Ngoại Truyện An 1: Đất Nghèo Nuôi Chí Lớn
Làng Đá Bạc, vùng Trung du Bắc Bộ, những năm 1930 - đầu 1940
Làng Đá Bạc nằm nép mình dưới chân một dãy núi đất thấp, ba bề là đồi trọc và những thửa ruộng bậc thang khô cằn, soi bóng xuống dòng sông Lô lững lờ chảy phía xa.
Gọi là Đá Bạc nhưng chẳng thấy bạc đâu, chỉ thấy đất đá ong ong đỏ quạch, cày lên toàn sỏi với cuội. Quanh năm, người dân trong làng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, vật lộn với từng tấc đất bạc màu, với cái nắng mùa hè cháy da cháy thịt và cái rét căm căm mùa đông sương muối phủ trắng đồng. Cuộc sống nghèo khó, lam lũ cứ đeo đẳng từ đời này qua đời khác, dưới ách áp bức của thực dân Pháp và sự bóc lột của cường hào, địa chủ trong vùng.
Nguyễn An sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuộc loại nghèo nhất nhì làng Đá Bạc. Ngôi nhà tranh vách đất của gia đình cậu nằm heo hút ở cuối xóm, xiêu vẹo tựa vào một bờ dậu trồng đầy duối gai. Mái tranh đã cũ mèm, mưa xuống là dột tứ tung, phải lấy thau, lấy chậu hứng khắp nhà. Gió mùa đông bắc thì lùa vào lạnh buốt qua những kẽ hở trên vách đất nứt nẻ. Tài sản trong nhà chẳng có gì đáng giá ngoài mấy cái nồi đất méo mó, vài cái bát mẻ, chiếc giường tre ọp ẹp và bộ bàn ghế gỗ tạp đã mối mọt gần hết.
Cha An, ông Nguyễn Văn Bền. Là một người nông dân hiền lành, chất phác nhưng cả đời vất vả. Ông không có ruộng đất riêng, phải đi làm thuê cấy cày cho nhà địa chủ trong làng. Sức ông yếu dần vì lao lực và căn bệnh ho hen kinh niên do ẩm thấp, thiếu thốn gây ra. Nhưng ông chưa bao giờ một lời than thở, vẫn cố gắng gượng dậy mỗi ngày, dắt con trâu gầy còm ra đồng từ lúc trời chưa sáng rõ mặt người, tối mịt mới về đến nhà trong bộ dạng mệt lử, người ám đầy mùi bùn đất và mồ hôi.
Ông là trụ cột duy nhất, là chỗ dựa lớn nhất của cả gia đình nhỏ bé.
Mẹ An, bà Nguyễn Thị Tình cũng là một người phụ nữ nông thôn điển hình: Tần tảo, chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con. Ngoài việc đồng áng cùng chồng, bà còn phải lo toan mọi việc trong nhà, từ bữa cơm đạm bạc, chủ yếu là khoai sắn độn ít cơm hoặc cháo loãng đến việc vá víu từng manh áo rách cho cả nhà. Bà thương chồng, thương con vô hạn, nhưng cái nghèo, cái khổ cứ bám riết lấy khiến bà chẳng mấy khi có được một nụ cười trọn vẹn. Đôi mắt bà luôn ánh lên một nỗi lo âu thường trực, và những nếp nhăn trên gương mặt khắc khổ dường như nhiều hơn so với tuổi thật của bà.
An là con trai đầu lòng, niềm hy vọng lớn nhất của ông bà Bền.
Dưới An còn có một đứa em gái nhỏ, tên là Bé Lan, yếu ớt và hay đau bệnh từ nhỏ. Tuổi thơ của An không có những ngày tháng vui chơi hồn nhiên như đám bạn cùng trang lứa. Ngay từ khi còn rất nhỏ, cậu đã phải theo cha mẹ ra đồng làm những việc lặt vặt như nhổ cỏ, bắt cua, mò ốc. Lớn hơn một chút, khoảng bảy, tám tuổi, An đã biết phụ mẹ trông em, quét nhà, nấu cơm, gánh nước. Cậu bé An khi đó gầy nhom, đen nhẻm, nhưng đôi mắt thì sáng và có vẻ lanh lợi khác thường. Cậu ít nói, nhưng rất chăm chỉ và hiểu chuyện. Cậu biết gia đình mình nghèo khó, biết cha mẹ vất vả, nên không bao giờ đòi hỏi hay mè nheo điều gì.
An cũng được cha mẹ cho đi học chữ quốc ngữ ở trường làng vài năm. Nhưng việc học cũng chẳng kéo dài được bao lâu. Học phí tuy ít ỏi nhưng cũng là một gánh nặng với gia đình. Quan trọng hơn, An còn phải ở nhà phụ giúp công việc đồng áng ngày càng nhiều, nhất là khi sức khỏe của cha cậu ngày một yếu đi. Những con chữ biết được ở trường làng trở thành một vốn liếng quý giá nhưng dang dở đối với An.
Năm An lên mười hai tuổi, một biến cố lớn đã ập xuống gia đình cậu. Cha An, sau một trận ốm nặng kéo dài do làm việc quá sức và căn bệnh ho hen tái phát, đã không qua khỏi. Ông ra đi trong một buổi chiều đông giá rét, để lại người vợ góa và hai đứa con thơ dại giữa bộn bề khó khăn, nợ nần.
Cái chết của cha là một cú sốc quá lớn đối với An. Dù còn nhỏ tuổi, nhưng cậu đã cảm nhận được sự mất mát khủng khiếp và gánh nặng trách nhiệm sắp đè lên đôi vai non nớt của mình. Cậu không khóc nhiều như mẹ và em gái trong đám tang đơn sơ, lạnh lẽo của cha. Cậu chỉ đứng lặng lẽ bên cạnh quan tài bằng gỗ tạp của cha, đôi mắt khô khốc nhìn vào khoảng không vô định, bàn tay nhỏ bé siết chặt lại.
Từ giây phút đó, cậu biết rằng tuổi thơ của mình đã thực sự kết thúc. Cậu phải trở thành trụ cột mới của gia đình, phải thay cha gánh vác trách nhiệm nuôi mẹ, nuôi em.
Sau đám tang cha, An nghỉ học hẳn. Cậu bé mười hai tuổi chính thức trở thành một lao động chính trong nhà. Cậu cùng mẹ nhận cày thuê, cuốc mướn cho nhà địa chủ và những gia đình khác trong làng. Công việc đồng áng nặng nhọc vắt kiệt sức lực của cậu bé đang tuổi ăn tuổi lớn. Đôi bàn tay non nớt của An nhanh chóng chai sạn đi vì cầm cuốc, cầm cày. Làn da đen sạm vì nắng gió. Vóc người tuy gầy nhưng trở nên rắn chắc, dẻo dai lạ thường.
Những lúc không có việc làm thuê, An lại vào rừng kiếm củi, hái măng, đào củ mài hoặc ra sông mò cua, bắt cá để cải thiện bữa ăn và kiếm thêm chút tiền đong gạo. Cậu học được từ những người lớn trong làng cách đặt bẫy chim, bẫy thú nhỏ, cách nhận biết các loại cây thuốc nam đơn giản. Núi rừng và sông suối trở thành người bạn, người thầy thứ hai của An, dạy cho cậu những kỹ năng sinh tồn quý báu mà không trường lớp nào có được.
Mẹ An nhìn con trai vất vả thay cha gánh vác gia đình, lòng bà vừa thương lại vừa xót xa. Bà làm việc nhiều hơn, cố gắng san sẻ gánh nặng cùng con. Nhưng sức khỏe của bà cũng ngày một yếu đi sau cái chết của chồng và những lo toan, vất vả triền miên. Bà hay ho và khó thở hơn trước. An nhìn mẹ ngày càng gầy yếu, xanh xao, lòng cậu đau như cắt. Cậu tự nhủ phải cố gắng hơn nữa, phải kiếm được nhiều tiền hơn nữa để mẹ và em gái đỡ khổ.
Bé Lan, em gái An, từ nhỏ đã ốm yếu, lại thêm thiếu thốn nên càng còi cọc, xanh xao. An thương em gái vô cùng. Dù bận rộn, mệt mỏi đến đâu, cậu vẫn luôn dành thời gian chơi với em, kể chuyện cho em nghe, hoặc nhường cho em phần cơm ít ỏi có phần ngon hơn. Bé Lan rất quấn anh trai, coi An vừa là anh vừa là cha, là chỗ dựa vững chắc nhất của mình. Nhìn thấy nụ cười trong trẻo và ánh mắt tin tưởng của em gái là niềm vui và động lực lớn nhất để An vượt qua mọi khó khăn.
Cuộc sống cứ thế lặng lẽ trôi đi trong nghèo đói và lam lũ.
An lớn lên trong sự thiếu thốn vật chất nhưng lại được nuôi dưỡng bằng tình yêu thương vô bờ bến của mẹ và em gái, bằng sự đùm bọc của bà con làng xóm nghèo khổ nhưng giàu tình nghĩa và bằng cả sự căm ghét âm ỉ đối với bọn địa chủ cường hào và bè lũ thực dân phong kiến đã gây ra bao bất công, khổ cực cho những người nông dân như gia đình cậu.
Tính cách của An cũng dần được định hình. Cậu trở nên ít nói, lầm lì, quen chịu đựng gian khổ một mình. Cậu học được cách che giấu cảm xúc, ít khi để lộ sự yếu đuối hay sợ hãi ra bên ngoài. Nhưng ẩn sâu dưới vẻ ngoài khô khan, cộc lốc đó là một trái tim ấm áp, giàu tình thương, một ý chí kiên cường và một lòng tự trọng rất cao.
Cậu ghét sự bất công, ghét sự ỷ mạnh hiếp yếu. Có lần, thấy con trai địa chủ bắt nạt một đứa trẻ nghèo trong xóm, An đã không ngần ngại lao vào can ngăn, dù sau đó bị tên địa chủ cho tay chân đến dằn mặt. Cậu không sợ hãi, chỉ càng thêm căm ghét cái xã hội bất công này.
Năm tháng qua đi, An bước vào tuổi mười bảy, mười tám. Cậu đã trở thành một chàng trai thực thụ, vóc người rắn chắc, gương mặt góc cạnh, cương nghị, ánh mắt trầm tĩnh nhưng ẩn chứa một sức mạnh tiềm tàng. Gánh nặng gia đình vẫn đè nặng trên vai, nhưng cậu đã quen với nó, coi đó là trách nhiệm và lẽ sống của mình. Cậu chỉ mong sao cho mẹ và em gái được khỏe mạnh, gia đình có đủ cái ăn, cái mặc qua ngày. Ước mơ giản dị đó tưởng chừng như không quá xa vời.
Nhưng rồi, một bóng ma khủng khiếp hơn cả đói nghèo và áp bức bắt đầu bao trùm lên khắp các làng quê miền Bắc.
Đó là nạn đói.
Nạn đói do chính sách vơ vét thóc gạo tàn bạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra. Làng Đá Bạc nghèo khó của An cũng không thoát khỏi thảm cảnh đó. Lúa ngoài đồng chưa kịp chín đã bị thu gần hết. Kho thóc dự trữ trong nhà dân cũng chẳng còn bao nhiêu. Cái đói bắt đầu len lỏi vào từng gia đình, gõ cửa từng căn nhà tranh xiêu vẹo.
An không thể nào ngờ rằng, thử thách khủng khiếp nhất trong cuộc đời cậu và gia đình vẫn còn đang ở phía trước.
Một thử thách mang tên: Nạn đói Ất Dậu - 1945.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com