ly luan 12
CHƯƠNG XX
PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ TRẬT TỰ
PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. KHÁI NIỆM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một khái niệm rộng bao gồm nhiều mặt, vì vậy,
để làm sáng tỏ khái niệm này cần xem xét nó ở các bình diện sau:
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ở đây khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện ở chỗ, nó đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước (và của cả bộ máy nhà nước nói chung) phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật; mọi
cán bộ và nhân viên nhà nước đều phải nghiêm chỉnh và triệt để ton trọng pháp luật
khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; mọi vi phạm pháp luật phải được xử
lý nghiêm minh.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị-
xã hội và các đoàn thể quần chúng. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa các tổ chức chính trị
- xã hội được nhà nước quan tâm tạo điều kiện để các tổ chức đó phát triển. Mỗi tổ
chức và đoàn thể có những phương pháp, hình thức và nguyên tắc hoạt động riêng phù
hợp với đối tượng của tổ chức mình. Nhưng dù được tổ chức dưới hình thức nào và
sử dụng phương pháp gì thì các tổ chức chính trị- xã hội phải tôn trọng nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các tổ chức chính trị- xã hội và đoàn thể quần chúng được hình thành và hoạt
động trên phạm vi lãnh thổ nhà nước, tham gia vào các quan hệ xã hội, trong đó các
mối quan hệ cơ bản mà nhà nước xác lập và bảo vệ. Vì vậy, các tổ chức và đoàn thể
cũng phải nghiêm chỉnh và triệt để thực hiện pháp luật của nhà nước. Đồng thời trong
khi đề ra phương hướng tổ chức và hoạt động của tổ chức mình, các tổ chức chính trị-
xã hội và các đoàn thể quần chúng phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật,
phải bảo đảm cho hoạt động của tổ chức mình nằm trong phạm vi mà pháp luật cho
phép.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc xử sự của mọi công dân. Là nguyên
tắc xử sự của công dân, pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi công dân phải tôn
trọng pháp luật một cách triệt để, phải xử sự theo đúng yêu cầu của pháp luật.
Mọi công dân tôn trọng và tự giác thực hiện nghiêm chỉnh và triệt để pháp luật
hiện hành là điều kiện cơ bản để bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện nguyên tắc
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, là điều kiện để mọi người tự do phát triển.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa, trong mối quan hệ này dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở để củng cố nền
pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời pháp chế xã hội chủ nghĩa là yếu tố cần thiết
không thể thiếu được để củng cố và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra định nghĩa: Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một
chế độ đặc biệt của đời sống chính trị- xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và
mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt
để và chính xác.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa và pháp luật xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Pháp chế và pháp luật là hai khái niệm rất gần nhau, tuy nhiên vẫn là
hai khái niệm riêng biệt, pháp chế không phải là pháp luật mà là một phạm trù thể
hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải tôn trọng và triệt
để thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu
lực của mình, điều chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ xã hội khi dựa trên cơ sở
vững chắc của nền pháp chế. Và ngược lại, pháp chế chỉ được củng cố và tăng cường
khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và kịp thời.
Theo quy luật phát triển của chủ nghĩa xã hội, pháp chế xã hội chủ nghĩa sẽ
ngày càng được củng cố và tăng cường, bởi vì trong chủ ngiã xã hội có những bảo
đảm cần thiết cho sự phát triển của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Những bảo đảm đó là:
1. Những bảo đảm về kinh tế: nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát
triển theo xu hướng thống nhất, năng suất lao động ngày càng cao tạo khả năng nâng
cao mức sống, thoả mãn nhu cầu vật chất của nhân dân lao động.
2. Những bảo đảm về chính trị: sự phát triển của hệ thống chính trị và các
thể chế chính trị, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Nhà nước và Hệ thống
chính trị thống nhất là những bảo đảm cho pháp chế được củng cố và hoàn thiện.
3. Những bảo đảm về tư tưởng: xã hội xã hội chủ nghĩa đề cao công tác giáo
dục, đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa, chú trọng phát triển và nâng cao trình độ
chính trị, trình độ văn hoá và ý thức pháp luật của nhân dân.
4. Những bảo đảm pháp lý: các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xoá bỏ
những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật ngày càng đầy đủ, hoạt động của các
cơ quan bảo vệ pháp luật ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, các quy định của pháp luật
bảo đảm cho nhân dân tham gia vào công tác pháp chế ngày càng đầy đủ và phù hợp.
5. Những bảo đảm về tổ chức: các biện pháp như thanh tra, kiểm tra... ngày
càng phát triển với sự tham gia rộng rãi của quàn chúng.
6. Những bảo đảm về xã hội: cùng với sự phát triển của nhiều hình thức hoạt
động phong phú mang tính chất xã hội của các tổ chức và đoàn thể quần chúng sẽ tạo
ra những bảo đảm về mặt xã hội cho việc củng cố nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
II. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và luật
Hiến pháp và luật (đạo luật) là những văn bản pháp lý do cơ quan cao nhất của
quyền lực nhà nước ban hành, thể hiện một cách tập trung ý chí và lợi ích cơ bản của
nhân dân lao động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và nhà nước. Đó là những văn
bản có giá trị pháp lý cao nhất. Vì vậy, khi xây dựng pháp luật phải dựa trên những cơ
sở những quy định của Hiến pháp và luật. Mọi quy định của các văn bản dưới luật
đều phải phù hợp với Hiến pháp và luật.
Để thực hiện tốt yêu cầu này cần chú ý cả hai mặt: thứ nhất, phải chú trọng
tới việc phải hoàn thiện Hiến pháp và xây dựng các văn bản luật để làm cơ sở cho sự phát triển và hoàn thiện của cả hệ thống pháp luật; thứ hai, phải nhanh chóng cụ thể hoá những quy định của Hiến pháp và luật, triệt để tôn trọng tính tối cao của Hiến
pháp và luật.
2. Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc
Xuất phát từ bản chất và những đặc điểm đặc thù của Nhà nước và pháp luật
xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, pháp chế
xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có tính thống nhất về nhận thức và tổ chức thực hiện
pháp luật trên quy mô toàn quốc. Không chấp nhận những đặc quyền và biệt lệ vô
nguyên tắc nào, không thể đem lợi cíh của địa phương, của ngành đối lập với lợi ích
chung của nhà nước.
Tính thống nhất của pháp chế không loại bỏ việc cân nhắc những điều kiện
của địa phương. Các cơ quan nhà nước ở địa phương bên cạnh việc chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật còn cần phải xem xét những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa
phương để tìm ra những hình thức và phương pháp phù hợp nhằm thực hiện, áp dụng
pháp luật một cách năng động, sáng tạo, có hiệu quả.
3. Các cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật
phải hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả
Pháp luật là cơ sở để củng cố và tăng cường pháp chế, vì vậy, đòi hỏi phải có
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ. Muốn làm được điều đó đòi hỏi các
cơ quan xây dựng pháp luật phải chú ý đến những biện pháp bảo đảm cho công tác
xây dựng pháp luật hoạt động có hiệu quả.
Mặt khác, để đưa pháp luật vào đời sống, cần phải chú ý tới công tác tổ chức
và thực hiện pháp luật. Kết quả của việc tổ chức và thực hiện pháp luật là một trong
những tiêu chuẩn để xác định tính chất của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
một trong những yêu cầu đặt ra là muốn củng cố và tăng cường pháp chế thì phải bảo
đảm cho cho các cơ quan tổ chức và thực hiện pháp luật hoạt động có hiệu quả.
Một trong những yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa là phải có những biện
pháp nhanh chóng và hữu hiệu để xử lý nghiêm minh và kịp thời các hành vi vi phạm
pháp luật, đặc biệt là tội phạm. Cần phải chú trọng các biện pháp để bảo đảm cho
các cơ quan bảo vệ pháp luật có thể hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu
quả. Đồng thời nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, pháp chế còn là nhiệm vụ của toàn xã
hội, vì vậy yêu cầu này cũng đòi hỏi các tổ chức và mọi công dân phải có trách nhiệm
tham gia đấu tranh phòng - chống vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
4. Không tách rời công tác pháp chế với văn hoá và văn hoá pháp lý
Trình độ văn hoá nói chung và trình độ văn hoá pháp lý nói riêng của các chủ
thể pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình củng cố nền pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Trình độ văn hoá của công chúng càng cao thì pháp chế
càng được củng cố
mạnh mẽ. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra là phải chú trọng gắn công tác pháp chế với
việc nâng cao trình độ văn hoá nói chung và văn hoá pháp lý nói riêng của cán bộ, công
chức nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân.
III. TRẬT TỰ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa là một hệ thống các mối quan hệ xã hội
trong đó con người thực hiện các hành vi hợp pháp. Về thực chất, trong mọi xã hội,
trật tự pháp luật là cái đích mà các nhà nước hướng tới. Để có trật tự pháp luật, về
phía cá nhân, đòi hỏi con người phải thể hiện hành vi của mình một cách hợp pháp.
Về phía các tổ chức nhà nước và xã hội, trật tự pháp luật được bảo đảm khi nhà nước
thực hiện đúng thẩm quyền quy định trong pháp luật, đối với các tổ chức xã hội, trong
tổ chức và hoạt động bảo đảm nguyên tắc hợp pháp, phù hợp với lợi ích của các thành
viên và toàn xã hội.
Trật tự pháp luật và pháp chế là hai khái niệm gần gũi với nhau, tuy nhiên nó
vẫn là hai khái niệm khác nhau mặc dù nó đều có các điểm chung: đều mang bản chất
giai cấp và đều đối lập với tình trạng tuỳ tiện, không thực hiện pháp luật. Ngoài điểm
đồng nhất, pháp chế và trật tự pháp luật có những đặc thù riêng của mình, nếu pháp
chế là sự đòi hỏi phải tôn trọng, thực hiện một cách nghiêm ngặt đối với các quy định
của pháp luật của các công dân, các nhà chức trách, các cơ quan nhà nước và các tổ
chức xã hội, còn trật tự pháp luật là một hệ thống các mối quan hệ xã hội trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện các hành vi hợp pháp khi tham gia vào các quan hệ.
IV. VẤN ĐỀ TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Trong giai đoạn hiện nay vấn đề củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đang là vấn đề cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước,
mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Để củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải áp dụng nhiều biện
pháp đồng bộ trong đó có các biện pháp cơ bản như: Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác pháp chế; Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa; Tăng cường công tác tổ chức thực hiện và áp dụng pháp
luật; Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh những hành vi vi
phạm pháp luật.
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế
Đây là biện pháp cơ bản, bao trùm, xuyên suốt trong quá trình củng cố và tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện trước hết ở việc
Đảng đề ra đường lối, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đề
ra chiến lược toàn diện về công tác pháp chế. Trong từng thời kỳ Đảng đề ra những
phương hướng về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, giáo dục nâng cao
ý thức pháp luật của nhân dân, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý để tăng cường cho
các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp chế, tổ chức lãnh đạo phong trào quần chúng
tham gia tích cực, chống vi phạm pháp luật ... đó là sự lãnh đạo toàn diện, có ý nghĩa
quyết định đối với kết quả của công tác pháp chế.
2. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội
chủ nghĩa
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tiền đề của pháp chế xã hội chủ nghĩa, muốn
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật, phải có một
hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ. Để có được một hệ thống pháp
luật như vậy, phải thực hiện nhiều biện pháp như: phải thường xuyên tiến hành hệ
thống hoá pháp luật để phát hiện và loại bỏ những quy định pháp luật trùng lặp, mâu
thuẫn, lạc hậu, bổ sung những thiếu sót trong hệ thống pháp luật; kịp thời thể chế hoá
đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật; có kế hoạch xây dựng pháp luật phù
hợp với mỗi giai đoạn cụ thể, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, kỹ
thuật xây dựng pháp luật để đảm bảo cho hệ thống các văn bản pháp luật được mang
tính khoa học và đạt trình độ kỹ thuật cao, mở rộng các hình thức nhân dân lao động
tham gia vào việc xây dựng pháp luật.
3. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật
Đây là một biện pháp lớn bao gồm nhiều mặt hoạt động nhằm bảo đảm cho
pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, cụ thể là:
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường công tác giải
thích pháp luật để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các quy định pháp luật làm cơ
sở cho việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật đạt kết quả tốt.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhằm nâng
cao trình độ nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật của nhân dân.
- Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ trình độ, phẩm chất
chính trị và khả năng công tác để xắp xếp vào các cơ quan làm công tác pháp luật,
pháp chế.
- Chú trọng công tác tổ chức, kiện toàn các cơ quan làm công tác pháp luật,
pháp chế. Xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động, cải
tiến các phương pháp chỉ đạo và thực hiện, đồng thời tạo điều kiện vật chất cần thiết
bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan đó đạt hiệu quả cao.
- Trong từng thời kỳ cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời để thấy rõ
những thiếu sót, nhược điểm trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật, đề ra những
phương hướng và biện pháp tăng cường hiệu lực công tác đó.
4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh những hành
vi vi phạm pháp luật
Biện pháp này nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật. Biện pháp này đòi hỏi trước hết phải thường
xuyên tổ chức việc kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là hệ thống cơ
quan làm công tác bảo vệ pháp chế để phát hiện những sai sót, lệch lạc, kịp thời uốn
nắn, rút kinh nghiệm bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng theo đúng
nguyên tắc và yêu cầu của pháp luật.
Xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức theo
nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Đối với cơ quan bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có phương
pháp hoạt động thích hợp, có hiệu quả để nhanh chóng phát hiện, làm sáng tỏ các vụ
việc tiêu cực, vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh, chính
xác, đúng quy định của pháp luật.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com