Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Xe ôm

***

Hai giờ chiều, cái thời điểm nóng nhất của thành phố Hồ Chí Minh trong mùa nắng thiêu đốt. Bầu trời xanh ngắt theo cách vô tình nhất, với một vài đám mây lơ đãng cũng lười biếng bay, chẳng đủ để làm dịu đi cái gay gắt của ánh mặt trời. Những mái nhà tôn cũng vì bỏng rát mà nổ từng tiếng tanh tách giòn tan như bỏng ngô quá lửa. Khu phố chìm vào giấc ngủ trưa trong im lặng, ngay cả những con ve thường gân cổ kêu gào suốt mùa hè, giờ cũng im lìm trong những tán lá để trốn ánh nắng mặt trời. Thỉnh thoảng vẫn có tiếng xe máy, ô tô chạy vội vàng trên đường lớn vọng vào. Ngã ba này, nơi giao nhau giữa đại lộ và con phố nhỏ, có một cây me tây cổ thụ xum xuê lá, là nơi dịu mát nhất mà bạn có thể tìm thấy trong thành phố lúc này. Cái bóng của nó cao bằng ngôi nhà bốn tầng, và xòe rộng từ vỉa hè bên này sang tận vỉa hè bên kia của con phố. Dưới gốc cây, thường ngày là nơi mưu sinh của những kiếp nghèo khó. Bà Ba bán nước, có con đi tù vì giết người, hàng tháng, số tiền bà kiếm được phần thì gửi cho con khi mỗi lần thăm, phần thì giữ lại làm vốn cho nó lúc ra tù. Nhưng chẳng biết bà còn đợi được lúc ra tù không. Bà thường than vãn như thế, vì thằng con bà bị phạt tới hai mươi năm tù giam, mà giờ mới được tám mùa xuân. Còn bà thì cũng đã đến tuổi gần đất xa trời. Ngồi ké với quán nước của bà là cô Bảy mù bán vé số. Hàng ngày, má cô đẩy cô trên chiếc xe lăn ra ngã ba, xếp các tờ vé số lên trên chiếc bàn trước mặt. Bà con thương tình mua vé số thì trả tiền cho cô, chứ cô cũng chẳng nhìn được gì để mua bán. Trên vỉa hè, là chỗ quen thuộc của những người chạy xe ôm. Ở đây chỉ có hai người xe ôm lớn tuổi thường ngồi đợi khách là ông Năm và ông Tư. Ông Năm năm nay cũng gần sáu mươi tuổi, làm nghề xe ôm đã gần mười năm nay. Nghe mọi người nói ông là đàn em của trùm giang hồ khét tiếng năm xưa từng làm náo loạn Sài Gòn. Sau khi ông trùm bị tử hình, ông cũng phải ngồi tù gần chục năm. Ra tù, không việc làm, lại cũng lớn tuổi, nên đành chọn nghề lái xe ôm tại cái ngã ba này.. Còn người lái xe ôm thứ hai là ông Tư. Chẳng ai biết ông từ đâu, có xuất xứ như thế nào, chỉ biết ông mới tới đây lái xe ôm được ba năm. Lúc đầu nhìn ông phúc hậu, mọi người cứ nghĩ là cán bộ phường đến để dẹp vỉa hè. Nhưng khi nghe ông xin ông Năm được ngồi đây lái xe ôm, chia miếng cơm để lấy tiền chăm vợ ốm, mọi người cũng có phần ngạc nhiên và tò mò về phận đời của ông. Hỏi thăm nhiều ông cũng không nói, chỉ thỉnh thoảng, những lúc đợi khách, mọi người hay thấy ngồi suy tư, trầm ngâm, rồi đôi khi đưa tay lên dụi mắt, làm lộ ra điệu buồn nào đó sâu thẳm chất chứa lắm. Ba năm rồi, mới thấy cái gian khổ của nghề xe ôm, cái nghề vốn quen với chuyện nắng mưa, khuôn mặt phúc hậu của ông ngày nào, giờ lộ rõ ra những nếp nhăn, gò má nhô cao, mái tóc bạc hơn và xơ xác không còn bóng bẩy như ngày ông mới đến.

"Bạch.. bạch...". Tiếng xe của ông Tư chạy tới ngã ba này để đợi khách xé tan cái bầu không khí vắng lặng của trưa hè gay gắt. Dựng chiếc xe wave tàu, cũ kĩ lên vỉa hè bằng chân chống giữa, ông cởi chiếc mũ bảo hiểm màu xám, và cả chiếc áo khoác bạc màu đã sờn vai áo lên trên xe. Giờ này bà Ba còn chưa dọn quán, cô Bảy và ông Năm cũng chưa ra, vì có ra cũng chẳng có ai qua lại ngã ba này. Ông Tư ở cách đây hơi xa, nên phải tới sớm. Ông Tư ngồi xuống gốc cây me, thả hai tay xuống bên đầu gối, đưa mắt nhìn xa xăm theo dải đường lớn ngoài ngã ba. Không khí xung quanh lại trùng xuống với vẻ yên tĩnh đáng sợ vốn có. Sự yên tĩnh ấy dễ dàng ru người ta vào miền ký ức xa xăm nào đó, vốn đã chìm xuống tận sâu thẳm trong tim. Và ông Tư cũng vậy. Ông lại nhớ Hà Nội xưa, khi ông còn nhỏ. Ông vốn tên là Bốn, sinh ra trong nhà có sáu anh chị em, người gốc Hà Nội, sau này khi sống trong thành phố Hồ Chí Minh, do cách xưng hô của người miền Nam, nên mọi người quen gọi là Tư. Cái kí ức rõ ràng nhất về Hà Nội là cái ngày năm ông mười bốn tuổi. Khi đó ông với mấy hai đứa em vừa đi chơi với bọn trẻ trong khu phố về. Vừa bước tới bậc cửa, ông thấy ông xã đội với chiếc mũ cối, áo xanh đứng trước sân đối diện với mẹ ông. Ông xã đội chẳng bao giờ đem đến điều gì đó tốt lành cả, nhất là trong bộ dạng nghiêm trang như thế này. Khi đó ông đã đủ tuổi để cảm nhận những cơn bão giông sắp ập tới căn nhà nhỏ bé của mình.

    - Thay mặt Đảng ủy,.. - ông xã đội cầm tờ giấy trong tay, mới đọc nửa chừng

Mẹ ông ngay lập tức ngã qụy xuống sân, làm rơi cả rổ bát đĩa đang cầm trên tay.

    - Chồng tôi.

Mẹ ông nấc lên một tiếng rồi khóc trong đau đớn. Ông khi đó, cùng hai người em cũng đủ lớn để hiểu, người cha đang nhập ngũ, chiến đấu trong chiến trường miền Nam đã hy sinh. Họ chạy đến bên mẹ, ôm lấy người mẹ, và cùng lúc khóc lên nức nở trước nỗi đau quá lớn ấy. Nhưng rồi, dù đã nhiều năm, ông vẫn nhớ rõ, khi ấy, chỉ sau một phút thương đau, mẹ ông đã gạt nước mắt, rồi lau nước mắt của những đứa con tội nghiệp và nghẹn ngào.

    - Cha con hy sinh cho tổ quốc, các con phải tự hào không được khóc.

Rồi mấy năm sau đó, lần lượt là giấy báo tử của ba người anh trai của ông, được gửi về từ chiến trường. Mẹ ông, lâu dần đã chẳng còn nước mắt để khóc nữa, bà đã mỉm cười tự hào vì sự hy sinh cho Tổ quốc của gia đình mình, của các con mình.

Trên gò má gầy guộc của ông, chẳng hiểu nước mắt đã ứa ra từ bao giờ. Là nước mắt của quá khứ hay của hiện tại, của nỗi đau hay chút gì đó bâng khuâng, tự hào. Ông lau nước mắt, vuốt cả gò má nhăn nheo của mình rồi thở dài một tiếng để chôn cái ký ức đau buồn đó xuống. Đường phố giờ vẫn lặng im, có chăng là tiếng xe chạy ngoài đường lớn nhiều hơn một chút nhưng vẫn vội vã, chỉ đủ phá đi sự yên tĩnh trong chốc lát rồi lại yên ắng trở lại. Ông lại bị cái không khí yên tĩnh ấy kéo vào miền ký ức xa xôi. Năm ông hai mươi hai tuổi, lúc đó ông đã là người lính cộng sản, đang trên đường tiến quân vào Nam. Ông gặp một người bạn cùng khu phố, người bạn ấy cho ông biết, ngày Mỹ đưa máy bay B52 ra ném bom Hà Nội, mẹ và các em ông sơ tán, trốn xuống hầm trú ẩn. Nhưng ông trời không thương, hầm trúng bom và, chẳng ai sống sót. Lúc đó ông gần như ngã quỵ xuống, giống như phản ứng của mẹ ông khi nghe tin bố và các anh hy sinh. Nước mắt chảy ra, cổ họng nghẹn lại. nhưng rồi ông nhớ lời mẹ thường dặn khi lần lượt nhận giấy báo tử của các anh ông và cha ông, ông lại gạt nước mắt đi, cầm chắc khẩu AK rồi tiếp tục nhiệm vụ. Nguyên tắc là không thông báo tin buồn với người lính chiến đấu khiến họ giảm ý chí chiến đấu, nhưng dường như, nỗi mất mát này quá lớn và rằng dù là lý hay tình thì ban chỉ huy cũng cần để người lính ấy biết sự việc đau lòng ấy. Mới tháng trước, ông còn báo tin lập được chiến công, được thủ trưởng khen với mẹ. Thằng Mạnh em của ông cũng mới viết thư đòi quần áo mới thưởng cho thành tích học tập tốt của nó. Ông thở nấc lên, thương những đứa em còn nhỏ, ngoan ngoãn, khi ấy mới mười bốn tuổi và mười sáu tuổi. Ông thương mẹ, đã bao lần tiễn chồng và các con đi, rồi lại khóc thầm khi nhận giấy báo tử của họ, rồi cũng bị bom đạn vùi thân xác.

Lần này, ông chẳng cầm cự được nữa, ôm hai tay vào mặt, nức nở, như không muốn ai thấy cái khuôn mặt già nua, khắc khổ của ông đang khóc như đứa trẻ. Ông gục mặt xuống, rồi lại gượng gạo đưa lên cho dòng nước mắt chảy theo hai bên má. Đôi bàn tay ông, lòng bàn tay ốp lên gò má đã hõm sâu, để lộ ra cả hàm răng gò lên theo khóe miệng. Còn những ngón tay nhăn nheo gân guốc, cứ chầm chậm kéo lê đầu ngón tay dọc theo mi mắt, thỉnh thoảng lại bóp chặt vào khóe mắt như cách người ta bóp chặt cơ cầm máu, để cố kìm nén lại cái nỗi buồn từ miền quá khứ tìm về. Cái miệng ông, dù lấp ló sau đôi bàn tay khòng khèo, nhưng vẫn thấy rõ nó đang méo xệch đi, kéo những nếp nhăn trên mặt ông xô lại với nhau, ép cho nước mắt và mồ hôi hòa vào nhau thành dòng lấp vào những khe được tạo bởi da mặt ông. Cổ họng ông nghẹn lại, nấc lên tràng dài nhưng không ra tiếng, rồi ông thở dài, đẩy một luồng hơi nặng trĩu trong cõi lòng ra ngoài. Đã qua rồi, chí ít thì cả nhà tám người nhà ông đã đoàn tụ trên trời, và họ đang đợi ông. Ông nghĩ thế, để tự an ủi mình, tự cho lòng mình nhẹ nhõm hơn. Cây me tây bắt đầu lay lay cành lá theo một cơn gió hiếm hoi rồi lại trở về màu xanh tĩnh lặng. Chẳng ai biết cây me ấy được trồng ở ngã tư này bao giờ, nhưng đã bao mùa thay lá, bao mùa rụng hoa ngập góc phố, nó đã chứng kiến không biết bao nhiêu mảnh đời cơ cực, đã nghe bao nhiêu tiếng than khóc của những kiếp bất hạnh. Mùa mưa, cành cây bị chặt bớt để tránh bị gió quật đổ. Nhưng với những ngày nóng nực thế này, tán lá ấy lại là nơi lý tưởng cho người ta tránh cái nắng như thiêu đốt của mặt trời dưới thời tiết lên đến bốn chục độ. Thân cây nó sần sùi những vết sẹo của thời gian, và có những đường rạn nứt dọc theo thân cây, bị che đi bởi những tờ quảng cáo. Nhưng có lẽ đẹp nhất không phải tán lá phủ rộng kia, hay thân cây thẳng tắp, mà có lẽ là một phần rễ cây nhô lên khỏi mặt đất như những con rắn đang cố chui đầu lên khỏi mặt đất rồi lại chui xuống tìm sự mát mẻ dịu êm bên dưới lòng đất, tạo thành những chiếc ghế tự nhiên, tuy chẳng phẳng phiu nhưng ngồi cũng rất dễ chịu. Ông Tư ngồi trên một phần rễ cây ấy, đôi bàn tay ông buông khỏi khuôn mặt, để đôi mắt tự do nhìn về phía xa xăm. Lại một cơn gió hiếm hoi thổi qua mái tóc bạc, xơ xác của ông. Có lẽ bằng này tuổi rồi, lại ở trong hoàn cảnh bần cùng nhất, ông chẳng còn quan tâm đến vẻ bề ngoài vốn bóng bẩy của ông thời còn làm tổ trưởng dân phố.

Ông lại nhớ, một buổi chiều cô đơn đủ dài để ông có thể gặm nhấm lại những nỗi buồn đã ngủ say. Những nỗi buồn ấy, đã bị thời gian xóa bớt mờ nhạt đi trong tâm trí đã lão hóa của ông, nhưng vẫn đủ rõ nét để con tim ông có thể cảm nhận trọn vẹn, ngọt ngào, giống như vừa xảy ra trước mắt. Lần này ông nhớ về đồng đội, những người đã hy sinh cho sự bình yên hôm nay. Có lẽ nhớ nhất là Hai Thanh, một người gốc Sài Gòn. Lần đầu gặp mặt, là khi Hai Thanh bị tiểu đội ông bắt gặp trong rừng với bộ dạng của một nam sinh, quần tây áo trắng nhưng đã lấm lem màu của đất rừng và cũng chẳng còn phẳng phiu nữa. Cách đó hai năm, ông cũng là học sinh, vừa tốt nghiệp, ông liền viết đơn xin lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc. Nhìn lại bộ dạng của Hai Thanh lúc này, ông lại như tìm lại được một thời để nhớ của mình. Hai Thanh ngủ say vì mệt dưới một gốc cây với những vết xước, và vết muỗi đốt khắp cơ thể. Đôi mắt quầng thâm, và bờ môi nhợt nhạt. Có lẽ Hai Thanh đã bị bắn, hoặc giải về Hà Nội điều tra nếu như người ta không tìm được bức thư của Thu Cúc, một chiến sĩ nằm vùng. Ông đã mạo hiểm đưa những bức thư ấy từ Sài Gòn trở lại cho quân giải phóng. Cũng phải mất mấy tháng canh chừng, và điện báo tới lui với ban chỉ huy, cùng với lời cầu xin tha thiết được tham chiến để trả thù cho Thu Cúc của Hai Thanh, thêm nữa cuộc chiến đang cam go, khốc liệt, chẳng có thời gian dẫn giải về, nên ông được đặc cách huấn luyện và tham chiến tại chỗ với tiểu đội của ông Tư. Mọi người trong tiểu độ, và cả ông Tư còn e ngại trước một người xa lạ, cũng nói tiếng Việt nhưng với một phương ngữ khó hiểu. Chỉ có đồng chí tiểu đội trưởng, từng nằm vùng trong Đồng Nai, biết và hiểu thứ tiếng Việt ấy. Liệu hắn ta có phải nội gián, chờ khi cả tiểu đội ngủ say sẽ ra tay sát hại mọi người hay ra dấu cho máy bay Ngụy ném bom. Nhưng rồi qua thời gian đồng cam cộng khổ trong rừng sâu, cùng trải qua những trận oanh tạc của địch, cùng đi qua ranh giới mỏng manh giữa sự sống và cái chết nơi chiến trường khắc nghiệt, họ cũng thân thiết với nhau. Chính tình yêu và lòng hận thù của ông, chẳng biết lớn lao đến đâu mà khiến ông kiên cường, mạnh mẽ và đáng khâm phục trước mặt những người đồng đội vốn xa lạ, cho đến tận giây phút cuối đời. Đó là giây phút ông Tư ôm Hai Thanh, người đã đẫm máu trên tay. Khuôn mặt Hai Thanh vẫn nét thanh tú như ngày nào, nhất là hai núm đồng tiền trên cái vẻ thư sinh ấy, chỉ có điều mặt mũi lấm lem, đen đuốc, đã có phần chai sạm hơn so với lúc hai người mới gặp. Hai Thanh cười, nhưng không đủ sức cười thành tiếng. Nụ cười ấy, trong giây phút trăn trối, vẫn đẹp:

    - Sau này hòa bình, cậu hãy đem cây sáo này đến địa chỉ ghi trong giấy tới gặp và trao cho em gái tớ. Nó tên Bình. Út Bình. Nó xinh lắm. Nhưng tớ không có cơ hội gặp nó nữa rồi.

Hai Thanh lấy trong ba lô và túi áo một cây sáo trúc và một mẩu giấy nhỏ được xếp ngay ngắn. Cây sáo ấy,được ông chọn từ một gốc trúc trong lúc hành quân qua một con suối nhỏ. Lúc ấy khuôn mặt ông mừng rỡ hơn cả khi bắt gặp thỏ rừng. Ông thường dành những giây phút nghỉ ngơi khi hành quân, hay những đêm trăng sáng để khắc những họa tiết rất đẹp trên thân sáo. Ông quả là người khéo tay. Nhưng chưa bao giờ ông dám thổi thử vì sợ bị địch phát hiện. Ông Tư cầm lấy di vật, cũng là lúc đôi bàn tay của Hai Thanh không còn vướng bận, buông xuống theo tiếng réo gọi của ông Tư. Trước đó chừng ba mươi phút, họ bắt gặp hai sĩ quan của Ngụy đi lạc trên chiếc xe jeep hết xăng. Bên cạnh có một chiếc can vứt xuống đường, vẫn còn chứa một ít chất lỏng, nhưng không phải xăng mà là nước. Trên xe có một tấm bản đồ đường bảy nhưng bị vẽ sai, một giấy gọi trở về Sài Gòn có chữ ký của tổng thống, và rất nhiều lương thực. Hai sĩ quan, một tên râu kẽm, dáng người bệ vệ, bụng hơi phệ chắc do uống bia nhiều, nhưng vẫn gọn gàng khi chiếc áo quân phục được bỏ trong quần, sau chiếc thắt lưng có mặt hình con rắn, nên trông hắn vẫn có vẻ uy nghi. Cùng với vẻ mặt bất cần, ria mép hơi nhếch lên mỉa mai, và thái độ không thèm nói chuyện của hắn, nếu không phải là chiến tranh, không phải là phe địch, phe ta, có lẽ hai ông đã cảm phục trước sự gan dạ ấy. Tên còn lại gầy gò hơn, nhút nhát hơn, và luôn miệng lẩm bẩm cầu chúa. Nhưng đôi mắt hắn lại cho thấy sự cơ hội và gian xảo, sẵn sàng trả thù nếu may mắn thoát khỏi hoàn cảnh này. Ông Tư đã muốn bắn luôn để trả thù cho gia đình và đồng đội, nhưng Hai Thanh đã ngăn lại và muốn giải họ về để thủ trưởng xử lý họ sau. Hai người bàn bạc một lúc khi họng súng vẫn giơ về phía hai tên sĩ quan ấy, cuối cùng họ trói hai tên lại bằng dây dù có sẵn trên xe , Hai Thanh làm nhiệm vụ canh gác và ông Tư về nhờ người giúp đến đẩy cả xe jeep về làm chiến lợi phẩm. Đó cũng là kế hoạch của Hai Thanh. Nghe qua rất hợp lý, nên ông Tư đi ngay mà chẳng kịp suy nghĩ rằng có thể giải cả hai tên về và quay lại lấy chiến lợi phẩm sau nếu còn, hoặc là một mình Hai Thanh ở lại, nếu gặp quân địch đến giải cứu hai sĩ quan ấy thì sao. Vừa đi gọi đồng đội trở về thì ông đã thấy Hai Thanh nằm trên vũng máu. Chiếc dây dù đã bị cắt vứt xuống bãi cỏ gần đó. Tên sĩ quan râu kẽm đã bỏ đi và tên sĩ quan có đôi mắt gian manh bị cứa ngang cổ, nằm gục xuống, chết mà không nhắm mắt. Hai Thanh bị đâm một vết sâu vào sau lưng, vết đâm rất sâu. mà lại không có dấu hiệu đánh nhau quanh nơi chiếc xe jeep vẫn bị bỏ lại. Chẳng ai biết chuyện gì đã xảy ra, mà lúc ấy cũng chẳng ai quan tâm, vì khi ấy thứ duy nhất mọi người quan tâm là tình trạng của Hai Thanh, người lính đặc biệt nhất trong tiểu đội.

Ông Tư đưa hai bàn tay trước mặt. Nhìn qua những vết gân xanh nổi lên dưới làn da chi chít vết chân chim nâu sạm của ông. Bàn tay ấy đã ôm người bạn chiến đấu của ông, trong giây phút cuối đời. Cũng đôi bàn tay ấy đã chôn cất người đồng đội tại nơi đất lạnh rừng hoang, và cũng không quên bỏ lên trên mộ một đám cúc dại mà ông tìm được:

"Anh nằm xuống đây lòng còn vướng bận"

"Màu nắng ngày xưa, anh vẫn đi tìm"

"Chẳng có hoa đâu, giữa rừng thù hận"

"Chỉ có cúc vàng, sâu thẳm trong tim"

Bài thơ ấy ông đã viết để làm điếu văn cho Hai Thanh. Đến giờ ông vẫn nhớ những câu vần ấy và lẩm nhẩm theo. Lại một cơn gió lùa qua, mạnh hơn hẳn, đủ để làm tán lá me tây xê dịch đi, làm lộ một khoảng trời cho ánh nắng đâm xuyên xuống mặt đất, chiếu lên bờ vai ông bỏng rát. Nhưng luồng suy nghĩ khiến ông Tư không cảm nhận được cái nóng ấy nữa. Ông lại đưa tay lên mặt sụt sùi. Đôi mắt ông sâu thật, cứ rưng rưng, cố ngăn lại dòng chảy của ký ức. Giờ này con phố vẫn vắng tanh. Ông cố đưa mắt xa hơn nữa, nhìn về phía ngôi nhà cũ của mình. Ông nhớ sau cái ngày giải phóng, trước khi tập kết, ông đã xin thủ trưởng ra ngoài một tiếng để thực hiện di nguyện của Hai Thanh. Đường phố vắng tanh, không có mấy người dám đi trên đường, phần vì đã di tản, phần vì còn sợ quân giải phóng trả thù, theo tuyên truyền của Ngụy. Phải mất khá lâu ông mới tìm được căn nhà của Hai Thanh. Ấn tượng còn sót lại trong trí nhớ già nua của ông, đó là một ngôi nhà lớn. Và khi bước vào nhà, trước mặt ông là một bức ảnh gia đình đen trắng, treo trên tường bị rơi xuống đất, nghiêng đi, nhưng vẫn nhìn rõ cả bốn người. Đó là một người đàn ông mặc quân phục ngụy để râu kẽm, đứng âu yếm bên người phụ nữ mặc áo dài, màu tối.Hai bên là một cậu thanh niên mặc áo trắng quần tây, sơ vin, miệng cười tươi, và một cô gái trẻ xinh đẹp với chiếc áo dài màu sáng. Mái tóc dài, và nụ cười duyên dáng khiến ông tư mê mẩn một lúc trước khi kịp nhận ra, chàng trai trẻ kia chính là Hai Thanh, dù trẻ hơn và hơi béo hơn so với lần đầu gặp và cả những ngày tháng sau đó. Còn người đàn ông râu kẽm. Trời ơi, đó chính là tên sĩ quan oai vệ mà ông và Hai Thanh đã bắt được. Chẳng lẽ. Bao nhiêu giả thiết đặt ra trong đầu ông lúc bấy giờ. Hai Thanh và người đàn ông kia có quan hệ gì? Cha con. Mọi chuyện đã rõ ràng rồi. Vậy Hai Thanh có phải nội gián? Có lẽ là không, vì cái lúc mà Hai Thanh bắn súng, ông thấy rõ vẻ hận thù trong Hai Thanh khi hét lên "Chết đi lũ xâm lăng" mỗi lần anh nhả đạn. Thu Cúc đã giác ngộ Hai Thanh thật. Nhưng vì sao Hai Thanh bị đâm lén sau lưng và tên sĩ quan còn lại bị cứa cổ chết. Giờ thì ai cũng đoán được phần nào câu chuyện. Ông tư gạt cây súng đang khoác trên vai về phía sau lưng, chân hơi quỳ xuống trước bức ảnh đã vỡ mặt gương ấy. Tay còn lại của ông vuốt ve lên khuôn mặt của Hai Thanh trên bức hình đã phủ bụi.

    - Tôi hiểu rồi anh Thanh ơi.

Ông nói, mà như khóc, khóc mà như cười một cách chua xót cho hoàn cảnh nghiệt ngã của Hai Thanh lúc bấy giờ.

    - Hai Thanh.

Một giọng nói yếu ớt cất lên đâu đó trong căn phòng này. Ông Tư tiến lên bước về nơi phát ra âm thanh đó. Cái tủ quần áo khép hờ. Dường như có người bên trong.

    - Ai?

Ông quát lên như đánh động kẻ nào đó đang ẩn nấp.

    - Không ra là tôi bắn.

Ông giơ súng về phía cánh tủ và từ từ bước tới với dáng người khom lưng của dân du kích. Khi đã đủ tầm, ông lấy họng súng mở cánh cửa ra. Một cô gái mặc áo trắng, tóc xõa xuống che hết khuôn mặt. Tay cô cầm khẩu súng lục, run run giơ về phía ông.

    - Xin ông đừng giết tôi.

    - Cô cứ bình tĩnh tôi không làm hại cô đâu. Tôi tới đây tìm em gái của Hai Thanh

Ông đặt mũi súng chúi xuống đất và đưa tay ra với vẻ thân thiện.

    - Anh Hai, Hai của tui đâu.

Cô gái vẫn run run khẩu súng trước mặt ông. Bằng động tác cướp súng đã được đào tạo trước, ông nhanh chóng lấy được khẩu súng trên tay cô gái và ném ra xa. Sau đó ông đưa tay lên sốc lại cái ba lô đã lệch khỏi vị trí thăng bằng, và cả khẩu súng AK cũng được chỉnh lại ngay ngắn. Ông ngồi xuống từ từ nói chuyện với cô gái. Đó chính là Út Bình, em gái của Hai Thanh và sau này là vợ của ông Tư. Khi đó, nếu không được Hai Thanh dạy trước, chắc ông khó nghe được tiếng của Út Bình.

Ông chợt cười khi nhớ tới đôi mắt sợ sệt của bà vào ngày hôm đó, ngày hai người gặp mặt. Nhưng rồi nụ cười hiếm hoi ấy cũng tắt ngày khi tiếng khóc nức nở của bà lúc nghe tin anh Hai đã mất vang lên trong trí nhớ của ông. Khi đó bà mới hai mươi hai tuổi, còn ông đã hai mươi sáu. Bà bị lạc cha mẹ trong chiến dịch gió lốc vào mấy ngày trước. Lạc lõng đành trở về nhà chờ người thân còn lại duy nhất là Hai Thanh. Đã mấy ngày không ăn uống, nên khuôn mặt bà nhợt nhạt, tóc rủ xuống, không được chải chuốt. Chiếc áo dài trắng đang mặc cũng lấm lem bùn đất. Nhưng bà khi ấy vẫn đẹp, ít nhất là trong mắt ông, người duy nhất nhìn thấy bà lúc ấy, đặc biệt là núm đồng tiền, giống hệt Hai Thanh, lộ ra ngày cả khi bà không thể cười. Trút hết chỗ gạo còn lại trong ba lô, ông nấu cho bà nồi cháo trắng rồi trao lại di vật của Hai Thanh cho bà. Cũng là lúc sắp hết giờ phép,ông gửi lại địa chỉ của một ngôi chùa, nơi sư thầy trụ trì cũng là lính Cộng sản nằm vùng, để bà được nương tựa. Ông hẹn bà sẽ quay trở lại để cùng bà tìm lại mộ Hai Thanh.

Hơn bốn mươi năm qua,từ khi ông trở lại tìm bà và định cư luôn ở Sài Gòn, ông bà luôn sống hạnh phúc bên nhau, dẫu rằng do di tích chiến tranh, ông chẳng thể có con. Sau giải phóng, ông học thêm lớp tu nghiệp về làm giáo viên cấp 3, bà cũng biết con chữ, nên cũng theo nghề giáo viên. Họ ở trong căn nhà tập thể được nhà nước cấp cho ông, sau đó, ngôi nhà được giải tỏa nhường chỗ cho khu chung cư cao cấp, ông bà dọn đến ở một khu chung cư tái định cư gần đó. Cho đến tuổi về hưu, không con cái nên một chút lương hưu của ông bà cũng đủ cuộc sống đơn sơ cho hai thân già. Suốt chừng ấy năm, dù nhiều lần những vết đau thương xưa cũ vẫn tìm về trong ký ức của cả hai người, nhưng cuộc sống của họ vẫn hạnh phúc vui vẻ bởi luôn có bàn tay của người kia ủi an vỗ về, yêu thương chăm sóc nhau, khiến cho những cặp vợ chồng trẻ phải ganh tị.

Ba năm trước, một ngày khi ông bà vừa ăn xong bữa tối, chén dĩa vừa được rửa và xếp lên kệ gọn gàng. Ông cũng vừa phụ lau chiếc bàn rồi ngồi lên chiếc ghế gỗ, dở tờ báo ra đọc. Căn phòng nhà ông bà đơn sơ lắm. chỉ có cái bàn nhỏ gỗ tràm đặt trong phòng vừa là bàn uống nước, vừa là bàn ăn. Phía trên ông lập một chiếc bàn thờ nhỏ cho cả gia đình bất hạnh của mình. kế đó cũng có một chiếc bàn thờ khác được đặt di ảnh của ông Thanh. Phía dưới hai bàn thờ là một dãy dài các loại bằng khen, từ khi ông ở trong quân ngũ đến bằng khen về thành tích giảng dạy của hai ông bà. Ở giữa là một chiếc tivi mỏng ba mươi hai inch được gắn lên tường, là kỷ vật do trường ông tặng lúc ông nghỉ hưu. Chiếc bàn của ông bà cũng có dăm chiếc ghế để tiếp khách, vì thỉnh thoảng các cụ trong hội cựu chiến binh, hay học trò cũ vẫn đến thăm hỏi hai ông bà.

    - Ông này, hay mình dọn về quê cho thanh bình, chứ ở đây tiền điện nước tốn kém, trong khi hai thân già chẳng làm được gì, chỉ trông chờ vào chút tiền lương hưu và tiền cựu chiến binh của ông. Điện nước, rồi rau thịt ngày càng đắt mà lương hưu thì chẳng tăng bao giờ.

Một tay ông vẫn cầm tờ báo trong khi tay kia phải dừng lại trong động tác đang nâng ly trà lên do bất ngờ trước câu nói của mình. Người Hà Nội mà, vẫn giữ thói quen uống một tách trà chát đắng sau bữa ăn. Sau một giây ông uống một ngụm trà rồi đặt tách xuống bàn, mắt vẫn tiếp tục theo dõi bài báo đang đọc.

    - Ôi dào ơi, hai thân già sắp chết thì sống ở đâu chẳng được, ăn uống có tốn bao nhiêu đâu. Chưa kể cả bà và tôi đều là dân gốc thành phố thì lấy đâu ra quê mà về.

    - Tôi nghe nói ở Bình Dương có mấy lô đất nông nghiệp giá rẻ đấy. Chúng ta dọn ra đó cho yên bình, mà tuổi già rồi, ở không tôi cũng chán, muốn được về với thiên nhiên, trồng rau nuôi gà.

    - Vẽ chuyện, tuổi trẻ tụi nó mới mơ mộng vậy chứ, già rồi sức đâu nữa mà cày cuốc với chăm bón. Thôi, nếu bà muốn trồng cây, mai hỏi thử thằng Hùng, học trò cũ của tôi, xin cho bà qua phụ tưới nước, tỉa lá cho nhà vườn của nó. Chứ giờ ra ngoài đó an ninh rồi giao thông không được tốt như trong thành phố.

Mặt bà có vẻ chưa thỏa nguyện với ông, nhưng cũng chấp nhận. Từ nhỏ đến lớn bà chưa trải qua sự vất vả của người nông dân. Có chăng chỉ là qua những trang sách bà từng đọc, hay những bộ phim đề tài nông thôn mà hai ông bà vẫn thường cùng nhau xem. Bà cũng hơi lo lắng, sợ không đủ sức để làm một nông dân. Bà bê dĩa táo vừa gọt xong, miệng vẫn vui vẻ cười với ông.

    - Vậy thôi, tôi sợ làm hỏng cây của thằng Hùng lắm. Tôi trồng thử ít ngoài ban công là được rồi.

Bà đặt dĩa táo xuống bàn và cầm chiếc điều khiển tivi để theo dõi tiếp bộ phim Ấn Độ mà bà vẫn hay theo dõi. Khi vừa đứng thẳng người lên, bất giác bà thấy chóng mặt, làm rơi cả chiếc điều khiển xuống đất, và bà cũng không đứng được nổi nữa, ngã khụy ra nền nhà. Ông vội vàng bỏ tờ báo xuống, chạy ngay đến bên bà lay gọi theo phản ứng thông thường. Biết có chuyện chẳng lành, ông bế bà ra ngoài cửa và nhờ anh Nam nhà đối diện giúp đưa bà tới bệnh viện.

Ba năm rồi, ông đã bán hết mọi thứ có thể để cùng bà chống chọi lại với căn bệnh ung thư. Nhưng tiền thì hết, và căn nhà cũng đã bán, mà bà càng lúc càng đau nhiều hơn. Từ một người có khuôn mặt phúc hậu với núm đồng tiền duyên dáng, giờ bà thành một bà lão trọc đầu, gầy gò xanh xao. Bán căn nhà, ông dựng tạm một cái lán ngoài khu đất dự án bỏ hoang. để làm nơi trú ẩn. Sau này hết tiền, ông cũng đưa bà ra viện và về ở cái lán đó luôn. Tuổi già không làm được việc gì nữa, mà có làm cũng chẳng ai dám nhận, ông chỉ biết chạy xe ôm để kiếm thêm tiền thuốc thang cho bà. Chẳng biết bà còn sống được bao lâu nữa, nhưng ngày mà bà về bên kia cõi đời, ông cũng sẽ tự chấm dứt cuộc đời đầy nước mắt của mình. Ông tự nhủ như thế. Con người ta sinh ra trong một cái vòng luẩn quẩn cho đến khi nhắm mắt xuôi tay là đi hết một vòng. Sinh ra để chết đi, chỉ là sớm hay muộn thôi. Điều quan trọng nhất vẫn là những hạnh phúc ngắn ngủi, mà người ta đã kịp tận hưởng trong cuộc đời này. Ông Tư cùng vợ ông, hai mảnh đời cô độc, khi gia đình hoặc là mất, hoặc là chia ly, tất cả nỗi đau ấy do chiến tranh gây ra, họ đã tìm đến với nhau để san sẻ ngọt bùi. Ông thường chở bà đến trường và về nhà sau mỗi buổi dạy, cùng nấu những bữa ăn đơn sơ. Ông chăm bà khi bị cảm lạnh bởi cơn mưa đầu mùa Sài Gòn, bà cũng chăm sóc ông khi nằm liệt giường vì vết thương cũ tái phát. Phải chăng đây là niềm hạnh phúc lớn lao nhất mà ông trời bù đắp cho ông, khi đã lấy đi của ông quá nhiều thứ.

    - Anh Tư nghĩ gì vậy?

Ông Năm xuất hiện lúc nào không rõ, tiến về sau lưng và vỗ lên vai ông Tư. Ông Năm năm nay cũng ngoài năm mươi, nhưng vóc dáng vẫn còn lực lưỡng. Ông có dáng người to cao, làn da hơi ngăm đỏ. Bữa nay ông mặc chiếc áo sơ mi ngắn tay, mở phanh nút áo trên cùng, để lộ ra bộ ngực đỏ au của người dãi nắng dầm sương. Khuôn mặt ông có nhiều vết sẹo lồi lõm, với chiếc mũi to hơn bình thường khiến ông nhìn qua có vẻ đáng sợ. Bộ tóc còn đen để hơi dài, rối tung mang dáng vẻ của một người đàn ông phong trần. Ông đi chiếc xe Dream cũ kĩ, bộ yếm cũng đã ngả vàng và khung xe có nhiều vết đã tróc sơn và rỉ sét. Hành động bất ngờ của ông đã kéo ông Tư thoát khỏi dòng suy nghĩ của mình, nén những nỗi buồn đang trỗi dậy xuống, cùng với hành động trộm lau giọt nước mắt.

    - Nắng quá, chưa có khách, một mình tôi ngồi nghĩ chuyện cũ thôi mà chú.

    - Dạ nắng thiệt đó. Em tính ở nhà tới xế rồi đi, chớ giờ có khách cũng hổng muốn chở.

    - Vì miếng cơm thôi chú à.

Bà Ba cũng đã đẩy chiếc xe chứa đồ của mình tới để dọn hàng buổi chiều.

    - Nắng vậy mà hai ông anh tới sớm hen?

Bà ba hỏi, trong khi vẫn đội chiếc nón đã ngả vàng trên đầu, và đôi bàn tay thì nhanh như thoắt, lấy từng món một trên xe đẩy xếp xuống cái sạp dưới gốc cây me tây. Ông Tư và ông Năm tới phụ bà xếp đồ xuống. Công việc này chẳng tốn bao nhiêu thời gian, nhưng những lúc rảnh rỗi thì cũng mỗi người một tay cho nhanh.

    - Nắng vầy, cô ba hổng tranh thủ ra sớm mà bán nước mát cho người ta.

Ông Năm nói đùa một câu. Nhìn mặt ông có vẻ dữ tợn là thế, nhưng vẫn lại là con người vui vẻ dễ gần.

    - Nắng vậy có ma nào đi ngoài đường đâu mà bán.

Lúc này cô Bảy cũng được má đẩy xe ra, ngồi kế bên hàng nước của bà Ba.

    - Chào cả nhà.

Má của cô Bảy nói. Bà cũng lớn tuổi rồi, nhưng vì nhà nghèo lại có đứa con tật nguyền, nên vẫn phải đi ở cho nhà người ta.

    - Chào bà Tám, cô Bảy mới ra hen.

Vẫn là ông Năm nhanh miệng nhất.

    - Mọi người ở lại nha, tui phải đi rồi.

Bà Tám dặn dò cô Bảy mấy câu rồi chỉnh lại dây quai nón, bước vào trong con hẻm. Mỗi người lại quay lại vị trí của mình. Ông Năm quay qua hỏi ông Tư

    - Nè, hôm nay có chở bà Năm đi không, mà sao giờ này chưa thấy nhỉ anh Tư?

    - Tôi cũng không biết, thôi thì người ta có nhu cầu thì mình chở, cũng là khách thôi mà.

Bà Năm, một người phụ nữ lớn tuổi, sống trong ngôi nhà hai lầu, có cảnh công màu trắng bên trong con phố nhỏ này. Một lần, trong lúc đi đám cưới cùng với con gái về, vừa dừng chân trước cổng để mở khóa, bà bị hai thanh niên đi xe máy giật chiếc túi xách đựng nữ trang đeo khi dự tiệc.

    - Cướp! Cướp!

Bà chỉ có thể hô hoán trong tuyệt vọng và nhìn hai tên cướp đang phóng xe ra con đường lớn. Lúc này, ông Tư nghe thấy tiếng hô, liền lao chiếc xe của mình ra cản đường, khiến hai tên cướp và ông ngã xuống đường. Bọn cướp bị người dân bắt giải lên phường, còn túi xách trả lại cho bà. Bà vốn sống một mình trong căn nhà đó để trông coi hương hỏa cho người chồng đã mất, còn con cái thì ở chung cư trong quận Hai. Hàng tuần bà vẫn hay bắt xe ôm đi đến chơi với các cháu rồi hết tuần lại trở về. Bà bị say xe nên không đi xe buýt được, mà con cái lại bận rộn không đón bà được. Từ ngày xảy ra vụ cướp, vì muốn trả ơn ông Tư, bà trở thành khách quen của ông. Cứ thứ sáu, bốn giờ chiều, bà lại nhờ ông chở đến chỗ con. Nhưng hôm nay đã là thứ sáu, và hơn bốn giờ, chắc là bà bận hoặc có việc nên không đi nữa. Ông thầm nghĩ vậy. Kể ra, với nghề xe ôm, một cuốc xe đến quận Hai cũng là một khoản thu nhập lớn, mà hôm nay nhà ông đã hết gạo, cũng chẳng còn tiền mua thức ăn cho người vợ đang bệnh tật ở nhà. Nghĩ đến việc thiếu đi khoản thu nhập lớn từ cuốc xe ấy, ông bất chợt chột dạ.

***

"Cố cuốc này nữa thôi là đủ tiền trả cho cái đồ án tốt nghiệp". Chàng thanh niên trẻ mặc chiếc áo màu xanh lam, đeo cặp kính râm màu đen, ngồi trên chiếc xe tay côn đời mới vừa chụp hình và đăng dòng tit ấy lên mạng xã hội. Rồi cậu ta cúi xuống, chăm chú nhìn vào màn hình, và cười với bộ dạng khoái trá. Cậu ta đứng đối diện với gốc cây me tây ở phía vỉa hè bên kia. Chỗ ấy bóng của cây me vẫn đủ che rợp, nên cũng lý tưởng để đậu xe. Đầu cậu ta khẽ lắc lư theo bản nhạc từ chiếc tai nghe màu trắng mà cậu đang đeo. Trên chiếc áo cậu ta in logo của một hãng xe công nghệ và dòng chữ "Ragb" nổi màu trắng, nổi bật trên nền áo màu xanh.

    - Lại bọn rác. Để em qua đó dạy nó bài học.

Ông Năm nhìn sang cậu thanh niên với vẻ mặt đầy thù tức. Rồi ông đội chiếc mũ phớt, và hùng hổ tiến đến chàng thanh niên.

    - Nè thằng kia.- Ông quát lớn, vì biết rằng nó đang đeo tai nghe nên không nghe thấy hoặc giả bộ ngó lơ.

    - Tao đang gọi mày đấy - Ông lặp lại câu nói của mình để thu hút sự chú ý của chàng thanh niên.

Chàng thanh niên vẫn vờ như không nghe thấy, vẫn thoải mái, duỗi chân, đạp đôi giày sneaker màu trắng xuống đất, rồi lại nâng cổ tay lên nhìn vào chiếc smart watch để xem giờ, dẫu rằng cậu ấy có thể xem trên chiếc điện thoại đang cầm trên tay mình. Phải đến khi ông Năm túm lấy cổ áo cậu ta mới bỏ tai nghe ra, khuôn mặt có chút biến sắc ái ngại.

    - Tao gọi mày mà mày giả điếc hả?

Ông Năm vẫn một tay túm cổ áo trong khi tay kia vung ra một bạt tai, định rằng muốn cho chàng thanh niên một cú trời giáng. Nhưng chàng thanh niên kijo thời cúi xuống né được đòn đánh của ông.

    - Chỗ này không phải chỗ của mày nghe chưa. Cút ra chỗ khác mà kiếm ăn.

Ông Năm đe dọa chàng thanh niên và định đánh cậu ta một cái nữa. Ông Tư ngăn lại.

    - Kìa chú Năm, cũng là kiếm miếng cơm cả.

    - Kiếm miếng cơm gì, xe xịn, quần áo xịn, đồng hồ, điện thoại xịn mà đi giành bát cơm của mấy ông già.

    - Thôi mà, người ta cũng cần tiền như chú với tôi thôi

Ông Tư vừa khuyên ngăn vừa kéo ông Năm về phía bên kia con đường. Tướng ông Năm to con là thế, nhưng ông Tư vốn là lính được rèn giũa qua chiến tranh nên khỏe mạnh lắm, đủ sức ngăn cơn nóng giận của ông Năm.

"Hai lão xe ôm lạc hậu định oánh mình. Hứ, già rồi thì về mà dưỡng lão chứ ra đường làm gì? Kiếm tiền mua quan tài chắc.". Chàng trai chụp một bức hình selfie với khuôn mặt đầy vẻ chiến thắng rồi đăng lên mạng xã hội. Khuôn mặt ấy mới khoảng hai phút trước, còn tỏ vẻ sợ sệt, co rúm như chú cún con nghe thấy tiếng sấm chớp vậy mà đã nhanh chóng chuyển qua vẻ trâng tráo của một thanh niên mê nhạc rock. Đứng bên này đường quan sát với vẻ hậm hực, ông Năm thấy chàng thanh niên nghe điện thoại như nói chuyện với ai đó, rồi chạy vào phía trong con phố. Lúc sau thấy chàng thanh niên ấy chở bà Năm, khách quen của ông Tư đi ra. Bà Năm cúi xuống không dám nhìn ông Tư với vẻ ái ngại, khi chiếc xe của chàng thanh niên đi qua trước mặt. Không kìm nổi sự tức giận, ông Năm đến cà khịa với ông Tư:

    - Anh thấy chưa, nó cướp mối ruột của anh rồi kìa. Anh còn binh nó nữa không.

Có chút gì đó mắc lại trong cổ ông, hơi đắng, khiến ông như nghẹn lại. Ngay sau đó, ông như đã chiến thắng, đẩy nó xuống dưới lòng mình.

    - Bà Năm ưng đi xe ai thì bả đi. Cũng chẳng phải mối lái gì.

Vừa dứt lời, ông Tư nhìn xa xăm phía cuối con đường lớn, theo dấu xe đã mất từ lâu của chàng thanh niên ấy. Gió đã thổi nhiều hơn và mạnh hơn, qua mái tóc xanh của cây me tây già, và qua cả những mái tóc bạc của những phận người nghèo khó đang mưu sinh trên cái gốc me này. Một vài chiếc lá me lìa cành đầy luyến tiếc, cứ vờn mãi trong không trung, trước khi rơi xuống đất, nằm im đó cho người qua lại giẫm đạp lên. Nắng tắt dần như màu hy vọng trong ánh mắt ông Tư, vẫn cứ chờ những cuốc xe ôm, để kiếm chút tiền, mua đồ ăn cho người vợ bệnh tật.

Khu quy hoạch này đã giải tỏa gần xong, bà con đã dọn đi hết, và những căn nhà cấp bốn, lợp mái tôn cũng đã bị phá bỏ gần hết, nhưng vì chủ đầu tư thiếu kinh phí, hay vi phạm chính sách nào đó nên đã tạm ngưng thi công mấy năm nay. Ngày trước còn được quây tôn và có người bảo vệ. Rồi bảo vệ không được trả tiền công, cũng đã nghỉ, một vài tấm tôn cũng bị tháo dỡ, bỏ lại khu đất hoang để cỏ mọc cao hơn đầu người, xen lẫn với gạch đá vỡ vụn trên vết tích của những nền nhà cũ. Ông Tư tìm được một căn nhà còn chưa bị phá dỡ hết, nên đưa bà đến đây ở, vừa mát mẻ, yên tĩnh lại theo mong muốn của bà, là được ở một nơi gần gũi với cỏ cây tránh xa sự ồn ào, náo nhiệt nơi phố thị. Ông lái chiếc wave tàu cũ kỹ của mình len lỏi qua những lối đi tự phát chen lẫn đám cỏ đã ngã xuống hai bên. Trước cửa của căn nhà này là một cây bàng lớn, chưa bị chặt phá. Vẫn còn dấu vết của khoảng sân, nối từ cửa nhà ra phía gốc cây. Ông vừa về tới thì thấy bà đang ngồi trước bậc cửa, dựa lưng vào một bên tường, nhìn xa xăm ra phía bãi cỏ rậm rạp. Đây là cuộc sống yên bình mà bà từng mong ước nhưng hai ông bà chưa kịp thực hiện. Bà hay ốm mệt, chẳng thể ngồi dậy được, nên thường chỉ nằm trong nhà, ra được ngoài thế này, có lẽ bà đã đỡ được một phần nào. Hôm nay, dưới cái nắng chiều đang tắt dần, ông nhìn thấy bà rõ nét hơn. Tiều tụy, xanh xao, đôi mắt như bị thần chết lấy đi một nửa linh hồn, và gò má với núm đồng tiền duyên dáng ngày nào, giờ đã hóp lại, nhăn nheo hơn. Ông thương bà lắm. Giá như ông có thể gánh mọi đau khổ bệnh tật cho bà, chịu sự giày vò da thịt thay cho bà. Nhưng trong mắt ông bà vẫn đẹp như cái ngày đầu gặp gỡ. Ông dựng xe xuống, và bước về phía bà.

    - Sao bà không nghỉ ngơi đi, ra đây nhỡ gió máy thì.

    - Tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa, ông cứ để tôi được nhìn mây trời, cỏ cây. Lúc trước tôi cũng mong được về quê để tận hưởng cảm giác yên bình này.

Ông bước vào nhà, đặt chiếc nón bảo hiểm lên trên bàn, rót một ngụm nước từ chiếc bình nhựa cũ kỹ và uống ừng ực. Ngôi nhà được xây theo kiểu kiến trúc thường gặp ở thành phố này. Chỉ có một lầu và mái lợp bằng những tấm tôn cũ kĩ đã rỉ sét ở những đầu mối được bắn đinh, phủ đầy những lá bàng khô héo. Người chủ trước khi trả mặt bằng đã tháo dỡ gần hết các cánh cửa, cũng như một phần mái nhà phía sau. Chỉ còn lại phòng khách, cũng là nơi sinh hoạt của ông bà. Ông đã kê một tấm phản gỗ trên những viên gạch vứt rải rác bên ngoài căn nhà, để làm giường cho bà. Dù sao người ốm cũng không nên nằm trực tiếp trên nền đất. Ông cũng lấy mấy dây thép nhỏ buộc một tấm gỗ lên trên tường để dựng tạm cái bàn thờ cho những người thân. Người đã mất cũng được ông sắp xếp đến chu toàn. Giữa nhà vẫn còn cái bàn đã sứt mẻ một góc, bị chủ cũ vứt lại. Ông cũng đành dùng tạm, ở hoàn cảnh của ông, có dùng là tốt rồi. Góc tường có kê cái bếp ga nhỏ, mấy cái xoong nồi, ít bát đũa và cái thùng lớn chứa nước. Ở đây đã bị cắt điện nước, nên thỉnh thoảng, ông lại mang chiếc can lớn đi mua nước tại nhà bà Mười. Những đêm thời tiết oi bức, ông phải thức khuya, quạt cho bà ngủ.

    - Hôm nay ông cũng mệt rồi, mà tôi cũng thấy khỏe hơn, hay là ông và tôi cùng nấu ăn như mọi khi nhé.

Bà mỉm cười khi nói với ông câu ấy. Niềm hạnh phúc lại rực lên trong đôi mắt quầng thâm của bà. Phải đã lâu rồi, ông bà không cùng nấu ăn với nhau. Đã lâu rồi, từ khi ông phải gồng thân già lên để vật lộn với cuộc sống mà đáng lý ra, ông phải được hưởng một tuổi già an nhàn. Ông đặt ly nước xuống bàn, tiến đến chỗ bà, quỳ trước mặt bà trong tư thế một chàng trai đang cầu hôn cô gái. Hai tay ôm lấy đôi vai hao gầy của bà mà chua xót:

    - Tôi xin lỗi, hôm nay tôi không kiếm đủ tiền mua thức ăn cho bà rồi, mà tiền trợ cấp thì cuối tháng mới có.

Ông cười mà như đang khóc, khiến bà cũng thẹn thùng cúi mặt không dám nhìn sâu vào ánh mắt rưng rưng của ông, vì trong đó đang chất chứa hàng vạn nỗi đau đang giày vò. So với nỗi đau thể xác mà bà đang gánh, thì cái nỗi đau ấy còn bằng ngàn vạn lần.

    - Chỉ còn lại ít gạo với hai hột vịt. Tôi nấu cháo cho bà. Còn tôi, lát ra ngoài chạy lấy mấy cuốc nữa đến nửa đêm rồi mua đồ ăn sau.

Hai ông bà nhìn nhau với vẻ mặt buồn rầu.

    - Thôi, tối nay ông ở nhà chúng ta nấu cháo rồi cùng ăn. Tôi muốn ngồi nói chuyện với ông như ngày nào.

Bà gượng cười, cố tỏ ra vui vẻ để kìm nén lại cơn đau trong lòng mình, phần cũng vì muốn an ủi ông, phần vì muốn trò chuyện với ông như lời trăn trối. Ông ngồi xuống cạnh bà, chắp hai tay lại trước mặt và hướng mắt ra phía gốc cây bàng.

    - Ừ. Vậy đêm nay, hai vợ chồng già chúng ta sẽ ôn lại chuyện cũ.

Bà bắt đầu kể ông nghe về chuyện của Hai Thanh và bà Thu Cúc, mà trước giờ bà chưa từng nói chuyện này với ông dù ông cũng đã từng hỏi. Ngày ấy, Hai Thanh và Thu Cúc gặp nhau tại một ngôi chùa giáp ranh giữa Biên Hòa và Sài Gòn. Thu Cúc đẹp lắm, trong bộ áo dài tím, cùng giọng nói dễ thương của người con gái Huế, Hai Thanh, khi ấy là một công tử con nhà thiếu tá đã nhanh chóng say mê bà. Sau này, khi về Sài Gòn, Hai Thanh gặp lại Thu Cúc tại một tiệm hoa tươi. Họ đến với nhau từ đó. Hai Thanh ít ở nhà hơn, hay cùng Thu Cúc tới những khu vườn hoa ngoại thành để lấy hoa về bán. Một ngày nọ, khi Hai Thanh tới nơi, thì thấy cha mình cùng lính của ông, tay lăm le súng bắt Thu Cúc và những người trong tiệm hoa đi. Hai Thanh đã cầu xin ba thả Thu Cúc, nhưng ông với tính cách cương trực, không hề nói một lời, chỉ luôn khẳng định Thu Cúc là Cộng sản nằm vùng. Rồi một ngày, sau khi đi chùa về, Hai Thanh đã trốn nhà đi trong đêm. Và đó là lần cuối cùng Út Bình nhìn thấy anh trai của mình.

    - Tui nhớ chị Cúc đẹp lắm ông ạ, có lần anh Hai đưa tui tới tiệm hoa của chị, tôi đã thấy tận mắt người con gái mà anh tui si mê.

Rồi bà kể đến ngày lạc gia đình.

    - Tui nhớ bản nhạc sáng hôm ấy, bài Giáng sinh trắng.

Rồi bà ngân nga theo giai điệu bài hát, trong khi đầu vẫn dựa vào góc tường.

    - Tui nhớ bài hát Tiến về Sài Gòn, trong cái ngày tui trốn trong tủ và gặp ông. Tui nhớ...

Giọng bà yếu ớt và chuyển nhỏ dần, cho tới khi ông kịp nhận ra thì đã trễ. Ông ôm lấy bà trước khi bà kịp ngã xuống đất. Nước mắt nãy giờ đang níu lấy chân mày ông, chống lại trọng lực để không rơi xuống đất thì giờ đây, dòng nước mắt ấy tuôn ra nhiều hơn, chảy dài xuống cái miệng đã méo mó của ông. Tiếng khóc rung rung cổ họng, chỉ đủ phát ra thành tiếng để ông có thể nghe thấy. Nhưng trời trên cao có nghe được không? Chẳng còn quan trọng nữa. Người thân cuối cùng của ông cũng đã rời bỏ ông. Tán lá bàng cứ xào xạc theo những cơn gió chiều mát rượi. Bãi cỏ được thế cũng rì rào theo, đưa mùi hương cỏ dại thoang thoảng qua. Mặt trời cũng dần tắt sau những tòa nhà chọc trời giáp với bãi đất trống, đẩy cái xó hoang vu, nơi dự án bỏ quên này chìm vào bóng tối.

Đã tám giờ tối, ông vừa bán xong chiếc xe của mình, và mua một ít đồ từ khu chợ tự phát. Từ đây về nhà cũng khá xa, nhưng cũng không đáng gì so với một người lính đã từng hành quân cả nghìn cây số. Một tay ông xách chiếc can mà hàng ngày ông vẫn dùng để chở nước, tay còn lại cầm giỏ đồ mua từ chợ. Ông chợt thấy cậu thanh niên hồn trưa, mới chở bà Mười. Đầu ông chợt nảy ra một ý nghĩ xấu, ông tiến đến chàng thanh niên gọi lớn.

    - Này chàng xe ôm có chở khách không?

    - Ông book chưa?

Chàng thanh niên trả lời, trong khi vẫn đang ngồi trên xe, đeo tai nghe và rung đùi theo bản nhạc đang phát trong chiếc điện thoại.

    - Tao già rồi, mày chở tao về, tao trả tiền trực tiếp, khỏi mất tiền phí cho tổng đài.

Nghe thế chàng thanh niên liền chạy xe tới chỗ ông Tư. Cậu ta không nhận ra ông Tư, có lẽ thế.

    - Thôi được, ông về đâu.

Ông nói địa chỉ cho hắn.

    - Cũng không xa lắm, thôi nhé, con lấy năm chục được không.

    - Tao trả mày một trăm luôn, nhớ chở về tận nhà đấy.

Ông ngồi lên xe và chàng trai bắt đầu nổ máy. Vì là khu giải tỏa nên chẳng có trên bản đồ, ông phải chỉ đường cho chàng thanh niên. Tới đoạn đường vắng, chàng thanh niên bắt đầu nghi ngờ dừng xe lại và nói.

    - Thôi con chở ông tới đây thôi con không lấy tiền đâu, con có việc cần về gấp.

Ông Tư vừa bước xuống xe, liền văng cùi chỏ đánh vào đầu chàng thanh niên. Với chút sức còn lại của một cựu chiến binh, cú đánh ấy đủ sức để khiến chàng thanh niên choáng váng đầu óc rồi bất tỉnh.

Khi tỉnh dậy, chàng thanh niên thấy tay bị trói ngược ra sau, chân cũng bị trói bằng dây thừng, đầu còn đau nhói sau cú đánh trời giáng ấy. Cậu nhận ra mình đang trong một ngôi nhà hoang, xung quanh tối om như mực. Nhìn quanh căn nhà, thấy một người chết mang áo dài trắng, nằm ngay ngắn trên một tấm phản được kê sát tường. Cạnh bà là những bức ảnh đen trắng, bài vị xếp dựa vào tường dọc theo thi thể của bà. Trong đó có cả một bức ảnh gia đình của sĩ quan chế độ cũ. Bên ngoài tấm phản là những bát hương đang cháy nghi ngút khói. Cảnh ấy khiến cậu hơi sợ hãi, gần như muốn xỉu đi lần nữa. Tim cậu đập thình thịch như muốn nhảy ra ngoài. Không dám nhìn thêm nữa, cậu cúi mắt xuống đất, với hy vọng đây chỉ là cơn ác mộng thôi.

Ông Tư bước từ gian nhà bếp ra với đĩa xôi lớn và con gà luộc được xếp ngay ngắn phía trên. Ông đặt đĩa xôi trước giàn bát hương, rồi tiến lại chỗ chàng thanh niên.

    - Mày biết họ là ai không? Là người thân của tao đó. Chúng tao đã sống và cống hiến cả đời cho cái xã hội này, vậy mà đến những năm cuối đời, Khi tao đã bị ông trời lấy đi tất cả, chỉ còn người vợ bệnh tật và đôi bàn tay trắng. Tao đã phải bơn trải vào dòng đời để kiếm bát cơm bát cháo. Vậy mà chúng mày, chúng mày nói cái gì 4.0 nên cướp cả bát cơm của kiếp người bần cùng tụi tao. Chúng mày muốn xã hội phát triển nên bỏ qua những số phận ở cuối đáy xã hội như tụi tao. Chúng mày coi chúng tao như những thành phần cản bước phát triển của chúng mày. Phải, chúng tao lạc hậu, chúng tao không đủ trình độ để theo kịp với xã hội văn minh nên chúng tao bị đào thải. Phải rồi là đào thải đấy. Vậy tao cho chúng mày chứng kiến chúng tao sẽ tự bỏ cái xã hội này, không cần đào thải đâu.

Nói rồi, ông tiến lại xách cái can đặt ở góc nhà, tiến đến tấm phản. Ông mở nắp can, vứt xuống nền nhà. Mùi xăng xộc lên mũi chàng thanh niên. "Ông ấy sẽ thiêu mình sao". Chàng thanh niên thầm nghĩ và lần này, trái tim của cậu đã rớt ra ngoài thực sự. Ông tưới xăng lên tấm phản nhưng không để bắn vào những bát nhang đang cháy. Rồi ông tưới lên mình và nhìn chàng thanh niên với ánh mắt thù hận. Ông lấy một que nhang đang cháy và nằm xuống cạnh thi thể của bà. Ông đặt que nhang lên bụng, lửa bắt rất nhanh, cháy bùng lên dữ dội. Ông đưa tay nắm lấy bàn tay bà, cười mãn nguyện để ngọn lửa bùng lên, cuốn lấy cơ thể hai người, và bao trùm cả chiếc phản. Chàng trai hoảng hốt, bò ra ngoài cửa như một con sâu đo, vừa hô to kêu cứu. Nhưng chẳng có ai nghe đâu, đã nửa đêm, thành phố đi ngủ rồi hoặc là người ta quan tâm tới quán ba rực rỡ ánh sáng, chứ chẳng ai quan tâm đến xứ hẻo lánh đã bị bỏ quên này.

***

Kể xong câu chuyện cũng là bốn giờ sáng. Đám mây đen đã bị những cơn gió thổi dạt đi, để ánh trăng chiếu xuống, soi sáng những ngôi mộ trong nghĩa địa này. Tôi và chàng thanh niên đang ngồi trên thành của ngôi mộ ngay trước mộ của cậu ấy. Mộ của cậu ta mới được đắp vội vàng bằng đất, cỏ đã xanh và cao đủ che đi một phần bia mộ. Nhưng dưới ánh trăng này, mọi thứ mờ ảo, cỏ cũng không xanh rõ ràng như thế. Tôi gấp cuốn tập lại, vẫn kẹp cây viết ở trang dang dở, đứng lên và bay dần về phía ánh trăng, để hồn ma chàng thanh niên vẫn ngồi đó thẫn thờ. Tôi chỉ thở dài một tiếng, ngước nhìn ánh trăng và nói.

    - Đêm đó cậu đã không chết. Cậu đã kịp bò ra bên ngoài gốc bàng, mà ngọn lửa thì không đủ mạnh để với tới cậu, lôi cậu vào cõi chết. Mấy hôm sau đó, sau khi điều trị ở bệnh viện và đã khỏi bệnh, cậu đi học, và học trên lầu năm. Cậu đã nhìn thấy linh hồn ông Tư trên đó. Hoảng loạn, cậu chạy ra lan can và ngã xuống đất.

    - Vậy là ông Tư đã tìm và giết tôi bằng mọi giá?

    - Không, ông Tư muốn cậu sống để truyền lại lời của ông ấy cho cái xã hội này biết. Ông ấy không muốn có thêm những kiếp nghèo cơ cực bị xã hội này bỏ quên trên bước đường phát triển. 

    - Vậy là ai?

    - Là một hồn ma khác.

Tôi vừa dứt lời, thì thần chết đã đến đưa chàng thanh niên ấy đi. Chàng ta cúi đầu, chấp nhận số phận và không chống trả nữa. Tôi không muốn quay lại chào hỏi hay nhìn mặt bọn thần chết, vì tôi còn hận bọn chúng. Khi thần chết vừa đưa chàng thanh niên đi, tôi còn một việc phải làm, còn một linh hồn nữa cần giải thoát.

    - Ông xuất hiện được rồi, đại tá Ngọc.

Linh hồn người đàn ông râu kẽm trong bộ quân phục của tướng Sài Gòn chế độ cũ từ từ xuất hiện trước mặt tôi. Dáng ông oai phong thật đấy.

    - Ông còn điều gì nữa mà chưa đi gặp phán quan. Tôi tin rằng, họ sẽ phán xử công bằng dù ông là kẻ đã ép chàng thanh niên ấy tự tử.

    - Công bằng ở đâu ra, khi mà gia đình con gái tôi giành cả đời cống hiến cho xã hội này, mà còn bị mắc bệnh hiểm nghèo, sống cơ cực vào những năm tháng cuối đời. Ai phán xét cho cuộc đời nó? Ai? Ông trời có sắp đặt cho nó được một cuộc sống viên mãn không? Hay chỉ biết đày đọa nó trong khổ hạnh, dù nó chẳng làm điều gì ác?

Ông ta hỏi tôi với giọng đanh thép, như cách mà ông vẫn hỏi đám tù nhân.

    - Không ai sắp đặt hay phán xét con người đang sống cả, ông đại tá à. Tất cả là do xã hội này tự vận động, phát triển và sắp đặt thôi. Như ông từng bị đồng đội lừa trở về Sài Gòn từ Đắc Lắc với tấm bản đồ sai và can xăng chứa toàn nước, hay việc máy bay chở ông và vợ bị rơi xuống biển do hết xăng khi bay quanh các tàu mẹ mà không có chỗ đậu xuống. Tất cả là do cách xã hội này đối xử với nhau mà thôi. Phán quan chỉ phán xét linh hồn đã thác, để quyết định linh hồn ấy được lên Thiên đường hay chịu phạt dưới địa ngục.

Ông ta cúi mặt xuống, rồi ngước lên nhìn bầu trời với những ánh sao đang mờ dần đi.

    - Tôi sẽ sắp xếp cho ông gặp gia đình trước cổng Thiên đường, nhưng sau đó, ông sẽ phải xuống địa ngục để nghe phán quyết.

Một luồng ánh sáng màu vàng tươi chiếu xuống từ trên những vì sao, kéo linh hồn ông đại tá lên trên, rồi vụt tắt, trả lại khu nghĩa trang với những ánh sáng chạng vạng của hừng đông. Tôi cũng phải về, nhập vào xác trước khi trời sáng.

Gốc me ấy đã bị chặt rồi, nhường chỗ cho một siêu thị hiện đại. Những người buôn bán ở đây cũng đi tìm nơi khác để mưu sinh. Chỉ còn ông Năm, nghề xe ôm thì đứng ở đâu chẳng được. Nhưng ông Năm cũng đã mặc chiếc áo màu xanh, in logo và dòng chữ "Ragb" trước ngực. Ông ngồi trên chiếc xe Blade mới, đeo chiếc tai nghe màu trắng, để nghe cải lương trong khi chờ khách trước siêu thị. Một chiếc lá me chẳng biết từ đâu bay tới, còn lưu luyến với ngọn gió, cứ quấn quýt trên không trung trước khi nhẹ nhàng rơi xuống nơi ông Tư từng đậu xe chờ khách.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #truyện