Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

ngoctung12

GS nhà giáo Lê Khánh Bằng được nhiều người biết không chỉ là nhà phương pháp trong giáo dục học mà còn biết đến bởi sự uyên bác vì ông có thể giảng bài bằng 6 thứ tiếng khác nhau: Anh, Pháp, La Tinh, Nga, Trung Quốc, Bồ Đào Nha. Điều đáng nói là 6 thứ tiếng này phần lớn do GS tự học. Có được vốn ngoại ngữ nhiều như vậy chính là nhờ biết cách học có phương pháp. Vậy những phương pháp đó là gì? Thiền – đây là một phương pháp dưỡng sinh cổ điển của Ấn Độ, đặc trưng bởi “tập trung tư tưởng” khong cho tạp niệm xen vào trong quá trình học. Thiền ở đây chỉ được sử dụng ở phương diện là một phương pháp để phát huy năng lực của người học.

“THIỀN” là gì? “Thiền” là một quá trình tu luyện gồm những biện pháp thể dục tâm lý, từ gốc là Yoga, được một trường phái phật giáo Trung Quốc kết hợp với phương pháp của đạo lão áp dụng sau đó truyền sang Việt Nam, Nhật Bản và ngày nay cũng được một số người Châu Mỹ vận dụng. Khi thiền ta phải ổn định hoạt động tâm thể bằng điều hoà hơi thở, trên cơ sở ấy, tập trung ý nghĩ vào những bộ phận nào đó của cơ thể, hoặc những giáo lý cơ bản, những vấn đề mình quan tâm. Khi thiền con người phải hết sức tập trung, làm cho các kích thích bên ngoài không xen vào được, toàn tâm tập trung vào một ý. Đây là một kỹ thuật điều khiển tinh thần, giúp con người sử dụng bộ não triệt để, động viên được những năng lực tiềm ẩn. Có thể về mặt cơ chế, thiền là tập trung tư tưởng cao độ vào một vấn đề hay một công việc nhất định.

Thiền có thể quy ước phân làm 2 loại: thiền tĩnh và thiền động:

Tĩnh là ngồi yên (có thể nhắm mắt hay mở mắt), tập trung suy nghĩ vào hơi thở (thở sâu, êm, nhẹ) hoặc vào một vấn đề nào đó (bài học).

Động là tập trung suy nghĩ vào một vấn đề nào đó (một chủ đề, một công việc), đồng thời có thể dùng các động tác để thể hiện vấn đề đó, như viết, nói, cử động chân tay.

VẬN DỤNG THIỀN ĐỂ TẠO NÊN MỘT VÙNG NGOẠI NGỮ TRONG VỎ NÃO

Đối với học ngoại ngữ, thiền có tác dụng góp phần tạo nên một vùng ngoại ngữ trong vỏ não. Có thể áp dụng theo công thức 5 bước chuyển vào trong và 5 bước chuyển ra ngoài

5 bước chuyển vào trong như sau:

Bước 1: Sau khi thư giãn và tập trung tư tưởng cao độ, học viên đọc thật to (đúng trọng âm và ngữ điệu) để tạo nên một khu vực hưng phấn mạnh trong vỏ não và nhằm góp phần ức chế vùng tiếng mẹ đẻ. Có thể đọc to như vậy 3 đến 5 lần hoặc hơn càng tốt. Lúc này cần đọc to và đúng chứ chưa cần đọc nhanh.

Bước 2: Đọc to vừa, đúng ngữ điệu, tốc độ có thể nhanh dần lên. Đọc như vậy 3 đến 5 lần hoặc hơn.

Bước 3: Đọc mấp máy môi có âm thanh và ngữ điệu vang lên nho nhỏ. Đọc 3 đến 5 lần, tốc độ nhanh nhất có thể được. Làm như vậy để cho khu vực hưng phấn mạnh, nhưng rất khuyếch tán lúc ban đầu nay tập trung dần lại.

Bước 4: Đọc trong óc, còn gọi là đọc liếc hay đọc thầm. Lúc này môi không mấp máy, âm thanh không phát ra, nhưng người đọc vẫn phải cảm thấy âm thanh và ngữ điệu vang lên trong óc. Đọc như thế nhiều lần, có thể từ 10 đến 100 lần, cho đến khi thuộc lòng hẳn, tốc độ ngày càng nâng lên.

Bước 5: Bước quan trọng và quyết định nhất. Đọc thuộc lòng trong óc nhiều lần để hằn sâu vào trong vỏ não, để đặt được một viên gạch vào vùng ngoại ngữ mới xây dựng. Bước này có thể tiến hành theo trình tự, nhẩm đọc trong óc, lúc đầu từ từ sau đó tăng dần lên đến mức nhanh nhất có thể được (ví dụ một bài khoá khoảng 130 từ: 15 – 30 giây), nếu chưa đạt được tốc độ như thế phải luyện tập tiếp.

5 bước chuyển ra ngoài gồm:

Bước 1: Đọc trong óc.

Bước 2: Đọc mấp máy môi.

Bước 3: Đọc to vừa, tốc độ nhanh và rất nhanh.

Bước 4: Đọc thật to đúng trọng âm, đúng ngữ điệu với tốc độ nhanh nhất có thể được, nhưng không được sai sót.

Bước 5: Tập trung tư tưởng cao độ, vừa đọc thầm, vừa viết ra giấy với tốc độ nhanh nhất

Khi đã có vùng ngoại ngữ trong đầu, người học có thể duy trì nó và dễ dàng tiếp nhận thêm những ngoại ngữ khác. Khái quát lại như GS Bằng nói: “đột phá một điểm, khai thông toàn diện. Với phương pháp này không chỉ giúp chúng ta vận dụng vào dạy và học ngoại ngữ mà còn học tốt các môn khoa học khác”.

A. Cái nhìn từ thực tế và kinh nghiệm…

Dù bạn học Đông học Tây, học chỗ này chỗ khác, nhưng trước khi nói về mọi thứ, tôi thành thật khuyên bạn: “Hãy giành những khoảng thời gian cho riêng mình”.

Bạn bận bịu ư? Bạn thiếu thời gian ư? Bạn phải chạy hết “lò” này đến “lò” kia? Hay bạn phải dự những lớp học phụ đạo? Chúng ta có thể ngồi nghĩ ra hàng đống lí do để giải thích cho sự tồn tại của dăm ba con nhền nhện ngay trong cái góc học tập nhỏ xinh nằm đối diện với chiếc giường ngủ hàng ngày. Rất nhiều học sinh thời nay không có thời gian để học, chỉ vì họ quá bận học. Nghe thật khôi hài phải không? Tuy nhiên, đáng buồn thay, đó lại là sự thật. Bởi vì đối với họ không tồn tại khái niệm tự học.

Chúng ta đưa quá nhiều thứ vào trong bộ não từ các bài giảng trên lớp cũng như tại lớp học thêm. Chúng ta nghĩ rằng đổ đầy dầu thô vào bình xăng là có thể chạy được xe gắn máy. Chúng ta tưởng cứ tống đẫy hồ vào bụng là sẽ làm nên một thân thể khỏe mạnh, cường tráng. Thực tế không phải như vậy. Con chữ cái nghĩa bạn học trên lớp mới chỉ ở dạng “chưa tinh chế”, tức là dù đã được giáo viên biên soạn kĩ lưỡng, nó vẫn cần phải “xào” lại để thực sự trở thành của bạn. Đáng tiếc thay, hàng ngày, chúng ta đang cố “ăn sống nuốt tươi” tri thức bằng cách nạp nó vào thật nhiều. Và ở đây, cái qui luật bất biến của hệ tiêu hóa vẫn khẳng định được tính đúng đắn của nó - cái gì càng sống sượng thì càng dễ bị đào thải.

Sự thực là, có rất nhiều cô cậu tân sinh viên bị choáng váng thật sự khi bắt đầu bước chân vào giảng đường Đại học, nơi mà hai chữ “tự học” được đặt ở vị trí rất cao. Mặc dù ở Việt Nam thì cao lắm cũng chỉ bằng nửa cái chân ghế đẩu là cùng, nhưng đối với họ, đó đã tưởng như một cú sốc ghê gớm lắm. Môi trường mới, phương pháp dạy mới, chỉ có cách học thì “em vẫn cứ ngoan như ngày nào”. Vâng, sáng sớm bảnh mắt ra đã hùng hục ghi ghi chép chép, rồi thầy cho gì thì nhặt lấy, hệt như mấy chú Tiểu Ngộ Không trong rạp xiếc, hay dăm ông thực khách sang trọng chỉ biết ăn nhà hàng. Cái thói quen cố hữu ấy từ muôn thủa đã ăn sâu vào trong tiềm thức của các cô cậu cử nhà ta rồi. “Học phải ghi, thi phải thuộc” – ngày nào lên lớp không viết độ dăm ba mặt giấy phê đúp thì ngày ấy như chưa học gì. Ôi, cái quan niệm mới đáng buồn làm sao! Tôi đã từng biết có người ngày nào cũng lên lớp, vở văn học rặt chỉ toàn chữ là chữ, từ đầu đến cuối không sót một bài nào, nhìn phát ngốn. Nhưng hỏi tới thì viết một đoạn văn cũng không nên hồn, câu cú lủng cà lủng củng, ý tưởng thì lộn xộn, rồi trích dẫn sai lung tung. Cả các sinh viên của chúng ta nữa. Ngày ngày cắm đầu cắm cổ nhịn đói lên giảng đường cốt sao cho thật sớm, đặt mục tiêu phải viết hết đống mực Tàu trong cái quản bút to đùng, rồi đến khi động vào kiến thức thì vẫn cứ lơ ma lơ mơ, láng máng, léng phéng, lùng phùng, cái gì cũng “như quen mà như lạ”, thật đáng thất vọng thay!

Có một đặc điểm chung đối với tất cả những học sinh, sinh viên kể trên là: Họ giành quá ít thời gian để tự học. Và điều này đã ảnh hưởng lớn đến họ. Ra ngoài đời, họ thường loay hoay, bỡ ngỡ, phản ứng chậm trước những thay đổi và biến động của cuộc sống. Trong công việc, họ hay gặp nhiều khó khăn, lo nghĩ, thiếu tính tự xoay sở, và hành động không độc lập, quyết đoán, đôi khi dựa dẫm nhiều vào người khác. Bởi vì khi học để làm người, họ đã bỏ qua cái cơ hội để được rèn luyện tính chủ động, độc lập. Và họ đã mất rất nhiều, dù công sức học tập bỏ ra không phải là nhỏ.

Bản thân tôi là một kẻ hầu như không đi học thêm trong suốt quãng thời gian là học sinh phổ thông. Chỉ khi lên đại học, do vốn tiếng Anh quá đuội và sau khi tự học thất bại, tôi mới tìm đến một trung tâm tiếng Anh để luyện tập. Phần lớn thời gian học ngoài giờ trên lớp tôi đều dành để tự trau dồi. Và tôi thấy được vai trò vô cùng quan trọng của việc tự học. Nó đã giúp ích cho tôi, và tạo cho tôi nhiều đức tính tốt trong tư duy, suy nghĩ. Và chính cái thói quen ấy đã ít nhất vài lần giúp tôi trong học tập. Hồi cuối năm lớp 12, với vốn kiến thức rỗng như cái rá thủng, tôi phải bắt tay vào tự học môn Lý (toàn bộ chương trình 12), và Hóa (bắt từ lớp 10). Ở thời điểm đó, một chữ bẻ đôi tôi cũng chịu. Không thầy (vì lúc đó chẳng ai có hơi đâu mà dạy một thằng mù chữ), không bạn (vì lúc đó chẳng ai có hơi đâu mà học cùng một thằng mù chữ), tôi phải tự đào tạo mình. Thời gian từ lúc bắt đầu học đến lúc thi chưa đầy 3 tháng. Một mình tự thiết kế lịch học, tự lập kế hoạch, tự đặt chương trình, tự nhồi nhét, tự đọc hiểu, tự lăn lộn, tự dày vò, bằng tất cả kinh nghiệm vốn có, trong suốt gần 90 ngày, cuối cùng trước khi thi tôi cũng đã thở phào nhẹ nhõm. Và kết quả tôi giành được không phải là quá tệ. Qua đó, tôi đã rút được bài học cho bản thân, và cũng là một niềm tin rất lớn: “Nếu biết cách tự học, tôi có thể học được”

B. Tự học sẽ đem lại những gì?

Vâng, tự học mang lại cho bạn rất nhiều thứ:

-Một tinh thần chủ động trong học tập và rộng hơn là trong cuộc sống

-Khả năng xoay sở, giải quyết vấn đề

-Khả năng nhìn nhận vấn đề

-Năng lực truyền thông, phương pháp luận cho bản thân

-Khả năng tư duy sáng tạo

-Tính tự giác cao

-Niềm hứng thú, say mê

-Khả năng lường trước các tình huống

-Sự tự tin

-Vốn kiến thức rộng

-Khả năng hiểu biết chuyên sâu về một lĩnh vực

-Tính năng động

-Những thử thách, đấu tranh với bản thân

Và còn rất nhiều điều khác nữa mà ở cái thời điểm ngồi trên chiếc ghế tựa cứng như sừng trâu và đồng hồ điểm 12 giờ 14 phút 58 giây này tôi chưa liệt kê ra được…

C. Bạn có nhận thức thế nào về tự học?

Bạn có suy nghĩ của riêng bạn, và tôi cũng vậy. Tuy nhiên, mời bạn đọc thử cách nhìn nhận của tôi, một kẻ vốn lười đến lớp vì quản ngại nắng mưa nên đành phải ngồi nhà gặm nhấm đống sách vở một mình.

Tự học được chia làm hai mức độ khác nhau. Ở mức độ thứ nhất – tôi gọi là tự ôn luyện. Hàng ngày bạn đến lớp nghe giảng, ghi chép, sau đó về nhà làm những bài tập cho sẵn, xem lại sách, thực hiện những công việc mà giáo viên giao cho bạn. Đôi khi, giải quyết hết đống bài vở ấy cũng chiếm của bạn cả ngày trời rồi. Điều đó rất tốt, bởi bạn đã dành thời gian để tiêu hóa đống kiến thức ngồn ngộn mà ở cái tuổi của bạn không đáng phải tiếp thu nhiều đến như vậy. Tuy nhiên, vẫn chưa đủ đâu bạn ạ. Đôi lúc, bạn gặp một học sinh hay một sinh viên kì tài. Dường như điều gì họ cũng biết, cũng giỏi. Bạn ngạc nhiên vì kiến thức vượt trội của họ. Làm sao họ có thể tài thế nhỉ? Mình bò ra học cả ngày mà xem ra vẫn kém họ, cả về mặt hiểu biết lẫn kĩ năng. Thực ra họ cũng có 24 giờ một ngày như bạn thôi, vấn đề là họ chủ động trong học tập, và do đó, họ có cả niềm hứng thú lẫn hiệu suất. Đây mới là mức thứ hai, mức quan trọng nhất, nó quyết định rất nhiều đến cái mà tiếng Anh người ta gọi là “kờ - nao – lít” (knowledge – tri thức) của bạn, tôi tạm gọi là tự rèn luyện, hay chính xác hơn là tự học.

Nên nhớ rằng, ở mức trước, dù đã giành cho mình một “khoảng không” riêng, bạn vẫn là người “bị động”. Nghĩa là nền tảng của bạn vẫn do người khác trang bị, bạn chỉ có nghĩa vụ củng cố hay thẩm thấu nó thôi. Bạn vẫn chưa “ra quyết định” cho vốn kiến thức của mình. Và vì thế, dù bạn có làm hết các bài tập, có thuộc làu nội dung bài giảng đi nữa, bạn vẫn chưa thể đạt đến “sự đột phá cho riêng mình”, và bạn chắc chắn sẽ vẫn phải ngạc nhiên vì vốn hiểu biết của người khác. Hãy thử quan sát, để có một bài học trọn vẹn ghi vào sổ đầu bài hàng tuần, các nhà sư phạm và người học của chúng ta sẽ phải làm gì:

-Hội đồng Quốc gia biên soạn giáo trình (hay SGK gì gì đó) cho các bạn

-Giáo viên đọc giáo trình, paste vào một quyển vở (thuật ngữ sư phạm gọi là soạn giáo án) hay copy vào CPU của mình, tóm tắt lại thành các gạch đầu dòng (thuật ngữ sư phạm gọi là dạy học bằng phương pháp PowerPoint)

-Giáo viên có thể đọc thêm tài liệu, bổ sung kiến thức cho bạn

-Giáo viên cố gắng diễn đạt ý tưởng của các nhà khoa học vĩ đại trong vòng 45 phút giữa tiếng ồn của máy khoan cắt bê tông và tiếng ngáp ngắn ngáp dài của một buổi bình minh muộn…

-Học sinh có thể ghi chép hoặc không, nhưng phải làm sao đó để nhập tâm, phục vụ cho bài kiểm tra…

-Những học sinh chăm chỉ giành thời gian xem lại bài giảng, đọc, học thuộc, làm bài tập, ghi nhớ,…

-Và giáo viên kiểm tra bài cũ dưới những con mắt lo lắng của gần năm chục cô cậu học trò. Lác đác vài cánh tay xung phong lên bảng giữa nhịp đập hối hả của những con tim sợ phải lên bảng trả bài…

Cái hệ thống phân quyền từ trung ương đến địa phương này có tác dụng phổ cập hơn là dành riêng cho bạn. Đó là mô hình chung của các trường phổ thông Việt Nam ngày nay. Nó cần phải thay đổi. Tuy nhiên, đó là công việc của các nhà điều hành, làm luật, tổ chức, những người có nhiều học hàm, học vị, và phải một thời gian nữa mới có sự biến chuyển được. Còn bây giờ, các bạn “sinh ra phải thời loạn lạc, trưởng thành gặp buổi gian nan”, dù có khó nhọc thì cũng phải xào nấu riêng cho mình một cách nào đó để mà học cho tốt. Và vì thế, hãy tiếp nhận kiến thức một cách chủ động. Muốn học, muốn hiểu sâu một vấn đề nào, tốt nhất hãy tự chạm tới nó trước, tự gieo mầm, tự gợi mở, tự tìm tòi, trước khi có ai đó nói cho bạn. Lần đầu tiên, thứ hai, thứ ba, chắc chắn sẽ rất khó khăn, nhưng đừng có nản. Nên nhớ bạn đang làm đầy đủ công việc của cả một mô hình giáo dục thu nhỏ, từ khâu thiết kế thượng tầng trung ương đến triển khai ở cấp cơ sở, và vì thế, thử thách là điều không thể tránh khỏi. Ở Mỹ, sinh viên phải đọc trước hàng trăm trang sách, thậm chí đi nghiên cứu, thu thập thông tin hàng tuần lễ để chuẩn bị cho một bài giảng. Đến lớp, họ không nghe giáo viên nhắc lại kiến thức đâu, mà đó là tranh luận, cái thuật ngữ mà dân du học nhà ta vẫn gọi nôm na là đì -bết (debate) hay “hội đồng nhà mõ”. Và hiểu biết cứ thế nảy sinh, dưới nhiều góc độ khác nhau.

Tất nhiên, dù bạn có thế nào đi nữa, chúng ta vẫn rất cần những người thầy. Khi người học đã tự tiếp nhận kiến thức thì vai trò của người thầy (hướng dẫn, tác động…) là không thể thiếu. Nó có tác dụng định hướng rất tốt cho sự phát triển, cũng giống như bánh lái để điều chỉnh phương hướng của con tàu, còn động cơ thúc đẩy sự chuyển động. Nếu bánh lái cũng kiêm cả phần của động cơ (như dân ta ngày nay quá ỷ lại vào người thầy), con tàu sẽ ì ạch, khó mà linh hoạt được. Bản chất của tự học là tự làm việc với chính mình trước, nghiên cứu tài liệu, trao đổi với bạn bè dưới sự hướng dẫn của người thầy. Tất nhiên, ở môi trường như của VN, cái mệnh đề trên có thể khuyết đi một vài vế (vì căn bệnh chạy đua thành tích, vì tính ỷ lại, hay vì người thầy quá tận tâm mà làm luôn việc hộ trò). Mời các bạn tham khảo cái sơ đồ rất hay dưới đây từ một hội thảo giáo dục của Liên Hợp Quốc mà tôi sưu tầm trên mạng (từ diễn đàn Chúng ta):

-Học mà chỉ nghe giảng, nhớ 5% những gì đã nghe

-Đọc (reading) 10%

-Nghe nhìn (Adio Visual) 20%

-Làm thí nghiệm trước mắt 30%

-Thảo luận nhóm (Disscussion group) 50%

-Làm bài ở nhà, ghi, viết lại (Practice by doing) 75%

-Dạy người khác (Teach other/immediate use of learning) 90%

Bạn thấy đấy, từ 50% trở lên toàn là công việc của bạn. Đừng trách tại sao suốt ngày lê la trên giảng đường mà chữ nghĩa cứ rụng sạch. Nếu bạn là thiên tài mà nhớ được hết ngay những gì trên lớp thì quá tốt rồi. Nhưng mà xác suất để bạn là thiên tài nhỏ lắm bạn ơi, và vì thế, hãy nhìn vào thống kê với số đông ở trên. Khi tự học trước ở nhà, bạn đã được nghiên cứu hai lần một bài giảng rồi đấy. Lần đầu là chính bạn, tự mày mò, tự vỡ vạc. Lần sau là quan điểm chính thống của giáo viên, bạn có thể đối chiếu, so sánh, ghi nhớ. Và dù lần đầu có sai lầm đi nữa, chắc chắn bạn cũng đã học hỏi được rất nhiều.

Có rất nhiều phương pháp học tiếng Anh. Tùy theo cách học và điều kiện của mỗi người mà sẽ có những phương pháp riêng phù hợp và hiệu quả. Dưới đây tôi xin chia sẻ với các bạn những kinh nghiệm của riêng mình sau một số năm đi học và giảng dạy cũng như kinh nghiệm của rất nhiều người đã từng học tiếng Anh hiệu quả trước đó. Bài viết này chỉ xin bàn về những vấn đề cơ bản nhất đối với người học ngoại ngữ không chuyên.

Học phát âm

Phát âm không đúng là một trong những điểm yếu lớn nhất của số đông người học tiếng Anh. Học phát âm là một phần cực kỳ quan trọng vì có nói đúng thì mới nghe tốt và truyền đạt ý tưởng của mình đến người nghe chính xác nhất. Đặc biệt đối với những người mới bắt đầu học tiếng Anh, phát âm chuẩn là ưu tiên hàng đầu để tránh những lỗi sai rất khó sửa về sau này. Trước khi nói hay, ta cần học cách nói đúng trước đã.

Lời khuyên: Các bạn cần nắm vững Hệ thống Phiên âm Quốc tế (International Phonetic Symbols - IPS) có in đằng sau các cuốn từ điển và tập thói quen luôn luôn tra cứu phiên âm mỗi khi bắt gặp một từ mới để có thể phát âm đúng nhất. Ngoài giờ học trên lớp với các thầy cô, các bạn nên tự học phát âm ở nhà qua phần mềm Speech Solutions và tham khảo thêm phần phát âm của đĩa CD-ROM Cambridge Advanced Learners’ Dictionary được bày bán rất nhiều tại các cửa hàng vi tính.

Học từ vựng

Nguyên tắc học từ vựng phổ biến là học trong cụm từ trong câu, tránh học từ chết. Ví dụ học từ “corner” phải học trong nhóm từ “on the corner of”, học “interested” phải nhớ cụm “be interested in” thì mới biết cách đặt câu cho đúng.

Để nhớ được từ vựng thì không có cách nào hiệu quả bằng cách sử dụng chúng. Một cách học thông minh là bạn hãy cố gắng “chen” những từ vừa mới học vào khi tập nói hay khi tập viết email bằng tiếng Anh. Có thể lúc đầu bạn còn rất lúng túng và thiếu tự nhiên nhưng chính những lúc như vậy bạn sẽ nhớ từ được nhiều nhất và theo thời gian, bạn sẽ sử dụng được ngày càng nhiều từ vựng hay một cách thành thạo. Cốt lõi vấn đề ở đây chính là bạn đang tự giúp mình tạo ra những tình huống để có thể sử dụng ngay những từ mới học. Bạn không nhất thiết phải viết từ ra giấy nhiều lần vì việc này chỉ giúp bạn nhớ được chính tả của từ mà thôi.

Bạn cũng cần luôn mang theo một cuốn sổ nhỏ ghi chép từ vựng mới bên mình để tranh thủ học khi rảnh rỗi. Hãy đặt cho mình mục tiêu mỗi ngày học vài từ tùy theo khả năng của mình và nhớ là ôn tập thường xuyên theo định kì (3 ngày, 1 tuần hay một tháng). Cố gắng ôn lại từ vựng đã học ít nhất là 3 lần mới có thể nhớ tốt được chúng.

Để ý cách trình bày từ vựng: sử dụng nhiều màu viết khác nhau, vẽ hình hay sơ đồ theo chủ đề càng nhiều càng tốt.

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều sách tự học từ vựng rất hay. Tôi xin giới thiệu các bạn tham khảo bộ sách sau: Basic Vocabulary in Use, Vocabulary for Intermediate Students, Vocabulary for Upper - Intermediate Students.

Học nói

Nói là kỹ năng quan trọng và thú vị nhất của bất cứ một ngôn ngữ nào. Chúng ta luôn có cảm giác tiến bộ to lớn và rõ rệt nhất khi có thể giao tiếp lưu loát trực tiếp bằng ngôn ngữ nói. Theo tôi, để học nói các bạn đừng quá vội vàng. Có nhiều người may mắn sống trong môi trường tiếng Anh nên họ có thể học nói ngay từ mới bắt đầu học ngoại ngữ. Tuy nhiên, đối với phần lớn mọi người thì chúng ta nên cần có một nền tảng ngôn ngữ nhất định (từ vựng, ngữ pháp, phát âm, cấu trúc câu) ít nhất là 6 tháng trước khi bước vào một khóa học nói thực thụ.

Đối với những người không có điều kiện sống hay làm việc trong môi trường tiếng Anh thì ta nên tranh thủ luyện nói như sau:

- Tận dụng tối đa những giờ luyện tập trên lớp tại các trung tâm ngoại ngữ (tập nói càng nhiều với bạn bè dù là những cấu trúc đơn giản nhất, đừng chỉ thực tập qua loa chiếu lệ vì càng luyện nói nhiều ta càng nhớ bài lâu hơn và tạo được cho mình phản xạ nhanh nhẹn khi gặp những tình huống tương tự trong đời sống).

- Khắc phục tính nhút nhát và sợ sai của mình. Cứ mạnh dạn nói tiếng Anh bất cứ khi nào có thể.

- Tìm một bạn học hay nhóm học ưng ý và sắp xếp thời gian học nhóm với nhau. Có nhiều bạn hẹn nhau đến lớp sớm 30 phút và chỉ ngồi nói chuyện bằng tiếng Anh với nhau mà thôi. Đây là một cách học rất tốt và giúp nhau cùng tiến bộ.

- Tham gia các câu lạc bộ tiếng Anh vào cuối tuần.

Học nghe

Để nghe tốt một bài khóa trong sách tiếng Anh ta thường phải trải qua các bước sau. Trước khi nghe, bạn hãy suy nghĩ về đề tài đó để giúp bạn hình dung và phán đoán được những gì sắp nghe, nghe ý chính trước tiên để trả lời câu hỏi tổng quát, nghe những từ chính rồi đoán, không nhất thiết phải nghe ra từng từ từng từ một, sau đó nghe lại nhiều lần để biết được càng nhiều chi tiết càng tốt để có thể hoàn tất các câu hỏi trong bài. Tuyệt đối không xem trước nội dung bài khóa trước khi nghe. Chỉ khi nghe xong rồi bạn mới vừa nghe vừa đọc bài để kiểm tra lại và học thêm từ mới cũng như tăng cường các cách diễn đạt hay có trong bài. Bạn cũng nên đọc theo băng nhiều lần sau khi nghe xong để luyện phát âm và nhớ bài tốt hơn.

Nguyên tắc chung cho việc rèn luyện kỹ năng nghe hiệu quả là nghe càng nhiều càng tốt. Tranh thủ mọi tài liệu và cơ hội nghe có thể (nghe băng, nghe nhạc, nghe radio, xem TV, xem phim Mỹ có phụ đề tiếng Anh …). Trên thị trường hiện nay cũng bán rất nhiều sách luyện nghe tiếng Anh để bạn có thể tự học thêm ở nhà.

Ngoài ra, còn có một công cụ vô cùng hữu hiệu để rèn luyện mọi kỹ năng cho người học tiếng Anh ngày nay, đó chính là Internet. Bạn có thể đọc báo, nghe tin tức, tìm tài liệu online bằng tiếng Anh. Ngoài ra, trên Internet còn có rất nhiều trang web cung cấp các bài học tiếng Anh miễn phí rất thú vị và tiện lợi. Tôi xin giới thiệu một số trang web để các bạn có thể tham khảo và tự học thêm ở nhà.

• www.bbclearningenglish.com

• http://www.britishcouncil.org/learning

• http://esl.about.com/

• http://::1e4::sl.org

• www.manythings.org

• www.freenglish.com

• www.english-at-home.com

• www.tolearnenglish.com

• www.vocabulary.com

Tóm lại, nguyên tắc cơ bản nhất để học tốt tiếng Anh là thực tập và sử dụng cũng như tiếp xúc với tiếng Anh càng nhiều càng tốt. Mỗi ngày, bạn hãy đặt ra cho mình một khoảng thời gian nhất định (từ 30 phút đến 1 tiếng) để học tiếng Anh và duy trì lịch học như vậy đều đặn và thường xuyên. Sau một thời gian kiên trì áp dụng những nguyên tắc trên, tôi tin rằng tiếng Anh của bạn sẽ tiến bộ một cách nhanh chóng và bạn sẽ thêm yêu cái thứ tiếng thú vị và rất cần thiết cho tương lai của bạn sau này. Nếu bạn đọc báo tiếng Anh thường xuyên, trình độ tiếng Anh của bạn sẽ cải thiện, nhất là về vốn từ vựng. Thêm vào đó, bạn sẽ học được cách viết câu nhờ vào những từ và cấu trúc bạn đọc được từ báo.

Đọc báo tiếng Anh đem lại rất nhiều lợi ích, bởi:

- Báo sử dụng ngôn ngữ hiện đại và thông dụng.

- Báo là nguồn thông tin đa dạng và phong phú về thế giới.

- Báo đưa bạn cơ hội học hỏi về những lĩnh vực chuyên sâu trong cuộc sống.

- Báo có thể giúp bạn tìm việc hay chỗ ở cho nơi bạn sắp chuyển đến. Nếu bạn đọc báo tiếng Anh thường xuyên, trình độ tiếng Anh của bạn sẽ cải thiện, nhất là về vốn từ vựng. Thêm vào đó, bạn sẽ học được cách viết câu nhờ vào những từ và cấu trúc bạn đọc được từ báo. Cách hành văn của bạn nhờ đó cũng sẽ gần gũi và tự nhiên hơn với lối hành văn của người bản xứ.

Với những bạn đang muốn đạt các chứng chỉ tiếng Anh quốc tế như IELTS / TOEFL / FCE / CAE, giám khảo (examiners) khuyên bạn nên đọc báo tiếng Anh thường xuyên vì những bài báo sẽ được sử dụng trong phần thi viết và đọc. Các bài kiểm tra theo chuẩn Cambridge không chỉ muốn kiểm tra việc bạn hiểu các bài báo đến đâu mà còn muốn biết bạn có thể viết được chúng không nữa. Và sẽ đặc biệt hữu dụng khi bạn đọc tờ New Scientist và the Economist để sẵn sang cho các câu hỏi về lĩnh vực học thuật.

Nguồn báo từ nước Anh:

Financial Times

Times

Telegraph

the Guardian

METRO

Mirror

the Sun

The SundayTimesNguồn báo từ nước Mỹ:

The New York Times

The Wall Street Journal

The Washington Post

Los Angeles Times

USA Today

New York Daily News

NewYork Post

Chicago Sun-Times

Houston Chronicle

Nên đọc báo tiếng Anh như thế nào?

Học sinh sinh viên thường chú tâm vào câu hỏi làm sao để đọc báo một cách hiệu quả hay nên đọc bao nhiêu bài báo mỗi tuần và mỗi ngày. Câu trả lời phụ thuộc vào trình độ tiếng Anh của bạn. Tôi biết nhiều học viên học rất kém tiếng Anh. Họ gặp khá nhiều khó khăn trong việc đọc và vì thế họ thỉnh thoảng mới đọc.Những học viên giỏi tiếng Anh thì khác, họ thường xuyên tìm đọc các thông tin từ báo NY Times. Với những học viên ở trình độ trung bình thì họ đọc các bản tin ngắn trong ngày… Tuy nhiên, tôi tin rằng bạn càng đọc nhiều thì tiếng Anh của bạn sẽ càng tiến bộ.

Bạn cũng nên đọc bài báo từ các vùng mà bạn thích. Ví dụ như nếu bạn muốn định cư tới Úc, hãy cố gắng đọc báo nước này. Tuy nhiên việc đọc những bài báo đa dạng về tác giả, phong cách viết hay chủ đề..sẽ giúp mở rộng kỹ năng tư duy và giúp bạn học nhiều từ mới hơn.

Tìm được động lực để đọc cũng rất quan trọng. Tôi khuyên các bạn nên đọc những bài viết về chủ đề mà các bạn yêu thích. Từ đó việc học của bạn sẽ trở nên dễ dàng hơn. Đặc biệt, bạn sẽ có hứng thú đọc và biến việc đọc báo tiếng Anh trở thành một thói quen tốt.

Nếu bạn học tiếng Anh mãi mà vẫn không hiệu quả, hãy thử các phương pháp sau đây xem sao:

Chia đúng động từ

Đừng nghĩ việc chia những động từ đơn giản như I am, he is... hay thêm "s" vào sau động từ thường là việc không đáng quan tâm. Điều mà bạn cho là quá đơn giản ấy lại là một trong những lỗi thường gặp khi sử dụng tiếng Anh. Chia động từ cũng là một yếu tố căn bản trong ngữ pháp tiếng Anh. Một khi bạn không thể làm đúng thứ căn bản nhất thì khó có thể làm đúng những thứ phức tạp hơn. Hãy bắt đầu bằng việc viết những câu đơn giản với cấu trúc "chủ ngữ + động từ".

Nghĩ gì viết nấy

Có một bài tập thế này: hãy viết đầy một trang giấy tất cả những gì bạn đang nghĩ trong đầu bằng tiếng Anh. Cứ để dòng suy nghĩ đang chảy trong đầu được hiển thị hết lên trang giấy. Thậm chí, nếu viết sai một từ và như phản ứng tự nhiên, bạn sẽ nghĩ ngay trong đầu rằng: "Thôi chết, mình viết sai từ này rồi!" thì đừng dừng lại để sửa mà hãy viết câu bạn vừa nghĩ lên giấy. Phương pháp "Nghĩ gì viết nấy" này có 2 lợi ích: một là giúp bạn kỹ năng viết tiếng Anh nhanh, nghĩ đến đâu viết đến đó như quán tính có sẵn, không phải nặn óc suy nghĩ; hai là giúp tập thói quen suy nghĩ bằng tiếng Anh.

Tập suy nghĩ bằng tiếng Anh

Nếu bạn suy nghĩ bằng tiếng Việt rồi viết hay nói bằng tiếng Anh thì sẽ mất thời gian và công sức để dịch điều đó ra tiếng Anh. Chưa kể bạn còn phải suy nghĩ xem dịch như vậy đã đúng chưa. Chi bằng tập suy nghĩ bằng tiếng Anh để tiết kiệm khoản thời gian đáng kể cộng với việc tiếng Anh sẽ tự động tuôn ra khi bạn viết hay nói mà không gặp mấy trở ngại.

Hãy phát âm đúng

Sau bao lần cố căng tai ra hay mua một tai nghe thật xịn với hy vọng nghe tốt tiếng Anh mà vẫn không thành công, hẳn là bạn đã luyện nghe chưa đúng cách. Nguyên nhân có thể do bạn phát âm sai. Từ chỗ phát âm sai, bạn sẽ quen với việc từ đó phải phát âm như thế. Hậu quả khi người khác phát âm đúng, bạn chẳng thể nhận ra đó là từ quen thuộc và không hiểu họ đang nói gì. Khi phát âm, nhớ chú ý đến trọng âm của từ, ngữ điệu trong câu và nhất là phần kết thúc từ...

Bật phụ đề khi xem phim

Khi xem các bộ phim tiếng Anh, nhớ bật phụ đề tiếng Anh. Đừng tự ép mình luyện nghe bằng cách tắt phụ đề và nghe diễn viên nói chay. Bật phụ đề sẽ giúp bạn biết được một từ được đọc chính xác như thế nào hay một từ vựng mới do diễn viên nói sẽ được viết ra sao, từ đó học được từ mới, cách phát âm đúng nhanh hơn.

Tập đặt câu với các từ mới

Sau khi đã học được một từ vựng mới, cách nhanh nhất để nhớ nghĩa từ đó là tập đặt câu với nó, thậm chí viết một đoạn văn trong đó có từ mới biết. Lợi ích của phương pháp này là giúp bạn "khắc ghi" từ mới vào đầu bằng cách vận dụng nó vào thực tế chứ không học thuộc lòng.

Mạnh dạn nói chuyện với người nước ngoài (nếu gặp )

Đừng sợ nói sai hay ngượng ngùng khi nói chuyện với người nước ngoài. Nếu ngại hay sợ sai thì bạn sẽ không bao giờ nhận ra nhược điểm của mình và mãi mãi không sửa được nó. Thêm vào đó, những người mà tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ của họ sẽ không cười bạn đâu. Thậm chí họ còn giúp bạn sửa lại cho đúng nữa!

Một cách học Tiếng Anh đầy sáng tạo và thú vị, giúp bạn nhớ từ vựng Tiếng Anh lâu thật là lâu. Để giỏi tiếng Anh, bạn phải kết hợp tốt rất nhiều kỹ năng và yếu tố khác nhau. Một trong số đó là trang bị một vốn từ “hoành tráng”. Tuy nhiên, việc học từ vựng vốn dĩ xưa nay với bất cứ người nào (thậm chí cả dân bản xứ) cũng là một việc không dễ dàng gì. Những cách thức truyền thống mà học sinh vẫn thường được dạy khi học từ vựng là tập viết, đặt câu, đọc những bài văn liên quan đến từ đó, thậm chí… ngồi ngâm đến thuộc. Một số cách mới hơn như “flash card” cũng không đạt hiệu quả cao, và mua chúng cũng không phải là rẻ. Vậy có cách nào giúp bạn học nhanh, nhớ nhanh, hứng thú mà lại nhớ từ rất lâu, thậm chí ghi nhớ cả đời không? Bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn các bạn một phương pháp học từ đặc biệt. Phương pháp này không có xuất xứ chính thức từ đâu cả, nó xuất hiện ngẫu nhiên với nhiều người học tiếng Anh và sau đó được phổ biến. Trong tiếng Việt, hãy tạm gọi phương pháp này là “kỹ thuật tách ghép từ”. Hãy đến với ví dụ bên dưới đây Ví dick: Brusque (adj): lỗ mãng, cộc cằn Ví dụ bạn vừa nhìn là một từ tiếng Anh rất khó và hiếm. Nếu bạn gặp phải nó một lần, làm thế nào để ghi nhớ nó trong một thời gian dài, khi mà cơ hội bạn sẽ gặp lại nó trong cuộc sống là rất thấp. Bí quyết là gì? Hãy xem “kỹ thuật tách ghép từ” giải quyết vấn đề trên thế nào. Từ BRUSQUE có thể tách là BRUS-QUE Tiếp đó, từ BRUS được biến đổi thành BRUSH (bút vẽ) và từ QUE biến đổi thành từ QUEEN (nữ hoàng). Như bạn thấy, những từ như BRUSH (bút vẽ) và QUEEN (nữ hoàng) là những từ vô cùng đơn giản với những người đã học tiếng Anh. Bây giờ, với từ BRUSQUE ban đầu nghĩa là “cộc cằn thô lỗ”, bạn hãy liên tưởng nó đến BRUSH (bút vẽ) và QUEEN (nữ hoàng). Hãy tưởng tượng tại vương quốc của những cây bút vẽ, có một nữ hoàng ngự trị. Bà ta là một kẻ rất thô lỗ cộc cằn. —-> The BRUSH QUEEN is very BRUSQUE Hãy để có trí tưởng tượng của bạn được thỏa sức phát triển. Hãy hình dung hình ảnh trong câu văn vừa rồi thành những gì sinh động nhất, thú vị nhất bạn tưởng tượng được ra trong đầu. Tưởng tượng và liên tưởng càng hay bao nhiêu, bạn càng nhớ từ lâu bấy nhiêu. Giờ hãy dành thời gian xem lại một lần nữa ví dụ ở trên. Bạn đã thuộc từ tiếng Anh này chưa? Nếu rồi, chúc mừng bạn, bạn đang nắm trong tay một phương pháp học từ vô cùng hiệu quả. Điểm mấu chốt của “kỹ thuật tách ghép từ” là nó dựa trên những từ gốc của từ người học đang nghiên cứu, sau đó biến đổi một cách cố ý để giúp người học lần sau gặp lại có thể dựa trên các đầu mối để nhớ ra từ. Có một kịch bản mà rất nhiều người học tiếng Anh gặp phải là: “Ồ mình đã gặp từ này một vài lần rồi nhưng không nhớ được nghĩa là gì?” Rõ ràng nhiều học sinh có ý thức họ đã gặp từ tiếng Anh này rồi, nhưng những manh mối của họ quá nhạt nhòa nên chỉ dừng ở cảm giác chứ không thể nhớ ra chính xác nghĩa của từ đó là gì. Sau khi dùng kỹ thuật tách ghép từ, mỗi khi nhìn vào một từ nào đã từng học, những từ ngữ bị tách lập tức sẽ biến thành manh mối dẫn người học tới nghĩa chính xác của từ. Đây là một phương pháp rất hay dành cho những ai muốn nâng cao vốn từ vựng mà không quan trọng quá việc nhớ chính xác một từ viết thế nào, chỉ cần nhận ra mặt chữ là được. Dưới đây, để giúp các bạn hiểu hơn, bài viết xin cung cấp thêm vài ví dụ: + AUGUR(v) tiên đoán – Hãy nghĩ tới AUGUST (Tháng Tưởng tượng: Một vị pháp sư có khả năng AUGUR (tiên đoán) những gì xảy ra trong AGUST (tháng + BERATE (v) nghiêm trách, trừng trị – Hãy nghĩ tới BE-A-RAT (một con chuột) Tưởng tượng: Một cậu bé vì quá nghịch ngợm nên đã bị bà tiên trừng phạt, bà tiên BERATE (trừng phạt) cậu bằng cách MAKE HIM BE A RAT (biến cậu thành một con chuột) Không có một cách tách ghép từ chuẩn xác nào cả, tất cả phụ thuộc vào tính sáng tạo của bạn. Càng sáng tạo bao nhiêu, việc học từ của bạn càng đơn giản và dễ dàng bấy nhiêu. Tuy có một số hạn chế, như không phải từ nào cũng có thể tách ra được, hoặc không phải ai cũng có sức sáng tạo mà ngồi tách ra được từng từ, nhưng quả thật đây là một cách học từ rất hay và hiệu quả. Hầu hết những ai đã thử qua phương pháp này đều nhận thấy rằng họ hầu như không quên từ mình đã học. Những ví dụ trong bài được lấy từ cách tách từ của một bạn học sinh lớp 12 tại Hà Nội. Hiện bạn này đang viết một ebook về kỹ thuật tách từ này, đưa ra 500 từ phổ biến trong văn bản học thuật cấp cao tiếng Anh. Việc sử dụng ví dụ hoàn toàn được sự cho phép của bạn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: