Lop thiet giap ham King Geogre IV
Lớp thiết giáp hạm King George V
Xưởng đóng tàu:Vickers-Armstrong-Cammell Laird-John Brown and Company-Swan Hunter-Fairfields
Bên sử dụng:Hải quân Hoàng gia Anh
Thời gian đóng:1937 - 1942
Đặc điểm khái quát
Kiểu:Thiết giáp hạm
Trọng tải choán nước:38.031 tấn (tiêu chuẩn)42.237 - 44.460 tấn (đầy tải)
Độ dài:227 m (745 ft)
Sườn ngang:31,4 m (103 ft)
Mớn nước:9,9 m (32 ft 7 in)
Động cơ đẩy:4 × Turbine hơi nước Parsons.8 × nồi hơi ống nước Admiralty.4 × trục.chân vịt ba cánh đường kính 4,42 m (14 ft 6 in),công suất 128.000-134.000 mã lực (95,4-99,9 MW)
Tốc độ:51,9 km/h (28 knot) (thử máy năm 1941)
Tầm xa:10.000 km ở tốc độ 33,3 km/h(5.400 hải lý ở tốc độ 18 knot)
Thủy thủ đoàn:1.314 - 1.631
Vũ trang:10 × pháo BL 355 mm (14 inch) Mk VII.16 × pháo QF 133 mm (5,25 inch) Mk I.32 × pháo QF 2 pounder 40 mm "pom-pom" (4×8) (lúc chế tạo; hỏa lực phòng không hạng nhẹ được bổ sung trong chiến tranh).
Máy bay mang theo:4 × thủy phi cơ Supermarine Walrus
Thiết bị bay:1 × máy phóng hai đầu
Lớp King George V là lớp thiết giáp hạm áp chót được hoàn tất bởi Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Năm chiếc thuộc lớp này đã được đưa vào hoạt động:King George V (1940),Prince of Wales (1941),Duke of York (1941),Howe (1942)và Anson (1942).Hiệp ước Hải quân Washington đã giới hạn cả về số lượng, kích cỡ (trọng lượng rẽ nước) lẫn vũ trí trang bị cho những thiết giáp hạm được đóng sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất,và những hạn chế này được tiếp tục duy trì trong Hiệp ước Hải quân London thứ nhất,nhưng hiệp ước này cũng sẽ hết hiệu lực vào năm 1936.Cùng với sự căng thẳng đang gia tăng giữa các cường quốc hải quân, các nhà vạch kế hoạch đã hy vọng rằng hiệp ước sẽ không được triển hạn, và do đó lớp King George V được thiết kế mà không bó buộc bởi những giới hạn này.Cả năm chiếc đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.Prince of Wales là chiếc duy nhất bị mất khi nó cùng với tàu chiến-tuần dương Repulse bị máy bay Nhật Bản đánh chìm gần Singapore.Những chiếc còn lại bị tháo dỡ vào cuối những năm 1950.
Bối cảnh
Lớp King George V là kết quả của một quá trình thiết kế vốn bắt đầu ngay từ năm 1928.Theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922,một 'kỳ nghỉ lễ' trong việc đóng tàu chiến chủ lực diễn ra kéo dài cho đến năm 1931.Thành phần thiết giáp hạm của Hải quân Hoàng gia chỉ bao gồm những chiếc cũ được giữ lại sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất và hai chiếc thuộc Nelson mới nhưng chậm.Vào năm 1928,Bộ Hải quân tiến hành những thảo luận về những yêu cầu đặt ra cho những con tàu mà họ hy vọng sẽ bắt đầu vào năm 1931,khi Hiệp ước Washington hết hiệu lực.Hiệp ước Hải quân London thứ nhất năm 1930 đã kéo dài 'kỳ nghỉ lễ' cho đến năm 1937.Việc vạch kế hoạch được tái tục vào năm 1935,dựa trên các công việc thiết kế trước đây.Lớp tàu mới sẽ sử dụng tối đa hạn mức về trọng lượng rẽ nước 35.000 tấn mà Hiệp ước cho phép.Các phương án khác nhau để trang bị cỡ pháo 406 mm (16 inch),381 mm (15 inch)và 355 mm (14 inch) cho dàn pháo chính được cân nhắc,trong đó cỡ pháo 381 mm (15 inch)đem lại sự cân bằng tốt nhất cho con tàu.Đa số các phương án thiết kế dự định đặt được tốc độ tối đa 50 km/h (27 knot),và người ta cũng giả định là khoảng cách chiến đấu có tính quyết định sẽ từ 11 đến 14,6 km (12.000-16.000 yard).Vỏ giáp và việc bảo vệ chống ngư lôi sẽ chiếm một tỉ lệ lớn hơn trong thiết kế so với những thiết giáp hạm Anh Quốc trước đây.Vào tháng 10 năm 1935, người ta quyết định sử dụng cỡ pháo 355 mm (14 inch).Vào lúc đó, Anh Quốc đang đàm phán về việc tái tục các hiệp ước hải quân cùng các nước đã tham gia Hiệp ước Hải quân London thứ nhất.Người Anh mong muốn giảm cỡ nòng pháo tối đa trên thiết giáp hạm xuống còn 355 mm (14 inch)và vào đầu tháng 10 nhận được tin tức về sự ủng hộ của Mỹ trong việc này nếu như có thể thuyết phục Nhật Bản cùng làm như thế.Vì các khẩu pháo cần thiết phải được đặt hàng vào cuối năm,Bộ Hải quân Anh Quốc cuối cùng quyết định sử dụng cỡ pháo 355 mm (14 inch) cho lớp King George V.Hiệp ước Hải quân London thứ hai,kết quả của Hội nghị Hải quân London thứ hai bắt đầu từ tháng 12 năm 1935,được Anh, Pháp và Mỹ ký kết vào tháng 3 năm 1936 xác nhận giới hạn cỡ pháo là 355 mm (14 inch)tuy nhiên Nhật Bản đã rời bỏ hội nghị vào tháng 1 và Ý đã từ chối ký hiệp ước
Đặc tính thiết kế
Động lực
King George V là những thiết giáp hạm Anh Quốc đầu tiên hoán đổi vị trí các phòng động cơ và phòng nồi hơi trong khoang động lực.Mục đích là làm giảm thiểu nguy cơ bị mất mọi động lực chỉ do một phát bắn trúng duy nhất.
Sự bảo vệ
Vỏ giáp
Sự bảo vệ bằng vỏ giáp của lớp King George V được thiết kế sau khi xem xét kinh nghiệm của Hải quân Hoàng gia trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất và các thử nghiệm toàn diện được tiến hành vào giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh.Việc bảo vệ hầm đạn được ưu tiên qua việc cung cấp một vỏ giáp sàn tàu và đai giáp dày và bằng cách bố trí các hầm đạn ở mức thấp nhất của con tàu.Việc bảo vệ ngang bên trên các hầm đạn bao gồm ba lớp với độ dày tổng cộng 232 mm (9,13 inch)sàn tàu thời tiết bao gồm thép D với độ dày 32 mm (1,25 inch)vỏ giáp sàn tàu chính dày 149 mm (5,88 inch) bên trên sàn thép 13 mm (0,5 inch) thép D,và bên trên các phòng nạp đạn có thêm một sàn tàu 38 mm (1,5 inch) chống mảnh đạn.Hầm chứa thuốc đạn được bố trí bên dưới các phòng nạp đạn để tăng cường sự bảo vệ,một biện pháp đã được bắt đầu áp dụng kể từ lớp thiết giáp hạm Nelson.Độ dày của sàn tàu thời tiết bên trên các gian động cơ cũng tương đương, nhưng độ dày của sàn giáp chính được giảm còn 124 mm(4,88 inch)bên trên sàn thép 13 mm(0,5 inch)thép D.Sàn giáp chính được tiếp tục kéo dài ra phía trước vách ngăn bọc thép và giảm dần độ dày xuống còn 63 mm (2,5 inch),trong khi ở phía sau hầm đạn một sàn tàu nhô lên bọc thép che phủ bên trên bánh lái với độ dày vỏ giáp 114-127 mm(4,5-5 inch)trong khi vẫn cung cấp sự bảo vệ dọc theo mực nước.Đai giáp chính cao 7,2 m (23 ft 6 in) và che phủ hông lườn tàu từ sàn giáp chính cho đến 4,5 m (15 ft)bên dưới mực nước.Những nghiên cứu sau Thế Chiến I cho thấy có khả năng những quả đạn pháo xuyên thép với kíp nổ trì hoãn sẽ đi ngầm dưới nước xuyên bên dưới một đai giáp nông xâm nhập vào những khu vực sống còn của con tàu, nên đai giáp chính được chế tạo kéo dài sâu bên dưới mực nước càng nhiều càng tốt.Dọc theo con tàu,đai giáp bắt đầu ngay phía trước tháp pháo phía trước và kết thúc ở phía sau tháp pháo phía sau.Đai giáp có độ dày tối đa ở bên trên và ngay mực nước.Dọc theo các hầm đạn, đai giáp dày 381 mm (15 inch)bên trên các khoang động cơ,đai giáp dày 356 mm (14 inch).Phần bên dưới của đai giáp vuốt dần còn một độ dày từ 114-140 mm(4,5-5,5 inch).Vỏ giáp bảo vệ thậm chí còn tốt hơn so với độ dày danh định của vỏ giáp nhờ chất lượng được cải thiện của lớp vỏ giáp bê tông vốn cung cấp sự đề kháng xuất sắc.Đai giáp chính, phối hợp cùng với các vách ngăn bọc thép trước và sau và sàn tàu chính bọc thép,hình thành nên một "thành trì bọc thép" bảo vệ các hầm đạn và các khoang động cơ.Các vách ngăn bọc thép dày 305 mm (12 inch) ở phía trước và dày 254 mm (10 inch) về phía sau.Đai giáp chính tiếp tục kéo dài quá phía trước và phía sau các vách ngăn bọc thép với chiều cao giảm dần để chỉ bảo vệ ngang mực nước và giảm dần độ dày từ 330 mm (13 inch) xuống còn 140 mm (5,5 inch).Vùng miễn nhiễm tính toán được khác nhau đáng kể từ các nguồn trích dẫn khác nhau.Các tháp pháo chính được bảo vệ tương đối nhẹ so sánh với các thiết giáp hạm đương thời.Vỏ giáp bảo vệ tối đa cho tháp pháo và bệ tháp pháo được giảm còn 324 mm(12,75 inch)đối với lớp tàu này so với 16 inch của lớp Nelson.Các mặt của tháp pháo có độ dày vỏ giáp 324 mm (12,75 inch)ở mặt trước;225 mm (8,84 inch) bên hông(ngay phòng nạp đạn);174 mm (6,86 inch)ở mặt hông và mặt sau; trong khi nóc tháp pháo dày 149 mm (5,88 inch).Bệ tháp pháo chính có độ dày vỏ giáp thay đổi: 324 mm (12,75 inch)ở mặt hông,298 mm(11,76 inch) phía trước và 275 mm (10,82 inch) phía sau tháp pháo.Ở một mức độ chất lượng cao của vỏ giáp giúp giảm bớt sự thiếu sót trong bảo vệ,và bề mặt phẳng của mặt tháp pháo cải thiện việc đề kháng đường đạn ở tầm xa,trong khi kiểu dáng thấp của tháp pháo làm giảm bề mặt mục tiêu ở tầm gần.Tuy nhiên việc giảm thiểu vỏ giáp dành cho tháp pháo và bệ tháp pháo là một sự thỏa hiệp trong thiết kế để đổi lấy một sự bảo vệ tốt nhất có thể dành cho các hầm đạn.Việc bảo vệ kín lửa rộng rãi trong các tháp súng và bệ tháp súng được thiết kế nhằm đảm bảo cho hầm đạn được an toàn ngay cả khi tháp pháo bị bắn thủng.Các bệ pháo hạng hai, tháp súng và phòng nạp đạn tương ứng chỉ được bọc một lớp giáp mỏng dày 25 mm (0,98 inch)để chống lại mảnh đạn pháo.Không giống như các thiết giáp hạm của nước ngoài đương thời cũng như của lớp Nelson dẫn trước,lớp King George V có sự bảo vệ dành cho tháp chỉ huy tương đối nhẹ với các mặt hông dày 75 mm (2,94 inch), mặt trước và mặt sau dày 100 mm (3,94 inch)và vỏ giáp nóc dày 38 mm (1,47 inch).Phân tích của Hải quân Hoàng gia trong Thế Chiến I cho thấy các sĩ quan chỉ huy thường không sử dụng một tháp chỉ huy bọc thép để có được một tầm nhìn tốt hơn trên các vị trí của cầu tàu không bọc thép.Sự cân nhắc về độ ổn định và trọng lượng rõ ràng cũng đóng một vai trò quan trọng đưa đến quyết định của người Anh trong việc giới hạn vỏ giáp cho cấu trúc thượng tầng.Lớp vỏ giáp dành cho tháp chỉ huy đủ để chống lại hỏa lực từ các tàu nhỏ và các mảnh đạn
Sự bảo vệ dưới nước
Lườn tàu bên dưới mực nước cùng với đai giáp chính tạo thành hệ thống bảo vệ bên (SPS: Side Protection System).Nó được phân thành một loạt các ngăn theo chiều dọc với trình tự:trống-nước-trống, hai lớp trong và ngoài là không khí trong khi ngăn giữa chứa dung dịch (nhiên liệu hoặc nước).Lớp vỏ ngoài cùng trong khu vực của hệ thống SPS được làm mỏng đến mức có thể để giảm thiểu hư hại do mảnh vỡ trong trường hợp có ngư lôi đánh trúng.Ngăn ngoài cùng của hệ thống SPS thường là để trống(chỉ chứa không khí)cho phép sức ép của vụ nổ ban đầu từ một quả ngư lôi sẽ lan rộng mà ít gây hư hại cho con tàu.Ngăn giữa được đổ đầy dầu hoặc nước biển,sẽ trải xung áp lực lên một khu vực rộng lớn trong khi dung dịch sẽ giữ lại mọi mảnh kim loại phát sinh từ vụ nổ ngư lôi.Ngăn trong cùng lại là một khoảng trống khác dùng để giữ lại mọi dung dịch rò rỉ ra từ ngăn giữa cũng như mọi xung áp lực còn lại từ vụ nổ. Phía trong của ngăn trống cuối cùng là một vách ngăn bọc thép có độ dày thay đổi từ 37 mm (1,5 inch)ở cạnh các phòng động cơ cho đến 44 mm (1,75 inch) bên cạnh các hầm đạn.Vách ngăn này hình thành nên một "vách ngăn giữ lại"(holding bulkhead) và nó được thiết kế để đề kháng những hiệu quả còn lại của vụ nổ ngư lôi.Nếu vách ngăn bên trong cuối cùng này bị xuyên thủng,một loạt các khoảng được chia ngăn kín nước sẽ giữ lại mọi sự rò rỉ;bên trong "vách ngăn giữ lại",con tàu được chia ra nhiều ngăn nhỏ chứa các khoảng động cơ.Lớp SPS trống-nước-trống như thế thường rộng khoảng 4,0 m (13 ft), và các khoảng trống động lực phụ thuộc sẽ cộng thêm khoảng 2,4 m (8 ft) từ vỏ bọc bên ngoài đến khoang động lực chính.Ngoại lệ duy nhất là cạnh các phòng động cơ A và B,nơi các khoảng trống động lực phụ thuộc bị loại bỏ, nhưng một khoảng để trống khác rộng khoảng 0,9 m (3 ft) thay thế vào chỗ đó.Bên trên hệ thống bảo vệ bên SPS,và ngay phía sau đai giáp chính,là một loạt các ngăn vốn thường được sử dụng làm phòng vệ sinh hay kho chứa đồ,được thiết kế để có thể thoát hơi lên trên những cú áp lực mạnh từ một vụ nổ ngư lôi.Sơ đồ này được thiết kế để bảo vệ chống lại một đầu đạn nặng cỡ 450 kg (1.000 lb),đã được thử nghiệm và được cho là có hiệu quả trong các thử nghiệm diện rộng.Hệ thống bảo vệ bên (SPS)cũng là một thành phần chủ yếu của hệ thống kiểm soát hư hỏng,khi độ nghiêng của con tàu do ngập nước có thể hiệu chỉnh bằng cách cho ngập đối xứng các ngăn để trống và bơm nước ra khỏi các ngăn đã đổ đầy.Trong trường hợp tổn thất chiếc Prince of Wales,các chỗ trống này được sử dụng trong việc làm ngập đối xứng để giảm độ nghiêng con tàu.HMS Prince of Wales bị đánh chìm vào ngày 10 tháng 12 năm 1941,được tin là do bị đánh trúng 6 quả ngư lôi phóng từ máy bay cùng một quả bom 500 kg.Tuy nhiên, một cuộc khảo sát cặn kẽ vào năm 2007 do các thợ lặn thực hiện trên xác tàu đắm của Prince of Wales cuối cùng xác định chỉ có bốn quả ngư lôi đánh trúng mà thôi.Ba trong số bốn quả này đã đánh trúng lườn tàu phía ngoài khu vực được hệ thống SPS bảo vệ; còn trong trường hợp quả thứ tư, "vách ngăn giữ lại" của SPS dường như còn nguyên vẹn tại khu vực mà lườn tàu bị đánh trúng.Kết luận của các cuộc điều tra và phân tích cho thấy nguyên nhân chủ yếu của việc bị chìm là do ngập nước không thể kiểm soát dọc theo trục chân vịt "B".Giá đỡ phía ngoài của trục chân vịt bị hỏng, và việc chuyển động trục chân vịt không được nâng đỡ đã phá vỡ toàn bộ các vách ngăn từ nắp đệm bên ngoài trục chân vịt đến tận phòng động cơ B.Điều này đã khiến ngập nước các khoang động cơ chính.Sự hư hỏng và ngập nước lại càng trầm trọng hơn do việc kiểm soát hư hỏng được tiến hành kém, từ bỏ hầm đạn phía sau quá sớm và hư hỏng bảng chuyển mạch điện thoại liên lạc.Trục chân vịt "B" đã được cho ngừng lại, rồi được cho tái khởi động nhiều phút sau khi bị một quả ngư lôi đánh trúng.Các cuộc điều tra được tiến hành lúc đó đó về việc tổn thất xác định nhu cầu phải có một số cải tiến trong thiết kế, được áp dụng với mức độ ít hay nhiều trên bốn chiếc còn lại của lớp.Việc thông gió và độ kín nước của hệ thống thông gió được cải tiến, trong khi các lối đi nội bộ bên trong giữa các khoang động cơ được thiết kế lại, cũng như hệ thống liên lạc được làm chắc chắn hơn.Người ta đã cải tiến các nắp đệm của trục chân vịt cùng đưa ra cơ cấu khóa trục chân vịt.Một số hỏng hóc của con tàu được đề xuất dù sao cũng chỉ được dựa trên suy đoán là một quả ngư lôi đã đánh trúng và làm hỏng hệ thống SPS ngay hoặc gần Khoang 206 cùng lúc với cú đánh trúng làm hư hại trục chân vịt B. Các đoạn băng ghi hình trong cuộc khảo sát năm 2007 cho thấy dù sao lườn tàu về căn bản không bị hư hại tại khu vực này.Việc không có khả năng khảo sát xác tàu đắm trong thời gian chiếc tranh rõ ràng đã ảnh hưởng đến các nỗ lực tìm ra nguyên nhân cuối cùng đưa đến việc mất chiếc Prince of Wales; và do đó, sự phân tích còn thiếu sót đã đưa đến một số giả thuyết không đúng về nguyên nhân bị chìm, được vô tình phổ biến trong nhiều năm sau đó.Trong khi khảo sát chiếc Prince of Wales sau trận đụng độ với thiết giáp hạm Bismarck và tàu tuần dương hạng nặng Prinz Eugen,người ta phát hiện ba phát bắn trúng đích đã khiến cho con tàu bị ngập khoảng 400 tấn nước.Một trong những phát bắn trúng này,xuất phát từ Bismarck,đã xuyên qua lớp vách ngăn bảo vệ chống ngư lôi bên ngoài tại một khu vực rất gần với khoảng động cơ phụ,gây ngập nước tại chỗ bên trong hệ thống SPS,trong khi lớp "vách ngăn giữ lại" bên trong bằng thép D dày 2 x 19 mm(1,5 inch)lại còn nguyên vẹn,vì quả đạn pháo Đức bị tịt ngòi.Quả đạn pháo Đức thực ra đã phải kích nổ dưới nước nếu kíp nổ của nó hoạt động bình thường,do độ sâu mà quả đạn pháo này đã di chuyển dưới nước trước khi đánh trúng Prince of Wales bên dưới đai giáp
Vũ khí
Dàn pháo chính
Vào lúc chế tạo, thiết giáp hạm King George V cùng bốn chiếc khác trong lớp mang mười khẩu hải pháo BL 355 mm (14 inch) Mk VII trên hai tháp pháo bốn nòng và một tháp pháo nòng đôi phía sau và bên trên tháp pháo phía trước.Đã xảy ra sự tranh luận trong nội bộ của Bộ Hải quân về việc chọn cỡ pháo;cho dù có rất ít hoặc không có sự tranh luận trong Quốc Hội;các cường quốc Châu Âu khác đã chọn cỡ 381 mm (15 inch), và Hải quân Hoa Kỳ là cỡ pháo 406 mm (16 inch)Thoạt tiên Bộ Hải quân đã nghiên cứu phương án các con tàu có các phương án sắp xếp dàn pháo chính khác nhau, trong đó bao gồm phương án chín khẩu pháo 381 mm (15 inch)trên ba tháp pháo,hai phía trước và một phía sau.Trong khi điều này nằm trong khả năng của các xưởng đóng tàu Anh Quốc,thiết kế này nhanh chóng bị bác bỏ vì họ ép buộc phải tôn trọng triệt để Hiệp ước Hải quân London thứ hai được ký năm 1936,và họ đang thiếu hụt trầm trọng các kỹ thuật viên lành nghề và các nhà thiết kế đạn dược,cũng như những áp lực trong việc giảm trọng lượng.Kết quả là, lớp tàu này được dự định thiết kế để trang bị mười hai pháo 355 mm (14 inch) trên ba tháp pháo bốn nòng, và cấu hình này có hỏa lực bắn qua mạn tàu mạnh hơn chín khẩu 381 mm (15 inch).Không may là người ta không thể kết hợp lượng hỏa lực này và một mức độ bảo vệ thích đáng vào một tải trọng 35.000 tấn,cũng như trọng lượng đáng kể của tháp pháo bốn nòng bắn thượng tầng đưa độ ổn định của con tàu đến giới hạn mong manh.Cuối cùng, tháp pháo thứ hai phía trước được chuyển sang kiểu nhỏ hơn với nòng đôi, đổi lấy một vỏ giáp bảo vệ tốt hơn,nhưng hỏa lực bắn qua mạn tàu yếu hơn cấu hình chín khẩu pháo.Quả đạn pháo 355 mm (14 inch) xuyên thép (AP:Armour Piercing)cũng chứa một lượng lớn thuốc nổ lên đến 22 kg (48,5 lb)Hiệp ước Hải quân cuối cùng có một điều khoản,"Điều khoản Leo thang",cho phép thay đổi lên cỡ pháo 16 inch nếu các nước khác không tham gia ký kết vào hạn chót là ngày 1 tháng 1 năm 1937.Mặc dù họ có thể viện dẫn điều khoản này, hậu quả có thể đưa đến chậm trễ trong việc đóng tàu, và đây được xem là khôn ngoan khi chọn chế tạo với cỡ pháo 14 inch hơn là không có chiếc thiết giáp hạm mới nào.Ngược lại người Mỹ đã chọn chấp nhận sự trì hoãn để chế tạo tàu chiến của họ với cỡ pháo lớn hơn.Trong hoạt động, các tháp pháo bốn nòng tỏ ra kém tin cậy hơn là sự kỳ vọng đặt nơi chúng. Sự chế tạo vội vàng trong thời chiến, không có đủ khoảng trống giữa các cơ cấu xoay và cố định của tháp pháo, việc thực tập tác xạ với đủ liều thuốc phóng không đầy đủ, cũng như việc áp dụng rộng rãi các biện pháp an toàn kín lửa cho hầm đạn làm phức tạp cơ cấu vận hành,đưa đến những vấn đề trong hoạt động lâu dài. Việc cải thiện cho có thêm khoảng trống, cài thiện liên kết các cơ cấu, cùng việc huấn luyện tốt hơn[72] đưa đến độ tin cậy cao hơn nơi các tháp pháo bốn nòng, nhưng chúng vẫn tiếp tục là một đề tài gây tranh luận.Trong cuộc đối đầu cùng thiết giáp hạm Đức Bismarck,dàn pháo chính của Prince of Wales vừa mới đưa ra hoạt động đã gặp những sự cố trong vận hành: nó bắt đầu khai hỏa chỉ với ba đạn pháo mỗi loạt thay vì năm, và đã xảy ra sự cố trên mọi tháp pháo ngoại trừ tháp pháo nòng đôi "B".Công suất của dàn pháo chính bị giảm xuống còn 74% trong trận chiến này, khi 74 quả đạn pháo được ra lệnh bắn, chỉ có 55 quả được thực sự bắn đi.Tháp pháo 'A' bị tràn nước gây bất tiện cho các pháo thủ và tháp pháo "Y" bị kẹt ở loạt đạn pháo 20.Số lượng những hỏng hóc được biết đến của dàn pháo chính làm ngăn trở hỏa lực 14 inch, những hư hại phải chịu đựng cùng hoàn cảnh chiến thuật tồi tệ đã buộc Thuyền trưởng Leach phải thoát ra khỏi trận chiến.Với khoảng cách được rút ngắn xuống còn 14.500 yard và với năm trong số các khẩu pháo 14 inch của ông không hoạt động,Leach quyết định rút lui khỏi cuộc đối đầu trước một đối thủ mạnh hơn.Tác giả Roskill trong "War at Sea",tập 1,mô tả quyết định quay mũi rút lui:"Cộng thêm vào việc khẩu pháo bị hư hỏng ở pháp pháo phía trước,còn có bốn khẩu tạm thời mất khả năng hoạt động do trục trặc cơ khí.Trong những hoàn cảnh như thế,Leach quyết định rút lui khỏi trận chiến, và lúc 6 giờ 13 phút đã quay mũi dưới sự che khuất của làn khói."Trong cuộc đối đầu với Bismarck sau đó,King George V cũng mắc phải những vấn đề đối với dàn pháo chính của nó,và cho đến 9 giờ 27 phút mỗi khẩu pháo đã bỏ lỡ ít nhất một loạt đạn do hỏng hóc tại khóa chuyển an toàn bảo vệ chống lửa.Tác giả John Roberts viết về những vấn đề về dàn pháo chính mà HMS King George V mắc phải:"Thoạt tiên nó hoạt động tốt khi đạt được 1,7 loạt đạn mỗi phút trong khi được kiểm soát bằng radar, nhưng nó bắt đầu mắc phải những vấn đề nghiêm trọng từ lúc 9 giờ 20 phút trở đi(nó bắt đầu khai hỏa lúc 8 giờ 50 phút):Tháp pháo 'A' hoàn toàn không hoạt động trong 30 phút sau khi đã bắn được khoảng 23 quả đạn pháo mỗi khẩu do mắc kẹt giữa cơ cấu cố định và cấu trúc quay trong phòng đạn pháo;và tháp pháo Y cũng không hoạt động trong 7 phút do lỗi thực tập...Cả hai khẩu pháo của tháp pháo 'B',pháo số 2 và 4 của tháp pháo 'A' và pháo số 2 của tháp pháo 'Y' bị loại khỏi vòng chiến do kẹt đạn và tiếp tục như vậy cho đến khi ngừng bắn - 5 trong tổng số 10 khẩu pháo!Có vô số các vấn đề khác về trục trặc cơ khí và lỗi thực tập gây trì hoãn hoặc bỏ lỡ các loạt đạn.Cũng có một số quả đạn pháo bị tịt không nổ - khẩu pháo số 3 của tháp pháo 'A' bị tịt hai lần và bị loại khỏi vòng chiến trong 30 phút trước khi được xem là an toàn để có thể mở khóa nòng."Trong phần đầu của cuộc đụng độ với Scharnhorst trong Trận chiến mũi North vào ngày 26 tháng 12 năm 1943,Duke of York bắn được 31 trong số 52 loạt đạn bắn qua mạn tàu;và trong giai đoạn sau của trận chiến nó bắn được 21 trong số 25 loạt bắn qua mạn tàu, một thể hiện rất tốt trong tác xạ.Tổng cộng,Duke of York đã bắn 450 quả đạn pháo trong 77 loạt đạn.Tuy nhiên, HMS Duke of York vẫn bắn được ít hơn 70% so với khả năng của nó trong trận chiến này do những vấn đề về cơ khí và "lỗi trong thực tập".Lớp King George V là những thiết giáp hạm Anh Quốc duy nhất sử dụng cỡ pháo 355 mm(14 inch);những chiếc tiếp nối theo kế hoạch,được giải tỏa khỏi những ràng buộc của hiệp ước,sẽ sử dụng các khẩu pháo 406 mm(16 inch)mới và những tháp pháo ba nòng
Dàn pháo hạng hai đa dụng
Kiểu pháo QF 133 mm (5,25 inch) Mark I đa dụng (DP: dual purpose - dùng cả trong phòng không lẫn chống tàu nổi) cũng là một đối tượng bị tranh cãi.Tài liệu "Hướng dẫn tác xạ bỏ túi" do Hải quân Hoàng gia xuất bản năm 1945 cho rằng:"Tốc độ bắn tối đa sẽ phải là 10-12 quả đạn mỗi phút."Kinh nghiệm trong thời chiến cho thấy trọng lượng tối đa mà cơ số đạn có thể được vận chuyển thoải mái phải nhỏ hơn nhiều so với mức 80-90 lb,và trọng lượng của quả đạn pháo 133 mm (5,25 inch) đã gây những khó khăn nghiêm trọng, chỉ có thể xoay sở để đạt được 7-8 quả đạn pháo mỗi phút so với mức đề xuất 10-12.Bệ pháo chỉ có khả năng nâng tối đa lên đến +70°;tốc độ nâng và xoay chậm của bệ pháo khiến nó không đủ để đối đầu với những máy bay hiện đại tốc độ cao.Cho dù có những yếu điểm như vậy,HMS Prince of Wales cũng ghi được nhiều phát bắn trúng bởi các khẩu đội 133 mm(5,25 inch) trong Chiến dịch Halberd,cùng gây hư hại cho 10 trong tổng số 16 máy bay ném bom tầm cao thuộc hai đội hình trong cuộc chiến cuối cùng của nó, trong đó hai chiếc có thể đã rơi sau đó.HMS Anson được nâng cấp các tháp pháo 133 mm (5,25 inch) của nó lên bộ điều khiển từ xa RP10 giúp làm tăng tốc độ xoay và nâng các khẩu pháo lên 20° mỗi giây.Những con tàu này còn được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực phòng không HACS và một bảng điều khiển hỏa lực Admiralty Mk IX dành cho mục tiêu mặt biển của dàn pháo.
Hỏa lực phòng không
Nhằm mục đích phòng không, lớp King George V được trang bị các khẩu đội 4 và 8 tám nòng QF 2 pounder "pom-pom" và các dàn rocket UP;rồi sau đó được bổ sung các kiểu pháo Oerlikon 20 mm và Bofors 40 mm.Các khẩu đội 2-pounder được vận hành bằng bộ điều khiển Pom-Pom,từ vị trí ngắm độc lập với bản thân các khẩu pháo vốn phát sinh nhiều khói và rung động khi tác xạ.Các bệ pháo sau đó được nâng cấp với các bộ điều khiển từ xa và radar để cải thiện tính năng. Rocket UP hầu như không có hiệu quả và được tháo dỡ trong quá trình chiến tranh.Lúc chiến tranh kết thúc, giàn hỏa lực phòng không có hơn 50 khẩu 20 mm,8 khẩu 40 mm và 88 khẩu 2-pounder trên nhiều bệ pháo đơn và nhiều nòng.Anson mang theo 65 pháo Oerlikons 20 mm,sáu khẩu đội pom-pom 8 nòng và sáu khẩu đội 4 nòng vào lúc cuối chiến tranh.
HMS King George V (41) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm King George V của năm 1939.Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đặt cái tên này để tôn vinh Vua George V của Anh.Nó từng tham gia đánh chìm thiết giáp hạm Đức Bismarck cùng nhiều hoạt động khác tại Châu Âu và Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai trước khi ngừng hoạt động vào năm 1949 và bị tháo dỡ vào năm 1957
Thiết kế và chế tạo
Tiếp nối truyền thống đặt tên chiếc tàu chiến lớn đầu tiên được chế tạo trong một triều đại mới theo tên của triều đại đó,nó được dự định đặt tên là King George VI theo tên Vua George VI.Tuy nhiên, nhà Vua đã chỉ thị cho Bộ Hải quân đặt cái tên nhằm tôn vinh cha của ngài, Vua George V.King George V được chế tạo bởi tại xưởng hải quân Walker của hãng Vickers-Armstrong ở Newcastle upon Tyne,được đặt lườn vào ngày 1 tháng 12 năm 1937,được hạ thủy vào ngày 21 tháng 2 năm 1939 và được đưa ra hoạt động vào ngày 11 tháng 12 năm 1940
Lịch sử hoạt động
King George V bắt đầu vai trò hộ tống cho các đoàn tàu vận tải từ tháng 2 năm 1941. Chiếc tàu chiến mới cũng tham gia vào việc truy đuổi bất thành các tàu chiến Đức Scharnhorst và Gneisenau trong Chiến dịch Berlin do Hải quân Đức tiến hành.Chiếc thiết giáp hạm trở thành soái hạm của Hạm đội Nhà Anh Quốc dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Sir John Tovey sau khi chiếc tàu chiến-tuần dương HMS Hood bị đánh chìm,và đã tham gia vào việc săn đuổi và đánh chìm đối thủ của Hood: thiết giáp hạm Đức Bismarck.Vào sáng sớm ngày 27 tháng 5 năm 1941 tại vùng biển Đại Tây Dương phía Tây nước Pháp,nó đã bắn đến 339 quả đạn pháo 355 mm (14 inch) và 660 quả đạn pháo 133 mm (5,25 inch) nhắm vào Bismarck,làm hư hại cấu trúc thượng tầng và vô hiệu hóa dàn pháo chính của Bismarck.Đến 10 giờ 39 phút sáng hôm đó, chiếc tàu chiến Đức chìm xuống sóng nước Đại Tây Dương.Trong khi hộ tống đoàn tàu vận tải PQ-15 đi đến Murmansk vào ngày 1 tháng 5 năm 1942,King George V đã gặp tai nạn va chạm với tàu khu trục HMS Punjabi,khiến chiếc này bị chìm với tổn thất 49 thành viên thủy thủ đoàn, và làm hư hại mũi của chiếc thiết giáp hạm.Tại Địa Trung Hải,King George V đã tham gia hỗ trợ cho chiến dịch Husky đổ bộ lên Sicily,cũng như đưa Thủ tướng Winston Churchill quay trở về Anh Quốc sau Hội nghị Tehran.Từ năm 1944 cho đến khi Nhật bản đầu hàng,King George V phục vụ cùng Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc,và đã hiện diện trong vịnh Tokyo vào ngày 2 tháng 9 năm 1945,khi buổi lễ ký kết văn kiện đầu hàng chính thức diễn ra trên thiết giáp hạm USS Missouri của Hoa Kỳ.Nó quay trở về vai trò soái hạm của Hạm đội Nhà vào năm 1946.Tuy nhiên,chỉ ba năm sau đó,King George V được cho ngừng hoạt động và đưa về Hạm đội Dự bị và cuối cùng được cho tháo dỡ tại Dalmuir vào năm 1957
HMS Prince of Wales (53)là một thiết giáp hạm thuộc lớp King George V của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc từng hoạt động vào giai đoạn mở màn của Chiến tranh Thế giới thứ hai.Prince of Wales chỉ có một quãng đời phục vụ ngắn ngủi nhưng tích cực,đã đối đầu với thiết giáp hạm Đức Bismarck,và đưa Thủ tướng Churchill tham dự Hội nghị Newfoundland trước khi được bố trí sang Viễn Đông;tuy nhiên, việc nó cùng với tàu chiến-tuần dương Repulse bị đánh chìm bởi máy bay ném bom Nhật Bản đặt căn cứ từ đất liền trong biển Nam Trung Quốc vào ngày 10 tháng 12 năm 1941 là một sự kiện quan trọng đánh dấu chấm hết cho vai trò của thiết giáp hạm như một lớp tàu thống trị trong hải chiến.
Thiết kế và chế tạo
Việc đặt tên
Bộ Hải quân đã đặt hàng việc chế tạo hai chiếc thiết giáp hạm thuộc lớp King George V vào ngày 29 tháng 7 năm 1936 và một trong hai chiếc đó là HMS King George V.Họ đã yêu cầu con tàu còn lại,được chế tạo bởi hãng đóng tàu Cammell Laird and Company,Ltd.tại Birkenhead,được đặt tên là HMS King Edward VIII để tôn vinh triều đại mới của Vua Edward VIII.Tuy nhiên, có thể do cảm nhận về diễn biến tương lai cho những vấn đề triều đại của mình do mối quan hệ với Wallis Simpson,nhà Vua đã lựa chọn cái tên Prince of Wales (Hoàng tử xứ Wales) thay thế, vốn là tước vị cũ của ông.Vì vậy chiếc Prince of Wales mới trở thành tàu chiến thứ bảy của Hải quân Hoàng gia mang cái tên này
Chế tạo
Vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, Prince of Wales đang được trang bị hoàn tất tại Birkenhead. Con tàu bị hư hại vào tháng 8 năm 1940 do sự kiện cuộc tấn công chớp nhoáng Merseyside.Nó chịu đựng một quả bom ném suýt trúng phát nổ cạnh mạn trái con tàu,làm hư hại nặng lớp vỏ ngoài lườn tàu tại khu vực này.Bộ Hải quân xác định sẽ cần đến Prince of Wales trong trường hợp các thiết giáp hạm mới của Đức Bismarck hoặc Tirpitz được đưa ra hoạt động, nên công việc chế tạo nó được đẩy nhanh bằng cách hoãn lại nhiều thử nghiệm,rút ngắn thời gian chạy thử máy của hãng đóng tàu,và hoãn lại các công việc hiệu chỉnh sau chạy thử máy.Nó được đưa ra hoạt động vào ngày 19 tháng 1 năm 1941 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng,Đại tá Hải quân John Leach,nhưng chỉ thực sự "hoàn tất" vào ngày 31 tháng 3
Lịch sử hoạt động
Đối đầu với Bismarck
Không lâu sau khi đi vào hoạt động, Prince of Wales gia nhập cùng tàu chiến-tuần dương HMS Hood trong việc đánh chặn và tấn công Bismarck cùng chiếc tàu tuần dương hạng nặng Prinz Eugen tháp tùng thực hiện một chiến dịch cướp tàu buôn tại Đại Tây Dương. Prince of Wales lên đường với khoảng 100 công nhân dân sự trên tàu tiếp tục thực hiện các công việc trang bị.Vào ngày 24 tháng 5,nó cùng với Hood đã chạm trán với các tàu chiến Đức trong Trận chiến eo biển Đan Mạch.Sau khi Hood bị đánh chìm, với một thủy thủ đoàn chưa có kinh nghiệm và bị bắn trúng bảy quả đạn pháo hạng nặng,cộng thêm với việc công suất của dàn pháo chính bị giảm sút mạnh do hư hại hay hỏng hóc,Prince of Wales rút lui khỏi trận đánh dưới sự che chở của một làn khói.Trong trận chiến ngắn ngủi, nó đã bắn trúng Bismarck ba phát; một quả đạn đánh trúng và làm hỏng máy phóng máy bay,quả thứ hai phá hủy một phòng phát điện, và quả thứ ba trúng ống dẫn nhiên liệu khiến các thùng chứa nhiên liệu trước mũi trở nên vô dụng.Điều này đã buộc Bismarck phải tách khỏi Prinz Eugen hướng đến Pháp để sửa chữa.Prince of Wales gia nhập cùng các tàu tuần dương hạng nặng HMS Suffolk và Norfolk, vốn đã theo dõi nhóm của Bismarck trước trận chiến eo biển Đan Mạch.Một cuộc đấu pháo ngắn với Bismarck nổ ra lúc 1 giờ 31 phút ngày 25 tháng 5.Mười hai giờ sau,Prince Of Wales từ bỏ cuộc săn đuổi do thiếu nhiên liệu, và quay trở về ụ tàu tiến hành sửa chữa các hư hại trong chiến đấu, vốn kéo dài mất sáu tuần
Hiến chương Đại Tây Dương
Vào tháng 8, Prince of Wales đưa Thủ tướng Winston Churchill vượt Đại Tây Dương đến gần Căn cứ Hải quân Argentia thuộc Newfoundland,nơi ông có cuộc họp bí mật với Tổng thống Franklin D. Roosevelt trong nhiều ngày tại một nơi buông neo được bảo vệ,bắt đầu vào ngày 10 tháng 8 năm 1941.Kết quả của cuộc họp này là sự ra đời của Hiến chương Đại Tây Dương vào ngày 12 tháng 8 năm 1941.Sau chuyến đi này, nó được điều đến Địa Trung Hải trong vai trò hộ tống các đoàn tàu vận tải trong Chiến dịch Halberd,nơi nó được ghi nhận đã bắn rơi nhiều máy bay Italy
Bị đánh chìm tại Viễn Đông
Ngày 25 tháng 10 năm 1941,Prince of Wales được cho tách ra gửi đến Singapore trong thành phần của Lực lượng Z,cùng với tàu chiến-tuần dương HMS Repulse và các tàu khu trục HMS Electra và Express.Sau đó nó trở thành soái hạm của Hạm đội Viễn Đông Anh Quốc dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Sir Tom Phillips.Nó đi đến Singapore vào đầu tháng 12.Chiếc tàu sân bay mới HMS Indomitable cũng được dự tính để gia nhập Lực lượng Z,nhưng nó đã bị mắc cạn tại Jamaica trong khi chạy thử máy và đang được sửa chữa.Những con tàu này được gửi đến Singapore để "dọa nạt" Nhật Bản và răn đe họ ý định tấn công Mã Lai và Đông Ấn thuộc Hà Lan.Tuy nhiên, người Nhật không dễ bị ngăn cản,vẫn tiến hành cuộc tấn công đổ bộ vào ngày 8 tháng 12 cùng ngày họ tấn công Trân Châu Cảng phía bên kia Đường đổi ngày quốc tế.Đô đốc Phillips quyết định cố gắng đánh chặn hạm đội đổ bộ,nên Prince of Wales và Repulse lên đường cùng với bốn tàu khu trục HMS Electra, Express, Tenedos và HMAS Vampire để tìm kiếm lực lượng Nhật.Tuy nhiên họ đã không thành công,và bị tàu ngầm Nhật I-65 phát hiện trên đường quay trở về Singapore.Máy bay và tàu ngầm Nhật đã dõi theo hạm đội Anh,và vào ngày 10 tháng 12 năm 1941,không được bất kỳ sự che chở nào trên không,cả Prince of Wales và Repulse đều bị tấn công và đánh chìm bởi 86 máy bay ném bom và máy bay ném ngư lôi thuộc Không đoàn Hải quân 22 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đặt căn cứ tại Sài Gòn.
Là một thiết giáp hạm hiện đại, Prince of Wales được kỳ vọng sẽ thể hiện tốt hơn so với Repulse,một cựu binh của thời Chiến tranh Thế giới thứ nhất.Ở một số góc độ điều này đã không trở thành hiện thực.Ngay trước khi xuất phát, dàn radar dò tìm mặt biển của Prince of Wales đã không hoạt động,lấy đi khỏi Lực lượng Z một trong những thiết bị cảnh báo sớm có khả năng nhất.Rất sớm vào đầu trận đánh,Prince of Wales bị bất động khi một quả ngư lôi đã may mắn đánh trúng vào đúng nơi một trục chân vịt gắn vào lườn tàu,làm ngập nước lan rộng và khiến cho bánh lái không thể điều khiển cũng như mất nguồn điện cung cấp cho dàn pháo hạng hai 133 mm(5,25 inch)đa dụng.Có lẽ nghiêm trọng hơn là việc là việc các máy phát điện không hoạt động làm vô hiệu nhiều máy bơm của chiếc Prince of Wales.Việc mất điện còn khiến nhiều phần của con tàu hoàn toàn bị tối đen tăng thêm phần khó khăn cho các đội kiểm soát hư hỏng của Prince of Wales trong nỗ lực làm ngập đối xứng để cân bằng con tàu.Tổng cộng, nó đã trúng bốn ngư lôi và một quả bom trong trận chiến cuối cùng.Hàng trăm người đã thiệt mạng khi con tàu bị chìm,và Đô đốc Phillips cùng Thuyền trưởng John Leach nằm trong số những người tử trận khi họ có thể đã chọn chết theo con tàu hay đã quyết định rời tàu quá trễ.Tuy nhiên,lườn tàu chắc chắn và sự phân ngăn bên dưới mực nước tốt hơn của Prince of Wales cho phép nó duy trì sự nổi lâu hơn so với đồng đội Repulse đã lớn tuổi,giúp cho một phần lớn thủy thủ đoàn được cứu sống;tương phản rõ rệt với Repulse phải chịu đựng tổn thất nhân mạng nặng nề khi nó bị chìm nhanh chóng.
Chúng là những tàu chiến chủ lực đầu tiên bị đánh chìm thuần túy chỉ bởi sức mạnh không lực ngoài biển khơi(cho dù bởi máy bay đặt căn cứ trên đất liền thay vì từ tàu sân bay),là sự báo hiệu vai trò mờ nhạt dần của những lớp tàu này trong những hoạt động hải chiến sau này.Tuy nhiên, người ta thường chỉ ra yếu tố góp phần vào việc đánh chìm Prince of Wales là hệ thống radar của nó không hoạt động và hư hại nghiêm trọng quá sớm mà nó hứng chịu ngay từ quả ngư lôi đầu tiên.Báo cáo của Giám đốc Chế tạo Hải quân Anh Quốc còn cho rằng dàn pháo phòng không của con tàu "đã phải gây thiệt hại nặng nề cho đối phương trước khi những quả ngư lôi đầu tiên được phóng ra, nếu như không thể ngăn chặn thành công cuộc tấn công,nếu như thủy thủ đoàn được huấn luyện hoạt động thích hợp hơn".Xác tàu đắm của Prince of Wales ở tư thế gần như lật úp tại độ sâu 68 m (223 ft),ở tọa độ 3°33′36″N 104°28′42″E.Phao nổi được đính vào các trục chân vịt, và các lá cờ của Hải quân Hoàng gia được đính vào những dây cáp và được các thợ lặn thường xuyên thay đổi.Hải quân Hoàng gia hiện đang xem xác tàu đắm là di sản của Đế chế theo nội dung của Đạo luật Bảo vệ Di sản Quân sự 1986,ngay trước khi kỷ niệm 60 năm ngày nó bị đánh chìm.Chiếc chuông của Prince of Wales đã được tháo khỏi xác tàu đắm vào năm 2002 bởi các thợ lặn kỹ thuật Gavin Haywood và George McClure được sự ủy nhiệm và đồng ý bởi Bộ Quốc phòng và Hội những người sống sót Lực lượng Z,do những mối lo ngại nó sẽ bị những tay săn cổ vật đánh cắp.Chiếc chuông được phục hồi và hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Hàng hải Merseyside ở Liverpool sau khi được trao tặng bởi Thứ trưởng thứ nhất Hải quân và Trưởng phòng Tác chiến Hải quân,Đô đốc Sir Alan West.
HMS Duke of York (17) là một thiết giáp hạm thuộc lớp King George V của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc,được chế tạo vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp nổ ra,và kịp hoàn tất để tham gia một số hoạt động trong cuộc chiến này,mà đáng kể nhất là việc loại khỏi vòng chiến chiếc tàu chiến-tuần dương Đức Scharnhorst vào tháng 12 năm 1943.Sau khi chiến tranh kết thúc,Duke of York tiếp tục phục vụ cho đến năm 1949 khi nó ngừng hoạt động,và bị tháo dỡ vào năm 1957
Thiết kế và chế tạo
Duke of York là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo Công tước xứ York,sau chiếc đầu tiên là một tàu cutter 4 khẩu pháo sở hữu vào năm 1763 và bán lại vào năm 1766.Con tàu thoạt tiên được đặt tên Anson nhưng được lấy cái tên sau cùng này vào tháng 12 năm 1938.Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng John Brown & Company ở Clydebank thuộc Scotland, vào ngày 5 tháng 5 năm 1937 và được hạ thủy vào ngày 28 tháng 2 năm 1940.Một đặc tính nổi bật của chiếc Duke of York là đặc điểm của sàn điều khiển hỏa lực đặt sau ống khói.Trên chiếc này nó được kéo dài ra sàn đặt xuồng (sau khi được tái trang bị các thiết bị dành cho thủy phi cơ được tháo bỏ).Duke of York cũng được trang bị HACS V*,một hệ thống kiểm soát hỏa lực phòng không,cũng là một đặc tính khác biệt giữa nó so với King George V và Prince of Wales
Lịch sử hoạt động
Duke of York được đưa ra hoạt động quá trễ để có thể tham gia vào việc tiêu diệt thiết giáp hạm Bismarck,hay bất kỳ tàu nổi Đức nào tham gia chiến tranh cướp tàu buôn vào đầu Trận chiến Đại Tây Dương (1939-1945) trong Thế Chiến II.Tuy nhiên, nó cũng góp phần là suy yếu lực lượng của Hải quân Đức.Trong chuyến đi chạy thử máy của nó vào tháng 12 năm 1941, chiếc thiết giáp hạm mới đã đưa Thủ tướng Winston Churchill sang Hoa Kỳ trong một chuyến đi hội đàm với Tổng thống Franklin D. Roosevelt,đi đến Annapolis vào ngày 22 tháng 12 năm 1941.Vào tháng 3 năm 1942,nó hộ tống đoàn tàu vận tải PQ-12 hướng sang Nga với ý định đánh chặn thiết giáp hạm Đức Tirpitz.Vào ngày 6 tháng 3,Tirpitz đã tiến ra khơi,nhưng sự chạm trán đã không xảy ra.Vào cuối tháng 12 năm 1943,Duke of York nằm trong thành phần của Hạm đội Nhà Anh Quốc,hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Anh Quốc và Liên Xô.Các tàu nổi Đức đặt căn cứ tại Na Uy là mối đe dọa thường trực cho cạc đoàn tàu vận tải này,và sự có mặt của hạm đội hiện hữu Đức đã buộc phải duy trì một lực lượng hải quân mạnh trong vùng biển nhà Anh Quốc.Một trong số các tàu chiến đó là chiếc tàu chiến-tuần dương Scharnhorst.Trong chuyến đi của đoàn tàu vận tải JW55B,Scharnhorst rời căn cứ lên đường để đối đầu.Trong trận chiến diễn ra sau đó,Duke of York bắn trúng một phát quyết định vào đúng phòng nồi hơi của Scharnhorst khiến nó không thể rút lui và bị tiêu diệt trong Trận chiến mũi North.Cùng với việc đánh chìm chiếc Scharnhorst,và việc rút lui hầu hết các tàu chiến hạng nặng Đức khỏi Na Uy,nhu cầu phải duy trì một lực lượng tàu chiến hùng hậu tại vùng biển nhà ngày càng mờ nhạt.Sau khi được hiện đại hóa tại Liverpool trong năm 1944,bao gồm việc nâng cao hỏa lực phòng không,Duke of York hướng sang Viễn Đông để gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc,rồi được tập trung để tham gia vào cuộc chiếm đóng Okinawa.Nó là soái hạm của Hạm đội Thái Bình Dương vào lúc Nhật Bản đầu hàng.Sau khi chiến tranh chấm dứt, Duke of York tiếp tục phục vụ cho đến tháng 4 năm 1949.Vào ngày thứ sáu 7 tháng 9 năm 1951,Duke of York được kéo trên đường đi đến xưởng tàu tại Gareloch khi nó va chạm với chiếc MV Royal Iris ngoài khơi Gladstone Dock,Liverpool.Chiếc Royal Iris tạm thời bị mất lái và dòng nước thủy triều đã cuốn nó va vào chiếc thiết giáp hạm.Một số người đã phải vào bệnh viện do hậu quả của tai nạn.Thiết giáp hạm nói chung giờ đây,nếu không phải hoàn toàn bị lạc hậu,cũng nhanh chóng kém hiệu quả so với sự phát triển của máy bay và tên lửa.Việc duy trì chúng cũng hao tốn nhiều nhân lực và tiền bạc,những thứ mà nước Anh sau chiến tranh khó lòng đài thọ.Chiếc tàu chiến được tháo dỡ vào năm 1957 tại Faslane
HMS Anson (79) là một thiết giáp hạm thuộc lớp King George V của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc,được chế tạo vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp nổ ra,và kịp hoàn tất để tham gia một số hoạt động trong cuộc chiến này.
Thiết kế và chế tạo
Anson được đặt tên theo Đô đốc George Anson.Được đặt lườn tại xưởng đóng tàu của hãng Swan Hunter tại Wallsend vào ngày 20 tháng 7 năm 1937 và được hạ thủy vào ngày 24 tháng 2 năm 1940;thoạt tiên con tàu được đặt tên theo Đô đốc John Jellicoe,chỉ huy Hạm đội Grand trong trận Jutland,nhưng sau đó được đổi tên thành Anson vào tháng 2 năm 1940
Lịch sử hoạt động
Anson được đưa ra hoạt động vào ngày 22 tháng 6 năm 1942,giữa lúc cao trào của Chiến tranh Thế giới thứ hai;đảm trách nhiệm vụ hộ tống cho các đoàn tàu vận tải đi đến Liên Xô cũng như là soái hạm của Phó Đô đốc Sir Henry Moore trong Chiến dịch Tungsten.Đến năm 1945,Anson là soái hạm của Hải đội Thiết giáp hạm 1 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương.Sau khi chiến tranh kết thúc, vào năm 1946,Anson di chuyển từ Sydney đến Hobart để đón Công tước và Nữ công tước Gloucester đưa họ đến Sydney.Cùng với ba chiếc khác còn lại trong lớp,Anson được cho ngừng hoạt động vào năm 1951 và được tháo dỡ vào năm 1957 tại hãng Shipbreaking Industries,Ltd.ở Faslane,Scotland
HMS Howe (32) là chiếc thiết giáp hạm cuối cùng của lớp King George V được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp nổ ra,và kịp hoàn tất để tham gia một số hoạt động trong cuộc chiến này.Được đặt lườn vào năm 1937 và đưa ra hoạt động vào năm 1942,Howe đã tham gia lực lượng Hạm đội Nhà Anh Quốc,Lực lượng H tại Địa Trung Hải,và Hạm đội Thái Bình Dương.Sau khi chiến tranh kết thúc,Howe trải qua bốn năm đảm trách vai trò soái hạm cho Hải đội Huấn luyện tại Portland,trước khi được đưa về lực lượng dự bị vào năm 1950.Chiếc thiết giáp hạm bị bán để tháo dỡ vào năm 1958
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Là một thiết giáp hạm thuộc lớp King George V, HMS Howe chịu ảnh hưởng những giới hạn trong thiết kế do giới hạn của những Hiệp ước hải quân quốc tế.Chúng ảnh hưởng đến thời gian thiết kế, trì hoãn cho đến năm 1937,cũng như là trọng tải choán nước và vũ khí trang bị.Hiệp Ước đã quy định trọng lượng rẽ nước tối đa ở mức 35.000 tấn nhằm giới hạn trọng lượng của vỏ giáp và vũ khí có thể trang bị.Phương cách tiếp cận là xây dựng một "pháo đài bọc thép"có thể chống lại hỏa lực đạn pháo 406 mm (16 inch)trong khi việc bảo vệ cấu trúc thượng tầng, bao gồm tháp chỉ huy và tháp pháo, thấp hơn so với những chiếc đương thời với Howe.Việc bảo vệ chống ngư lôi là một phiên bản phát triển từ hệ thống của lớp Nelson,sử dụng Hệ thống Bảo vệ bên (SPS) để phân tán lực nổ của một quả ngư lôi xa khỏi lườn tàu.Việc chiếc Prince of Wales bị đánh chìm đã nảy sinh những nghi vấn về hiệu quả của hệ thống SPS,và thêm lớp vỏ giáp được bổ sung thêm cho Howe.Tuy nhiên, những khảo sát trên xác tàu đắm của Prince of Wales cho thấy hệ thống SPS đã hoạt động như được thiết kế.Cho dù những quy định của Hiệp ước cho phép trang bị một dàn pháo chính 406 mm (16 inch),cỡ pháo 355 mm (14 inch) đã được chọn nhằm thúc đẩy sự chấp nhận của quốc tế như là cỡ pháo tối đa.Khi nỗ lực này thất bại, cỡ pháo 355 mm (14 inch)vẫn được giữ lại do không muốn trì hoãn việc hoàn tất chúng, vào lúc mà bối cảnh và các mối quan hệ ngày càng xấu đi.Tuy nhiên,Howe chưa bao giờ hoạt động đối đầu với tàu chiến đối phương; kinh nghiệm hoạt động của lớp tàu này cho thấy các tháp pháo chính bốn nòng của nó gặp nhiều trục trặc và kém tin cậy.Dàn pháo hạng hai bao gồm kiểu pháo QF 133 mm (5,25 inch) đa dụng, bắn chậm và được bố trí trên những tháp pháo nòng đơn chật chội.Trước khi bố trí hoạt động tại Địa Trung Hải,giàn hỏa lực phòng không của nó được bổ sung bằng các khẩu đội Oerlikon 20mm.Hệ thống động lực được bố trí thành bốn ngăn tách biệt,mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt,nên một cú đánh trúng không may duy nhất không thể khiến nó bất động hoàn toàn.Các cải tiến trong hệ thống động lực cũng cho phép có được công suất mạnh hơn
Chế tạo
Được đặt hàng vào ngày 28 tháng 4 năm 1937,chiếc tàu chiến được đặt lườn tại xưởng đóng tàu của hãng Fairfield Shipbuilding & Engineering Co.Ltd. ở Govan vào ngày 1 tháng 6 năm 1937.Thoạt tiên được đặt tên là HMS Beatty, theo tên của Đô đốc David Beatty,tư lệnh Hải đội Tàu chiến-tuần dương Anh Quốc trong trận Jutland,nó được đổi tên vào ngày 21 tháng 2 năm 1940 thành HMS Howe,đặt theo tên của Đô đốc Richard Howe,chiếc tàu chiến thứ sáu của Hải quân Hoàng gia mang cái tên này.Nó được hạ thủy dưới cái tên này vào ngày 9 tháng 4 năm 1940.Howe được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia vào ngày 29 tháng 8 năm 1942.Chiếc thiết giáp hạm được cộng đồng cư dân của Edinburgh đón nhận sau một chiến dịch quyên góp ngân quỹ Tuần lễ Tàu chiến để chế tạo nó vào tháng 12 năm 1941.Công việc chế tạo bị kéo dài do nhu cầu thực hiện một số cải biến sau khi chiếc thiết giáp hạm chị em Prince of Wales bị đánh chìm vào ngày 10 tháng 12 năm 1941
Lịch sử hoạt động
Hạm đội Nhà
Howe tiến hành các đợt chạy thử máy vào tháng 8 năm 1942, và sẵn sàng để hoạt động cùng với Hạm đội Nhà từ tháng 11.Nhiệm vụ chính của nó là bảo vệ cho các đoàn tàu vận tải tại khu vực Bắc Cực,và đánh chặn mọi tàu chiến chủ lực Đức tìm cách xâm nhập Đại Tây Dương.Vào ngày 31 tháng 12,sau trận chiến biển Barents,Howe nằm trong lực lượng bao gồm nhiều tàu chiến lên đường bảo vệ Đoàn tàu vận tải RA 51 và đánh chặn,nếu có thể được,chiếc thiết giáp hạm bỏ túi Đức Lutzow.Vào cuối tháng 2,Howe tham gia hộ tống cho Đoàn tàu vận tải JW 53 đi đến Liên Xô,và chuyến quay về của Đoàn tàu vận tải RA 53.Vào tháng 5 năm 1943,Howe được Thủ tướng Winston Churchill viếng thăm,và sau đó vài ngày bởi đích thân vua George VI
Địa Trung Hải
Vào đầu tháng 5, Howe được chuẩn bị để điều sang hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh tại Mặt trận Địa Trung Hải.Sau khi được bổ sung nhiều khẩu đội pháo phòng không Oerlikon 20 mm,nó khởi hành từ Rosyth hướng đến Gibraltar vào ngày 21 tháng 5,và đến nơi năm ngày sau đó.Howe được phân về Lực lượng H,và đã hoạt động hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lên Sicily và Italy.Sau khi Lực lượng H được chuyển sang Algiers vào đầu tháng 6,Howe một lần nữa được vua George VI viếng thăm.Trong các cuộc đổ bộ lên Sicily vào tháng 7,Howe được bố trí giữa Sicily và Sardinia đề phòng sự can thiệp của Hạm đội Ý,và vào ngày 12 tháng 7 đã cùng chiếc thiết giáp hạm chị em King George V tham gia cuộc bắn phá phân tán để nghi binh xuống Trapani và các đảo Favignana và Levanzo lân cận.Sau chiến dịch Husky, cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên Sicily, Howe quay trở lại Algiers để bảo trì.Trong khi ở lại đây,vào ngày 4 tháng 8,chiếc tàu chở đạn SS Fort Le Montee bị bốc cháy và nổ tung,gây hư hại nghiêm trọng cho chiếc tàu khu trục HMS Arrow neo đậu bên cạnh với thương vong đáng kể.Một đội cứu hộ của Howe đã được gửi sang giúp đỡ vào việc thu dọn thi thể của những người thiệt mạng.Vào ngày 8 tháng 9, sau khi Ý đầu hàng, Howe và King George V hộ tống một lực lượng hải quân lớn làm nhiệm vụ đổ bộ Sư đoàn Nhảy dù 1 Anh Quốc xuống cảng trọng yếu Taranto vào ngày 9 tháng 9;và đang khi trên đường đi,đã cùng với một hải đội Ý đi đến Malta để đầu hàng.Vào ngày 14 tháng 9,Howe và King George V hộ tống các tàu chiến Ý đầu hàng đi từ Malta đến Alexandria.Vào ngày 1 tháng 10,Howe đi đến Algiers,rồi lại lên đường hướng đến Scapa Flow tiếp tục làm nhiệm vụ cùng Hạm đội Nhà
Viễn Đông
Chuẩn bị cho việc phục vụ tại Viễn Đông,Howe được cho tái trang bị tại xưởng tàu Plymouth từ tháng 10 năm 1943 đến tháng 6 năm 1944,rồi sau đó nó gia nhập Hạm đội Viễn đông Anh Quốc tại Trincomalee vào ngày 3 tháng 8.Nó đã hỗ trợ cho các cuộc không kích của Không lực Hải quân Hoàng gia (FAA)xuống các mục tiêu tại Padang trong chiến dịch Banquet và Sigli trong chiến dịch Light,cũng như cho cuộc không kích của Không lực Lục quân Hoa Kỳ (USAAF)xuống phần Tây Bắc đảo Sumatra trong chiến dịch Boomerang.Vào ngày 22 tháng 11, nó gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc ngay tại căn cứ của nó, và vào ngày 2 tháng 12,trở thành soái hạm của Đô đốc Sir Bruce Fraser.Howe cùng các tàu chiến khác rời Trincomalee vào ngày 4 tháng 12,và đi đến Sydney vào ngày 18 tháng 1 năm 1945.Sau khi ghé thăm Auckland, New Zealand từ ngày 2 đến ngày 10 tháng 2,Howe khởi hành từ Sydney cùng Hạm đội Thái Bình Dương vào ngày 28 tháng 2 hướng đến căn cứ tiền phương của chúng tại Manus thuộc quần đảo Admiralty.Việc bố trí hoạt động tác chiến bị trì hoãn cho đến ngày 15 tháng 3,do phải chờ đợi sự chấp thuận chính thức của Tổng tư lệnh hải quân Hoa Kỳ,Đô đốc Ernest King.Sự phản đối trước đó của King đối với việc bố trí hoạt động của Hạm đội Anh Quốc đã bị Tổng thống Franklin D. Roosevelt bác bỏ.Hạm đội Thái Bình Dương,được đặt tên là Lực lượng Đặc nhiệm 57,trở thành một phần của lực lượng hải quân Đồng Minh với ưu thế vượt trội hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Okinawa,với nhiệm vụ được phân công bắn phá quần đảo Sakishima hạn chế sự đi lại tăng viện của lực lượng Nhật Bản (Chiến dịch Iceberg I)Howe hoạt động tác chiến thường trực trong giai đoạn từ ngày 26 tháng 3 đến ngày 25 tháng 5,ngoại trừ bị ngắt quãng bởi hai tuần lễ ghé về viếng thăm Leyte để sửa chữa và tiếp liệu;hoạt động bảo vệ cho các tàu sân bay khi chúng tung ra các cuộc không kích xuống các sân bay Nhật Bản.Howe và các tàu chiến khác được tạm thời cho tách ra vào ngày 4 tháng 5 để bắn phá Hiara,Miyako-jima;và trong một dịp khác,Howe bị một cú tấn công sượt qua của một máy bay tấn công cảm tử kamikaze,đã nảy xuống mặt nước trước khi phát nổ.Vào ngày 25 tháng 5,Hạm đội Thái Bình Dương lên đường hướng đến Sydney.Howe sau đó được cho tách ra khỏi hạm đội khi chúng đi đến nơi vào ngày 5 tháng 6,tiếp tục đi đến Durban để tái trang bị, do không có phương tiên phù hợp sẵn có tại Australia,và đã đến nơi vào ngày 27 tháng 6.Công việc tái trang bị hoàn tất vào ngày 10 tháng 9,sau khi Thế Chiến II đã kết thúc.Howe được lệnh ghé thăm Cape Town trước khi quay trở ve Anh Quốc
Sau chiến tranh
Sau chiến tranh, thay đổi về tính chất của chiến tranh hải quân cùng chi phí đắt đỏ của thiết giáp hạm khiến vai trò của chúng như một đơn vị thường trực ngày càng mờ nhạt.Howe trở thành soái hạm của Hải đội Huấn luyện tại Portland vào năm 1946,và tiếp tục ở vai trò này cho đến khi được đưa về lực lượng dự bị vào năm 1950,là trụ sở của Hải đội Devonport của Hạm đội Dự bị.Nó được đưa vào danh sách sẽ bị tháo dỡ vào năm 1957,cùng với ba chiếc còn lại của lớp tàu.Howe đi đến xưởng tàu Inverkeithing của hãng T. W. Ward vào ngày 4 tháng 6 năm 1958,dưới sự trợ giúp của chiếc tàu kéo Energy của xưởng tàu Rosyth.Howe bị mắc cạn ở phía Nam của luồng tàu vào ngày 2 tháng 6 và phải đợi cho đến ngày hôm sau trước khi được giải tỏa bởi các tàu kéo Welshman và Englishman,và bị trì hoãn thêm một ngày do sương mù.Công việc tháo dỡ được bắt đầu vào ngày 6 tháng 6,và hoàn tất vào tháng 9 năm 1961.Tổng số tiền bán sắt vụn cùng các vật liệu tái sử dụng được là 719.810 Bảng Anh, trong khi chi phí tháo dỡ nó là 238.456 Bảng Anh
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com