười mấy vạn quân La Sát phải thua

chạy thất điên bát đảo.

Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Sau đó bên xứ Mông Cổ của chúng ta lại sản xuất một vị đại anh hùng tên

gọi Bạt Đô, Bạt Đô thống lĩnh quân đội đánh binh tướng La Sát đến tơi bời hoa

lá chiếm tòa thành Cơ Phụ rất lớn của nước La Sát rồi chiếm thành Mạc Tư Khoa.

Thế vẫn chưa hết, quân ta còn tràn đến Ba Lan, Hung Gia Lợi, vượt sông Đa Não

Hà (Danube). Sau đó mấy trăm năm, vương công quý tộc người La Sát đều thích

nghe chuyện người Trung Quốc. Hồi ấy vị anh hùng Mông Cổ bên tệ quốc đóng

ở trong trướng bồng dát vàng. Đại Công tước ở Mạc Tư Khoa thường thường đến

dập đầu lạy người Trung Quốc. Người Trung Quốc muốn đá đít là đá đít, muốn tát

tai là tát tai. Người La Sát chỉ cười hề hề, lại reo hò "đánh hay quá!". Nếu không

thế thì chẳng thể làm đến tước Công.

Vi Tiểu Bảo nghe nói cặp lông mày dương lên như nhảy múa, gã không ngớt

vỗ bàn hô:

- Hay thật! Hay thật! Té ra thành Mạc Tư Khoa ngày trước quả thuộc về Trung

Quốc.

(Lời chú của tác giả: Đại tướng Mông Cổ là Bạt Đô tấn công vây hãm Mạc Tư

Khoa và Cơ Phụ vào năm 1238. Từ năm 1240 đến 1480, người Mông Cổ thống trị

nước Nga La Tư đất cát bao la trong hai trăm bốn mươi năm, đã dựng lên tòa "Kim

trướng Hãn Quốc".Trong pho Đại anh bách liệu toàn thư ở mục "Nga La Tư" có ghi chép: Những

vương tử phong Công tước ở thành Mạc Tư Khoa phải đến triều kiến Hoàng kim

trướng của Mông Cổ Khả Hãn tại thành Tát Lai ở cửa sông Phục Nhĩ Gia để tiếp

thụ phong hiệu. Bọn họ thường nhẫn nại chịu đựng những điều khổ nhục. Nhưng

sau khi làm lễ triều bái trở về Mạc Tư Khoa họ có thể thu thuế người Thát Đát và

lấn át những tiểu bang chư hầu lân cận.)

Phi Yến Đa La sắc mặt lúc xanh xám lúc trắng bợt.

Những điều thuật lại của Sách Ngạch Đồ theo đúng sử sách, quyết không giả

trá. Có điều người La Sát trước nay không nhận người Mông Cổ là người Trung

Quốc. Trong lúc nhất thời, Phi Yến Đa La không nhớ tới thành Mạc Tư Khoa trước

kia đã thuộc quyền thống trị của người Mông Cổ một quãng thời gian khá lâu. Hiện

nay Mông Cổ thuộc về Trung Quốc. Do đó mà suy luận thì bảo thành Mạc Tư

Khoa thuộc về Trung Quốc cũng không phải là lời nói hàm hồ.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hầu tước các hạ! Bản chức nhận thấy việc hoạch định biên giới chúng ta

bất tất phải đàm phán nữa. Xin các hạ trở về hỏi lại Công chúa bao giờ quý quốc

sẽ đem thành Mạc Tư Khoa và thành Cơ Phụ hoàn lại Trung Quốc. Bản sứ cũng

trở về Bắc Kinh lấy da bò và Hoàng kim để dựng Hoàng kim trướng bên bờ sông

Phục Nhĩ Gia chờ Tô Phi á Công chúa đến ngủ. Ha ha! Ha ha!

Phi Yến Đa La nghe tới đây không thể nhịn được nữa, hắn đứng phắt dậy

xông ra ngoài trướng.

Lại nghe hắn tức giận gầm lên như sấm và lớn tiếng quát tháo để truyền mệnh

lệnh.

Kế đó tiếng vó ngựa dồn dập vang lên. Mấy trăm con ngựa nhất tề xông tới.

Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi la lên:

- Trời ơi! Quân mao tặc muốn đánh nhau. Chúng ta phải trốn cho lẹ.

Đông Quốc Cương trải qua chiến trận đã nhiều, nét mặt vẫn bình tĩnh. Lão

nói:- Vi Công gia bất tất phải hoang mang. Chúng muốn đánh thì đánh. Chẳng lẽ

bọn ta lại sợ chúng sao?

Phía ngoài doanh trướng, hai trăm sáu chục tên kỵ binh Kha Tát Khắc hò reo

rầm trời.

Vi Tiểu Bảo sợ quá toàn thân run bần bật. Gã cúi đầu chui vào gầm bàn.

Đông Quốc Cương và Sách Ngạch Đồ ngơ ngác nhìn nhau, trong bụng cũng

hơi hoang mang.

Cửa trướng mở ra, một tướng rảo bước tiến vào. Chính là Hồng Triều thống

lĩnh đội quân đằng bài. Hồng Triều lớn tiếng hô:

- Khải bẩm đại soái!...

Nhưng hắn không nhìn thấy đại soái đâu.

Vi Tiểu Bảo nằm dưới gầm bàn lên tiếng:

- Ta... ta... ta ở đây. Anh em... mau mau trốn đi.

Hồng Triều cúi xuống gầm bàn nhìn Vi đại soái nói:

- Khải bẩm đại soái! Quân La Sát thanh thế hùng dũng. Chúng ta chẳng thể

khiếp nhược. Muốn làm con con mẹ nó thì làm.

Vi Tiểu Bảo nghe lời nói dũng cảm, liền trấn tĩnh tâm thần. Gã ở dưới gầm

bàn bò ra.

Vừa rồi sự việc xẩy đến đột ngột, gã hoang mang chui vào gầm bàn, nhưng

thực ra không phải gã khiếp đảm sợ chết.

Vi Tiểu Bảo vỗ ngực đáp:

- Phải lắm! Tổ bà nó muốn làm gì thì làm! Lão gia phải thân tiến sĩ tốt, dũng...

dũng...Dũng quản tam quân, nhưng gã quên mất.

Gã dắt tay Hồng Triều chạy ra ngoài trướng.

Hồi 239

TRIềU ĐìNH ĐạI Kế CHủ HòA BìNH

Vi Tiểu Bảo vừa ra đến cửa doanh trướng, liền ngó thấy hai trăm sáu mươi

tên kỵ binh Kha Tát Khắc trường đao tuốt trần, đưa lên cao. Chúng cưỡi

toàn tuấn mã bao vây trướng hồng đang diễu võ dương oai đi vòng quanh chạy

rất mau.

Phi Yến Đa La hạ lệnh một tiếng đoàn kỵ binh chạy ra xa. Chúng xếp thành

đội ngũ đứng ngoài hai trăm trượng. Cứ hai mươi sáu tên là một hàng. Cả trước sau

cộng thành mười hàng. Hàng ngũ rất chỉnh tề.

Đột nhiên chúng lớn tiếng reo hò lao rất mau về phía Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo la lên:

- Má ơi là má ơi!

Gã toan chạy vào trướng, nhưng lại nghĩ:

- Bọn quỷ La Sát đã muốn giết ta thì ta có vào trướng cũng bị chúng lôi ra

lại càng thêm nhục.

Mặt xám như tro tàn, người run bần bật, gã đứng yên không nhúc nhích.

Hồng Triều hô:

- Đằng bài thủ! Chuẩn bị bảo vệ đại soái! Tiến lên.

Hai trăm sáu mươi quân đằng bài đồng thanh hô:

- Tuân lệnh!

Rồi chúng rầm rộ chạy tới đứng ở phía trước Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần.

Vi Tiểu Bảo rút đao trủy thủ ở ống giầy ra tự nhủ:

- Nếu bọn quỷ La Sát thực sự nổi tính man rợ, tất xảy một trường chiến đấu

ác liệt, ta không thể phế bỏ điều nghĩa khí.

Gã liền mạnh dạn tiến ra đứng ở phía trước Sách Ngạch Đồ. Miệng gã hô:

- Sách đại ca đừng sợ. Đã có tiểu đệ bảo vệ cho đại ca.

Sách Ngạch Đồ là một văn quan, lão sợ quá chẳng còn hồn vía nào nữa, ấp

úng đáp:

- Tiểu huynh... hoàn toàn... trông cậy vào huynh đệ.

Mười hàng kỵ binh Kha Tát Khắc xông tới rất lẹ. Khi chúng còn cách đội quân

Thanh chừng năm sáu trượng thì tên đội trưởng đi trước vung trường đao chém dứ

một đòn. Hắn quát to một tiếng. Đoàn kỵ binh lập tức dừng ngựa. Hai trăm sáu

chục con tuấn mã đều dừng bước lại.

Tên đội trưởng lại hô một tiếng. Bọn kỵ binh rẽ ra chia làm hai toán. Một trăm

ba chục tên quay về phía Bắc, một trăm ba chục tên quay về hướng Nam.

Chúng chạy ra mấy chục trượng quây lại thành vòng tròn và đứng cách xa

trướng hồng ngoài hai trăm trượng. Đội ngũ vẫn tề chỉnh, không rối loạn chút nào.

Hai trăm sáu chục tên cưỡi hai trăm sáu mươi con ngựa đều răm rắp như một người

cưỡi một ngựa. Quả nhiên chúng đã được huấn luyện rất tinh thục.

Phi Yến Đa La nổi lên tràng cười khanh khách, lớn tiếng hỏi:

- Công tước đại nhân! Đại nhân coi đội quân La Sát bên tệ quốc thế nào?

Vi Tiểu Bảo bây giờ mới hiểu hắn bất quá muốn khoa trương quân đội để thị

uy. Trong lòng tức giận gã la lên:

- Đúng là một lũ khỉ làm trò, nếu đem dùng vào việc đánh trận thì toàn là đồ

vô dụng.

Phi Yến Đa La tức giận hô:

- Chúng ta lại xông vào!

Miệng hắn lẩm bẩm:

- Lần này thử coi gã có chạy trốn không?

Hắn hô tiếp:

- Hãy lột hết nón đội trên đầu binh sĩ Trung Quốc!

Đội trưởng trong đội kỵ binh Kha Tát Khắc lại hô hiệu lệnh. Hai trăm sáu mươi

tên quân kỵ liền xông vào.

Vi Tiểu Bảo quát:- Chém vào chân ngựa bọn chúng!

Hồng Triều hô:

- Xin tuân lệnh. Chặt chân ngựa, đừng giết người.

Tiếng vó ngựa rầm rầm như sấm nổ. Hai trăm sáu chục con ngựa chạy tới mỗi

lúc một gần. Những thanh trường đao dưới ánh mặt trời lấp loáng có ánh sáng.

Đoàn kỵ mã chỉ còn cách ba chục trượng... hai chục trượng... mười trượng...

vẫn chưa dừng bước.

Khi còn cách bốn, năm trượng, Hồng Triều hô:

- Cổn Đường đao! Tiến lên!

Hai trăm sáu chục tên đằng bài thủ nhảy vọt lại, lăn mình dưới đất xông vào.

Hai trăm sáu chục tên quân này đều do Lâm Hưng Châu thân hành rèn dậy

môn Địa Đường đao pháp rất thuần thục. Chúng dùng lá mộc bằng giây leo để hộ

vệ, không hở ra chút đao quang nào.

Quân kỵ binh Kha Tát Khắc đột nhiên thấy Thanh binh lăn mình dưới đất rất

lấy làm kinh dị.

Bọn thủ quân ở Nhã Tát Khắc đã nếm mùi đau khổ của bọn đằng bài thủ,

nhưng kẻ thì chết rồi, kẻ thì bị bắt. Cánh thủ quân hoàn toàn tan vỡ. Đội kỵ binh

Kha Tát Khắc này mới từ Mạc Tư Khoa hộ tống Phi Yến Đa La trong cuộc công du.

Trước nay chúng chưa được chứng kiến phép đánh trận của đằng bài binh, đều

cho là bên địch ngu xuẩn quá mới lăn mình dưới đất. Chúng có bị ngựa xéo chết

cũng không trách ai được.

Chỉ trong chớp mắt hàng đầu đội kỵ binh đã đụng phải quân đằng bài.

Đột nhiên tiếng ngựa thét vang, tới tấp ngã lăn ra.

Quân đằng bài vung lợi đao lên. Cứ mỗi đao là chém đứt một đôi chân ngựa.

Đã có đằng bài hộ thân, chúng lăn xả vào đâm chém.

Quân La Sát la ó vang trời pha lẫn với tiếng ngựa thét.

Đội đằng bài đã lăn vào tới hàng thứ mười bên địch và chém đứt một trăm

bảy, tám chục đôi chân ngựa rồi xếp hàng ở phía sau đội kỵ binh Kha Tát Khắc.Có đến quá phần nửa quân Kha Tát Khắc bị ngã xuống còn mấy chục tên liền

quay ngựa chạy trốn. Thế là đội quân tan vỡ.

Hồng Triều dẫn đội đằng bài binh chạy về thật mau đứng xếp hàng trước Vi

Tiểu Bảo. Toàn đội hai trăm sáu chục người chỉ có mười mấy người bị ngựa dẫm lên

hay đá bị thương, nhưng thương thế rất nhẹ. Chúng vẫn nhịn đau đớn và đứng

nguyên trong hàng ngũ.

Hai trăm sáu chục tên kỵ binh Kha Tát Khắc, một số bị ngựa đè lên, nằm dưới

đất rên rỉ kêu la, một số phóng ngựa chạy tán loạn ra tận đằng xa. Còn phần lớn

đứng xuống đất, chân tay luống cuống.

Bọn kỵ binh này suốt đời kỵ mã, có ngồi trên lưng ngựa mới phát huy được

tài kiêu dũng. Một khi hai chân đứng xuống đất là chẳng khác gì cá mất nước,

không còn chỗ nương tựa để vùng vẫy.

Vi Tiểu Bảo hô:

- Chia quân lấy phân nửa bao vây đại quan La Sát!

Hồng Triều truyền hiệu lệnh ra. Một trăm quân đằng bài liền kéo đến bao

vây bọn Phi Yến Đa La và bọn đại quan La Sát hơn chục người. Một trăm thanh

đại đao tổ hợp thành một vòng tròn đao. Mũi đao hướng vào phía trong. Chỉ cần

hô một tiếng hiệu lệnh là cả trăm thanh đại đao nhất tề phóng vào. Bọn Phi Yến

Đa La sẽ lập tức bị đâm nát ra như tương.

Mấy tên chánh phó đội trưởng đoàn kỵ binh Kha Tát Khắc thấy tình trạng này

vội chạy lại lớn tiếng la:

- Đừng có giết người! Đừng có giết người!

Vi Tiểu Bảo quay lại nhìn Song Nhi hiện cải trang làm thân binh , ra lệnh:

- Lại điểm huyệt chúng đi!

Song Nhi dạ một tiếng tung mình vọt tới sau lưng tên đội trưởng kỵ binh Kha

Tát Khắc, thị điểm huyệt vào huyệt đạo sau lưng hắn, rồi lại điểm huyệt tên phó

đội trưởng.

Một tên tiểu đội trưởng thò tay vào bọc rút súng lục ra quát:

- Không được nhúc nhích!Song Nhi chụp một tên quân La Sát đứng bên để che đỡ phía trước. Thị đẩy

gã tiến lên mấy bước.

Tên tiểu đội trưởng kia không dám nổ súng, lại la lên:

- Không được nhúc nhích!

Song Nhi chụp tên La Sát đó nhấc bổng lên liệng tới.

Tên tiểu đội trưởng giật mình kinh hãi nghiêng mình né tránh.

Song Nhi thừa cơ nhảy lại điểm vào những huyệt dạo trước ngực và sau lưng

gã rồi đoạt lấy khẩu súng lục trong tay đối phương. Thị trỏ súng lên trời bắn chỉ

thiên đánh •đoàng• một tiếng:

Vi Tiểu Bảo hô lớn:

- Hay lắm! Hai bên đã hứa không được đem theo hỏa khí. Bọn quỷ La Sát các

ngươi không kể gì đến chữ tín.

Gã tiến lại mấy bước nhìn Phi Yến Đa La nói:

- Này! Đại nhân bảo bọn thủ hạ liệng binh khí trong tay đi, xuống ngựa hết,

xếp thành hàng ngũ. Tên nào còn dắt hỏa khí trong mình phải lôi ra hết.

Phi Yến Đa La nhận thấy mình không thể nào kháng cự được đành nghe theo

lời Vi Tiểu Bảo truyền lệnh xuống.

Bọn kỵ binh Kha Tát Khắc đành liệng đao kiếm rồi xuống ngựa, xếp thành

đội ngũ.

Vi Tiểu Bảo lại sai một trăm sáu chục tên đằng bài thủ bao vây bốn mặt ra

sục tìm trong mình bọn quân La Sát.

Chúng lấy được hơn hai trăm tám chục khẩu súng lục vì trong đoàn kỵ binh

hai trăm sáu mươi người, nhưng một số đem theo hai khẩu.

Bọn quân La Sát ở dưới chân thành Ni Bố Sở ngó thấy tình thế xảy biến cố

liền từ từ tiến ra.

Mé Đông quân Thanh cũng lập tức tiến vào.

Hai bên cách nhau mấy trăm bước thì dừng lại dàn trận đối lập.Đoàn quân La Sát thấy chủ soái bị vây đành ngấm ngầm kêu khổ, không dám

tự động.

Vi Tiểu Bảo hỏi Phi Yến Đa La:

- Hầu tước đại nhân! Đại nhân cho đem nhiều hỏa khí đến làm gì vậy?

Phi Yến Đa La cúi đầu đáp:

- Xin lỗi Công tước đại nhân! Bọn vệ binh thủ hạ của tệ nhân không theo

mệnh lệnh, ngầm đeo hỏa khí. Tệ nhân sẽ trọng phạt bọn chúng.

Vi Tiểu Bảo hô:

- Đằng bài thủ! Các ngươi cởi hết y phục ra để họ coi có ngầm dấu hỏa khí

không?

Hai trăm sáu chục tên đằng bài thủ bỏ lá mộc xuống. Tay mặt giơ đại đao lên

cao để đề phòng đối phương hành động bất trắc. Chúng dùng tay trái để cởi áo.

Mọi người cởi áo rồi, mình trần trùng trục, nhảy lên mấy cái. Quả nhiên không

một ai đeo súng.

Phi Yến Đa La trong lòng hổ thẹn, cúi đầu xuống không dám nói gì.

Vi Tiểu Bảo lại lớn tiếng:

- Bọn người La Sát mặt dầy không thủ tín, chẳng thể tin được. Lột quần áo

bọn chúng ra khám kỹ lại xem có còn hỏa khí không?

Phi Yến Đa La kinh hãi vội nói:

- Công tước đại nhân! Xin đại nhân rộng ơn cho. Đại nhân... đại nhân... mà lột

quần tệ nhân, thì tệ nhân... đành chịu tự sát...

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Cái gì thì được, còn việc cởi quần thì không thể khoan miễn.

Phi Yến Đa La năn nỉ:

- Xin đại nhân khoan thứ cho một lần. Nhất thiết mọi điều gì khác, tệ nhân

đều xin tuân theo ý kiến của đại nhân.

Vi Tiểu Bảo hỏi:- Vừa rồi đội kỵ binh của Hầu tước đại nhân xông lại làm cho bản sứ khiếp

quá phải chui vào gầm bàn, như thế còn chi là thể diện của Công tước đại nhân?

Vụ này Hầu tước đại nhân tính sao đây?

Phi Yến Đa La mắng thầm:

- Cái đó tự ngươi nhát gan, ta biết làm thế nào?

Nhưng ngoài miệng hắn đáp:

Tệ nhân xin nguyện ý bồi thường những sự tổn thất của đại nhân.

Vi Tiểu Bảo trong lòng hoan hỷ nghĩ thầm

Đến lúc làm tiền được rồi đây.

Nhưng trong lúc nhất thời gã nghĩ không ra bắt đối phương bồi thường bằng

cách nào, liền hạ lệnh:

- Hãy cắt đai quần từ đại quan cho đến tiểu binh La Sát.

Bọn đằng bài thủ hô lớn:

- Xin tuân lệnh!

Chúng giơ đao lên thò vào sau lưng bọn người La Sát, quay lưỡi ra ngoài

kéo một cái. Lập tức đai lưng bị đứt liền.

Bọn người La Sát từ Phi Yến Đa La trở xuống chẳng một ai là không sợ hết

hồn, hai tay giữ chặt cạp quần chỉ sợ tụt mất.

Vi Tiểu Bảo nổi lên tràng cười khanh khách ra lệnh:

- áp giải bọn người La Sát, nổi hiệu đắc thắng đưa về doanh trướng.

Lúc này quan binh La Sát ai cũng chỉ lo tụt quần, tuyệt không dám kháng cự,

riu ríu theo bọn Thanh binh giữ nguyên đội ngũ đi về phía Đông.

Đông Quốc Cương cười nói:

- Trí kế của Vi đại soái quả là thần diệu. Ai cũng phải khâm phục. Chỉ trong

khoảnh khắc mà •Cột• được hai tay của hết thảy ba trăm quan binh La Sát.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:- Bọn nam nhân La Sát sợ nhất là bị tụt quần. Trái lại, bọn nữ nhân không

ngán vụ đó. Thế có lạ không?

Bọn Đông Quốc Cương híp mắt lại mà cười một cách mê ly.

Đoàn người và đại quân hội họp rồi, đoàn quân Thanh đẩy hơn hai trăm cỗ

súng lớn ra, bỏ áo súng đi, miệng súng chĩa về phía quân La Sát.

Thời bấy giờ tuy hỏa khí nước La Sát đã lợi hại lắm, nhưng ở phía Đông cũng

không đem đến nhiều bằng Vua Khang Hy đã chuẩn bị cho một cuộc đại chiến.

Có đến phân nửa súng ống được điều động cho trận tuyến Ni Bố Sở. Bất luận về

binh lực hay hỏa khí bên quân Thanh cũng nhiều hơn gấp mấy lần.

Cánh quân La Sát đột nhiên ngó thấy rất nhiều súng lớn, đều ngơ ngác nhìn

nhau, lộ vẻ cực kỳ khiếp sợ.

Các tướng thống lĩnh quân đội vội truyền lệnh đóng cổng thành lại. Nhưng

quân Thanh cũng không đánh thành.

Lúc này đội trưởng, phó đội trưởng và một tên tiểu đội trưởng đoàn kỵ binh

Kha Tát Khắc đã bị Song Nhi điểm huyệt không nhúc nhích được. Ba tên này đứng

ở chỗ đất trống coi chẳng khác gì nhưng pho tượng gỗ.

Các binh tướng La Sát hối hả chạy vào thành, chưa kịp lưu tâm đến. Bây giờ

đứng trên mặt thành nó thấy đều lấy làm kinh dị, nhưng chẳng ai dám chạy ra cứu

viện.

Sau chừng nửa giờ họ thấy ba người vẫn đứng trơ không nhúc nhích, một đội

kỵ binh Kha Tát Khắc mở cửa thành đến cứu.

Nhưng đội kỵ binh này mới đi được hơn mười trượng, bỗng nghe quân Thanh

nổ mấy phát súng lớn.

Tướng thủ thành vội nổi hiệu lui quân. Đội kỵ binh Kha Tát Khắc lại lật đật

quay về. Chúng sợ quân Thanh kéo đến thì cả đội quân đi cứu viện cũng bị vây

hãm.

Quân hai bên cách nhau đến mấy trượng. ở đằng xa ngó thấy ba người đứng

không nhúc nhích, tư thế rất quái dị rất lấy làm kỳ, bỗng nghe quân Thanh nổi lên

tràng cười ho hố, hết thảy La Sát binh càng kinh hãi hơn.Vi Tiểu Bảo đưa bọn Phi Yến Đa La vào trong doanh trướng.

Chủ khách an tọa rồi, bọn thân binh bưng trà ra mời.

Vi Tiểu Bảo chỉ cười hì hì chứ không nói gì.

Phi Yến Đa La tức giận lên tiếng:

- Công tước đại nhân! Đại nhân đừng đem tệ nhân ra làm trò cười nữa. Đại

nhân muốn giết thì giết quách đi cho rồi!

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Bản sứ cùng Hầu tước đại nhân là chỗ bạn hữu, sao lại giết nhau được? Bây

giờ chúng ta lại bàn đến chuyện phân chia cương giới.

Gã cho là lúc này các đại thần bên đối phương đã lọt vào tay mình thì bất

luận mình đưa ra điều khoản gì, họ cũng khó lòng chống lại.

Không ngờ Phi Yến Đa La là một quân nhân xuất thân bản tính rất quật

cường. Hắn ngang nhiên đáp:

- Tệ nhân là tù binh của đại nhân, không còn là sứ thần ngang hàng để thương

nghị việc hoạch định cương giới nữa. Tệ nhân đã ở dưới sự uy hiếp của đại nhân

thì điều khoản gì cũng không thể đàm phán được. Dù đàm phán thành tựu, kiềm

chữ rồi, cũng coi là vô hiệu.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Sao lại vô hiệu?

Phi Yến Đa La đáp:

- Nhất thiết mọi điều khoản đều do đại nhân định đoạt thì còn đàm phán cái

gì? Đại nhân không thể bức bách tệ nhân đàm phán được?

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Sao lại không bức bách đại nhân đàm phán được?

Phi Yến Đa La đáp:

- Nói tóm lại là tệ nhân không chịu khuất phục. Đại nhân vung đao chém hay

nổ súng bắn chết tệ nhân thì cứ việc động thủ đi!Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Nếu bản sứ kêu người lột trần Hầu tước thì sao?

Phi Yến Đa La tức giận đến cùng cực, đứng phắt dậy quát:

- Ngươi...

Hắn vừa nói được tiếng ngươi, đột nhiên quần tụt xuống, vội đưa tay nắm lấy.

Nguyên đai quần hắn đã bị đứt. Lúc ngồi trên ghế, không cần để tay giữ cạp

quần. Trong cơn thịnh nộ, hắn đứng phắt dậy, quên mất vụ này. May mà hắn còn

cứu vãn kịp thời, chưa đến nỗi hở hang làm cho xấu mặt.

Các đại quan và bọn tùy tùng bên Thanh ở trong trướng không sao nhịn

được đều nổi lên tràng cười rộ.

Phi Yến Đa La tức giận đến sắc mặt lợt lạt mà hai tay vẫn phải nắm giữ cạp

quần, bộ dạng coi rất tức tưởi.

Hắn toan đưa ra những lời khích ngang khẳng khái một phen cho bõ tức. Khốn

nỗi hai tay còn bận việc, không thể chỉ trỏ vung múa cho thêm uy thế. Hắn muốn

hiên ngang cũng chỉ đến được hạn độ nào mà thôi.

Phi Yến Đa La hắng giọng mấy tiếng, ngồi xuống nói:

- Ta là Khâm sứ của Sa Hoàng bệ hạ nước La Sát, ngươi không làm nhục ta

được. Bậc đại trượng phu thà chết chứ không chịu nhục.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Hầu tước đại nhân cứ yên lòng. Bản sứ không làm nhục đâu. Chúng ta hãy

hòa hảo mở lại cuộc đàm phán phân chia cương giới.

Phi Yến Đa La móc túi lấy khăn bịt cửa miệng buộc quanh ra sau gáy để tỏ ý

không lên tiếng về cuộc hòa đàm.

Vi Tiểu Bảo sai thân binh đem rượu ngon nhắm tốt bày lên bàn. Gã rót rượu

ra chung, cười nói:

- Mời đại nhân! Đại nhân bất tất phải khách sáo.

Phi Yến Đa La ngửi thấy mùi rượu thơm ngát không nhịn được, cởi khăn tay,

nâng chung lên uống.Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Hầu tước đại nhân lại dùng đến miệng ư?

Phi Yến Đa La uống rượu ăn thịt, vẫn không trả lời, tỏ ra dùng miệng để ăn

uống chứ không để nói.

Vi Tiểu Bảo tiếp tục khuyên mời. Gã nghĩ bụng cho hắn uống say hoặc giả

làm cho hắn phải khuất phục.

Không ngờ Phi Yến Đa La uống mười mấy chung rồi, cầm khăn lau miệng xong

bịt lại buộc chằng ra sau như trước.

Vi Tiểu Bảo thấy tình trạng này không khỏi bật cười. Gã sai thân binh dẫn

hắn vào hậu trướng nằm nghỉ và ra lệnh canh giữ nghiêm mật.

Vi Tiểu Bảo cùng bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương ngồi lại bàn cách

đối phó.

Đông Quốc Cương nói:

- Thằng cha này quật cường như vậy, hắn kiên quyết không chịu cùng chúng

ta mở cuộc hòa đàm mà chịu tha hắn về thì thật chẳng cam tâm chút nào.

Sách Ngạch Đồ hiến kế:

- Hãy giam giữ hắn mươi ngày hay nửa tháng, mỗi bữa làm thịt mấy tên quỷ La

Sát trước mặt hắn, thử xem hắn có quật cường mãi không?

Đông Quốc Cương đáp:

- Nếu chúng ta bức bách quá, hắn tự tử thì thật rầy rà! Chúng ta dùng võ lực

bắt đại thần của đối phương ép việc nghị hòa, không chừng Hoàng thượng còn gia

tội bọn mình nữa.

Sách Ngạch Đồ gật đầu nói:

- Đông Công gia nói thế là phải. Mình cứ một mực dùng cương cũng không

được.

Các đại thần thương nghị hồi lâu vẫn chưa tìm ra diệu sách.Bữa nay bắt được Phi Yến Đa La tuy là một phen thắng trận, nhưng không

hợp với chủ ý của Vua Khang Hy trong cuộc mưu hòa, mà còn phản bội đại kế của

triều đình. Nếu không khéo xử lý sẽ phạm vào trọng tội vi chỉ.

Sau các đại thần đều khuyên Vi Tiểu Bảo nên buông tha Phi Yến Đa La.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Được rồi! Chúng ta hãy giữ hắn lại một đêm, sáng mai sẽ thả về cũng chưa

muộn.

Gã vào tẩm trướng bước lui rồi lại bước tới để suy nghĩ kế hoạch, đột nhiên

gã lẩm bẩm:

- Bữa trước ta đã theo bài học của Gia Cát Lượng phóng hỏa đốt hang Bàn

Xà và đại thắng ở Nhã Tát Khắc. Nay ta lại học Chu Du chơi Tưởng Cán ở Hội

Quần Anh.

Gã tính toán hồi lâu sắp đặt kế hoạch rồi trở ra quân trướng.

Vi Tiểu Bảo truyền thân binh đi mời vị giáo sĩ Hà Lan tới để dặn dò mật kế.

Gã lại sai người kêu Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào trướng khẽ dặn làm như

thế, như thế...

Gã còn gọi bốn tướng và đội trưởng đội thân binh vào bảo làm như vậy như

vậy...

Mọi người lãnh mạng lui ra.

Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nắc Phu tuy biết vụ này cực kỳ ngoắt ngoéo, nhưng

ngó thấy bốn tên thân binh tay cầm đại đao lăm lăm đứng ở phía sau dĩ nhiên

chúng chỉ còn cách vâng dạ luôn miệng, không dám phản bội.

Phi Yến Đa La nằm nghỉ trên giường trong hậu trướng, những luồng tư tưởng

nổi lên như sóng cồn. Lúc thì kinh hãi, lúc lại hối hả, hắn trằn trọc không sao ngủ

được.

Bỗng nghe tiếng ngáy như sấm ở ngoài cửa trướng. Ba tên lính canh đều là

thân binh ngủ say cả rồi.

Phi Yến Đa La nghĩ bụng:- Ta đã lọt vào tay bọn Man tử Trung Quốc mà không chịu những điều khoản

của chúng đưa ra, tất khó bề thoát thân. Sáng mai tên tiểu quỷ kia không chừng

nổi nóng vung đao chém giết mình, há chẳng oan uổng ru? May mà trời còn

thương: Ba tên quân canh ngủ cả rồi. Chi bằng ta mạo hiểm trốn đi.

Hắn liền rón rén ngồi dậy, cởi sợi dây da đeo trên vai xuống để thắt lưng

cho khỏi tụt quần.

Phi Yến Đa La cất bước nhẹ nhàng lần về phía cửa trướng, vẫn thấy ba tên

thân binh tựa vào cột trướng ngủ say. Hắn vươn tay ra sau lưng một tên thân binh

định rút lấy thanh bội đao. Ngón tay hắn sắp đụng vào đốc đao thì đột nhiên tên

thân binh này ngáp dài một cái.

Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi, vội rụt tay về.

Sau một lúc, hắn không thấy động tĩnh gì, lại toan cử động rút bội đao của

tên thân binh khác.

Giữa lúc ấy tên thân binh kia vươn vai một cái, miệng nói mấy câu mơ ngủ.

Phi Yến Đa La không dám chần chừ, rón rén bước ra cửa trướng, mừng thầm

ba tên thân binh đều không phát giác.

Phi Yến Đa La ra ngoài trướng rồi, đứng thu mình trong bóng tối.

Bỗng thấy bên ngoài có bọn vệ binh tay cầm đèn lồng, tay cầm đơn đao đi

tuần tiễu.

Phi Yến Đa La đảo mắt nhìn quanh thấy ba mặt Bắc, Đông, Nam đều có quân

lính đi tuần, chỉ một mặt Tây là tối mò, dường như không người. Hắn liền từ từ cất

bước tiến về phía đó. Mỗi khi thấy đội quân tuần phòng tới gần, hắn lại co mình

đứng nép vào sau trướng bồng. May mà dọc đường đi về phía Tây, hắn được bình

yên vô sự.

Phi Yến Đa La vừa đến phía sau tòa đại trướng, đột nhiên mé Tây có đội

tuần tiễu đi tới, hắn vội ẩn vào sau trướng.

Phi Yến Đa La đột nhiên vẳng nghe trong trướng có người nói chuyện mà nói

bằng tiếng La Sát.

Hồi 240

PHÂN CƯƠNG GIớI TRUNG HOA THắNG LợI

Bỗng thấy người kia nói:

- Công tước đại nhân quyết ý dẫn binh đến đánh Mạc Tư Khoa tuy

chẳng phải là việc không thể làm được, có điều đường sá xa xôi cực kỳ nguy

hiểm?

Phi Yến Đa La nghe đến câu "Công tước đại nhân quyết ý dẫn binh đến

đánh Mạc Tư Khoa". Bất giác giật mình kinh hãi, liền cúi rạp xuống, vạch chân

trướng bồng ra dòm vào.

Hắn không ngó còn khá, vừa ngó vào đã trống ngực đánh hơn trống làng.

Trong trướng đèn lửa sáng hơn ban ngày.

Vi Tiểu Bảo toàn thân mặc nhung trang ngồi ở chính giữa. Hai bên mười mấy

đại tướng thị lập.

Phía dưới mấy chục tên thân binh tay cầm đại đao sáng loáng.

Người vừa nói chính là giáo sĩ Hà Lan đứng cạnh bàn Vi Tiểu Bảo.

Lại nghe Vi Tiểu Bảo lên tiếng:

- Chúng ta giả vờ ở đây cùng Khâm sai đại thần nước La Sát thương nghị

hoạch định cương giới. Cuộc hòa đàm kéo dài một tháng, hai tháng, rồi hơn nữa và

thủy chung vẫn không đi tới kết quả. Đại quân ngấm ngầm nhổ trại nhắm phía Tây

trực chỉ. Sa Hoàng và Nhiếp Chính Nữ Vương nước La Sát thỉnh thoảng lại nhận

được báo cáo đưa về phúc trình nói công cuộc nghị hòa đang tiếp tục tiến hành

dĩ nhiên họ không nghi ngờ và không phòng bị. Đại quân Trung Quốc kéo đến

chân thành Mạc Tư Khoa tấn công một cách đột ngột là có thể bắt được hai tên

Sa Hoàng và Tô Phi á Công chúa. Vụ này há chẳng là một công lao rất lớn?

Giáo sĩ Hà Lan đáp:

- Tệ nhân chẳng hiểu gì về việc hành quân đánh trận. Có điều một mặt nghị

hòa với người La Sát, lại một mặt dẫn binh đến đánh lén kinh thành của họ thì ra

không đếm xỉa gì đến tín nghĩa hay sao. Đạo lý của đức Thượng đế giáo huấn

người đời không được lừa gạt cũng không được nói dối.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Ha ha! Đây là người La Sát không thủ tín trước. Hai bên đã giao hẹn khi hội

nghị vệ binh không được đem theo hỏa khí. Thế mà bọn họ mỗi người đều ngấm

ngầm dắt súng trong mình. Chúng lừa gạt người được chẳng lẽ bọn ta không lừa

gạt lại chúng hay sao? Cái đó kêu bằng ăn miếng trả miếng, chứ không phải man

trá.

Giáo sĩ Hà Lan đằng hắng một tiếng, hồi lâu mới nói:

- Tệ nhân khuyên Công tước đại nhân không nên mở cuốc chiến trinh là hơn,

vì hai nước giao tranh sẽ gây chết chóc cho con dân hai nước, tức là con dân của

Thượng đế...

Vi Tiểu Bảo xua tay lia lịa đáp:

- Giả tỷ Phi Yến Đa La chịu đàm phán một cách công bằng nhường cho Trung

Quốc chiếm thêm một chút thổ địa thì cuộc hòa đàm đã đem lại kết quả rồi.

Nhưng hắn không chịu nhường một tấc đất. Chúng ta hãy khởi binh đánh chiếm Mạc

Tư Khoa, thử xem bọn người La Sát còn nói được gì nữa không?

Phi Yến Đa La càng nghe càng bở vía la thầm:

- Lạy đức Thượng đế! Bọn Man tử Trung Quốc này hành động vô pháp vô

thiên lớn mật làm càn...

Lại nghe Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Bữa nay ta chỉ phái một tên thân binh đụng đầu ngón tay vào mình ba tên

đội trưởng Kha Tát Khắc mà cho đến bây giờ chúng vẫn không nhúc nhích được.

Giáo sĩ có trông thấy không?

Giáo sĩ hỏi lại:

- Tệ nhân trông thấy rồi. Đó là ma thuật gì mà kỳ lạ vậy?

Vi Tiểu Bảo đáp:- Thứ ma thuật này ở Trung Quốc nguyên được Thành Cát Tư Hãn truyền cho

từ trước.

Gã hắng giọng nói tiếp:

- Thành Cát Tư Hãn đã dùng pháp thuật đó đánh người La Sát khiến họ chỉ

còn đường quỳ xuống đầu hàng. Nay bọn ta lại theo phương pháp cũ của Thành

Cát Tư Hãn để đánh nước La Sát, nhất định có thể chinh phục được.

Phi Yến Đa La bụng bảo dạ:

- Ngày trước người Mông Cổ chỉ có hai vạn nhân mã mà đánh tới Ba Lan, Hung

Gia Lợi, khắp thiên hạ không ai cản nổi, thì ra chúng đã dùng ma thuật. Người

phương Đông thật cổ quái! Bọn họ mà dùng pháp thuật thì... thì làm thế nào?

Lại nghe giáo sĩ nói:

- Nếu bọn người La Sát nổ súng từ đằng xa thì ma thuật của các vị sẽ thành

vô dụng.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Vì thế mà bọn ta phải giả vờ tiếp tục cuộc đàm phán ở đây, còn quân đội

kéo đến đánh lén Mạc Tư Khoa.

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Bản sứ đã đến Mạc Tư Khoa. Trong thành này rất nhiều người Thát Đát.

Binh sĩ của chúng ta đã hóa trang làm bọn người mục súc Thát Đát để trà trộn

vào thành, tất bọn quân canh La Sát không phát giác được.

Phi Yến Đa La nghe tới đây sau lưng ướt đẫm mồ hôi. Hắn nghĩ thầm:

- Tên tiểu quỷ Trung Quốc này mà dùng độc kế đó thì thật là nguy hại! Quân

Trung Quốc hóa trang làm bọn mục súc Thát Đát trà trộn vào thành bên ta để thi

triển ma thuật thì làm sao chống lại được?

Hắn không hiểu Song Nhi đã dùng thủ thuật điểm huyệt ba tên đội trưởng

Kha Tát Khắc.Điểm huyệt là một công phu rất cao thâm về võ học. Nội công phải luyện

đến trình độ thượng thừa mới sử dụng được. Trong mấy vạn quân Thanh chỉ một

mình thị học được công phu điểm huyệt.

Phi Yến Đa La lại tưởng môn ma thuật này hễ có người truyền thụ là ai cũng

phát huy được. Nếu chỉ đụng một ngón tay đủ làm cho đối phương hết nhúc nhích

thì mấy vạn quân Trung Quốc dùng cách này đến công tập Mạc Tư Khoa e rằng

có thể đưa người La Sát vào đường vong quốc diệt chủng.

Lại nghe giáo sĩ nói:

- Công tước đại nhân phái hai vạn quân Trung Quốc trà trộn vào thành Mạc

Tư Khoa, lại dùng ma thuật của Thành Cát Tư Hãn kiềm chế bọn thủ quân La Sát thì

việc bắt hai vị Sa Hoàng cùng Nhiếp Chính Nữ Vương quả có thể thành công

được. Nhưng... nhưng vụ này cần phải giữ cực kỳ cơ mật. Khi đại quân tiến về phía

Tây đừng để bọn người La Sát hay biết.

Giáo sĩ hạ thấp giọng xuống nói tiếp:

- Công tước đại nhân! Hiện nay nước La Sát đã cực kỳ lớn mạnh, so với hồi

Thành Cát Tư Hãn tiến đánh ngày trước khác nhau một trời một vực.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bản sứ đã tới Mạc Tư Khoa, tình hình nước La Sát thế nào ta đều hiểu rõ

hết. Sáng mai bọn ta thả Phi Yến Đa La về rồi cùng hắn mở cuộc đàm phán nhưng

dằng co cho thật lắm chuyện, thủy chung không chấm dứt được. Cuộc đàm phán ở

đây kéo dài một bữa là đại quân Trung Quốc tiến gần Mạc Tư Khoa thêm một

ngày đường.

Giáo sĩ nói:

- Đúng thế! Đại nhân nhất thiết nên thận trọng. Vụ này thật nguy hiểm vô

cùng!

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bản sứ biết lắm. Giáo sĩ cũng đừng môi hở răng lạnh để tiết lộ phong

thanh, nhất là phải giữ gìn ý tứ, chớ để Phi Yến Đa La sinh lòng ngờ vực.

Giáo sĩ vâng lệnh lui ra.Vi Tiểu Bảo lại hạ lệnh:

- Truyền cho Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu vào đây!

Một tên thân binh chạy ra ngoài trướng dẫn Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc

Phu vào.

Vi Tiểu Bảo nhìn hai người nói:

- Sáng sớm mai ta phái hai đội nhân mã đến Mạc Tư Khoa để đưa lễ vật rất

trọng hậu tặng cho Tô Phi á Công chúa. Vì đường sá xa xôi lại lắm trộm cướp nên

phải phái nhiều quan binh bảo vệ lễ vật, đề phòng chuyện bất trắc có thể xảy

ra.

Hoa Bá Tư Cơ đáp:

- Từ đây tới Mạc Tư Khoa chỉ có số ít cường đạo là bọn người Thát Đát,

chẳng lấy gì làm nguy hiểm cho lắm. Xin Công tước đại nhân cứ yên tâm.

Vi Tiểu Bảo mắng liền:

- Ngươi thì còn biết gì mà nói? Những bọn cường đạo Thát Đát thường thường

đến tám, chín nghìn người một toán, có khi lên tới mấy vạn không chừng.

Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu đưa mắt nhìn nhau ra vẻ không tin.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Ta phái hai đại đội nhân mã chia hai ngả đường Nam Bắc tiến đến Mạc Tư

Khoa, Vương Bát Tử Kê làm hướng đạo cánh quân mặt Bắc, Trư La Nọa Phu làm

hướng đạo cánh quân ngả Nam. Hai nẻo đường này đi qua những đâu để tới kinh

thành nước La Sát?

Hoa Bá Tư Cơ đáp:

- Nẻo đường mặt Nam lúc bắt đầu cũng vậy, tức là đi tới hồ Bối Gia Nhĩ rồi

rẽ về phía Tây Nam, qua một địa phương đông người cư trú kêu bằng Hợp Tát

Khắc. Từ đó cứ nhằm phía Tây trực chỉ, qua áo Nhĩ Tư Khắc, Ô Lạp Nhĩ Tư Khắc là

tới Mạc Tư Khoa.

Vi Tiểu Bảo gật đầu nói:- Phải rồi! Cứ như vậy mà tiến. Lễ vật cùng thư tín của ta sẽ do sứ giả Trung

Quốc đưa tới Công chúa. Hai người chỉ phụ trách việc dẫn đường mà thôi. Dẫn

đường tử tế thì ta sẽ trọng thưởng, dẫn đường sai trật thì vị tướng quân Trung

Quốc dẫn binh đi sẽ chặt đầu các ngươi. Công việc là như vậy, các ngươi hãy lui

ra!

Hai tên đội trưởng La Sát lui ra rồi, Vi Tiểu Bảo cầm lệnh tiễn màu vàng để

phát hiệu lệnh. Những đại tướng Trung Quốc khom lưng đón lấy lệnh tiễn.

Phi Yến Đa La ẩn mình trong bóng tối không hiểu Vi Tiểu Bảo nói những gì,

chỉ thấy bọn đại tướng Trung Quốc tiếp lệnh tiễn rồi đều lộ vẻ khẳng khái hiên

ngang, vỗ ngực vung quyền, trỏ trời vạch đất, tỏ ra cả quyết với chủ sóai làm cho

nên việc.

Lại có người đưa tay lên làm hiệu chém cổ mình, kẻ thì rút trủy thủ làm hiệu

đâm vào ngực. Miệng chúng không ngớt nói đến Mạc Tư Khoa.

Dĩ nhiên Phi Yến Đa La đoán ngay là bọn tướng Trung Quốc thề nguyền với

chủ tướng nếu họ không hạ được Mạc Tư Khoa sẽ xin tự sát cho nghiêm quân

lệnh.

Phi Yến Đa La lại nghe Vi Tiểu Bảo nói lý la lý lố một hồi. Kế đó bốn tên

thân binh lấy một tấm địa đồ lớn giải ra ở trên bàn hướng về Phi Yến Đa La.

Lại thấy Vi Tiểu Bảo trỏ tay vào chỗ thành Ni Bố Sở, di động ngón tay theo

đường vạch đỏ đưa về phía Tây cho tới chỗ khuyên tròn đỏ. Phi Yến Đa La tuy

không hiểu văn Trung Quốc nhưng coi phương vị cũng biết chỗ khuyên tròn đó là

thành Mạc Tư Khoa.

Vi Tiểu Bảo nói một hồi, lại trỏ tay vào con đường vạch đỏ khác cũng đưa

tới Mạc Tư Khoa.

Phi Yến Đa La bụng bảo dạ:

- Bọn Man tử Trung Quốc này thật là khả ố! Té ra chúng đã lập tâm và chuẩn

bị đánh Mạc Tư Khoa.

Vi Tiểu Bảo nói một hồi nữa, thỉnh thoảng gã đưa tên Phi Yến Đa La vào câu

chuyện.Các tướng nghe đến tên Phi Yến Đa La lại nổi lên tràng cười ha hả.

Phi Yến Đa La nghĩ thầm:

- Bọn chúng đang cười ta là ngốc dại. Chúng đưa việc đàm phán hoạch định

cương giới chỉ là trò lừa gạt để kéo dài thời gian đặng ngấm ngầm đưa quân đến

đánh lén Mạc Tư Khoa. Hừ! Ta không mắc bẫy bọn ngươi đâu.

Phi Yến Đa La nghĩ tới đây, từ từ đứng lên, bụng bảo dạ:

- Nhờ đức Thượng đế bảo hộ khiến ta phát giác ra ngụy kế trọng đại của

bọn Man tử Trung Quốc. Vụ này chứng tỏ đức Thượng đế quyến cố đến nước La

Sát, nhất định quốc vận đang hưng thịnh. Sáng mai bọn chúng sẽ tha ta về, vậy

đêm nay bất tất phải mạo hiểm trốn đi nữa.

Hắn thấy mé Tây quân tuần tiễu đi lại không ngớt. Còn mặt Đông một màu tối

đen tựa hồ không người. Hắn liền len lén đi qua phía đó để về chỗ ngủ. Hắn mừng

thầm không bị Thanh binh phát giác.

Phi Yến Đa La tới ngoài trướng vẫn thấy ba tên vệ binh canh gác đang say

sưa ngủ liền tiến vào nằm ngủ.

Sáng sớm hôm sau, vệ binh đưa đồ ăn sáng rất phong thịnh vào.

Phi Yến Đa La ăn xong thì thấy người của Vi Tiểu Bảo phái đến mời. Hắn

theo vệ binh tới trung quân trướng.

Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Hầu tước đại nhân đêm qua ngủ ngon chứ?

Phi Yến Đa La đặng hắng một tiến đáp:

- Tệ nhân được vệ binh của Công tước đại nhân bảo vệ rất chu đáo nên ngủ

yên lắm.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi:

- Bữa nay Hầu tước đại nhân hết bực mình rồi chứ? Chúng ta trở lại cuộc đàm

phán phân chia cương giới nên chăng?

Phi Yến Đa La không đáp. Hắn lấy khăn tay buộc miệng lại.

Vi Tiểu Bảo tức giận quát:- Ngươi vẫn quật cường thế này, ta phải giết ngươi lập tức.

Phi Yến Đa La tuyệt không sợ hãi chi hết, bụng bảo dạ:

- Gã đã nhất định bữa nay tha ta. Bây giờ gã giả bộ làm oai làm phước, ta

đâu có sợ?

Vi Tiểu Bảo nổi nóng một hồi, thấy Phi Yến Đa La thủy chung không chịu

khuất phục, chẳng biết làm thế nào đành đổi giọng:

- Hay lắm! Hầu tước đại nhân quả là người dũng cảm! Bản sứ rất lấy làm khâm

phục.

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Bây giờ bản sứ thả Hầu tước về. Chuyến này Hầu tước đã phải một phen

tân khổ, vậy Hầu tước hãy nghỉ ngơi mươi bữa rồi chúng ta sẽ thương nghị phân

chia cương giới.

Phi Yến Đa La nghĩ thầm:

- Gã cố tình kéo dài cuộc đàm phán. E rằng hiện giờ gã đã xuất phát quân

đội lên đường đánh lén Mạc Tư Khoa. Phen này nhất quyết ta không chịu mắc lừa

gã.

Hắn tính vậy liền đáp:

- Công tước đại nhân tha về, tệ nhân xin đa tạ. Để tỏ lòng thành thật của

chúng ta, tệ nhân đề nghị chúng ta mở cuộc đàm phán ngay chiều hôm nay, hà tất

phải đợi mười ngày nữa?

Vi Tiểu Bảo nói:

- Vụ này không nên gấp rút. Chúng ta cứ nghỉ ngơi cho khỏe rồi thủng thẳng

hãy đàm phán cũng không muộn.

Phi Yến Đa La đáp:

- Quân thượng hai nước đều mong cuộc đàm phán sớm thành tựu. Chúng ta

hãy phê kiềm điều ước hoạch định cương giới rồi hãy nghỉ ngơi hay hơn.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Thế cũng được. Vậy sau năm ngày Hầu tước sẽ trở lại đàm phán.Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:

- Không nên chần chừ nữa, chúng ta đàm phán ngay bữa nay.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Làm chi mà vội thế? Ba ngày nữa sẽ hội họp được không?

Phi Yến Đa La đáp:

- Không được. Xin đàm phán ngay bữa nay.

Vi Tiểu Bảo lại lằng nhằng bảo hắn hãy nghỉ hôm nay, để đến mai sẽ bàn,

nhưng hắn nhất định đòi khởi sự ngay buổi chiều.

Vi Tiểu Bảo làm bộ bất đắc dĩ, thở dài nói:

- Hầu tước đã kiên quyết như vậy, bản sứ đành nhượng bộ. Nhưng bản sứ

cảnh cáo Hầu tước trước là cuộc đàm phán phân chia địa giới này, bản sứ nhất

quyết không chịu nhượng bộ. Chắc chúng ta phải đi đến chỗ mặc cả từng thước

từng tấc đất.

Phi Yến Đa La lẩm bẩm:

- Hoạch định cương giới tranh dành từng tấc đất khó lòng đi đến chỗ thỏa

hiệp để bọn ngươi đủ thì giờ kéo quân đến đánh Mạc Tư Khoa chứ gì? Ngươi

tưởng ta ngốc đến thế ư?

Hắn đứng lên nói:

- Tệ nhân xin cáo từ. Đa tạ Công tước đại nhân đã cho ăn uống.

Vi Tiểu Bảo đưa Phi Yến Đa La ra cửa trướng, lại phái một đội đằng bài thủ

hộ tống hắn về thành Ni Bố Sở. Còn hơn hai trăm kỵ binh Kha Tát Khắc vẫn bị giữ

lại chưa được buông tha.

Phi Yến Đa La ra khỏi quân trướng thấy chỗ dựng quân doanh hôm trước nay

đã trống không. Đại đội Thanh quân nhổ trại kéo đi hết rồi. Hắn ngấm ngầm kinh

hãi nghĩ thầm:

- Bọn Man tử Trung Quốc nói làm là làm, quả thật lợi hại!

Đoàn người đến chỗ đàm phán hôm qua thấy ba tên đội trưởng Kha Tát Khắc

vẫn đứng trơ ra đó, tư thế giống hệt hôm trước.Một tên quan quân nhỏ bé bên Thanh vọt tới trước mặt ba tên đội trưởng

kia niệm chú rồi hô lớn:

- Thành Cát Tư Hãn! Thành Cát Tư Hãn!

Đoạn y tiến lại vỗ vào mình ba người mấy cái.

Ba tên đội trưởng liền từ từ cử động được. Nhưng chúng đứng đã nửa ngày

và một đêm, mỏi mệt quá chừng, hai chân tê chồn, phải ngồi phệt xuống đất.

Sáu tên quân đằng bài lại nâng đỡ chúng dậy và dắt đi mấy chục trượng rồi

ba tên đội trưởng mới tự động cất bước được.

Phi Yến Đa La lại càng kinh hãi nghĩ bụng:

- Ma thuật của Thành Cát Tư Hãn truyền lại cho bọn chúng lợi hại phi thường!

Trách nào ngày trước đội quân của Thành Cát Tư Hãn tung hoành thiên hạ không

ai địch nổi. May mà hiện nay đã phát minh hỏa khí, khiến địch nhân chẳng thể tới

gần được, không thì bọn dị giáo đồ Trung Quốc lại toan thống trị toàn thế giới,

mà bọn chính giáo chúng ta tin tưởng đức Thượng đế đều biến thành nô lệ của

họ.

Bọn đằng bài thủ bên Thanh hộ tống Phi Yến Đa La đến trước cửa Đông

thành Ni Bố Sở mới quay trở lại.

Phi Yến Đa La hỏi lại ba tên đội trưởng Kha Tát Khắc về tình hình trúng phải

ma thuật. CHúng đều nói là lúc đó bỗng cảm thấy sau lưng đau nhói lên một cái

rồi lập tức toàn thân không nhúc nhích được.

Phi Yến Đa La lại hỏi:

- Các ngươi có đeo thánh giá trong mình không?

Ba tên đội trưởng cởi vạt áo để lộ cây thập tự giá đeo ở cổ.

Phi Yến Đa La chau mày nghĩ bụng:

- Ma pháp của Thành Cát Tư Hãn thật là ghê gớm! Cả thập tự giá của Thượng

đế cũng không trừ được tà thuật.

Hắn liền viết ba bản tấu phái mười lăm tên quân kỵ chia ba ngả cấp tốc về

Mạc Tư Khoa để báo tin quân đội Trung Quốc đã xuất phát lên đường tập kích.Chúng hóa trang làm bọn mục súc Thát Đát để trà trộn vào kinh thành, cần phải

phòng thủ nghiêm mật.

Vào khoảng giữa trưa, ba bọn đưa tin lục tục trở về thành nói là các nẻo

đường đi về phía Tây đều bị quân Trung Quốc ngăn chặn. Chúng thấy kỵ binh La

Sát còn ở đằng xa đã bắn tên lại, không thể đi qua được.

Phi Yến Đa La trong lòng vừa buồn bã vừa nóng nảy, bụng bảo dạ:

- Bây giờ chỉ còn cách cùng bọn Man tử Trung Quốc lập điều ước phân chia

cương giới thật lẹ. Chúng ký điều ước rồi mới chịu triệt binh quay về.

Giờ mùi hôm ấy, Phi Yến Đa La cùng hơn mười viên tùy viên đến trướng

bồng là nơi hội nghị hai nước. Lần này hắn không đem một tên kỵ binh Kha Tát

Khắc nào đi theo để tỏ ra chẳng có ý gì khác. Vả lại dù đem vệ đội đi theo mà

không chống lại được ma thuật của Thành Cát Tư Hãn thì chẳng ích gì.

Phi Yến Đa La học vấn uyên bác, kiến thức sâu rộng, làm việc mẫn cán. Hắn

vốn không phải là người dễ lừa bịp, nhưng lòng người La Sát khiếp sợ Thành Cát

Tư Hãn đã thành thâm căn cố đế. Thuật điểm huyệt của Song Nhi lại cực kỳ tinh

diệu, chính mắt Phi Yến Đa La đã trông thấy thì còn không tin thế nào được?

Phi Yến Đa La đến trướng bồng trước. Lát sau bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch

Đồ, Đông Quốc Cương cùng các đại thần bên Thanh cũng lục tục kéo đến.

Vi Tiểu Bảo thấy đối phương không đem vệ đội, cũng ra lệnh cho bọn đằng

bài thủ rút lui.

Hai bên ngồi vào bàn hội nghị chỉ nói mấy câu khách sáo, tuyệt không nhắc

tới những chuyện hôm trước.

Phi Yến Đa La lập tức xin đi vào việc thương nghị phân chia cương giới. Hắn

chỉ mong cuộc đàm phán thành tựu mau chóng, nên điều gì cũng chịu nhượng bộ,

thái độ khác hẳn bữa trước.

Vi Tiểu Bảo cười thầm trong bụng, biết là mưu kế "Chu Du Quần Anh hội hý

Tưởng Cán" của mình đã thành công. Gã chẳng hiểu gì về việc hoạch định cương

giới. Vụ này do Sách Ngạch Đồ chủ trương và giáo sĩ phiên dịch những điều

khoản thương nghị với đối phương.Sách Ngạch Đồ và Phi Yến Đa La lấy một tấm địa đồ lớn trải lên bàn.

Sách Ngạch Đồ trỏ ngón tay vào không ngớt đưa lên phía Bắc.

Phi Yến Đa La chau mày đưa ngón tay từng chút một lui về phía Bắc tỏ ra

chịu nhượng bộ.

Theo ngón tay trỏ trên địa đò chỉ lui một tấc là cả trăm dặm đất đai thuộc

về lãnh thổ Trung Quốc.

Vi Tiểu Bảo coi hai bên vừa trỏ vừa nói một hồi lâu phát ngán, liền qua bàn

bên cạnh ngồi riêng một mình rồi sai thị vệ lấy kẹo bánh cho mình điểm tâm.

Phi Yến Đa La đã quyết tâm thoái nhượng, nhưng Sách Ngạch Đồ vẫn e dè

tựu trung xảy ra biến cố, nên cũng không dám làm quá.

Văn tự trong điều ước rất nghiêm cẩn, không để chỗ nào sơ hở.

Giáo sĩ hai bên nhất nhất dịch thành chữ La Tinh.

Hai bên bàn lui bàn tới cũng mất rất nhiều thì giờ. Đến chiều ngày thứ ba mới

lập xong điều ước Ni Bố Sở. Sáu điều khoản toàn bộ được hai bên thỏa thuận.

Vi Tiểu Bảo nghe Sách Ngạch Đồ và Đông Quốc Cương giải thuyết, biết là

nội dung điều ước đem thắng lợi cho Trung Quốc rất nhiều. Giải đất cắt về Trung

Quốc rất rộng, so với chỉ dụ của Vua Khang Hy, cương giới đi xa hơn nhiều.

Điều ước lập thành bốn bản. Một bản Trung Quốc văn, một bản La Sát văn

và hai bản La Tinh văn.

Trong điều ước lại nói rõ nếu văn tự có chỗ nào không hợp thì dùng bản La

Tinh văn làm chuẩn đích.

Mực mài thật đặc, bút dằm rất kỹ để cung thỉnh Khâm sai đại thần Trung

Quốc kiềm tự.

Vi Tiểu Bảo nhận thức được ba chữ tên mình, nhưng cũng có lúc chữ

"Chương" nhận lầm là chữ "Vi", chữ "Mại" tưởng là chữ "Bảo", vì những chữ này

nhiều nét, gã nhớ phảng phất chứ không biết viết. Chỉ khi nào ba chữ đi liền nhau

gã mới khỏi nhận lầm.Nếu bảo gã viết thì chỉ có chữ "Tiểu" là gã miễn cưỡng đối phó được. Còn

chữ "Vi" ở trên và chữ "Bảo" ở dưới, gã chẳng tài nào viết thành chữ.

Gã vốn mặt dày, ít khi hổi thẹn mà lúc này cũng mặt đỏ như son. Mặt gã đỏ

không phải vì giận ai, cũng chẳng phải say rượu, mà là gã thẹn thùng.

Sách Ngạch Đồ là tri kỷ của Vi Tiểu Bảo đã biết rõ gã không đọc sách, liền

tìm lời chống chế:

- Những loại giấy má về hợp đồng, chỉ cần kiềm bút tích là được. Vi đại nhân

ngoáy một chữ "Tiểu" cũng là kiềm tự rồi.

Hồi 241

MAO THậP BáT CÔNG KHAI THóA Mạ

Vi Tiểu Bảo nghe Sách Ngạch Đồ nói vậy cả mừng nghĩ bụng:

- Tưởng gì chứ viết chữ "Tiểu" thì lão gia coi như trò đùa.

Gã liền cầm bút khuyên bên trái một vòng tròn, lại khuyên bên phải một

vòng tròn. Sau cùng mới vạch một đường thẳng vào giữa.

Sách Ngạch Đồ mỉm cười nói:

- Được rồi! Vi đại nhân viết hay quá!

Vi Tiểu Bảo ngoẹo đầu ngắm nghía chữ "Tiểu" một lúc rồi ngửa mặt lên trời

cười rộ.

Sách Ngạch Đồ lấy làm kỳ hỏi:

- Vi đại soái cười gì vậy?

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Sách đại nhân coi chữ này có giống một con chim sẻ và hai quả trứng

không?

Các đại thần bên Thanh không nhịn được nổi lên tràng cười khanh khách. Cả

bọn tùy tùng cùng thân binh cũng bưng miệng phì cười.

Phi Yến Đà La chẳng hiểu bọn họ cười gì, chỉ dương mắt lên mà nhìn.

Vi Tiểu Bảo kiềm tự vào cả bốn bản điều ước. Trên bản bằng La Sát văn gã

vạch chữ lớn gấp bội.

Tiếp theo bọn Phi Yến Đà La, Sách Ngạch Đồ và các phó sứ bên Nga đều

kiềm tự.

Bản điều ước thứ nhất giữa hai nước Trung- Nga thế là hoàn thành. Nó cũng là

bản điều ước đầu tiên Trung Quốc ký kết với nước ngoài.

Vụ này do Vua Khang Hy trù liệu kế hoạch rất chu đáo lại xuất toàn lực để

thực hành, cùng phái những nhân viên rất đắc lực dựng lên điều ước phân chia

cương giới và gọi tắt là điều ước Ni Bố Sở. Trung Quốc không bị thua thiệt chút

nào.

Điều ước Ni Bố Sở quy định dùng ngọn Hưng An ở mặt bắc làm bờ cõi. Thế

là toàn bộ tỉnh A Mục Nhĩ và tỉnh Tân Hải của Liên Xô thuộc vào lãnh thổ Trung

Quốc. Phương Đông và phương Đông Nam lãnh thổ Trung Quốc ra đến tận biển.

Trước cuộc hòa đàm khu vực này không thuộc vào nước nào. Chỗ Trung Quốc

chiếm lấy đó cũng không phải đất La Sát, nhưng nước La Sát đã đắp thành, thực

dân.

Sau khi kiềm đính hiệp ước bọn thực dân bắt buộc phải rút về. Đó là thắng

lợi về quân sự cũng như về ngoại giao của Trung Quốc.

Theo điều ước thì một diện tích đất gần tám chục dặm vuông Anh được sát

nhập vào Trung Quốc, tức là một phần đất lớn gấp đôi mấy tỉnh miền Đông Bắc

hiện nay.

Điều ước này lập xong còn khiến cho biên giới phía Đông Bắc Trung Quốc

được an ninh hơn một trăm năm chục năm rồi. Cuộc đông xâm của người La Sát bị

cản trở, dã tâm xâm lược cũng giảm bớt.

Sau các triều đại Khang Hy, Ung Chính, Càn Long nhà Mãn Thanh ký điều ước

với nước ngoài đều bị thất quyền mất đất. Hùng phong cùng uy quyền quốc gia

về sau chẳng còn thời kỳ nào được hưng thịnh bằng hồi vua Khang Hy trị vì và Vi

Tiểu Bảo tham dự quốc chính.

(Lời tác giả:

Chữ kiềm của Vi Tiểu Bảo trên điều ước rất cổ quái không nhận ra được.

Những sử gia đời sau của hai nước Trung- Nga chỉ biết Sách Ngạch Đồ và Phi Yến

Đa La kiềm thư.

Nhà khảo cổ Quách Mạc Nhược hiểu biết Giáp cốt văn tự cũng không hiểu

chữ "Tiểu" kiềm trên điều ước Ni Bố Sở, khiến đại danh của Vi Tiểu Bảo phải mai

một. Những sử sách đời sau đều nói những nhân vật kiềm tự điều ước Ni Bố Sở là

Sách Ngạch Đồ và Phi Yến Đà La.

Từ cổ chí kim, những người biết đến Vi Tiểu Bảo chỉ có độc giả "Lộc Đỉnh

Ký" mà thôi. Pho sách này thuật lại việc kiểm đính và nội dung điều ước Ni Bố Sở,trừ phần liên quan đến Vi Tiểu Bảo để bổ sung chỗ thiếu sót, còn ngoài ra đều

căn cứ vào lịch sử để ghi chép.

Theo tập quán thời bấy giờ, hai bên kiềm ký điều ước rồi đồng thời nổ súng

tuyên thệ với trời tuân thủ nghiêm minh.

Bên Thanh có hơn hai trăm cỗ đại pháo đặt ở ngoại thành Ni Bố Sở. Cả bốn

mặt Đông Nam Tây Bắc đồng thời phát xạ. Súng nổ chấn động một vùng.

Bên Nga chỉ có hơn mười cỗ, tiếng súng thưa thớt. Thế cường nhược chênh

lệch nhau không biết đến đâu mà kẻ.)

Phi Yến Đà La tự nhủ:

- May quá! Nếu hòa nghị bất thành, xẩy cuộc đánh nhau thì thành Ni Bố Sở bị

bắn đến tan tành.

Sứ thần hai nước đều đưa tặng lễ vật cho nhau.

Phi Yến Đà La tặng bọn Vi Tiểu Bảo đồng hồ, thiên lý kính, ngân khí, áo da

điêu, đao kiếm...

Vi Tiểu Bảo tặng đối phương lừa ngựa, yên cương, chén vàng, quần áo, lụa là.

Ngoài ra, mỗi người còn được một cái đai lưng dát vàng để bồi thường lại đai quần

bị quân Thanh cắt đứt.

Tối hôm ấy tại hội sở mở đại yến khánh hạ hòa ước thành công.

Phi Yến Đà La vẫn băn khoăn lo lắng, không hiểu những toán quân Thanh kéo

đi công tập Mạc Tư Khoa đã triệu hồi chưa. Hắn không ngớt đưa ra ngôn ngữ thăm

dò, nhưng Vi Tiểu Bảo vẫn lờ đi như không hiểu.

Sau hai bữa, Phi Yến Đà La được tin báo có đại đội quân Thanh từ mé Tây

kéo đến, hắn lên mặt thành dùng Thiên lý kính nhìn ra xa, quả thấy từng đội Thanh

binh từ mặt Tây đi tới, qua sông Ni Bố Sở đóng lại ở phía Đông.

Phi Yến Đà La cả mừng. Hắn yên trí đây là những toán Thanh binh định đi Tây

xâm đã được triệu hồi.

Hắn có biết đâu đại đội quân Thanh này nguyên trước hạ trại đóng ở ngoài

hai trăm dặm về phía tây thành Ni Bố Sở. Họ đã được lệnh từ trước, nếu nghe

tiếng súng lớn nổ liền nhổ trại từ từ kéo về.Lại qua mấy bữa, thợ đá dựng bia trên biên giới. Văn tự trong bia điêu khắc

rất hoàn chỉnh gồm năm thứ chữ là: Mãn văn, Hán văn, Mông văn, La Tinh văn và La

Sát văn.

Những tấm bia cương giới chia ra dựng ở đông ngạn sông Cách Nhĩ Tất Tề,

nam ngạn sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp, cùng các nơi Đông Bắc dãy núi Uy Y Khắc A

Lâm Đại Sơn.

Trong văn bia viết rõ hai nước dùng sông Cách Nhĩ Tất Tề làm biên giới.

Thượng lưu sông này có khu đất cỏ cây không mọc được tên gọi là Đại Hưng

An ra đến biển. Bao nhiêu sông ngòi ở phía Nam núi này chảy vào sông Hắc Long

Giang đều thuộc về Trung Quốc. Những sông ngòi phía Bắc dãy núi đều thuộc

nước Nga La Tư.

Trong bia còn ghi rõ:

- Sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp chảy vào Hắc Long Giang dùng làm địa giới. Nam

ngạn sông này thuộc về Trung Quốc, Bắc ngạn thuộc về Nga La Tư. ở cửa sông Mi

Nặc Nhĩ Khánh thuộc Nam ngạn có nhà cửa của người Nga La Tư phải rời qua Bắc

ngạn.

Văn bia còn viết rõ:

- Nhân dân Nga La Tư cùng mọi sự vật ở Nhã Tát Khắc phải triệt thoái về Sát

Hãn Hàn.

Văn bia lại nói rõ:

- Những nhà săn bắn cấm hẳn không được vượt qua biên giới. Nếu có người

tụ tập đem theo khí giới săn bắn giết người cướp của mà bắt được là chính pháp

liền, không thể vì những chuyện nhỏ nhặt làm hư đại sự. Hai nước Trung- Nga hòa

hiếu với nhau, đừng để xảy cuộc tranh chấp.

Khâm sai hai nước lại phái bộ thuộc khám xét địa hình không còn chỗ nào lầm

lẫn, mới dựng bia lên.

Những chỗ dựng bia này đáng lý để phân cương giới giữa hai nước muôn năm

không thay đổi, nhưng hơn trăm năm sau, nước Nga thừa cơ Trung Quốc suy nhược,tầm gửi lấn cành, không kể gì đến chuyện phân cương giới ngày trước, thôn tính

một vùng đất rộng rất phì nhiêu của Trung Quốc.

Những người đọc sử về sau phải chép miệng thở dài mà than rằng:

- ¦ớc gì được vua Khang Hy và Vi Tiểu Bảo ở dưới âm cung sống lại để khôi

phục cố thổ của nhà nước bị bọn người La Sát lang sói chiếm đoạt.

Dựng bia xong rồi, khâm sai hai nước thi lễ từ biệt, chia đường trở về kinh

thành phục mạng.

Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tử Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào kiểm nhận lễ vật để

đưa về trình Tô Phi á Công chúa. Trong món lễ này có cả chăn gấm gối thêu.

Nơi đây là đất hoang vu, không thể mua được những vật đó, đều lấy của

Song Nhi.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Nếu Công chúa thực sự tưởng nhớ ta thì cứ ôm chăn gối này mà ngủ.

Hoa Bá Tử Cơ đáp:

Tình ý của Công chúa điện hạ đối với đại nhân các hạ khác nào thiên trường

địa cửu mà chăn gối chẳng được bao lâu sẽ rách nát. Xin đại nhân phái mấy tên kỹ

sư qua Mạc Tư Khoa xây mấy tòa thạch kiều thì vĩnh viễn không bao giờ hư nát

được.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Ta đã nghĩ đến điểm này rồi, hai người bất tất phải lắm miệng.

Gã sai thân binh khiêng một cái rương vào. Cái rương này dài bảy thước,

rộng bốn thước giống hệt một cỗ quan tài. Tám tên thân binh dùng đòn khiêng

tới, tỏ ra rất trầm trọng.Ngoài rương đóng đai sắt rất thận trọng lại niêm phong

kiềm dấu.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Món lễ vật này rất quan trọng chứ không phải tầm thường. Các ngươi bảo

vệ cho cẩn thận đừng để tổn hại. Công chúa trông thấy rồi nhất định vô cùnghoan hỷ, vì đây là món nhân tình vĩnh viễn như thiên trường địa cửu. Nó cũng bền

vững chẳng kém gì những cầu đá ở Trung Quốc.

Hai tên đội trưởng La Sát không dám hỏi nhiều, lãnh rương gỗ ra đi.

Cái rương gỗ này nặng tới ngàn cân mà đưa từ Ni Bố Sở về đến Mạc Tư Khoa

đường xa muôn dặm thật là vất vả.

Tô Phi á nhận được rương mở coi thì ra một pho thạch tượng khỏa thân của

Vi Tiểu Bảo. Pho tượng lộ nụ cười rất linh động như người sống.

Nguyên Vi Tiểu Bảo lúc kêu thợ đá khắc bia, đồng thời sai họ suốt đêm ngày

tạc thành pho tượng này. Gã lại nhờ giáo sĩ Hà Lan viết câu •Ta vĩnh viễn yêu

nàng• bằng tiếng La Sát, để khắc vào trước ngực tượng đá.

Tô Phi á Công chúa vừa ngó thấy thật là dở cười dở khóc. Nàng nghĩ tới tiểu

hài ở Trung Quốc cực kỳ cổ quái tinh ma, bọn nam tử La Sát không thể bì kịp. Bất

giác nàng nẩy mối tình ý triền miên, tâm thần bay xa muôn dặm.

Pho tượng đá này cất ở điện Cẩm Linh. Sau Bỉ Đắc đại đế phát động cuộc

chính biến, đuổi Tô Phi á Công chúa ra khỏi cung vị, đồng thời đập tan nát pho

tượng đá. Chỉ còn bộ phận tàn hủy được binh sĩ đem ra bỏ ở ngoài thành.

Bọn phụ nữ dốt nát ở nước La Sát thường hay đến lạy lục để cầu sinh con

đẻ cái và người ta đồn đại là rất linh nghiệm.

Nhắc lại Vi Tiểu Bảo mở cờ gióng trống khải hoàn trở về Bắc Kinh. Tình hình

kiểm đính hòa ước chia biên giới đã có bản tâu gửi về từ trước dâng lên vua

Khang Hy.

Đại quân chưa về tới ngoài thành Bắc Kinh, các đại thần trong triều đã chờ

sẵn ở cửa thành để nghênh tiếp.

Vi Tiểu Bảo dẫn bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân, Tát Bố

Tố, Lang Thản, Lâm Hưng Châu vào triều kiến vua Khang Hy.

Nhà vua dùng lời lẽ ôn nhu khen thưởng, lại hạ chiếu thăng chức cho Vi Tiểu

Bảo làm Nhất đẳng Lộc Đỉnh Công.

Bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ cùng tướng sĩ quan quân đều được

thăng thưởng.Vi Tiểu Bảo nhơn nhơn đắc ý ra khỏi Hoàng cung. Các quan tiền hô hậu ủng

đưa gã về phủ.

Bỗng nghe bên đường phố lớn có tiếng người hô:

- Vi Tiểu Bảo! Ngươi là một tên cẩu tặc vong ân bội nghĩa!

Đoàn người nghe tiếng kêu réo thóa mạ đều giật mình kinh hãi.

Vi Tiểu Bảo nghe thanh âm quen thuộc ngoảnh đầu nhìn ra thấy một gã đại

hán từ trong thềm nhà chạy xuống đường lớn trỏ tay vào mặt gã, ngoác miệng chửi

bới:

- Vi Tiểu Bảo! Mi là một tên tiểu tặc đáng tội ngàn đao phân thây. Đường

đường là người Hán, mi lại đi đầu hàng nhà Mãn Thanh, làm tẩu cẩu cho quân Thát

Đát. Mi làm cho sư phụ của mi phải uổng mạng, lại sát hại bao nhiêu hảo huynh đệ.

Nay mi được Hoàng đế Thát Đát phong đến công hầu, vinh hoa phú quý, mi càng

nhơn nhơn đắc ý! Tổ bà nó! Lão gia phải dùng gươm trắng đao hồng đâm con mẹ

nó tên tiểu tặc mấy chục nhát, thử xem mi còn làm Ô Quy Công, Giáp Ngư Công

được nữa không?

Đại hán này mình trần trùng trục, ngực đầy lông lá đen sì, mày rậm mắt to,

thái độ rất hung dữ. Hắn chính là Mao Thập Bát, ngày trước đã dẫn dắt Vi Tiểu

Bảo đến Bắc Kinh.

Vi Tiểu Bảo còn đang ngơ ngác thì mấy chục tên thân binh đã bao vây đại

hán.

Mao Thập Bát rút thanh đoản đao ở trong mình ra toan chống cự.

Mấy vị Đô thống, Đề đốc cùng võ tướng nhất tề động thủ đoạt lấy đoản

đao ở trong tay Mao Thập Bát rồi vật hắn ra trói lại.

Mao Thập Bát tiếp tục mắng chửi không ngớt miệng:

- Tên tiểu tặc Vi Tiểu Bảo kia! Ngày trước lão gia đưa mi tới Bắc Kinh thật là

lầm to, thật là tội lỗi! Lão gia đã mang tội với Trần Cận Nam Tổng đà chúa, lại ân

hận với các anh hùng hảo hán trong Thiên Địa Hội. Bữa nay lão gia không muốn

sống nữa, vạch mặt chỉ tên cho thiên hạ biết Vi Tiểu Bảo nhà mi là đứa cẩu tặcbán bạn cầu vinh, vong ơn phụ nghĩa, chỉ mong thăng quan phát tài, cam phận nô

tài làm chó săn cho Hoàng đế Thát Đát.

Các quan binh vả miệng mà hắn vẫn thóa mạ không ngớt.

Tiếp đó, một tên võ quan rút khăn tay nhét vào miệng Mao Thập Bát.

Mao Thập Bát không nói lên thành tiếng được, miệng vẫn ú ớ chắc là hắn còn

chửi bới.

Sách Ngạch Đồ cười hỏi:

- Không hiểu thằng khùng này ở đâu nhảy bổ ra? Vi Công gia giao cho Sách

mỗ đem hắn về phủ Thuận Thiên mở cuộc thẩm vấn. Chúng ta hãy bỏ mặc hắn

không lý gì đến, kéo về quý phủ uống rượu nghe hát đã.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Tiểu đệ đang định mời Sách huynh cùng các vị đến tệ

phủ chơi.

Gã khẽ dặn thân binh:

- Các ngươi đưa hắn về phủ coi giữ cẩn thận, nhưng đừng làm khó dễ gì hắn

cả. Hãy lấy rượu thịt cho hắn uống. Lát nữa ta sẽ thân hành thẩm vấn.

Hôm ấy, trong phủ Lộc Đỉnh Công mở yến tiệc lớn thết đãi văn võ bá quan.

Các quan viên theo đi đánh Nhã Tát Khắc và dự cuộc hòa đàm Ni Bố Sở

mồm năm miệng mười, nói phun bọt rãi thuật lại những sự đã qua: Nào Vi đại soái

thần cơ diệu toán không sót mảy may. Nào ra kỳ mưa hạ thành Nhã Tát Khắc. Nào

dùng kế •Chu Du - Quần Anh hội hý Tưởng Cán• khiến cho khâm sai La Sát sợ

mất mật không dám ho he gì nữa, chỉ mong được kiềm điều ước phân chia cương

giới cho lẹ.

Trong khi thuật sự, dĩ nhiên họ còn thêm mắm thêm muối cho câu chuyện trở

nên thần hồ kỳ thần. Họ ví Vi Tiểu Bảo khác nào Gia Cát Lượng phục sinh, Lưu Bá

Ôn tái thế.

Bá quan cũng tuôn ra những lời nịnh nọt chẳng thiếu câu gì. Nhưng sự thực,

trong thâm tâm họ cũng công nhận Vi Công gia sở dĩ được Hoàng thượng sủng áiquả có chân tài. Trước kia họ vẫn coi gã không vào đâu thì nay đã nẩy lòng kính

trọng.

Tan tiệc, Vi Tiểu Bảo vào thư phòng lại bày rượu thịt mời Mao Thập Bát làm

lễ tương kiến. Gã sợ hắn nổi tính thô bạo, liền bảo Tô Thuyên và Song Nhi ăn

mặc giả làm kẻ thân tùy đứng bên thị phụng.

Thân binh giải Mao Thập Bát vào.

Vi Tiểu Bảo niềm nở đứng dậy nghinh tiếp, miệng chào:

- Mao đại ca! Lâu nay không được gặp. Đại ca bình yên chứ?

Mao Thập Bát tức giận trợn mắt lên hỏi:

- Ta làm sao mà không bình yên? Từ ngày ta quen biết tên tiểu tặc rất đỗi

bực mình! Nguyên trước ta bình yên rồi sau biến thành không yên tâm được nữa.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Mao đại ca hãy thủng thẳng ngồi chơi để tiểu đệ kính mới ba chung rượu

cho hả hơi đã. Tiểu đệ có chỗ nào đắc tội với Mao đại ca thì đại ca uống rượu

rồi hãy thóa mạ cũng chưa muộn.

Mao Thập Bát sấn sổ bước lại quát:

- Ta đánh chết mi trước rồi hãy uống rượu.

Hắn giơ nắm tay lớn bằng cái bát đánh nhằm vào mặt Vi Tiểu Bảo đến •vù•

một tiếng.

Tô Thuyên lặng mình một cái chụp lấy cổ tay Mao Thập Bát, khẽ vặn một

vòng. Tay mặt mụ vỗ vai hắn hai cái.

Mao Thập Bát liền cảm thấy nửa người trên tê chồn, không tự chủ được nữa

phải ngồi xuống ghế.

Hắn vừa kinh hãi vừa tức giận, vận kình nhẩy bổ lên thóa mạ:

- Tiểu tặc!...

Tô Thuyên đứng ở sau lưng hắn, đưa tay nắm lấy hai huyệt kiên trinh ở bả vai

hắn rồi từ từ đè xuống.Mao Thập Bát không kháng cự được chút nào, đành chịu ngồi xuống ghế.

Mao Thập Bát thân thể cao lớn, ít ra gấp hai người Tô Thuyên, nhưng võ công

mụ rất cao thâm nên kiềm chế hắn một cách dễ dàng.

Mao Thập Bát khác nào người bị cột chân tay đành riu ríu ngồi xuống.

Mao Thập Bát lại càng tức giận, lớn tiếng:

Bữa nay lão gia đã thóa mạ mi là Hán gian ngoài đường phố thì không tính

đến chuyện sống chết nữa rồi, còn mi hết thẩy người thiên hạ đều biết là một đứa

đê hèn vô sỉ giết thầy, lừa bạn...

Vi Tiểu Bảo cãi:

- Mao đại ca! Tiểu đệ vâng lệnh Hoàng thượng đi đối phó với quỉ La Sát chứ

không phải để sát hại người Hán chúng ta, sao lại bảo là Hán gian được?

Mao Thập Bát quát hỏi:

- Thế thì sao mi... lại sát hại sư phụ Trần Cận Nam?

Vi Tiểu Bảo vội đáp:

- Tiểu đệ sát hại gia sư bao giờ? Hiển nhiên gia sư bị tên tiểu tử Trịnh Khắc

Sảng giết chết.

Mao Thập Bát nói:

- Bây giờ mi còn cãi được ư? Con mẹ nó! Trong thánh chỉ của Hoàng đế nói

quá rõ rồi!

Vi Tiểu Bảo thất kinh hỏi:

- Sao?... Trong thánh chỉ của Hoàng thượng sao lại bảo tiểu đệ sát hại sư

phụ?

Gã bâng khuâng quay lại nhìn Tô Thuyên.

Tô Thuyên nói:

- Bữa trước Hoàng thượng thăng tướng công lên chức Nhất đẳng Lộc Đỉnh

Công đã ban tờ cáo trạng tuyên dương công lao của tướng công. Bản cáo trạng

này không hiểu ai viết, trong có đoạn:- "Tiến cử lương tài, dẹp bình Ngô nghịch, thu Đài Loan vào bản đồ Trung

Quốc."

"Cầm quân xuất chinh hạ thành Nhã Tát Khắc, trương quốc oai ở cõi ngoài."

Mụ nói tiếp:

- Những cái đó đều đúng hết. Nhưng lại có hai câu:

"Chém bọn nghịch thủ Thiên Địa Hội là Trần Cận Nam, Phong Tế Trung khiến

mối họa hoạn trong nước liền bị dập tắt. Phỉ đồ, loạn đảng phải thay mặt đổi

lòng."

Là không đúng sự thực hoàn toàn.

Vi Tiểu Bảo chau mày hỏi:

- Cái gì thay mặt đổi lòng? Câu này ý nghĩa làm sao?

Cáo trạng nói tướng công bắt được bọn Trần Cận Nam, Phong Tế Trung giết

rồi, mọi người trong Thiên Địa Hội sợ quá không dám tạo phản nữa.

Vi Tiểu Bảo nhảy bổ lên, lớn tiếng la:

- Làm gì có chuyện đó? Thế này chẳng là vu oan cho người ta ư?

Tô Thuyên từ từ lắc đầu đáp:

- Chúng ta giết Phong Tế Trung, thánh chỉ nói thế là đúng, chỉ thừa ba chữ

Trần Cận Nam.

Vi Tiểu Bảo ấp úng hỏi:

- Trần Cận Nam là ân sư, sao ta lại... gia hại? Đạo thánh chỉ này... của Hoàng

thượng. Hỡi ôi! Người thấy thánh chỉ, sao không bảo ta?

Tô Thuyên đáp:

- Bọn tiểu nhân đã thương lượng với nhau là trong thánh chỉ thừa ba chữ

"Trần Cận Nam", khi tướng công ngó tới, nhất định không được vui lòng.

"Bọn tiểu nhân" mà mụ nói đây là trỏ vào bảy vị phu nhân. Bảy vị đã cùng

nhau thương lượng về bản cáo trạng.

Vi Tiểu Bảo liếc mắt nhìn Song Nhi. Thị lẩm nhẩm gật đầu.Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Mao đại ca ơi! Đích thực không phải tiểu đệ sát hại gia sư. Còn Phong Tế

Trung là tên bạn đồ ở Thiên Địa Hội. hắn ngấm ngầm... thông phong báo tin với

Hoàng đế...

Mao Thập Bát cười lạt ngắt lời:

- Vậy mi là hảo nhân chăng?

Vi Tiểu Bảo ngồi thừ ra đáp:

- Tiểu đệ phải vào phân thuyết với Hoàng thượng, xin ngài đổi lại... đổi lại...

Gã nói luôn ba lần "đổi lại" nhưng biết là nhà Vua quyết chẳng khi nào vì

thánh chỉ dư ba chữ "Trần Cận Nam" mà đổi lại thượng dụ. Gã tự hỏi:

- Không hiểu tên cẩu tặc nào đã tâu Hoàng thượng là ta sát hại sư phụ?

Hoàng thượng coi hành động này là trung tâm với ngài. Nhưng ... nhưng Vi Tiểu Bảo

này còn làm người được nữa chăng?

Trong lòng nóng nảy, đột nhiên gã ọe một tiếng rồi khóc òa lên. Miệng la:

- Mao đại ca! Tô tỷ tỷ! Hảo Song Nhi! Tiểu đệ không sát hại sư phụ.

Ba người thấy gã đột nhiên khóc rống lên đều giật mình kinh hãi.

Tô Thuyên vội đến bên nắm lấy vai gã cất giọng ôn nhu nói:

- Trịnh Khắc Sảng hạ sát lệnh sư ở Thông Cật đảo. Bọn tiện thiếp đều nhìn

thấy cả.

Mụ nói rồi lấy khăn tay ra lau nước mắt cho gã.

Mao Thập Bát bây giờ mới biết tên thân binh võ nghệ cao cường này té ra là

một người đàn bà, trong lòng rất đỗi ngạc nhiên.

Vi Tiểu Bảo chợt nghĩ tới điều gì liền nói:

- Mao đại ca! Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng hiện nay cũng ở Bắc Kinh. Chúng

ta đến đối chất, chắc hắn không dám chối cái. Phải rồi! Phải rồi! Chúng ta đi ngay

bây giờ...

Gã nói tới đây, bỗng nghe ngoài cửa có thân binh lớn tiếng hô:- Thánh chỉ đã tới! Ngự tiền thị vệ Đa tổng quản phụng sắc tuyên đọc thánh

chỉ.

Vi Tiểu Bảo đứng dậy ra cửa nghênh tiếp thì thấy Đa Long đang cười hề hề

tiến lại.

Vi Tiểu Bảo quỳ xuống hướng mặt về phía Bắc dập đầu chúc cầu thánh thể

an khang.

Đa Long chờ gã lạy xong mới nói:

- Hoàng thượng phán bảo phải sai đưa tên phản nghịch thóa mạ ngoài đường

phố vào cung để ngài thân hành tra hỏi.

Hồi 242

PHùNG TíCH PHạM HĂM DÂNG CáO TRạNG

Vi Tiểu Bảo run lên ấp úng nói:

- Người... người đó ư? Tiểu đệ bắt hắn đem về thẩm vấn kỹ càng thì

ra.. thì ra một tên khùng. Hắn nói nhăng nói càn toàn những chuyện trời ơi đất hỡi

chẳng ra đâu vào đâu, nên không ích gì hết. Tiểu đệ sai đánh một trận nhừ đòn

rồi tha cho hắn đi. Sao... sao Hoàng thượng lại biết chuyện này? Thật ra cũng

chẳng có chi quan hệ...

Mao Thập Bát nghe tới đây không nhịn được nữa, đập bàn "binh binh" luôn

mấy cái, chén bát rớt xuống đất bể loảng xoảng. Hắn lên tiếng thóa mạ:

- Vi Tiểu Bảo! Con mẹ nó! Ai là thằng khùng? Bữa nay người chửi bới Hoàng

đế Thát Đát ở ngoài đường phố chính là lão gia. Lão gia đã không sợ muôn đao

ngàn kiếm phân thây, chẳng lẽ lại sợ con mẹ nó Hoàng đế Thát Đát?

Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm kêu khổ. Gã chỉ mong gạt được vua Khang Hy cùng

Đa Long rồi buông tha Mao Thập Bát. Ngờ đâu họ Mao lại không hiểu gã có ý

bênh vực hắn.

Mao Thập Bát đã công nhiên thóa mạ Hoàng thượng thì dù hắn có mười tám

cái đầu cũng không giữ nổi một cái.

Đa Long buông nhẹ tiếng thở dài, nhìn Vi Tiểu Bảo nói:

- Vi huynh đệ! Huynh đệ đối với bạn hữu giang hồ thật là con người đầy

nghĩa khí, Tiểu huynh khâm phục lắm. Vụ này huynh đệ đã hết lòng hết sức là nhân

cùng nghĩa tận. Chúng ta đi thôi.

Mao Thập Bát rảo bước ra cửa, đột nhiên quay lại nhổ một bãi nước nọt vào

mặt Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo đang mãi nghĩ kế, vô tình không kịp né tránh. Bãi nước bọt nhổ

trúng vào giữa mặt.

Mấy tên thân binh rút yêu đao ra xông vào gần Mao Thập Bát.

Vi Tiểu Bảo xua tay nói:

- Vụ này coi như bỏ đi, đừng làm khó dễ y nữa.

Bọn thuộc hạ của Đa Long dẫn tới liền lấy khóa tay ra còng Mao Thập Bát

lại.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:

- Hoàng thượng mà thân hành thẩm vấn Mai đại ca thì Ngài chưa hỏi được ba

câu, tất đã sai lôi y ra chém đầu. Ta phải vào ra mắt Hoàng thượng lập tức. Bất

luận bằng một giá nào cũng phải tìm cách cứu y cho bằng được.

Gã nhìn Đa Long nói:

- Tiểu đệ muốn vào bái kiến Hoàng thượng, tâu rõ nội tình, không nên cho

hán tử thô lỗ này vào trước mặt long nhân để hắn gây chuyện với Hoàng thượng.

Đoàn người kéo vào tới Hoàng cung, Vi Tiểu Bảo nghe nói Hoàng thượng

đang ngồi trong Ngự thư phòng, liền xin vào ra mắt.

Vua Khang Hy truyền cho vào.

Vi Tiểu Bảo dập đầu làm lễ rồi đứng dậy.

Đức Vua phán hỏi:

- Người thóa mạ ngươi lại thóa mạ cả ta bữa nay ở ngoài đường phố phải

chăng là hảo bằng hữu của ngươi?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Minh kiến của Hoàng thượng xét soi muôn dặm, chẳng có việc gì là thánh

thượng phải đoán đến lần thứ hai.

Nhà Vua hỏi:

- Hắn cũng là người trong Thiên Địa Hội ư?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Y không chính thức vào hội, nhưng quen biết nhiều người trong tổ chức này

mà lại rất khâm phục sư phụ của nô tài. Y nghe nói trong thánh chỉ của Hoàngthượng minh thị rõ rệt là nô tài đã hạ sát sư phụ, tức quá không nhịn được, nên

thống mạ nô tài một trận đáo để.

Vua Khang Hy mỉm cười hỏi:

- Có phải ngươi đã tuyên bố chặt đứt mối liên hệ với Thiên Địa Hội, không

bao giờ lai vãng với bọn họ nữa?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Dạ! Lần này nô tài đi đánh bọn quỷ La Sát không đem theo một người nào

trong Thiên Địa Hội.

Nhà Vua hỏi:

- Rồi đây nếu có bạn cũ ở Thiên Địa Hội đến kiếm ngươi thì ngươi xử sự như

thế nào?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Nô tài quyết lánh mặt để tránh mọi điều bất tiện.

Đức Vua gật đầu phán:

- Trong cáo trạng ta đã hạ bút thêm hai tên Trần Cận Nam và Phong Tế

Trung vào là đỡ cho ngươi được nhiều điều phiền phức. Tiểu Quế Tử! Một người

không thể đứng trên hai thuyền. Ngươi đã hết lòng trung với ta, nhất tâm lo lắng

công việc triều đình thì chẳng thể để Thiên Địa Hội dính líu vào được. Bằng ngươi

quyết tâm làm hương chủ hay Tổng đà chúa ở Thiên Địa Hội là phải quyết chí phản

ta.

Vi Tiểu Bảo giật bắn người lên, quỳ xuống dập đầu tâu:

- Nô tài nhất quyết không làm việc tạo phản. Hồi nhỏ tuổi nô tài chưa hiểu

đạo lý có khi hành động hồ đồ, nhưng hiện nay đã hiểu sâu sắc đại nghĩa, thay

mặt đổi lòng, hoàn toàn khác trước.

Đức Vua gật đầu cười nói:

- Thế thì hay lắm! Gã điên khùng bữa nay thóa mạ ở ngoài đường phố, ta giao

cho ngươi sáng mai đem ra hành quyết và do ngươi giám trảm.

Vi Tiểu Bảo dập đầu tâu:- Xin Hoàng thượng minh giám cho. Nô tài đến được Bắc Kinh làm thần tử

Hoàng thượng hoàn toàn do người này. ¥n ấy nô tài chưa đền đáp được, nay nô

tài lớn mật thỉnh cầu Hoàng thượng đại xá cho y. Dù nô tài có phải bỏ hết công

lao trong cuộc đi đánh bọn quỷ La Sát vừa rồi cũng cam lòng. Nô tài xin lùi lại

làm Lộc Đỉnh hầu.

Vua Khang Hy nghiêm sắc mặt hỏi:

- Ngươi coi việc triều đình phong tước là trò đùa chăng? Ngươi được thăng

thưởng lên hàng Nhất đẳng Lộc Đỉnh công là ơn điển của ta. Thế mà ngươi đem

tước lộc phong cáo ra trả giá thì ngươi thật là lớn mật.

Vi Tiểu Bảo dập đầu binh binh tâu:

- Nếu Hoàng thượng coi đây là việc trả giá, nô tài cũng đành chịu. Lui xuống

Lộc Đỉnh hầu mà chưa được thì xin lui đến Thông Cật bá, hay Thông Cật tử cũng

không sao.

Nhà Vua định hăm gã một phen cho gã biết luật lệ triều đình, không ngờ gã là

kẻ tiểu nhân sinh trưởng ở nơi quê mùa. Tuy gã đã làm đến Nhất đẳng công, Đại

tướng quân mà tính vô lại chưa thay đổi một chút nào. Nhà Vua vừa tức mình lại vừa

buồn cười, quát bảo:

- Con mẹ nó! Đứng lên đi!

Vi Tiểu Bảo dập đầu lần nữa rồi đứng dậy

Vua Khang Hy ngửng mặt lên nói:

- Tổ bà nó! Lão gia mà mặc cả với ngươi thì ngươi xin lão gia nhiêu dung cho

tên phản nghịch đó, phải đem cái thủ cấp của ngươi đánh đổi lấy cái đầu của hắn.

Vi Tiểu Bảo mặt buồn rười rượi tâu:

- Cuộc trả giá của Hoàng thượng dữ quá! Xin Hoàng thượng nới cho một

chút.

Nhà Vua đáp:

- Được rồi! Ta chịu nhượng bộ ngươi một bước. Không cắt đầu ngươi thì cắt

quả trứng để ngươi vào làm thái giám trong cung thật sự.Vi Tiểu Bảo năn nỉ:

- Xin Hoàng thượng nới thêm cho.

Nhà Vua đáp:

- Không nới hơn được nữa. Ngươi không đi giết hắn tức là bất trung với ta.

Còn ngươi đã trung trinh là trung trinh, bất trung là bất trung, làm gì có chuyện trả

giá?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Nô tài đối với Hoàng thượng giữ vẹn lòng trung, đối với bạn bè coi nặng

chữ nghĩa, đối với song thân hết lòng hiếu thảo, đối với thê tử một dạ từ ái...

Nhà Vua cười khanh khách ngắt lời:

- Ngươi nói vậy thì ra gồm đủ trung hiếu tiết nghĩa, bề nào cũng toàn vẹn.

Hay lắm! Giỏi lắm! Đáng phục. Sáng mai cũng vào giờ này ngươi đem một cái thủ

cấp vào đây ra mắt ta. Nếu không có thủ cấp của tên phản nghịch thì là thủ cấp

của ngươi.

Vi Tiểu Bảo không sao được đành ôm đầu lui ra.

Đức Vua thấy gã ra đến cửa lại hỏi:

- Tiểu Quế Tử! Ngươi có muốn trốn nữa không?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Lần này thì nô tài không dám trốn. Nô tài về nhà nằm vắt tay lên trán suy

nghĩ cách nào làm cho Hoàng thượng vui dạ, lại giữ được nghĩa khí với bạn, mà cái

đầu của nô tài vẫn bền vững.

Vua Khang Hy cười nói:

- Hay lắm! Lâu nay ta không thấy mặt Kiến Ninh Công chúa, rất tưởng nhớ y,

đã sai đi đón y vào cung.

Nhà Vua ngừng lại một chút rồi tiếp:

- Còn sáu vị phu nhân của ngươi cũng theo Công chúa tiến cung triều kiến

Thái hậu. Thái hậu phán rằng công lao của ngươi không phải là nhỏ, ngài muốn

thưởng cho cả phu nhân và con cái ngươi.Vi Tiểu Bảo tâu:

- Đa tạ ơn điển của Thái hậu cùng Hoàng thượng. Nô tài dù tan xương nát thịt

cũng không đủ báo đền.

Gã lùi ra hai bước, không nhịn được còn quay đầu lại tâu:

- Tâu Hoàng thượng! Nô tài đã nói là Hoàng thượng là đức Phật Như Lai, nô tài

là Tôn Ngộ Không thì muốn nhảy nhót thế nào cũng không ra khỏi lòng bàn tay

Hoàng thượng được.

Nhà Vua mỉm cười đáp:

- Ngươi thần thông quảng đại bất tất phải khách sáo.

Vi Tiểu Bảo ra khỏi cửa thư phòng, bất giác thở dài nghĩ bụng:

- Hoàng thượng bắt giữ cả bảy mụ vợ cùng ba đứa con của ta thì dù ta có

lớn mật trốn đi, cũng không thể bỏ được.

Gã đang đi trên dãy hành lang, Đa Long lại đón vừa cười vừa nói:

- Vi huynh đệ! Thái hậu triệu kiến các vị phu nhân cùng Công tử và Tiểu thư,

chắc là ban thưởng rất nhiều. Tiểu huynh có lời cung hỷ.

Vi Tiểu Bảo chắp tay đáp:

- Đa ta đại ca!

Đa Long mỉm cười nói:

- Trước khi huynh đệ dẫn quân xuất chinh có dặn tiểu huynh đòi nợ cho thì

nay đã đòi được bảy tám phần với những ngân phiếu cộng hai trăm sáu mươi mấy

vạn lạng. Huynh đệ về phủ rồi tiểu huynh đưa sang.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Đại ca đòi được nhiều như vậy quả nhiên bản lãnh phi thường.

Gã hằn học nói tiếp:

- Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng sát hại gia sư, khiến cho tiểu đệ đến nay hãy

còn điên đầu. Tổ bà nó! Bữa nay tiểu đệ bị kẻ điên khùng thóa mạ ở ngoài đường

phố cũng là do mối họa của Trịnh Khắc Sảng gây ra.Gã càng nói càng tức rồi bảo Đa Long:

- Đa đại ca! Xin đại ca đem nhiều thủ hạ để chúng ta đến đòi nữa.

Đa Long nghe gã nói tới vụ đến đòi nợ ở Trịnh phủ là một sự hoan lạc nhất

của lão. Đã có Phủ viễn Đại tướng quân, Nhất đẳng Lộc Đỉnh công Vi Công gia

hậu thuẫn, lão tha hồ mà ngang tàng, không còn úy kỵ gì nữa.

Lão liền ưng chịu ngay.

Đa Long dặn ngự tiền thị vệ phó tổng quản ở lại trong cung chầu chực rồi

dẫn một trăm tên thị vệ đưa Vi Tiểu Bảo đến Trịnh phủ.

Trịnh Khắc Sảng tuy cũng được phong công tước, nhưng so với công tước

của Vi Tiểu Bảo thật khác nhau một trời một vực, vì một đằng là phiên vương phản

nghịch, một đằng là đại công thần, đại hồng nhân trước giá Hoàng đế. Cũng là phủ

Công tước nhưng thanh thế chẳng giống nhau chút nào.

Tấm biển trên cổng lớn viết bốn chữ "Hải Trừng Công Phủ" nhưng là chữ đen,

làm sao bằng được bốn chữ "Lộc Đỉnh Công Phủ" của Vi Tiểu Bảo khắc bằng chữ

vàng?

Vi Tiểu Bảo thấy thế, trong lòng đã mấy phần hoan hỷ, miệng nói:

- Chiêu bài của tên tiểu tử này đâu có bằng được biển chữ vàng của ta.

Bọn thị vệ thường đến Hải Trừng Công Phủ đòi nợ hai ba ngày một lần nên

đã quen thuộc, không cần người gác cổng thông báo, chúng đi vào tự nhiên.

Vi Tiểu Bảo ngồi giữa đại sảnh, Đa Long ngồi một bên.

Trịnh Khắc Sảng nghe báo có Phủ viễn Đại tướng quân Vi Tiểu Bảo tới nơi,

bất giác chân tay luống cuống, vì gã là đệ nhất khắc tinh của hắn trên đời này,

nhưng hắn không dám tránh mặt, phải vội vã thay mặc công phục chạy ra nghênh

tiếp.

Hắn tiến đến trước mặt Vi Tiểu Bảo chắp tay thi lễ, miệng hô:

- Vi đại soái!

Vi Tiểu Bảo không thèm đứng dậy, vẫn ngồi bệ vệ, ngửa mặt lên trời khịt mũi

một tiếng rồi nhìn Đa Long hỏi:- Đa đại ca! Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng thật là vô lễ! Chúng ta đến đây

hàng nửa ngày mà hắn không hỏi gì đến. Phải chăng hắn coi bọn chúng ta không

vào đâu?

Đa Long đáp:

- Đúng thế! Giết người thì phải đền mạng, thiếu nợ thì phải trả tiền. Dù có

rụt đầu rụt cổ như con rùa đen, rút cục vẫn không trốn tránh được.

Trịnh Khắc Sảng tức giận đến cực điểm, nhưng phải cúi đầu luồn xuống mái

nhà, vì hai người trước mặt hắn thì một người là Đại tướng quân trong tay giữ binh

quyền, một người là Ngự tiền thị vệ Đô tổng quản. Còn hắn chẳng có quyền thế

gì, đã là hàng thần lơ láo lại còn bị hiềm nghi. Tuy hắn tước vị tôn vinh mà thực ra

ở vào tình trạng không bằng kẻ dân thường.

Trịnh Khắc Sảng cố gắng nhẫn nại, hắng giọng một tiếng rồi hô:

- Vi đại soái! Đa tổng quản! Hai vị mạnh giỏi a?

Vi Tiểu Bảo từ từ cúi đầu xuống, ngó thấy trước mặt có một lão già khom

lưng đứng đó. Đầu tóc lão đã hoa dâm, dung mạo cực kỳ tiều tụy.

Gã nhìn kỹ thì người này tuổi chưa già, nhưng mặt buồn rười rượi, da mặt nhăn

nheo. Túp râu dưới cằm cũng đã đốm bạc.

Vi Tiểu Bảo chú ý nhìn lại, chẳng phải Trịnh Khắc Sảng thì còn là ai nữa?

Mới mấy năm, gã chưa nhìn thấy mặt, mà nay tưởng chừng hắn đã già đi đến

hai, ba chục tuổi.

Ban đầu Vi Tiểu Bảo rất lấy làm kỳ, nhưng rồi gã hiểu ngay vì mấy năm nay

hắn đau khổ nhiều quá thành ra chóng già.

Vi Tiểu Bảo không khỏi sinh lòng lân mẫn, nhưng gã nghĩ tới năm trước Trịnh

Khắc Sảng đâm chết Trần Cận Nam ở Thông Cật đảo, nộ khí lại xông lên óc.

Gã cười lạt hỏi:

- Ngươi là ai?

Trịnh Khắc Sảng đáp:

- Tại hạ là Trịnh Khắc Sảng. Sao Vi đại soái không nhận ra?Vi Tiểu Bảo lắc đầu hỏi lại:

- Trịnh Khắc Sảng nào? Trịnh Khắc Sảng đang làm Diên Bình Vương ở Đài

Loan kia mà? Sao lại đến Bắc Kinh? Chắc ngươi giả mạo rồi.

Trịnh Khắc Sảng đáp:

- Tại hạ quy thuận Đại Thanh, chịu ơn của Hoàng thượng đã được hưởng tước

lộc.

Vi Tiểu Bảo nói:

- ủa! Té ra là thế. Ngày trước các hạ ở Đài Loan nói khoác nói lác bảo đánh

tới Bắc Kinh, bắt lấy Hoàng thượng, muốn sao được vậy. Những câu đó không kể

đến nữa ư?

Trịnh Khắc Sảng ớn lạnh xương sống, lưng toát mồ hôi, bụng bảo dạ:

- Gã muốn buộc tội cho ta nên bịa đặt ra những câu này. Hoàng thượng lại

nghe theo lời gã, quyết chẳng chịu tin ta.

Từ ngày Đa Long dẫn bọn Ngự tiền thị vệ và quân sĩ Kiêu Kỵ Doanh đến

quấy nhiễu không ngớt, Trịnh Khắc Sảng thật là lo buồn khổ sở, một ngày đằng

đẵng xem bằng ba thu. Sản nghiệp của hắn khá lớn ở Đài Loan bán đi đem đến

đây thì mười phần có đến tám, chín đã bị bọn chúng hạch xách lấy mất rồi, vì món

tiền hơn hai trăm vạn lạng bạc lớn quá. Cả châu báu cùng đồ trang sức bán hết

cũng không đủ trả nợ. Trong lòng hắn hối hận vô cùng. Nếu hắn biết trước thế

này thì quyết chẳng đầu hàng Thanh triều.

Trịnh Khắc Sảng còn cho là lúc Thi Lang đến đánh, nếu hắn dẫn quân cố sức

tử chiến, chưa chắc đã bị thất bại. Dù không thắng thì liều mạng mà chết ngay

trước trận cho khỏi tủi hổ với tổ phụ ở dưới suối vàng, lại không đến nỗi phải vô

cùng khổ nhục như ngày nay.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Đa đại ca! Trịnh vương gia đây ngày trước oai phong tứ diện, lẫm liệt tám

phương. Mới đây tiểu đệ còn nghe nói có người đến tiếp rước Vương gia về Đài

Loan, lên ngôi vương vị trở lại.

Rồi gã hỏi Trịnh Khắc Sảng:- Trịnh Vương gia! Người đến đón tiếp Vương gia là ai vậy? Tiểu đệ muốn

điều tra cho biết rõ đặng tâu lên Thánh thương.

Trịnh Khắc Sảng cất tiếng run run đáp:

- Vi đại soái! Xin đại soái nương tay cho tại hạ được nhờ. Câu chuyện mà đại

soái vừa nói đó... hoàn toàn... không đúng sự thật...

Vi Tiểu Bảo ngắt lời:

- Ô hay! Thế này thì kỳ thật!

Gã quay lại hỏi Đa Long:

- Đa đại ca! Có phải hôm qua chúng ta túm được một tên bạn đồ không? Tên

lớn tiếng thóa mạ Hoàng thượng rồi chửi bới tiểu đệ. Hắn nói là bộ thuộc cũ của

Trịnh vương gia...

Gã dừng lại một chút rồi nói tiếp:

- Tên đó còn bảo Trịnh Vương gia ở Bắc Kinh bị người ta khinh thường, nên

đến báo thù cho y, và giết hết những gì Mãn Thanh, Thát Đát.

Trịnh Khắc Sảng nghe tới đây đứng không vững được nữa, quỳ hai gối xuống,

cất giọng run run năn nỉ:

- Xin Vi đại soái tha mạng cho! Tiểu nhân trước kia đắc tội với đại soái thật

đáng muôn thác. Nhưng lão nhân gia đại nhân đại lượng, mở cho tiểu nhân một

đường sinh lộ. Tiểu nhân cầu khẩn Hoàng thiên bảo hựu cho lão nhân gia công hầu

vạn đại.

Vi Tiểu Bảo cười lạt hỏi:

- Ngày trước các hạ lúc hạ sát sư phụ ta có nghĩ tới bữa nay không?

Đột nhiên một người từ hậu đường rảo bước tiến ra. Người này cao mà gầy,

vẻ mặt rất tinh anh. Lão chính là Nhất kiếm vô huyết Phùng Tích Phạm.

Phùng Tích Phạm sấn vào bên Trịnh Khắc Sảng, kéo hắn đứng dậy rồi nhìn Vi

Tiểu Bảo nói:- Vụ giết Trần Cận Nam ngày trước hoàn toàn là chủ ý của tại hạ, chẳng liên

quan gì đến Trịnh Công gia. Các hạ muốn báo thù cho sư phụ thì cứ việc hỏi tại

hạ là xong.

Vi Tiểu Bảo trước nay vẫn đem lòng úy kỵ Phùng Tích Phạm, bây giờ thấy lão

hùng hùng hổ hổ, bất giác toàn thân gã co rúm lại ngồi trong ghế. Gã ấp úng hỏi:

- Các hạ... muốn đánh người chăng?

Đa Long cũng nhảy bổ lên hô:

- Quân bay đâu?

Lập tức mười mấy tên thị vệ kéo ùa vào.

Vi Tiểu Bảo thấy bên mình đông người thế mạnh mới yên lòng, gã lớn tiếng

hô:

- Những người này ở kinh sư lớn mật hành hung. Hãy bắt lấy hắn!

Bốn tên thị vệ đồng thời vươn tay nắm lấy cánh tay Phùng Tích Phạm.

Phùng Tích Phạm vẫn không kháng cự, dõng dạc nói:

- Bọn tại hạ đã quy hàng triều đình., Hoàng thượng phong Trịnh Công gia làm

Hải Trừng công, lại phong tại hạ làm Trung Thành bá, kim khẩu của Hoàng thượng

đã tuyên bố, bao nhiêu chuyện cũ đều bỏ đi hết quyết không hỏi tới. Vi đại

soái! Đại nhân mượn việc công để báo tư thù, đổ oan cho người ngay. Bọn tại hạ

phải đến giãi bày trước Hoàng thượng.

Vi Tiểu Bảo cười lạt đáp:

- Phùng đại nhân là người ngay, là hảo nhân! Ha ha! Bữa nay tại hạ mới được

nghe nói lần đầu Nhất kiếm vô huyết Phùng Tích Phạm Phùng đại nhân là một đại

hảo nhân.

Phùng Tích Phạm nói:

- Bọn Phùng mỗ từ ngày đến Bắc Kinh, yên phận thủ thường, chưa từng giao

thiệp với một người nào, nhất là không tơ hào dám vi phạm vương pháp. Những vị

thị vệ đại nhân không ngớt đến đây xòe tay đòi tiền khiến bọn tại hạ phải khuynh

gia bại sản để ứng phó, nhưng những cái đó cũng không đáng kể. Nay Vi đại soáilại muốn bịa chuyện để khép tội bọn tại hạ, Đức Hoàng thượng sáng soi muôn

dặm, e rằng không phải chuyện đại nhân muốn ghép tội cho ai cũng được.

Lão là người có đởm lược lại có kiến thức chứ không ngu ngốc như Trịnh Khắc

Sảng. Lão nói năng cứng rắn một hồi khiến cho Vi Tiểu Bảo trong lúc nhất thời

khó bề biện bác.

Gã nghĩ thầm:

- Hai người này tuy là hàng nhân ở Đài Loan, nhưng đã được triều đình phong

tước, dĩ nhiên khó mà lấn áp. Nếu mình muốn phản tọa bọn họ thì đức Hoàng

thượng chỉ hỏi mấy câu là lập tức biết rõ ngọn ngành. Hoàng thượng mà điều tra

được mình có ý báo thù cho sư phụ, nhất định khép tội.

Lòng gã nhũn ra rồi, nhưng ngoài miệng vẫn cứng, gã hỏi:

- Hôm qua bọn ta bắt được tên phản nghịch. Chính hắn cung xưng thừa nhận

là đến rước Trịnh vương gia về Đài Loan, chẳng lẽ còn giả được ư?

Phùng Tích Phạm đáp:

- Hạng người đó tùy tiện nói càn tin thế nào được? Xin Vi đại soái đưa người

đó đến đây. Bọn tại hạ sẽ cùng hắn lên hình bộ đối chất.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Phùng đại nhân muốn đối chất ư? Thế thì hay lắm! Thế là tuyệt diệu!

Gã quay sang hỏi Trịnh Khắc Sảng:

- Trịnh vương gia! Chỗ tiền mà vương gia thiếu tại hạ đến bao giờ mới thanh

toán?

Phùng Tích Phạm nghe Vi Tiểu Bảo đánh trống lảng, lại quan hình đoán sắc

đoán ra gã sợ Hoàng thượng hay biết vụ này. Lão nghĩ bụng:

- Cơ sự đã như vậy ta phải đánh bạo đưa ra trước Hoàng đế. Hoàng đế tuy

nhỏ tuổi nhưng rất đỗi anh minh nhất định ngài phân biệt được ai phải ai trái ai

gian ai ngay. Nếu ta không nhân cơ hội này làm cho ra lẽ thì rồi đây còn phải

phiền lụy vô cùng! Gã tiểu tử họ Vi này bức bách chúng ta đến bước đường cùng,

không thể nhượng bộ được nữa. Gã dồn bọn ta vào chân tường thì ta quyết liều

với hắn một phen rồi ra sao thì ra.Quyết định chủ ý rồi, lão nói:

- Vi đại soái! Đa tổng quản! Bọn tại hạ phải làm cáo trạng.

Vi Tiểu Bảo giật bắn người lên, bụng bảo dạ:

- Hắn mà đưa cáo trạng đến Hoàng đế thì thật rầy rà cho mình. Nhưng ta

chẳng thể tỏ ra khiếp nhược.

Gã liền đáp:

- Hay lắm! Các vị huynh đệ! Bắt cả họ Trịnh này đưa đi!

Đa Long không khỏi ngần ngừ, Trịnh Khắc Sảng đã được phong công tước,

đến đòi tiền hắn thì không sao, nhưng muốn bắt hắn mà chẳng có chỉ dụ của triều

đình thì không được.

Lão liền khẽ đáp:

- Vi đại soái! Chúng ta hãy tâu Hoàng thượng trước rồi hãy bắt người.

Trịnh Khắc Sảng yên tâm được một chút, liền hỏi:

- Tại hạ có phạm tội gì đâu mà các vị lại muốn bắt tại hạ?

Hồi 243

GIậN LãO PHùNG LO MƯU TẩY OáN

Vi Tiểu Bảo liền thuận gió dương buồm đáp:

- Vương gia có phạm tội hay không bây giờ chưa thể biết được.

Có điều Vương gia còn thiếu nợ tại hạ chưa thanh toán xong thì tính sao đây?

Vương gia định trả tiền hay là đi theo tại hạ?

Trịnh Khắc Sảng nghe chừng có thể khỏi bị bắt liền nói ngay:

- Tại hạ xin trả tiền! Tại hạ xin trả tiền!

Hắn vội tiến vào nội đường lấy một tập ngân phiếu. Đồng thời hai tên gia

đinh bưng ra một cái mâm đựng kim ngân và đồ trang sức.

Trịnh Khắc Sảng nói:

- Vi đại soái! Ty chức dốc hết cả hòm xiểng mới được chừng tám, chín vạn

lạng bạc. Hiện giờ thực tình không đào đâu ra được nữa.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Không đào đâu ra được nữa ư? Tiểu đệ không tin như vậy. Vương gia đưa

tiểu đệ vào tìm kiếm xem sao.

Trịnh Khắc Sảng ngập ngừng đáp:

- Cái đó... cái đó... có điều không tiện.

Phùng Tích Phạm tức quá lớn tiếng:

- Bọn tại hạ không phạm vương pháp mà Vi đại soái đòi khám xét trong nhà

thì có Thánh chỉ hay văn thư của Hình bộ đại đường không?

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Đây không phải là chuyện khám nhà. Nhưng Trịnh vương gia bảo không đào

đâu ra được một phân bạc nào nữa, tại hạ nhận thấy Vương gia còn có tiền bạc, e

rằng y đem vàng bạc châu báu cất dấu trong bí thất, không chừng còn đao

thương võ khí, áo long bào long cổn gì cũng nên. Trong lúc nhất thời y không

kiếm thấy, nên bọn tại hạ vào kiếm dùm.

Trịnh Khắc Sảng nói:

- Khi nào tại hạ dám dấu... long bào long cổn gì gì đâu? Hơn nữa ty chức mới

là công tước, vậy chẳng khi nào dám nhận hai chữ "Vương gia" mà đại soái xưng

hô. Ty chức xin đại soái miễn cách xưng hô đó.

Vi Tiểu Bảo nhìn Đa Long nói:

- Đa đại ca! Xin đại ca kiểm điểm xem chỗ đó cộng được bao nhiêu?

Đa Long và hai tên thị vệ kiểm ngân phiếu rồi đáp:

- Tập ngân phiếu cộng được năm vạn bốn nghìn ba trăm lạng bạc. Còn một ít

đồ nữ trang thì Đa mỗ không biết thế nào mà đánh giá.

Vi Tiểu Bảo thò tay vào món trang sức đảo lộn mấy cái, cầm một cành kim

phụng thoa giơ lên làm bộ giật mình kinh hãi hỏi:

- Trời ơi! Đa đại ca! Sự vật này phạm cấm điều. Đức Hoàng thượng là rồng.

Chính cung nương nương là phụng. Sao... sao Vương phi của Trịnh vương gia cũng

xài Kim phụng thoa?

Phùng Tích Phạm tức giận lại lớn tiếng:

- Vi đại soái! Đại soái bới lông tìm vết để ghép chúng ta vào vòng tội lỗi.

Bữa nay Phùng mỗ đành phải liều mạng với đại soái. Vàng bạc cùng đồ trang sức

trong các tiệm ở khắp thiên hạ còn tiệm nào không có những cành thoa hình chim

phượng? Nữ quyến ở các nhà quan lại trong thành Bắc Kinh còn ai không cài kim

phụng thoa?

Vi Tiểu Bảo nói:

- Té ra Phùng đại nhân đã coi hết nữ quyến các nhà quan tư ở thành Bắc

Kinh. ồ! Vậy Phùng đại nhân bảo các vị thái thái cùng tiểu thư nhà ai đẹp nhất?

Gã tặc lưỡi mấy tiếng nói tiếp:

- Thật là lợi hại! Thật là ghê gớm! Được coi nữ quyến hết mọi nhà quyền quý

trong thành thì nhãn phước không ai bì kịp! Vương phi của Khang Thân vương, tiểuthư ái nữ của quan Binh bộ Thượng thư Minh Châu, Phùng đại nhân cũng nhìn thấy

rồi chứ?

Phùng Tích Phạm tức quá không nói nên lời mà trong lòng quả cũng khiếp

sợ. Lão biết gã thiếu niên này giao du thân mật với hết các nhà quyền quý đồng

triều. Nếu gã thêm dầu thêm mỡ đồn đại vụ này ra ngoài thì thật phiền cho lão.

Trịnh Khắc Sảng không ngớt khom lưng xá dài nói:

- Vi đại nhân! Nhất thiết xin đại nhân bảo toàn cho. Ty chức năn nỉ đại nhân

dung tình.

Vi Tiểu Bảo thấy mình nói mấy câu khiến cho Phùng Tích Phạm khiếp sợ

không dám lên tiếng nữa. Gã cười ha hả bảo Đa Long:

- Đa đại ca! Thể diện của tiểu đệ còn kém đại ca xa lắm. Đa đại ca đòi nợ

được hơn hai trăm vạn lạng bạc, mà chính tiểu đệ thân hành xuất mã lại chỉ được

một chút thế này.

Trịnh Khắc Sảng đáp:

- Thực tình trong nhà ty chức không còn chút gì nữa, quyết chẳng khi nào...

dám quịt nợ.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Chúng ta về thôi! Chừng mười ngày hay nửa tháng, người nhà Trịnh vương gia

ở Đài Loan sẽ vận chuyển vàng bạc đến, chúng ta lại tới đòi.

Gã nói rồi đứng dậy ra khỏi sảnh đường.

Phùng Tích Phạm nghe giọng Vi Tiểu Bảo thấy câu nào gã cũng cố ý vu hãm

Trịnh Khắc Sảng vào việc mưu đồ phản loạn và vẫn liên kết với bộ hạ cũ ở Đài

Loan. Đây là một trọng tội đưa đến chỗ diệt tộc. Nếu không biện minh thì suốt

đời bị uy hiếp, khó lòng làm người được.

Lão liền dõng dạc nói:

- Bọn Phùng mỗ luôn luôn giữ đạo công bằng, tuân theo phép nước, chẳng

bao giờ dám bước lệch lạc ra ngoài khuôn phép. Bữa nay Vi đại soái cùng Đa

tổng quản đã nói những gì ở đây, bọn Phùng mỗ phải nhất nhất tâu bày lên đứcHoàng thượng. Nếu không thì vòm trời tuy rộng bát ngát mà bọn tại hạ không còn

đất đứng.

Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Các vị muốn đất đứng ư? Có chứ, có chứ! Trịnh vương gia! Phùng tướng

quân! Các vị trở về Đài Loan, há chẳng là một khu vực rất lớn để các vị đặt chân?

Hai vị đang thương nghị về việc tìm đất đứng, vậy bọn tại hạ không dám quấy

nhiễu nữa.

Rồi gã dắt tay Đa Long băng băng đi ra cửa.

Vi Tiểu Bảo về đến phủ, lập tức truyền mở tiệc rượu, mời đoàn thị vệ ăn

uống.

Đa Long sai thủ hạ đem bốn chiếc rương vào mở ra, trong đựng toàn bạc

vàng châu báu và một tập ngân phiếu.

Lão cười nói:

- Đòi nợ mấy tháng trời khiến cho gia sản của tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng

mất quá nửa vào chỗ này. Vi huynh đệ! Huynh đệ kiểm điểm lại rồi thu nhận lấy.

Vi Tiểu Bảo lấy tập ngân phiếu ước chừng mười mấy vạn lạng đưa ra nói:

- Tên cẩu tặc này sát hại gia sư, nhưng hắn được Hoàng thượng phong cho

tước vị, mối thù của tiểu đệ không thể trả được.

Đa tạ đại ca cùng chúng vị huynh đệ chỉnh hắn một phen thê thảm, khiến tiểu

đệ cũng hả lòng. Gia sư không có gia quyến, số bạc này chẳng dùng làm gì. Tiểu

đệ trích một phần cho người đến Đài Loan xây cất một ngôi từ đường lớn để thờ

phụng ân sư. Còn bao nhiêu xin đại ca và chúng vị huynh đệ chia nhau.

Đa Long xua tay lia lịa đáp:

- Không được đâu! Không được đâu! Đây là tiền Trịnh Khắc Sảng thiếu nợ

huynh đệ. Hàng ngày huynh đệ sai mấy tên thân binh đến gõ cửa nhà hắn đòi nợ,

dĩ nhiên hắn phải trả. Bọn tiểu huynh làm giúp huynh đệ một việc nhỏ mọn phỏng

có chi đáng kể? Chúng ta đã là người một nhà, khi nào còn lấy tiền của huynh đệ?

Vi Tiểu Bảo cười nói:- Chẳng dấu gì đại ca: Sản nghiệp của tiểu đệ rất dư giả, tha hồ xài không

hết. Đã là hảo bằng hữu thì có tiền cùng xài, sao còn nói đến chuyện riêng tây?

Đa Long nhất định không chịu thu nhận.

Hai người tranh luận đến đỏ mặt tía tai. Sau cùng bọn thị vệ phải lấy một

trăm vạn lạng bạc gọi là thảo trái phí. Còn bao nhiêu Đa Long thân hành đem vào

nội đường ở Vi phủ.

Cả những thị vệ thường trực ở trong cung cũng được chia phần, mỗi người

mấy ngàn lạng.

Bọn thị vệ sung sướng hoan hô nhiệt liệt. Cơm no rượu say rồi, chúng mở

bàn bài cẩu và bàn xúc xắc đánh ngay ở nhà đại sảnh trong phủ Công tước.

Mọi người đánh bạc cho đến canh hai, Vi Tiểu Bảo nhìn Đa Long nói:

- Đa đại ca! Tiểu đệ còn muốn phiền đại ca giúp cho một việc.

Đa Long đang hồi vận đỏ, trong lòng khoan khoái, cười đáp:

- Được rồi! Bất luận việc gì, huynh đệ cứ cho hay là được.

Nhưng lão chợt nhớ tới điều gì, nói tiếp:

- Chỉ có một điều chẳng thể làm xong là tên hán tử điên khùng chửi bới

ngoài đường phố, Hoàng thượng đã truyền cho tiểu huynh phải phòng thủ nghiêm

mật để sáng mai đưa ra pháp trước hành hình, do huynh đệ làm giám trảm. Nếu tiểu

huynh vị tình riêng mà buông tha hắn, tất Hoàng thượng sai chém đầu mình.

Vi Tiểu Bảo quả nhiên định ủy thác lão về vụ này, ngờ đâu lão đã chặn đầu

trước... gã nghĩ bụng:

- Đức Hoàng thượng thần cơ diệu toán, việc gì cũng tiên liệu được. Mình chịu

bỏ ra một trăm vạn lạng bạc để mua mạng sống cho Mao đại ca mà không xong.

Trong lòng căm hận, gã lại muốn đến nhà Trịnh Khắc Sảng đòi nợ, nhưng nghĩ

tới tình trạng suy đồi của hắn và đã hành hạ, vũ nhục hắn đến cùng cực. Nếu còn

đi uy hiếp một kẻ khốn cùng sao phải đấng anh hùng?

Trong lòng xoay chuyển ý nghĩ, ngoài miệng gã đáp:- Về vụ hán tử điên khùng, Hoàng thượng đã thân hành dặn bảo, tiểu đệ dù

lớn mật đến đâu cũng chẳng dám buông tha y.

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Bữa nay chúng ta đến đòi nợ Trịnh Khắc Sảng như vậy là đủ rồi. Chỉ còn

tên thủ hạ của hắn là Phùng Tích Phạm. Con mẹ nó! Thằng cha này đáo để thật!

Chúng ta đều bị nó khinh khi. Cái giận này tiểu đệ không nuốt trôi được.

Mấy tên thị vệ đứng bên nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy liền đồng thanh phụ họa:

- Bọn tiểu nhân bữa nay thấy cử động cùng lời nói của lão Phùng cũng tức

đầy ruột. Vi đại soái bất tất phải phiền lòng. Để bọn tiểu nhân sấn đến nhà lão

hỏi tội. Lão bất quá là một tên bại tướng đầu hàng mà dám sinh cường ở giữa

thành Bắc Kinh này thì bọn tiểu nhân chẳng hóa ra vô dụng?

Bọn thị vệ càng nói càng hậm hực, những muốn đến Bá tước phủ ngay lập tức

để hành hung Phùng Tích Phạm.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Chúng ta có đi làm tội con rùa đó thì không nên ra mặt để các quan hay

biết. Lỡ ra họ làm bản tấu lên Hoàng thượng thì thanh danh của Ngự tiền thị vệ

không khỏi bị tổn thương.

Đa Long cũng nói theo:

- Đúng lắm! Đúng lắm! Huynh đệ lo xa như thế là phải.

Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Đa đại ca cũng đừng xuất mã, xin Trương đại ca và Triệu đại ca, hai vị dẫn

anh em đi.

Gã quay lại nhìn Trương Khang Niên và Triệu Tề Hiền dặn:

- Các vị mạo xưng là thủ hạ của Thái đô thống ở Tiền Phong doanh nói là có

công vụ khẩn cấp mời con rùa Phùng Tích Phạm đến thương nghị. Lão con rùa dù

có sinh dạ hoài nghi cũng vẫn phải đi. Hai vị đưa hắn đến nửa đường rồi xích tay

khóa chân lại, dùng vải đen bịt mắt lão, cả miệng cũng nhét hạt thị vào. Hai vị đưa

lão ra phía đông thành rồi lại quanh sang phía tây, đi vòng vèo một lúc, sau cùnghãy đưa tới đây. Đến lúc đó các huynh đệ đánh lão một trận nhừ đòn, lột hết

quần áo rồi đưa đến bỏ trên giường di thái thái của Thái đô thống.

Bọn thị vệ nghe gã nói tới đây không nhịn được phải phì cười và đều khen là

diệu kế.

Bọn Ngự tiền thị vệ và bọn quan binh Tiền Phong doanh trước nay vốn có

chuyện bất hòa, chạm trán nhau thường gây cuộc ẩu đả. Đa Long và Thái đô thống

tranh đấu ra mặt cũng có, ngấm ngầm cũng có, nhưng thủy chung trong bảy, tám

năm trời chẳng ai làm gì được ai.

Đa Long lại càng khoan khoái, xen vào:

- Lão Thái sợ vợ quá. Lão lấy tỳ thiếp mà không dám đưa về nhà. Mới đây lại

cưới đệ bát phòng di thái để ở hẻm Điềm Thủy. Ban đêm lão thái cũng không dám

đến đó ngủ. Chúng ta mà đem Phùng Tích Phạm lột hết quần áo đến bỏ trên

giường tân di thái của lão thì lão tức đến bể mật. Dù lão có nghi ngờ bọn ta dở

trò quỷ nhưng anh em đừng ai tiết lộ phong thanh, lão vẫn chẳng làm gì được.

Bọn thị vệ liền bỏ hết huy hiệu thị vệ trên người ra. Chúng hể hả kéo nhau

đi ngay.

Vi Tiểu Bảo cùng Đa Long ngồi ở sảnh đường uống rượu chờ đợi.

Vi Tiểu Bảo lại sai thân binh chia thành từng tốp ra ngoài do thám.

Lát sau có tin về báo:

- Đoàn thị vệ đã đến trước Trung Thành bá phủ gọi cửa xin ra mắt.

Phùng Tích Phạm thân hành ra đón tiếp, mời mọi người vào uống trà.

Trương Khang Niên cho lão hay là vâng lệnh Thái đô thống đến thương nghị

tức khắc vì có tin báo quân tình khẩn cấp ở Đài Loan.

Phùng Tích Phạm lên kiệu đi ngay. Anh em thị vệ đưa hắn ra phía tây thành

và đã khóa tay xích chân lão rồi, lại bắt hết bọn tùy tùng của lão.

Đoàn người đi về phía bắc, gặp bọn lính canh của phủ Cửu môn đề đốc

chặn hỏi.

Triệu Tề Hiền lớn tiếng đáp:- Đây là đội Tiền Phong doanh.

Phùng Tích Phạm trong kiệu nhất định cũng nghe rõ.

Đoàn người đang đi về phủ này.

Sau khoảng thời gian cháy tàn nén hương, đoàn thị vệ áp giải Phùng Tích

Phạm đến.

Trương Khang Niên lớn tiếng hô:

- Khải bẩm Thái đô thống! Đã giải phạm quan Phùng Tích Phạm về đây.

Vi Tiểu Bảo nắm tay lại thành quyền ra hiệu đánh đi.

Bọn thị vệ lớn tiếng la:

- Phạm quan Phùng Tích Phạm thông đồng với bọn phản nghịch, âm mưu bất

pháp. Thái đô thống ra lệnh khảo đả!

Phùng Tích Phạm võ công cao cường lại là người cơ cảnh. Ngay lúc bọn thị

vệ mạo xưng là quan binh Tiền Phong doanh đến mời, lão đã nhìn ra có chỗ

không đúng. Nếu lão muốn trốn thoát thì bọn thị vệ tuy đông người nhưng nhất

quyết không thể bắt được. Song sau khi đầu hàng được phong bá tước, lão đinh

ninh dù đối phương cố ý hãm hại, nhưng đức Hoàng thượng anh minh sẽ phân rõ

gian ngay. Nếu hắn trốn chạy cho thoát thân thì không khỏi mang tiếng sợ tội nên

mới trốn tránh và từ đây bao nhiêu tước lộc vinh hiển đều trôi theo dòng nước.

Lão nghĩ vậy nên chẳng kháng cự gì hết.

Phùng Tích Phạm vì tham đồ phú quý mà để mình là một tay cao thủ võ lâm

đương thời cho bọn thị vệ đánh đến thừa sống chí chết.

Vi Tiểu Bảo nhìn lão mũi đổ máu tươi, nội thương trầm trọng, cảm thấy khoan

khoái trong lòng vì mối thù giết sư phụ coi như đã trả được phân nửa.

Gã sợ tiếp tục đánh nữa có khi chết người, liền xua tay ra hiệu cho thị vệ

dừng lại.

Gã lại sai thân binh lột hết quần áo Phùng Tích Phạm, dùng một tấm chiếu

quấn lấy người lão.

Lúc này Phùng Tích Phạm chỉ còn thoi thóp thở, không biết gì nữa.Đa Long cười nói:

- Bây giờ đưa đến nhà Bát di thái mà bỏ.

Triệu Tề Hiền cười nói:

- Hay hơn nữa là lột trần cả Bát di thái của lão Thái rồi cột hai người vào với

nhau.

Bọn thị vệ khoái trá reo lên:

- Hay tuyệt!

Đa Long muốn được coi Bát di thái của Thái đô thống thân thể lõa lồ, liền

cười nói:

Lần này để ta đi hướng dẫn anh em.

Mấy người khiêng Phùng Tích Phạm lên toan xuất phát thì đột nhiên hai tên

thân binh chạy vào trước mặt Vi Tiểu Bảo báo cáo:

- Khải bẩm đại soái! Ngoại trạch của Thái đô thống trong hẻm Điềm Thủy hiện

đang xẩy cuộc náo loạn đánh nhau đến trời long đất lở.

Mọi người đều giật mình kinh hãi, tự hỏi:

- Sao lại tiết lộ phong thanh để Thái đô thống biết mà phòng bị? Vụ này

hỏng bét rồi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Những ai đánh lộn?

Một tên thân binh đáp:

- Bọn tiểu nhân tám tên vâng tướng lệnh của đại soái đến do thám mặt trước

mặt sau hẻm Điềm Thủy bỗng thấy một đội nương tử quân chừng ba, bốn chục

người...

Vi Tiểu Bảo chau mày ngắt lời:

- Nương tử quân là cái gì?

Tên thân binh đáp:- Trình đại soái: Đội người này toàn là nữ nhân bàn chân to tướng. Người thì

cầm Cán miến côn kẻ thì dùng Tẩy y bổng. Lại có người cầm dóng cửa, đòn gánh

xông vào ngoại trạch của Thái đô thống đánh loạn xà ngầu. Họ lôi bọn tiểu cô

nương rất xinh đẹp ra rồi dùng bì tiễn quất lấy quất để.

Vi Tiểu Bảo và Đa Long nhìn nhau kinh hãi chẳng hiểu nguyên nhân ra làm

sao.

Vi Tiểu Bảo giục:

- Đi do thám nữa xem sao.

Hai tên thân binh dạ một tiếng toan chạy ra cửa thì toán do thám thứ hai

chạy về báo:

- Bẩm đại soái! Thái đô thống cưỡi khoái mã đã đến hẻm Điềm Thủy. Quần áo

lão mặc không chỉnh tề, một chân xỏ giầy một chân không. Người thống lĩnh đội

nương tử quân đến đánh hẻm Điềm Thủy chính là Thái đô thống phu nhân.

Mọi người nghe nói phá lên cười.

Tên thân binh nói tới đây, chính hắn cũng không nhịn được phải rũ ra mà cười,

sau mới nói tiếp:

- Vị thái thái đó nắm lấy Thái đô thống tát hai cái vào mặt rồi lại đá thêm một

cước, coi khiếp quá! Thái đô thống phải khom lưng xá dài năn nỉ:

- "Thái thái hãy bớt giận! Thái thái hãy bớt giận!"

Vi Tiểu Bảo và bọn thị về cười hô hố. Hai người biết Thái đô thống phu nhân

nổi cơn ghen nên đến đánh ngoại trạch của lão.

Đa Long khoa chân múa tay nói:

- Có thế mới đáng đời lão Thái.

Vi Tiểu Bảo chợt động tâm cơ nói:

- Đa đại ca! Đại ca thống lãnh nhân mã đến giàn xếp đi. Thế là từ nay đại ca

nắm được tóc lão Thái và đội Tiền Phong doanh của lão cũng không dám đối

nghịch với bọn Ngự tiền thị vệ chúng ta nữa.Đa Long nghe Vi Tiểu Bảo nhắc nhở mừng quá, đưa tay lên gõ vào trán mình

đánh "cốp" một tiếng rồi cười nói:

- Tiểu huynh thật là hồ đồ. Gặp cơ hội tốt này sao không chụp lấy? Anh em

ơi! Chúng ta đi coi nhiệt náo.

Lão thống lãnh đoàn thị vệ chạy thẳng đến hẻm Điềm Thủy.

Vi Tiểu Bảo thấy Phùng Tích Phạm nằm thẳng cẳng dưới đất bụng bảo dạ:

Đã đến thế này thì ta phải nghĩ cách khác để xử trí lão con rùa.

Hai tay chắp để sau lưng, gã bước lui rồi lại bước tới trong sảnh đường, lẩm

bẩm một mình:

- Trời sáng là ta phải đi giết Mao đại ca. Biết làm thế nào để cứu mạng y?

Cướp pháp trường ở Đại Danh phủ thì không được rồi. Pháp trường, pháp

trường...

Đột nhiên gã tới tuồng tích "Pháp trường hoán tử", bất giác bụng bảo dạ:

- Phải rồi! Tiết Cương gây nên tai vạ, toàn gia bị xử trảm. Có lão già râu bạc

là Từ gì đó đem con mình ra pháp trường đổi lấy tên Tiết gì đó...

Vi Tiểu Bảo coi hát rất nhiều, tuy gã không nhớ tên những vai trò, nhưng

tuồng tích lại nhớ rất rõ.

Sau khi nghĩ tới tấn "Pháp trường hoán tử" gã liền tưởng nhớ đến vở tuồng

"Sưu cô cứu cô".

Trong thiên cố sự này có người râu đen tên gọi Trình Anh đem con mình ra

đổi lấy con chủ. Lão để con mình chết đặng cứu mạng cho tiểu chủ nhân.

Rồi gã tự nhủ:

- Cái này không được. May mà Mao đại ca ra ngoài lứa tuổi với con ta, không

thì ta phải đem Hổ Đầu, Đồng Trùy ra pháp trường để chịu chết đặng đổi lấy Mao

đại ca. Nói vậy thì nói, tình bằng hữu tuy thâm trọng, nhưng sự tình này chắc ta

không dám mà cũng không phải làm. Hay lắm! Hay lắm!

Gã vung cước đá vào Phùng Tích Phạm một đòn khá nặng, rồi nói:- Vận khí lão còn khá lắm! Vi đại soái thu lão làm con hờ. Vi đại soái không

bỏ được con ruột để đem đổi mạng. Còn con hờ thì tha hồ.

Gã liền gọi đội trưởng thân binh vào dặn dò mật kế. Gã thưởng cho hắn một

ngàn lạng bạc và giao một ngàn lạng bạc để hắn chia cho những thân binh cộng sự

trong vụ này.

Tên đội trưởng khom lưng tạ ơn nói:

- Xin đại soái cứ yên tâm. Nhất thiết tiểu nhân làm được ổn thỏa, quyết

không lầm lỡ.

Vi Tiểu Bảo an bài xong đâu đấy rồi đi vào nội đường.

Bảy vị phu nhân cùng con trai con gái đều được Thái hậu triệu vào cung.

Trong nhà vắng ngắt, Vi Tiểu Bảo để nguyên áo nằm xuống giường nghỉ.

Chẳng bao lâu trời đã sáng rõ.

Vào khoảng giờ thìn, trong cung có chỉ dụ đưa ra nói:

- "Giang dương đại đạo là Mao Thập Bát đại nghịch vô đạo, nhục mạ đại thần

phải đem hành quyết".

"Phái Phủ Viễn đại tướng quân, Nhất đẳng Lộc Đỉnh Công Vi Tiểu Bảo làm

giám trảm".

Vi Tiểu Bảo tiếp thượng dụ xong ra ngoài cửa phủ điểm thân binh.

Bỗng thấy Đa Long dẫn mấy chục tên ngự tiền thị vệ áp giải Mao Thập Bát

tới nơi.

Mao Thập Bát mũi sưng, mắt tím, mặt đầy những máu. Hiển nhiên hắn đã phải

chịu khổ hình, nhưng thái độ rất quật cường. Hắn vừa thấy Vi Tiểu Bảo lại lớn tiếng

thóa mạ:

- Vi Tiểu Bảo! Mi là một tên hán gian vô liêm sỉ. Bữa nay lão gia phải ra pháp

trường chịu chém mà ngươi làm giám trảm quan. Lão gia chết chẳng có chi oan

uổng. Ai bảo lão gia ngày trước đui mắt vào ổ điếm ở Dương Châu dắt tên tiểu

hán gian đưa tới Bắc Kinh?Bọn thân binh lớn tiếng quát tháo. Nhưng Mao Thập Bát vẫn chửi bới một

thêm hung dữ.

Vi Tiểu Bảo lờ đi như không nghe thấy và không lý gì đến Mao Thập Bát. Gã

quay lại hỏi Đa Long:

- Tình hình lão Thái ra làm sao?

Đa Long cười đáp:

- Đêm qua tiểu huynh tới nơi thì lão Thái bị phu nhân cào cho mặt đầy vết

máu. Lão vừa ngó thấy tiểu huynh thì bẽn lẽn quá chừng!...

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Lão có nói gì không?

Đa Long đáp:

- Lão chưa kịp nói thì tiểu huynh đến can khéo để lão khỏi hổ thẹn, đồng

thời khuyên giải phu nhân của lão, tiểu huynh còn đưa Bát di thái về nhà để y bầu

bạn với hai ả tiểu thiếp của tiểu huynh. Thế là lão Thái thiên ân vạn tạ, cảm kích

tiểu huynh không biết đến đâu mà kể.

Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Dung mạo vị Bát di thái đó thế nào?

Đa Long chĩa ngón tay cái lên đáp:

- Hà hà! Thật không còn chê vào đâu được.

Hồi 244

NHữNG ÂM MƯU ĐáNH TRáO PHạM NHÂN

Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Đại ca thấy sắc đẹp có điên đảo thần hồn rồi mượn gió bẻ măng

không?

Đa Long cười ha hả đáp:

- Cái đó huynh đệ cứ yên tâm. Dù huynh đệ có đến một trăm hai chục trái

tim cũng đừng lo ngại chi hết. Đại ca về cái đó kém lắm. Lão Thái tuy là đối đầu

của đại ca nhưng đại ca quyết chẳng làm trò đó.

Hai người áp giải Mao Thập Bát đi về phía pháp trường ở cửa Thái Thị.

Đa Long cưỡi ngựa. Vi Tiểu Bảo ngồi trên cỗ xe lớn màu lục.

Mao Thập Bát ngồi trong xe bò không có mui. Hai tay trói dặt ra đằng sau.

Nơi cổ cắm tấm biển gỗ đề hàng chữ:

- "Khâm phạm Mao Thập Bát lập tức hành hình".

Cỗ xe bò từ chợ lừa ngựa đi về phía tây, trăm họ tới tấp đi coi rất đông.

Mao Thập Bát dọc đường lúc kêu la, lúc hát ngao, lúc lại gầm lên:

- Lão gia từ năm mười tám tuổi đã nên trang hảo hán mới mang danh là Mao

Thập Bát. Lão gia biết trước phải vạ mất đầu.

Trăm họ hai bên đường phố lớn tiếng hoan hô, ca ngợi:

- Giỏi lắm! Đáng mặt hán tử giang hồ.

Xe bò đến chỗ gã tư hai đường phố lớn giao nhau ở cổng Tuyên Võ là tới

pháp trường cửa Thái Thị.

Bọn thân binh của Vi Tiểu Bảo đã làm nhà rạp ngay đêm hôm trước.

Trước sau nhà rạp đều có quan binh bảo vệ cực kỳ nghiêm mật.

Đa Long vâng mật chỉ của Vua Khang Hy, chỉ sợ bọn Thiên Địa Hội đến cướp

pháp trường, đã thông tri cho Cửu môn đề đốc phái một ngàn quan binh canh giữ

bốn mặt.

Mao Thập Bát đứng giữa pháp trường, oai phong lẫm liệt hô lớn:

- Chúng ta đều là trăm họ người Đại Hán. Giang sơn gấm vóc của chúng ta bị

bọn Thát Đát chiếm cứ. Nhưng có một ngày sẽ giết hết bọn Thát Đát không còn

một mống.

Vi Tiểu Bảo xuống kiệu tiến vào nhà rạp.

Cỗ kiệu lớn dừng lại ở bên.

Vi Tiểu Bảo vào ngồi ghế giữa, gã mời Đa Long ngồi một bên.

Đa Long chau mày hỏi:

- Tên khâm phạm kia nói toàn điều đại nghịch vô đạo làm phiến động lòng

người. Chúng ta chém hắn lẹ đi cho rồi.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Phải đấy!

Rồi gã hô:

- Đem phạm nhân vào đây.

Bốn tên thân binh dẫn Mao Thập Bát vào, đè hắn quỳ xuống, nhưng hắn nhất

định không quỳ.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hắn không quỳ thì thôi.

Gã quay lại nhìn Đa Long hỏi:

- Đại ca đã xét nghiệm đích thân trọng phạm chưa? Không lầm lẫn đấy chứ?

Đa Long đáp:

- Không thể lầm được.

Vi Tiểu Bảo tuyên bố:- Đã nghiệm minh đích thân khâm phạm Mao Thập Bát và lập tức chém đầu.

Gã cầm bút son gạch vào tấm biển gỗ một cái vòng tròn rồi liệng ra.

Một tên thân binh lượm biển lên, lôi Mao Thập Bát ra ngoài.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Đa đại ca! Tiểu đệ cho đại ca coi mấy vật này hay lắm.

Gã lấy trong tay áo ra một tập khăn tay đặt xuống trước mặt Đa Long.

Trên khăn tay thêu một bức Xuân cung đồ. Trong họa đồ có đôi nam nữ mặt

mũi xinh tươi, dáng điệu linh động.

Đa Long vừa ngó thấy, cặp mắt sáng ngời như bị hấp dẫn. Lão lật coi xuống

tấm dưới thì lại là một bức Xuân cung đồ, nhưng tư thế đặc biệt kỳ dị. Lão cười

nói:

- Mô hình này thật ly kỳ cổ quái!

Lão lại lật xuống dưới thì tấm nào cũng thêu tư thế những nhân vật rất kỳ dị.

Có tấm một trai hai gái, có tấm hai trai ba gái.

Đa Long ngó những đồ hình trên khăn tay mà huyết mạch chạy dần dật. Lão

cười hỏi:

- Vi huynh đệ! Những bảo bối này huynh đệ lấy ở đâu? Mua dùm ca ca một

tấm được chăng?

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Những tấm này tiểu đệ kính biếu đại ca.

Đa Long tưởng chừng được vật chí bảo, cảm ơn không ngớt miệng. Lão trịnh

trọng cất tập khăn tay vào bọc.

Giữa lúc ấy, bên ngoài liên tiếp nổ ba tiếng súng •đùng đùng•.

Đội trưởng thân binh vào bẩm:

- Giờ hành hình đã tới. Xin đại ca ra giám trảm.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Được lắm.Gã đứng dậy dắt tay Đa Long tiến ra ngoài rạp thì thấy Mao Thập Bát cúi

đầu ủ rũ quỳ ở giữa pháp trường như người đang hôn mê.

Cố thủ nổi một hồi trống hiệu. Tiếng trống vừa dừng, đao phủ thủ quần áo

sặc sỡ giơ cánh tay lên, đưa quỷ đầu đao về phía trước.

Lập tức đầu phạm nhân bị chặt đứt.

Đao phủ thủ phóng chân trái đá một cái, mình phạm nhân té nhào. Cổ phun

máu tươi.

Đa Long nói:

- Đại công cáo thành. Chúng ta chia tay quách.

Vi Tiểu Bảo nghẹn ngào nói:

- Đa đại ca! Người này có mối giao tình thân thiết với tiểu đệ, nhưng Hoàng

thượng đã ra nghiêm chỉ tiểu đệ không cứu y được. Hỡi ơi!

Rồi gã tuôn đôi hàng lệ khóc nức nở.

Đa Long nói:

- Huynh đệ thật là người nghĩa khí. Bây giờ hãy thu liệm, an táng cho y cũng

là hết lòng với người chết.

Vi Tiểu Bảo "dạ" một tiếng rồi xùi xụt khóc hoài.

Vi Tiểu Bảo đưa tay áo lên lau nước mắt. Thực ra gã đã dấu gừng sống trong

tay áo để rụi mắt cho đỏ lên và chảy nước không ngớt. Trong lòng không khỏi

cười thầm, mừng cho kế hoạch của mình đã thành công.

Đa Long lại an ủi gã mấy câu, đoạn đưa gã lên xe rồi lão mới lên ngựa về

nhà.

Bọn thân binh rầm rộ theo cỗ xe ngựa trở về công tước phủ.

Mấy tên thân binh khác dùng chiếu quấn xác chết phạm nhân bỏ vào trong

quan tài đã chuẩn bị từ trước.

Chúng đậy nắp quan tài và đóng đinh cẩn thận.Bách tính đi coi cuộc hành hình không ngớt thì thào bàn tán. Họ thấy Mao

Thập Bát trước khi lâm tử còn dám lớn tiếng thóa mạ đều khen là anh hùng hảo

hán.

Cũng có người sợ bị liên lụy lên tiếng phiền trách và bảo họ:

- Khâm phạm làm điều đại nghịch vô đạo, chết là đáng tội, quyết không nên

tán dương để rước vạ vào mình.

Vi Tiểu Bảo về đến cửa phủ bước xuống, cỗ xe ngựa đi thẳng về phía nam,

ra khỏi thành Bắc Kinh, nhằm đường Dương Châu mà tiến.

Vi Tiểu Bảo lên ngựa vào cung phục chỉ. Vua Khang Hy lập tức triệu gã vào.

Nhà Vua đã được Đa Long báo cáo, biết Vi Tiểu Bảo lúc giám trảm Mao Thập

Bát đã khóc lóc rất nhiều.

Bây giờ Ngài thấy hai mắt gã đỏ hoe lại sưng lên, trong lòng không khỏi bịn

rịn.

Nhà Vua tưởng gã hết dạ trung trinh với chúa, liền nói mấy câu an ủi, rồi phán

bảo:

- Tiểu Quế Tử! Toán quân La Sát ngươi bắt đưa về đây thì số đông thỉnh cầu

ta phóng thích hồi quốc. Ta đã tha rồi. Hiện còn hơn hai trăm tên nguyện ý ở lại

Trung Quốc.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bắc Kinh so với Mạc Tư Khoa vừa náo nhiệt vừa cảnh đẹp hơn nhiều. Phục

vụ dưới quyền Hoàng thượng cũng vinh quang hơn phục vụ Sa hoàng nước La Sát.

Nhà Vua mỉm cười nói:

- Ta cho cánh quân La Sát này vào ngạch Thanh binh và kêu bằng "Nga La Tư

tá lãnh". Đội quân này giao cho ngươi thống lĩnh. Vậy ngươi liệu mà quản thúc cho

cẩn thận đừng để bọn chúng sinh sự trong kinh thành.

Vi Tiểu Bảo cả mừng quỳ xuống tạ ơn.

Gã ra khỏi cung đã thấy hai đội quân La Sát đứng chờ bên cầu Kim Thủy

ngoài cửa Thái Hòa.Những quân La Sát mặc sắc phục Thanh binh coi cũng hùng dũng lắm.

Vi Tiểu Bảo lấy ngân phiếu thưởng mỗi tên hai chục lạng bạc và cho nghỉ

ngơi ba ngày.

Bọn quân La Sát hô lớn:

- Ô là! Ô là!

Trong đời vua Khang Hy, hai đội quân La Sát thủy chung vẫn phục vụ trong

ngạch Thanh binh bằng một dạ trung thành.

Sứ thần ngoại quốc đến Bắc Kinh thấy Hoàng đế Trung Quốc sai khiến bọn

quan quân La Sát đều đem lòng kính sợ.

Bọn quan binh La Sát sau chết già hết, chế độ "Nga La Tư tá lãnh" mới cáo

chung.

(Lời chú của tác giả: Những việc liên quan đến quân La Sát được nhập ngạch

Thanh binh có ghi chép ở thiên "Nga La Tư tá lãnh khảo" trong quyển 9 pho Quý

Tỵ loại cảo.

Trong Thanh Đại Thông Sử, Tiêu Nhất Sơn đã viết: "Tù binh đưa về kinh sư

đều được tha hết cho vào ngạch tá lãnh. Đó là kỳ binh của Nga La Tư. Con cháu

họ đến nay hãy còn". Vậy là bọn kỳ binh Nga La Tư đã thành hôn với con gái

Trung Quốc và sinh con đẻ cái.)

Vi Tiểu Bảo về phủ thấy Công chúa cùng sáu vị phu nhân, ba con vừa trai

vừa gái vào cung đã về đông đủ. Ai cũng được Thái hậu ban thưởng rất nhiều.

Nhưng Công chúa có phần kém tươi.

Vi Tiểu Bảo hỏi ra mới biết vì Thái hậu coi bảy vị phu nhân ngang hàng như

nhau. Công chúa nghĩ mình là con gái của Thái hậu sinh ra mà chẳng được nửa lời

thân thiết hơn.

Dĩ nhiên Vi Tiểu Bảo hiểu rõ duyên cớ trong vụ này, gã liền an ủi nàng:

- Thế là Thái hậu tỏ ra rất công bằng. Nếu ngài đối với nàng bằng con mắt

khác biệt thì sáu vị tỷ muội kia không khỏi ghen tỵ.

Công chúa tức giận hỏi:- Thái hậu là mẫu thân ta mà thân cận với ta hơn một chút, họ cũng ghen tỵ ư?

Vi Tiểu Bảo ôm lấy nàng cả cười nói:

- Bây giờ ta đối với nàng một cách đặc biệt thử xem họ có ghen tỵ không?

Các phu nhân tắc lưỡi, lườm nguýt rồi cười ồ.

Công chúa là người ruột để ngoài da chẳng có tâm địa gì, thấy mọi người vui

nhộn, nàng cũng cười xòa.

Mười mấy ngày liền, các vương công đại thần đều thiết yến khánh hạ Vi Tiểu

Bảo công thành danh toại. Đêm nào gã cũng coi hát, đánh bạc chẳng được ngồi

không.

Một hôm Đa Long đến thăm nói cho gã hay về việc Phùng Tích Phạm mất tích

mười mấy ngày rồi. Người nhà hắn đã trình lên phủ Thuận Thiên.

Lão khẽ hỏi:

- Vi huynh đệ! Đêm hôm ấy chúng ta đánh hắn một trận rồi sau ra làm sao?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Sau đưa hắn về nhà ngay. Vậy chứ hắn đi đâu?

Đa Long hỏi:

- Huynh đệ không giết hắn chứ?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Nếu tiểu đệ kêu người hạ sát hắn thì đại ca đứng bên cũng trông thấy. Đa

đại ca! Đại ca có trông thấy không?

Đa Long nói ngay:

- Không có! Không có! Chúng ta chỉ đánh hắn một chập tơi bời, chứ có giết

hắn đâu?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Đúng thế! Vụ này anh em mình hành động chung nhau. Nếu xảy ra chuyện gì

cả đôi ta đều phải gánh lấy.

Đa Long mỉm cười nói:- Bọn người ở Phùng gia một mực bảo là đêm hôm ấy Thái lão ở Tiền Phong

doanh phái người đến đón lão đi rồi không trở về nữa. Tri phủ Thuận Thiên thân

hành đến bái phỏng lão Thái để hỏi về câu chuyện đêm trước. Lão Thái bẽn lẽn

quá chừng, chỉ ậm ờ chống chế cho xuôi chuyện không muốn nói nhiều. Sau lão

thấy tri phủ Thuận Thiên hỏi mãi, lão vừa thẹn vừa tức, đâm ra đổ quạu rồi tri phủ

Thuận Thiên cũng rút lui không dám điều tra nữa.

Đa Long dứt lời, đứng dậy vỗ vai Vi Tiểu Bảo vừa cười vừa nói tiếp:

- Vi huynh đệ! Huynh đệ quả là người có phúc tướng nên mới gặp may đến

thế! Lão Thái phu nhân nổi cơn tam bành khéo sao vừa đúng lúc, không muộn mà

cũng không sớm. Mụ thống lãnh đội nương tử quân đến tấn công hẻm Điềm Thủy

giữa lúc sự việc xảy ra. Thế là bao nhiêu sự tình đều trút cho lão Thái gánh hết.

Đa Long đoán thầm trong bụng: Phùng Tích Phạm bị Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm

hạ sát rồi. Lão cũng phải gánh một phần trách nhiệm về vụ này, mà đổ vạ cho Thái

đô thống ở Tiền Phong doanh là điều rất hợp ý lão.

Lão có biết đâu Thái đô thống phu nhân ra quân vừa đúng lúc. không sớm

không muộn, chẳng phải là chuyện ngẫu nhiên trùng hợp, mà là do Vi Tiểu Bảo đã

tính đúng thời khắc, phái người đi thông phong báo tin cho mụ.

Dĩ nhiên Đa Long cũng không biết Vi Tiểu Bảo đã phái bọn thân binh dựng

nhà rạp vào việc giám trảm đã làm hai tầng vách, để giấu Phùng Tích Phạm vào

trong đó.

Sau khi Đa Long xét nghiệm đích thân Mao Thập Bát rồi đưa hắn ra pháp

trường, Vi Tiểu Bảo nhân lúc đó lấy những tấm khăn tay thêu xuân cung đồ đưa

cho Đa Long coi để lão không chú ý đến việc ngoài. Đồng thời bọn thân binh

thủ hạ đánh tráo Phùng Tích Phạm làm Mao Thập Bát.

Phùng Tích Phạm vẫn còn hôn mê bất tỉnh, mặt đầy huyết tích, quần áo mặc

trên mình giống hệt Mao Thập Bát. Lão quỳ giữa pháp trường đầu cúi xuống,

chẳng một ai phát giác.

Người mà đao phủ chặt đầu chính là Phùng Tích Phạm.

Còn Mao Thập Bát đã có người ôm đặt vào trong xe của Vi đại soái đậu sẵn

ở bên rạp. Miệng hắn bị nhét giẻ, muốn la lối chửi bới cũng không được.Cuộc hành hình kết thúc, Vi Tiểu Bảo về đến cổng phủ xuống xe rồi, cỗ xe

lập tức chạy đi Dương Châu, ngựa không dừng vó.

Xe ngựa qua sông Hoàng Hà, mấy người ruổi xe mới nói rõ cho Mao Thập Bát

hiểu rõ nội vụ.

Mao Thập Bát mười phần chắc chết mà lại sống sót, nhuệ khí có phần chùn

nhụt. Bây giờ hắn mới biết Vi Tiểu Bảo liều mạng cứu hắn, nên hắn cũng không tiết

lộ vụ này nữa.

Vi Tiểu Bảo phải đi thù tạc đồng trào liêu hữu mười mấy ngày liền, đến nay

rảnh việc lại nhớ tới anh em Thiên Địa Hội liền giả làm một công tử nhà giàu, bảo

Song Nhi hóa trang làm kẻ thân tùy cùng nhau ra cầu Thiên Kiều mong gặp bọn

Tiền lão bản, Cao Ngạn Siêu nối lại chuyện cũ.

Hai người ra tới cầu Thiên Kiều trà trộn vào đám đông chừng nửa giờ thì thấy

Từ Thiên Xuyên lưng đeo rương thuốc đang ngồi trong tiểu trà quán uống nước.

Vi Tiểu Bảo cả mừng tiến vào, ngồi xuống cạnh Từ Thiên Xuyên khẽ gọi:

- Từ đại ca!

Từ Thiên Xuyên đứng phắt dậy, nét mặt hầm hầm, rảo bước đi ra ngoài.

Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên, đứng dậy theo ra thì thấy Từ Thiên Xuyên đi tới chỗ

vắng người. Gã liền cùng Song Nhi theo hút cách một quãng xa.

Từ Thiên Xuyên xuyên qua ba ngõ hẻm, vượt hai đường nhỏ đến một tiểu

hạng. Lão dừng lại trước căn nhà thứ năm gõ cửa.

Cửa mở, Phàn Cương chạy ra đón. Hắn vừa ngó thấy Vi Tiểu Bảo không khỏi

sửng sốt rồi cũng mặt giận lầm lỳ.

Vi Tiểu Bảo bước lẹ tới cười nói:

- Phàn đại ca! Đại ca bình yên chứ?

Phàn Cương đặng hắng một tiếng, không thèm đáp lại.

Từ Thiên Xuyên hỏi:

- Vi đại soái! Phải chăng đại soái đem binh mã đến bắt bọn ta?

Vi Tiểu Bảo vội đáp:- Từ tam ca! Sao tam ca... lại nói giỡn thế?

Phàn Cương chạy vội ra đầu hẻm đảo mắt nhìn quanh rồi trở về đóng cửa lại.

Vi Tiểu Bảo và Song Nhi theo sau hai người xuyên qua sân vào nhà đại sảnh,

thì thấy bọn Huyền Trinh đại nhân, Cao Ngạn Siêu, Tiền lão bản cũng tụ hội ở đây.

Quần hùng vừa ngó thấy Vi Tiểu Bảo đều •ủa• lên một tiếng rồi đứng phắt

dậy.

Vi Tiểu Bảo chắp tay chào:

- Chúng vị ca ca! Các vị đều vui vẻ cả.

Huyền Trinh đạo nhân tức giận nói:

- Bọn ta chưa bị ngươi giết chết kể ra cũng còn là may.

Y rút trường kiếm ở sau lưng ra đánh soạt một tiếng.

Vi Tiểu Bảo lùi lại một bước, run lên hỏi:

- Sao các vị ca ca... lại đối phó với tiểu đệ bằng cách này? Tiểu đệ... có làm

điều chi lầm lỗi với các vị đâu?

Từ Thiên Xuyên trợn mắt lên nói:

- Tổng đà chúa bị ngươi gia hại, Phong nhị ca bị ngươi giết chết. Mấy bữa

trước ngươi lại mới chặt đầu Mao Thập Bát. Bọn ta... bọn ta hận mình chưa thể rút

xương, lột da ngươi.

Vi Tiểu Bảo rất đỗi hoang mang, vội đáp:

- Không... không có những chuyện đó. Những vụ này hoàn toàn không đúng

sự thực.

Huyền Trinh sấn lên một bước, tay trái nắm lấy vạt áo Vi Tiểu Bảo, lớn tiếng:

- Bọn ta chưa nghĩ được cách nào để giết ngươi, thì nay... tên tiểu hán gian

lại đến đây nộp mình. Tổng đà chúa quả là sống khôn chết thiêng.

Vi Tiểu Bảo thấy tình thế nguy kịch liền quay đầu lại, toan thi triển công phu

•Thần hành bách biến• để chuồn đi cho lẹ. Nhưng gã thấy Từ Thiên Xuyên và

Phàn Cương tay cầm binh khí đứng ở sau lưng, vội phân trần:- Câu chuyện khá dài. Chúng ta là anh em một nhà, sao... sao các vị lại nóng

nảy thế?

Huyền Trinh quát lớn:

- Ai thèm làm anh em với tiểu hán gian? Tên tiểu quỷ đừng hoa ngôn xảo ngữ

nữa, chẳng ai thèm nghe đâu. Hãy mổ bụng tên lòng lang dạ chó để tế điện Tổng

đà chúa cùng Phong nhị ca rồi sẽ tính.

Lão rụt tay trái về kéo Vi Tiểu Bảo lại gần.

Vi Tiểu Bảo la lớn:

- Trời ơi! Oan uổng!...

Song Nhi thấy thế nguy liền rút khẩu súng lục La Sát bắn chỉ thiên một phát.

Lập tức trong nhà khói mù giàn dụa.

Đồng thời thị nắm sau lưng Vi Tiểu Bảo lôi mạnh một cái.

Huyền Trinh đạo nhân năm trước đã nếm mùi đau khổ về món hỏa khí tây

dương, y vừa nghe súng nổ đã chấn động tâm thần, nới tay ra nên Vi Tiểu Bảo

được Song Nhi lôi lại.

Song Nhi lùi vào góc nhà, đứng chắn trước mặt Vi Tiểu Bảo, chĩa súng lục vào

quần hào quát hỏi:

- Các vị có chịu nghe lẽ phải hay không?

Huyền Trinh lại hô:

- Tiến! Anh em tiến lên! Quyết liều mạng với chúng!

Y cầm kiếm muốn xông vào, nhưng Tiền lão bản cản lại nói:

- Đạo trưởng! Hãy khoan!

Lão nhìn Song Nhi hỏi:

- Ngươi có chuyện gì hãy nói cho anh em nghe.

Song Nhi đáp:

- Hay lắm!Thị liền thuật chuyện từ lúc Vi Tiểu Bảo vì việc cứu Trần Cận Nam mà phải

xuất ngoại đào vong. Gã đã bị Thần Long giáo bắt đưa đến Thông Cật đảo thế

nào? Trần Cận Nam bị Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm hạ sát làm sao? Âm

mưu của Phong Tế Trung bại lộ và bị thị bắn chết trong trường hợp nào? Vua

Khang Hy ra lệnh cho Vi Tiểu Bảo phải tiêu diệt Thiên Địa Hội và gã đã tìm cách

gì để không tuân lệnh. Mới đây Vi Tiểu Bảo đã thay người hành hình ngoài pháp

trường để cứu Mao Thập Bát làm sao? Nhất nhất thị kể rõ từ đầu đến cuối.

Song Nhi không phải là kẻ lợi khẩu, ăn nói hoạt bát, nhưng quần hùng ở với

thị lâu ngày đã biết thị vốn tính thành thực, không quen giả dối, lại thấy thị kể

chuyện một cách tự nhiên, không ngần ngại, không ấp úng, tỏ ra đều là sự thực,

quyết chẳng thể bịa đặt trong khoảnh khắc.

Quần hùng lại nghĩ tới hành động của Phong Tế Trung, quả nhiên đều phù

hợp, nên không nghi ngờ nữa.

Huyền Trinh hỏi:

- Thế mà sao trong thánh... con mẹ nó..., thánh chỉ của Hoàng đế Thát Đát lại

nói là Vi hương chủ đã gia hại Tổng đà chúa?

Y đổi giọng hô Vi Tiểu Bảo là Vi hương chủ đủ tỏ trong lòng y đã tin đến

chín phần.

Song Nhi lắc đầu đáp:

- Cái đó thì tại hạ không hiểu được.

Tiền lão bản nói ngay:

- Đây là âm mưu của Hoàng đế Thát Đát muốn cho Vi hương chủ chặt đứt liên

lạc với bản hội và từ nay phải nhất tâm làm quan lớn với người Mãn Châu.

Từ Thiên Xuyên xen vào:

- Tiền huynh nói rất có lý.

Rồi lão tra đao vào vỏ, co gối quỳ xuống trước mặt Vi Tiểu Bảo xin lỗi:

- Bọn thuộc hạ một phen nóng nảy hồ đồ, hành động lỗ mãng thành ra cam

bề đắc tội với Vi hương chủ, thực đáng muôn thác. Bây giờ cam bề lãnh phạt.Tiếp theo quần hùng đều quỳ cả xuống.

Huyền Trinh tự tát vào mặt mấy cái, cất tiếng thóa mạ:

- Thật là ngu xuẩn! Thật là đáng chết.

Vi Tiểu Bảo cùng Song Nhi vội quỳ xuống đáp lễ.

Vi Tiểu Bảo vừa hết kinh hãi liền cười nói:

- Xin các vị ca ca dậy đi. Không biết là không có lỗi. Sự hiểu lầm trong lúc

nhất thời phỏng có chi đáng kể!

Quần hùng đứng dậy lại nói mấy câu xin lỗi lần nữa.

Lúc này Vi Tiểu Bảo nhơn nhơn đắc ý, khoa chân múa tay thuật lại những

chuyện đã qua.

Dĩ nhiên câu chuyện của gã kể linh động hơn Song Nhi, việc gì cũng trải qua

những cơn nguy hiểm chết người. Tuy nhiên quần hùng nghe thì nghe đấy nhưng

không tin gã bằng Song Nhi.

Sau khi mọi chi tiết đều hiểu rõ, quần hùng ghé tai thì thầm thương nghị một

hồi.

Phàn Cương lại lên tiếng:

- Vi hương chủ! Tổng đà chúa bất hạnh bị gian nhân sát hại, Thiên Địa Hội lâm

vào tình trạng quân vô tướng hổ vô đầu. Anh em Thanh Mộc Đường đều muốn suy

cử Vi hương chủ lên làm Tổng đà chúa Thiên Địa Hội, chỉ e anh em bảy Đường kia

không phục, hoặc sinh lòng nghi kỵ. Vậy anh em xin Vi hương chủ đi lập một công

trạng lớn lao.

Vi Tiểu Bảo xua tay lia lịa đáp:

- Xin ca ca gác việc đó lại. Cái gì chứ Tổng đà chúa thì tiểu đệ không làm

nổi rồi.

Nhưng gã động tính hiếu kỳ hỏi lại:

- Có điều tiểu đệ chưa hiểu công trạng lớn lao mà Phàn đại ca nói là công

trạng gì?

Phàn Cương đáp:- Mối loạn tam phiên đã bình định, Đài Loan lại bị bọn Thát Đát chiếm đóng,

người La Sát ở phương Bắc bị Vi hương chủ đánh đuổi. Công cuộc phản Thanh

phục Minh của chúng ta càng ngày càng khó khăn.

Hồi 245

NGHE VUA PHáN TIểU BảO KINH HồN

Vi Tiểu Bảo thở dài nói:

- Đúng thế!

Gã tự nhủ:

- Đã khó khăn như vậy thì chúng ta nên thôi đi, đừng tính chuyện phản Thanh

phục Minh nữa.

Phàn Cương nói:

- Hoàng đế Thát Đát tuy nhỏ tuổi mà cực kỳ tinh minh mẫn cán, lại biết thu

phục nhân tâm, lấy lòng trăm họ. Bách tính trong thiên hạ đối với Tiền triều đã

nhạt dần. Nếu còn lằng nhằng mấy năm nữa thì e rằng bọn Thát Đát giữ giang sơn

ổn định quá rồi.

Vi Tiểu Bảo lại thở dài đáp:

- Đúng thế!

Gã nghĩ thầm:

- Tiểu Hoàng đế giữ vững giang sơn cũng chẳng có gì là không hay.

Phàn Cương nói:

- Vi hương chủ được tiểu Hoàng đế rất sủng ái mà lại hết lòng tin cẩn. Toàn

thể anh em muốn xin Vi hương chủ dự định kế hoạch, đưa mọi người trà trộn vào

cung đâm chết Hoàng đế Thát Đát.

Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi đáp:

- Cái đó... cái đó không làm được rồi...

Phàn Cương hỏi:

- Xin hỏi Vi hương chủ: Cái khó ở trong vụ này ở chỗ nào?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Trong Hoàng cung phòng thủ rất nghiêm mật. Ngoài một số đông thị vệ lại

còn nào Kiêu Kỵ Doanh, nào là Tiền Phong doanh, nào là Hộ quân doanh, nào là

Hỏa khí doanh, nào là Kiện nhuệ doanh, nào là Hổ thương doanh... nhất nhất đều

gia tâm bảo giá. Ngay một đoàn thị vệ cũng đã chia ra làm Ngự tiền thị vệ, Càn

thanh môn thị vệ, Tam kỳ thị vệ. Vậy mà muốn hành thích Hoàng đế thì thật khó

khăn hơn cả lên trời.

Quần hùng nghe gã cự tuyệt đã không bằng lòng, lại nghe giọng lưỡi xưng hô

một điều Hoàng thượng, hai điều Hoàng đế, rất mực nô lệ, mọi người càng lộ vẻ

giận dữ.

Phàn Cương liếc mắt nhìn quần hung rồi ngó Vi Tiểu Bảo nói:

- Vi hương chủ! Việc hành thích Hoàng đế Thát Đát dĩ nhiên cực kỳ khó khăn,

nhưng do đích thân Hương chủ cầm đầu đại cuộc thì cũng không đến nỗi tuyệt vô

hy vọng thành công. Anh em thuộc hạ tiến cung rồi, chẳng một ai cầu sống sót để

trở ra, nhưng bất luận trường hợp nào cũng ráng bảo vệ cho Hương chủ được

bình yên. Hương chủ đã lập rất nhiều công lớn cho bản hội. Thực tình mười mấy

vạn anh em không được một người bằng Hương chủ. Giữa Thiên Địa Hội và bọn

Thát Đát Mãn Thanh đã thành thế chẳng đội trời chung. Từ đây cuộc hưng thịnh

của bản hội và đại nghiệp phản Thanh phục Minh chỉ còn trông cậy vào Vi hương

chủ gánh lấy trọng trách.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:

- Vụ này tiểu đệ nhất quyết không làm nổi. Hoàng thượng sai tiểu đệ trừ diệt

Thiên Địa Hội, tiểu đệ không chịu làm. Đó là giữ điều nghĩa khí. Các vị ca ca bảo

tiểu đệ hành thích Hoàng đế, tiểu đệ không làm cũng là giữ điều nghĩa khí.

Huyền Trinh tức giận hỏi:

- Hương chủ là người Hán sao lại đi giữ nghĩa khí với Hoàng đế Thát Đát? Như

vậy chẳng hóa ra Hương chủ là... Hán...

Y toan thóa mạ hắn là Hán gian, song y lại nín nhịn.

Phàn Cương nói:- Vụ này quan hệ cực kỳ trọng đại, Vi hương chủ khó mà phúc đáp ngay

được đó là lẽ thường. Bọn thuộc hạ xin Hương chủ nghĩ kỹ lại rồi sẽ cho bọn

thuộc hạ biết sau.

Vi Tiểu Bảo đáp ngay:

- Được rồi! Được rồi! Để tiểu đệ nghĩ lại xem sao đã.

Từ Thiên Xuyên thấy gã chẳng có chút chi thành thực, liền nói thêm:

- Anh em chỉ mong Vi hương chủ nhớ tới di chúc của cố Tổng đà chúa, đừng

quên thảm họa của kẻ vong quốc. Đã là người Hán quyết không làm nô lệ cho

bọn Thát Đát.

Vi Tiểu Bảo lại đáp:

- Đúng! Đúng! Cái đó thì không thể quên được.

Quần hùng đều biết gã nói câu này không phải tự đáy lòng phát ra, đều lẳng

lặng.

Vi Tiểu Bảo nhìn người kia ngó người nọ cười hỏi:

- Các vị ca ca! Sao các vị lại không nói nữa?

Quần hùng vẫn không lên tiếng.

Vi Tiểu Bảo thấy cụt hứng, chẳng khác ngồi trên đống gai, liền nói:

- Vậy bữa nay chúng ta hãy tạm chia tay. Tiểu đệ về nghĩ kỹ lại rồi sẽ cùng

các vị đại ca thương lượng.

Dứt lời gã đứng lên.

Quần hùng tiễn chân ra đến đầu ngõ rồi kính cẩn hành lễ từ biệt.

Vi Tiểu Bảo về phủ ngồi trong thư phòng phát ngán.

Chiều hôm ấy có thánh chỉ tuyên triệu Vi Tiểu Bảo vào Ngự thư phòng triều

kiến Hoàng thượng.

Nhà Vua vừa ngó thấy Vi Tiểu Bảo, hỏi ngay:

- Phùng Tích Phạm đột nhiên mất tích, vụ này đầu đuôi ra làm sao?

Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi nghĩ thầm:- Sao Hoàng thượng lại hỏi ta về vụ này?

Gã liền đáp:

- Tâu Hoàng thượng! Đêm hôm xảy ra vụ thất tung Phùng Tích Phạm nô tài

cùng Đa tổng quản và bọn Ngự tiền thị vệ ở với nhau một chỗ. Sau nghe nói Thái

đô thống ở Tiền Phong doanh phái người đến mời Phùng Tích Phạm. Nô tài không

hiểu sao Phùng Tích Phạm lại mất biến. Y là một người ở Đài Loan đầu hàng, hành

tung rất cổ quái. Không chừng y ngấm ngầm vận động mưu đồ chuyện bất pháp.

Nô tài sẽ điều tra cẩn thận vụ này.

Vua Khang Hy mỉm cười nói:

- Hay lắm! Phùng Tích Phạm lạc lõng nơi đâu, ta giao cho ngươi điều tra rõ

rệt rồi về báo cáo ngay. Ta đã chuẩn cho người Đài Loan đầu hàng đều được hộ

vệ chu đáo mà hắn đột nhiên mất tích một cách hồ đồ là ta thất tín với thiên hạ.

Vi Tiểu Bảo trán toát mồ hôi, tự hỏi:

- Lời Hoàng thượng đầy vẻ nghiêm trọng, chẳng lẽ Ngài biết ta giết Phùng

Tích Phạm?

Gã vội đáp:

- Dạ, dạ!

Nhà Vua lại hỏi:

- Sáng nay ngươi đến chơi trong ngõ Ngân Hạnh có vui vẻ không?

Vi Tiểu Bảo sửng sốt hỏi lại:

- Tâu Hoàng thượng! Ngõ Ngân Hạnh nào?

Rồi gã nhớ tới nơi trú chân của quần hùng Thiên Địa Hội ở trong ngỏ hẻm,

ngoài đầu ngõ có hai cây Ngân Hạnh lớn, và gã đoán chắc là ngõ hẻm đó rồi.

Hoàng đế đã biết cả tên ngõ hẻm thì còn điều gì giấu ngài được nữa?

Gã sợ quá, toàn thân toát mồ hôi lạnh ngắt. Hai chân nhũn ra, gã quỳ mọp

xuống, dập đầu tâu:

- Thánh thượng nhìn xa muôn dặm, hiểu hết mọi sự trên thế gian. Dù sao nô

tài thủy chung một dạ trung quân.Vua Khang Hy thở dài nói:

- Bọn phản tặc đó bức bách ngươi gia hại ta mà ngươi nhất định không chịu.

Kể ra ngươi quả đã trọng điều nghĩa khí, nhưng... nhưng... Tiểu Quế Tử! Ngươi định

chơi hai mang suốt đời được chăng?

Vi Tiểu Bảo dập đầu binh binh tâu:

- Xin Hoàng thượng xét soi. Nô tài nhất quyết không làm Tổng đà chúa Thiên

Địa Hội, Hoàng thượng bất tất phải quan tâm điều đó.

Nhà Vua lại thở dài, ngửng mặt lên, ngơ ngẩn xuất thần một lúc rồi thủng

thẳng hỏi:

- Ta làm Hoàng đế Trung Quốc, tuy chẳng thể kịp Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang gì

gì, nhưng về việc thương yêu trăm họ, chăm lo trị nước so với các Hoàng đế Minh

triều trước đây đã có vị nào hơn ta? Hiện nay đã dẹp xong loạn Tam Phiên, lấy

lại đảo Đài Loan. Nước La Sát cũng không dám xâm phạm bờ cõi nữa. Từ đây sắp

tới thiên hạ thái bình trăm họ an cư lạc nghiệp. Vậy mà bọn phản tặc ở Thiên Địa

Hội đòi quy phục họ Chu ở Minh triều, chẳng lẽ trăm họ dưới quyền cai trị của họ

Chu được hưởng hạnh phúc hơn ngày nay?

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:

- Cái đó thì ta không thể biết được.

Ngoài miệng gã đáp:

- Nô tài thường được nghe nhân dân có câu hát: •Từ ngày Chu đế ra đời,

mười năm đói kém đến ngoài chín năm• hiện nay mưa hòa gió thuận, quốc thái dân

an. Đức Hoàng thượng là Điểu Sấng Dủy Thang, Chu Hoàng đế bì thế nào được?

Vua Khang Hy mỉm cười nói:

- Ngươi đứng dậy đi!

Nhà Vua đứng lên đi lui đi tới trong thư phòng một lúc rồi nói:

- Phụ hoàng ta là người Mãn Thanh, nhưng Hiếu Khang Hoàng hậu mẫu thân ta,

là người Hán. Vậy dòng máu trong mình ta cũng thuộc về Hán tộc. Ta đối với trăm

họ khắp thiên hạ coi đều bằng nhau, quyết chẳng tơ hào thiên lệch người Hán hay

người Mãn. Sao bọn chúng căm hận ta hoài, đòi giết ta cho bằng được?Vi Tiểu Bảo tâu:

- Bọn người phản nghịch vô đạo rất đỗi hồ đồ, chẳng bõ cho Hoàng thượng

phải quan tâm.

Vua Khang Hy gục gặc cái đầu, nét mặt không khỏi lộ vẻ thê lương. Sau một

lúc lâu, ngài lại nói:

- Người Mãn Châu có kẻ hay người dở, người Hán cũng có kẻ dở người hay.

Hạng người tồi bại ở đời nhiều quá giết không hết được. Ta mong cảm hóa họ đi

vào đường chính mà cảm thấy mình không đủ bản lĩnh. Hỡi ơi! Làm Hoàng đế thật là

khó quá!

Ngài nhìn Vi Tiểu Bảo một lúc rồi bảo gã:

- Ngươi đi đi!

Vi Tiểu Bảo lại dập đầu từ biệt rồi lui ra khỏi Hoàng cung. Gã cảm thấy toàn

thân mát lạnh, vì vừa rồi gã sợ quá toàn thân ướt đẫm mồ hôi. áo trong áo ngoài

đều thấm nước.

Vi Tiểu Bảo ra khỏi cửa cung thở phào một cái, bụng bảo dạ:

- Trong anh em Thiên Địa Hội lại có quân gian tế trà trộn vào. Đã hạ sát một

tên Phong Tế Trung, thì tên khác lại mọc ra liền. Nếu không làm sao đức Hoàng

thượng lại biết cả quần hào yêu cầu ta hành thích Ngài? Nhưng tên gian tế này là

ai?

Gã về phủ ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu mà chẳng tìm ra được manh mối chi hết.

Gã lại tự hỏi:

- Hoàng thượng giao cho ta trọng trách điều tra vụ Phùng Tích Phạm lạc lõng

nơi đâu. Coi thái độ Ngài, dường như có ý hoài nghi ta nhúng tay vào vụ này,

nhưng Ngài chưa có chứng cớ chuẩn đích mà thôi. Ta biết làm cách nào để lấp liếm

cho yên chuyện?

Gã nghĩ lui nghĩ tới không ra được kế gì, trong lòng rất là phiền muộn.

Vi Tiểu Bảo lại nhớ đến ngày trước gã cùng Vua Khang Hy trò chuyện cười

đùa, cả hai người cùng khoan khoái trong lòng mà hối tiếc.Bây giờ hai người mỗi ngày một lớn tuổi. Hoàng thượng mỗi ngày một oai

nghiêm. Còn gã cũng không dám nói nhăng nói càn.

Gã tự hỏi:

- Cái chức Phủ Viễn Đại tướng quân cùng Nhất đẳng Lộc Đỉnh công mình làm

chẳng thấy hứng thú gì, thực không bằng hồi còn nhỏ ở Lệ Xuân viện lại được ung

dung khoái lạc.

Gã nghĩ tiếp:

- Anh em Thiên Địa Hội bức bách ta hành thích Hoàng thượng. Mặt khác

Hoàng thượng lại bức bách ta diệt trừ Thiên Địa Hội, Ngài còn hỏi: •Tiểu Quế Tử!

Ngươi định chơi hai mang suốt đời được chăng?• Con mẹ nó! Lão gia không làm

nữa. Cái gì cũng không làm.

Trong lòng gã nghĩ đến năm chữ •Cái gì cũng không làm• gã cảm thấy trong

lòng thư thái bất giác thò tay vào bọc móc lấy quân xúc xắc liệng xuống bàn.

Vi Tiểu Bảo vừa liệng xúc xắc vừa hô:

- Không làm gì là hay rồi. Gieo thử một quẻ cho ra Mãn Đường Hồng.

Bốn con xúc xắc chạy lọc cọc rồi ngả ra ba điểm hồng hướng lên trời. Còn

con thứ tư lại thành lục điểm. Thế là đen quá rồi, đen không thể nào đen hơn

được nữa.

Lúc gã reo xúc xắc đã ráng làm cho cả bốn con ngả xuống theo ý mình mà

không được. Gã tức mình chửi luôn một câu:

- Con mẹ nó!

Gã lại lượm xúc xắc lên gieo lại. Nhưng lần nào cũng chưa được như ý. Mãi

đến lần thứ tám mới thành Mãn Đường Hồng.

Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nói:

- Té ra ông Trời muốn ta phải làm cho Hoàng thượng bẩy việc lớn rồi mới

nghỉ được.

Gã lẩm nhẩm tính:- Bẩy việc lớn ta làm đủ rồi. Việc đầu tiên là giết Ngao Bái. Việc thứ hai là

cứu mạng lão Hoàng đế. Việc thứ ba là cứu giá Hoàng thượng ở Ngũ Đài Sơn. Việc

thứ tư là cứu Thái hậu. Việc thứ năm là giết mụ điếm già. Việc thứ sáu là phá hủy

Thần Long giáo. Việc thứ bảy là bắt Ngô ứng Hùng. Việc thứ tám là tiến cử bọn

Trương Dũng, Triệu Lương Đống... phá Ngô Tam Quế. Việc thứ chín đánh Nhã Khắc

Tát... nhiều quá rồi, nhiều quá rồi. Còn việc nhỏ không kể. Nguyên việc lớn vừa

đúng bẩy, không nhiều mà cũng không ít.

Gã tự nhủ:

- Những việc nhỏ kể làm quái gì? Những việc đáng kể bảy vụ là đủ rồi. Nói

tóm lại lão gia không làm nữa. Chẳng làm quan cũng không tạo phản, nhưng lão gia

đi làm gì bây giờ?

Gã nghĩ lui nghĩ tới nhận thấy trở về Dương Châu là khoan khoái hơn hết.

Vi Tiểu Bảo nghĩ tới chuyện trở về Dương Châu, bất giác trong lòng cao

hứng, lớn tiếng gọi:

- Người nhà đâu?

Hai tên thân binh chạy vào.

Gã sai lấy rượu nhắm tự mình rót uống.

Gã vừa uống rượu vừa tính toán dùng cách gì cho khỏi hậu hoạn. Cần nhất là

nhà Vua không sai người đến bắt, Thiên Địa Hội cũng không tìm đến bức bách

mình phải theo họ tạo phản.

Gã tính cả đến việc trong bảy vị phu nhân thì sáu vị chịu nghe lời gã. Nhưng

bảo Công chúa theo gã đến Dương Châu thì dù vui vẻ đến đâu, nàng cũng nhất

định không chịu.

Gã muốn mở kỹ viện ở Dương Châu, lại e Tô Thuyên, A Kha, Phương Di, ba

người không nghe theo.

Rồi gã tự nhủ:

- Thôi được! Rồi ta sẽ tính dần, tới đâu hay tới đó. Lão gia đã có sản nghiệp

mấy trăm vạn lạng bạc, chẳng mở kỹ viện cũng không chết đói. Có điều mình chưa

tìm được hướng đi nào cho khoan khoái mà thôi.Tối hôm ấy trong phủ mở gia yến. Bảy vị phu nhân thấy Vi Tiểu Bảo cười nói

huênh hoang ra chiều rất cao hứng, trái với những ngày gần đây gã mặt buồn rười

rượi.

Bảy vị đồng thanh hỏi:

Chuyện gì mà vui thế?

Vi Tiểu Bảo mỉm cười đáp:

- Thiên cơ bất khả lộ.

Công chúa hỏi:

- Hoàng đế ca ca lại thăng quan cho phải không?

Tăng Nhu hỏi:

- Chắc đánh bạc được lớn! Câu chuyện Thiên Địa Hội hết phiền phức rồi ư?

A Kha nói:

- Thôi lại thấy cô nào nhà người ta coi vừa mắt muốn lấy làm phu nhân phòng

thứ tám rồi.

Vi Tiểu Bảo chỉ lắc đầu.

Sau gã thấy các phu nhân hỏi gắt quá, đành đáp:

- Ta không muốn nói, nhưng các vị nhất định hỏi cho ra, ta đành phải nói vậy.

Bảy vị phu nhân dừng lại lắng tai nghe.

Vi Tiểu Bảo nghiêm nghị nói:

- Ta làm quan lớn lại phong đến tước công mà một chữ không biết thì còn ra

thể thống gì nữa. Bắt đầu từ mai ta muốn đọc sách làm văn, đi thi đỗ Trạng Nguyên

rồi làm Hàn lâm.

Bảy vị phu nhân ngơ ngác nhìn nhau, nhưng chỉ một lát lại phá lên cười. Ai

cũng biết đức phu quân giết người phóng hỏa, trộm cắp lừa gạt việc gì cũng làm

được. Trong thiên hạ chỉ có việc duy nhất gã không làm nổi là đọc sách để biết

chữ.Sáng sơm hôm sau, quan phủ Thuận Thiên đến bái yết, nói là vâng chỉ dụ của

Thượng quan được biết đức Hoàng thượng đã ủy thác việc tra cứu vụ Trung Thành

bá Phùng Tích Phạm thất tung cho Vi công gia, nên y đến phủ để chờ sai khiến.

Vi Tiểu Bảo chau mày hỏi:

- ở nha môn phủ Thuận Thiên rất đông công sai, bổ khoái, những ngày gần

đây đã điều tra được manh mối gì chưa?

Tri phủ đáp:

- Bẩm đại soái! Vụ Phùng bá tước thất tung sự tình rất ngoắt ngoéo! Ty

chức mấy ngày liền đôn đốc sai bọn sai dịch minh tra ám phỏng mà chưa được

manh mối chi hết, nên trong lòng nóng nẩy vô cùng. Bữa nay được tin Hoàng

thượng đặc phái Vi công gia chủ trương, ty chức vui mừng quá độ, tưởng chừng

được thăng quan liền ba cấp cũng không băng.

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

- Vi công gia là một bậc đại thần anh minh mẫn cán đệ nhất tại triều đình.

Công gia lên ngựa săn sóc ba quân, xuống ngựa săn sóc dân tình. Bất luận việc gì

nhiêu khê đến đâu đã lọt vào tay Công gia là lập tức được giải quyết một cách

ổn thỏa. Bọn nha môn của ty chức được tin này cũng cực kỳ hể hả. Chúng nói là

nay có Công gia chủ trương khác nào chúng được ẩn mình dưới cây cao bóng cả.

Vi Công gia đã xuất mã thì đến bọn quỷ La Sát còn phải chạy tơi bời. Lo gì

không tìm ra manh mối vụ Phùng Bá tước?

Vi Tiểu Bảo nghe tri phủ xiểm nịnh cũng lọt tai, mà thực ra y đổ trách nhiệm

lên đầu gã.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:

- Không hiểu thi thể Phùng Tích Phạm hiện giờ chúng dấu ở đâu? Đêm nay ta

phải dùng Hóa thi phấn để làm cho tiêu tan, không để họ nắm được chuôi. Ta chỉ

cần làm mất hết chứng cứ là chẳng ai đổ tội lên đầu mình được. Đáng lý ta phải

nghĩ tới việc làm tiêu tan thi thể từ trước, nhưng mấy bữa nay bận quá quên khuấy

đi mất.

Viên tri phủ lại nói:- Hàng này Trung Thành bá phu nhân phái người đến nha môn của ty chức

ngồi lỳ suốt ngày không chịu trở về. Họ quyết đòi người cho bằng được. Ty chức

thật khó bề đối phó.

Y ngừng lại một chút rồi tiếp:

- Hôm qua Phùng phủ lại có người đến báo án trình về việc một ả tiểu thiếp

của Trung Thành Bá tên gọi Lan Hương, theo một tên mã phu đi trốn rồi. Mụ cuốn

gói khá nhiều vàng bạc và đồ trang sức. Nếu Trung Thành Bá không về nhà thì e

rằng bọn cơ thiếp tỳ bộc sẽ bỏ đi hết, trong nhà chẳng còn một ai.

Vi Tiểu Bảo hắng giọng đáp:

- Không hiểu Phùng Tích Phạm lăn lóc ở chỗ phong lưu đàng điếm nào mà kín

thế? Phủ đài hãy phái nhiều nhân lực đến các ổ ăn chơi điều tra kỹ càng lại. Hắn

ham mê cờ bạc trai gái không thèm trở về nhà thì có bị vợ nhỏ bỏ đi theo kẻ

khác cũng là đáng kiếp.

Viên tri phủ nói:

- Dạ dạ! Theo lẽ ra Phùng bá tước có đi thăm thú những nơi liễu ngõ hoa

tường thì trong bấy nhiêu ngày cũng nên trở về một lần mới phải.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Cái đó khó nói lắm, Phùng Tích Phạm là con quỷ háo sắc chứ chẳng phải

hạng người chính nhân quân tử như phủ tôn đâu. Phủ tôn có lần đến những nơi lầu

hồng gác tía cũng chỉ một ngày hay nửa đêm là đã trở về trình diện rồi.

Tri phủ cười nói:

- Ty chức không dám! Ty chức không dám!

Giữa lúc ấy Trung Thành bá phu nhân sai người anh em của mụ đưa đồ lễ đến

và nói là kính cẩn dập đầu trước Vi Công gia để tạ ơn Công gia ra sức điều tra

vụ án này.

Vi Tiểu Bảo dặn thân binh đừng cho họ vào và không nhận lễ vật.

Thân binh lại vào báo:- Bẩm đại soái! Người nhà họ Phùng cực kỳ vô lễ. Lúc ra đi hắn không ngớt

cười lạt, nói những gì oan oan tương báo, có thù trả thù.

Tên thân binh nói tiếp:

- Gia nhân ở Phùng phủ còn bảo đức Hoàng thượng biết chuyện này rồi. Thế

nào cũng điều tra ra gốc ngọn. Đừng ai hòng lấy tay che mặt trời, bịt mắt thánh

minh thiên tử. Bẩm đại soái! Hắn dám đến đây ngang tàng thì thật là lớn mật! Tiểu

nhân muốn tát cho hắn mấy cái bạt tai.

Bữa trước có chuyện đổi người ở ngoài pháp trường, tên thân binh này cũng

tham dự vào vụ đó, bây giờ nghe giọng lưỡi của người nhà Phùng phủ đầy vẻ gay

go, dường như đã đoán ra nội tình, hắn không khỏi ớn da gà.

Vi Tiểu Bảo có tật giật mình, nghe thân binh nói bất giác biến sắc tự hỏi:

- Vụ này thật là rắc rối! Không khéo sẽ bị vỡ lở. Con bà nó! Phùng Tích

Phạm chính lão gia giết chết rồi. Chẳng lẽ lão gia lại sợ mụ vợ con tử quỷ hay

sao?

Đột nhiên, gã tìm ra được quyết định, nét mặt hớn hở tươi cười. Gã đứng

dậy nói:

- Quý phủ hãy ngồi chơi chờ bản tước một lát.

Gã vào nội đường gọi đội trưởng thân binh đến dặn dò cứ thế, cứ thế mà

làm.

Đội trưởng lãnh mạng đi ngay.

Vi Tiểu Bảo trở ra đại sảnh nói:

- Hoàng thượng phái bản tước làm việc này. Chúng ta là phận nô tài phải tận

tâm kiệt lực để báo đáp quân thượng. Bây giờ hãy đến Phùng phủ khám nghiệm.

Viên tri phủ ngạc nhiên nghĩ bụng:

- Trung Thành Bá mất tích rồi. Trong nhà lão còn gì mà khám xét?

Nhưng ngoài miệng y vâng dạ liên thanh.

Vi Tiểu Bảo lại nói:- Vụ án này cực kỳ bí ẩn. Chúng ta hãy bắt tất cả già trẻ lớn bé nhà họ

Phùng thẩm vấn, không chừng sẽ điều tra được manh mối.

Tri phủ đáp:

- Dạ! Công gia dạy rất phải. Ty chức ngu muội thủy chung không hề nghĩ tới

điểm đó.

Thực ra cái chức tri phủ nhỏ bé khi nào dám đến Trung Thành bá phủ mở

cuộc điều tra. Đồng thời ở nha môn phủ Thuận Thiên từ trên xuống dưới ai cũng

biết Phùng Tích Phạm là kẻ tử thù của Phủ Viễn Đại tướng quân Vi Công gia. Họ

còn đoán chừng Phùng Tích Phạm thất tung, mười phần có đến tám chín là Vi

Công gia đã phái người sát hại.

Vi Công gia là nhân vật sáng giá nhất tại triều đình hiện nay thì còn ai dám

đụng vào? Những người lãnh trách nhiệm tra án không dám dậm chân chỉ mong kéo

dài thời gian chẳng bao giờ kết liễu.

Viên tri phủ bụng bảo dạ:

- Vi Công gia đã giết Phùng bá tước còn muốn đến làm khó dễ người nhà

lão. Phùng phu nhân thật không biết điều. Mụ phái người đến Công phủ nói nhăng

nói càn, trách nào Vi Công gia chẳng tức giận?

Vi Tiểu Bảo cùng tri phủ Thuận Thiên lên ngồi kiệu lớn có tiền hô hậu ủng

dẹp đường từ từ tiến về phía Trung Thành bá phủ.

Mấy trăm tên thân binh bao vây xung quanh Phùng gia.

Vi Tiểu Bảo tiến vào phủ, tên đội trưởng thân binh liền đến trước mặt bẩm:

- Trình đại soái! Trong phủ Phùng gia cả nam lẫn nữ cộng được bảy mươi chín

người, hiện đang ngồi ở Tây sảnh chờ đại soái thẩm vấn.

Hồi 246

ĐấNG ANH QUÂN HIểU Rõ GIAN MƯU

Vi Tiểu Bảo lẩm nhẩm gật đầu.

Đội trưởng lại nói:

- Bẩm đại soái! Đã thiết lập Công đường ở đông sảnh.

Vi Tiểu Bảo qua nhà đại sảnh phía đông thấy nới đây đã sắp đặt Công

đường liền ngồi vào chính giữa, mời tri phủ ngồi mé dưới bồi tiếp.

Thân binh dẫn một phụ nhân trẻ măng chừng 23, 24 tuổi từ tây sảnh đưa tới.

Thiếu phụ này khá xinh đẹp, tha thướt tiến vào quỳ trước công đường.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Ngươi là ai?

Thiếu phụ đáp:

- Tiện thiếp là Đệ ngũ phòng của Bá tước đại nhân.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Vậy nương tử đứng lên. Mời nương tử ngồi. Bản tước không dám để nương

tử quỳ trước mặt.

Thiếu phụ ngần ngừ không dám đứng dậy.

Vi Tiểu Bảo đứng lên cười nói:

- Nương tử không đứng dậy thì bản tước cũng quỳ xuống trước mặt nương tử.

Thiếu phụ mỉm cười đứng dậy rồi Vi Tiểu Bảo mới ngồi xuống.

Tri phủ nghĩ bụng:

- Vi công gia đối với người nhà Phùng phủ không có vẻ gì hung dữ, nhưng

thấy sắc liền tỏ ra lỳ lợm, chẳng trang trọng chút nào.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Nương tử họ tên gì?

Thiếu phụ đáp:

- Tiện thiếp là Cúc Phương.

Vi Tiểu Bảo đánh hơi mấy cái rồi cười nói:

- Tên hay quá! Thảo nào bản tước vừa vào đã ngửi thấy mùi thơm của hoa

cúc.

Cúc Phương cũng cười đáp:

- Công gia nói giỡn rồi.

Vi Tiểu Bảo gục gặc cái đầu nhìn mụ hồi lâu rồi hỏi:

- Bản tước nghe nói tại quý phủ có một vị di nương bỏ đi phải không?

Cúc Phương đáp:

- Đúng thế! Y là Lan Hương. Hừ! Con tiện nhân này thật là mặt dầy.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Lão công đột nhiên mất tích, y đi theo người đàn ông thứ hai tưởng cũng

có thể lượng thứ, chưa phải là trốn... trốn gì nhỉ?

Tri phủ ngửng lên đáp:

- Trốn chúa lộn chồng.

Vi Tiểu Bảo cười khanh khách nói:

- Đúng thế! Chưa phải là trốn chúa lộn chồng. Cúc Phương tỷ tỷ! Sao tỷ tỷ

chưa bỏ đi?

Tri phủ nghe nói không khỏi cau mày lẩm bẩm:

- Vi Công gia mỗi lúc một sàm sỡ. Ai lại kêu thị bằng tỷ tỷ bao giờ?

Cúc Phương cúi đầu xuống nhưng liếc mắt nhìn Vi Tiểu Bảo bằng cặp mắt

quyến rũ.

Vi Tiểu Bảo cao hứng tựa hồ đến chơi chốn lầu hồng. Gã cười hỏi:

- Nương tử có biết bài Thập...

Gã toan nói "Thập bát mô" nhưng vội dừng lại kịp. Gã quay lại bảo thân binh:- Thưởng cho Cúc Phương cô nương đây hai chục lạng bạc.

Mấy tên thân binh đồng thanh vâng dạ rồi hô lớn:

- Đại soái ban thưởng. Tạ ơn đi!

Cúc Phương chúc câu vạn phước, cất tiếng nho nhỏ:

- Đa tạ đại gia!

Nguyên thị là kỹ nữ xuất thân được người thưởng tiền quen rồi. Công gia thị

hô thành "Đại gia".

Vi Tiểu Bảo lại hô đưa gia nhân ở Phùng gia vào thẩm vấn. Hễ là đàn bà con

gái trẻ tuổi xinh đẹp gã lại chớt nhã một phen. Còn là người già xấu xa, gã mắng

cho một hồi bảo họ không biết hầu hạ Bá tước để lão ra đi tìm thú nơi khác

chẳng chịu trở về.

Vi Tiểu Bảo thẩm vấn chừng nửa giờ thì tên đội trưởng thân binh tiến vào đại

sảnh đứng ở phía sau Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi lăng nhăng hai người nữa rồi đứng lên nói:

- Chúng ta đi xem xét các nơi.

Gã cùng tri phủ và bọn thân binh, văn phòng, đi vào các gian nhà để điều

tra.

Tra xét đến gian thiên phòng ở dãy nhà thứ ba mé tây, bọn thân binh chiếu

lệ lục soát các rương, tủ.

Bỗng một tên thân binh "ủa" lên một tiếng. Hắn lấy dưới đáy rương ra một

thanh đao. Trên lưỡi đao có nhiều huyết tích khô dính lại. Hắn liền quỳ một chân

hai tay cầm đao đưa lên nói:

- Bẩm đại soái! Điều tra được một thứ hung khí.

Vi Tiểu Bảo "ồ" một cái rồi giục:

- Tiếp tục tra xét.

Gã lại nhìn tri phủ hỏi:

- Lão huynh thử coi đây có phải là vết máu không?Tri phủ đón lấy thanh đao đưa gần lên mũi ngửi quả nhiên phảng phất thấy

mùi máu tanh, liền đáp:

- Bẩm Công gia! Có lẽ đúng máu rồi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Đầu thanh đao này tại sao lại có lỗ. Thứ đao gì vậy?

Tri phủ Thuận Thiên tra án đã quen, coi kỹ lại rồi đáp:

- Bẩm Công gia đây là thứ cương đao để cắt cỏ, một thứ đồ dùng ở tàu

ngựa.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Té ra là thế.

Đội trưởng thân binh sai thuộc hạ lấy một gánh nước đổ xuống đất.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Làm gì vậy?

Đội trưởng đáp:

- Bẩm đại soái nếu là đất mới đào chưa chặt lại thì thấm nước rất mau.

Hắn chưa dứt lời, nước đổ xuống gầm giường đã thấm hết liền.

Bọn thân binh đồng thanh hoan hô. Chúng khiêng giường ra, dùng thuổng

cuốc đào đất. Chỉ trong khoảnh khắc móc lên một cái tử thi.

Tử thi này không đầu và đã hủ nát, hiển nhiên chết khá lâu ngày. Xác chết

mình mặc bá tước công phục.

Viên tri phủ vừa ngó thấy bật tiếng la hoảng:

- Đây là... Phùng tước gia rồi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Phùng Tích Phạm ư? Sao phủ đài nhận ra được?

Tri phủ đáp:

- Dạ dạ... Phải chờ kiếm thấy thủ cấp mới có thể quyết định.Y quay lại hỏi đầu mục bộ khoái:

- Ai trú trong căn nha này?

Đầu mục đáp:

- Tiểu nhân xin tra hỏi là biết ngay.

Hắn qua tây sảnh kêu một gia nhân ở Phùng phủ lại hỏi thì ra phòng của tỳ

thiếp Lan Hương đã trốn đi rồi.

Đầu mục bộ khoái bẩm lại:

- Khải bẩm Công gia! Khải bẩm Phủ đài đại nhân! Hung khí là thanh cương đao

để cắt cỏ ngựa của tên mã phu Hình Tứ, người Phùng phủ. Hình Tứ đem Lan Hương

đi trốn rồi. Tiểu nhân xin xuống tầu ngựa để điều tra.

Mọi người liền vào tầu ngựa sục xạo. Quả nhiên đào đất lấy được thủ cấp

ra.

Nha dịch mời Phùng phu nhân xuống nhận thi thể thì đúng là thủ cấp Phùng

Tích Phạm.

Ngô tác giảo nghiệm nhận định Phùng Tích Phạm bị đao chém chết, đầu một

nới mình một nẻo.

Lúc này những người giữ ở tây sảnh đã được tha ra. Trong Phùng phủ tiếng

khóc vang trời. Ai cũng thống mạ Hình Tứ và Lan Hương lòng lang dạ thú sát hại

chủ nhân.

Tin này đồn đại ra ngoài mới trong nửa ngày mà khắp thành Bắc Kinh đều

biết hết, nơi nơi bàn tán xôn xao.

Viên tri phủ vừa thẹn thùng lại vừa cảm kích, nghĩ thầm:

- Nếu không được Vi Công gia phá án mau lẹ thì e rằng bước tiến trình của

ta vấp phải nhiều điều trở ngại trọng đại.

Y không ngớt ca tụng và tạ ơn Vi Tiểu Bảo.

Một mặt tri phủ sai thảo công văn hỏa tốc gửi đi các nơi tróc nã Hình Tứ và

Lan Hương về tội giết chủ trốn chạy. Một mặt báo cáo thượng ty.Trong bọn quan nha kết án chỉ có bộ khoái đầu sinh lòng ngờ vực, vì nhát

chém rất chỉnh tề tựa hồ bị khoái đao chặt vào chứ không giống cương đao cắt

cỏ ngựa gây nên. Vả lại chỗ đất đào quật xác chết hãy còn mới nguyên, hiển

nhiên vừa mới lấp xuống chứ không phải chôn đã mười mấy ngày.

Nhưng Vi Công gia khám phá vụ đại án này khao thưởng rất hậu. Phùng phủ

cũng cho hắn nhiều tiền để hắn làm án mau lẹ, thân nhân trong Phùng phủ khỏi

đến nha môn chầu chực. Vì thế dù hắn có chuyện nghi hoặc tầy đình cũng không

dám hé răng. Hắn chỉ nghĩ thầm trong bụng:

- Khi lập công đường tra án ở Phùng phủ, Vi Công gia đã sai thân binh canh

gác khắp mọi chỗ, không ai được đi lại thì bọn chúng tha hồ mà di chuyển thi thể

để làm chứng cứ. Đừng nói chôn một xác chết xuống đất, dù có chôn hàng trăm

xác cũng chẳng khó gì.

Vi Tiểu Bảo cầm lấy đạo công văn của viên tri phủ Thuận Thiên vào cung bái

yết Vua Khang Hy để bẩm báo tường trình về vụ phá án.

Đức Vua mỉm cười phán:

- Tiểu Quế Tử! Bản lãnh phá án của ngươi không phải tầm thường. Ai cũng ca

tụng ngươi là Bao Long Đồ tái thế.

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Đây là nhờ hồng phúc của Hoàng thượng, nô tài may mà phá xong vụ án

này.

Vua Khang Hy hắng giọng một tiếng trừng mắt lên nhìn gã, lạnh lùng nói:

- Vụ di hoa tiếp mộc này không liên can gì đến hồng phúc của ta.

Vi Tiểu Bảo giật bắn người lên tự hỏi:

- Sao Hoàng thượng lại biết cả vụ này?

Gã xoay chuyển ý nghĩ liền hiểu rõ ngay, tự nhủ:

- Tên đội trưởng thân binh của ta dĩ nhiên làm mật thám cho Hoàng thượng.

Nhà Vua thở dài nói:- Vụ này kết liễu như vậy là hay, tránh khỏi bên ngoài dị nghị. Có điều ngươi

lớn mật làm càn như vậy, ta chẳng có cách nào để bắt ngươi được.

Vi Tiểu Bảo biết Hoàng thượng nhiêu dung cho mình rồi mới yên tâm được

một phần.

Nhà Vua lại nói tiếp:

- Hiện nay tám phương phẳng lặng, bốn bể thanh bình, không còn lo nạn binh

cách, vậy cái hàm Phủ Viễn Đại tướng quân của ngươi nên bỏ đi quách.

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Dạ dạ! Hoàng thượng dạy chí phải.

Gã biết đây là Hoàng thượng trừng phạt mình về tội làm bậy. Gã liền tâu:

- Cả tước hàm Nhất đẳng Lộc Đỉnh công của nô tài cũng nên giáng đi một

cấp.

Vua Khang Hy đáp:

- Hay lắm! Ta giáng ngươi xuống Nhị đẳng công.

Vi Tiểu Bảo lại tâu:

- Nô tài tự xét mình làm càn làm ẩu, trong dạ vẫn chưa yên. Cúi xin Thánh

thượng dáng xuống ba bậc mới vừa.

Nhà Vua cười khanh khách nói:

- Con mẹ nó! Ngươi mà còn không yên dạ thì mặt trời đến mọc phương Tây

mất.

Vi Tiểu Bảo thấy Đức Vua đã thốt ra ba chữ "Con mẹ nó" biết là Hoàng đế

đã hết giận. Gã đứng dậy nói:

- Nô tài tuy chẳng có nhiều lương tâm, nhưng cũng có một chút.

Vua Khang Hy gật đầu:

- Cũng vì ta thấy ngươi còn chút lương tâm, không thì ta đã chặt cái đầu

ngươi chôn xuống gầm giường bọn phu nhân A Kha, Song Nhi của ngươi rồi.

Vi Tiểu Bảo vội tâu:- Vụ này thật sự không thành...

Vua Khang Hy hỏi:

- Sao lại không được?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- A Kha và Song Nhi quyết chẳng đi theo mã phu chạy trốn.

Vua Khang Hy cười nói

- Không theo mã phu thì theo...

Nhà Vua nói tới đây thì dừng lại vì ngài nghĩ nếu còn nói thêm không khỏi có

điều khinh bạc. Huống chi Vi Tiểu Bảo tuy hành động vô pháp vô thiên nhưng

thủy chung vẫn một dạ trung tâm với mình. Giữa đạo quân thần nói vui thì được,

nhưng không nên đưa lời vũ nhục.

Trong lúc nhất thời, Nhà Vua thấy khó bề đổi giọng liền không lý gì đến gã

nữa, cúi xuống lật coi án kiện và bản tâu.

Vi Tiểu Bảo thõng tay đứng bên thị lập, thấy cặp lông mày của nhà vua nhăn

tít lại, đầy vẻ lo âu, liền nghĩ bụng:

- Đức Hoàng thượng thường thường không được khoan khoái. Làm Hoàng đế

kể ra oai phong ghê gớm, nhưng tình thực cũng chẳng thú gì.

Vua Khang Hy coi xong bản tâu, ngửng đầu lên buông tiếng thở dài.

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Hoàng thượng có điều chi lo nghĩ xin cứ sai phái nô tài hành động. Nô tài

nguyện hết sức đem công chuộc tội, báo đáp Hoàng ân.

Nhà Vua đáp:

- Vụ này không thể sai ngươi được. Thi Lang đưa bản tâu về nói Đài Loan bị

bão lụt, nước ngập đến bốn thước. Nhà cửa trăm họ gia phá nhân vong, tai ương

trầm trọng.

Vi Tiểu Bảo ngó thấy hai mắt Nhà Vua long lanh ngấn lệ, liền nghĩ ngay tới

tình bằng hữu giữa hai người từ thuở nhỏ, gã chẳng nỡ thõng tay đứng nhìn mà

không lo giúp.Gã liền tâu:

- Nô tài có một biện pháp...

Đức Vua hỏi:

- Biện pháp gì?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Không dám dấu diếm Hoàng thượng. Khi nô tài ở Đài Loan đã có dịp phát

tài, mới đây lại được tài chủ ở Đài Loan trả món nợ cũ. Nô tài xin hai tay dâng lên

để báo ơn Hoàng thượng ban cho chén cơm bằng vàng đã vỡ lại lành. Nô tài

không đến nỗi đói cơm là được, tiền nhiều cũng chẳng làm gì. Xin dâng Hoàng

thượng để phủ tuất nạn dân ở Đài Loan.

Vua Khang Hy mỉm cười nói:

- Nhân số bị thiên tai rất nhiều, món tiền nhỏ mọn của ngươi chẳng ăn thua gì.

Ta lập tức hạ chỉ giảm bớt cung nữ thái giám, giảm cả ăn mặc, để phủ nội vụ trù

liệu bớt bốn, năm vạn lạng bạc chẩn tế nạn dân.

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Nô tài tội đáng muôn thác khôn bề tha thứ.

Đức Vua lấy làm kỳ hỏi:

- Điều chi?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Nô tài làm quan tham nhũng, khi ở Đài Loan thu được trăm vạn lạng bạc. Mới

đây lại đòi nợ Trịnh Khắc Sảng nữa, cộng là hai trăm vạn lạng...

Vua Khang Hy giật mình hỏi:

- Nhiều đến thế ư?

Vi Tiểu Bảo khẽ tát vào mặt mình và tự thóa mạ:

- Tiểu Quế Tử thật là đáng chết.

Vua Khang Hy không nhịn được bật cười nói:

- Bản lãnh ăn tiền của ngươi thật là cao minh. Ta chẳng biết tý gì.Vi Tiểu Bảo lại tự mắng mình:

- Tiểu Quế Tử đáng chết lắm.

Vẻ mặt ra chiều đắc ý, bụng bảo dạ:

- Làm quan thò tay ra lấy tiền mà để Hoàng thượng hay biết thì sống được

chăng? Trong đội thân binh của ta dù có thám tử nằm vùng cũng chỉ điều tra được

ta có làm phản hay không mà thôi. Muội phu của Ngài tay phải thu tiền, tay trái bỏ

túi. Đến cả đại muội tử của Ngài cũng không biết thì đại cửu tử còn biết làm sao

được?

Gã miệng xưng nô tài mà trong thâm tâm tự coi mình là muội phu của Đức

Vua.

Vua Khang Hy trầm ngâm một lúc rồi ban khen:

- Tấm lòng trung quân, thương dân của ngươi thật hiếm có! Đã thế thì ngươi

bỏ tiền quyên hai trăm năm chục vạn lạng bạc, ta lại tinh giảm chi phí năm chục

vạn. Vua tôi mình góp lại thành ba trăm vạn lạng. Số nạn dân ở Đài Loan ước

chừng hơn một vạn nhà. Mỗi nhà được chia hơn hai trăm lạng cũng khá lắm rồi.

Vi Tiểu Bảo gặp lúc xúc động nhất thời khẳng khái bỏ tiền quyên nhưng thực

cũng xót dạ.

Gã đang có ý hối hận, nhưng nghe Nhà Vua nói cũng tinh giảm phần mình bỏ

ra năm chục vạn lạng bạc, gã lại vui mừng vội đáp:

- Dạ dạ! Hoàng thượng thương dân như con, Hoàng thiên sẽ bảo hựu Thánh

thượng khiến mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.

Vua Khang Hy vì việc thiên tai trầm trọng xảy ra ở Đài Loan trong lòng bứt

rứt đến nửa ngày. Bây giờ bỗng dưng được món tiền lớn Ngài rất cao hứng, mỉm

cười nói:

- Hoàng thiên cũng phù hộ cho ngươi được thăng quan phát tài, đa phúc đa

thọ.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Đa tạ kim khẩu của Đức Vạn tuế. Kẻ nô tài có thăng quan phát tài hay đa

thọ đa phúc thì cũng hoàn toàn ở nơi Hoàng thượng ban ân. Hơn nữa, hai khoảntiền đó nô tài đều lấy của người ở Đài Loan thì bây giờ có đem chẩn cấp cho

trăm họ ở Đài Loan cũng chẳng qua là hoàn bích quy... quy Đài mà thôi.

Vua Khang Hy cười ha hả nói:

- Câu thành ngữ "Hoàn bích quy Triệu" con mẹ nó, ngươi lại đổi thành "Hoàn

bích quy Đài".

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Dạ dạ! Đúng là "Hoàn bích quy Triệu". Trong lúc thảng thốt, nô tài quên

mất chữ "Triệu".

Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trần Vương. Họ Triệu đứng lên hàng đầu các họ

khác, trách nào họ chẳng phát đạt. Vậy ra Hoàn bích hay hoàn gì gì cũng đổ vào

nhà họ Triệu cả.

Vua Khang Hy lại càng tức cười, nghĩ bụng:

- Gã này bất học hữu thuật, cũng không cần dạy nhiều.

Ngài cười nói:

- Phải lắm! Phải lắm! Lại còn câu thành ngữ "Vi biên tam tuyệt" để tả người

nhà họ Vi đọc sách rất dụng công nên bề học vấn rất thâm uyên. Họ Vi các ngươi

cũng không phải hạng tầm thường.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Học vấn của nô tài kém cỏi quá, làm thương tổn đến thanh danh của tổ tôn

họ Vi.

Nhà Vua nói:

- Vụ chẩn tế nạn nhân Đài Loan chuyến này...

Ngài toan phái gã đi, nhưng lại nghĩ thầm:

- Gã đã bỏ ra nguyên một món tiền lớn chẳng qua là muốn tỏ ra nghĩa khí với

ta, chưa chắc gã đã thật lòng yêu dân. E rằng, gã chưa ra khỏi cửa cung lại có

điều hối hận. Sai gã đi Đài Loan phát chẩn ba trăm vạn lạng bạc, gã dám thu về

đủ vốn để khỏi mất của mình, không chừng gã còn lấy gấp đôi để làm lợi tức.Nhà Vua là tri kỷ của Vi Tiểu Bảo, liền đổi giọng, nói tiếp:

... thật quá ư dễ dàng, bất tất phải ngươi thân hành ra đi. Tiểu Quế Tử! Tước

hàm Nhất đẳng Lộc Đỉnh Công của ngươi không phải giáng cấp nữa. Ngoại sanh

của ta đã thắp đèn lồng, vậy cứ để như cũ.

Vi Tiểu Bảo quỳ xuống tạ ơn. Gã dập đầu mấy cái rồi đứng dậy cười nói:

- Nô tài quyên chút bạc chẳng qua là chuyện hoàn bích quy... quy Triệu Tiền

Tôn Lý, Hoàng thượng lại coi là công lao. Chính Hoàng đế giảm ăn mặc mới là hiếm

có.

Vua Khang Hy lắc đầu nói:

- Không phải! Nhất thiết những vật dụng ở trong cung đều là của bách tính

trong thiên hạ. Bách tính cung cấp cẩm y ngọc thực cho ta thì ta cai trị muôn dân

phải hết lòng hết sức làm việc cho bách tính. Ngươi làm quan ăn lộc của Nhà Vua,

làm việc phải hết lòng với Nhà Vua. Ta ăn lộc của dân cũng phải hết lòng làm việc

cho dân...

Nhà Vua dừng lại một chút rồi tiếp:

- Cổ thư đã có câu "Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung" nghĩa là bốn bể

khốn cùng thì thiên lộc vĩnh viễn không còn. Nếu trăm họ bị khốn cùng là vì Hoàng

đế bất đức. Hoàng thiên đã phẫn nộ thì ta còn làm Hoàng đế thế nào được?

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Cái đó quyết không phải thế, nhất định không thể thế được.

Nhà Vua liền giải thích:

- Ngươi làm đại thần là ơn điển của ta ban cho. Ta làm Hoàng đế là ân điển

của Hoàng thiên. Ngươi làm việc bất trung, ta chặt đầu ngươi. Ta làm Hoàng đế bất

đức, Hoàng thiên cũng thay đổi người khác.

Nhà Vua đọc câu trong sách Thượng Thư "Hoàng thiên hậu thể, cải quyết

nguyên tử" rồi giải thích:

- Nguyên tử là Hoàng đế. Làm Hoàng đế không ra gì thì Hoàng thiên thay

người khác.Vi Tiểu Bảo nói:

- Dạ dạ! Hoàng thượng kêu bằng Tiểu Huyền Tử. Té ra Huyền Tử tức là Hoàng

đế.

Vua Khang Hy nói:

- Chữ Huyền này không giống chữ Nguyên.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Dạ dạ.

Gã nghĩ bụng:

- Chữ Nguyên tròn tròn, chữ Huyền cũng tròn tròn chẳng khác nhau mấy.

Sự thực gã chẳng biết chữ Nguyên và chữ Huyền như thế nào, rồi gã chẳng

buồn nghĩ cho mệt trí.

Vua Khang Hy cầm cuốn sách trên án giơ lên nói:

- Tuần phủ Triết Giang đưa trích một cuốn sách kêu bằng "Minh di đãi phỏng

lục" của Hoàng Lê Châu tỉnh Triết Giang vừa đây mới soạn. Tuần phủ Triết Giang

tâu là trong sách có nhiều câu đại nghịch vô đạo muốn mở cuộc điều tra nghiêm

ngặt. Nhưng ta vừa coi thì lời lẽ trong sách rất hợp đạo lý, nên ta đã chỉ thị cho

tuần phủ Triết Giang bất tất phải đa sự.

Ngài lại mở sách nói tiếp:

- Trong sách tác giả nói: Làm Vua là một người phụng sự thiên hạ, chứ không

phải cả thiên hạ phụng sự một người. ý kiến này rất đúng.

Nhà Vua ngừng lại một chút rồi tiếp:

- Tác giả lại nói: Cái gì thiên tử bảo phải chưa chắc đã phải, bảo trái chưa

chắc đã trái. Thuyết này cũng đúng lắm. Con người ai chẳng có lỗi lầm. Thiên tử

cũng là người. Người làm Hoàng đế hay người thường cũng vậy chẳng khi nào vĩnh

viễn không có điều lầm lỗi.

Nhà Vua nói một hồi thấy Vi Tiểu Bảo luôn miệng khen phải nhưng vẻ mặt

bâng khuâng. Ngài không khỏi phì cười nghĩ bụng:- Tên tiểu lưu manh còn biết gì mà ta giảng đạo lý cho gã nghe? Ta còn nói

nữa thì e rằng gã phải ngáp dài.

Ngài liền vẫy tay nói:

- Ngươi đi đi!

Tay phải vẫn cầm cuốn sách, miệng đọc:

- "Thiên tử cho là quyền làm lợi hay làm hại trong thiên hạ đều do mình mà ra.

Mình đem hết cái lợi lại cho mình, đổ cái hại trong thiên hạ cho người cũng có thể

được. Nhưng điều cốt yếu là khiến người thiên hạ không dám tự tư, tự lợi. Dùng

cái đại tư của mình làm cái công của thiên hạ, ban đầu còn e lệ, nhưng lâu ngày

quen đi sẽ coi sản nghiệp lớn lao của thiên hạ là của riêng truyền cho tử tôn,

hưởng thụ vô cùng".

Hồi 247

DựNG Cờ KHởI NGHĩA LàM HOàNG Đế

Vi Tiểu Bảo nghe Vua Khang Hy đọc sách chẳng hiểu gì hết, lại thấy nhà

Vua khen hay không ngớt miệng, liền chờ lại để đưa lời tâng bốc.

Gã thấy Nhà Vua đặt sách xuống liền hỏi:

- Tâu Hoàng thượng! Nô tài không hiểu trong sách nói gì mà Hoàng thượng

thích thú như vậy?

Vua Khang Hy đáp:

- Y bảo người làm Hoàng đế khuyên người thiên hạ đừng có tự tư tự lợi, chỉ

một mình Hoàng đế là được tự tư tự lợi mà thôi. Hoàng đế càng tự tư bao nhiêu

càng cho là đại công với thiên hạ bấy nhiêu. Ban đầu trong lòng Hoàng đế đối

với hành động bất công này còn có chút bẽ bàng, nhưng về sau thành ra một tập

quán tự nhiên lại cho mình là phải, còn người ngoài đều lầm lỗi hết.

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Tác giả này nói vậy chỉ có thể bình luận những vị Hoàng đế tồi bại. Còn

Hoàng thượng là Điểu Sâng Dủy Thang mà nói thế là không đúng.

Vua Khang Hy cười đáp:

- Ha ha! Ông nào là Hoàng đế cũng tự coi mình là Điểu Sâng Dủy Thang hết,

chẳng ông nào tự nhận mình là hôn quân như Kiệt, Trụ. Huống chi bên cạnh hôn

quân biết bao nhiêu đại thần vô liêm sỉ chuyên ca tụng công đức đứa hôn quân

lên hàng Điểu Sâng Dủy Thang.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- May mà đức Hoàng thượng là nhân vật chính xứng đáng làm Điểu Sâng Dủy

Thang, không thì nô tài cũng thành kẻ đại thần vô sỉ.

Vua Khang Hy đập bàn chân xuống đất cười nói:

- Ngươi là kẻ biết liêm sỉ lắm. Thôi bước đi!

Vi Tiểu Bảo tâu:

- Khải bẩm Hoàng thượng! Nô tài xin Hoàng thượng ban ân cho được nghỉ trở

về Dương Châu thăm viếng mẫu thân.

Nhà Vua mỉm cười đáp:

- Ngươi có lòng hiếu thảo như vậy là hay lắm! Hơn nữa người ta đã có câu:

"Phú quý bất quy cố hương như ý cẩm dạ hành" nghĩa là: Kẻ sang giàu trở về cố

hương thì chẳng khác gì người mặc áo gấm đi đêm. Ngươi nên về thăm quê nhà cho

rạng rỡ tổ tông. Có điều ngươi về sớm rồi lai kinh cho chóng, đón mẹ già đến

Bắc Kinh cùng ở. Ta sai viết chỉ dụ phong cho mẫu thân ngươi làm Nhất phẩm Thái

phu nhân. Ngươi biên cả tên tuổi người cha đã quá cố đưa đến Bộ Lại để truy

tặng quan chức.

Nhà Vua chắc Vi Tiểu Bảo không biết viết tên họ phụ thân, nên không muốn

hỏi nhiều.

Vua Khang Hy tuy anh minh, nhưng vụ này ngài chỉ biết một mà không biết hai.

Cố nhiên Vi Tiểu Bảo không viết được tên họ phụ thân vì thất học. Thực ra, phụ

thân gã là ai gã cũng không hay.

Vi Tiểu Bảo quỳ xuống tạ ơn, lui ra.

Gã về phủ lấy tập ngân phiếu hai trăm năm chục vạn lạng bạc đưa đến nộp

cho ngân khố ở Bộ Hộ.

Vi Tiểu Bảo lại qua Bộ Binh nộp binh phù ấn tín về chức Phủ Viễn Đại tướng

quân.

Gã nhờ Tô Thuyên đặt tên họ cho phụ thân, đồng thời tên họ tổ tiên ba đời

gã cũng do mụ đặt dùm và viết rõ ràng đưa tới Bộ Lại để bộ này làm sắc phong

tặng, tập ấm. Từ đây dòng họ thổ ty được thế tập làm Lang trung.

Mọi việc xong xuôi, Vi Tiểu Bảo thu thập hành trang chuẩn bị lên đường.

Gã là người có nhân duyên rất tốt ở trong triều lại được thánh quyến tin

yêu, nên các vương công đại thần đều mở yến tiệc tiễn hành liên tiếp nhiều ngày

rất là bận rộn.

Lúc sắp đăng trình, Vi Tiểu Bảo nghĩ tới món tiền quyên khổng lồ hai trăm

năm chục vạn lạng bạc lại đau lòng xót dạ, gã sai thân binh đến đòi nợ Trịnh Khắc

Sảng được hơn một vạn lạng bạc rồi mới ra khỏi kinh thành.

Vi Tiểu Bảo theo đường bộ tới Thông Châu rồi xuống thuyền trông sông

Vận Hà đi về phía Nam qua Thiên Tân, Lâm Thanh sang sông Hoàng Hà đến Tế

Ninh.

Vi Tiểu Bảo cùng bảy vị phu nhân ăn cơm chiều xong ngồi nói chuyện vãn.

Tô Thuyên nói:

- Tiểu Bảo! Sáng mai chúng ta sẽ đến Hoài Âm. Đời xưa có một nhân vật

được phong tước Hoài Âm hầu...

Vi Tiểu Bảo ngắt lời:

- ồ! Vậy y hãy còn kém ta.

Tô Thuyên mỉm cười nói:

- Không phải đâu. Nhân vật đó đã được phong làm Tề Vương. Về sau Hoàng

đế sợ ông làm phản mới bỏ vương tước, cải phong làm Hoài Âm hầu. Ông họ Hàn

tên Tín, một nhân vật oai danh rất lớn...

Vi Tiểu Bảo vỗ đùi đánh đét một cái đáp:

- Tưởng ai chứ Hàn Tín thì ta biết rồi. Trong những vở tuồng "Tiêu Hà nguyệt

hạ truy Hàn Tín", "Thập diện mai phục, Hạng Võ biệt Ngu Cơ" đều nói đến.

Tô Thuyên đáp:

- Đúng rồi! Hàn Tín bản lãnh phi thường, công lao rất lớn. Sở Bá Vương anh

hùng như vậy mà phải thất bại liểng xiểng về ông. Đáng tiếc là đời ông đi vào hậu

quả không hay. Ông bị Hoàng đế và Hoàng hậu hạ sát.

Vi Tiểu Bảo thở dài hỏi:

- Đáng tiếc! Thực là đáng tiếc! Tại sao Hoàng đế lại giết ông? Ông làm phản

phải không?

Tô Thuyên lắc đầu đáp:

- Không có đâu. Ông không làm phản, nhưng Hoàng đế sợ tài ông và lo ông

làm phản.

Vi Tiểu Bảo nói:

- May mà ta chẳng có bản lãnh gì. Đức Hoàng thượng hơn ta về đủ mọi

phương diện nên chẳng cần úy kỵ ta. Ta chỉ hơn Hoàng thượng được một điểm.

Ngoài điểm đó, món gì ta cũng còn kém Ngài xa.

A Kha hỏi:

- Ngươi hơn Hoàng đế về điểm nào?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Ta có bảy vị phu nhân nguyệt thẹn hoa nhường. Khắp thiên hạ không có

người đàn bà thứ tám nào xinh đẹp bằng. Trong hậu cung của Hoàng thượng tuy

rất đông phi tần nhưng đuổi theo ba ngày không kịp ta. Thế là đức Hoàng thượng

hồng phúc tề thiên, còn Vi Tiểu Bảo diễm phúc tề thiên. Cả hai tôi chúa đều có

chữ "Tề Thiên", mỗi người mỗi cái "Tề" riêng biệt.

Gã mặt dày lại thích ba hoa khiến bảy vị phu nhân lăn ra mà cười.

A Kha cười nói:

- Hoàng đế hồng phúc tề thiên. Còn ngươi là Tề Thiên Đại Thánh.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Đúng rồi! Ta là Mỹ Hầu Vương ở Thủy Liêm động hướng dẫn một bày hầu lão

bà, hầu tử, hầu tôn ngao du sơn thủy, tiêu dao tự tại cho qua ngày tháng.

Mọi người đang trò chuyện vui cười, bỗng ngoài khoang thuyền có người lớn

tiếng:

- Khải bẩm Công gia! Có tân khách xin ra mắt.

Một tên nha hoàn cầm bốn tấm thiếp đưa vào.

Tô Thuyên đón lấy coi rồi nói khẽ:

- Bốn vị tân khách này là Cố Viêm Võ, Tra Kế Tá, Hoàng Lê Châu và Lữ Lưu

Lương.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Nếu là bọn Cố tiên sinh thì ta phải tiếp kiến rồi.

Gã bảo gia nhân mời khách vào trong khoang thuyền lớn dùng trà. Một mặt

gã thay áo rồi ra tiếp khách.

Ba vị Cố, Tra, Hoàng ngày trước bị Ngô Chi Vinh bắt ở Dương Châu xuýt nữa

mất mạng, may được Vi Tiểu Bảo giải cứu. Còn Lữ Lưu Lương thì nay mới đến tương

hội là một. Phía sau y có hai thanh niên lối ngoài hai chục tuổi. Hai thanh niên này

là Lữ Bảo Trung và Lữ Nghị Trung, con trai Lữ Lưu Lương.

Sau cuộc hành lễ tương kiến, chủ khách an tọa rồi, Lữ Bảo Trung và Lữ Nghị

Trung vẫn đứng ở sau lưng phụ thân.

Cố Viêm Võ khẽ nói:

- Vi Hương chủ! Chuyến này bọn tại hạ đến bái phỏng hương chủ là có việc

lớn muốn thương nghị với hương chủ.

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

- ở Tứ Dương tập này rất nhiều tai mắt không tiện đàm luận. Xin Hương chủ

cho dời thuyền đi xa mấy dặm đậu tại một nơi vắng vẻ rồi hãy nói chuyện, được

chăng?

Ngày trước trong cuộc Sát Quy Đại hội ở Hà Giang, Cố Viêm Võ được các

lộ anh hùng suy tôn làm tổng quân sư là người oai danh lừng lẫy trên chốn giang

hồ. Vi Tiểu Bảo cũng rất khâm phục y, liền ưng chịu ngay. Gã vào kể lại với bọn

Tô Thuyên.

Tô Thuyên nói:

- Dù sao mình cũng phải đề phòng mới được. Bọn ta cũng ngồi thuyền đi

liền họ để xẩy chuyện gì là có người tiếp ứng.

Vi Tiểu Bảo thấy một mình cùng bọn Cố Viêm Võ đến một nơi vắng vẻ không

người, trong lòng cũng hơi áy náy. Được bảy vị phu nhân theo sau hộ giá là yên

ổn hơn nhiều, gã khen phải luôn miệng rồi ra lệnh cho thuyền phu chèo hai con

thuyền đi về phía Nam, nói là phong cảnh sông Vận Hà rất thanh nhã, muốn ngồi

thuyền uống rượu thưởng nguyệt. Lúc cao hứng không chừng Vi Công gia còn làm

mấy bài thơ ngâm vịnh. Vậy các thuyền khác cứ đậu lại ở Tứ Dương tập chờ đợi.

Vi Tiểu Bảo qua thuyền lớn tiếp khách.

Hai con thuyền đi về phía Nam chừng bảy, tám dặm thấy hai bên bờ toàn là

bình nguyên khoáng dã. Vầng trăng tỏ lơ lửng giữa trời. Bốn bề không một bóng

người.

Vi Tiểu Bảo liền sai buông neo dừng thuyền, lại bảo bọn nhà đò trên thuyền

lớn sang cả thuyền sau để khỏi làm trở ngại thi hứng của Vi Công gia cùng sáu vị

tài tử.

Thấy trong thuyền không còn ai, bọn Cố Viêm Võ mới ngỏ lời tạ ơn đức Vi

Tiểu Bảo đã cứu mạng ngày trước.

Vi Tiểu Bảo cũng khiêm nhượng mấy câu.

Tiếp theo câu chuyện đưa tới chỗ Ngô Lục Kỳ và Trần Cận Nam trước sau

ngộ hại, mọi người than thở hồi lâu.

Cố Viêm Võ nói:

- Trên chốn giang hồ người ta phao ngôn là Vi Hương chủ tham đồ phú quý,

giết sư phụ để cầu vinh hoa. Hoàng huynh, Tra huynh và tiểu đệ nhất quyết không

tin có chuyện đó. Bọn tiểu đệ ba người nghĩ đến chuyện ngày trước chưa từng

quen biết Vi Hương chủ mà Hương chủ đã chịu mạo hiểm phi thường hạ sát Ngô

Chi Vinh để cứu mạng cho bọn tiểu đệ. Một nhân vật nghĩa cả ngất trời xanh như

vậy khi nào lại hạ sát ân sư?

Tra Kế Tá nói theo:

- Bọn tiểu đệ nghe bạn hữu giang hồ nhắc tới vụ này, đã hết sức biện minh

cho Vi Hương chủ, nhưng bọn họ bảo trong thánh chỉ của Hoàng đế Thát Đát nói

rõ như vậy, chẳng lẽ còn giả được ư?...

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

- Những hành động của Vi Hương chủ đã tỏ ra người ở Tào mà lòng vẫn ở Hán

không thể nói rõ cho người ngoài biết được. Tiểu đệ nghĩ rằng xưa nay những bậc

anh hùng hào kiệt trong thiên hạ không ai là không chịu tiếng oan? Đến bậc đại

thánh hiền như Chu Công còn bị lũ Quản, Thái phao ngôn, huống chi kẻ khác?

Tưởng Vi Hương chủ bất tất phải quan tâm đến những người buông tiếng thị phi.

Vi Tiểu Bảo nghe họ nói mà chẳng hiểu gì đến chuyện Chu Công cùng Quản,

Thái, gã chỉ vâng dạ cho xuôi.

Lữ Lưu Lương lên tiếng:

- Vi Hương chủ khổ tâm mưu đồ đại sự không cần mong người thiên hạ hiểu

mình lúc này, mà chỉ cần làm nên sự nghiệp kinh thiên động địa vào lúc tối hậu. Khi

đó người ta sẽ tự hiểu đã trách oan Vi Hương chủ ngày trước.

Vi Tiểu Bảo tự hỏi:

- Ta làm gì mà nên việc kinh thiên động địa ư? úi chà! Hỏng bét! Chắc bọn họ

lại khuyên mình hành thích Hoàng thượng? Anh em Thiên Địa Hội bảo ta làm việc

đó ta chối từ mãi chưa được. Đối với bọn kia mình chối ba bốn phần thì bọn này

phải chối đến năm, sáu phần. Hơn nữa ta rấp ngõ trước là xong.

Gã liền đáp:

- Tiểu đệ chẳng có bản lãnh gì, học vấn lại càng kém cỏi. Hành động chẳng

nên trò gì, trong lòng chán nản lắm rồi. Chuyến này cáo lão hồi hương. Từ nay

quyết không làm một việc gì nữa.

Lữ Nghị Trung thấy Vi Tiểu Bảo còn ít tuổi hơn mình đã nói chuyện cáo lão

hồi hương, không nhịn được bật lên tiếng cười khúc khích.

Bọn Cố Viêm Võ cũng tức cười, nhìn nhau mỉm miệng.

Hoàng Lê Chân tủm tỉm cười nói:

- Vi Hương chủ là một bậc niên thiếu anh hùng. Bước tiền đồ không biết đến

đâu mà lường. Đối với bọn vô tri hiểu lầm trong lúc nhất thời, tưởng Hương chủ

chẳng cần chấp trách làm chi.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Dù chấp trách cũng chẳng làm sao được. Hoàng tiên sinh! Tiên sinh làm bộ

sách hay lắm! Đó là bộ Minh... minh cái gì lục lục?

Hoàng Lê Châu rất lấy làm kỳ tự hỏi:

- Gã này không biết chữ, sao lại hiểu ta làm bộ sách này?

Y đáp:

- Đó là cuốn Minh Di Đãi Phỏng Lục.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Phải rồi! Phải rồi! Trong bộ sách đó có nhiều chỗ tiên sinh thống mạ

Hoàng đế phải không?

Bọn Hoàng Lê Châu giật mình kinh hãi nghĩ thầm:

- Đến gã này còn biết vụ đó thì e rằng lại xẩy ra một trường văn tự ngục.

Cố Viêm Võ đáp:

- Không phải là thóa mạ Hoàng đế. Trong sách Hoàng huynh kiến giải tinh vi,

thuyết minh đạo lý làm Vua thế nào mà thôi.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Phải rồi! Mấy bữa nay ngày nào Hoàng thượng cũng đọc sách của Hoàng

tiên sinh và không ngớt khen ngợi văn chương rất hay. Không chừng sẽ mời tiên

sinh đến làm trạng nguyên hay làm tể tướng.

Hoàng Lê Châu đáp:

- Vi Hương chủ nói giỡn rồi! Làm gì có chuyện đó?

Vi Tiểu Bảo liền kể lại Vua Khang Hy đọc cuốn Minh Di Đãi Phỏng Lục và

khen ngợi thế nào, mọi người nghe gã nói mới yên dạ.

Hoàng Lê Châu nói:

- Vậy ra Hoàng đế Thát Đát cũng biết phân biệt thị phi.

Vi Tiểu Bảo liền thừa cơ nói vào:

- Đúng thế! Tiểu Hoàng đế thường bảo: Tuy ngài không phải là Điểu Sâng

Dủy Thang, nhưng so với các vị Hoàng đế Minh triều cũng không chịu kém mà có

khi còn hay hơn. Bách tính trong thiên hạ dưới quyền trị vì của ngài so với triều

Minh còn dễ chịu hơn. Tiểu đệ nhỏ tuổi không hiểu ngài nói vậy có đúng chăng?

Bốn vị Cố, Tra, Hoàng, Lữ nghe gã nói câu này đưa mắt nhìn nhau. Ai cũng

nghĩ lại những Hoàng đế ở triều đại nhà Minh từ đức Minh Thái Tổ khai quốc cho

tới đời Minh mạt là Sùng Trinh Hoàng đế, ông thì tàn nhẫn bạo ngược, ông thì mê

muội hồ đồ, chẳng một vị nào bì kịp Vua Khang Hy.

Bốn vị này là những bậc đại nho đương thời, thuộc hết sử sách, không muốn

lừa dối lương tâm, bất giác lẩm nhẩm gật đầu.

Vi Tiểu Bảo nói tiếp:

- Hoàng đế là người tốt. Anh em Thiên Địa Hội cũng là người tốt. Vì thế

Hoàng đế bảo tiểu đệ diệt trừ Thiên Địa Hội, tiểu đệ nhất quyết không làm. Anh

em Thiên Địa Hội yêu cầu tiểu đệ hành thích Hoàng đế, tiểu đệ cũng nhất định

không chịu nghe. Thế rồi hai bên cùng trách tiểu đệ. Tiểu đệ nghĩ lui nghĩ tới

chẳng còn cách nào hay hơn là cáo lão hồi hương nên đã quyết chí như vậy.

Cố Viêm Võ nói:

- Vi Hương chủ! Chuyến này bọn tiểu đệ tới đây chẳng phải để yêu cầu

Hương chủ hành thích Hoàng đế.

Vi Tiểu Bảo cả mừng hỏi:

- Thế thì hay lắm! Chỉ cần đừng hành thích Hoàng đế, còn việc gì khác tiểu

đệ cũng không từ chối. Không hiểu bốn vị lão tiên sinh và hai vị tiểu tiên sinh có

điều chi dạy bảo?

Cố Viêm Võ mở cửa khoang thuyền trông ra ngoài thấy bốn bề vắng vẻ mới

quay vào đáp:

- Bọn tiểu đệ đến khuyên Vi Hương chủ tự lập làm Hoàng đế.

Một tiếng choang choảng vang lên. Vi Tiểu Bảo tay cầm chung trà đánh rớt

xuống vỡ tan tành. Gã giật mình kinh hãi hỏi:

- Đây là... tiên sinh nói giỡn đấy chứ?

Tra Kế Tá đáp:

- Quyết không phải chuyện đùa giỡn. Mấy người bọn tiểu đệ thương nghị

mấy tháng trời đều nhận thấy khí số nhà Đại Minh hết rồi. Trăm họ trong thiên hạ

không hướng về Tiền Minh nữa. Thực ra các vị Hoàng đế trải bao triều đại nhà

Minh đều làm trăm họ khổ sở, ai nghĩ tới cũng đem lòng thống hận...

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

- Nhưng bọn Thát Đát chiếm đoạt giang sơn của người Hán chúng ta, bắt

người Hán phải theo chúng cạo đầu dóc tóc, đổi mặc mũ áo của Di Dịch thì cái

tức này chịu làm sao được? Vi Hương chủ tay giữ binh phù, lại được Hoàng đế

Thát Đát tín nhiệm, chỉ cần dựng cờ khởi nghĩa tự lập làm Hoàng đế là bách tính

trong thiên hạ nhất định lướt theo chiều gió mà quy thuận hết.

Vi Tiểu Bảo chưa hết kinh hãi, gã xua tay lia lịa đáp:

- Tiểu đệ... tiểu đệ không có phúc phận, mà cũng không muốn làm Hoàng đế.

Cố Viêm Võ nói:

- Vi Hương chủ là người trượng nghĩa, phúc trạch lại càng thâm hậu. Phóng

tầm mắt nhìn ra thiên hạ, nếu hương chủ không lên làm Hoàng đế thì khắp nước

chẳng còn người thứ hai nào làm được nữa.

Lữ Lưu Lương nói theo:

- Người Hán chúng ta đông gấp trăm người Mãn. Trăm người chọi một có lý

nào lại không thắng? Mới đây Ngô Tam Quế cử sự, vì hắn là đại hán gian đem giang

sơn nhà Đại Minh dâng cho giặc, nên người Hán khắp thiên hạ đều nghiến răng

căm hận, hắn mới không thành công. Còn Vi Hương chủ trên thuận đạo trời, dưới

hợp lòng người. Mới đây Hương chủ lại bình xong La Sát, lập nên kỳ công tuyệt

thế cho Trung Quốc. Danh vọng của Hương chủ đang hưng thịnh như vừng thái

dương lên đến giữa trời. Chỉ cần Hương chủ gật đầu một cái là bọn tại hạ lập tức

đi liên lạc với hảo hán giang hồ cùng mưu đại sự.

Vi Tiểu Bảo trống ngực đánh thình thình. Gã tuyệt không ngờ có người đến

khuyên mình lên làm Hoàng đế. Bất giác gã thộn mặt ra hồi lâu mới nói:

- Tại hạ nguyên là một tên tiểu lưu manh xuất thân, chỉ có bản lĩnh chửi bới

người ta và dong chơi cờ bạc. Mới làm Đại tướng quân cùng quan lớn lòng người

đã không phục thì còn làm Hoàng đế thế nào được? Chân mạng thiên tử chỉ dành

cho người hồng phúc tày trời. Thầy số coi bát tự của tại hạ đã đoán tại hạ mà làm

Hoàng đế là không sống được ba ngày.

Lữ Nghị Trung nghe gã nói trăng nói cuội lại bật lên tiếng cười khúc khích.

Tra Kế Tá hỏi:

- Bát tự của Vi Hương chủ thế nào? Bọn tại hạ đi kiếm thầy số rất cao minh

về coi lại cho.

Y biết Vi Tiểu Bảo về trí thức không có gì. Mình lấy đại nghĩa bảo gã thì gã

chỉ nói tiểu nghĩa chứ không bàn đến đại nghĩa. Đem đại thế dẫn dụ cho gã thì gã

chỉ hiểu tiểu thế chứ không hiểu đại thế. Bây giờ thử thông lưng với một toán

mạng tiên sinh đoán gã đúng là chân mệnh thiên tử, không chừng gã lại tin tưởng.

Không ngờ Vi Tiểu Bảo đáp ngay:

- Bát tự về năm, tháng, ngày, giờ của tại hạ chỉ có gia mẫu là biết thôi, còn tại

hạ chẳng nhớ chi hết. Chuyến này tại hạ về Dương Châu sẽ hỏi lại.

Mọi người biết gã nói dối để chối từ.

Lữ Lưu Lương chưa chịu thôi, lại thuyết:

- Những bậc anh hùng hào kiệt trong thiên hạ phần nhiều không câu nệ tiểu

tiết. Hán Cao Tổ là người khoát đạt đại độ mà so với Vi hương chủ hãy còn tầm

thường hơn nhiều.

Y muốn nói:

- Dù Vi Hương chủ có là tiểu lưu manh xuất thân cũng không sao. Hán Cao

Tổ là đại lưu manh xuất thân còn được. Hán Cao Tổ cũng ưa chửi người, đánh bạc,

có khi còn tệ hại hơn mà cũng làm nên Hoàng đế gây dựng ra Hán triều.

Vi Tiểu Bảo xua tay lia lịa đáp:

- Chúng ta đều là hảo bằng hữu. Tiểu đệ nói với các vị như vậy toàn là sự

thực.

Gã sờ lên đầu nói tiếp:

- Tiểu đệ có cái miệng để ăn cơm. muốn lưu lại ăn thêm mấy chục năm nữa.

Tiểu đệ còn đôi mắt để coi hát và nhìn gái đẹp. Hai tai để nghe thầy đồ giảng

sách cùng những khúc nhạc vui nhộn. Nếu tiểu đệ làm Hoàng đế thì những cái đó

chắc là không giữ được. Một khi cái đầu này rớt xuống là việc gì cũng hư hết. Hơn

nữa làm Hoàng đế chẳng có chi thú vị. Đài Loan xẩy thiên tai bão lụt làm Hoàng

đế phải lo buồn. Tỉnh Vân Nam có người tạo phản, Hoàng đế cũng tổn thương cân

não. Làm Hoàng đế chỉ tổ rước lấy cái khó nhọc vào mình chứ chẳng sung sướng

gì. Tiểu đệ nhất định không làm.

Bọn Cố Viêm Võ ngơ ngác nhìn nhau nghĩ bụng:

- Sự thực gã nói đúng. Gã đã không có đại chí lại không chịu vì dân vì nước

đứng mũi chịu sào thì làm sao đả động được gã? Vụ này thật khó quá!

Sau một lúc, Cố Viêm Võ lại nói:

- Công cuộc to lớn này không thể trong một lúc mà quyết định được...

Y chưa dứt lời, đột nhiên nghe tiếng vó ngựa dồn dập. Mấy chục người kỵ mã

đi dọc bờ sông mé Tây từ phía Bắc tiến lại. Đêm khuya thanh vắng, tiếng vó ngựa

nghe càng rõ rệt.

Hoàng Lê Châu hỏi:

- Giữa lúc đêm khuya sao lại có đại đội nhân mã qua đây?

Lữ Lưu Lương đáp:

- Có lẽ là quan binh đi tuần phòng.

Tra Kế Tá lắc đầu nói:

- Không phải đâu. Nếu là quan binh tuần phòng thì chỉ đi thong thả, khi nào

lại phóng ngựa nhanh như bay? Phải chăng đây là hào khách giang hồ?

Mấy người đang nghị luận, bỗng nghe bờ bên đông cũng có mấy chục người

kỵ mã chạy tới.

Mặt sông Vận Hà rất chật hẹp, chỉ đủ chỗ cho ba con thuyền lớn đậu song

song. Ngựa chạy hai bên bờ, người ngồi trong thuyền ở giữa sông cũng nghe rõ

mồn một.

Những chân sào ở thuyền sau liền đẩy thuyền đậu gần lại thuyền trước.

Tô Thuyên và Song Nhi nhảy sang đầu quan thuyền cất tiếng hỏi:

- Tướng công! E rằng bọn người kia chẳng tử tế gì. Vậy chúng ta quây quần

vào một chỗ?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Phải rồi! Liệt vị lão tiên sinh đây xem chừng không phải hạng hiếu sắc. Các

phu nhân cứ vào đi, liệt vị ngó thấy cũng không sao.

Bọn Cố Viêm Võ nghĩ thầm:

- Gã này ưa nói nhăng quá.

Họ cảm thấy có điều bất tiện khi chạm mặt với nội quyến của Vi Tiểu Bảo,

liền lui cả về đằng lái.

Bọn Công chúa, Phương Di bảy vị phu nhân bồng con bế cái vào cả khoang

trước.

hồi 248

XUốNG GIANG NAM ẩN TíCH MAI DANH

Lại nghe cả hai bên bờ những tiếng còi tre thổi lên toe toe, kẻ xướng

người họa.

Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nói:

- Đúng là hiệu còi của Thiên Địa Hội.

Mấy chục người kỵ mã đi đến bên quan thuyền, bỗng nghe trên bờ mé Tây

có tiếng người hô:

- Vi Tiểu Bảo ra đây!

Vi Tiểu Bảo khẽ cất tiếng thóa mạ:

- Con mẹ nó! Tên nào mà chẳng biết kẻ trên người dưới? Sao hắn không kêu

Vi Hương chủ.

Gã toan chạy ra đầu thuyền thì Tô Thuyên cản lại nói:

- Hãy khoan! Để tiện thiếp hỏi lại cho rõ đã.

Mụ chạy ra ngoài khoang thuyền lớn tiếng hỏi:

- Anh hùng hảo hán ở đâu muốn gặp Vi tướng công?

Mụ ngó lên hai bên bờ thì thấy những người kỵ mã đều bịt đầu bằng khăn

xanh, tay cầm binh khí.

Người đi đầu bên Tây ngạn đáp:

- Bọn ta là người Thiên Địa Hội.

Tô Thuyên khẽ hỏi:

- Khẩu hiệu của Thiên Địa Hội lúc diện kiến ra sao?

Vi Tiểu Bảo dõng dạc hô:

- Ngũ nhân phân khai nhất thủ thi, thân thượng hồng anh vũ nhân tri. Nếu là

anh em Thiên Địa Hội mà chưa quen biết thì đọc thơ tiếp để nhận nhau.

Không ngờ người kia ngồi trên ngựa đáp:

- Đây là thơ cũ của Thiên Địa Hội. Từ ngày Vi Tiểu Bảo phản hội hàng địch,

sát hại sư phụ để cầu vinh hoa phú quý, hết thẩy các khẩu hiệu đã đổi lại.

Vi Tiểu Bảo kinh hãi hỏi lại:

- Ông bạn là ai? Sao lại hỏi thế?

Người kia hỏi lại:

- Ngươi có phải là Vi Tiểu Bảo không?

Vi Tiểu Bảo liệu chừng không chối cãi được liền đáp:

- Tại hạ chính là Vi Tiểu Bảo.

Người kia nói:

- Có cho ngươi hay cũng chẳng hề gì. Ta là họ Thư ở Hoành Hóa Đường

trong Thiên Địa Hội.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Té ra là Thư đại ca. Trong vụ này có nhiều chỗ hiểu lầm. Lý Hương chủ

trong quý đường có đến đây không?

Gã họ Thư hằn học đáp:

- Ngươi gây lên tội ác ngập đầu. Lý Hương chủ đã bị ngươi làm cho uổng

mạng, sao còn giả vờ hỏi?

Quần hùng bên Tây ngạn lớn tiếng la:

- Vi Tiểu Bảo phản bội hàng địch, hại sư cầu vinh. Thư đại ca bất tất phải nói

nhiều với gã. Bữa nay chúng ta phân thây gã làm muôn đoạn đặng báo thù cho

Trần tổng đà chúa và Lý Hương chủ.

Mọi người bên Đông ngạn nghe tiếng đều la ó om sòm.

Đột nhiên nghe đánh vèo một cái. Có người liệng một viên Phi hoàng thạch

xuống.

Vi Tiểu Bảo vội rút vào trong khoang thuyền ngấm ngầm kêu khổ.

Gã nghĩ bụng:- Té ra Lý Hương chủ ở Hoành Hóa Đường chết rồi. Những anh em đây không

hiểu trắng đen hành động nóng nảy, biết làm thế nào?

Lại nghe những tiếng lách tách vang lên ở trên mui thuyền. Hai bên không

ngớt phóng ám khi đánh xuống. May mà thuyền đậu giữa sông hai bên đều có bãi

rộng cách bờ sông khá xa, nên ám khí bày ra đều rớt xuống sông, mà có vào

thuyền thì luồng lực đạo cũng đã yếu rồi.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Đây là thảo thuyền tá tiễn... Ta là Lỗ Túc chỉ sợ run. Vị nào là Gia Cát

Lượng mau mau nghĩ biện pháp đối phó.

Cố Viêm Võ cùng bọn thuyền phu đều ở đằng lái thấy ám khí bắn dữ cũng

ẩn vào trong khoang.

Đột nhiên ánh lửa lấp loáng. Mấy mũi hỏa tiễn bắn vào mui thuyền làm cho

phát hỏa.

Vi Tiểu Bảo la:

- Trời ơi! Nguy đến nơi rồi! Hỏa siêu Vi Tiểu Bảo!

Tô Thuyên lớn tiếng hô:

- Cố Viêm Võ tiên sinh ở đây. Các ngươi không được vô lễ.

Mụ nghĩ đến Cố Viêm Võ danh vọng rất lớn trên chốn giang hồ, chắc bọn

người Thiên Địa Hội không dám đắc tội với y. Nhưng hai bên bờ tiếng người huyên

náo, lấn át tiếng hô của mụ.

Vi Tiểu Bảo liền nói:

- Các vị nương tử! Chúng ta đồng thanh hô "Cố Viêm Võ tiên sinh ở đây".

Một, hai, ba...

Bảy vị phu nhân theo Vi Tiểu Bảo đồng thanh hô:

- Cố Viêm Võ tiên sinh ở đây.

Mọi người hô ba lần, thanh âm trên bờ dần dần yên tĩnh lại. ám khí cũng

không phát ra nữa.

Thư Hương chủ hỏi:- Cố Viêm Võ tiên sinh ở trong thuyền ư?

Cố Viêm Võ ra đứng đầu thuyền chắp tay đáp:

Tiểu đệ là Cố Viêm Võ đây.

Hương chủ họ Thư la lên một tiếng "úi chao!" rồi hạ lệnh:

- Anh em biết lội nước mau nhảy xuống sông lôi thuyền vào bờ.

Những tiếng bì bõm vang lên không ngớt. Mười mấy người trong hội nhảy

xuống sông Vận Hà lôi quan thuyền vào bờ.

Lúc này thế lửa rất mạnh. Song Nhi kéo Vi Tiểu Bảo nhảy lên bờ trước. Mọi

người lục tục theo sau.

Anh em Thiên Địa Hội tay cầm binh khí bao vây xung quanh.

Thư Hương chủ nhìn Cố Viêm Võ chắp tay nói:

- Tại hạ là Thư Hóa Long ở Hoành Hóa Đường trong Thiên Địa Hội xin bái

kiến Cố tiên sinh.

Cố Viêm Võ chắp tay đáp lễ.

Một lão già khom lưng nói:

- Trong cuộc Sát Quy Đại hội ở phủ Hà Giang ngày trước, anh hùng thiên hạ

đều suy cử Cố tiên sinh làm Tổng quân sư. Tại hạ đã được gặp mặt Cố tiên sinh

một lần. Nay những anh em đây hành vi có chút lỗ mãng, mong tiên sinh tha tội.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Các vị hành động quả là lỗ mãng thật.

Lão già kia lớn tiếng:

- Ta nói chuyện với Cổ tiên sinh, ai thèm nói với tên tiểu Hán gian như ngươi?

Lão vươn tay nắm lấy trước ngực Vi Tiểu Bảo.

Song Nhi đưa tay trái lên gạt, lại xoay tay mặt ra chiêu cầm nã nắm lấy cổ tay

lão, mượn thế đẩy mạnh một cái.

Lão già đứng không vững bị hất té ra ngoài xa.Hai tên cùng hội chúng trong Thiên Địa Hội vội chạy đến đỡ lão dậy.

Cố Viêm Võ la lên:

- Chúng ta hãy thảo luận bằng lời nói tử tế. Không nên động võ! Không nên

động võ!

Lúc này chiếc quan thuyền đã cháy đến khoang trong. ánh lửa soi rõ mặt mũi

mọi người.

Tô Thuyên đang bồng đứa nhỏ liền giao cho Mộc Kiếm Bình. Mụ nghĩ thầm:

- ở đây chỉ có ta và Song Nhi là có võ công cao thâm hơn hết, muốn bảo vệ

Tiểu Bảo xông ra khỏi trùng vi chẳng khó khăn gì. Hội chúng Thiên Địa Hội chỉ

nhằm đối phó một mình Tiểu Bảo. Gã mà thoát thân rồi thì bọn hán tử giang hồ

này chắc không làm khó dễ gì đến hạng đàn bà con nít.

Mụ liền cùng Song Nhi đứng kèm hai bên Vi Tiểu Bảo và nhằm sẵn ba con

ngựa đề phòng khi cuộc thương nghị bế tắc là lập tức động thủ cướp ngựa chạy

đi.

Cố Viêm Võ kéo tay Thư Hóa Long nói:

- Thư đại ca! Xin đại ca ra đây nói chuyện.

Hai người dắt nhau ra xa mấy trượng.

Thư Hóa Long nghe Cố Viêm Võ nói mấy câu rồi lớn tiếng hô hoán sáu, bảy

người tới. Trong đó có cả lão già bị Song Nhi hất ngã. Xem chừng bọn này đều là

thủ lãnh.

Kỳ dư ngoài bốn chục tên hội chúng đều đứng bao vây Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Những đồ đạc trong thuyền này không phải ít tiền. Các ngươi làm cháy hết

rồi! Chà chà! Phen này Hoành Hóa Đường phải phá sản cũng không đủ bồi

thường.

Trong bọn hội chúng có người giơ đao uy hiếp, có người buông tiếng thóa

mạ. Vi Tiểu Bảo không lý gì đến họ. Gã chắc mẩm Cố Viêm Võ sẽ giải thích được

rõ nội vụ với bọn Thư Hóa Long.Quả nhiên bọn Thư Hóa Long cùng bọn thủ lĩnh Hoành Hóa Đường nghe Cố

Viêm Võ giải thích mới biết nội vụ nhiều điều khuất khúc. Vi Tiểu Bảo làm quan lớn

tại triều đình Mãn Thanh vẫn khiến họ không thích, nhưng Tổng đà chúa Trần Cận

Nam không phải là gã hạ sát đủ khiến cho bao nhiêu nỗi phẫn nộ đều tiêu tan.

Mọi người nói chuyện rồi trở lại chỗ cũ.

Thư Hóa Long nhìn Vi Tiểu Bảo chắp tay nói:

- Vi Hương chủ! Vừa rồi bọn tiểu đệ có chỗ hiểu lầm. Nếu không được Cố

tiên sinh mở đường tất xảy ra chuyện đắc tội với Hương chủ.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Sự thực muốn đắc tội với tiểu đệ cũng không phải chuyện dễ.

Gã nói rồi lạng người chênh chếch đi, thi triển công phu Thần Hành Bách

Biến, hết xuyên qua mé tả lại xông sang mé hữu. Chỉ ba cái nhô lên hụp xuống

gã đã thoát ra khỏi vòng vây của mọi người xa đến năm, sáu trượng. Gã liền nhảy

lên lưng ngựa.

Bọn Thư Hóa Long giật mình kinh hãi. Chẳng ai ngờ thuật khinh thân của Vi

Tiểu Bảo lại thần diệu khôn lường đến thế. Bất giác mọi người đều lẩm bẩm:

- Bản lãnh gã này cao minh như vậy, trách nào gã còn nhỏ tuổi đã làm đến

Hương chủ ở Thanh Mộc Đường. Cổ lai những bậc minh sư thường dạy nên cao đồ.

Đệ tử chính tông của Tổng đà chúa quả nhiên không phải tầm thương.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Tiểu đệ xin cáo từ.

Gã giật dây cương cho ngựa chạy.

Mọi người thấy Vi Tiểu Bảo chạy về phía Tây mười mấy trượng rồi đột nhiên

xuống ngựa, xông qua mặt Tây Bắc, chợt xuyên qua bên tả, chợt lạng qua mé hữu,

rồi không hiểu gã làm thế nào mà lại trở về giữa vòng vây.

Gã cười hì hì đứng sững đương trường. Chẳng ai nhìn rõ gã tiến vào vòng

bằng cách nào.

Bọn hội chúng trong Thiên Địa Hội nhìn nhau kinh hãi.Thư Hóa Long chắp tay nói:

- Bản lĩnh Vi Hương chủ xuất thần nhập hóa. Tại hạ rất khâm phục.

Vi Tiểu Bảo chắp tay cười đáp:

- Cái đó không bõ làm trò cười cho Thư đại ca.

Thực ra gã xuất nhập vòng vây cố nhiên nhờ khinh công vi diệu nhưng một

phần là do gã "Thanh Đông Kích Tây", động tác bất ngờ.

Lão già kia ở Hoành Hóa Đường võ công rất cao cường khiến anh em bản

đường rất khâm phục mà bị Song Nhi nắm lấy đẩy một cái hất ngã lăn long lóc

khiến họ càng bở vía. Họ đoán chừng sáu vị thiếu phụ kia đều là nhưng cao thủ

phi thường. Ai cũng tự lượng bên mình tuy đông người nhưng nếu xẩy cuộc động

thủ thì e rằng đã bị một phen thất bại xiểng liểng.

Thư Hóa Long nói:

- Cổ tiên sinh vừa cho hay Vi Hương chủ người ở Tào mà lòng vẫn ở Hán,

muốn làm lên đại sự kinh thiên động địa để người Hán được nở mày nở mặt. Nay là

lúc Vi Hương chủ đứng lên khởi sự. Bọn tiểu đệ ở Hoành Hóa Đường tuy chẳng có

bản lĩnh gì, nhưng được Vi Hương chủ sai khiến thì dù phải nhảy vào dầu sôi lửa

bỏng cũng quyết chẳng lùi bước.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Dạ dạ!

Thư Hóa Long thấy gã tỏ vẻ nhạt nhẽo, đột nhiên giơ ngón tay trỏ bên phải

lên đâm vào mắt bên trái mình đánh sột một cái. Lập tức máu tươi chảy đầm đìa.

Mọi người đều bật tiếng la hoảng.

Bọn Vi Tiểu Bảo, Cố Viêm Võ cũng giật mình kinh hãi, vội hỏi:

- Thư đại ca! Đại ca... làm gì vậy?

Thư Hóa Long ngang nhiên đáp:

- Tiểu đệ xúc phạm Vi Hương chủ là mang tội bất kính người trên chiếu theo

luật lệ của bản hội, đáng lý phải đâm thủng cả cặp con ngươi để trừng phạt về tộicó mắt không tròng, nhưng tiểu đệ lưu lại một con mắt để coi Vi Hương chủ làm

nên sự nghiệp kinh thiên động địa.

Lão già kia cất giọng trầm trầm hỏi:

- Nếu Cổ tiên sinh và anh em đều bị lừa gạt. Vi Hương chủ chỉ nói mà không

làm, thủy chung vẫn tham đồ phú quý giữ lấy quan cao tước cả thì sẽ ra sao?

Thư Hóa Long đáp:

- Nếu thế thì Vi Hương chủ cũng tự móc tròng mắt để bồi thường cho tiểu

đệ.

Dứt lời y nhìn Cố Viêm Võ và Vi Tiểu Bảo khom lưng thi lễ cáo từ:

Bọn tiểu đệ chờ đợi tin tức thành công của Vi hương chủ.

Đoạn y vẫy tay một cái, quần hùng Thiên Địa Hội liền lên ngựa rút lui.

Còn nghe lão già quay lại nói:

- Vi Hương chủ! Hương chủ về nhà hỏi lại lệnh đường xem lệnh tôn là người

Hán hay người Mãn và đừng quên tổ tông nhà mình.

Những tiếng còi trúc vang lên. Cả quần hùng bên Đông ngạn cũng phóng

ngựa đi về phía Nam.

Chỉ trong khoảnh khắc, hai đoàn kỵ mã ở hai bên bờ sông đều đi hết sạch.

Chiếc quan thuyền ở dưới sông còn đang cháy chưa tắt.

Cố Viêm Võ thở dài nói:

- Các vị huynh đệ kia hãy còn có ý hoài nghi Vi Hương chủ. Bọn họ là những

trang hào kiệt quê mùa nên nói năng cùng hành động không khỏi có vẻ thô bạo,

nhưng tấm lòng trung nghĩa của họ khiến cho người ta phải kính phục.

Lão nhìn Vi Tiểu Bảo nói tiếp:

- Vi Hương chủ! Những điều gì cần nói, chúng ta đều đã nói hết rồi. Mong

rằng Hương chủ đừng quên mình là con cháu của người đại Hán. Bây giờ xin tạm

chia tay, rồi đây còn nhiều phen hội ngộ.

Dứt lời lão khom lưng bái biệt, cùng mấy vị Hoàng, Tra, Lữ lên đường.Vi Tiểu Bảo thần trí bâng khuâng đứng ngẩn người trên bờ sông. Ngọn gió

thu hiu hắt thổi khiến gã cảm thấy lạnh lùng.

Ngọn lửa dưới quan thuyền đã nhỏ dần, thỉnh thoảng phát ra những tiếng nổ

lắc rắc.

Vi Tiểu Bảo tự hỏi:

- Làm thế nào bây giờ? Làm thế nào bây giờ?

Tô Thuyên nói:

- May còn được một con thuyền chưa cháy, chúng ta hãy trở về Tứ Dương

tập rồi thủng thẳng tính kế lâu dài.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Lão già đó bảo ta về nhà hỏi lại mẫu thân xem tiên phụ là người Mãn hay

người Hán. Ha ha! Lão nói vậy là đúng.

Tô Thuyên khuyên giải:

- Tiểu Bảo! Bọn người thô tục đó ăn nói hồ đồ, hà tất tướng công phải để

tâm? Chúng ta xuống thuyền đi.

Vi Tiểu Bảo đứng yên không nhúc nhích. Lòng dạ rối bời, gã cúi xuống nhìn

mấy giọt máu dưới đất. Đấy là những giọt máu từ con mắt bên trái của Thư Hóa

Long nhỏ xuống. Đột nhiên gã gầm lên:

- Lão gia không làm nữa! Lão gia không làm nữa!

Bảy vị phu nhân giật mình.

Vi Song Song đã ngủ say trong lòng mẫu thân nghe tiếng gã gầm thét giật

mình tỉnh dậy khóc òa lên.

Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Hoàng đế bắt ta đi đánh Thiên Địa Hội. Thiên Địa Hội bức bách ta làm

Hoàng đế. Lão gia hai chân đứng hai đầu thuyền mà cả hai bên đều không tốt.

Một bên muốn chặt đầu ta, một bên đòi móc mắt ta. Con người được mấy cái đầu,

mấy con mắt? Hết người này đòi chặt đầu lại đến kẻ khác đòi móc mắt. Thế thì lão

gia còn được cái gì? Không làm nữa là xong. Bất cứ cái gì lão gia cũng không làm.Tô Thuyên thấy thái độ gã thất thường liền tìm lời ôn nhu khuyên giải:

- Làm quan tại triều suốt ngày hồi hộp trong lòng chẳng có chi là thú. Làm

hương chủ Thiên Địa Hội cũng chẳng hay ho gì. Tướng công nhất quyết không làm

nữa là phải lắm.

Vi Tiểu Bảo mừng rỡ hỏi:

- Các vị đều khuyên ta không làm gì nữa phải không?

Bọn Tô Thuyên, Phương Di, A Kha, Tăng Nhu, Mộc Kiếm Bình, Song Nhi sáu

người đều gật đầu. Chỉ một mình Kiến Ninh Công chúa không đồng ý hỏi:

- Ngươi mới làm đến Công tước, sao lại bỏ không muốn làm quan nữa? Ta

tưởng ngươi làm đến tể tướng, phong đến tước Vương rồi hãy cáo lão. Vả lại bây

giờ ngươi muốn từ quan, nhất định Hoàng đế ca ca cũng không chuẩn cho.

Vi Tiểu Bảo tức mình đáp:

- Ta đã không làm quan là không bị Hoàng đế cai quản nữa. Hoàng đế bất

quá là một đại cữu tử của ta. Con mẹ nó! Nếu còn chuyện rắc rối thì cả cái đại

cữu tử cũng không thèm nhận nữa.

Không nhận Hoàng đế làm đại cữu tử tức là không muốn lấy Công chúa làm

vợ. Công chúa sợ quá không dám nói nữa.

Vi Tiểu Bảo thấy bảy vị phu nhân không có điều chi dị nghị, trong lòng cao

hứng reo lên:

- Hoành Hóa Đường đốt thuyền của ta là hay lắm! Là tuyệt diệu! Chúng ta lén

lút trốn đi. Địa phương quan sẽ báo cáo về triều đình là ta bị giặc cướp đốt

chết hết rồi. Từ đây đại cửu tử không tìm kiếm ta nữa.

Bọn Tô Thuyên nghe nói đều vỗ tay hoan hô.

Tám người bàn định xong xuôi, Vi Tiểu Bảo, Công chúa, Song Nhi ba người

cải trang đến trước khách sạn ở Hoài Âm chờ đợi.

Tô Thuyên cùng Phương Di, Mộc Kiếm Bình và Tăng Nhu trở về Tứ Dương

tập, thu thập vàng bạc cùng đồ tế nhuyễn ở những thuyền khác rồi phao ngôn

quan thuyền của Vi Công gia đang đêm bị giặc cướp tập kích đốt thuyền giết

người.Chỉ có mấy tên thuyền phu biết rõ Vi Tiểu Bảo không chết là mối hậu hoạn.

Tô Thuyên muốn giết chúng đi để bịt miệng, bỏ xác ở bờ sông khiến sự việc

thêm phần chứng cứ, nhưng Mộc Kiếm Bình trong lòng không nỡ, nàng kiên trì can

gián đừng giết kẻ vô tội.

Tô Thuyên nói:

- Hay lắm! Kiếm Bình muội muội là người nhân hậu, Hoàng thiên sẽ phù hộ cho

muội muội sinh thêm mấy đứa con vừa mập vừa ngộ.

Rồi mụ quay sang bảo Vi Tiểu Bảo:

- Ta cầm kiếm giết ngươi. Ngươi chạy trốn vào trong rừng rồi kêu thét lên giả

vờ bị ta giết chết.

Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Mụ điên này! Định mưu sát thân phu ư?

Rồi gã lớn tiếng la:

- Trời ơi! Giết người! Cứu mạng! Cứu mạng!

Đoạn gã co giò chạy vào rừng cây.

Tô Thuyên cầm kiếm rượt theo.

Lại nghe Vi Tiểu Bảo kêu thét lên:

- Cứu mạng! Cứu mạng! Nó giết người...

Rồi im bặt.

Mộc Kiếm Bình biết là chuyện giả nhưng nghe Vi Tiểu Bảo kêu rú thê thảm,

trống ngực nàng đánh thình thình, nàng khẽ hỏi Song Nhi:

- Song Nhi muội tử! Có phải... y giả vờ không?

Song Nhi đáp:

- Tỷ tỷ đừng sợ. Dĩ nhiên là chuyện giả.

Nhưng chính thị cũng không khỏi sợ hãi.

Bỗng thấy Tô Thuyên từ trong rừng cầm kiếm chạy ra, miệng hô lớn:- Phải giết hết bọn thuyền phu!

Bọn thuyền phu đang chui rúc ở bờ sông, thấy hội chúng Thiên Địa Hội

phóng hỏa đốt thuyền, Tô Thuyên hành hung đuổi giết Vi Công gia, liền bỏ chạy

tán loạn. Chỉ trong khoảnh khắc chúng đã mất biến không còn thấy tăm hơi đâu

nữa.

Song Nhi trong lòng vẫn băn khoăn về Vi Tiểu Bảo, liền ba chân bốn cẳng

chạy vào rừng, thấy gã nằm thẳng cẳng dưới đất không nhúc nhích. Thị sợ hết hồn

tưởng gã chết thật, nhảy xổ lại gọi:

- Tướng công! Tướng công!

Người Vi Tiểu Bảo vẫn nằm cứng đơ khiến Song Nhi càng thêm hồi hộp, thị

vội vươn tay ra đỡ gã dậy.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên giang hai tay ôm chặt lấy thị, miệng hô:

Đại công cáo thành, phải hôn một cái!

Cả tám vợ chồng hành động theo kế hoạch, thu thập tài vật, cải trang về

đến Dương Châu. Vi Tiểu Bảo đón tiếp mẫu thân rồi cả nhà cùng xuống Vân Nam

từ đây mai danh ẩn tích, tiêu dao ngày tháng ở thành Đại Lý.

Những lúc nhàn rỗi, Vi Tiểu Bảo lại nhớ tới trong thành Nhã Khắc Tát trên núi

Lộc Đỉnh còn kho tàng rất lớn, nhưng thấy mình giầu có, trong lòng đã thỏa mãn,

lại nghĩ đến mối giao tình tha thiết với vua Khang Hy nên không nỡ khai quật làm

tổn thương long mạch của Nhà Vua.

Vua Khang Hy cũng biết tư cách và bản lĩnh Vi Tiểu Bảo quyết không đến

nỗi bị giặc cướp sát hại một cách dễ dàng, huống chi lại không tìm thấy thi thể gã

đâu. Nhà Vua không ngớt phái người minh tra ám phỏng mà không ra manh mối.

Những sử gia đời sau có chép việc Nhà Vua sáu lần xuống Giang Nam để thị

sát công tác trên sông Đại Hà, nhưng thực ra tuần thị Hà công hà tất phải xuống

đến Hàng Châu? Mỗi chuyến nam du Nhà Vua còn đình lưu ở Dương Châu rất lâu,

phái nhiều người đến các đr trường, kỹ viện, trà quán, tửu lâu điều tra mà chẳng

được tin tức gì về Vi Tiểu Bảo, khiến mặt rồng lắm lúc đăm chiêu.Người đời sau khảo chứng: tổ phụ của Tào Tuyết Cần tác giả pho Hồng Lâu

Mộng là Tào Dần nguyên trước làm Ngự tiền thị vệ, sau được Vua Khang Hy phái

đi làm chức tạo ở Tô Châu, lại là chức tạo ở Giang Ninh là những nơi phồn hoa mặt

Giang Nam để tìm kiếm Vi Tiểu Bảo. Đó là chuyện về sau hãy xin tạm gác.

Nhắc lại hôm ấy Vi Tiểu Bảo đến Dương Châu, đưa cả phu nhân cùng các con

vào Lệ Xuân viện để gặp mẫu thân.

Mẫu tử trùng phùng, nỗi hoan hỷ kể sao cho xiết!

Vi Xuân Phương thấy bảy cô con dâu đều xinh đẹp, mụ nghĩ thầm:

- Thằng lỏi Tiểu Bảo lựa gái thật là tài. Gã mà mở kỹ viện nhất định phát đạt

lớn.

Vi Tiểu Bảo dắt mẫu thân vào phòng hỏi:

- Má má! Phụ thân của hài nhi là ai?

Vi Xuân Phương trợn mắt lên hỏi lại:

- Ta biết thế nào được?

Vi Tiểu Bảo chau mày hỏi:

- Trước khi mang thai hài nhi, má má đã tiếp ai?

Vi Xuân Phương đáp:

- Khi ấy ta còn trẻ đẹp, hàng ngày phải tiếp mấy người, làm sao mà nhớ

được?

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Những người khách đó là người Hán cả chứ?

Vi Xuân Phương đáp:

- Người Hán thì dĩ nhiên rồi, nhưng có cả những ông quan người Mãn và cả võ

quan người Mông Cổ.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Có bọn quỷ ngoại quốc không?

Vi Xuân Phương tức giận đáp:- Ngươi cho má ngươi là mụ điếm tồi tàn hay sao mà tiếp cả bọn quỷ ngoại

quốc? Con bà nó! Bọn quỷ La Sát, quỷ Hồng Mao mà lần tới Lệ Xuân viện là lão

nương cầm chổi đuổi ra ngay.

Vi Tiểu Bảo yên dạ nói:

- Thế thì hay lắm.

Vi Xuân Phương ngửng đầu ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Hồi ấy có người tướng mạo khá bảnh thường đến kiếm ta. Mũi ngươi có chỗ

giống y. Mỗi khi nhập phòng y vừa niệm kinh vừa đảo mắt sùng sục nhìn ta mà cười

hì hì. Dường như y là một vị Lạt Ma.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Thế là Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng đủ cả!

Hai mẹ con cười ồ.

Hết

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #locdinhky5