Chap 1
Thật là kì lạ khi có những người mà ta thích đến mức gần như điên dại, ta lại chẳng nhớ gì về lần đầu tiên gặp họ. Có những hình ảnh mập mờ chạy qua đầu tôi, rất nhanh, không thể bắt được, tôi nhớ lại gương mặt ấy, gầy gò, tóc rối bù, ánh mắt sâu thăm thẳm, đen như màn đêm, cao hơn tôi cả một cái đầu. Cố nhiên cậu ấy không quá đẹp trai, nhưng ấy lại là một chuyện khác kia.
1.
Sau khi thi xong đầu vào cấp cao trung, tôi chỉ nằm dài ở nhà và xem phim, rồi đi ngủ, thức dậy, và lại xem phim, một vòng tròn khá lý thú, tôi cho là thế, hầu như tôi không hề mảy may bận tâm bản thân có đỗ hay không, tôi thi xong, thế là hết. Chẳng phải tôi đã quá cố gắng lao lực để phục vụ kỳ thi, tôi là như thế, không phải bao biện, nhưng hình như cái trì ạch biếng nhác đã được Đấng tạo hóa ban cho tôi từ lúc chào đời, chưa bao giờ tôi từng dành hết sức mình cho một điều gì, bất kể nó có quan trọng đến đâu, có lẽ vì thế mà tôi không có được cái cảm giác thỏa mãn như người ta đáng phải vậy. Thay vì nhẹ nhõm, tôi lại cảm thấy dường như bị ai đó cướp đi một thứ tối yếu, cái cảm giác được cống hiến cho sự cao cả và vĩ đại, những giây phút bị áp lực đè nặng, ấy mới là sống đối với tôi, không, tôi ghét bị ai ép buộc, nhưng sống trong sự buông lơi thì còn ác mộng hơn nhiều.
Khoảng một tuần sau kỳ thi, bố mẹ tôi đã cố gắng thuyết phục tôi tham gia cái khóa tu tập mùa hè chết tiệt nào đấy dành cho tín đồ công giáo. Nó không dành cho tôi, tôi đã biết thế ngay từ lúc đó, nhưng khi ấy bệnh đa nhân cách của tôi lại tái phát, có lẽ tôi nên đi trải nghiệm cuộc sống ở đó, nó sẽ cho tôi nhiều kinh nghiệm và khiến bản thân trưởng thành hơn, thôi bỏ cái văn mẫu ấy đi, tôi chẳng phải cái đứa trò giỏi con ngoan như thế, căn bản là thành tích tham gia hoạt động ngoại khóa sẽ giúp hồ sơ du học của tôi có sức nặng hơn, vậy thôi, và thế là tôi đi. Đó hẳn phải là quyết định sai lầm đầu tiên trong đời, dù tôi đồ rằng nó sẽ chả ảnh hưởng gì đến việc bố mẹ tôi đằng nào cũng sẽ đăng ký, họ có những chấp niệm khó bỏ đối với sự ù lì của tôi, cũng phải thôi, ở tầm tuổi này, đứa con trai nào cũng kết bạn rất rộng và chơi thể thao, và rất cao. Nhưng tôi không hẳn là con trai, không phải đích xác theo định nghĩa của xã hội, có lẽ điều ấy là ngọn nguồn của thương đau, dù rằng tôi vẫn luôn tự thuyết phục mình theo hướng ngược lại.
Tôi có quá nhiều bí mật, bên trong tôi sâu thẳm và tối tăm như nơi đáy vực, luôn có gì đó muốn thoát ra ngoài, một con quái vật, một hình thù gớm nhiếc và khốn nạn, yếu đuối và trụy lạc, phải khóa chặt nó lại, không đời nào tôi để người khác biết đến cái sự tồn tại ghê tởm và báng bổ như thế, nhưng mỗi khi đối diện với sự không hoàn hảo, con quái vật lại lồng lên, rú một tiếng ghê rợn, giật đứt mất hai ba sợi dây xích cũ kỹ gỉ sét, rồi cái bình gốm chứa nó cũng nứt đến vài đường, nghe răng rắc như đất há toác ra từng khối khi trời hạn hán nhiều năm. Vì cái lí ấy mà có lẽ làm bình gốm là khả năng đáng khâm phục nhất của tôi, tuồng như cái khả năng đáng nguyền rủa ấy cũng đi cùng với thói lười nhác. Tôi biết cách lấy lòng người khác, còn rất giỏi nữa kia, tôi đã luôn là một đứa trẻ ngoan và biết vâng lời, người lớn thích tôi vì điều ấy, họ cho tôi kẹo và trái cây như thưởng cho những con khỉ diễn xiếc, và tôi cũng đã quen dần với vị trí trung tâm, ngất ngây với cái quyền lực thao túng bẩm sinh quá đỗi tuyệt vời đó.
Tôi chỉ mang vài bộ quần áo, đồ dùng sinh hoạt thiết yếu và một quyển thánh ca bỏ túi đi theo cùng, địa điểm của khóa tu mà chúng tôi tham gia là tại một khu nhà thờ cổ rất nổi tiếng được người Pháp xây dựng từ thế kỉ trước ở Vân Nam khi họ sang lấn chiếm thuộc địa, nó ở sâu trong núi, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, giống như cái chốn mà chính nàng thơ Naoko đã gieo mình vào đó, không điện thoại, không mạng xã hội, có khi như thế lại hay. Tôi đáp máy bay từ Đài Loan sang sân bay Côn Minh, cảnh sắc trên máy bay không bao giờ thay đổi, mãi một thứ nền trắng và xanh đơn điệu. Từ sân bay tôi ra đến điểm tập trung là một bãi để xe buýt, thành viên đoàn ngoại trừ người phụ trách giám sát và hai nhân viên đi cùng, hầu hết mọi người đều trạc tuổi tôi, hơn hoặc kém một hai tuổi. Lịch đi xe từ 6 giờ sáng, tôi phải đi chuyến bay từ 4 giờ rưỡi, tôi không phải đứa thích ngủ ngày nhưng hẳn đây là lần đầu tiên tôi dậy sớm như thế, nếu không tính mấy lần giật mình tỉnh giữa đêm. Tôi chọn một góc khuất ở cuối xe và nghe nhạc từ đống bài hát sến súa mà tôi vừa tải xuống tối hôm trước, phải tận hưởng nốt thành quả công nghệ trước khi người giám sát soát đồ và thu sạch tang vật.
Xe chúng tôi chạy qua vùng đồi núi hiểm trở nhấp nhô của Vân Nam, đường đi rất hẹp, lại không được lát nhựa đường nên nhiều khi xe xóc lên từng đợt khi đi qua một cụm ổ gà. Hai bên đường, cây cối rậm rì đặc trưng của miền nhiệt đới, những cây rẻ quạt xòe hoa đỏ và vàng rực, mỗi bông to bằng một bàn tay người, khi xe đi qua, gió lay động những cánh hoa như có ý thức, chúng ngả mình, vẫy chào lại chúng tôi, rồi những cây hồ đào đồ sộ, thân vươn tới tầng trên cùng của những tán lá, chúng đứng cách nhau rất đều, như thể được trồng theo quy hoạch vậy, cứ hai ba feet lại có một cây như thế, cũng khổng lồ và nâu sẫm như màu của cổ xưa, tựa hồ chúng đã ở đó rất lâu rồi. Thi thoảng, khi xe chạy chậm lại ở một quãng đường gồ ghề, tôi thoáng nhìn thấy những bóng đen xì nhỏ nhắn kì dị, thoát ẩn hiện, hình như là một loài nào thuộc họ linh trưởng mà tôi không rõ, nó đu trên những cành quấn quýt dây leo, cười khanh khách nhạo báng, có con nhảy lên nóc xe nghe một tiếng uỳnh, đập loạn xạ, rồi lại mất hút, đây là lãnh thổ của chúng, hẳn vậy, và chúng tôi là những kẻ xâm phạm phiền phức.
Xa hơn chút nữa, chúng tôi đi qua rìa của một đồn điền cao su, chẳng có ai ở đó cả, mủ cao su có thể được thu hoạch quanh năm nhưng giờ này hẵng còn sớm, có vẻ như ít ai ngó ngàng đến phần này của khu thu hoạch, cây được trồng thưa hơn, hàng rào dựng cẩu thả, tuy vậy trên cây vẫn treo những bát sắt gỉ trống không - dấu hiệu của việc được lấy mủ thường xuyên. Tiếp đó, chúng tôi lách qua một hẻm núi hẹp chạy dài hơn 300 feet, đường phẳng lì tuy không lát nhựa, lối đi chật chội vẫn đủ cho một xe buýt thông dụng chèn qua, hai bên vách đá dựng đứng, cạnh đá sắc nhọn nhưng nhẵn nhụi, ở đây không có đất hay hơi ẩm, không có rêu hay bất kỳ loài thực vật nào khác phát triển, tuồng như đây là khe rãnh của một sa mạc xa xôi nào đó chứ không thuộc về miền rừng nhiệt đới này vậy. Tôi không bị mắc chứng sợ không gian kín, nhưng khi xe nhích từng chút chậm chạp trong khe đá, tôi tưởng như sắp ngộp thở đến nơi, từ mặt tôi đến cửa kính rồi đến vách đá chỉ có tới hơn năm inch chút đỉnh, càng đi sâu vào, tôi càng thấy như lối đi càng hẹp hơn, tựa hồ một sợi dây thòng lọng, nó siết chặt lấy cái mạch sống mạnh mẽ từng chút một cho đến lúc tắt lịm hẳn.
Gần nửa tiếng đồng hồ ì ạch giữa hai vách đá, chúng tôi cuối cùng cũng thoát khỏi sự ngột ngạt sau một cú xóc nảy, có lẽ là do một tảng đá ngầm nhô lên từ bên dưới, hình như bác tài xế từ lâu đã quen với kiểu địa hình này, xe vượt qua mà không có lấy một vết xước. Bỏ lại cái nhà giam vô hồn đằng sau, thung lũng xanh tươi rậm rì, tràn đầy sức sống trải ra miên man trước mắt tôi. Xe trượt xuống một con dốc thoai thoải, tôi mở cửa sổ ra, hít đầy buồng phổi thứ mùi của đất ẩm và hoa rừng, nồng mùi đất và thoảng hương hoa. Khung cảnh vẫn hệt như cung đường nơi đồn điền cao su, có điều sinh động hơn nhiều. Từng khóm phong lan nở rộ, mùa nào cũng nở, mùa đông chỉ chạm đến được thành phố, nhưng phong lan được bảo vệ cẩn mật ở đây, bao giờ họ lan cũng mang một thứ màu sắc lạ lùng, sự pha trộn kỳ lạ của những gam màu chẳng ăn khớp, ma mị và không thực. Lan hoàng thảo trắng tinh bên ngoài rồi lại ngả dần sang tím thẫm vào trong, gieo mình từ trên những cành to chắc của cây xà cừ, xinh đẹp như những chiếc chuông gió thánh thiện, tôi gần như có thể nghe được thanh âm trong trẻo ấy qua mùi hương ngòn ngọt của gió, tôi ngắt lấy một bông rồi kẹp vào trong cuốn nhật kí mang theo, hẳn là tôi muốn mang một điều gì nho nhỏ đẹp đẽ ở đây cùng đi chu du. Phía dưới trong những hốc cây mục, lan kiếm lô hội rủ xuống từng chùm đỏ rực như lửa lựu, quấn lấy nhau, hồ như những tặng phẩm được chính Prometheus ban cho, chúng thắp lên ngọn lửa sinh mệnh cho những gốc cây đã mục nát dần theo thời gian, sự điêu tàn dường như trẻ ra, bừng lên, cựa quậy vươn tới các tầng mây vời vợi. Bướm. Trập trùng, nhiều không đếm xuể, chúng bay thành từng đàn với đủ màu sắc, hòa quyện theo cách rất tự nhiên, theo nhịp điệu của tiếng chim hót và lá đong đưa, nhập vào rồi lại tách ra, màu sắc cũng theo đó mà thay đổi, hệt như những dải lụa uốn lượn trên không trung khiến ngay đến Van Gogh cũng phải giật mình xúc động. Còn suối, tôi nghe tiếng róc rách thì thầm vọng lại từ đâu đó, gần như thể dòng nước ấy đang lén lút chạy ngay dưới gầm xe vậy.
Xe mỗi lúc một vào sâu trong rừng, tôi bắt đầu buồn ngủ vì phải dậy sớm, mắt nhắm hờ và đầu lơ mơ đi đâu, tâm trí tôi lại tiếp tục cuộc rượt đuổi của nó, chớp nhoáng. Tôi thấy bản thân đang hái hương thảo trong khu vườn cạnh một ngôi nhà gỗ đã xỉn nước sơn, giờ nom ọp ẹp đến tội, nơi đó là một miền quê thanh bình, đầy gió, gió không thoảng qua mơn trớn mà mạnh mẽ xộc lên tóc và vào bên trong lớp quần áo bằng vải thô, tôi lờ mờ thấy một người phụ nữ mặc trang phục từ thời Victoria bước tới gần, rồi cảnh trí thay đổi, lần này là ở giữa một cao nguyên lộng gió, gió, lúc nào cũng có gió, gió đẩy cái xích đu tôi đang ngồi, nó rên lên những tiếng kẽo kẹt rỉ sét. Tôi uể oải nhắm mắt lại, ngủ thiếp đi trong chính giấc mơ của mình, kỳ lạ quá. Gió cứ ru hoài một bài hát của ngàn xưa.
Chợt tôi cảm giác thứ gì âm ấm đặt lên vai mình, thứ ấy lay khẽ.
"Này đằng ấy, dậy đi, đến nơi rồi."
Tôi giật mình, mở choàng mắt, thứ âm ấm ấy là bàn tay con người, bàn tay của một cậu thiếu niên có mái tóc đen thẫm, tôi chưa từng thấy màu đen nào như thế cả, một màu đen thăm thẳm của tận cùng trời đêm, màu đen của nỗi tuyệt vọng và khao khát trở nên tuyệt vọng, cậu ta nhìn tôi qua đôi mắt cũng đen tuyền một màu như thế, cái nhìn ấy như soi vào mọi ngõ ngách tâm hồn, tôi sởn cả tóc gáy, con quái vật bên trong tôi trở nên rục rịch, nó không quen bị nhìn thấy.
Cậu ta đưa tay huơ huơ trước mặt tôi, nhe răng cười, để lộ hai cái răng nanh nhọn và dài trông như răng khỉ, "Sao thế đằng ấy?" , rồi bàn tay âm ấm kéo vai tôi lên,"Đi nào, mọi người tập trung bên ngoài hết rồi."
"A, ừ", tôi luống cuống, chưa bao giờ tôi nhìn ai chằm chằm như vậy cả, bỗng trong tôi đâu đó dậy lên sự cảnh giác, cậu ta nguy hiểm quá.
Ra khỏi xe thì tôi nhìn thấy đã có mấy đoàn đến trước từ đời nào, họ vượt qua hai vách đá song song kia kiểu gì thế.
Mặt trời đã lên đỉnh núi, sương hòa vào đất dậy lên một thứ mùi đặc trưng của rừng, mê li và tươi mới, cỏ dưới chân mọc san sát, dày đặc, nâng niu những sợi mai mỏng manh. Phía trên mặt trời mang một vầng hào quang màu vàng trắng, phóng xuống từng đợt ánh sáng đầy dụ hoặc, nhuộm đỏ sương ban mai, không phải là màu đỏ gay gắt mà dìu dịu và ấm áp, ấy là sự tái sinh của thần Ra. Cái lạnh trong rừng sâu vẫn chưa tan hết, tôi đứng căng người, khoanh tay lại, cố thu mình nhỏ hơn vào trong cái áo khoác mỏng, tệ thật, tôi chưa được cảnh báo. Chúng tôi đứng tụm lại trên một mảnh đất rộng và thoáng, không có cây mọc, chỉ có cỏ cao đến bắp chân, tôi tò mò không biết người ta đã phát quang chỗ này hay tự nó luôn ở đó. Đôi khi từ trong rừng vọng ra những tiếng kêu thê lương đến hãi hùng, con gì rú lên như thể sắp lìa đời, quang quác như quạ nhưng chắc chắn không phải quạ.
"Đười ươi đấy. Giờ này chắc là bọn nó đã dậy hết rồi", cậu chàng tóc đen thẫm khi nãy tôi gặp ở trên xe bỗng nhảy ra đứng cạnh tôi lúc nào không hay, cậu bám lên một cành cây phía trên đầu, đu đưa người qua lại, cười khoe mấy cái răng nanh nhọn hoắt. Cậu ta trông thật tách biệt với cảnh vật xung quanh, khi mà mặt trời đang dần lên cao, có thứ bóng đêm quỷ dị nào vẫn bao trùm xung quanh cậu, màu đen của mắt và tóc cậu như hút sạch ánh nắng chiếu tới, một thiên thần chết chóc, có lẽ thế, và hẳn là cực kỳ nguy hiểm. Mặc dầu vậy, nụ cười của cậu ta chẳng có vẻ gì là bí hiểm, nó đơn thuần, gần như là ngây ngô, khiến chính tôi cũng phải cười theo.
"Cậu cười rồi", cậu ta nhìn ngắm tôi kĩ càng với vẻ mặt thích thú, "tớ cứ nghĩ cậu sẽ chẳng bao giờ cười cơ, trông cậu bí xị từ khi ngồi trên xe buýt ấy". Vậy là cậu ta nhìn tôi từ khi còn trên xe, trông tôi có ngớ ngẩn không nhỉ, tôi có nói lẩm bẩm như thường thế không, mà khoan, tôi bối rối làm gì kia chứ? Con người đen tuyền của cậu ta xoáy vào tôi, trong khoảnh khắc chưa đến một phần nghìn giây, tôi cảm giác như ai lột trần quần áo của mình và ném ra giữa chợ không thương tiếc, cái ánh nhìn giống như soi xét một vật thể kỳ lạ, tuồng như cậu ta vừa phóng lao vào cái bình gốm của tôi, cậu ta cố ý chăng?
"Nghe rùng rợn quá", lại một câu nghe chẳng ăn nhập gì hết, tôi bị sao thế không biết.
"Sao kia?"
"Ý tớ là lũ đười ươi"
"Ừ", tia nhìn của cậu ta rời khỏi tôi, rồi lại hướng mắt ra đâu đó không rõ, cuối cùng tôi cũng có thể thở bình thường, "nó làm tớ nhớ đến câu chuyện về người thợ săn bắt chết đười ươi mẹ, thế nhưng con mẹ vẫn gắng gượng vắt nốt chỗ sữa còn lại cho con, vết thương trên ngực chảy máu đầm đìa, nó thét lên đầy căm hận, rồi chết. Từ đó người thợ săn không đi săn nữa, ông ta hối hận, cậu cũng biết câu chuyện này mà phải không?"
"Trong bản gốc thì nó là con vượn"
"Phải, phải, ngài Darwin, là con vượn", cậu ta quay ngoắt sang tôi, điệu bộ nghiêm túc quá đáng, tôi lại phì cười, lần này thoải mái hơn, "tớ là Trạch Dương, người Đài Loan", tôi nói rồi chìa tay ra chờ đợi. Lần này đến lượt cậu ta bật cười, "Cậu đúng là giáo sư quá thể", cậu gạt tay tôi đi, nhưng rồi bất chợt lại nắm chặt lấy, "đồng hương, tên đầy đủ là Lưu Văn Vũ, "Vũ" trong "tam nguyệt vũ", lại thêm một nụ cười nhăn nhở có phần ngạo mạn và cái nháy mắt, "gọi tớ là Tiểu Vũ."
Không đợi tôi đáp lời, cậu ta kéo lấy tay tôi rồi chạy về phía hàng đang dần ổn định, đẩy tôi cùng chen vào giữa hàng dưới cùng. Người phụ trách bắt đầu màn giới thiệu sau khi đã ổn định trật tự, đó là một người phụ nữ tóc nâu sáng, chắc hẳn là đi nhuộm, tôi chả bao giờ ưa mấy cái thứ màu lòe loẹt không tự nhiên như thế cả. Cô này có thân hình phốp pháp, chưa đến mức béo, thấp hơn tôi cả một cái đầu, cô có khuôn mặt rất lạ, gò má hơi hô, đuôi mắt xếch lên ở bên mắt trái và cụp nhẹ xuống ở bên còn lại. Với chất giọng hơi the thé, cô bắt đầu điểm danh từng đứa một trong chúng tôi. Đám cỏ dày rậm bên dưới vẫn chưa kịp khô, chúng dính bết vào chân và làm ướt ống quần, ngứa ngáy đến là khó chịu.
Cho tận đến khi đứng ngay chính giữa bãi cỏ, tôi mới để ý thấy có cả một khu kiến trúc được xây dựng theo phong cách Gothic đứng khuất sau rặng cây hồ đào cao lớn, ở nơi khoảng trống kết thúc chếch lên phía tây bắc một chút. Tòa nhà lớn và nổi bật nhất, có vẻ như là nhà thờ chính, nằm ngay giữa trục đường chính nối từ rìa phía nam của bãi cỏ lên đến rìa trên cùng. Tòa nhà mang dáng dấp của một thời đạn bom đã bị lãng quên từ lâu, dù hơi khó nhận ra, mái vòm phía bên phải của nhà thờ đã bị nứt mất nhiều viên gạch, thậm chí còn có thể đã từng hõm một hố to, tuy người ta đã cho tu bổ lại, mái vòm của hai bên nhà thờ vẫn bị chênh nhau khá nhiều và nhìn không tự nhiên. Lớp gạch dùng để vá lại nhiều chỗ nứt nẻ trên tường nhà thờ còn tương đối mới, dù có thể đã được đặt lên nhiều năm, màu của chúng vẫn sáng rõ hơn so với màu xám ngoét bụi bẩn của các bức tường, thành ra nhìn bên ngoài trông tòa nhà loang lổ như bộ lông của một con bò sữa. Nhà thờ chính này cao khoảng 250 feet trở lên, không thuộc dạng đồ sộ, mặt tiền có ba cổng bằng đá nguyên khối, một chiếc cổng ngay chính giữa nhô cao lên hẳn, đỉnh bên trên vuốt nhọn như một cây bút chì, ngay đó có cái cột thu lôi, hai bên là cửa giả, hẳn người ta cố tình làm thế cốt để tôn vinh ba ngôi của thiên chúa. Thời gian phủ lên các bức tường đầy những rêu phong và cây leo thường xuân có vẻ được mang đến đây từ lâu, những sợi dây leo quấn quýt bám chặt lấy tường. Các ô cửa kính màu đã bị cáu bẩn lâu ngày bám lên, nom đục mờ không thể nhìn qua được nữa. Ngay chính giữa lối đi vào nhà thờ có đặt một bức tượng thiên sứ bằng đá cẩm thạch màu crem, bức tượng dang rộng đôi cánh, bộ áo chùng trễ một bên vai, bàn tay trái đặt trước ngực, tay phải cầm một cành ô liu, điệu bộ như đang trao cho ai. Chúng tôi xếp thành hai hàng rồi được dẫn vào tòa nhà, sàn được lát thứ gạch cũng cùng màu với đá trên tường nhưng có phần bóng hơn, bên trong nhà thờ rất đơn điệu, hầu như không trang trí gì cả. Hai bên lối đi, người ta để các hàng ghế san sát nhau đều tăm tắp, trên bàn thờ có đặt một quyển kinh thánh to bản và xỉn màu, phía trên đầu treo bức tượng Chúa Kitô bị đóng đinh trên thập tự giá, máu chảy ra từ tay và chân ngài, loang ra khắp cơ thể, trên đầu ngài đội vòng đinh đen, máu cũng chảy xuống từ nơi ấy.
Theo lệ, tất cả học sinh đều lấy một giọt nước thánh làm dấu thập giữa trán, nhưng tôi không làm thế, điều đó không bắt buộc, nên tôi lựa chọn không làm. Niềm tin của tôi không tồn tại ở nơi Chúa, nó hẳn phải là điều là lùng nhất cõi đời. Gia đình tôi là một gia đình Công giáo thuần, đấy là điều không quá lạ lẫm ở Đài Loan, mẹ tôi là người Pháp, bà qua Đài Loan thực tập cho một công ty quốc tế mà bố tôi làm giám đốc ở đấy. Câu chuyện tình yêu của họ thì tôi không nắm rõ, nhưng hẳn là nó cũng tẻ nhạt y như hiện giờ, họ luôn vùi đầu vào công việc và hầu như chẳng quan tâm đến nhau gì mấy, khi mẹ tôi ở nhà thì bố lại có cuộc họp hơn ba tiếng đồng hồ, còn khi bố có ngày nghỉ thì mẹ lại biến đi làm dự án ở đâu mất, chính tôi cũng chẳng tiếp xúc với họ nhiều, thậm chí điều ấy còn trở thành thói quen. Dù vậy, cái thói của dân công giáo vẫn không bỏ đi được, bận mấy thì bận, giáo dục con cái vẫn luôn là một bổn phận không hề nhỏ của người đạo Kitô. Thay vì những câu truyện cổ kì thú của Grim, bố mẹ thường đọc cho tôi những bí tích của kinh thánh, toàn là câu chữ lan man mà tôi không mấy hiểu. Họ nghiêm khắc. Trong mọi việc tôi làm đều phải có Chúa hiển hiện ở nơi ấy. Chủ nhật hằng tuần, họ đưa tôi cùng đi nhà thờ nghe giảng kinh, tôi đã thuộc làu đến mười bài thánh kinh. Với sự giáo dục như thế, không lý gì mà tôi lại không trở thành một con chiên ngoan đạo, và cố nhiên là thế. Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự, phải, tôi đã làm như thế, mỗi ngày tôi đều dậy trước khi bình minh ló rạng để kêu tên ngài. Nhưng vào lúc tôi học năm ba cấp hai, đức tin vốn không vững vàng ấy của tôi đã hoàn toàn sụp đổ.
Khi ấy tôi vẫn chưa nhận thức được giới tính của bản thân, nhưng sự hấp dẫn của nữ giới thì tôi không cảm thấy. Thay vào đó, tôi muốn làm bạn với họ hơn, tôi làm bạn với con gái nhiều và dễ dàng hơn so với con trai, hồi đó chả ai chê trách hay bình phẩm gì về điều ấy. Nhưng cuối học kỳ thứ nhất năm đó, tôi gặp một cậu chàng điển trai qua tiết dự giờ, một cậu trai vui tính và dễ mến. Chúng tôi hôn nhau trong phòng thay đồ nam vào giờ thể dục, chẳng vì lý do nào cả, tự nhiên tôi muốn thế thôi, tôi chẳng nhớ được ra ai là người chủ động làm việc đó, nó cứ thể xảy ra như tất cả mọi thứ vẫn xoay vần trên thế giới. Chúng tôi quấn lấy nhau và trao những nụ hôn ướt át trẻ con, răng va lập cập vào nhau ê buốt, răng cắn phải lợi đến đau điếng người, chúng tôi vẫn tiếp tục. Đó là lần đầu tiên của tôi, hẳn cũng là lần cuối cùng trong hai năm trở lại đây, tôi vẫn nhớ những tiếng nấc và cái cảm giác đê mê vụng dại đốt cháy từng tế bào như thế nào. Ngày hôm sau, những tấm ảnh chụp lại cảnh tôi và cậu bạn ấy bị phát tán trong trường, lũ học sinh in một xấp ảnh photo ra rồi đứng ở cổng trường phát như phát tờ rơi, cũng y như cái cách chúng tôi hòa vào nhau, tự nhiên và không báo trước.
Nỗi hoang mang sợ hãi bao trùm tâm trí tôi cả ngày hôm ấy và dư âm vẫn còn vọng đến cả vài tháng sau này. Nhà trường nhanh chóng cho gỡ bỏ những tấm ảnh ấy đi và gọi phụ huynh cùng lên nói chuyện. Tôi bị lôi về nhà cấm túc đến ba tháng, phải đọc kinh cho đến khàn cổ từ sáng cho đến đêm, phòng tôi bị khóa lại. Đấy là lần đầu tiên tôi nếm mùi của đòn roi, đau kinh khủng, muốn ngất đi được, bỏng rát, tôi còn không thể ngồi cho thẳng. Trong suốt thời gian như thế, bố mẹ tôi bắt tôi quỳ trước cây thánh giá treo trong phòng và bắt tôi sám hối cho bằng được.
"Xưng tội đi thằng nghiệt súc", bố tôi vừa quát lên vừa lấy cái cái roi hành xác quật lên người tôi,"xưng tội rồi cầu xin Chúa tha thứ cho thứ dâm dục nhà mày", tôi không phải đứa lì đòn, sau vài cái vung roi tôi đã kinh hãi đến mức co rúm người lại, nhưng tôi không khóc. Cuối cùng tôi vẫn chịu khuất phục. Tôi quỳ xuống trước cây thánh giá đầy khổ hạnh mà người ta vẫn cứ chạy theo nó cả đời, nhận lấy tội danh mà tôi không hề mắc phải, như chính Đấng cứu thế. Ôi sự đau khổ và nỗi khao khát được đau khổ như chính Chúa, thật nực cười làm sao hỡi nhân loại khốn cùng, Người đã thay các ngươi chịu đựng nỗi đau không kẻ nào chịu đựng được, gánh lấy tội danh mà tự các người sa lấy, vậy mà giờ các người lại dấn thân đi tìm kiếm nỗi đau đó, đấy mà là tình yêu ư?
Tôi vẫn nhớ mãi cái sự nhục nhã báng bổ ấy, sao tôi có thể chịu thua dễ dàng như vậy? Tôi đã có thể đứng lên chặn cái đòn roi đấy chẳng tốn sức, tôi đã có thể gào thẳng vào mặt họ, tôi đã có thể bước đi khỏi cái thực tại ghê tởm ấy, nhưng tôi không làm thế, chẳng biết là do nỗi sợ hay điều khác, tôi đã không chống lại lời buộc tội của họ. Hệt như số phận của những phù thủy bị kết án trên giàn treo thời xưa, khả năng tuyệt diệu nhất của nhà thờ và những con chiên ngoan đạo luôn là khiến người ta phải ngoan ngoãn gánh lấy cái số phận và tội danh mà chúng gán cho họ. Họ sẽ được tha tội, nhưng là khi đã về với Chúa trời.
Tệ hơn, Chúa của họ không chấp nhận tôi như chính tôi ư, đấng mà tôi vẫn luôn tôn thờ lại không công nhận sự tồn tại của tôi ư, không, không lý nào lại thế. Kinh thánh đã viết rành rành, thuở sơ khai, Chúa chỉ tạo ra Adam và Eve, đàn ông và đàn bà, đàn ông yêu đàn bà và đàn bà yêu đàn ông, tính nam và tính nữ đan kết với nhau, từ đấy sự sống nảy nở, ấy là điều thiêng liêng không thể xâm phạm. Không lẽ ngay từ đầu tôi đã là thứ dư thừa rồi sao, không phải Chúa tạo ra con người theo hình dáng của chính ngài sao, được thôi, vậy nếu Người đã không chấp nhận tôi, thì tôi cũng không lí nào lại tiếp tục thờ phụng ngài cho được. Từ bỏ đức tin của mình là một quá trình dài và đầy khổ ải, tôi sẽ không nói về chuyện ấy nữa.
Trong ba tháng bị giam lỏng, tôi lục tìm trong nhà mọi quyển sách mà tôi có thể đọc, trừ mấy thứ về văn hóa chính trị thì còn lại tôi đều ngấu nghiến hết. Chỉ đến lúc ấy tôi mới nhận ra thư viện nhà tôi nghèo nàn về chủ đề như thế nào, hầu hết đều là về đạo thiên chúa, không thì sách kinh tế, y học, nấu ăn, một số ít còn lại là tiểu thuyết và truyện cổ, cũng có cả thơ, mấy thứ ấy đều bị bố mẹ tôi cho là đồ đồi trụy và bị vứt hết vào trong một cái hòm cũ kỹ. Bố mẹ tôi hẳn nhiên sẽ chẳng bao giờ lôi những quyển sách đó về nhà, toàn bộ chúng là được tặng cho tôi hoặc cho bố mẹ trong một dịp đặc biệt nào đấy, sách là kho báu tri thức, làm tổn hại sách là tội, do đó chúng được an toàn trong cái rương già cỗi. Trong số đó có một quyển sách làm tôi đặc biệt chú ý, một cuốn tiểu thuyết chương hồi của Colleen McCullough, Tiếng chim hót trong bụi mận gai kinh điển, nó đóng góp một phần không nhỏ trong hành trình từ bỏ đức tin của tôi, chỉ có với nó tôi mới được thấy rút cục tôn giáo là điều gì, là nơi để con người dựa dẫm, hay là cái gông xích cổ người ta. Tôi cũng đã đọc về những tôn giáo cổ thời tiền Kito, về những vị thần Hy Lạp và Bắc Âu cổ, ở đấy mọi tình yêu đều được trân trọng và không có sự phân định giới tính nào hết, Eve không phải sinh ra từ xương sườn của Adam mà được tạo thành cùng một lúc với nhau, cùng nhau kiến tạo thế giới.
Có những lúc tôi chợt nhớ tới cậu bạn kia, người đã hôn tôi lần đầu tiên, tôi sẽ mãi chẳng thể quên được những cảm giác mà lần đầu tiên ấy mang lại, lạ lẫm và hoàn toàn không ngại ngùng, thật vậy, không ngại ngùng. Sau này khi đi học trở lại, tôi không gặp lại cậu bạn ấy một lần nào nữa, hỏi ai cũng không biết, tuồng như cậu ta chưa từng tồn tại, đám học sinh phát tán đống ảnh kia bị đuổi học, mọi thứ lại quay trở lại giống hệt ban đầu, đến bố mẹ cũng cư xử như chưa từng có chuyện gì như thế cả, nhưng tôi biết rõ, hơn ai hết, vết hằn trên lưng vẫn còn và sẽ không bao giờ biến mất.
"Mỗi em sẽ được phân vào các nhà theo cách bốc thăm, nam và nữ sẽ phân theo các nhà khác nhau, nơi ở của nữ là ngay ở đây, khu sinh hoạt cạnh nhà thờ chính, nam thì sẽ được chia làm hai nhóm theo nhà vào khu nhà ở thung lũng phía đông và một khu trại ở phía nam bãi đất trống lúc nãy các em vừa đứng", vị linh mục thông báo sau khi chúng tôi đã ổn định chỗ ngồi trong nhà thờ lớn," rõ rồi chứ. Giờ thì bắt đầu bốc thăm nào", ông vui vẻ thông báo khi đã cầm trên tay một cái bát nom giống với cái chén hát nhưng to hơn nhiều, đựng những lá phiếu thăm trong đó, vị linh mục này có vẻ là người vui tính và dễ gần, bình thường những đấng chăn chiên thường suốt ngày đeo bản mặt cau có từ sáng tới chiều, miễn là ta còn nhìn thấy họ.
Tôi chọn một cái ghế ngay đầu hàng để nghe cho rõ, tôi ít khi tập trung được vào điều gì lâu nên hẳn tiếng nói to sẽ át đi những suy nghĩ vu vơ trong đầu tôi. Tôi nghĩ đến cậu chàng mắt đen thăm thẳm vừa mới gặp, bây giờ đã là Tiểu Vũ, vũ trong 'tam nguyệt vũ', mắt đen thì rõ là chả có gì đặc biệt đối với người châu Á, nhưng hầu hết mắt mọi người đều sẽ ánh lên màu nâu sẫm nếu nhìn kỹ, còn cậu ta thì tuyệt nhiên không, đen như hắc ín nóng chảy. Tôi nghĩ đến cách cậu ta bắt chuyện với tôi, hoàn toàn tự nhiên và không báo trước, như chúng tôi đã quen thân từ đời nào, chưa có ai từng như thế với tôi, họ, hoặc là chào hỏi dè dặt, hoặc là lờ tịt tôi đi, ít nhất là cho đến khi tôi lại diễn trò.
Nhắc tới Tào Tháo là Tào Tháo đến.
"Cậu được phân vào nhà nào rồi", Tiểu Vũ thả phịch người xuống bên cạnh tôi.
"Tớ chưa tới lượt", tôi đáp.
"Ồ"
Ồ là sao?
"Tớ cũng chưa tới lượt"
"Đâu có. Lúc nãy tớ nghe thấy tên cậu rồi, Lưu Văn Vũ, nhà Vanhxăng đờ Pô, khu thung lũng phía đông", tôi nhắc lại rành mạch, khi bạn ngồi ngay hàng đầu thì dù có lơ đãng mấy thì vẫn có những thứ tự dưng trôi tuột vào đầu thôi.
"Ồ", lần này ngân dài hơn,"cậu để ý tớ đến vậy sao?"
"Ừ", tôi nhấn mạnh,"bởi vì cậu đẹp trai quá mà", không đời nào mà tôi lại để lộ ra sự thẹn thùng của mình, nên tôi đánh liều chơi trò tâm lý ngược, quả nhiên hiệu nghiệm, tai cậu ta phút chốc hơi ửng lên, mắt mở to, "đừng trêu tớ". Tôi không biết cậu ta còn có khả năng đỏ mặt nữa đấy.
Lần lượt mấy cái tên đậm chất Ý vang lên. Nhà ở đây hình như được đặt tên theo các vị thánh nổi tiếng.
"Ninh Hinh, nhà Giacobe, bãi cỏ phía nam"
"Hùng Cường, nhà Vanhxăng đờ Pô, thung lũng phía đông"
"Giai Kỳ, nhà Maria Mắc-đê lê-na"
"Trạch Dương, nhà Pha-xét-cô Assisi, thung lũng phía đông"
"Chán thật. Chúng mình không cùng nhà rồi", Tiểu Vũ giọng điệu ủ rũ, có vẻ cậu ta buồn thật,"nhưng không sao. Chúng ta vẫn ở chung khu, tớ có thể đi chơi với cậu hằng đêm."
"Tiểu Vũ, giờ giới nghiêm của khóa tu là chín giờ tối", tôi nhắc lại. Không hiểu sao cái viễn cảnh đi chơi với Tiểu Vũ mỗi đêm lại khiến tôi bồn chồn.
"Ừ thì cứ cho là vậy, nhưng luật lệ sinh ra là để bị phá vỡ kia mà"
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com