Chương 13
Sau bữa trưa Matthew đến đón tôi - sinh vật khác người duy nhất trong số những độc giả ở khu Selden End. Trong khi bước đi cạnh tôi dưới những xà nhà được sơn vẽ công phu, anh chàng liên tục đưa ra những câu hỏi về công việc của tôi và tôi đang đọc những gì.
Tiết trời Oxford đã kiên quyết chuyển sang một màu xám xịt và lạnh giá, tôi kéo cổ áo cao lên, run lẩy bẩy trong khí trời ẩm ướt. Matthew thì dường như chẳng bận tâm đến thời tiết và không hề mặc áo khoác. Thời tiết u ám làm anh trông bớt đáng sợ hơn, nhưng không đủ để khiến anh hòa hợp hoàn toàn với xung quanh. Mọi người đều ngoái lại và nhìn chằm chằm vào sảnh trung tâm của Bodleian, rồi lắc đầu.
"Anh bị để ý đấy," tôi bảo với anh chàng.
"Tôi quên mất áo khoác rồi. Hơn nữa, họ đang chú ý đến em chứ không phải tôi." Anh chàng tặng tôi một nụ cười chói lóa. Quai hàm một phụ nữ há hốc ra, bà ta thúc vào người bạn của mình, hất đầu về hướng Matthew.
Tôi phá lên cười. "Anh sai rồi nhé."
Chúng tôi hướng về phía về trường Keble và khu khuôn viên đại học, rẽ phải ở Rhodes House trước khi bước vào mê cung những tòa nhà hiện đại dành cho không gian thí nghiệm và máy vi tính. Xây dựng dưới bóng râm của Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, giống như một thánh đường khổng lồ thời Victoria dành cho khoa học, tất cả những công trình này là đài kỷ niệm dành cho kiến trúc ứng dụng đương đại không tưởng.
Matthew chỉ vào đích đến của chúng tôi - một tòa nhà thấp, không mấy nổi bật - và lôi từ túi quần ra một tấm thẻ ID bằng plastic. Anh quét thẻ qua máy đọc ở tay nắm cửa và bấm một loạt mã trên hai chuỗi số khác nhau. Khi cánh cửa đã khóa lại, anh dẫn tôi tới chạm gác, ở đó anh đăng ký cho tôi là một khách mời và đưa tôi một tấm thẻ để cài vào áo len.
"Có quá nhiều hệ thống an ninh cho một phòng thí nghiệm của trường đại học," tôi nhận xét, bực mình với vật đeo trên áo.
Anh ninh càng thắt chặt thêm khi chúng tôi đi xuôi xuống dãy hành lang dài cả dặm mà bằng cách nào đó có thể vừa khít đằng sau mặt tiền hiện đại nhất. Đến cuối một hành lang, Matthew lấy ra khỏi túi một chiếc thẻ khác, quét nó và đặt ngón trỏ lên một tấm kính cạnh cửa. Tấm kính rung lên tiếng kêu và một bàn phím từ xuất hiện trên bề mặt tấm kính. Ngón tay Matthew lướt trên những khóa số. Cánh cửa khẽ kêu đánh cách rồi mở ra, mùi thuốc khử trùng sạch sẽ thoảng nhẹ ra gợi cho người ta nhớ tới các bệnh viện và những căn bếp chuyên dụng trống rỗng. Cái mùi ấy xuất phát từ những dải đá lát tường và sàn không vỡ, thép không gỉ cùng các thiết bị điện.
Một hàng những tấm kính dựng làm tường phòng trải dài phía trước chúng tôi. Một căn phòng có một chiếc bàn tròn để ngồi họp, phần đá nguyên khối đen làm bàn điều khiển, và vài chiếc máy tính. Một căn phòng khác lại bày một chiếc bàn làm việc bằng gỗ đã cũ, một chiếc ghế bành da, và một tấm thảm trải sàn khổng lồ của Ba Tư chắc đáng giá cả một gia tài, điện thoại, máy fax, và còn nhiều máy tính và bàn điều khiển hơn. Phía xa có những hàng rào quay quanh những tủ tài liệu, kính hiển vi, tủ làm lạnh, nồi hấp, lớp lớp những giá để ống nghiệm, máy ly tâm cùng hàng tá những thứ dụng cụ và máy móc không thể nhận ra được.
Toàn bộ khu vực dường như có vẻ nhàn rỗi, mặc dù từ nơi nào đó vẫn vang lên giai điệu yếu ớt của một concerto chơi bằng cello của Bach và thứ gì đó nghe thật kinh khủng như là bản ghi âm thành công mới nhất của những người chiến thắng trong cuộc thi hát do hệ thống truyền hình Châu Âu tổ chức.
Matthew ra dấu về phía căn phòng có tấm thảm trải sàn. "Văn phòng của tôi đây," anh chàng giải thích. Rồi anh hướng tôi đi vào phòng thí nghiệm đầu tiên ở bên trái. Mọi bề mặt trong phòng đều kết hợp để máy tính, kính hiển vi, đồ đựng mẫu vật thí nghiệm được sắp xếp gọn gàng trên giá. Tủ tài liệu đóng dính vào tường. Một trong những ngăn kéo tủ có dán nhãn ghi "<0."
"Chào mừng tới phòng thí nghiệm lịch sử." Ánh sáng màu xanh da trời khiến gương mặt anh trông trắng hơn, và mái tóc thì như đen hơn. "Đây là nơi chúng tôi đang nghiên cứu về sự tiến hóa. Chúng tôi lấy những mẫu thí nghiệm vật lý từ các nghĩa địa cổ xưa, các khu khai quật, các di chỉ hóa thạch, và các sinh vật sống, rồi sao chép DNA từ các mẫu vật đó." Matthew mở một ngăn kéo khác và lấy ra một chồng đầy tài liệu. "Chúng tôi là một trong số hàng trăm phòng thí nghiệm trên khắp thế giới đang sử dụng phương pháp di truyền học để nghiên cứu những vấn đề về nguồn gốc loài và sự tuyệt chủng. Điểm khác biệt giữa phòng thí nghiệm của chúng tôi với các phòng thí nghiệm còn lại là ở chỗ con người không phải giống loài duy nhất chúng tôi đang nghiên cứu."
Những lời anh nói lắng xuống quanh tôi, lạnh lẽo và rõ ràng.
"Anh đang nghiên cứu di truyền học của ma cà rồng ư?"
"Phù thủy và yêu tinh nữa." Matthew lấy chân khều một cái ghế cao có bánh xe và nhẹ nhàng đặt tôi ngồi trên đó.
Một ma cà rồng đi đôi giày hiệu Converse phóng vụt qua góc quanh và vừa cất giọng oang oang ra lệnh tạm nghỉ, vừa rút đôi găng tay cao su ra. Anh ta khoảng ngoài hai mươi, với mái tóc vàng và cặp mắt xanh của dân lướt sóng vùng California. Đứng cạnh Matthew, anh ta trông có vẻ mảnh khảnh, nhưng cơ thể của anh ta thật rắn chắc và sung sức.
"Nhóm AB - nhóm máu hiếm," anh ta thốt lên, nhìn ngắm tôi vẻ ngưỡng mộ. "Chà chà, tìm kiếm xuất sắc thật." Anh ta nhắm mắt và hít vào thật sau. "Lại còn là một phù thủy nữa!"
"Marcus Whitmore, gặp Diana Bishop đi. Cô ấy là giảng viên Lịch sử đến từ Đại học Yale đấy," Matthew cau mày với chàng ma cà rồng trẻ hơn, "và cô ấy ở đây với tư cách là khách mời, không phải là một cái gối cắm kim đâu."
"Ồ." Marcus trông có vẻ thất vọng, rồi lại rạng rỡ. "Cô có phiền không nếu tôi xin một ít máu của cô?"
"Có, đó là vấn đề đấy." Tôi chẳng hề mong ước bị chọc bởi một cái xi lanh ma cà rồng chút nào.
Marcus huýt sáo. "Đó là kiểu phản ứng chiến-đấu-hay-bỏ-chạy của cô đấy, tiến sĩ Bishop ạ. Mùi adrenaline ấy."
"Chuyện gì thế?" một giọng nữ cao quen thuộc gọi với vào. Thân hình bé xíu của Miriam hiện ra chỉ vài giây sau đó.
"Tiến sĩ Bishop hơi bị choáng váng bởi phòng thí nghiệm này, Miriam ạ."
"Xin lỗi. Tôi không nhận ra là cô ấy," Miriam nói. "Cô có mùi khác quá. Đó là adrenaline à?"
Marcus gật đầu. "Đúng rồi. Cô có luôn bị như thế này không? Adrenaline từ đầu đến chân và không có chỗ nào để trốn nữa ấy?"
"Marcus." Matthew phát ra một lời răn đe lạnh thấu xương và rõ rệt đến từng âm tiết.
"Từ hồi tôi lên bảy," tôi nói, đón lấy ánh mắt xanh đến kinh ngạc của anh ta.
Marcus lại huýt sáo. "Thảo nào nó nhiều đến thế. Không ma cà rồng nào có thể làm ngơ trước mùi hương đó." Marcus không phải đang ám chỉ tới đặc trưng cơ thể của tôi, mặc dù anh chàng phác một cử chỉ về phía tôi.
"Anh đang nói về điều gì cơ?" Tôi hỏi, sự tò mò lấn át cả tâm trạng bồn chồn lo lắng.
Matthew gạt tóc ở hai bên thái dương và tặng Marcus một cái trừng mắt giận dữ thậm chí có thể làm cả sữa đông cục lại. Chàng ma cà rồng trẻ tuổi tỏ vẻ chán chường và bẻ khớp ngón tay răng rắc. Tôi nhảy dựng lên trước âm thanh chói tai ấy.
"Ma cà rồng là những dã thú ăn thịt, Diana ạ," Matthew giải thích. "Chúng tôi bị thu hút trước phản ứng chiến-đấu-hay-bỏ-chạy. Khi người hay động vật bắt đầu bị khích động, chúng tôi có thể ngửi thấy mùi đó."
"Chúng tôi còn có thể nếm vị của nó nữa. Adrenaline làm cho máu có vị thơm ngon hơn," Marcus nói. "Kích thích, mềm mượt và rồi chuyển sang vị ngọt. Thật sự là một món ngon tuyệt!"
Một tiếng gầm trầm trầm phát ra từ cổ họng Matthew. Vành môi anh ta cong lên để lộ hai hàm răng, và Marcus bước rụt lại. Miriam đặt bàn tay kiên quyết lên cẳng tay vàng hoe của anh chàng ma cà rồng trẻ tuổi.
"Gì thế? Tôi không đói!" Marcus phản đối, lắc mạnh thoát khỏi bàn tay của Miriam.
"Tiến sĩ Bishop có lẽ không biết rằng ma cà rồng không phải đói theo cách tự nhiên thông thường khi bị kích thích trước chất adrenaline, Marcus." Matthew nỗ lực thấy rõ để kiểm soát bản thân mình. "Ma cà rồng không thường xuyên có nhu cầu ăn, nhưng chúng tôi thường thèm khát trò săn đuổi và phản ứng adrenaline của con mồi trước kẻ đi săn."
Nỗ lực kiểm soát cảm giác lo lắng, tôi đã hiểu ra vì sao Matthew thường mời mình ra ngoài ăn. Không phải mùi hương kim ngân của tôi khiến anh thấy đói - mà chính là hiện tượng thừa adrenaline của tôi.
"Cám ơn anh vì đã giải thích, Matthew." Thậm chí sau buổi tối hôm qua, tôi vẫn còn mù tịt về ma cà rồng. "Tôi sẽ cố gắng để bình tĩnh lại."
"Không cần đâu," Matthew nói gọn lỏn. "Đó không phải việc em bình tĩnh lại. Mà đó là việc của chúng tôi cần luyện tập từng chút về phép lịch sự và khả năng kiểm soát." Anh chàng quắc mắt nhìn Marcus và kéo một trong các tập tài liệu ra.
Miriam ném một cái nhìn lo ngại về phía tôi. "Có lẽ chúng ta nên bắt đầu từ khởi điểm."
"Không. Tôi nghĩ tốt hơn hết là bắt đầu từ chỗ kết thúc," Matthew đáp và mở kẹp tài liệu ra.
"Họ biết về Ashmole 782 chứ?" Tôi hỏi Matthew khi thấy Miriam và Marcus không tỏ dấu hiệu gì là sẽ rời đi. Anh gật đầu. "Và anh đã kể với họ những gì tôi thấy à?" Anh ta lại gật đầu.
"Cô có kể với ai khác nữa không?" Câu hỏi Miriam dành cho tôi phản ánh cả hàng thế kỷ nghi ngờ.
"Nếu cô ám chỉ Peter Knox, thì không. Chỉ có dì tôi và bạn đời của dì, Emily, biết thôi."
"Ba phù thủy và ba ma cà rồng chia sẻ một bí mật," Marcus trầm ngâm nói, liếc nhìn Matthew. "Thật thú vị."
"Hãy hy vọng chúng ta có thể làm tốt việc giữ gìn nó hơn là che giấu như trước đây." Matthew lia tập tài liệu về phía tôi.
Ba cặp mắt ma cà rồng quan sát tôi chăm chú khi tôi mở tập tài liệu ra. MA CÀ RỒNG THẢ RÔNG Ở LONDON, cái tiêu đề đập vào mắt. Dạ dày tôi thót lên, và tôi gạt bài báo qua một bên. Phía dưới nó là một bản báo cáo về một cái chết bí ẩn khác liên quan đến một xác chết cạn kiệt máu. Phía dưới nữa là một câu chuyện trên tạp chí kèm theo một bức ảnh khiến nội dung của nó trở nên rõ ràng bất chấp việc tôi không thể đọc được tiếng Nga. Cổ họng nạn nhân đã bị xé toạc từ quai hàm tới động mạch cảnh.
Còn hàng tá những vụ giết người khác nữa, được tái hiện trong các báo cáo với đủ các thứ ngôn ngữ khác nhau. Một vài tử thi bị chặt đầu. Vài tử thi khác bị cạn sạch máu, chẳng còn một vết máu chứng cứ nào tại hiện trường. Những cái chết khác thì khiến người ta nghĩ đến chuyện nạn nhân bị thú vật tấn công, do sự hung bạo dã man thể hiện trên các vết thương ở cổ và thân mình họ.
"Chúng ta đang chết dần," Matthew nói khi tôi đẩy những tài liệu cuối cùng sang một bên.
"Loài người đang chết dần, đó mới là điều chắc chắn." Giọng tôi cay nghiệt.
"Không chỉ loài người," anh nói. "Căn cứ theo những bằng chứng này, ma cà rồng đang có những dấu hiệu của sự sa đọa và suy vong."
"Đây là điều anh muốn cho tôi xem ư?" Giọng tôi run lên. "Những thứ này thì có gì liên quan đến nguồn gốc của các sinh vật khác người hay Ashmole 782 chứ?" Những cảnh báo mới đây của Gillian đã khuấy lên những ký ức đau thương trong tôi, và những bức hình này chỉ càng khoét sâu hơn vào nỗi đau đó mà thôi.
"Hãy nghe tôi nói," Matthew nói khẽ. "Làm ơn."
Chàng ma cà rồng có lẽ không để ý, và cũng không có ý làm tôi sợ hãi. Anh ta chắc hẳn phải có một lý do hợp lý để chia sẻ chuyện này. Ôm lấy cái cặp đựng tài liệu, tôi ngồi xuống chiếc ghế cao của mình.
"Những cái chết này," anh bắt đầu, từ từ kéo lại cái cặp tài liệu ở chỗ tôi, "là kết quả của những nỗ lực vụng về để biến đổi con người thành ma cà rồng. Điều từng là bản tính tự nhiên thứ hai của chúng tôi đã bắt đầu trở nên khó khăn hơn. Máu của chúng tôi ngày càng mất đi khả năng tạo ra sự sống mới sau cái chết."
Thất bại trong việc tái sinh sản sẽ khiến bất cứ giống loài nào bước đến bờ tuyệt chủng. Tuy nhiên, căn cứ vào những bức hình mà tôi đã thấy, thế giới này không cần thêm ma cà rồng nữa.
"Nó dễ dàng hơn dối với những ma cà rồng đã già - những ma cà rồng như tôi chẳng hạn - chủ yếu sống nhờ vào máu của con người khi còn trẻ," Matthew tiếp tục. "Là một ma cà rồng có tuổi, chúng tôi ít cảm thấy bắt buộc phải tạo ra những ma cà rồng mới. Nhưng với các ma cà rồng trẻ thì đó lại là một câu chuyện khác. Họ muốn bắt đầu cuộc sống gia đình để xua đi nỗi cô độc trong cuộc đời mới. Khi họ tìm thấy một con người mà họ muốn kết đôi cùng, hoặc cố gắng sinh con, thì một số sẽ phát hiện ra dòng máu của mình không đủ mạnh để làm điều đó."
"Anh đã nói rằng tất cả chúng ta sắp tuyệt chủng," giọng tôi đều đều, cơn giận của tôi vẫn còn sôi sục.
"Phù thủy hiện đại không mạnh bằng tổ tiên họ trong quá khứ." Giọng Miriam cất lên thản nhiên. "Và các cô không sinh nhiều con cái như xưa kia."
"Điều đó nghe chẳng giống bằng chứng gì cả - nó giống một đánh giá mang tính chủ quan hơn," tôi nói.
"Cô muốn xem bằng chứng ư?" Miriam nhặt lên hai cặp tài liệu nữa và lia chúng qua mặt bàn bóng loáng vào tay tôi. "Nó đấy - dù tôi không tin là cô sẽ hiểu nó cho lắm."
Một cặp được dán nhãn màu tía với dòng chữ "Benvenguda" được đánh máy gọn gàng. Tập kia dán nhãn màu đỏ, mang tên "Good, Beatrice." Hai cặp tài liệu đều chẳng chứa gì khác ngoài các đồ thị. Các đồ thị ở những trang đầu có hình vòng cung và màu sắc rực rỡ. Bên dưới là các đồ thị biểu hiện các đường ngang màu đen và xám diễu hành qua trang giấy trắng.
"Thế là không công bằng," Marcus phản đối. "Không nhà sử học nào có thể đọc mấy tài liệu đó cả."
"Đây là chuỗi DNA," tôi nói, chỉ tay vào những hình ảnh đen trắng. "Nhưng mấy cái đồ thị được tô màu này là gì?"
Matthew tỳ hai khuỷu tay lên mặt bàn bên cạnh tôi. "Chúng đều là kết quả kiểm tra di truyền học," anh nói, kéo trang giấy có các đồ thị vòng cung lại gần hơn. "Những cái này nói cho chúng tôi biết về các ti thể trong DNA của một phụ nữ tên là Benvenguda, cô ấy được thừa hưởng nó từ mẹ mình, và bà ngoại của mình, và mỗi tổ tiên phái nữ trước đó của cô ấy. Chúng kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về dòng dõi đằng mẹ cô ấy."
"Thế còn gen di truyền kế thừa của bố cô ấy thì sao?"
Matthew cầm lên kết quả DNA màu trắng và đen. "Người bố loài người của Benvenguda ở đây, trong hạt nhân DNA của cô ấy - bộ gen của cô ấy - cùng với mẹ Benvenguda, một phù thủy." Anh quay trở lại những cái móc vòng cung đa màu sắc. "Nhưng ti thể DNA, ở bên ngoài nhân tế bào, chỉ ghi lại các dữ liệu tổ tiên phía đằng mẹ cô ấy."
"Tại sao các anh lại nghiên cứu cả bộ gen lẫn ti thể DNA của cô ấy?" Tôi đã nghe nói đến bộ gen, còn ti thể DNA lại là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ đối với tôi.
"Hạt nhân DNA của cô nói cho chúng tôi biết về cô với tư cách là một cá thể đặc hữu - làm thế nào mà bộ gen kế thừa từ mẹ và bố cô tái tổ hợp để tạo ra cô. Nó là sự pha trộn gen của bố và gen của mẹ để cho cô đôi mắt màu xanh, mái tóc vàng và những nốt tan nhang. Còn ti thể DNA có thể giúp chúng ta hiểu được lịch sử của cả một giống loài."
"Điều đó có nghĩa nguồn gốc và sự tiến hóa của các loài được ghi lại trong mỗi chúng ta," tôi thong thả nói. "Nó có trong máu và trong mỗi tế bào cơ thể chúng ta."
Matthew gật đầu. "Nhưng mỗi lịch sử khởi nguyên lại kể một câu chuyện khác - không phải là sự khởi đầu mà là điểm kết thúc."
"Chúng ta quay lại với Darwin," tôi nói, cau mày. "Vậy là Nguồn gốc các loài không hoàn toàn nói về điểm xuất phát của các giống loài khác nhau. Nó cũng nói về quá trình chọn lọc tự nhiên và sự tuyệt chủng của các loài nữa."
"Một số người sẽ cho rằng Nguồn gốc các loài hầu hết là nói về sự tuyệt chủng," Marcus tán đồng, thoắt một cái đã di chuyển sang đầu kia của cái bàn dài thí nghiệm.
Tôi nhìn vào những đường cong rực rỡ của Benvenguda. "Cô ấy là ai thế?"
"Một phù thủy rất quyền năng," Miriam nói, "sống ở Brittany vào thế kỷ mười bảy. Suốt cuộc đời mình, cô ấy đã tạo nên thật nhiều điều phi thường. Beatrice Good là một trong những hậu duệ trực hệ cuối cùng của cô ấy."
"Gia đình của Beatrice Good đến từ Salem ư?" Tôi thì thầm, chạm tay vào cặp tài liệu của Beatrice. Có những người nhà Good ở đó sống bên cạnh những người nhà Bishop và nhà Proctor.
"Dòng dõi của Beatrice gồm có Sarah và Dorothy Good ở Salem," Matthew nói, xác nhận linh cảm của tôi. Anh mở cặp tài liệu về Beatrice và đặt kết quả kiểm tra ti thể của cô ấy bên cạnh kết quả của Benvenguda.
"Nhưng chúng khác nhau mà?" tôi nói, nhận thấy điều đó trên màu sắc và cách chúng được sắp xếp.
"Không quá khác biệt đâu," Matthew chỉnh lại lời tôi. "Hạt nhân DNA của Beatrice có một vài điểm chung với các phù thủy. Điều này chỉ ra rằng tổ tiên của cô ấy, qua nhiều thế kỷ, ngày càng ít dựa vào phép phù thủy trong khi họ đấu tranh để sinh tồn. Sự biến đổi đó bắt đầu dẫn đến những đột biến tất yếu và bắt buộc trong DNA của cô ấy - đột biến đẩy phép thuật sang một bên." Thông điệp của anh nghe khoa học một cách hoàn hảo, nhưng nó có ý nghĩa ám chỉ đối với tôi.
"Tổ tiên của Beatrice đã gạt bỏ phép thuật của họ, và điều đó cuối cùng đã hủy diệt cả gia đình ư?"
"Đó không hoàn toàn là lỗi của phù thủy. Tự nhiên cũng có lỗi." Ánh mắt Matthew đượm buồn. "Dường như phù thủy giống như ma cà rồng, cũng cảm thấy áp lực của việc sinh tồn trong một thế giới mà con người ngày càng tăng thêm. Yêu tinh cũng vậy. Họ phô bày ít tài năng hơn - là điều từng phân biệt họ với dân số loài người - và nhiều sự điên cuồng hơn."
"Con người không phải cũng đang tuyệt chủng ư?" tôi hỏi.
"Có và không," Matthew nói. "Chúng tôi nghĩ rằng loài người - cho tới nay - đã chứng minh khả năng thích nghi tốt hơn. Hệ thống miễn dịch của họ phản ứng nhanh hơn, và họ có sự tranh đấu mạnh mẽ để sản sinh ra thế hệ sau hơn là ma cà rồng và phù thủy. Đã có thời thế giới này được phân chia cân bằng giữa người và các sinh vật khác người. Nhưng giờ con người đang chiếm phần đa số và các sinh vật khác chỉ chiếm có một phần mười dân số thế giới."
"Thế giới này từng là một nơi hoàn toàn khác khi mà các sinh vật chúng ta và loài người chiếm số lượng bằng nhau." Miriam cất giọng tiếc nuối khi cỗ máy di truyền không còn nghiêng phần ưu ái về phía chúng tôi nữa. "Nhưng hệ miễn dịch nhạy cảm của con người sẽ đưa họ tới chỗ tận diệt."
"Chúng ta khác loài người ở chỗ nào?"
"Khá nhiều đấy, ít nhất là trên cấp độ di truyền học. Chúng ta có bề ngoài giống nhau, nhưng dưới bề mặt đó hình thái nhiễm sắc thể của chúng ta khác biệt. "Matthew phác họa một biểu đồ ở phía ngoài cặp tài liệu của Beatrice Good. "Con người có hai mươi ba cặp nhiễm sắc thể trong mỗi nhân tế bào, mỗi cái sắp xếp thành một chuỗi mã dài. Ma cà rồng và phù thủy thì có hai mươi bốn cặp nhiễm sắc thể."
"Nhiều hơn con người, nho pinot noir[15], hay lợn." Marcus nháy mắt.
[15. Tên một loại nho làm rượu vang đỏ.]
"Thế còn yêu tinh thì sao?"
"Họ có cùng số cặp nhiễm sắc thể như con người - nhưng họ còn có một nhiễm sắc thể thừa ra nữa. Theo những gì chúng tôi có thể nói thì chính nhiễm sắc thể thừa đó khiến họ trở thành yêu tinh," Matthew đáp, "và có thiên hướng không ổn định."
Trong khi tôi đang nghiên cứu bức phức họa bằng chì của anh, thì một lọn tóc rơi xuống mắt tôi. Tôi gạt nó ra vẻ nóng nảy. "Có cái gì trong nhiễm sắc thể thừa đó?" Thật khó cho tôi bây giờ phải bắt kịp Matthew trong việc lĩnh hội các kiến thức của chuyên ngành sinh vật học bậc đại học.
"Chất liệu gen là điểm phân biệt chúng ta với loài người," Matthew nói, "đồng thời chất liệu cũng điều chỉnh chức năng tế bào hay là cái mà các nhà khoa học gọi là 'DNA thừa'."
"Mặc dù nó không phải là đồ thừa," Marcus nói. "Tất cả chất liệu gen đó phải được để dành về sau từ quá trình tiền chọn lọc, hoặc nó đang đợi để được sử dụng trong sự biến đổi tiến hóa kế tiếp. Chúng tôi chỉ không biết mục đích của nó là gì thôi - cho đến nay."
"Đợi một phút," tôi xen ngang. "Phù thủy và yêu tinh được sinh ra. Tôi sinh ra với một cặp nhiễm sắc thể thừa, và bạn của anh - Hamish - sinh ra đã có một nhiễm sắc thể thừa. Nhưng ma cà rồng không được sinh ra - anh được tạo ra, từ DNA của loài người. Anh kiếm đâu ra một cặp nhiễm sắc thể nữa thế?"
"Khi một con người được tái sinh thành ma cà rồng, đầu tiên kẻ sáng tạo sẽ phải lấy đi tất cả máu của con người, nó vốn là nguyên nhân sự yếu kém của các cơ quan trong cơ thể. Trước khi cái chết xảy đến, kẻ sáng tạo sẽ cho người đó máu của anh ta hoặc cô ta để tái sinh," Matthew trả lời. "Dòng máu ma cà rồng tràn vào dẫn đến một sự đột biến gen tự nhiên trong mỗi tế bào cơ thể người ấy."
Matthew đã dùng cụm từ "tái sinh" vào tối hôm qua, nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói đến "kẻ sáng tạo" trong mối liên quan với ma cà rồng trước đây.
"Máu của kẻ sáng tạo tràn vào hệ thống cơ thể kẻ tái sinh, mang đến những thông tin di truyền mới," Miriam nói. "Cũng giống như việc truyền máu của con người ấy. Nhưng máu ma cà rồng dẫn đến hàng trăm sự thay đổi trong DNA."
"Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm bằng chứng về sự biến đổi bùng nổ như thế trong bộ gen," Matthew giải thich. "Chúng tôi đã tìm ra nó - những đột biến chứng mình rằng tất cả các ma cà rồng mới đều phải trải qua quá trình thích nghi tự nhiên để sống sót khi hấp thụ máu của kẻ sáng tạo. Đó chính là cái thúc đẩy cho sự phát triển của một cặp nhiễm sắc thể thừa."
"Một vụ nổ big bang trong di truyền học. Các anh giống như một dải ngân hà sinh ra từ một ngôi sao đã chết. Trong một khoảnh khắc, hệ gen của anh biến anh thành một thứ gì đó khác - thứ gì đó không phải con người." Tôi nhìn vào Matthew vẻ băn khoăn.
"Em ổn chứ?" anh hỏi. "Chúng ta có thể nghỉ một chút."
"Tôi có thể uống một chút nước không?"
"Tôi sẽ đi lấy." Marcus đứng bật dậy khỏi chiếc ghế cao đang ngồi. "Có một ít nước trong tủ lạnh đựng mẫu vật."
"Con người cung cấp manh mối đầu tiên chứng tỏ rằng hiện tượng hủy hoại tế bào cấp tính do vi khuẩn và các hình thái khác của sự phá hủy mang tính di truyền có thể châm ngòi nhanh chóng quá trình đột biến, hơn là sự biến đổi từ từ của chọn lọc tự nhiên." Miriam lôi ra một cặp tài liệu từ trong ngăn kéo. Mở nó ra, cô ta chỉ vào khu vực đồ thị màu đen trắng. "Người đàn ông này chết năm 1375. Ông ta đã sống sót qua khỏi bệnh đậu mùa, nhưng căn bệnh đã dẫn đến một sự đột biến trong nhiễm sắc thể thứ ba khi cơ thể ông ta nhanh chóng đối phó với vi khuẩn lan tràn vào."
Marcus quay lại cùng với nước uống của tôi. Tôi mở nắp và uống một cách thèm khát.
"DNA của ma cà rồng cũng đầy những đột biến tương tự thế do sự đề kháng với căn bệnh. Những thay đổi đó có thể từ từ dẫn đến sự tuyệt chủng của chúng tôi." Matthew trông lo lắng. "Giờ đây chúng tôi đang cố gắng tập trung vào cái có trong máu ma cà rồng có thể châm ngòi cho sự phát sinh của những nhiễm sắc thể mới. Câu trả lời có thể nằm trong các ti thể."
Miriam lắc đầu. "Không đời nào. Câu trả lời nằm trong hạt nhân DNA. Khi một cơ thể bị máu ma cà rồng tấn công, nó sẽ bùng nổ một phản ứng khiến cơ thể có khả năng nắm bắt và đồng hóa những thay đổi đó."
"Có lẽ, nhưng nếu vậy, chúng ta cũng cần quan sát tỉ mỉ hơn nữa DNA thừa. Mọi thứ đều có thể làm phát sinh những nhiễm sắc thể mới," Marcus khăng khăng.
Trong khi ba bọn họ tranh luận, tôi bèn xắn ống tay áo lên. Khi khuỷu tay và các mạch máu trên cánh tay tôi phơi bày trong bầu không khí mát lạnh của phòng thí nghiệm, thì bọn họ đều hướng sự chú ý vào làn da của tôi, những cái nhìn lạnh lẽo.
"Diana," Matthew lạnh lùng nói, chạm tay vào thánh tích Lazarus của mình, "em đang làm gì thế?"
"Anh vẫn còn găng tay cao su chứ, Marcus?" Tôi hỏi, tiếp tục dịch ống tay áo lên cao.
Marcus nhe răng cười. "Có." Anh ta đứng dậy và lấy một đôi găng tay cao su ra khỏi chiếc hộp gần đó.
"Em không phải làm vậy đâu." Giọng Matthew tắc trong cổ họng.
"Tôi biết điều đó. Tôi muốn vậy mà." Các mạch máu của tôi thậm chí trông còn xanh hơn dưới ánh đèn phòng thí nghiệm.
"Ven tốt lắm," Miriam vừa nói vừa gật đầu tán thành, hành động đó gợi lên một tiếng gầm gừ cảnh cáo từ anh chàng ma cà rồng cao lớn đứng cạnh tôi.
"Nếu điều này sẽ gây rắc rối cho anh, Matthew ạ, hãy đợi bên ngoài đi," tôi điềm tĩnh nói.
"Trước khi em làm thế, tôi muốn em hãy suy nghĩ đã," Matthew nói, cúi xuống bên tôi vẻ che chở như anh đã làm khi Peter Knox tiếp cận tôi ở thư viện Bodleian. "Chúng ta không thể biết trước các kiểm tra sẽ tiết lộ điều gì. Nó là cả cuộc đời em, và lịch sử gia đình em, tất cả để trải ra trong màu đen và trắng. Em có hoàn toàn chắc chắn là mình muốn nó bị đưa ra nghiên cứu kỹ càng không?"
"Anh có ý gì, toàn bộ cuộc đời tôi ư?" Vẻ căng thẳng trong cái nhìn chăm chăm của Matthew khiến tôi cảm thấy lúng túng.
"Những kiểm tra này sẽ cho chúng ta biết rất nhiều điều hơn cả về màu mắt và màu tóc của em. Chúng sẽ cho biết những nét đặc trưng khác mà bố mẹ em truyền lại cho em. Đấy là chưa nói đến những đặc trưng của tất cả các nữ tổ tiên của em nữa." Chúng tôi trao đổi một cái nhìn thật dài.
"Đó là lý do tôi muốn anh lấy mẫu máu," tôi kiên nhẫn nói. Vẻ bối rối lướt qua nét mặt Matthew. "Tôi đã băn khoăn thắc mắc cả đời mình về những gì mà dòng máu Bishop đang làm khi nó chạy khắp huyết quản tôi. Mọi người biết về gia đình tôi đều thắc mắc. Giờ đây chúng ta sẽ biết."
Điều đó dường như vô cùng đơn giản đối với tôi. Máu của tôi có thể cho Matthew biết điều mà tôi không muốn mạo hiểm khám phá bừa bãi. Tôi không muốn đốt cháy đồ gỗ trong nhà, hay bay xuyên qua cây cối, hay chỉ nghĩ một ý nghĩ xấu về ai đó mà khiến người ta đổ bệnh gần chết vào hai ngày sau. Matthew có thể nghĩ việc lấy máu là mạo hiểm. Đối với tôi, nó dường như an toàn giống ở nhà vậy, tất cả mọi thứ đã được cân nhắc.
"Hơn nữa, anh đã bảo tôi là phù thủy đang tuyệt diệt dần. Tôi là người cuối cùng của nhà Bishop. Có thể máu của tôi sẽ giúp anh tìm ra lý do tại sao."
Chúng tôi nhìn nhau chăm chú, ma cà rồng và phù thủy, trong khi Miriam và Marcus kiên nhẫn chờ đợi. Cuối cùng Matthew thốt lên một tiếng kêu cáu giận. "Mang cho tôi một bộ dụng cụ lấy máu," anh bảo Marcus.
"Tôi có thể làm việc này," Marcus nói vẻ đề phòng, nhanh nhẹn đeo vào đôi găng tay cao su. Miriam cố gắng giữ anh ta lại, nhưng Marcus vẫn tiếp tục bước tới chỗ tôi với cái hộp đựng lọ thủy tinh và kim nhọn.
"Marcus," Miriam cảnh cáo.
Matthew giật lấy bộ dụng cụ từ Marcus và chặn đứng anh chàng ma cà rồng trẻ tuổi lại bằng một cái nhìn chết chóc, kinh người. "Rất tiếc, Marcus. Nhưng nếu có ai sẽ lấy máu Diana, thì kẻ đó phải là ta!"
Giữ lấy cổ tay tôi trong những ngón tay lạnh giá, Matthew gập cánh tay tôi lên xuống vài lần trước khi duỗi thẳng nó ra và đặt nó nhẹ nhàng lên bề mặt bàn sạch bong. Có thứ gì đó gai gai không thể phủ nhận khi một ma cà rồng chích kim vào mạch máu của bạn. Matthew buộc một mẩu dây cao su phía trên khủy tay tôi.
"Nắm tay lại," anh khẽ nói, kéo căng đôi găng tay và chuẩn bị xi lanh cùng cái lọ thủy tinh đựng mẫu đầu tiên.
Tôi làm theo lời anh bảo, xiết bàn tay và quan sát các mạch máu nổi lên. Matthew chẳng buồn bận tâm đưa ra cái thông báo thường thấy là tôi sẽ cảm thấy một cái nhói đau hoặc như bị ong chích. Anh chỉ cúi xuống và chẳng nghi lễ rườm rà gì, anh xiên ống kim tiêm sắc nhọn vào cánh tay tôi.
"Làm tốt lắm." Tôi nới lỏng nắm tay để máu chảy ra tự do.
Khuôn miệng rộng của Matthew mím chặt trong lúc anh đổi sang lọ thủy tinh. Khi đã làm xong, anh rút đầu kim và ném nó vào cái thùng chứa rác thải sinh học được bịt kín. Marcus thu thập các lọ thủy tinh và đưa chúng cho Miriam dán lên những mẫu nhãn có viết chữ bé tí xíu nhưng rõ ràng. Matthew đặt một miếng gạc vuông lên vết chích rồi giữ nó ở đó bằng mấy ngón tay lạnh lẽo và mạnh mẽ. Tay kia anh cầm lên một cuộn băng dính và cố định nó chắc chắn ngang qua miếng gạc.
"Ngày sinh?" Miriam quả quyết hỏi, cây bút mực ở tư thế sẵn sàng phía trên cái ống nghiệm.
"Mười ba tháng Tám năm 1976."
Miriam nhìn chằm chằm. "Mười ba tháng Tám á?"
"Phải. Sao cơ?"
"Chỉ để chắc chắn thôi," cô ta lẩm bẩm.
"Hầu hết các trường hợp, chúng tôi muốn lấy cả một miếng gạc má nữa." Matthew mở một cái túi và lấy ra hai mẩu nhựa màu trắng. Chúng giống như những mái chèo thu nhỏ, phía cuối rộng ra hơi thô nháp.
Không nói một lời, tôi mở miệng và để Matthew xoay nhanh một miếng gạc đầu tiên, rồi đến miếng kia, vào phía trong má mình. Mỗi miếng gạc được cho vào một tuýp nhựa bịt kín khác nhau. "Xong rồi."
Nhìn quanh phòng thí nghiệm, hình ảnh thanh bình yên tĩnh của không gian toàn thép không gỉ và đèn màu xanh làm tôi nhớ đến các nhà giả kim của mình, lao động nặng nhọc bên những lò than hồng trong ánh sáng lờ mờ với những dụng cụ ngẫu tác và những chiếc nồi nấu kim loại bằng đất sét đã vỡ. Họ sẽ đổi gì để có cơ hội được làm việc ở một nơi như thế này - với những dụng cụ có thể giúp họ hiểu được sự huyền bí của đấng sáng tạo toàn năng?
"Các anh đang tìm kiếm ma cà rồng đầu tiên ư?" Tôi hỏi, ra hiệu về phía mấy ngăn kéo tài liệu.
"Đôi khi," Matthew chậm rãi đáp. "Còn lại chúng tôi đang theo dõi xem thức ăn và bệnh tật ảnh hưởng đến các giống loài như thế nào, và làm thế nào và khi nào các dòng tộc chắc chắn đi tới chỗ tuyệt diệt."
"Vậy có phải bốn loài yêu tinh, con người, ma cà rồng và phù thủy chúng ta cùng chia sẻ một tổ tiên chung không?" Tôi thường thắc mắc liệu sự cố chấp của dì Sarah rằng phù thủy có chia sẻ chút ít quan hệ với con người hoặc các sinh vật khác người khác là có căn cứ, hay đó chỉ là ảnh hưởng của truyền thống và mơ tưởng? Vào thời đại của Darwin, nhiều người nghĩ rằng một cặp tổ tiên chung của loài người không thể sản sinh ra quá nhiều các chủng tộc khác nhau như thế. Khi một số người châu Âu da trắng nhìn thấy những người châu Phi da đen, họ liền theo học thuyết đa nguyên và tranh luận rằng các chủng tộc là hậu duệ của những tổ tiên khác nhau, không có mối liên hệ nào.
"Yêu tinh, con người, ma cà rồng và phù thủy khác nhau đáng kể theo mức độ di truyền." Mắt Matthew như đang xuyên thấu. Anh hiểu điều tôi đang hỏi, mặc dù anh từ chối không trả lời tôi thẳng thắn.
"Nếu anh chứng minh chúng ta không phải là các giống loài khác nhau, mà chỉ là các dòng khác nhau trong cùng một loài, thì điều đó sẽ thay đổi mọi thứ," tôi khuyên.
"Cùng lúc chúng ta sẽ tìm ra phải làm thế nào - và liệu - bốn nhóm có mối liên quan với nhau hay không. Dù sao chúng ta vẫn còn cách thời điểm đó rất xa." Anh đứng lên. "Tôi nghĩ thế là đủ khoa học cho ngày hôm nay rồi."
Sau khi chào từ biệt Miriam và Marcus, Matthew lái xe đưa tôi đến New College. Anh đi thay đồ và quay lại để đón tôi tới lớp yoga. Chúng tôi lái xe tới Woodstock gần như trong yên lặng, cả hai đều mải đắm chìm trong những ý nghĩa riêng.
Ở Chòi Gác Cổ, Matthew thả tôi xuống như thường lệ, rồi dỡ mấy tấm thảm tập ra khỏi cốp và lẳng chúng lên vai.
Một cặp ma cà rồng lướt qua. Một ma cà rồng khác thoáng sượt qua tôi, và Matthew nhanh như chớp luồn các ngón tay nắm lấy bàn tay tôi. Sự đối lập giữa chúng tôi thật quá ấn tượng, làn da anh quá lạnh giá và xanh tái, còn của tôi thì sống động và ấm áp.
Matthew cứ nắm lấy tay tôi cho tới khi cả hai đã vào trong nhà. Sau giờ học chúng tôi lái xe trở về Oxford, trò chuyện về một vài điều Miriam đã nói, rồi về vài thói quen hay ho của loài yêu tinh. Khi đã vào bên trong cánh cổng của New College, Matthew không tắt máy trước khi cho tôi xuống như thường lệ.
Fred ngước lên nhìn từ màn hình an ninh khi chàng ma cà rồng đi tới tấm kính ngăn của chòi gác. Ông ta kéo trượt để mở nó ra. "Vâng?"
"Tôi muốn đi cùng tiến sĩ Bishop lên phòng cô ấy. Liệu có ổn không nếu tôi để xe ở đây, và cả chìa khóa nữa, phòng trường hợp ông cần di chuyển nó ?"
Fred đưa mắt nhìn tấm biển của bệnh viện John Radcliffe và gật đầu. Matthew ném chìa khóa qua cửa sổ chòi gác.
"Matthew," tôi vội nói, "chỉ là một lối đi ngang thôi mà. Anh không cần phải đi cùng tôi về nhà đâu."
"Dù sao, tôi sẽ đi," anh chàng nói bằng cái giọng không muốn tranh cãi lâu hơn. Đi xa lối đi có mái vòm của chòi gác, ra khỏi tầm nhìn của Fred, anh lại nắm lấy tay tôi. Lần này, cơn sốc do làn da lành lạnh của anh đến cùng với một cú giật thót bối rối ấm áp trong lòng.
Đến cuối cầu thang gác, tôi đối diện với Matthew, vẫn nắm tay anh. "Cảm ơn vì lại đưa em tới lớp yoga."
"Em luôn được chào đón mà." Anh nhét một lọn tóc ương bướng của tôi ra sau tai, những ngón tay nấn ná lại trên má tôi. "Hãy tới nhà anh ăn tối vào ngày mai nhé," anh khẽ nói. "Đến lượt anh trổ tài nấu nướng. Anh có thể đón em ở đây lúc bảy rưỡi chứ ?"
Tim tôi thót lên. Nói không đi, tôi nghiêm khắc tự nhủ với mình bất chấp nhịp đập đột ngột ấy.
"Em rất thích," tôi thốt lên thay vì câu định nói.
Chàng ma cà rồng áp đôi môi lạnh giá lên một bên má tôi, rồi bên kia. "Ma vaillante fille [16]," anh thì thầm vào tai tôi. Mùi hương lôi cuốn choáng ngợp của anh lấp đầy cánh mũi tôi.
[16. Tiếng Pháp - có nghĩa: Cô gái dũng cảm của tôi.]
Lên lầu, có ai đó đã vặn chặt nắm cửa như yêu cầu, và lại là một cuộc chiến để xoay cái chìa trong ổ khóa. Ánh sáng lấp lánh trên máy trả lời tự động chào đón tôi, cho biết có một tin nhắn khác của dì Sarah. Tôi đi tới cửa sổ và nhìn xuống, thấy Matthew vẫn ngước nhìn lên. Tôi vẫy tay. Anh mỉm cười, đút hai tay vào túi và quay trở lại chòi gác, trượt dần vào bóng đêm như thể nó vốn thuộc về anh.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com