| vào bài |
Với lối phong cách uyên bác và tài hoa trong văn chương, ở sâu trong tiềm thức của Nguyễn Tuân ông luôn khao khát đi tìm cái đẹp trong cuộc sống giản đơn hằng ngày, song đó ông rất thích lối miêu tả một cách dữ dội, mãnh liệt theo cách rất "ngông" với những phát hiện về núi sông, cảnh thác mà ông nhìn thấy. Cái cá tính ấy lại trở nên bộc lộ rõ hơn cùng với thành quả mà ông gặt hái được trong quá trình đi đến miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi - Sông Đà. Trong chuỗi hành trình ấy nổi bật trên cả là tác phẩm "Người lái đò Sông Đà" - tác phẩm không chỉ cho thấy được diện mạo mới của ông mà cũng là đích đến cuối cùng của công cuộc kiếm tìm được chất vàng của thiên nhiên cũng là " thứ vàng mười đã qua thử lửa".
Có thể nói, con Sông Đà trong bài tùy bút đã tạo nên vô vàn những cảm hứng trong tác giả mà ở đó, cái cảm hứng về một con Sông Đà "hung bạo" nhưng rất đỗi kì vĩ là một trong những hình tượng đặc sắc phải kể đến trong tác phẩm.
Sông Đà đối với Nguyễn Tuân như đã nằm trong lòng bàn tay. Ông dẫn dắt và miêu tả từng cảnh tượng một khiến chúng ta tựa đang đi xuyên suốt một cuộc hành trình ngoạn mục mà không hề bỏ lỡ một tuyệt cảnh nào. Với lối miêu tả tường tận mà chắt lọc đó, ông đã đặc biệt cho ta thấy được một dáng vẻ rất khác của Sông Đà từ khởi đầu chuyến đi cho đến khi kết thúc.
Mở đầu ta đã được chiêm ngưỡng được những cảnh vách đá "bờ sông, dựng vách thành" và những "vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu". Cái hẹp của lòng sông đã được tác giả vẽ lên bằng vô vàn hình ảnh tỉ như con sông này hẹp cách ta "đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách", nơi "có quãng con nai, con hổ đã có lần vượt qua từ bờ này sang bờ bên kia". Cái cảm nhận của tác giả về không gian lòng sông làm cho ta hình dung được tường tận hơn một không gian mà khi ngồi trong khoang đò ấy, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ mà "trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện", khiến cho "đang mùa hè mà cũng trở nên thấy lạnh". Cách so sánh ấy vừa chính xác, tinh tế vừa tạo sự bất ngờ và lạ lùng, tạo một cảm giác như rằng Nguyễn Tuân như muốn tìm tòi lục lọi đến tận cùng những chi tiết ấn tượng nhất để có thể làm cho người đọc trở nên hứng thú và kinh động đến từng chi tiết mà tác giả kể.
Không dừng lại ở đấy, cái hung bạo ẩn sâu trong lòng Sông Đà lại được tác giả mở rộng hơn khi đi qua cái gọi là quãng ghềnh Hát Lóong "dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sống xô gió", nó như con sóng thần dữ dội "cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm", như một tên cướp hung hăng "lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt" bất cứ người lái đò trên sông nào mà nó tóm được khi qua đấy. Lối viết móc xích, từng câu văn trùng điệp với nhau của Nguyễn Tuân đã tạo nên sợi dây liên kết trong tư tưởng một hình ảnh con Sông Đà với vẻ cuồng nộ, dữ dằn như muốn tiêu diệt con người mà chỉ cần "khinh suất" một chút thì tính mạng đã nằm dưới lòng sông.
Từ sự bất ngờ này đến bất ngờ khác, nếu mặt ghềnh Hát Lóong nổi lên những cơn gió phong dữ dội, thì khi đi qua quãng Tà Mường Vát ở hạ lưu Sơn La, ta sẽ bị dọa cho khiếp sợ bằng những cái hút nước sâu hoắm dưới lòng Sông Đà. Nó sâu "như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu" vậy, chúng tồn tại như một sinh vật có những tiếng kêu quái dị, " nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc" và từ từ lột xác thành một con quái thú hung hăng với "những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác". Một lối so sánh độc đáo và liên tưởng mạnh mẽ khiến con Sông Đà trong mắt người đọc dần trở nên như một loài thủy quái ẩn náu dưới lòng sông với những tiếng kêu man rợ như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
Với một không gian tô đậm sự hung tợn như thế, Nguyễn Tuân lại xuất hiện như một vị nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi một bản tấu thật hùng tráng bài ca gió thác xô sóng đá, tạo nên không gian đa chiều cho bức tranh trở nên sinh động hơn hết với âm thanh của thác đá. Mở đầu bài ca là những giai điệu dẫn dắt nhẹ nhàng bằng những ca từ "như là oán trách" điều gì, rồi lại "van xin", "khiêu khích". Và rồi bài hát đi đến được khúc cao trào nhất của bài, âm thanh như được phóng đại hết cỡ, bản nhạc đang như thể hiện một chùm nốt mang âm hưởng mạnh mẽ của một cảnh thiên nhiên đang ở đỉnh cao của phấn khích, một chiếc thác hung hãn và man dại: "nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa". "Rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng" như chính là những nốt nhạc cuối trong điệp khúc vang dội của bản tấu của rừng già. Bản tấu được được viết lên bằng sự liên tưởng phong phú của Nguyễn Tuân khiến cho âm thanh của thác nước cứ như một trận động rừng nạn núi thời tiền sử kinh thiên động địa. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, một sự so sánh đối lập thú vị độc đáo trong cái "ngông" của Nguyễn Tuân.
Nhà văn Tố Hữu đã từng nói về Nguyễn Tuân rằng: "Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn hảo của chữ". Quả thật, ông đã đạt đến cảnh giới của việc sử dụng ngôn từ. Với Sông Đà, ông đã dùng chính lợi thế của mình cùng biện pháp nhân hóa, người đọc nhận thấy từ những phiến đá vô tri vô giác trở thành những thớ đá có hồn, có sự sống như một nhân bản của con người thực thụ: "Cả một chân trời đá" với hàng ngàn sắc thái biểu cảm phong phú, hòn nào cũng trông "ngỗ ngược", hòn nào cũng "nhăn nhúm", "méo mó". Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, ta lại nhận thấy rằng chúng là đang trưng ra dáng vẻ du côn của một thiên nhiên hoang dại và hung dữ với dàn thạch trận của chúng trên sông.
Khi thuyền vừa vụt tới thì thạch trận thứ I đã sẵn sàng từ lúc nào. Dường như đã lên kế hoạch từ trước mà phối hợp với nhau "nước thác reo hò làm thành thanh kiệu cho đá", những hòn đá được tất ngang nhiên, trưng dáng vẻ "bệ vệ oai phong lẫm liệt" mà "hất hàm" "thách thức". Mặt nước cũng chẳng chịu thua mà "hò la vang dậy", va vào mà bẻ gãy cả cán chèo, sóng nước cũng tiếp sức liều mạng "mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền". Đến trùng vi thứ II thì độ khó như được tăng lên, sông nước thì bày binh bố trận khắp nơi không khác gì một trận chiến thực sự trên mặt đất, cửa tử ngày càng tăng, "cửa sinh lại bố trí lệch vào bờ hữu ngạn". Sông Đà dường như chẳng chừa cho ai một con đường sống. Ngay khi đến thạch trận cuối cùng, Sông Đà vẫn giữ nguyên dáng vẻ hung bạo đó, bên phải bên trái đều là luồng chết, chỉ có thể đi thẳng mà tìm được luồng sinh.
Dữ tợn có, tàn ác càng nhiều hơn, Nguyễn Tuân đã thành công khi miêu tả con Sông Đà với những khía cạnh táo bạo, pha đầy chất "ngông" của ông khiến Sông Đà không khác gi "kẻ thù số một của con người". Song cũng chính con Sông Đà cũng là nguồn cảm hứng mới lạ làm tôn vinh cái tài hoa trong nghệ thuật, sự uyên bác trong lối hành văn của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút ở Việt Nam.
Bằng chính cái nhìn chắt chiu, chọn lọc từng tiểu tiết, một nhận định đã nói rằng "Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác mà là một sinh thế có hoạt động, có tính cách, cá tính,...". Lần đầu trong văn học Việt Nam lại có một tác phẩm viết về một con sông nổi tiếng với nhiều cảm giác hồi hộp đến ghê rợn đến từng chi tiết như thế.
Với Nguyễn Tuân thì đó chính là cách mà ông thể hiện tình yêu với chính vẻ đẹp của con sông và cũng chỉ có duy nhất cây bút ấy mới có thể lột tả được thật sự dáng vẻ đẹp đẽ, hào hùng của Sông Đà. Không chỉ để lại ấn tượng cho người đọc dáng vẻ hung bạo, gầm gừ độc đáo mà chính ông, cũng đã tìm được thứ "vàng mười" mà suốt đêm ngày ông theo đuổi.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com