het
c3 trôi nổi trần thế
Trời sáng mờ mờ, khu núi vẫn còn bao phủ trong vầng mây đen xám, tôi bồng bềnh vô định nơi giữa đám mây mù. Trong lòng tôi chất đầy những cảm giác không biết sao mà nói, bình tĩnh mà còn bối rối, kiên quyết mà lại chần chừ. Lần này bỏ đi có lẽ là tôi vĩnh viễn đi luôn, cảm giác này âm ỷ dâng lên trong lòng, khiến tôi cảm thấy hoang mang và cô độc khôn cùng. Ly khai dễ dàng quá, không cần chào từ biệt, cũng chẳng cần vẫy tay, nhưng rời khỏi nơi mình sinh trưởng, khác nào như bèo bọt lắc lư trong cơn mưa gió tiêu điều lạnh lẽo, khiến người ta mãi mãi không thể quên đi thời khắc ấy.
Chim bay mỏi còn biết trở lại, lá khô rụng xuống đất quay về gốc, trong khoảnh khắc ấy, tôi cuối cùng thấu hiểu những kẻ lang bạt chết nơi đất khách quê người; sự sống đã mất, mọi việc rõ rồi, mà vẫn muốn nhờ ai đó đem hài cốt mình quay về quê xa ngàn dặm để kết tình nồng thắm. Tôi không biết tôi có thể sống bao lâu, có lẽ một trăm năm, biết đâu một ngàn năm, may ra một vạn năm. Một vạn năm là rất dài lâu, lâu đến nỗi tôi không còn biết là bao lâu nữa, nhưng ít ra vào giây phút cuối, chỉ là không rõ vào ngày ấy, có chăng ai đó đem nắm xương tàn của tôi mang về nơi chốn mà hôm nay tôi bỏ ra đi.
Ánh nắng chọc thủng những từng mây, đem tia sáng rực rỡ ngút ngàn chan hòa khắp thế gian. Tôi đứng trong nắng xuống cảm thấy một sự thông suốt trước giờ chưa từng có, từng sợi nắng kéo theo từng tia nóng ấm xuyên qua tâm hồn tôi, ánh sáng chói chang tươi đẹp dường như soi thấu thân hình tôi, như một cụm sương mù mà nắng soi trong suốt. Vốn là hồn quỷ không thể chịu được ánh nắng trời, may thay hồi đó Bồ tát truyền thụ cho tôi các pháp tu tiên, nên tôi mới có khả năng tiếp nhận ân huệ từ thiên nhiên.
Tôi chẳng thể không nghĩ đến Bồ tát, trong tâm tôi Ngài là bậc tôn trưởng hiền từ, tôi tôn kính Ngài, yêu quý Ngài. Song, tôi dường như lại đồng thời nhớ đến nét mặt của Tần phán quan, rõ là mong ước tàn phai, oán hờn tiêu sạch mà như cành cây khô héo; nhớ đến từng mảnh áo nát vụn dơ bẩn như lững lờ bay. Còn thêm vào lúc ấy là gương mặt của Bồ tát lạnh băng như nước, tròng mắt ấy như hố sâu thăm thẳm… Tôi không biết tự bao giờ vì sao đối với Bồ tát, tôi lại có một chút oán trách như vậy; cũng không hiểu sự bất công đối với Tần phán quan, lại làm tôi tức giận nhiều đến thế.
Chẳng thể quên nụ cười quen thuộc của Bồ tát, hiền từ như một người cha.
Chẳng thể quên ánh mắt vô hồn của Tần phán quan lúc Thiên Lôi sấm sét.
Chẳng thể quên khúc ca u oán của phách hồn cô độc nơi cõi U Minh thăm thẳm.
Trong óc tôi rối bung lên, dường như có biết bao người đang trong đó tranh cãi, kéo tôi về bên này, lôi tôi về phía kia… tôi thật sự không biết tôi nên ở bên nào, phải đi về đâu.
Tôi lơ đãng đứng ở bên đường, ngắm nhìn người qua kẻ lại, ai nấy đều bước đi vội vã, vội vội bước qua, vội vàng đi lại. Tôi ghen tỵ với họ quá, họ biết mình phải đến chỗ nào, mà tôi thì chẳng biết tôi phải đi đâu, cũng chả có ai cho tôi biết, tôi nên đến chỗ nào. Thời giờ nơi thế gian rõ là trôi qua nhanh quá, chẳng mấy chốc, mặt trời đã tàn hết sự rực rỡ của mình.
Đến lúc trời tối rồi, người qua lại quanh đấy cũng thưa dần, thỉnh thoảng có một người qua đường vội vã, trên mặt cũng phủ lên thần sắc khao khát quay về nhà. Nhà, tốt quá mà. Người vợ ở nhà có lẽ đã làm xong bữa cơm, chờ đợi người chồng ngoài phố quay về nhà sum họp, đàn trẻ thơ có lẽ đang chờ cha chúng ngoài kia mang về những quà ăn vặt, đồ chơi mà chúng trông mong.
Mà những người bước đi vội vã trên đường, có lẽ đều nghĩ đến bữa ăn thịnh soạn trong nhà, người vợ dịu dàng và bầy trẻ ngây thơ. Rồi khi về đến nhà, bầy trẻ thơ ấy lập tức sấn vào lòng, người vợ mỉm cười nồng ấm vô cùng…
Nhà, tôi không có cái nhà, cũng chẳng biết nơi đâu mới là nhà của tôi.
Bỗng nhiên lúc đó tôi nghĩ đến ngôi nhà mà khi tôi đầu thai lần đầu vào ngàn năm về trước, nơi ấy có cha tôi, mẹ tôi, còn thêm cô ấy… Tôi y như người chìm dưới nước nắm được khúc cây trôi dạt, như người đi đường trong đêm tối nhìn thấy ánh lửa chập chờn, tôi không cách nào đè nén sự kích động trong lòng “Tôi phải về nhà!”
Vào lúc màn đêm sau cùng buông xuống, trong khói bếp lờ mờ, giữa ánh đèn lấm chấm; tôi hóa làm một cơn gió, hướng về phương xa bay đi. Nơi xa ấy, là nhà tôi, ngôi nhà mà tôi đã ngàn năm xa cách.
Mang máng còn nhớ được vị trí vùng quê nhà, thì ở bên kia núi đấy mà! Tôi hiện lại nguyên hình, cất bước trên đường núi. Đường núi quanh co uốn khúc, bên kia núi có một thị trấn, gọi là làng “Đào Nguyên”, tôi đã từng sống tại nơi ấy. Bước đi trên đường núi, bốn bề cây xanh vây bọc, chim bay ríu rít, hương thơm hoa dại mang đến cho tôi mùi vị trần gian. Được sinh sống trong thế giới như thế này đúng là có số may mắn đây, tôi nghĩ vậy.
Tôi lại lần nữa từ trong ký ức trầm lắng mà lôi ra từng chút một những chuyện nơi cõi hồng trần vào năm ấy, xuân hoa thu nguyệt hạ đỗ quyên, tuyết trắng ngần ngần thêm ớn lạnh. Cây hoa đào trước nhà chốn cũ, không biết là lúc tôi quay về lần nữa có nở đầy hoa như trước hay chăng? Dưới cây dương liễu trước bờ ao cổng làng, phải chăng vẫn còn bọn trẻ tinh ranh đùa giỡn? Quán ăn bên đường ấy ngào ngạt mùi thơm có còn náo nhiệt như xưa? Ngôi nhà cũ đã từng trú ở phải chăng vẫn như trước mà cho người tránh mưa che gió? Bè bạn nô đùa thuở ấu thơ có ai đầu thai lại chỗ này không?
Nghĩ tới nghĩ lui, bước chân tôi càng lúc càng chậm, gần đến quê thì cảm thấy lo sợ, thời gian xa cách đến ngàn năm, cố hương, phải chăng vẫn là cố hương của tôi? Khoảng cách đến phố thị mỗi lúc một gần, lòng tôi càng lúc càng mất bình tĩnh, tim nhảy loạn lên, mà chẳng hiểu nguyên cớ từ đâu. Trong lòng xôn xao hồi hộp, cuối cùng tôi lần nữa đặt chân lên mảnh đất từng là quê cũ.
Ấn tượng về quê cũ như trong ký ức tôi, giờ đã không còn lại chút gì. Tất cả đều mới lạ, đường lộ khác hẳn, cây cối lạ lùng, hơn nữa lúc nào thấy cũng toàn là người lạ. Song, tất cả dường như lại quen thuộc đến thế, phiến đá nơi đường lộ vẫn là mầu sắc trước kia, phong thái yểu điệu của cây cối vẫn y nguyên thời quá khứ, nét mặt ai kia dường như đã từng quen từng gặp, chẳng qua không rõ kẻ đó từ đâu để mà kể ra.
Vòng quanh hơn nửa ngày, cuối cùng tìm được ngôi nhà của tôi ngàn năm về trước, tôi đã từng ngụ tại nơi đây, tôi đã từng cùng với cha mẹ và người thân sống tại chỗ này. Nơi để ở đã không còn nữa, nơi đây đã biến thành một khoảnh rừng hoa đào, chỉ có giữa rừng, tượng sư tử đá sứt mẻ ấy lẻ loi đứng đó khiến cho tôi biết, ngay đây, chính là nhà của tôi, ngôi nhà ngàn năm về trước, ngôi nhà đã không còn nữa.
Chầm chậm bước giữa rừng đào, âm thầm suy xét mảnh đất dưới chân mình, ngôi nhà xưa kia là ở vị trí nào, căn phòng ở đâu, không ngờ tôi có trí nhớ tốt đến thế, nhớ lại được những việc xa xưa như vậy. Nhè nhẹ ngẩng đầu, xa vọng đào lâm, đôi mắt chỉ còn sương khói mịt mờ, hình như có lẽ, rừng đào biến mất rồi.
Tôi đang có mặt trong nhà của mình, lầu gác với cửa sổ trạm trổ, mái đình nơi sân nhỏ, rành rành trước mắt. Trong đại sảnh hình như truyền lại tiếng mẹ gọi tôi ăn cơm, thư phòng tựa như lại truyền đến lời trách mắng mà cha giận tôi trốn học. Bức tường phía Đông nơi khoảnh sân nhỏ, đầu tường dường như còn có chấm chấm rêu xanh, lại là tiếng gì thế kia? Rõ ràng là cô ấy bên vách tường gọi tôi, muốn tôi bẻ cho cô một cành hoa đào, bắt con chim sẻ nhỏ…
Một cánh hoa rơi xuống, nơi mặt nước gợn lên từng lớp sóng lăn tăn, những gợn sóng cứ từng vòng một lan ra. Giữa làn sóng nhẹ lấp lánh, gian phòng nhà cửa, sân vườn đều mờ nhòe chẳng còn dấu vết; cha mẹ người thân, bạn chơi thời tóc còn búi chỏm theo làn sóng tan tành. Chỉ có hoa đào như cũ, cánh hoa trong mưa gió rơi bay như mộng như ảo, như khói như mưa, như lệ như kể, tim tôi dường như theo mây khói tung bay, hòa cùng những cánh hoa tàn rơi lả tả, rơi rơi lững lờ…
Đêm tối, tôi mang theo một bầu rượu, ngồi bên tượng sư tử, nói chuyện suốt đêm với tượng đá. Tôi kể chuyện tôi cho nó nghe, kể cho nó biết đời trước của tôi, kể với nó về cha mẹ tôi, cho nó biết sự ngu xuẩn của tôi, cho nó biết nỗi đau buồn của tôi, nói với nó về sự bất hạnh của tôi, nói với nó về ao ước của tôi, cho nó biết sự hoang mang của tôi…
Cuối cùng tôi đắp ba nắm đất vàng bên tượng sư tử, làm thành những ngôi mộ cho cha mẹ và người thương của tôi, dùng chỗ rượu còn dư, truy điệu linh hồn đã đi xa của họ. Rượu ngấm vào đất, khoảnh khắc cạn khô, tôi hy vọng mượn chút rượu này, có thể rửa đi những thương đau và bất hạnh mà tôi mang đến cho họ ngàn năm về trước, có thể rửa đi lời thở than trong lòng họ về sự bất hiếu của tôi, về sự oán giận vô lý của tôi. Nhưng tôi không biết chút rượu này phải chăng có lực lượng ấy, để an ủi vết thương ngàn năm, để bù đắp ngàn năm hối tiếc.
Tôi quyết định dừng lại nơi chốn quê nhà, từ khi rời bỏ Địa phủ, tôi như người mất hồn lang thang đây đó, giờ thì không còn muốn đi đâu xa xôi nữa, tôi ước mong có một mái nhà, nơi đây đã là nhà của tôi vào kiếp trước, cũng nên là nhà của tôi trong đời này.
Tôi vốn dự định sống dài lâu nơi rừng hoa đào, nhưng rừng đào sát ở bên thành; nơi Địa phủ tạo cho tôi thói quen lầm lì khiến tôi không cách nào giao tiếp tốt cho lắm với những người hàng xóm; láng giềng đều cảm thấy tôi rất kỳ dị rồi tránh né lánh xa tôi; tôi buồn lắm, tôi muốn sinh hoạt giống như họ, nhưng không biết phải bắt đầu như thế nào. Thế là tôi dứt khoát dời về trong vùng núi ngoài thành, cất cho mình một mái nhà tranh.
Ngày lại một ngày, năm lại một năm, thời giờ trôi qua nhanh lắm, và rồi tôi cũng quen dần với nếp sống nơi trần thế; tự mình khai khẩn vài mẩu ruộng cằn khô, trồng hai mảnh vườn rau, nuôi vài con gà con vịt. Đời sống mặc dù nghèo khổ, nhưng so với tháng ngày nơi Địa phủ mịt mờ, tôi cảm thấy rất thỏa mãn. Thỉnh thoảng cũng xuống dưới núi, bán đi ít rau mình trồng, gà vịt mình nuôi, sau đó vào trong quán hàng quen thuộc uống vài chung rượu nhỏ. Dần dần, tôi quên mất mình là quỷ, quên mất mình phải truy tầm Đại đạo, tôi dường như cảm thấy mình là người, là một kẻ phàm phu nhàn nhã thảnh thơi.
Rồi một hôm, trong vùng núi vốn dĩ tĩnh mịch chợt có một vị khách không mời mà đến.
Hôm ấy, tôi đang cho gà vịt ăn xong, chuẩn bị nghỉ ngơi chốc lát, uống bầu trà. Một đạo sĩ bước đến trước cửa nhà tôi, muốn hóa duyên. Tôi liền mang một ít cơm rau và nước trà đưa cho ông ta. Lúc người này thò tay nhận thức ăn thì sắc mặt lập tức biến đổi, trở nên rất khó coi, đôi mắt bám vào tôi mà nhìn chòng chọc. Sau đó chẳng nói câu nào, liền xoay người bỏ chạy. Tôi cảm thấy lạ lùng quá, lại chẳng ngờ được một tai họa vô duyên vô cớ bay lại…
Khoảng trưa ngày hôm sau, tôi vẫn chưa ăn cơm, đã trông thấy vị đạo sĩ đó kéo một đám người chạy đến, đạo sĩ có, hòa thượng có, còn có rất nhiều dân làng. Vừa nhìn thấy tôi, dáng vẻ của họ liền rất căng thẳng; sau đó từ từ vây chung quanh. Những hòa thượng ấy niệm kinh không ngớt, niệm cái gì tôi nghe rõ lắm mà chẳng hiểu được; còn mấy đạo sĩ thì quăng bừa giấy bùa chú khắp nơi, tay cầm lục lạc lắc rung liên tục; tức khắc làm khu vườn của tôi gà bay chó chạy, vườn rau cũng bị họ chà đạp lung tung cả lên. Tôi thật sự nhịn hết được rồi, nhào ra lên tiếng chất vấn, mấy người rốt cuộc đang làm gì! Ai ngờ đạo sĩ ấy cầm một chậu chứa gì đó hơi đen đen hướng về tôi hất lại, một mùi tanh hôi xông lên mũi, thì ra là máu!
Tôi giận điên lên, xông tới phía trước, vung tay đánh ra một đấm, đạo sĩ đó bị đánh văng ra xa có đến mấy trượng, miệng đổ máu tươi, ngã sấp trên mặt đất mà rên rỉ. Tôi sững sờ một lúc, bây giờ mới nhớ lại, lực lượng ngàn năm tu luyện của tôi, người phàm không thể nào chịu đựng nổi. May mắn là tôi không dùng sức nhiều cho lắm, bằng không đạo sĩ ấy đã chết chắc rồi.
Lúc này, những người khác oai oái kêu rối rít, một đạo sĩ cất tiếng chưởi rủa: “Hay cho ngươi đồ ác quỷ! Rõ là không sợ máu chó đen!” Trong lòng tôi nổi nóng, bèn đáp lại: “Ngươi nói tầm xàm bá láp gì thế! Ta mới không là ác quỷ! Ta là… ta là…” Tôi liền khựng lại không nói được, tôi là quỷ, tôi là quỷ mà! Đạo sĩ đó lại hô hào: “Ngươi đồ quỷ dữ, không chịu sống yên nơi Địa ngục lại chạy đến trần gian làm hại người! Không tha cho ngươi được!!” Tôi nỗi giận rồi, tôi mà đã hại người!! Tôi lớn tiếng hét lên: “Tôi không làm hại ai cả!!” Đạo sĩ hét lớn: “Ác quỷ mà không hại người, chạy đến nhân gian làm gì!! Còn dám ngụy biện!!”
Trong lòng tôi tức giận hết sức, tôi chỉ muốn sinh sống tại làng thôn của mình, muốn có một gian nhà, điều này chẳng lẽ là sai trái sao? Kẻ nào quy định không cho phép quỷ đến trần gian! Là ai!! Tôi không làm hại ai cả, tôi trước giờ chưa hề làm hại người nào. Tôi chỉ muốn sinh sống tại chỗ này mà thôi!!!
Trong lòng tôi càng lúc càng kích động, tiếng chưởi bới của đạo sĩ đó càng khiến tôi không cách nào kiềm chế được mình, nào tiếng tụng kinh, tiếng lục lạc, giấy bùa chú bay loạn khắp nơi, rồi đồng nát sắt vụn ném lên người tôi càng làm tôi thêm bực bội. Tất cả khiến cho luồng lực lượng tiềm tàng trong người tôi đột nhiên phát tác, tôi ngẩng lên trời mà cười man dại, luồng âm khí ấy từ trong thân tôi thấm ra ngoài, nhanh chóng biến thành một khối mây mù xanh xanh rồi hóa làm cơn lốc mãnh liệt; gió bay cát chạy, nhà tranh sụp đổ, tất cả rau cỏ trong vườn bị thổi bay tơi tả, đến cây cối cũng bị bứng cả gốc lên… vài hòa thượng, đạo sĩ bị gió thổi bay đi, những người còn lại kinh hoàng khiếp đảm, bò lăn bò càng vội vàng tháo chạy xuống núi…
Hôm sau, tôi xuống phố dự định mua ít vật liệu để tu sửa gian nhà. Ai dè vừa tiến vào thành, nhìn thấy tôi thì ai nấy đều sắc mặt tái xanh, kinh hoàng bỏ chạy. Người người hoảng hốt lo sợ, ngay cả quân lính nơi sở quan không biết đã trốn mất nơi nào. Tôi quả là không hiểu chuyện gì xảy ra, cho đến lúc tôi đến quán mì của lão Vương quen biết định bụng ăn uống chút gì đó, tôi mới hiểu đã xảy ra chuyện gì. Lão Vương nhìn thấy tôi bước vào, sợ đến cả người run lên, nói lia lịa: Đừng tới đây, đừng tới đây… Tôi bối rối nhìn ông ta, lão Vương thấp thỏm dè dặt hỏi tôi: “Anh thật ra là quỷ?”
Trong đầu tôi tức khắc nổ ầm lên một tiếng, tôi hiểu rồi, hiểu hết mọi chuyện rồi; con người, họ không thể nào tiếp nhận quỷ, cũng không thể nào chịu đựng nổi cảnh cùng nhau chia xẻ nhân gian của họ với quỷ. Tôi không biết trong lòng tôi là thứ cảm giác gì, là đau buồn, là giận dữ, là đành chịu?! Tôi ngỡ ngàng xoay người bước ra khỏi cửa tiệm của lão Vương, nhìn thấy trên đường không một bóng người, khắp nơi bừa bãi hỗn độn. Tôi muốn gào, muốn hét lên, muốn khóc… Tại một quán rượu hoang vắng tiêu điều, tôi cầm lên một bầu rượu, ném xuống vài đồng tiền, bước ra khỏi thành mà đầu cũng chẳng buồn quay lại.
Nơi rừng hoa đào, tôi uống một hơi nửa bầu rượu, đem nửa bầu còn lại tưới lên mặt đất. Vốn là muốn trong năm nay khi hoa đào nở thì cất ngôi mộ thật sự cho họ, nhưng xây lên còn có lợi ích gì, dù sao tôi cũng đâu còn cách nào để sống tại đây nữa. Vốn là cho rằng chỗ ấy quê hương mình, nhưng nơi này lại không phải, ngàn năm trước thì đúng, nhưng bây giờ thì không! Biển xanh hóa nương dâu, Trời Đất hẳn vô tình, ai ngờ đâu người đời cũng vô tình như vậy. Đã từng là bạn bè quen thuộc, lại cho rằng ta không là đồng loại mà dễ dàng từ bỏ ta; đã từng là người đi đường kề vai vội vã, giờ cũng muốn tránh xa ta, giống như ta là nước lũ, là thuốc độc.
Lần này thì tôi không còn nước mắt, nhưng trong tim tôi co thắt đau đến thế, đau đến nỗi tôi chẳng cách nào hít thở…
“Bùm bụp”, Bầu rượu rỗng không vỡ vụn trên mặt đất, chỉ như sân nhà đổ nát, cơn mộng tan tành của tôi.
c4 tình lạc phương nào
Ngọn cỏ úa tàn còn thêm ánh chiều tà, ngoài ánh chiều tà, nước sông lạnh lẽo mây trời vàng hoe, dù cho có ruột cũng phải đứt đoạn, huống mà không ruột.
Những ngày nơi trần thế, tôi chỉ như con sâu nằm sấp trên chiếc lá khô trôi giạt, không thể chịu đựng nổi dù chỉ một ngày, dòng đời nhân thế đem tôi đi; tôi muốn chống cự, mà đâu đủ sức, cũng chẳng rõ phải chống lại từ đâu. Tôi không biết bến bờ mà tôi đến tại phương nào, tôi chỉ có thể xa xa mà nhìn ngắm dòng triều lên xuống, phó mặc sự nổi trôi.
Tôi là Quỷ, cái thứ mà người ta chán ghét nhất, bất kể dùng kiểu tâm tình gì mà tôi mong mỏi có sự dịu dàng, song đều không thể đạt được tấm lòng nhân hậu, bởi vì tôi là quỷ. Từ từ rồi tôi cũng an chịu cho định mệnh chính mình; sáng ngày, tôi ẩn trốn trong những nơi hẻo lánh, lén lút nhìn bên lề nhân thế; đêm tối, tôi lẫn vào dòng người, tự mình đi thể nghiệm lạc thú cõi trần gian. Tôi tự đúc cho mình một chiếc vỏ, để tự mình đeo nó trên lưng, trong cuộc sống con người nhân thế, tham sống sợ chết.
Buổi sớm mai, ánh nắng biếng nhác từ ngoài song chiếu vào, trời sáng rồi…
Trong lòng tôi đột nhiên có hơi bực bội, tôi không ưa ban mai và ánh nắng. Chút mát mẻ buổi ban mai và sức nóng ánh triêu dương làm cho tôi cảm giác da thịt mình trở nên hỗn loạn, một luồng hơi khô nóng từ bên ngoài ngấm ngầm truyền xuống lớp da vẫn còn mát rượi, khiến tôi cảm thấy một cơn đau rất nhẹ như châm chích và tê tê. Trên lớp da dường như có rất nhiều côn trùng nhỏ đang bò, muốn gải ngứa cũng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu, trong lòng càng lúc càng bứt rứt muộn phiền…
Lại trải qua rồi một cơn say túy lúy suốt đêm. Với người khác mà nói, một ngày vừa mới bắt đầu, với tôi, cuộc sống khoái lạc đà kết thúc. Tôi chẳng ngăn được lòng căm hận thế giới này, càng thêm căm ghét tất cả chư vị thần minh trên thế giới này. Tôi ưa chuộng đêm tối, bởi vì Tôi là Quỷ, trong thanh âm tịch mịch, lòng tôi được bình tĩnh, màn đêm đen như mực dấu che tất cả những gì mà tôi không vui lòng để lộ trước mặt người khác. Trong đêm tối thì tôi được thư thả, tôi vào lúc ấy, mới thực sự chính là tôi. Tôi không cần phải lưu ý đến chung quanh, không cần phải canh cánh bên lòng về những sự vật chung quanh nữa, cho dù là bên cạnh ẩn nấp những ác mộng canh khuya tôi cũng chẳng cần lưu tâm để ý. Bởi vì, tôi và nó như nhau, thuộc về đen tối…
Trong cảnh đêm vô tận, dòng tâm tưởng của tôi lan chảy, mặc nó như thủy triều cuộn trào mãnh liệt, mọi vật bên ngoài, đã chẳng còn liên quan đến tôi… điều quan trọng hơn đó là dưới màn trời đêm tăm tối vô biên, tôi sống lại rồi.
Tôi rất cô đơn. Tôi ao ước được gần gũi, khát khao được chăm sóc quan tâm. Hy vọng có một ai đó cùng ở bên tôi, bất cứ lúc nào, cũng đang ở cạnh tôi. Khi ấy, phải là thời gian tốt đẹp biết chừng nào. Hiện giờ thì thật đáng chán, tôi khó mà có được cơ hội để trò chuyện, tán dóc với người khác. Đôi lúc, tôi phát hiện một điểm sáng của cuộc đời, cũng chỉ là chim hồng kinh sợ thoáng lướt qua. Dần dần, tôi bắt đầu buồn bực, bắt đầu oán trách. Cuối cùng, tôi chẳng còn được sự chiếu cố của các vị thần linh, có lẽ các ngài đã vứt bỏ tôi rồi, muốn tôi sống còn trong vùng tăm tối.
Thời khắc hoa đăng bắt đầu thắp sáng, người ta ồn ào náo nhiệt chỉ giống như bầy ong lượn bay trong tổ, tôi ao ước được thể nghiệm niềm vui sướng của sự huyên náo, nhưng mà tôi dường như cùng với người khác không gian bất đồng, đây đó mặc dù có thể nhìn thấy, nhưng vĩnh viễn không thể tiếp xúc.
Xuân đi xuân lại, thu đến thu đi. Đã từng trong gió xuân những chồi non đâm nảy, lớn lên thành những chiếc lá đẹp tươi giữa đêm hè. Rồi trong gió thu múa qua khúc luyến lưu, giữa mùa đông tuyết giá hóa làm bùn tan nát. Sau đó cứ như ảo thuật mà hiện ra tại đầu cành, cả cành lại xanh mướt mượt mà y như trước. Cỏ cây đều có sức sống tốt tươi, có sống có chết, có đến có đi, cái đến hôm nay cũng là cái ra đi ngày trước.
Ngắm nhìn những sinh linh dũng mãnh ấy, tiếng tơ lòng tôi vang dội dường như bị ai ngoắc tay mà búng, lanh lảnh mà dồn dập. Cỏ cây còn có năng lực như thế, tôi mặc dù là một hồn quỷ, song tôi đã từng trải qua khoảng thời gian hai ngàn năm, cũng đã từng tu luyện Đại đạo. Nhìn chúng sinh đông đúc, tôi có lẽ cũng nên sống yên ổn lập nghiệp chứ. Tôi đã rời xa địa ngục, quay về là chuyện không thể, hơn nữa tôi cũng chẳng mong quay về. Bây giờ thì tôi đã đến chốn hồng trần bụi thẳm này, đến lúc để làm một “Con Người” sinh sống tại trần gian, không làm một “Con Quỷ” chỉ có thể sinh hoạt nơi địa ngục nữa.
Tôi trôi dạt bốn phương trời, lang thang lưu lạc đó đây. Lại lần nữa tôi muốn tìm cho mình một nơi chốn, tạo dựng cuộc sống yên bình. Tôi muốn tìm cho mình một người bạn, bạn bên nhau suốt đời. Đã quên rồi từng thấy bao lần chim nhạn tung cánh về Nam, đâu còn nhớ trông qua mấy mùa chim én non rời tổ. Lạnh lùng thay dưới chân bụi vàng lối cũ, hững hờ thay bên mình khói liễu mơ màng. Giữa Đất Trời chỉ còn tôi một mình đang cất bước…
Nhớ lại đầu thu năm ấy…
Phong cảnh nơi quan ngoại đúng là rất khác xa với Giang Nam tại Trung Nguyên, trời cao mây nhạt, mông mênh bát ngát. Nơi ấy có tiếng ca vọng lại: Trời xanh xanh, cỏ mang mang, gió lay cỏ ngã rạp, đàn cừu hiện ra.
Tôi lang thang đây đó trên đồng cỏ bao la, xa xa nhìn thấy núi Hạ Lan oai vệ, nắng trời phủ xuống dãy núi trông rõ mồn một. Trên thảo nguyên chẳng thấy lối mòn, thỉnh thoảng chỉ có người chăn nuôi đánh đuổi bầy dê. Lòng tôi nhẹ nhõm quá, có lẽ là vùng biên ngoại mênh mông này đã mở rộng tấm lòng tôi, gió cát gào thét xua đi những rối mù trong tim tôi. Tôi rất muốn đến chào hỏi những người chăn nuôi ấy, cùng bọn họ trò chuyện, nhưng mà tôi sợ người khác phát hiện thân phận thật sự của tôi, nên do dự hết sức, đành phải ngó trông theo bọn người chăn nuôi lùa đuổi đàn cừu đi mỗi lúc một xa…
Có một hôm, tôi ngồi xổm nơi một đồi cỏ nhỏ, lơ đãng nhìn theo áng mây trôi dạt bên trời. Vầng mây biến đổi thất thường, có lúc là một ngọn núi, lúc thành cái nón, có lúc lại biến thành con ngựa, con cừu… Cừu?! Đột nhiên tôi phát hiện, bên cạnh tôi không biết từ lúc nào, đã chạy đến một đàn cừu đang ăn cỏ, cừu dễ thương quá, chỉ thấy cúi đầu lặng yên ăn cỏ… Tôi kéo một con cừu non ôm vào lòng, ve vuốt lông cừu mềm mại.
Lúc ấy, một con chó chăn cừu chạy đến chỗ tôi, nó dừng lại trước mặt tôi, ngó tôi tròng trọc, tôi cũng nhìn nó. Qua một lúc lâu, con chó đó bộ dạng uể oải nằm xuống bên tôi, tôi đưa tay xoa lên đỉnh đầu nó, nó dùng mũi ngửi quần áo tôi, thè lưỡi liếm tay tôi. Một bóng hình hướng về tôi chạy lại, là một người. Tôi không nén được sự lo lắng đang trào dâng, không biết là nên rời đi, hay là phải… Người ấy đã đến gần trước tôi, con chó chăn cừu đó vùng dậy, thân thiết lấy đầu cạ vào chân người ấy, không ngừng vẫy đuôi. Người này thận trọng quan sát tôi, tôi cũng nhìn lại, là một cô bé, ước chừng mới mười lăm, mười sáu tuổi thôi.
Tôi càng thêm bối rối, tôi sợ bị người ta hiểu lầm tôi là kẻ cắp, sợ người ta chán ghét mình, sợ nói chuyện với người khác. Tôi ngớ ngẩn cười với cô bé, nhưng vì càng căng thẳng, trong tay cứ ôm chặt con cừu non mà chẳng buông ra. Cô gái đó cúi xuống, từ trong tay tôi mà đỡ lấy con cừu non, đem nó ôm vào lòng. Sau đó nói với tôi, anh có đói không? Tôi chẳng ngờ được cô ta lại hỏi tôi như thế, tôi giương mắt mà nhìn, chẳng biết phải nói gì nữa. Cô bé ấy hướng về sườn đồi đi xuống, thấy tôi thẫn thờ không chút phản ứng, bèn quay người lại nói: “Theo tôi đi nhé!” Rồi mĩm cười sáng rỡ…
Tôi chưa từng thấy qua nụ cười nào tươi đẹp đến thế, không! Tôi từng thấy, tôi thấy rồi… Lòng tôi lại nhớ đến ngàn năm trước đó, tại bên cầu Nại Hà, dáng tươi cười vô cùng rạng rỡ… Trong tim tôi một cơn kích động không gì sánh được “Chẳng lẽ là nàng?!” Tôi không biết phải làm gì hoặc nên nói gì, chẳng qua là đôi chân mình đã cất bước rồi, đi theo sau cô ấy.
Dưới sườn đồi có một chiếc lều Mông Cổ, tôi đứng ở bên ngoài, chẳng biết có nên tiến vào chăng. Cô ta vén rèm cửa, lại ban cho tôi một nụ cười, rồi hướng về tôi vẫy vẫy tay. Trong chiếc lều Mông Cổ, trên lò lửa đang nấu nồi thịt dê thơm ngào ngạt, một người đàn ông cao lớn vẫy kêu tôi ngồi xuống, cô cười khúc khích và đưa cho tôi một chén sữa ngựa. Tôi không biết phải nên nói gì, cũng chẳng biết phải làm gì, thôi thì họ đưa tôi cái gì thì tôi ăn cái đó. Nghe họ nói chuyện, tôi biết được cô bé ấy tên là Hốt Lan, người đàn ông cao lớn là cha cô.
Tôi mải mê ăn thịt dê, uống sữa ngựa, cha cô nhìn tôi ha hả cười to, cô lén lút quay sang tôi cười nụ, tôi cũng ngốc nghếch cười đáp trả. Ăn uống xong xuôi, tôi lau sạch miệng; lúc này, Hốt Lan như cười mà chẳng phải, lại chững chạc đàng hoàng quay sang tôi mà nói: “Anh ăn đồ ăn của tôi, anh phải làm đầy tớ cho tôi, đây là tục lệ của thảo nguyên!” Tôi lại lần nữa giương mắt mà trông, chẳng qua tôi thấy nét mặt nghiêm túc ấy của cô, tôi đành phải dạ vâng liên tục.
Bây giờ cô lại phát ra một chuỗi cười với tiếng trong trẻo như chuông bạc, cha cô lại lần nữa sang sảng tiếng cười khoan khoái, chỉ có tôi ngồi tại nơi ấy, tiếp tục giương mắt há mồm. Cha cô hỏi tôi: “Anh là người ở đâu?” Tôi bỡ ngỡ lắc lắc đầu, ông lại hỏi tôi: “Anh bao nhiêu tuổi?” Tôi không dám nói thật là tôi đã hai ngàn tuổi, thế là, tôi lại ngỡ ngàng lắc lắc đầu. Cha cô thầm lẩm bẩm một câu “chẳng lẽ là thằng ngốc ư?!” Cô lại luôn luôn cười lén lút, sau đó cô nhìn cha mà nói: “Người này chơi vui quá, giữ anh ta lại đi!” Cha cô quan sát tôi, lặng yên không nói.
Tôi nhìn cô gái, từ nơi tròng mắt trong suốt của cô, hình như tôi nhìn thấy quá khứ xa xưa ấy, buổi biệt ly thuở trước, bao nhung nhớ một thời, nào sầu muộn trước kia, tất cả những gì trong quá khứ… Tôi chẳng ngăn được mà nước mắt tuôn rơi, tôi dập đầu xuống đất, cầu xin: “Xin cho tôi ở lại đây, chỉ coi như là làm nô bộc cho ông, cầu xin ông cho tôi ở lại đây.” Tôi thật lòng cầu khẩn, chỉ giống như năm ấy tôi van cầu Bồ tát.
Cha con họ vì sự háo hức đột ngột của tôi mà kinh ngạc, song họ nhìn thấy nước mắt và vẻ mặt chân thành của tôi, còn thêm giọng khẩn cầu không cách chi giả tạo, trên mặt họ để lộ sự đồng tình và thương hại. Sau cùng cha cô quyết định cho tôi ở lại. Trong lòng tôi khoan khoái không biết sao mà nói, tôi len lén nhìn cô bé, muốn biết tâm tình của cô. Tròng mắt cô vẫn trong sáng đến thế, nhưng dường như từ nơi sâu thẳm tâm hồn cô, đã chất chứa ít nhiều nghi hoặc.
Tôi không dám nhìn cô nữa, trong dòng triều ký ức giữa tâm tôi phản chiếu lại một thời quá khứ, một đôi mắt u oán nhìn tôi trừng trừng, tôi sợ sệt ánh mắt đó, tôi sợ nhìn thấy ánh mắt đó nữa. Tôi sợ định mệnh… Tôi thầm nói với mình: cho dù em xem tôi như thế nào, tôi suốt đời suốt kiếp này, chỉ làm nô bộc trọn đời trọn kiếp cho em. Cho dù tôi là nô bộc, nhưng chỉ cần được ở bên nhau, được nhìn thấy em, là đủ rồi…
Từ đấy, tôi chỉ trú tại nơi ấy, ngày ngày cùng ở bên em, cưỡi ngựa chăn dê.
Thời gian từng ngày một qua đi, tôi ngày ngày cầu nguyện, cầu cho em mãi mãi sung sướng, cầu cho em mãi mãi đừng chán ghét mà bỏ tôi, mãi mãi cho tôi đi theo em, mãi mãi làm nô bộc cho em… Mặc dù em trước giờ chưa từng coi tôi là nô bộc, nhưng tôi là một con quỷ, một con quỷ chỉ có thể làm nô bộc… Tôi đã từng nghe qua truyền thuyết, nói rằng một vài đá núi cỏ cây có linh tính, chỉ toàn tâm toàn ý muốn đi làm người, về sau quả nhiên được biến thành hình người. Tôi tuy rằng đã có hình người, nhưng tôi vẫn ngày ngày muốn làm người, không biết bao lần nửa đêm tỉnh mộng, tôi đã thấy mình biến thành một con người đích thực.
Cứ như thế mà vài năm trôi qua, em cao lớn rồi, mỗi khi tôi nhìn thấy em, liền bị mê mẩn dại khờ, nhưng tôi luôn luôn kiềm nén lòng ái mộ của mình đối với em, lòng ham muốn đối với em. Tôi mãi mãi ghi nhớ giấc mộng hão huyền đã khắc lòng tạc dạ vào kiếp trước đó, ấy là vì không khứng chịu cuộc tình đơn phương của tôi mà người ta đành chết không chút do dự với đôi mắt oán hờn.
“Chỉ e tình thâm làm lụy đến mỹ nhân”, tôi hiểu rõ đạo lý này. Tôi tình nguyện làm một cây cổ thụ cho em ngồi hong mát, tôi tình nguyện làm một thớt mã mặc ý em thúc giục, tình nguyện làm một chiếc dao găm để em phòng thân, tình nguyện làm một bình trà sữa mà em yêu thích.
Tôi cũng không mong mỏi bày tỏ lòng mến mộ, ảo tưởng ôm chặt em vào lòng, cười xem hoa nở hoa tàn… với em nữa. Tôi đã không dám tin rằng phải chăng mình có số may mắn, không muốn suy đoán mãi là mình có duyên nợ với em hay chăng? Nếu như những giấc mơ tươi đẹp vì tôi lại lần nữa tiêu tán, tôi cũng sẽ không thố lộ nỗi lòng mình nữa…
Về sau, cha em mất, trước khi lìa đời có hứa gả em cho một người trẻ tuổi nơi bộ lạc khác.
Hôm ấy rước dâu, em điểm tô vô cùng xinh đẹp, nước da so với sữa ngựa còn mềm mại hơn, mái tóc so với ngọc trai còn óng ánh hơn, gò má đỏ ửng có thể sánh cùng bóng ráng chiều tà, ánh mắt long lanh như chòm sao lạnh cuối trời. Tôi đắm đuối ngắm nhìn em, nếu em mà là tân nương của tôi, nếu như em là cô dâu của tôi… Tôi chỉ cảm thấy mình đã rơi vào Địa ngục, chìm đắm trong vùng tối đen vô tận, vũng bùn đen ngòm chiếm nuốt tôi, tất cả đến đây là chấm dứt.
Ngơ ngẩn ngắm nhìn em, tôi cảm thấy em sáng ngời đến thế. Trong hào quang rạng rỡ ấy, tôi nhìn thấy một đôi mắt với làn sóng chập chờn xanh biếc, trong mắt để lộ ra bao nghi vấn khôn cùng, tôi không cách nào đọc mà hiểu được ý nghĩa ngầm chứa nơi ánh mắt ấy, bởi vì những lời lẽ trong đó quả thật quá nhiều, nhiều lắm.
Đám rước dâu đi đã xa, tôi lẽ loi một mình đứng nán lại nơi thảo nguyên, đứng đấy rất lâu, tôi không biết mình phải làm gì, chưa biết rằng, tim mình đã bị người ta lấy mất, cái gì cũng chẳng còn.
Thảo nguyên vào đêm khuya, tôi ngẩng đầu lên nhìn trời, trên bức màn đen mượt như nhung ấy giữa khung trời, hiện ra nét mặt em với nụ cười rạng rỡ, rồi lập tức tan biến. Trong khoảnh khắc sáng bừng chất ngất, tầm mắt trông xa thẳm, ánh sao như cơn mưa rơi rụng tơi bời, thế giới cũng dường như cuồng dại, chỉ là không biết dáng tươi cười rồi tan biến ấy là hồi ức trong đời trước hay là tương lai của kiếp này. Một mình đứng giữa canh khuya, ngờ đâu chẳng biết là mình sớm đã lệ rơi đầy mặt…
Tôi cảm thấy đời người quả là bất hạnh, tôi không dám tin vào lòng dạ người khác, không dám suy đoán, sợ mọi việc kết thúc. Có ai nghĩ rằng mọi việc trên thế gian đều có thủy có chung, mà rồi đến lúc sau cùng tôi mới hiểu, thật ra là mình sớm phải nắm chắc, nhưng mà, tôi làm sao biết được?!
Ban đêm nơi thảo nguyên yên tĩnh đến thế, tĩnh lặng đến nỗi nghe thấy nhịp tim chính mình mà không thể nào ngủ được. Tôi vơ tấm ra giường mà em đã dùng qua, ngửi mùi hương như có như không của em. Trong lòng tôi chưa từng đau khổ, không hề hối hận. Tôi một lần lại một lần nhớ lại ánh mắt em, ánh mắt trong vắt như nước ấy…
Lúc sắp chia tay, luôn có trăm ngàn câu nói mà sao lời chẳng ra khỏi miệng. Kẻ phải đi thì sớm muộn gì cũng phải đi. Ngày sau lúc em đi, gió sẽ thổi tan tàn hơi em lưu lại, nhật nguyệt sẽ mang đi tàn vết em từng trải, mây trắng sẽ xóa nhòa dấu tích em ngày cũ, sao mai sẽ lấp che khoảnh khắc sau cùng em vẫy tay. Tôi vĩnh viễn khắc ghi giây phút ấy, như thuở ban đầu mới gặp em…
Đột nhiên, một cánh tay vén mở tấm màn cửa lều, ánh trăng trắng bạc thình lình lan tỏa khắp trong lều, trong lều là tôi đang hết sức kinh hoảng; bên ngoài lều, là gương mặt khiến tôi ngày đêm thương nhớ! Tôi không dám tin vào tất cả những gì đang trước mắt, cho đến khi em bước vào lều, chậm rãi ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi nhận ra mình vẫn đang ôm chặt tấm ra giường của em, tôi bỗng nhiên vô cùng xấu hổ, không biết phải giải thích như thế nào. Tôi ngẩng đầu lên, ngó nhìn em; em đang nhìn tôi chăm chú, chỉ giống như vào năm ấy lúc nhìn thấy tôi tại sườn đồi. Tôi nói chẳng được câu nào.
Em nhẹ nhàng nhích lại, nhè nhẹ đỡ lấy tấm ra giường trong tay tôi, dịu dàng nói với tôi: “Ôm lấy em…”
Tôi không cách nào kháng cự, chẳng thể kháng cự, cũng không muốn kháng cự, đôi tay run rẩy nhẹ ôm lấy eo nàng. Đột nhiên em ngã vào lòng tôi, nghẹn ngào khóc nức nở… Tôi ôm chặt lấy em, em cũng ôm chặt lấy tôi, dùng sức bám chặt tay tôi, mắt chúng tôi đều đang đẫm lệ. Chúng tôi ôm nhau lâu lắm, cho đến khi nước mắt khô rồi…
Tối đêm hôm ấy, em kết hôn với tôi. Tôi rất khoan khoái, rất hạnh phúc; xem ra trong cuộc luân hồi ngàn năm, tôi đã tìm ra tất cả những gì tôi muốn cho mình, định mệnh u sầu tăm tối đã rời bỏ tôi mà đi. Tôi cảm thấy vào giờ khắc này, nơi Địa phủ cũng phải đang chìm đắm trong ánh dương quang. Tôi không ngăn được sự cảm tạ chư vị Thần Minh, cảm tạ lòng từ bi của các Ngài, tôi thật lòng nguyện cầu thoát rời bể khổ vô biên.
Chúng tôi đến một nơi rất xa trên thảo nguyên mà dựng chỗ cư trú, tháng ngày trôi qua thật hạnh phúc, một hạnh phúc bình thường đạm bạc như dòng nước chảy xuôi. Chúng tôi lại giống như thời niên thiếu trước kia, cùng nhau cưỡi ngựa, chăn dê. Đêm khuya, em cuộn mình trong vòng tay tôi, huyên thuyên kể chuyện buồn vui bên lòng. Tôi thường hay vô tình rơi vào giấc ngủ, và rồi em giận dỗi ngắt nhéo đánh thức tôi, sau đó lại nói liên miên câu chuyện không bao giờ dứt, dài lâu…
Tháng ngày hạnh phúc bao giờ cũng trôi qua nhanh lắm, Đất Trời dường như có ý trêu chọc chúng tôi: Để ngươi nhấm nháp một chút vui sướng, sau đó mới bắt ngươi gánh vác sự thương tổn muôn đời…
Em trở bệnh rồi, càng ngày càng tiều tụy, bất cứ thuốc thang gì cũng đều chẳng có tác dụng. Thân thể em ngày càng yếu đuối, y hệt như chiếc lá khô trong cơn gió mùa thu. Tôi nghĩ đến mọi biện pháp, ngay cả đả thương người hầu cận của Côn Lôn Tây Vương Mẫu, để mà đánh cắp tinh chất hoa Tuyết Liên. Thế nhưng bệnh tình em vẫn không hề biến chuyển tốt hơn. Tôi ngắm nhìn gò má trắng bệch ngày càng hốc hác của em, nhìn đôi tròng mắt đen nhánh quyến luyến không rời của em, tôi chẳng ngăn được mắt lệ tuôn trào. Em cười buồn thảm: “ Cùng sống bên anh, quả thật vô cùng tốt đẹp, em chẳng hối tiếc…”
Vào khoảnh khắc ấy, tôi đột nhiên hiểu rõ! Tôi là một con quỷ, một con quỷ hút tinh khí người!! Là tôi đã hại em, tôi là một con quỷ hại người!!! Tôi nghẹn ngào nước mắt tuôn rơi, em nắm chặt lấy tay tôi, mắt chúng tôi mờ nhòe lệ thắm… Tay em chầm chậm buông trượt khỏi tay tôi, tôi cũng chẳng còn nhớ được gì, chỉ nghe ra lời lẽ sau cùng mà em còn lưu lại: “Xin đừng rời xa em…”
Sầu khổ buồn đau dâng đầy tấm thân tôi, bành trướng không ngừng, cuối cùng phun bật ra, hóa thành cát bụi khắp trời, ngập tràn chốn thảo nguyên… Trong cơn bụi cát, tôi thấm lau giọt lệ sau cùng, rồi lẽ loi cất bước giữa mang mang trần thế.
Luân hồi, Nhân quả, Tình duyên, Thương yêu, Hoang mang - vào khoảnh khắc này - đều đã hóa thành sao băng, vụt đến bên trời, rồi lặng lẽ ẩn vào vực sâu thăm thẳm. Thế giới một mảnh đen ngòm, là nơi tim tôi an nghỉ, bên trong chứa ánh sao băng xẹt qua ngắn ngủi nhưng huy hoàng; thế giới trong sát na bừng sáng, ánh sáng ấy vĩnh viễn chẳng phai mờ…
Tôi biết em một lần nữa vì tôi mà chết mất, nhưng tôi không hối hận, bởi vì chúng tôi đã từng được hạnh phúc, chúng tôi hiểu và bảo vệ cho nhau, không xa cách và không bỏ nhau. Trong tháng ngày ấp ủ bên nhau, chúng tôi không biết sợ nỗi chia lìa. Tôi muốn chờ em trở lại, chờ em chuyển kiếp lần nữa. Tôi tin rằng vào lúc em quay lại nữa, nhất định sẽ có biện pháp tìm thấy em và cùng ở bên em. Tôi tin rằng, một ngày nào đó, em cũng sẽ lại quay về.
Hai cuộc tình dường như là một khoảng dài lâu, lẽ nào ta còn đang mãi cuộc sớm chiều?
Lời Kết
Muôn kiếp xoay vần, ngàn ảnh tụ quanh; thoáng say đến chẳng thấu một chung, lúc vào mộng lạnh băng như nước.
Mưa thu điểm giọt, bảo rằng đấy là mộng tưởng, là dịu dàng, là hoang mang, là nhung nhớ, trăng sáng biết, ta biết, chỉ em không biết; lối xưa bụi vàng, lấp đi mất nỗi buồn đau, là dũng cảm, là trung trinh, là đoạn tuyệt, trăng sáng biết, em biết, chỉ ta không biết!
Khoảnh khắc, kiếp trước đời sau; chớp nhoáng, ngàn năm trăm tuổi.
Mây đến bên trời, trăng khuất ngọn cây. Chỉ là không biết cơn gió vô định đó thổi về đâu? Là quay lại, hay là đi mất?
Tâm như hơi động, lệ đã đôi dòng.
_Hết_
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com