Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

LSHTKT5 - Chủ nghĩa tự do Kinh tế mới


6. Chủ nghĩa tự do mới
- CN tự do Kt là các lí thuyết KT học tư sản coi nền KT TBCN như là 1 hệ thống hoạt động tự động, do các qui luật khách quan tự phát điều tiết. Tư tưởng cơ bản của nó là tự do KD, tự do tham gia vào thị trường.
- Trong lịch sử, CN tự do KT giữ vai trò thống trị trong 1 khoảng thời gian dài: cuối tk 17 đến đầu những năm 30 tk 20. Sau đại khủng hoảng KT 1929-1933, CN tự do KT mất đi địa vị thống trị & thay vào đó là sự thống trị của lí thuyết Keyness. Lí thuyết Keyness thống trị trong những năm 40 đến 60 tk 20. Sang đến đầu những năm 70, những hạn chế của nó ngày càng bộ lộ 1 cáhc rõ ràng. Mà 1 trong những hạn chế đó là Keyness đã quá say sưa với vai trò của nhà nước mà bỏ qua vai trò của tự do KT, của cơ chế thị trường. Vì vậy, những mục tiêu trong chính sách KT của Keyness đã không thực hiện được. Từ đó xuất hiện khuynh hướng phải khôi phục lại CN tự do KT trên cơ sở là có kế thừa những đóng góp của lí thuyết Keyness. Vì vậy, CN tự do KT bây giờ mang màu sắc mới.
+CN tự do cũ: (Trọng nông, Cổ điển Anh (Smith), Tân cổ điển) phản đối nhà nước.
+Lí thuyết Keyness: đề cao vai trò của nhà nước.
+CN tự do mới: chấp nhận sự can thiệp của nhà nước ở 1 mức độ nhất định.


- CN tự do mới là 1 trong những trào lưu tư tưởng hiện đại được hình thành trên cơ sở tổng hợp tất cả các quan điểm cũng như phương pháp luận của trường phái trọng thương, tự do cũ, Keyness. Hình thành nên 1 hệ tư tưởng mới nhằm điều tiết sự vận động của nền KT TBCN. Mà tư tưởng cơ bản của nó là tự do KD, tự do tham gia vào thị trường & có sự can thiệp của nhà nước ở 1 mức độ nhất định. Khẩu hiệu chung đưa ra là “thị trường nhiều hơn & nhà nước ở mức độ ít hơn”.


*Phân biệt CN tự do cũ với CN tự do mới.
-Giống: Tự do KT đều đề cao tư tưởng tự do KD, tự do tham gia vào thị trường. Nền KT vận động hoàn toàn chịu sự chi phối của các qui luật khách quan, của cơ chế thị trường. Vì thế nền KT luôn ở trạng thái cân bằng động.
-Khác:

+ Tự do cũ (Tân cổ điển, KTCT TS cổ điển) - phản đối sự can thiệp của nhà nước vào KT.

+ Tự do mới - có điểm khác biệt là chấp nhận sự can thiệp của nhà nước vào nền KT ở 1 mức độ nhất định. Xét trong mối quan hệ giữa XH & nhà nước thì thị trưởng nhiều hơn, nhà nước ở mức độ ít hơn.


a. CN tự do mới ở CHLB Đức.


1.Quan niệm về nền KT thị trường XH.
- Nền KT thị trường XH sẽ vừa có điểm chung lại vừa có điểm khác biệt so với các nền KT thị trường đã từng tồn tại. Nó không phải là sự kết hợp cơ học giữa yếu tộ thị trường của CNTB với yếu tố XH của CNXH. Mà là nền KT thị trường được thể hiện ở 1 chế độ có mục tiêu, trong đó có sự kết hợp giữa 2 nguyên tắc: tự do & công bằng XH trên thị trường. Nguyên tắc tự do là để nhằm phát huy những động lực, những dánh kiến của cá nhân. Nguyên tắc công bằng XH là để khắc phục những mặt tiêu cực của nền KT thị trường.
- Những tiêu chuẩn của nền KT thị trường tự do XH: Đảm bảo quyền tự do cá nhân. Đảm bảo sự công bằng XH. Có chính sách tăng trưởng Kt để tạo ra khuôn khổ pháp lí & kết cấu hạ tầng cần thiết cho KT thị trường. Có những chính sách KT chống chu kì. Có chính sách cơ cấu thích hợp. Đảm bảo tính tương hợp của thị trường đối với tất cả hành vi của chính sách KT đã nêu.


2.Các yếu tố của nền KT thị trường.
-Cạnh tranh: là yếu tố giữ vị trí trung tâm trong nền KT thị trường XH. Để duy trì cạnh tranh có hiệu quả, cần tôn trọng quyền tự chủ, tự do kinh doanh. Các chức năng của cạnh tranh trong nền KT thị trường XH: Sử dụng các nguồn tài nguyên 1 cách tối ưu. Khuyến khích tiến bộ kĩ thuật. Phân phối thu nhập, thoả mãn nhu cầu NTD. Đảm bảo tính linh hoạt của sự điều chỉnh, kiểm soát sức mạnh KT & sức mạnh chính trị. Đảm bảo quyền tự do lựa chọn & hành động của mỗi cá nhân. Những nguy cơ đe doạ cạnh tranh: từ phía các DN gây ra, cũng có khi từ nhà nước. Chính vì thế phải bảo vệ cạnh tranh, sử dụng 2 biện pháp: mang tính hành chính & hình sự. Cơ quan để thực hiện nhiệm vụ này chính là Ủy ban chống Carten toàn liên bang.
-Xã hội: Cạnh tranh chưa có chức năng đảm bảo công bằng XH. Mà yếu tố XH có 2 chức năng: Nâng cao thu nhập cho tầng lớp dân cư nghèo. Hỗ trợ cho các thành viền của XH có thể vượt qua được những khó khăn về KT và cả những rủi ro về tinh thần trong cuộc sống. Những công cụ để thực hiện: Tăng trưởng KT (nền KT có tăng trưởng mới có những phương tiện vật chất để thực hiện các chức năng của yếu tố XH). Phân phối thu nhập công bằng, thông qua các quĩ phúc lợi, quĩ bảo trợ, quĩ bảo hiểm. Các chích sách XH khác.
-Vai trò của chính phủ :Nền KT thị trường XH vẫn rất cần đến 1 chính phủ mạnh, nhưng chỉ nên can thiệp ở 1 mức độ nhất định & trong những trường hợp cần thiết. Vai trò của chính phủ được xây dựng nhằm phát huy sáng kiến của cá nhân & duy trì cạnh tranh có hiệu quả. Chính phủ sẽ chỉ can thiệp ở những nơi, những lúc cạnh tranh tỏ ra không có hiệu quả. Quan điểm của họ là thị trường ở mọi lúc, mọi nơi. Còn chính phủ ở những nơi, những lúc cần thiết.
+Nguyên tắc hỗ trợ: Chính phủ giữ vai trò hỗ trợ nhằm duy trì cạnh tranh có hiệu quả. Ổn định tiền tệ. Tôn trọng & bảo vệ sở hữu tư nhân. Đảm bảo an ninh & công bằng XH.
+Nguyên tắc tương hợp với thị trường thể hiện thông qua việc ban hành các chính sách: Chính sách sử dụng nhân công. Chính sách tăng trưởng (thể hiện thông qua các khoản hỗ trợ của nhà nước đối với các ngành, vùng có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển KT). Chính sách chu kì (để giảm bớt biên độ dao động trong KD). Chính sách thương mại (nhằm đạt tới sự cân bằng trong cán cân thanh toán). Chính sách đối với các ngành, các vùng KT.


b.Trường phái trọng tiền. M.Friedman. Lí thuyết về chu kì tiền tệ & thu nhập quốc dân.


- Mức cung tiền tệ là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến các biên số của KT vĩ mô như giá cả, sản lượng, việc làm. Ông xuất phát từ công thức MS*V = P*Q của Fisher. MS là mức cung tiền tệ, V là tốc độ chu chuyển của tiền tệ, P*Q là sản lượng quốc gia.
- Friedman cho rằng mức cung tiền tệ không ổn định vì nó phụ thuộc vào các quyết định chủ quan của các cơ quan tiền tệ. Vd hệ thống dự trữ liên bang Mĩ (FED). Mức cung tiển tệ có tác động đến sản lượng thường xảy ra ở 2 trường hợp:
+Sản lượng thực tế chưa đạt đến sản lượng tiềm năng: tăng mức cung tiền tệ sẽ làm sản lượng tăng nhan, giá cả tăng chậm, không có nguy cơ dẫn đến lạm phát.
+Sản lượng thực tế đã vượt mức sản lượng tiềm năng: việc tăng mức cung tiền tệ sẽ ít có tác động đến tăng sản lượng, mà giá cả lại tăng nhanh, có nguy cơ lạm phát.
- Mức cầu về tiền tệ theo Friedman có tính ổn định cao. Vì cầu tiền tệ có liên quan chặt chẽ đến sự vận động của các khoản chi tiêu mà trước tiên là thu nhập, mà thu nhập tương đối ổn định.MD là cầu danh nghĩa về tiền tệ, yn là thu nhập quốc dân danh nghĩa. MD = f (yn) là hàm số của thu nhập quốc dân danh nghĩa.
- Mọi sự mất cân đối giữa mức cung về tiền tệ & mức cầu về tiền tệ chính là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng hoặc lạm phát. MS > MD thì lạm phát. MS < MD thì khủng hoảng. Từ đó ông đưa ra đề nghị thực tiễn về chu kì tiền tệ & thu nhập quốc dân. Theo đề nghị này thì mức cung về tiền tệ nên được chủ động điều tiết thích ứng với từng giai đoạn, chu kì KD. Cị thể: thời kì khủng hoảng nên tăng mức cung về tiền tệ, thời kì phồn thinh nên giảm mức cung về tiền tệ. Song dù tăng hay giảm thì mức cung về tiền tệ cũng chỉ nên được điều chỉnh trong 1tỉ lệ nhất định 3-5% trong 1 năm. Điều chỉnh quá mạnh sẽ gây ra nhiều cú sốc dẫn tới khủng hoảng tài chính tiền tệ.
- Friedman cũng rất quan tâm đến vấn đề ổn định giá cả & chống lạm phát. Theo ông, lạm phát là vấn đề nan giải của nền KT thị trường. Cụ thể, trong nền KT luôn tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến lạm phát. MS = (P*Q) / V. Mà V: ổn định, Q: khó thay đổi nên MS tác động vào P. Do mức cung tiền tệ vốn không ổn định, nên P không ổn định, nguy cơ lạm phát cao. Vì vậy 1 trong những nội dung điều tiết KT của nhà nước phải đưa ra là chông lạm phát (điều này khác với Keyness).
- Lí thuyết tiền tệ của Friedman vẫn thể hiện đặc trưng về phương pháp luận của CN tự do mới. Bởi ông cho rằng nền KT TBCN luôn ở trong trạng thái cân bằng động. Sự can thiệp của nhà nước chỉ nên ở mức độ tối thiểu. Vì theo ông, bản chất của nhà nước là độc đoán & nham hiểm, chỉ nên can thiệp ở 1 mức độ nhất định. Mọi sự can thiệp thái quá sẽ không có lợi cho nền KT.


*So sánh trọng tiền với trọng cầu của Keyness: (Khác nhau cơ bản)
- Đặc điểm phương pháp luận:

+ Friedman - tự do mới >< Keyness - đề cao vai trò của nhà nước.
- Friedman cho rằng mức cung của tiền tệ là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng tới các biến số của KT vĩ mô >< Keyness cho rằng chính sách tài chính ảnh hưởng đến KT vĩ mô.
- Friedman: mức cầu của tiền tệ là nhân tố ngoại sinh của nền KT, vì nó biến thiên theo thu nhập >< Keyness: mức cầu của tiền tệ là nhân tố nội sinh của nền KT, vì nó biến thiên theo lãi suất.
-Nguyên nhân khủng hoảng:

+  Friedman: mức cung của tiền tệ không đáp ứng đủ mức cầu của tiền tệ, dẫn đến khủng hoảng >< Keyness: nguyên nhân trực tiếp lầ do sự giảm sút của cầu có hiệu quả. Sâu xa là thiếu sự can thiệp của nhà nước.
- Friedman: lạm phát là vấn đề nan giải của nền KT thị trường >< Keyness: thất nghiệp mới là vấn đề nan giải của nền KT thị trường.


*Lí thuyết trọng cung của A.Laffer. (đối lập với lí thuyết trọng cầu của Keyness)
- Lí thuyết trọng cũng xuất hiện khoảng đầu những năm 80 ở Mĩ. Sau 1 thời gian dài, tất cả các lí thuyết KT chỉ tập trung vào giải quyết lĩnh vực lưu thông & tương quan cung cầu. Lĩnh vực SX dường như bị lãng quên. Cuối những năm 1970, tốc độ tăng trưởng KT ở Mĩ có xu hướng chậm lại. Mà nguyên nhân là do những động lực KT, những động lực SX bị yếu đi. Lí thuyết trọng cung xuất hiện với mong muốn là tìm kiếm1 con đường, 1 giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng KT & tăng NSLĐ.

 *Nội dung lí thuyết trọng cung:
- Trường phái trọng cung phê phán quan điểm của Keyness trong đề nghị về chính sách thuế & chính sách điều khiển cầu. Theo họ, không phải vấn đề ở chỗ điều chỉnh cầu mà phải tìm ra được các yếu tố kích thích KT. Bởi những yếu tố kích thích KT này sẽ làm tăng chi phí, mà chi phí quyết định cung, tăng chi phí sẽ làm tăng cung. Cung mới sẽ tạo ra cầu mới.
- Họ cũng phê phán quan điểm của Keyness khi coi trọng tiết kiệm như là nguyên nhân làm giảm cầu, dẫn tới làm thu hẹp qui mô SX, giảm việc làm, giảm thu nhập. Theo họ, những khoản tiết kiệm của ngày hôm nay lại chính là thu nhập trong tương lai, cho nên vẫn cần phải khuyến khích tiết kiệm, khuyến khích lao động, khuyến khích đầu tư. Keyness chủ trương tăng thuế, tức là làm giảm đi phần tiết kiệm của dân cư. Điều này sẽ làm cho thu nhập trong tương lai sẽ giảm, không có động lực KT. Vì vậy, phái trọng cung đưa ra đề nghị là giảm thuế, mà công cụ để phân tích là đồ thị đường cong Laffer.
+Khi thuế suất bằng 0%, không có thu nhập từ thuế. Khi thuế suất tăng lên, thu nhập từ thuế sẽ tăng. Nhưng đến 1 chừng mực nhất định nào đó thì tốc độ tăng của thu nhập bị chậm lại, không tương xứng với tốc độ tăng của thuế suất.
+Khi vượt quá giới hạn thuế suất (Vd: 50%) thì tốc độ tăng của thu nhập giảm dần. Nguyên nhân là do các động lực KT giảm. Khi thuế suất là 100%, thu nhập từ thuế bằng 0, ngang với việc không thu thuế.
- Theo họ, 1 chính phủ khôn ngoan thì chỉ nên duy trì thuế suất tại 1 điểm mà ở đó thu nhập cho phép đạt mức cao nhất (tức là đến 50% là cùng). Laffer cũng đưa ra những khả năng: Trong khoảng 0-50% sẽ có lợi ích cho nền KT hơn. Muốn có thu nhập ở A, có thể đặt thuế suất là 30% hoặc 70%. Thì nên chọn ở mức 30% hơn, vẫn đảm bảo thu nhập, các hoạt động KT vẫn hợp pháp.


*So sánh trọng cung với trọng cầu của Keyness.
-Keyness cho rằng để thúc đẩy tăng trưởng & duy trì sự ổn định của KT thì phải có những kích cầu >< Trọng cung cho rằng phải có những yếu tố kích thích KT để làm tăng chi phí, dẫn tới tăng cung (kích cung).
-Keyness cho rằng tiết kiệm là 1 nhân tố có tác động trực tiếp đến nền KT >< Trọng cung lại đề cao hành vi tiết kiệm.
-Keyness chủ trương tăng thuế, tức là làm giảm đi phần tiết kiệm của dân cư >< Trọng cung đưa ra đề nghị là giảm thuế.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: