nguoc ve trieu minh 171-185
171 Ngầm nổi sát khí
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: 6300
Hiệu đính:
Nguồn: www.tangthuvien.com
Hàn Ấu Nương đưa mắt trông theo kiệu của Âu Dương phu nhân khuất sau hàng rào bụi cây, nàng đang định cùng Cao Văn Tâm trở vào trong thì phía sau hàng rào đã xuất hiện hai con tuấn mã một trắng, một đỏ phóng nhanh đến.
Đường mòn không rộng mấy, có lẽ vì muốn tránh va phải nương tử nhà họ Nghiêm nên cặp tuấn mã phóng vội lên ụ tuyết đọng ven đường. Trước mặt con đường nhỏ là một dòng suối hẹp quanh co đã đóng băng, chỉ thấy kỵ sĩ trên ngựa ghìm cương, nhổm người, hai thớt kiện mã đã chồm lên, xoay thân gần chín mươi độ bay vòng sang.
Lúc xưa tại Kê Minh, Hàn Ấu Nương đã từng gặp Mã Liên Nhi cũng là kỵ sĩ cao cường như thế. Lúc này thấy vậy, hai mắt nàng mở to. Người trên bạch mã là một cô gái xinh đẹp, thân hình tuyệt mỹ, tóc mai đen nhánh, mặt phấn cằm xinh. Cưỡi trên con ngựa đỏ bên cạnh là một tráng niên khôi ngô mặc áo vàng.
Cao Văn Tâm nói nhỏ với Hàn Ấu Nương:
- Muội muội, đó là khách của nhà mình.
Hàn Ấu Nương vừa đáp vâng, hai con ngựa đã phi đến trước mặt. Người đàn ông trên ngựa cười ha ha mở lời:
- Cao cô nương, lại gặp mặt rồi!
Nói xong không cần chống lên yên ngựa, hắn lập tức đánh chéo chân nhảy ngay xuống đất, thân thủ rất mạnh mẽ.
Cô gái áo đỏ nhoẻn cười, vịn yên ngựa rồi cũng nhẹ nhàng nhảy xuống đất, tiến lên hai bước chắp tay cười chào:
- Cao thần y! Vợ chồng chúng tôi đặc biệt đến cảm tạ ơn Cao thần y và Dương đại nhân đã ra tay cứu mạng.
Cao Văn Tâm vội đáp:
- Vị này chính là Dương phu nhân.
Vợ chồng Dương Hổ nghe vậy vội cùng song song chắp tay thi lễ. Hàn Ấu Nương đã nghe sơ qua chuyện của bọn họ, từ khi vào kinh tới nay nàng chỉ gặp người trong quan trường nên cặp vợ chồng hào sảng này rất hợp tính với nàng. Hàn Ấu Nương vội vui vẻ tiến lên trước nghênh đón, nói:
- Dương đại ca, Dương phu nhân, tướng công nhà ta làm công chuyện hãy còn chưa về. Ấu nương đã sớm nghe đến đại danh hai vị. Mau mời vào bên trong.
Vợ chồng Dương Hổ không ngờ một vị cáo mệnh phu nhân lại nói chuyện cởi mở như thế, bên cạnh cảm giác bất ngờ lại có nhiều phần thân thiết. Bốn người vừa vào đến viện đúng lúc Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đến chào đón, đi theo phía sau với vẻ mặt vô cùng đau khổ đích thị là Ngũ Hán Siêu.
Suốt dọc đường Dương Hổ mang đám người Dương Tuyền, Ngũ Hán Siêu vào kinh, Ngũ Hán Siêu đã khi mê khi tỉnh nên ũng coi như quen biết nhau. Vừa thấy hắn, Dương Hổ liền phóng tới nhằm bả vai đối phương đấm một quyền, vừa ha ha cười nói:
- Ngũ lão đệ, ngươi đã khỏe chưa?
Hắn luyện công phu ngoại môn, một đôi thiết chưởng có thể đánh tan bia, vỡ đá. Quyền này xuất lực rất nhiều, nhưng Ngũ Hán Siêu phản ứng cực nhanh, quyền phong vừa tới sát, thân hình hắn liền hơi rùn xuống, bả vai hơi hạ thấp. Động tác này ngay lập tức đã tước mất quá nửa lực đấm của Dương Hổ.
Dương Hổ chỉ cảm thấy quyền đánh vào không khí, giống như đánh trúng một tấm vải mùng treo trên không trung, không hề có lực phản chấn. Đương lúc hắn ngẩn ngơ thì một luồng kình mềm dịu bắn ra, cú đấm đã sượt bả vai Ngũ Hán Siêu. Ngũ Hán Siêu vẫn đứng tại chỗ như không có chuyện gì, chỉ cười khổ nói:
- Dương huynh nhẹ tay một tí đi, huynh đệ còn chưa khỏe hẳn đâu.
Thôi Oanh Nhi chưa từng cùng yêu đạo Lý Phúc Đạt chạm mặt, nhưng biết lão có ba con trai tên Nhân Từ, Đại Nghĩa, Đại Lễ. Ba người này hiện vẫn chỉ là thanh niên xấp xỉ đôi mươi. Năm trước ở Bá Châu, Thôi Oanh Nhi đã giao thủ cùng Lý Đại Nghĩa, hai người ngang tài ngang sức.
Thôi Oanh Nhi rất tự tin vào bản thân, nàng không tin gã thư sinh trước mặt này có thể đánh bị thương cha của Lý Đại Nghĩa, cho nên trước khi đến đây đã bày mưu đặt kế để trượng phu thăm dò võ công của hắn nông sâu thế nào. Có câu kẻ thạo nghề chỉ cần vừa ra tay, liền biết tài năng như thế nào. Vừa rồi thử Ngũ Hán Siêu một chiêu, Thôi Oanh Nhi đã nhìn ra võ nghệ của thư sinh này quả thật tuyệt vời. Dù là chính mình cũng chưa chắc là đối thủ của hắn.
Thôi Oanh Nhi xoay tròn đôi mắt xinh đẹp, liếc Dương Hổ, sẵng giọng:
- Tay chân lúc nào cũng vụng về, vị Ngũ huynh đệ này vết thương chưa lành, chàng đừng làm cho người ta bị nặng thêm.
Nói xong nàng cười khanh khách nghênh đón Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân, mỗi tay dắt một cô, khen:
- Dương phu nhân đoan trang hào phóng, hai vị muội muội cũng là nhân gian tuyệt sắc, khiến tỷ tỷ thấy mà rất hâm mộ đấy.
Ngọc Đường Xuân mặt như trăng rằm, mắt như làn thu thủy, mắt ngọc mày ngài, tự có nét phong lưu. Bởi vì ngày mai chính là hai mươi ba tháng chạp, nên tất cả cùng quét dọn nhà cửa cúng ông táo. Đây là ngày tết chính thức đầu tiên sau khi Dương Lăng thành lập gia đình. Bởi Ấu Nương rất quan tâm đến ngày này, cả phủ trên dưới đều vô cùng coi trọng.
Ngọc Đường Xuân mặc chiếc váy dài xếp nếp màu hồng mặc trong dịp lễ hội, bên ngoài khoác áo chẽn màu xanh nhạt, trên mái tóc mây cài một cây trâm bạch ngọc, tư thế yểu điệu thanh tú, eo thon dịu dàng vừa một nắm tay. Vẻ yêu kiều của nàng đúng là mỹ lệ nhất trong chúng nữ.
Tuyết Lý Mai mặc một bộ áo khoác tơ tằm màu lục dệt kim tuyến, vận một cái váy gấm kết hoa vàng nhạt, miệng anh đào nhỏ nhắn, răng trắng môi đỏ, mặc dù trông hơi xinh xắn ngây thơ, nhưng cũng là tiểu mỹ nhân linh động hoạt bát.
Tuy hai cô chưa biết thân phận của Hồng nương tử nhưng thấy Thôi Oanh Nhi cũng mắt hạnh hàm đào, xinh đẹp như ngọn lửa nóng mà lại không hề tiếc lời ca ngợi hai cô như thế nên không khỏi mở cờ trong bụng, lật đật mỉm cười chào nàng.
Những cô gái này tụm lại với nhau. Cô này khen cô kia có kiểu tóc kết rất đẹp, cô kia khen lại cô này có bộ quần áo phối hợp rất duyên, … chuyện nhà chuyện xóm vui vẻ trò chuyện không thôi, vứt Dương Hổ và Ngũ Hán Siêu qua một bên. Hai người nhìn nhau cười khổ, đành phải chậm rãi bước theo sau cùng bước vào phòng chính.
Cao quản gia thấy khách đến nhà đã sớm dặn dò nữ nô tì bưng lên trà thơm, hạt dưa, mọi người liền ở phòng khách nói chuyện phiếm. Đang lúc nói chuyện, ngoài cửa chợt vang lên tiếng ngựa hí, chỉ trong chốc lát Dương Lăng khoác chiếc áo khoác dài dẫn hai phiên tử đi huỳnh huỵch vào trong viện, từ xa đã lớn tiếng la lên:
- Quản gia! Thành cô nương có đang ở nhà không?
Cao quản gia vội vàng đẩy cửa ra ngoài đón, nhỏ giọng thưa:
- Lão gia! Có khách đến viếng phủ, phu nhân đang tiếp khách đấy.
Dương Lăng hơi giật mình, hỏi:
- Ai tới vậy?
Đang khi hỏi chuyện, y vừa đưa mắt lên đã thấy Hàn Ấu Nương và vợ chồng Dương Hổ nghe tiếng đã ra tới cửa đón. Dương Lăng vội vàng thu lại sắc mặt vô cùng lo lắng của mình, thay bằng bộ mặt tươi cười nói:
- Hóa ra là Dương huynh, Dương phu nhân! Đã không nghênh đón sớm rồi!
Tuyết Lý Mai lén cười khúc khích, thầm thì vào tai Ngọc Đường Xuân:
- Vị này là Dương phu nhân, vị kia cũng là Dương phu nhân. Nhắm mắt lại nghe, còn tưởng rằng đang gọi phu nhân của mình .
Ngọc Đường Xuân nghe xong cũng nhoẻn miệng cười, nàng sợ bị người nghe thấy nên lặng lẽ bấm cô em gái nghịch ngợm này. Tuyết Lý Mai đang cười trộm, chợt cảm thấy trên mông bị chích nhẹ vội quay đầu lại nhìn, nhưng chẳng phát hiện được gì nên nàng hơi kinh ngạc.
Trong khi đó, Dương Hổ và Ngũ Hán Siêu lại đều thấy rõ động tác của Thôi Oanh Nhi. Nàng không hề quay đầu lại, chỉ cung tay búng ra, một viên đá nhỏ lập tức bắn về phía sau, lượn một vòng cung chính xác đánh trúng vào mông Tuyết Lý Mai. Hai người cùng liếc mắt nhìn nhau, lại cùng thầm hiểu trong lòng, không cần nói gì cũng không quay đầu lại.
Dương Lăng vừa từ trong cung trở về. Mới đến cổng thôn y gặp quản gia của Cao viên ngoại - một trong Lục Đại địa chủ của bảy tòa hoàng thôn trang bản địa, Dương Lăng liền xuống ngựa bắt chuyện với lão.
Y không muốn quấy nhiễu dân chúng. Thực tế cho dù lấy quyền thế của y muốn cưỡng đoạt đất đai của những địa chủ thân hào nông thôn này cũng chẳng thể được. Nhưng mà, sau lễ cúng ông Táo chính là lập xuân. Y muốn ở gieo trồng rộng rãi loại giống lương thực mới lân cận kinh thành, nhằm sản xuất đại trà giống lương thực này, đào tạo một lứa gia phu hiểu rõ phương cách thu hoạch canh tác mới, làm cho trăm quan trong triều cúi đầu với sự thật trước mắt. Nhưng mà trong tay y lại không có đủ đất đai nên tất cả sẽ chỉ là nói suông.
Dương Lăng thử dò hỏi vị lão quản gia này về khả năng thuê hoặc mua đất đai của Cao viên ngoại, y không thể ngờ lão quản gia kia nghe xong lại tỏ vẻ kinh ngạc khó hiểu. Từ miệng lão, Dương Lăng mới biết được, ngoài Lý Kế Mạnh ra, bây giờ đất đai sáu vị viên ngoại xung quanh đều thuộc quyền sở hữu của Thành Khởi Vận. Chuyện này là do vị công tử họ Thành và Cao lão gia bàn bạc. Ngay cả lão quản gia cũng không biết rõ tình hình.
Dương Lăng và Thành Khởi Vận sống chung với nhau hơn hai tháng. Y sớm biết vị Thành cô nương này tùy hứng kiêu ngạo, làm việc chỉ theo sở thích, không màng chính tà. Tuổi thực của Dương Lăng còn lớn hơn của Thành Khởi Vận hai tuổi, sao y lại nhìn không ra tâm tư ton hót muốn lấy lòng mình của cô nàng?
Bình thường y chỉ là giả ngu giả dại thôi, bây giờ nghe xong tin tức này y không biết Thành Khởi Vận dùng thủ đoạn lừa gạt như thế nào lại khiến cho sáu vị thân hào này ngoan ngoãn giao đất đai, hơn nữa cho tới nay vẫn không dám loan tin, cho nên y vội vàng chạy về phủ muốn hỏi cho rõ.
Y không ngờ vợ chồng Dương Hổ lại đến thăm viếng vào lúc này, đành phải bình tâm tiếp đãi hai vị khách trước đã. Nam chủ nhân trở về nhà, đám phụ nữ cũng không tiện ở bên cạnh, Hàn Ấu Nương bồi tiếp Thôi Oanh Nhi, một đám chị em líu ríu đi thẳng vào nhà sau. Dương Lăng cùng Dương Hổ, Ngũ Hán Siêu ở phòng chính nói chuyện phiếm.
Ba người chuyện vãn một hồi, dần dần kéo sang chuyện võ học. Ngũ Hán Siêu và Dương Hổ một mặt vừa kể lại kinh nghiệm ngày ấy cùng lão đạo sĩ động thủ so chiêu, một mặt hoa tay múa chân diễn tả. Trò chuyện tới lúc hào hứng, hai người liền muốn so tài một phen.
Trước cửa có cây cối vườn hoa nên không tiện động thủ. Dương Lăng cũng rất muốn xem thử một lần những võ lâm cao thủ thật sự này đánh nhau ra sao, liền đứng lên cười nói:
- Hai vị! Sân sau của tại hạ khoáng đãng rộng rãi, các vị đã muốn so tài một phen hay là chúng ta hãy đi đến đó đi. Ha ha, có điều vết thương của hai vị vừa lành, chúng ta cần phải đến điểm là dừng nhé.
Ba người nói cười đi vào hậu viện, đi thẳng tới sân vườn phía sau. Dương Lăng thấy bên trái chính là thư phòng nơi Thành Khởi Vận ở tạm, liền bảo:
- Hai vị! phu nhân tại hạ cũng là người thích võ. Ha ha, để ta gọi các nàng cùng đến mở rộng tầm mắt. Quản gia, ông đưa hai vị quý khách đến vườn sau trước đi.
Dương Lăng cáo lỗi xong, vội rẽ vào nội thư phòng. Vừa vén mành cửa, y đã thấy Thành Khởi Vận đang ngồi ngay ngắn trên ghế tựa, nghiêng nghiêng vầng trán xinh đẹp, bàn tay trắng nõn đang cầm cây bút lông sói viết gì đó trên tờ giấy Tiết Đào(1) màu lam nhạt. Thấy Dương Lăng đi vào, Thành Khởi Vận hơi kinh ngạc, xen lẫn vui mừng. Nàng cười thánh thót như suối reo, đặt bút xuống, tha thướt đứng dậy bước vòng qua thư án, chào:
- Đại nhân, sao hôm nay ngài nhàn rỗi đến thăm ty chức vậy?
Dương Lăng thấy nàng mặc chiếc váy trong nhà màu xanh nhạt, ngoài choàng áo chẽn cùng màu, toàn thân trắng trong thuần khiết, xinh đẹp nho nhã. Hơn nữa chiếc váy của nàng được may cắt khéo léo, áo chẽn nhẹ nhàng mềm mại càng tôn lên những đường cong nhấp nhô mềm mại, thân thể uyển chuyển vô cùng.
Dương Lăng đột nhiên nhớ tới ngày nàng mới tới Dương phủ, eo thon mang vòng chuông vàng nhỏ, xinh đẹp với làn da như nước, xương mềm như rắn. Cơn giận hơi hơi hạ xuống một ít, y bình tĩnh chậm rãi bước thong thả tới ngồi vào ghế tựa chất vấn:
- Ta hỏi cô, hiện nay có tám chín phần mười đất đai bảy tòa hoàng trang đều đã đứng tên cô phải không? Sao ta không biết gì cả?
Thành Khởi Vận ngạc nhiên, hai mắt mở to, sau đó cười khúc khích, ngọt ngào đáp:
- Đại nhân việc công bận rộn quá đi, chút chuyện nhỏ này tự nhiên có ty chức cống hiến sức lực rồi. Ngài biết được cũng tốt, nếu không thì hôm nay ty chức cũng dự định báo cho ngài biết. Qua Tết nên sớm chuẩn bị đầy đủ, trâu cày này, các loại lương thực này, nông cụ này, còn có việc động viên tá điền nữa. Việc cần chuẩn bị cũng không ít đâu.
Dương Lăng nhíu mày bảo:
- Không phải ta hỏi việc này. Ta muốn hỏi cô làm thế nào mà có thể khiến cho những địa chủ kia chịu nhượng lại đất đai?
Thành Khởi Vận tỏ vẻ ngoan ngoãn, khóe môi anh đào lại giống như lấp ló ý cười. Nàng trộm liếc Dương Lăng, cười xinh xắn đáp:
- Đại nhân đoán không ra à? Hì hì, có Nội xưởng dùng làm chiêu bài chữ vàng ấy, ty chức.......
Dương Lăng nghe tới đây thì lòng trầm hẳn xuống, nhịn không được vỗ bàn, tức giận gắt:
- Quả nhiên không ngoài sở liệu của ta, cô...... Cô dùng Nội xưởng đe dọa cưỡng bức bọn họ. Cô định biến Nội xưởng thành ra như Cẩm y vệ và Đông xưởng hay sao?
Y tức giận đến xanh mặt, phất tay áo đứng lên nói:
- May mà bản quan biết sớm, bằng không sau vài ngày các Ngự Sử ngôn quan sẽ ào ào thượng tấu buộc tội bản quan. Bản quan chưởng quản hoàng trang chưa đầy một năm đã chiếm cứ hết sạch đất đai, tội danh này làm thế nào thoát khỏi? Lập tức mang ruộng đất trả hết cho ta. Đúng là việc tốt không đủ, việc xấu lại có thừa!
Thành Khởi Vận chết sững, hai tay trong tay áo run lên nhè nhẹ, ống tay áo đang cuộn cũng rũ xuống, cặp mắt long lanh chơm chớp, một làn hơi nước nhanh chóng trào lên. Nàng bước từng bước đến bên cạnh bàn, nhìn chăm chú Dương Lăng rất lâu rồi bỗng nhiên gật đầu lộ vẻ sầu thảm cười nói:
- Hay lắm! Thì ra đại nhân xem ta là loại người như vậy.
Nàng đưa một tay đang run lẩy bẩy nhón lên một xấp giấy từ trên bàn, chậm rãi đưa đến trước mặt Dương Lăng. Năm ngón tay nàng xòe rộng, xấp giấy rơi xuống một cách buồn bã.
Dương Lăng ngạc nhiên nhặt xấp giấy lên. Tờ nằm ở trên cùng rõ ràng là bản khế ước Cao viên ngoại bán ruộng đất, có chữ kí và dấu lăn tay của hai bên, lại có bảo trưởng, hương thân làm chứng. Văn tự ghi rõ Cao viên ngoại đem tám trăm ba mươi mẫu đất liệt kê bên dưới bán cho nàng lấy chín nghìn lượng, lập ngày mồng một tháng chạp năm Hoằng Trị thứ mười tám.
Giá cả thế này rất là hợp lý, với lại so với giá thị trường thì còn cao hơn một chút. Nhưng Dương Lăng cũng biết rằng cho dù giá cả cao gấp vài lần đi chăng nữa, trừ phi cuộc sống khó khăn không còn cách nào xoay xở chứ những hương thân địa chủ này cũng dứt khoát không bán điền sản. Y lật qua một tấm khác, vừa liếc qua không tránh khỏi sửng sốt. Tờ văn tự này cũng có đôi dấu tay như tấm trước, nhưng bản này lại là khế ước Thành Khởi Vận bán đất.
Bản khế ước này ghi rõ Thành Khởi Vận bán tám trăm ba chục mẫu đất cho Cao viên ngoại lấy bảy ngàn năm trăm lượng. Dương Lăng nhìn mà chẳng hiểu ra sao, mãi tới lúc nhìn thấy ngày ký giấy là ngày một tháng chạp Chính Đức nguyên niên, y mới chợt bừng hiểu.
Thì ra Thành Khởi Vận lấy lời to dẫn dụ bọn họ, ký cho mấy vị đại địa chủ này tấm “chi phiếu” nhận tiền ở tương lai. Những ruộng đồng này một năm thu lãi ròng nhiều nhất là một ngàn lượng, bây giờ không cần bận tâm chút nào mà cho dù hạn hán hay bão lụt đi chăng nữa họ vẫn có thể cầm được một ngàn năm trăm lượng bạc trắng. Có khế ước trong tay, sang năm lại có thể thu đất đai trở lại. Loại chuyện tốt như thế này chỉ có đồ ngốc mới không đồng ý.
Dương Lăng vội vàng đứng lên, nhìn thấy nàng đang bành miệng, uất ức giống như một đứa bé, trong lòng vừa áy náy, vừa hơi buồn cười. Y dừng chân một chốc, thở dài than:
- Cô...... Sao cô không sớm nói cho ta biết, cần gì phải giấu giấu giếm giếm.
Thành Khởi Vận ấm ức:
- Người ta nghĩ được biện pháp này, nhưng người ta cũng không biết bọn họ sẽ đồng ý hay không, làm sao mà có thể nói trước cho đại nhân biết chứ? Nếu như chính mình không làm địa chủ, những nông dân tá điền kia sẽ không an tâm canh tác. Chính người ta tự móc bạc ra làm việc cho đại nhân... Từ khi đến làm môn hạ của đại nhân, sức cũng vì đại nhân mà dốc, mạng cũng vì đại nhân mà bán. Tuy đã từng có lần lầm lỗi với đại nhân, nhưng làm sao đại nhân lại cho rằng người ta tệ hại như vậy?
Thành Khởi Vận càng nói càng thương tâm, hai hàng nước mắt trong vắt dọc theo gò má trơn bóng của nàng từng giọt rơi xuống. Từng giọt lách tách đập vào nửa trang giấy Tiết Đào, ngay lập tức thấm nhòe nét mực.
Dương Lăng chỉ cảm thấy toàn thân nóng bừng, áy náy nói:
- Này...... Này...... Phải phải phải, là ta sai rồi, ta nhận lỗi với cô. Ái chà, làm sao cô vừa gặp ta là khóc thế này!
Thành Khởi Vận nói tiếp:
- Còn không phải chính đại nhân hại người ta sao?
Nhưng lời này vừa ra miệng, cảm thấy ý nghĩa hơi mập mờ, má nàng không khỏi nóng lên.
Dương Lăng không dám nhìn bộ dạng đau lòng đáng thương của nàng, ánh mắt cụp xuống. Y nhìn thấy những chữ trên tấm giấy hoa tiên kia có phần quen mắt, nhịn không được kéo nó lại gần. Nước mắt đã làm ướt nhòe vài chữ, hai hàng bên trái còn thấy rõ, dòng chữ nhỏ nhắn xinh đẹp viết chính là "Thiếp tựa mù giăng, chàng tựa trăng. Trăng lặn mù tan đọng sương lan. Cảm lòng chàng..."
Dương Lăng chỉ vừa đọc đến đấy thì đã bị Thành Khởi Vận đoạt tấm giấy lại, mặt trái xoan đỏ bừng. Nàng sẵng giọng:
- Chưa thấy đại nhân nào lại như vậy, ai đời... Ai lại xem đồ của người ta một cách tùy tiện như thế!
Tuy nàng lớn như vậy nhưng vẫn là lần đầu động chân tình, lại bị Dương Lăng thấy được, nhất thời không kiềm được xấu hổ, vẻ mặt xinh đẹp đỏ như ráng chiều, còn muốn mạnh miệng nói bướng. Ngược lại Dương Lăng ước rằng chính mình chưa đọc được nó. Y đang xấu hổ không biết nói cái gì cho phải thì ngoài phòng có tiếng bước chân vang lên, giọng Hàn Ấu Nương vọng lớn:
- Tướng công! Thành cô nương!
Dương Lăng sợ nàng thấy Thành Khởi Vận rơi lệ, vội vàng quay lại bước ra ngoài đón. Y thấy Hàn Ấu Nương đang dẫn Cao Văn Tâm đi tới, vui vẻ nói:
- Tướng công, chàng đang ở đây à. Dương đại ca và Ngũ công tử muốn tỷ thí võ nghệ, Thành cô nương có muốn xem qua không?
Nàng đến gần kéo tay Dương Lăng, nhỏ giọng nói:
- Tướng công, võ công Ngũ công tử rất cao. Chàng nhận chức Tổng đốc Nội xưởng, thủ hạ đều là hảo hán sử thương múa bổng. Lát nữa chàng tìm cơ hội bái huynh ấy làm thầy học một chút đi, vừa có thể phòng thân lại có thể khỏe người.
Dương Lăng cười nói:
- Nàng thật là…. Có món tốt nào cũng đều muốn đắp vào người tướng công. Đa số người trong võ lâm đều giữ kín tay nghề, xem như châu báu. Đã mở miệng mà người ta không dạy chẳng phải là mất mặt sao?
Từ sau sau lưng y một âm thanh khẽ cười vang lên:
- Đại nhân, phải là Võ Đang ước gì có được người đệ tử như ngài mới đúng. Võ Đang chính là từ đường của hoàng gia Đại Minh, chưởng giáo chân nhân nhận chức lục phẩm tại triều đình. Trước nay luôn do ti Lễ Giám phụ trách việc quản lý, ước thúc tất cả công việc của Long Hổ Sơn ở Giang Tây, núi Võ Đang ở Hồ Bắc, am Ngọc Hoàng ở Sơn Đông. Nếu như ngài mở miệng, còn sợ chưởng giáo Võ Đang không liều mạng nịnh bợ sao?
Thành Khởi Vận nói xong khoan thai bước đến, thu lại tay chắp sau lưng dịu dàng thi lễ với Hàn Ấu Nương, chào hỏi:
- Ra mắt phu nhân! Mới vừa rồi ty chức cùng đại nhân thương nghị việc đổi mới cây trồng vào đầu xuân, làm trễ nải nhã hứng của mọi người rồi.
Dương Lăng đưa mắt nhìn.Vừa rồi hai mắt Thành Khởi Vận còn đẫm lệ mơ màng, nay mà chỉ trong giây lát hai má nàng lại trắng suốt không tỳ vết, rất mịn màng, hai mắt trong vắt như suối nước mùa thu. Dáng cười trong trẻo của nàng nào còn mang một chút dấu vết gì là đã khóc. Công phu trấn tĩnh của nàng cũng khiến cho Dương Lăng hoài nghi không biết mới vừa rồi mình có hoa mắt nhìn lầm hay không.
Bốn người trở lại trong viện. Dương Hổ, Ngũ Hán Siêu, Hồng nương tử Thôi Oanh Nhi và Ngọc nhi, Tuyết nhi cùng với người nhà đều đang đợi trong viện. Cả đoàn người cùng kéo vào sân sau xem hai người tỷ thí võ nghệ.
Dương Lăng mong thấy được cảnh phóng qua, vọt lại phi phàm như trong phim ảnh, không ngờ khi thật sự giao thủ lại cực kì nhàm chán. Động tác ra chiêu công thủ căn bản không có gì đẹp đẽ, hai người càng rất ít khi nhảy vọt khỏi mặt đất. Dương Hổ dáng người cao lớn, ngoại gia công phu xuất thần nhập hóa, quyền cước uy vũ phát tiếng gió vùn vụt, Dương Lăng đứng ngoài nhìn thấy còn có chút hào hứng. Thế nhưng Ngũ Hán Siêu lại cứ như cọng bún, ẹo qua ẻo lại, Dương Lăng nhìn một lát thì chán, không thấy hứng thú tí nào.
Hàn Ấu Nương và Thôi Oanh Nhi thì lại nhìn chăm chú, không hề chớp mắt. Hàn Ấu Nương nhìn chằm chằm từng động tác quyền cước của Dương Hổ, môi mấp máy ra vẻ nóng lòng muốn thử. Thôi Oanh Nhi cũng luyện quyền cước nội gia, nên đặc biệt để ý từng chiêu từng thức do môn nhân của Võ Đang - Thái Sơn Bắc Đẩu về công phu nội gia, xuất ra.
Trên sân khí thế chiến đấu ngất trời mà Dương Lăng hết ngó đông lại nhìn tây. Y thấy từ bên trong hầm sưởi phương xa có người chui lên, vội rời khỏi đoàn người hai bước, vẫy vẫy tay gọi người kia lại.
Ông già nọ là lão nông dân bản địa được thuê để coi sóc và học trồng trọt, thu hoạch cây khoai tây, cây ngô… Lão đang cầm một sọt phân khô định mang đi ủ trở về. Nhìn thấy Dương Lăng gọi, lão vội đặt giỏ xuống, hấp tấp chạy tới.
Dương Lăng cười hỏi:
- Lão Lưu, hai ngày này bận rộn, ta không thu xếp được để vào hầm nhìn qua. Những cây giống nuôi trồng thế nào rồi? Đừng để chúng bị sâu bệnh nhé.
Lão Lưu ha ha cười nói:
- Lão gia yên tâm. Chúng tôi đều hết sức cẩn thận chăm sóc những mầm cây này như là chăm nom tiểu bảo bối trong nhà. Những cây ớt ngoại bang đã đỏ rồi, theo như lời lão gia dặn dò, chúng tôi đã dời chúng đến chỗ có thể thấy ánh nắng mặt trời. Ngoài ra, những cây cà chua cũng đã nở hoa rồi.
Dương Lăng nghe xong mừng rỡ ra mặt, lúc này phía sau lưng y vọng đến hai tiếng trầm trồ khen ngợi trong trẻo. Dương Lăng quay đầu nhìn lại, thấy Dương Hổ hơi đỏ mặt vì thẹn đang chắp tay nói gì đó với Ngũ Hán Siêu, sau đó hai người cầm tay nhau trở lại. Xem ra Dương Hổ đã thua rồi.
Lúc này Hàn Ấu Nương mới phát hiện tướng công đã tránh sang một bên cùng lão nông nói chuyện phiếm. Nàng bước đến vừa bực mình vừa buồn cười nói:
- Tướng công luôn miệng nói muốn tìm một danh sư học tập võ nghệ. Nay Dương đại ca và Ngũ công tử đều là cao thủ đệ nhất đẳng, hai người xuất sắc như vậy tỷ thí, chàng lại chạy sang cho khác.
Rõ là Hàn Ấu Nương cố ý nói cho Ngũ Hán Siêu nghe. Dương Lăng cười đáp:
- Đáng tiếc ta là một tay ngang, nhìn mãi một hồi lâu cũng nhìn không ra được chút xíu gì, cho nên mới bỏ chạy đi chăm sóc hoa mầu của mình đấy. Ha ha ha......
Hồng Nương Tử ngạc nhiên hỏi:
- Hoa mầu? Hoa mầu ở đâu hả đại nhân...... Người có thân phận như vậy còn bận tâm đến một ít thu hoạch hay sao?
Hàn Ấu Nương giải thích:
- Dương phu nhân! Tướng công ta tìm được mấy loại hoa mầu được đưa từ Tây Dương về. Mấy cây khoai tây, khoai lang có sản lượng gấp vài lần hoa mầu đang được trồng. Còn có một loại cây ngô, sinh sản rất nhanh, chống chịu được hạn hán, đất đai cằn cỗi. Tướng công nói muốn đẩy mạnh việc gieo trồng rộng rãi, đến lúc đó thiên hạ sẽ không còn nhiều dân chúng chết đói nữa.
Nói xong, nàng ái mộ nhìn Dương Lăng. Thôi Oanh Nhi cùng Dương Hổ ngạc nhiên nhìn nhau. Dương Hổ bị quan phủ ức hiếp bóc lột, cuộc sống khó khăn mới phẫn nộ mà gia nhập lục lâm. Thôi Oanh Nhi là do ông nội chịu đủ đau khổ do sưu cao thuế nặng nên mang cả nhà dời vào rừng sâu, chiếm núi làm vua, trở thành lục lâm đại đạo.
Có thể nói hai người hoàn toàn không có một chút thiện cảm gì với đám người làm quan. Dương Lăng là quan lớn dường nào? Nếu như bảo y muốn mua danh chuộc tiếng thì y chỉ cần cứu tế nạn dân một tí, xử lý vài tên tiểu lại tham ô thì hiệu quả vừa trực tiếp lại rõ ràng, việc gì y phải dùng tới biện pháp tốn sức như thế? Dương Lăng cười cười nói:
- Mấy ngày nay bận rộn việc chiến sự nơi biên ải, mãi không thể đi xem qua những thứ cây trồng này, trong lòng Dương mỗ thật là có chút nhớ mong. Nếu như thuận lợi, sang năm loại cao sản hoa mầu này có thể được quảng canh khắp Đại Minh. Ba vị có muốn đi nhìn thử một chút hay không? Ha ha, xin mời!
Dương Lăng đưa cả bọn đến hầm sưởi, đem đủ loại cây giống ra mỗi thứ đều giới thiệu cho bọn họ. Y cùng vị lão nông trở về từ Nam Dương kia kẻ tung người hứng giảng giải kỹ càng cho bọn họ đặc điểm của từng loại hoa mầu này.
Dương Lăng biết vào thời kỳ này hoa mầu rất dễ hỏng: hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh… mọi thứ đều ảnh hưởng lớn đến thu hoạch. Nếu như mưa thuận gió hoà vất vả lắm một năm một mẫu sản xuất được ba bốn trăm cân lương thực thì đã được xem là ruộng hạng nhất rồi.
Mà cây khoai lang, khoai tây từ nam chí Bắc đều thích hợp, mỗi mẫu thu được ít nhất hai ngàn cân; thậm chí các tỉnh phía nam có thể trồng một năm ba vụ. Cây ngô không cần trồng trong ruộng tốt, sản lượng cũng hơn xa loại cây trồng hiện nay. Nghĩ đến những loại hoa mầu này tương lai có thể cứu sống được vô số nạn dân, Dương Lăng vuốt ve những cây giống tươi tốt kia, trong lòng cũng tràn đầy cảm giác thành tựu.
Thôi Oanh Nhi nghe Dương Lăng từ tốn mô tả cảnh tượng thu hoạch tốt đẹp kia, cặp mắt sáng ngời lặng lẽ nhìn chăm chú vào y, trong lòng tràn ngập tò mò: viên quan này và các quan chức trong ấn tượng của nàng khác nhau rất lớn. Y chịu vì dân chúng mà suy nghĩ, mọi kẻ đọc sách khác đều xem việc canh tác là việc thấp hèn nhưng dường như y lại vô cùng thích thú việc đồng áng.
Đủ loại tin đồn có liên quan đến Dương Lăng đan chéo lẫn nhau trong đầu Thôi Oanh Nhi. Y là sủng thần cao quý của thiên tử, là đốc chủ Nội xưởng máu lạnh ham thích giết chóc, chỉ trong một đêm đã diệt sạch Đông xưởng, là thư sinh yêu vợ nặng tình trọng nghĩa dám kháng thánh chỉ, là tướng quân oai phong lẫm liệt đánh đại bại giặc Oa. Quả thực tất cả những điều trên không thể nào liên hệ đến vị công tử không hề có quan uy đang mặt mày hớn hở kể chuyện hoa mầu trước mặt này.
Nàng nhìn hàng dãy các loại cây trồng chưa bao giờ thấy qua, nghĩ thầm:
- Người này thật sự có năng lực cứu thiên hạ dân chúng sao? Những hoa mầu kỳ quái này có thể cứu được rất nhiều dân chúng khỏi đói khát bần cùng trong những năm lũ lụt sao ?
Tuy nàng chưa từng đọc sách nhưng từ nhỏ đã trưởng thành ở bên trong ổ cường đạo, nên rất thấu hiểu lòng người. Nàng nhìn ra được những điều Dương Lăng nói chính là thật sự là cảm giác chân thật của y, nhưng nàng lại rất hoài nghi tác dụng của những loại hoa mầu này.
Trong thiên hạ người giàu có thì bất nhân, người làm quan thì không trong sạch. Cho dù khắp nơi đều thu hoạch lương thực dồi dào đi chăng nữa, không phải cũng rơi vào tay những tên tham quan ô lại kia hay sao? Những người dân quê kia áo cơm không có, đã bị quan phủ bắt buộc nuôi dưỡng ngựa công lại bị làm khó dễ nhiều đường. Bao nhiêu dân chúng cửa nát nhà tan, y có thể cứu hết những người cùng khổ như vậy hay sao?
Tuy nhiên... Thôi Oanh Nhi liếc mắt nhìn Dương Lăng, mỉm cười, thầm nghĩ:
- Vị Dương công tử này là một người tốt, là một vị quan tốt. Đợi đến khi chúng ta giết được tên cẩu hoàng đế, khởi binh đoạt được thiên hạ, chúng ta có thể cho y làm một chức quan to.
Dương Hổ ở bên lại thầm kinh hãi. Hắn bây giờ đã tích góp được một số tài lực, nhân lực tương đối rồi, chỉ còn đợi thời cơ vừa đến thì lập tức khởi binh tạo phản, cướp lấy thiên hạ. Hắn tin tưởng vững chắc rằng chỉ cần hắn đăng đàn hô hào, chắc chắn những dân chúng áo cơm không có, phải chịu đủ ức hiếp trăm bề sẽ vùng lên hưởng ứng rầm rộ. Ít nhất ở vùng quê hương Bá Châu hắn đã có thể lôi kéo được trên vạn người.
Nhưng hắn vốn là một viên hiệu úy nhỏ nhoi trong quân đội, cũng do đồn điền bị quan tướng chiếm đoạt, cuộc sống quả thực không chịu xiết mới bỏ đi làm lục lâm thảo khấu. Hắn biết rõ những dân chúng kia nếu có được một con đường thoát chết, có thể ăn cơm no bụng thì sẽ rất khó lôi kéo. Bọn họ sẽ không đi theo mình giành lấy chính quyền nữa.
Thật ra, lúc đầu nỗi căm hận của Dương Hổ đối với triều đình Đại Minh đơn giản hơn rất nhiều. Hắn muốn lật đổ Đại Minh, xây dựng lại một chế độ quan phủ thanh liêm yêu dân. Nhưng khi thế lực ngầm của hắn càng lúc càng lớn thì dã tâm và tham lam cá nhân của hắn cũng dần dần bành trướng theo. Bây giờ hắn muốn tạo phản, đa phần chính là để bản thân làm hoàng đế, ngồi ôm thiên hạ. Cái ý nghĩ tham lam này đã dần dần thay thế nguyện vọng muốn tìm một đường sống cho dân chúng thiên hạ khi trước.
- Không thể để cho y thành công!
Trong lòng Dương Hổ chợt nảy sát khí, ánh mắt sắc bén chĩa vào người Dương Lăng. Hắn thầm nghĩ:
- Tên cẩu quan này, nhất định phải chết!
Chú thích:
(1) Tiết Đào đời Đường là một danh kỹ đất Thục, hay làm những bài thơ ngắn, vì tiếc giấy nên cắt hẹp lại. Từ đấy, những tài tử trong Thục lấy thế làm tiện, cũng cắt những tờ giấy nhỏ để viết thư, gọi là giấy Tiết Đào.
Chương 172 Bày trận đón địch
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: 6300
Hiệu đính:
Nguồn: www.tangthuvien.com
Dương Lăng đang hào hứng chỉ vào cây cà chua non xanh mơn mởn, miêu tả màu sắc và mùi vị quả chín của nó một cách sống động, khiến cho Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân thèm đến rỏ dãi, đám người Hàn Ấu Nương và Thôi Oanh Nhi cũng lắng nghe hết sức say sưa.
Dù Thành Khởi Vận đang thong dong mân mê mấy dây khoai lang giống nhưng nụ cười ác độc thoáng nhếch trên khóe môi và sát ý lóe lên trong mắt Dương Hổ không qua được mắt nàng. Nàng khéo léo đến sát người Dương Lăng và cười nói:
- Đại nhân, phu nhân đang mang thai, nơi này lại nóng bức, hay là chúng ta trở về nhé?
Dương Lăng nói:
- À, nhất thời nói hăng quá nên ta quên mất. Ha ha, đi thôi, chúng ta lên trên.
Y vừa ân cần dìu Ấu Nương đi vừa quay ra ngoài nói:
- Dương huynh và phu nhân là thủ lĩnh đoàn ngựa thồ, đi khắp đó đây, nhất định sẽ còn có cơ hội trở lại kinh thành. Đợi đến mùa thu năm sau, khi hai vị trở lại kinh sư sẽ có thể thấy một núi khoai lang, khoai tây và cả bông bắp ánh vàng rực rỡ nữa. Rồi đến năm tới, những thứ này sẽ có thể được trồng trọt khắp Đại Minh.
Bá tánh thật khổ, nhưng thiên hạ Đại Minh rộng lớn như thế này, mấy ngàn vạn lê dân bá tánh mong ước có được cơm no áo ấm, dẫu bất cứ kẻ nào cũng không thể làm được trong một sớm một chiều. Những giống cây trồng này có sản lượng gấp mấy lần so với các loại hoa màu hiện nay, chúng sẽ có thể cứu đói cho rất nhiều bá tánh.
Y nhớ đến việc Nội xưởng lợi dụng các cửa hàng ngựa xe gây dựng thanh thế khắp thiên hạ, phát tán tin tức nói rằng triều đình có ý định giải trừ cấm biển, cho phép bá tánh thông thương với bên ngoài; thấy vợ chồng Dương Phúc có năng lực mua gạo cứu tế, thế lực đoàn ngựa thồ của hắn nhất định không nhỏ, cũng là kẻ đáng để lung lạc, bèn nói:
- Hình như đoàn ngựa thồ của Dương huynh chuyên môn giúp đỡ các thương nhân lớn vận chuyển hàng hóa muối gạo có phải không? Hiện tại có ít đại thần đang chuẩn bị kiến nghị với triều đình giải trừ cẩm biến, dẹp yên lãnh hải, đến lúc đó thông thương với hải ngoại, hàng hóa vận chuyển khắp đất Đại Minh, nước nhà nhất định sẽ càng thêm phồn thịnh, việc làm ăn của Dương huynh cũng sẽ có thể thu về vô số tiền tài.
Dương Hổ nghe vậy, sát ý trong lòng càng nặng thêm, nhưng hắn cũng không ngu ngốc mà động thủ vào lúc này. Một mặt hắn ậm ừ cười đáp, mặt khác len lén quan sát cảnh vật nơi hầm sưởi này. Ngũ Hán Siêu đứng bên cạnh nói:
- Hóa ra chuyện này không phải là nói đùa. Kẻ hèn sau khi hạ sơn đã không ngừng nghe được tin tức loan truyền khắp nơi, xem ra Đại Minh cấm biển hơn trăm năm, cuối cùng cũng sắp mở cửa lãnh hải rồi.
Bọn họ bước lên bậc tam cấp, Ngũ Hán Siêu lại nói:
- Đại nhân thân ở trong triều, tin tức đương nhiên linh thông hơn xa chúng tôi. Có điều nghe khẩu khí của ngài, thì những đại nhân có lòng dâng tấu khuyên giải triều đình mở lại lãnh hải đều muốn mở bến thông thương khắp nơi ngay sau khi cấm biển được giải trừ ư?
Dương Lăng thấy lạ bèn hỏi lại y:
- Nếu như số kẻ phản đối không đông, đương nhiên sẽ làm luôn một thể. Như vậy không tốt sao? Ngũ huynh có cao kiến gì chăng?
Ngũ Hán Siêu thoáng nghĩ ngợi rồi đáp:
- Kẻ hèn ngu dốt, chỉ biết rằng dục tốc thì bất đạt. Nay cướp biển vẫn còn lộng hành, muốn gỡ bỏ lệnh cấm biển, trước phải diệt trừ hải tặc. Thế nhưng cho dù chỉ là đám sơn tặc chiếm núi xưng vua, muốn quét sạch ổ bọn chúng cũng không phải là chuyện một sớm một chiều, huống chi là trên biển rộng mênh mông? Hơn nữa, thủy quân Đại Minh cũng không giỏi hải chiến, cần phải huấn luyện ra một đơn vị tinh binh mới được, mà chuyện đó lại không thể trù trừ.
Huống hồ Đại Minh ngày nay chỉ có một bến cảng dùng để tiếp đãi sứ thần triều cống của các nước. Nếu như toàn bộ duyên hải được mở cửa trong một đêm, nơi nơi vội vã thiết lập Bạc ty(1), không có quan giỏi hiểu việc trị biển trông coi, không có sẵn điều lệ quy tắc, đám thân hào sĩ tộc hám lợi các nơi nhất định sẽ nhúng tay vào ùn ùn. Lúc đó đạo đức quan lại sẽ càng thêm suy đồi, bá tánh chịu khổ, thương nhân nước ngoài bỏ chạy. Quốc sách có hay cách mấy cũng sẽ thành luật lệ tàn khốc hại dân mà thôi.
Kẻ hèn cho rằng, trị quốc như nấu món ngon, tuy đó là chuyện lợi cho dân nhưng nếu mà thổi lửa to quá, món ngon mấy cũng sẽ bị cháy khét. Chi bằng tạm thời mở vài ba bến cảng trước, như vậy triều đình cũng dễ giám thị hơn, đồng thời xóa sạch được đám giặc cướp trên biển.
Đợi đến khi cướp biển không còn có thể gây nhiều nguy hại nữa, triều đình cũng đã có kinh nghiệm thông thương bến biển, lại có ty thuế bản địa và bá tánh thu hoạch lợi ích làm bằng chứng, các nơi nhất định sẽ hưởng ứng hết mình, khi ấy sẽ có thể thừa thế xông lên, giải cấm toàn diện.
Nói xong, thấy Dương Lăng dừng bước nhìn mình đến thất thần, hắn bất giác cũng đứng lại, ngượng ngập nói:
- Ý kiến... ý kiến của kẻ hèn thật ngu xuẩn, vì trong lòng có điều băn khoăn nên đành bày tỏ. Lời nói có phần ấu trĩ, đã khiến đại nhân chê cười rồi.
Dương Lăng mừng rỡ lắc đầu nói:
- Không phải đâu, không phải đâu. Ngũ huynh du lịch thiên hạ, đi vạn dặm đường hơn đọc vạn quyển sách, lời của huynh thật là cao kiến, khiến Dương mỗ bội phục không thôi. Lệnh tôn đại nhân là quan triều đình, Ngũ huynh là kẻ văn võ toàn tài, chắc có lẽ cũng chẳng mong chôn vùi trong chốn dân gian đúng không? Không biết huynh có nguyện ý ở lại kinh sư vì triều đình mà ra sức?
Ngũ Hán Siêu vừa nghe thì mừng ra mặt, liền vội đáp ngay:
- Kẻ hèn du lịch thiên hạ cũng vì muốn tăng thêm lịch duyệt, để có một ngày báo ân triều đình, kiến công lập nghiệp. Ví bằng đại nhân cảm thấy kẻ hèn có thể kham công gánh việc, Hán Siêu xin tự nguyện theo sau.
Phải biết rằng triều Minh trọng văn không trọng võ, mãi đến năm Thiên Thuận thứ tám mới ban bố "Võ cử pháp"(2), thế nhưng năm đó lại chẳng có một ai báo danh tham gia kỳ thi Võ cử nhân . Năm Thành Hóa thứ tư, kỳ thi Võ cử nhân được tổ chức lần hai, song cũng chỉ tuyển chọn được có hai người.
Hoàng đế Hoằng Trị giỏi về trị văn, mà lại xem nhẹ võ công. Bởi thấy võ bị xao nhãng nên vào năm Hoằng Trị thứ mười bảy, Võ cử được tổ chức theo lối bát cổ, được quy định chính thức ba năm một lần. Tuy nhiên năm Hoằng Trị thứ mười bảy tuyển được bốn mươi võ tiến sĩ, thì chỉ có một người tên Hứa Thái trong khoảng thời gian hai năm ngắn ngủi thăng lên được đến Tham tướng, còn lại đa số đều không được trọng dụng.
Năm tới là Chính Đức nguyên niên(3), Ngũ Hán Siêu vốn định kiếm một chức quan thông qua đại hội Võ cử. Song nếu Dương Lăng đã chịu tán thưởng trọng dụng hắn, vậy hiển nhiên đó là một con đường tắt. Dương Lăng thấy hắn đồng ý, trong lòng cũng cao hứng vô cùng. Đoàn người rời khỏi hầm sưởi; Dương Hổ âm thầm ghi nhớ địa hình lạc viện ở Dương phủ, sau đó cảm tạ Dương Lăng rồi cáo từ.
Sau khi Dương Lăng và vợ tiễn vợ chồng Dương Hổ ra khỏi cửa, y đang định kéo Ngũ Hán Siêu đến thư phòng trò chuyện thêm, chợt thấy Thành Khơi Vận đang đứng sau lưng mọi người nháy mắt ra hiệu với y, miệng hơi nhếch nhếch. Dương Lăng thoáng ngẩn ra, rồi thản nhiên mỉm cười nói với Ngũ Hán Siêu:
- Ngũ huynh hãy đi nghỉ ngơi cho khỏe. Dương mỗ đã hẹn với mấy vị đồng liêu Nội xưởng ngày mai ghé phủ dự yến tiệc, đến lúc đó sẽ mời Ngũ huynh tham dự để giới thiệu với bọn họ.
Ngũ Hán Siêu tuy chưa chính thức đạp chân vào quan trường, sau cuộc đối đáp khi nãy thì đã coi như là người trong triều được một nửa rồi, bèn liền vội chắp tay đáp:
- Dạ, tại hạ tất thảy xin nghe theo đại nhân sắp đặt.
Dương Lăng đi cùng đám nữ quyến đến hậu trạch, Thành Khởi Vận khẽ nhún eo thon, thu người vái một vái, nói cùng Dương Lăng và Hàn Ấu Nương mấy câu, rồi ung dung đi đến bên cạnh phòng khách. Lúc vén mành bước vào phòng, nàng liếc mắt về phía sau một cái thật nhanh, rồi mới uyển chuyển dịu dàng rời đi.
Dương Lăng cũng đứng thẳng người lại nói:
- Thành đáng đầu đã mua được tất cả đất đai thôn trang chung quanh. Giờ cơm vẫn chưa đến, để ta đi thương nghị cùng cô ấy một chút về các hạng mục chuẩn bị cho đất nông canh.
Y nhìn sang Cao Văn Tâm cười bảo:
- Văn Tâm đừng về vội, tối nay ở lại đây dùng bữa đi.
Đoạn quay sang dặn tiểu nha đầu Vân Nhi:
- Đi đi, thông báo cho Văn Lan một tiếng.
Đừng nói Cao- Hàn hai người kết nghĩa kim lan, tình như tỷ muội, chỉ việc Cao Văn Tâm đã chữa khỏi chứng bệnh cho Dương Lăng, giúp nàng mang cốt nhục tướng công, đã đủ để Hàn Ấu Nương khắc sâu trong lòng. Nàng không dám lạnh nhạt với Cao Văn Tâm, vội kéo tay nàng cười bảo:
- Tướng công đi làm công việc của mình đi, thiếp và tỷ tỷ về phòng trò chuyện.
Dương Lăng gật nhẹ đầu, cất bước đi vào trong phòng của Thành Khởi Vận. Vừa tiến vào thư phòng y liền vái một cái thật sâu, nói:
- Tại hạ hiểu lầm cô nương, là cái sai của tại hạ, xin được nhận lỗi với cô nương. Đại nhân không chấp kẻ tiểu nhân, cô nương đừng để chuyện đó ở trong lòng.
Thành Khởi Vận thấy y làm ra vẻ tội nghiệp đáng thương, nhịn không được phì cười. Tuy khi nãy vẫn còn chút oán giận trong lòng, song lúc này cũng đã tan thành mây khói. Nàng nguýt Dương Lăng một cái và nói:
- Đại nhân ăn nói nhũn nhặn như thế, tiểu nữ nào dám ghi nhớ lỗi của đại nhân vào trong lòng?
Dương Lăng thuận thế đứng thẳng dậy, cố ý thở ra một hơi dài nói:
- Vậy tôi yên tâm rồi. Tôi còn tưởng rằng cô nương kêu tôi lại là để hưng binh hỏi tội ấy chứ.
Thành Khởi Vận hờn mát mà vui mừng "hứ" một tiếng, ngay sau đó sắc mặt liền trở nên nghiêm trọng, khẽ giọng nói:
- Đại nhân có biết rõ nội tình của vợ chồng Dương Phúc không?
Dương Lăng nghe thấy trong lời nói nàng có ẩn ý khác, không khỏi nghi hoặc bèn hỏi:
- Đôi vợ chồng này võ nghệ rất cao, Liễu thiên hộ cũng từng nảy lòng nghi ngời thân phận vị Dương phu nhân đó. Chẳng lẽ Thành cô nương cũng hoài nghi bọn họ không phải là chủ đoàn ngựa thồ hay sao?
Thành Khởi Vận lắc đầu nhè nhẹ nói:
- Phải, bọn họ đúng là đoàn ngựa thồ. Trên thiên hạ thì ở Cam Thiểm(4) có nhiều đoàn ngựa thồ nhất, nhưng đoàn ngựa thồ lớn nhất ở phương bắc lại chính là bọn họ.
Dương Lăng thở phào một hơi, cười nói:
- Vậy thì đúng rồi. Đoàn ngựa thồ hành tẩu giang hồ, áp tải vận chuyển hàng hóa giúp người ta, vừa kiêm cửa hàng ngựa xe vừa làm tiêu cục, một thân hai phận, đương nhiên phải có một thân võ nghệ cao cường rồi.
Thành Khởi Vận vẫn ung dung ngồi xuống, mỉm cười nói:
- Đúng thế thật, cho nên ở điểm này không có vấn đề gì. Nếu như ngay lúc này đại nhân phái ngươi đi điều tra vật tùy thân, hộ tịch, giấy giới thiệu của bọn họ, sẽ không thấy có vấn đề gì, có điều ti chức vừa khéo biết được một thân phận khác của bọn họ.
Ánh mắt Dương Lăng trở nên chăm chú, y cũng ngồi xuống phía đối diện, rồi hỏi:
- Thân phận gì?
Thành Khởi Vận nhả ra từng chữ:
- Đạo, tặc, Giang, Dương!
Dương Lăng nhìn nàng, lầm bầm hỏi:
- Lạ thật! Hình như thiên hạ không có chuyện gì là cô không biết, ngay cả người của quan phủ cũng không biết thân phận bọn họ, thế sao cô lại biết?
Thành Khởi Vận thích thú quan sát vẻ mặt của y, nhưng không dám nói ra chân tướng ngọn ngành tin tức mà mình biết được. Cái tên này cái gì cũng tốt, chỉ có điều lòng dạ hẹp hòi, nếu để y biết được mình giấu giếm y, sau này há sẽ càng khiến y không tin mình ư?
Thành Khởi Vận nhoẻn miệng cười duyên dáng:
- Hắc bạch lưỡng đạo thế như nước với lửa. Cái thiên hạ này vốn là một nhóm người sống chỗ sáng, một nhóm người sống trong bóng tối, đại nhân thân ở cao nơi miếu đường, đương nhiên không biết mấy chuyện tam giáo cửu lưu này rồi.
Ti chức cũng không nhận ra bộ dáng bọn họ, có điều ti chức biết có một đôi vợ chồng, hai người ngoài sáng thì làm nghề thồ ngựa, trong tối thì là đạo tặc lục lâm. Hơn nữa bọn họ đang bôn ba liên lạc khắp nơi, ý đồ mưu phản, người chồng họ Dương, người vợ họ Thôi, một thân võ nghệ trùm thiên hạ, tuổi tác cũng tương đương với bọn họ. Nếu đổi lại là đại nhân, thì sẽ có còn coi bọn họ là bá tánh lương dân không?
Ánh mắt Dương Lăng lóe lên, nhìn chằm chằm vào Thành Khởi Vận thật lâu, không nói tiếng nào. Thành Khởi Vận lại nói:
- Khi nãy lúc đại nhân khoe khoang những vật trồng ở trong hầm sưởi, ti chức thấy mặt của vị Dương Phúc nọ nhìn đại nhân đã lộ sát khí. Ti chức tự tin vào nhãn lực của mình, quyết sẽ không nhìn lầm.
Dương Lăng trầm ngâm rồi nói:
- Bản quan gặp Dương phu nhân đơn thuần là ngẫu nhiên, hai chú cháu Dương Tuyền đến kinh sư tìm ta cũng là do nảy ý trong nhất thời. Dương Phúc nhất định chẳng thể chuẩn bị trước việc mượn bọn họ để tiếp cận ta. Đạo tặc Giang Dương ý đồ mưu phản thì hẳn nên cách xa triều đình một chút. Nếu như cô suy đoán không sai, vậy vợ chồng bọn họ đến kinh sư là để làm gì?
Thành Khởi Vận nguýt y một cái rồi nói:
- Ti chức không phải là thần tiên hạ phàm, sao mà biết được chứ? Ti chức nghĩ bọn họ cũng sẽ không điên đến nỗi cho rằng vào kinh giết hoàng thượng thì sẽ có thể cướp được thiên hạ. Huống hồ cho dù võ công hắn có cao cỡ nào đi nữa cũng làm sao có thể xông vào Tử Cấm Thành? Bọn họ đến kinh thành làm gì thì ti chức đoán không ra, bất quá chuyện lúc ở dưới hầm sưởi tên Dương Phúc đó đột nhiên nổi sát ý với đại nhân thì tuyệt đối không sai.
Đoạn nàng chau cặp mày quyến rũ, tay cầm cây bút lông xoay xoay, miệng khẽ lẩm bẩm:
- Nếu như ti chức là đạo tặc Dương Hổ, có cơ hội kết thân với đại nhân thì nhất định sẽ dụng tâm mà vin lấy. Đại nhân là quan lớn triều đình, từ chỗ đại nhân sẽ có thể biết thêm được nhiều chuyện đại sự trong triều, nhất định sẽ rất có ích cho đại nghiệp của ti chức.
Nàng đặt cây bút lông xuống, đứng dậy chắp tay sau lưng thong thả bước đi trong phòng, nghiêm túc nhập mình vào vai Dương Hổ đang có ý đồ tạo phản, vắt óc suy nghĩ nói:
- Nhưng ta vốn có dịp kết giao với đại nhân mới được vào Dương phủ, lẽ gì đột nhiên lại nổi sát ý? Đại nhân lại không trêu ghẹo gì nương tử của ta...
Dương Lăng nghe thấy câu sau thì không khỏi vừa bực mình vừa buồn cười. Y đang tính tiếp lời, ánh mắt Thành Khởi Vận bỗng nhiên lóe lên, vỗ tay reo lớn:
- Ti chức nghĩ ra rồi, ti chức đã nghĩ ra rồi. Nếu là ti chức, ti chức cũng sẽ muốn giết đại nhân!
Dương Lăng giật nảy mình, vội hỏi:
- Giết ta? Lý do gì?
Mắt Thành Khởi Vận sáng rỡ, hưng phấn nhìn y nói:
- Những hoa màu đó! Đại nhân từng nói một khi cho trồng chúng rộng rãi, sẽ có thể giúp cho rất nhiều bá tánh tránh khỏi khốn khó cơ hàn!
Rồi nàng nhìn y cười 'nham hiểm' nói tiếp:
- Muốn đoạt thiên hạ trước hết phải chiếm được lòng dân. Nếu bá tánh có thể cơm no đầy bụng thì ai còn chịu theo ti chức tạo phản nữa? Nếu đổi lại là ti chức, thì không những chỉ phải giết đại nhân mà còn phải hủy hết những hoa màu đó để diệt trừ hậu họa!
Nàng nói đến đây, ánh mắt liền chạm với ánh mắt Dương Lăng, hai người đều bất động. Một lát sau Thành Khởi Vận mới từ trong hưng phấn hồi tỉnh lại, khuôn mặt thoáng đỏ lên, lúng túng nói:
- Ti chức... ý ti chức là Dương Hổ muốn giết đại nhân, chứ không phải ti chức có ý giết đại nhân.
Dương Lăng chậm rãi đứng dậy, thở ra một hơi dài, rồi liền xoay người bước ra bên ngoài. Thành Khởi Vận hoảng hốt kêu lên:
- Đại nhân... muốn đi đâu vậy?
Dương Lăng dừng bước, nói:
- Không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất. Khi nãy ta đã nói với bọn họ rằng qua Tết sẽ kêu người mang giống lương thực mau chóng trồng ở khắp nơi. Nếu như bọn họ thực sự là cặp đôi đạo tặc như cô nói, muốn ra tay thì sẽ là trong mấy ngày này. Ta đi kêu người lên núi triệu Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh xuống, cô hãy ở đây đợi ta.
***
Dương Hổ và Thôi Oanh Nhi thả lỏng dây cương để mặc ngựa song hành, mỗi người ôm một bầu tâm sự riêng. Khi rời khỏi thôn sắp rẽ ra quan lộ, Thôi Oanh Nhi chợt gọi Dương Hổ:
- Hổ ca...
Ánh mắt Dương Hổ đăm đăm, không biết đang nghĩ gì trong lòng, nhất thời không hề phản ứng, Thôi Oanh Nhi thoáng giật cổ tay, roi ngựa vút lên không trung kêu "chát" một tiếng, gọi lớn:
- Dương Hổ!
Dương Hổ sửng sốt, quay đầu lại hỏi:
- Hử? Ồ... có chuyện gì?
Thôi Oanh Nhi thúc bụng ngựa, cưỡi nhanh lại gần, nói:
- Huynh định... Nếu quả thật đúng như vị Dương đại nhân đó nói, có thể khiến cho bá tánh được ăn no, lại trừng trị những quan lại phạm pháp, mở biển thông thương, thật sự có thể phú quốc cường dân ư?
Dương Hổ cười gằn đáp:
- Muội còn chưa nếm đủ đau khổ do bọn quan viên Đại Minh gây ra sao? Tại sao cha nàng phải chiếm núi xưng vương? Còn không phải vì bị triều đình ép buộc ư? Bọn chúng mà chịu làm việc tốt cho bá tánh, trừ khi là mặt trời mọc đằng tây. Muốn cho bá tánh sống được cuộc sống tốt đẹp, thì phải lật đổ cái triều đình này, gây dựng lại thiên hạ!
Thôi Oanh Nhi nhíu mày khẽ thở dài nói:
- Muội đột nhiên cảm thấy chúng ta hình như đã nghĩ quá đơn giản. Cho dù để huynh ngồi lên bệ rồng, bá tánh liền nhất định sẽ có cơm ăn áo mặc sao? Huynh thử ngẫm lại lời bọn họ nói khi nãy, triều đình muốn giải cấm thông thương, rõ ràng là chuyện tốt, vậy mà cũng không thể gấp rút làm ngay. Bọn họ là những kẻ đọc sách, nói vậy nhất định là có cái lý của bọn họ. Muội và huynh chém chém giết giết thì còn được, liệu cai trị thiên hạ có thực sự là đơn giản như thế không?
Dương Hổ đáp hết sức hùng hồn:
- Có gì mà khó chứ? Đoạt được thiên hạ, đương nhiên sẽ có kẻ đọc sách đến qui thuận chúng ta. Chẳng phải Chu Nguyên Chương chỉ là một tiểu sa di, một kẻ chăn trâu mà cũng đã cai trị thiên hạ hay sao? Ha ha, hãy cứ đợi đi, vi phu cũng đã chuẩn bị sắp xong rồi, chỉ chờ thời cơ đến liền sẽ phất cờ khởi nghĩa, lúc đó ta ngồi lên bệ rồng, muội sẽ là hoàng hậu chân to của ta.
Thôi Oanh Nhi liền nhướng mày lên, roi ngựa lại vụt lên, song chỉ đáp nhẹ trên vai hắn, cười mắng:
- Nói bậy bạ gì đó hả huynh, bộ chân người ta lớn lắm sao?
Dương Hổ bật cười ha hả, thấy Thôi Oanh Nhi cười tươi rói không hề tức giận, thừa dịp liền nói tiếp:
- Oanh Nhi, về đến nơi ta liền triệu tập anh em, tối nay vợ chồng chúng ta sẽ động thủ...
Đoạn hắn hạ thấp giọng, bàn tay chém mạnh xuống dưới một cái:
- Muội giữ chân tên họ Ngũ đó, ta sẽ dẫn người giết cả nhà Dương Lăng, hủy sạch cái hầm sưởi đó.
Thôi Oanh Nhi giật nảy mình hoảng hốt, cặp mắt xinh đẹp mở trừng kinh ngạc:
- Huynh nói cái gì? Muội thấy cái tên Dương Lăng đó là tên quan tốt mà, giết hắn để làm gì?
Dương Hổ nói:
- Nương tử của ta ơi, chúng ta sắp khởi sự, nếu như hoa mầu Tây dương gì đó mà cái tên Dương Lăng đó trồng thật sự cho ra sản lượng dồi dào, chắc chắn số người chịu theo chúng ta liều mạng ắt sẽ giảm đi hơn nửa, lúc đó muội còn có thể làm hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ à?
Thôi Oanh Nhi vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ nói:
- Huynh đang nói cái gì thế hả? Chúng ta muốn tạo phản là vì cái gì? Nếu y thật sự có thể khiến bá tánh quê hương chúng ta ấm no, thì tại sao còn phải làm phản? Chúng ta không phải đều bị đám quan viên không coi bá tánh là người dồn ép lên núi sao? Nếu như hoa màu đó thật sự là thứ tốt, sao chúng ta lại có thể đi làm chuyện có lỗi với những người nông dân chứ?
Dương Hổ thấy vậy liền vội cười nịnh chữa lời:
- Huynh thấy hắn ăn nói ba hoa thôi, những thứ đó làm gì có tác dụng lớn như vậy chứ? Sao có thể để cho hắn mê hoặc lòng người làm hỏng đại sự của chúng ta được?
Thôi Oanh Nhi không đồng ý, nói:
- Vậy thì đã sao? Y nói có thật hay không thì không cần đến một năm liền sẽ thấy kết quả thôi.
Dương Hổ nói:
- Nhưng mà lần này chúng ta vào kinh, nếu đại sự có thể hoàn thành thì không cần đến một năm là đã có thể khởi binh. Vả lại... nhạc phụ đã bỏ ra cả đời để chiêu binh mãi mã, chúng ta không thể để lão nhân gia thất vọng được. Nếu như có thể sớm thành đại sự, để lão nhân gia lên làm quốc trượng...
Thôi Oanh Nhi thoáng sầm mặt, giận dữ quát:
- Muội không đồng ý! Đó cũng là lý do à? Chúng ta đã nói với các huynh đệ là sẽ thế thiên hành đạo, chứ không phải vì vinh hoa phú quý của bản thân. Hơn nữa y lại là vị quan rất lớn trên triều đình; nếu như giết chết y, triều đình nhất định sẽ cảnh giác. Người nọ tuy có nói là đã thu xếp nội ứng nhưng sợ rằng đến lúc đó cũng sẽ không cách nào câu được con cá to kia đâu. Huynh hãy biết yên phận một chút đi!
Dương Hổ xưa nay sợ vợ, thấy ngữ khí nàng ta kiên quyết, liền vội đảo mắt cười nịnh nọt:
- Được rồi được rồi! Ta nghe nương tử hết, nàng nói làm sao thì chúng ta làm vậy!
***
Dương Lăng phái người lên núi gọi Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh xuống. Hai thiên hộ này cai quản ngục hình và vũ lực của Nội xưởng, thủ hạ mỗi người khống chế đều là quân đội tinh nhuệ trăm người chọn một. Dương Lăng cùng Thành Khởi Vận đến thư phòng phòng khách ngồi thưởng thức trà chờ đợi được một lát, thì hai người bọn họ đã từ trên núi vội vã chạy xuống.
Thấy Ngô Kiệt cũng xuống núi theo, Dương Lăng không khỏi ngạc nhiên, vội đứng dậy đón:
- Sao cả Ngô lão cũng bị kinh động vậy?
Ngô Kiệt cười nói:
- Ti chức có chuyện quan trọng khác muốn bẩm báo với đại nhân.
Dương Lăng ra hiệu cho hai người Liễu, Dương ngồi xuống, rồi quay sang Ngô Kiệt hỏi:
- Có chuyện quan trọng gì mà phải phiền đến Ngô lão tự thân xuống núi vậy?
Ngô Kiệt thu lại nụ cười trên mặt, thấy trong phòng chỉ có Thành Khởi Vận và hai người Liễu, Dương, đều là tâm phúc của Dương Lăng, mới nói:
- Đại nhân, bên phía Đóa Nhan Tam Vệ đã truyền tin tức về rồi.
Dương Lăng cả mừng liền hỏi:
- Đã gặp được Hoa Đáng rồi à? Hắn nói sao?
Ngô Kiệt thở nhẹ một tiếng đáp:
- Đại nhân, người của chúng ta đã gặp được Hoa Đáng và thông báo điều kiện của triều đình. Cuộc sống hiện tại của Đóa Nhan Tam Vệ rất không dễ chịu, điều kiện hậu đãi như vậy quả thực đã khiến bọn họ động tâm. Nhưng mà...
Dương Lăng hỏi dồn:
- Nhưng mà thế nào?
Ngô Kiệt lấy làm tiếc nuối đáp:
- Nhưng mà... từ lúc Lý Hạo vô cớ tàn sát mấy ngàn bá tánh Đóa Nhan Tam Vệ, đám tù trưởng quý tộc của Đóa Nhan Tam Vệ rất hận Đại Minh. Bọn họ nói, đường đường tổng binh đại nhân của Đại Minh mà còn có thể thất tín bội nghĩa như vậy nên bọn họ không tin sứ giả chúng ta gửi đến. Nhất định phải có thiên tử Đại Minh đích thân thừa nhận, bọn họ mới chịu hợp tác cùng chúng ta.
Dương Lăng cười nói:
- Vậy thì có gì là khó? Đáp lại với bọn họ rằng, bảo bọn họ phái sứ giả đến, hoàng thượng nhất định sẽ thấy xót thương mà đích thân động viên.
Ngô Kiệt cười khó xử nói:
- Đại nhân! Đóa Nhan Tam Vệ bị kẹp giữa Thát Đát và Đại Minh, xưa nay luôn giữ thuận lợi cho mọi bề, thấy gió giong buồm. Đám người đó tuy kiêu dũng thiện chiến, nhưng còn giỏi cò kè mặc cả và lợi dụng thời cơ hơn cả đám con buôn xảo trá nhất. Hiện tại là chúng ta đang cần bọn họ, hơn nữa một khi giao dịch cùng chúng ta, kiềm hãm hậu phương của Thát Đát, thì bọn họ sẽ mạo hiểm việc đoạn tuyệt với Bá Nhan, cho dù là Hoa Đáng cũng không thể tự mình làm chủ được.
Người của chúng ta đợi ở đó năm ngày, tù trưởng các bộ lạc Đóa Nhan Tam Vệ cãi nhau ỏm tỏi không ngơi, có người thì đồng ý, có kẻ lại phản đối, còn có cả kẻ ba phải, cuối cũng vẫn là Hoa Đáng ra quyết định, bằng lòng tiếp nhận điều kiện của Đại Minh. Có điều...
Ngô Kiệt liếc nhìn sắc mặt Dương Lăng rồi lấy dũng khí nói tiếp:
- Hắn yêu cầu thiên tử Đại Minh cùng hắn và ba vị thủ lĩnh bộ lạc được Đóa Nhan Tam Vệ bầu ra cùng gặp mặt, tế cáo thiên hạ, uống máu kết minh. Có như thế bọn họ mới chịu phục tùng triều đình, giao dịch với Đại Minh, hãm chân Thát Đát, và cung cấp chiến mã miền Hà Sáo với giá phải chăng.
Dương Lăng thoáng sững người, lưỡng lự hồi lâu mới nói:
- Vậy..., Hoa Đáng và ba vị đại thủ lĩnh bộ lạc muốn gặp hoàng thượng? Bọn họ nhất định... sẽ không vào kinh kiến giá ư?
Ngô Kiệt gượng cười hai tiếng, thấp giọng đáp:
- Dạ thì... đúng thế ạ! Đóa Nhan Tam Vệ lo ngại triều đình lại nuốt lời, thừa cơ giam giữ bốn vị đại thủ lĩnh làm con tin, cho nên... đòi gặp mặt cùng hoàng thượng trên núi Bạch Đăng cách ngoài thành Đại Đồng mười dặm.
Dương Lăng nghe vậy hai mắt cũng nghiêm lại. Y biết không phải Đóa Nhan Tam Vệ cố tình làm khó, mà quả thực vì bị Đại Minh lừa mãi nên đã sợ. Những tủ trưởng dân tộc tái ngoại này không hề biết rằng bọn họ có thể tùy ý đi đến bất cứ nơi nào trên thảo nguyên, nhưng muốn thiên tử Đại Minh rời khỏi Tử Cấm Thành là điều vô cùng khó khăn. Bảo hoàng đế của thiên triều thượng quốc rời khỏi kinh sư, vứt bỏ thân phận tôn quý mà hạ mình chạy đến núi Bạch Đăng hội kiến mấy tù trưởng bộ lạc bọn họ ư? Điều đó làm sao được!
Dương Lăng ngẩn ra một hồi rồi mới nói:
- Tiếp tục phái người thông báo với bọn họ: bản quan hoặc đại học sĩ triều đình đều có thể đi, có thể mang thánh chỉ hoàng thượng để tỏ rõ thành ý của chúng ta. Nhưng thiên tử Đại Minh thực sự không thể rời khỏi kinh thành nửa bước!
Ngô Kiệt thở dài đáp:
- Dạ đã nói rồi. Hoa Đáng thực sự muốn đáp ứng, dẫu sao hắn cũng là đại đầu lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ, mà bá tánh của Đóa Nhan Tam Vệ cũng đã chết cóng không ít người. Hắn rất nóng lòng muốn tiếp nhận viện trợ của Đại Minh, nhưng trong số quý tộc của Đóa Nhan có hơn phân nửa thủ lĩnh bộ lạc không đồng ý. Bọn họ nói rằng... Việc giao dịch cùng Đại Minh cũng là ý chỉ của thiên tử Đại Minh, Lý Hạo chính là đại thần nhị phẩm của Đại Minh, là võ quan cao cấp nhất thế mà cũng nuốt lời. Do đó, trừ phi đích thân gặp mặt thiên tử Đại Minh, bằng không bọn họ sẽ không hợp tác cùng Đại Minh.
Dương Lăng thả bước trong phòng một hồi, rồi khoát tay bảo:
- Bỏ đi, đợi ta đi gặp hoàng thượng xong rồi hẵng nói tiếp. Nếu thực sự không được thì xin hoàng thượng phái một vị trong hoàng thất ra mặt. Chứ muốn hoàng thượng đi gặp hắn ư? Sao mà được!
Ngô Kiệt đáp:
- Dạ! Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân đã đến Đại Đồng. Hai người không biết đang làm gì, bỗng nhiên đình chỉ mọi hoạt động, không chút động tĩnh. Nhưng một khi Thát Đát rút lui, bọn họ lập tức dốc toàn lực bọn họ lập tức dốc toàn bộ khinh kị binh ra quấy rối không ngừng; giặc Thát phản công liền lập tức lui về trong thành thủ vững không ra. Song phương giằng co, chiến sự triền miên, tình thế vào lúc này thực ra cũng không gấp lắm.
Dương Lăng nghe vậy thì thấy hơi mắc cười. Nếu đổi bọn giặc Thát này thành Trương Phi, đối mặt với cục diện như vậy sợ rằng đã đứng ngoài thành Đại Đồng rống to lên rằng:
- Đánh thì không đánh, lui cũng chẳng lui, rốt cuộc là muốn làm gì!
Y cũng nghĩ không ra hai người đó đang làm cái quỷ gì, nhưng nếu như chiến sự đã không còn gấp rút, vậy lúc này cũng không cần phải hỏi nhiều đến làm gì. Y bèn gật đầu, quay sang Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh bảo:
- Hôm nay bản quan gọi các người lại, là bởi vì bản quan e ngại sẽ gặp một chuyện phiền phức, song cũng có thể chỉ là sợ bóng sợ gió...
Y nói tiếp:
- Gần đến cuối năm, vốn định để các huynh đệ cũng được ăn Tết vui vẻ thoải mái, song lúc này e rằng sẽ phải làm phiền bọn họ một phen rồi.
Liễu Bưu cười đáp:
- Nuôi quân nghìn ngày, dùng quân trong chốc lát, cái đám gia hỏa này ngày thường có ngày nào mà không giống như ăn Tết ở trong Nội xưởng chúng ta? Đại nhân có chuyện gì xin cứ việc căn dặn, tinh binh được ti chức và Nhất Thanh huấn luyện vẫn chưa có cơ hội để dốc sức phục vụ đây.
Dương Lăng cười bảo:
- Tốt, đợi qua được mấy ngày này sẽ thưởng cho các huynh đệ mỗi người năm lạng bạc, cho bọn họ nghỉ thật đã.
Đoạn y đi ra đằng sau bàn ngồi xuống, nói:
- Mới đây có một đoàn ngựa thồ đi đến kinh sư. Bọn họ có giấy thông hành hợp pháp, trong vùng lại không có ai quen biết bọn họ, trừ khi bắt bớ vô cớ, bằng không e rằng sẽ không có cách nào tra rõ bọn họ. Có điều vẫn mong Thành đáng đầu đem tình hình cụ thể tỉ mỉ kể lại cho Ngô lão một lượt, phái vài người khôn ngoan tài cán đi dò thám một chút, chú ý đừng kinh động đến bọn họ.
Y rút ra một tời giấy, đặt lên bàn rồi vẽ một vòng tròn, nói:
- Liễu Bưu, Nhất Thanh, đây là Cao Lão Trang, Nội xưởng chúng ta khổ tâm kinh doanh tại nơi này. Ngô lão bố trí rất nhiều trạm canh gác công khai lẫn bí mật trong thôn và ngoài thôn, những nơi này các ngươi đều có thể sử dụng, bố trí tinh binh của các người mai phục ngày đêm.
Dương Lăng mỉm cười ngước nhìn Thành Khởi Vận và nói:
- Nếu như nữ Gia Cát của chúng ta suy đoán không sai, trong mấy ngày nữa sẽ có những vị khách không mời mà tới. Lúc đó sẽ phải nhờ các ngươi thay ta tiếp đãi khách khứa thật chu đáo đó!
Chú thích:
(1) "Bạc" nghĩa là thuyền đi biển. Đây cơ quan quản lý thuế tàu, trưng thu thuế cảng, thu mua hàng hóa nhập khẩu vân vân. Quan trông coi nơi này gọi là Bạc sứ
(2) "Võ cử" chỉ cử nhân võ nghệ (võ cử nhân), nghĩa là "luật cử nhân võ nghệ". Nhà Minh tổ chức cho các võ sinh ở các tỉnh thi hương tại các tỉnh thành, người trúng cử được gọi là "Võ cử nhân"
(3) năm đầu tiên của một niên hiệu vua chúa
(4) Cam Túc và Thiểm Tây
Chương 173 Lặng lẽ vào thôn
Dịch: TheJoker
Biên dịch: 6300
Biên tập: Monsoon
Hiệu đính:
Nguồn: www.tangthuvien.com
Tứ hợp viện đã lên đèn. Bên trong nhà chính, một đạo sĩ trạc tứ tuần, thân hình gầy gò, mặc áo dài tro đang ngồi trước bàn, trong góc tường dựng một cây đại kỳ coi mạng đoán số có thể bắt gặp ở khắp hang cùng ngõ hẻm nào, trên mặt lá cờ vẽ sơ sài hình một con âm dương bát quái ngư.
Một người thiếu nữ xinh đẹp yêu kiều bê khay trà đến, đạo sĩ không cầm lấy chén trà mà lại chộp cổ tay cô ta kéo vào trong lòng mình, đôi bàn tay to lớn lần vào trong ngực cô ả vân vê ve vuốt, cười dâm đãng nói:
- Thúy Nhi, hai tháng không gặp, cặp bánh bao thịt này đã nở ra nhiều rồi đó.
Thuý Nhi khẽ lắc chiếc eo thon thoát khỏi lão, ngón trỏ dí trán lão một cái, cười mắng:
- Đi chết đi, lão già mất nết, mọi việc đều xử lý ổn thoả hết rồi chứ?
Đạo sĩ luyến tiếc nhìn chằm chằm vào khe áo đang được ả chỉnh trang lại, trong nháy mắt làn da mịn màng đã bị che mất. Lão gật đầu đáp:
- Ừm, xem ra chuyện này phải đợi thêm một thời gian nữa. Sắp đến cuối năm, trong cung rất nhiều sự vụ, tuy tên hôn quân đó liên tục bị hai vị cô nương xúi giục, song cũng không thể thoát ra ngoài cải trang du ngoạn. Đành phải đợi đến tháng hai, sang xuân, khi y dọn đến Báo phòng ở rồi mới bàn tiếp. Có hai vị cô nương nội ứng, lợi dụng vợ chồng Dương Hổ giết y, đến lúc đó triều đình sẽ như quần long vô thủ, tất phải chọn một trong các vị vương gia làm tân đế. Ninh Vương khổ tâm ẩn nhẫn lâu năm, dùng sông vàng núi bạc đã lung lạc rất nhiều quan viên trong triều. Cho dù là huynh đệ Thọ Ninh hầu cũng nhận nhiều hối lộ từ hắn, đến lúc đó để bọn họ mê hoặc khiến thái hậu nói tốt cho, lại thêm quần thần ủng hộ, thế tử Ninh Vương nhất định sẽ có thể đăng ngôi cửu ngũ chí tôn.
Thuý Nhi cau mày nói:
- Thực không hiểu giáo chủ lão nhân gia đang nghĩ gì nữa. Hao tổn tâm huyết như vậy để giết một người nhà họ Chu rồi lại đưa một kẻ vẫn là họ Chu lên. Giáo chủ là Di Lặc chuyển thế, thần thông quảng đại, chẳng nhẽ chúng ta không thể gầy dựng hương quân(1), dùng vũ lực chiếm lấy giang sơn này của nhà họ Chu sao?
Đạo sĩ cười trêu chọc:
- Thiên hạ dễ chiếm đoạt thế ư? Cũng chỉ có cái tên ngu xuẩn Dương Hổ đó mới tin vào lời bịp bợm của ta, tưởng rằng hắn là sao Tử Vi trên trời chuyển thế, đứng trên cao hiệu triệu liền sẽ được làm hoàng đế. Ha ha, giáo chủ lo xa nghĩ rộng, há để nàng có thể nhìn thấu. Đại công tử đổi tên thành Lý Tự Nhiên, làm thượng khanh phủ Ninh Vương. Nếu có thể phò trợ Ninh Vương lên thềm rồng, đại công tử tất sẽ được phong hầu bái tướng, nắm giữ trọng binh. Tam công tử cũng đang chiêu binh mãi mã tại vùng Hà Tây. Đám cường đạo, thổ phỉ, hoặc lưu manh không chốn nương thân ở Trung Nguyên phải chạy ra biên tái tránh tội, những lính đào ngũ, phạm nhân trốn ngục, hay tù phạm khổ sai bị đày và mã tặc các bộ tộc du mục, một khi tập trung lại, sẽ là một đội quân hung tàn. Nàng hãy nghĩ đi, khi đó binh quyền triều đình và hương quân đều nằm trong tay bản giáo, chúng ta lại công bố chuyện Ninh Vương là kẻ làm bề tôi mà giết Chính Đức, khiến hắn mất đi sự ủng hộ của quan viên Đại Minh và phiên vương các nơi. Đại Minh như rắn mất đầu, muốn đoạt thiên hạ còn không dễ như trở bàn tay ư? Ha ha ha...
Đạo sĩ nói đến hả hê. Lão cầm lấy chén trà hớp một ngụm, rồi hau háu nhìn tấm thân nhỏ nhắn yêu kiều của Thúy Nhi rồi tiếp:
- Đến lúc đó lão Lưu ta dẫu sao cũng là đại quan tổng đốc, tất sẽ đón cô ả quyến rũ bé bỏng nàng về làm phu nhân của ta ngay.
Thúy Nhi nguýt lão một cái thật ngọt:
- Tốt cho ông quá nhỉ, đợi ông thật sự làm đại quan rồi hẵng nói nhé.
Đạo sĩ nhòm ra ngoài trời rồi nói:
- Sắc trời đã tối, sao bọn chúng vẫn chưa về? Hừm, mua gạo cứu tế ư? Lòng dân là cái rắm thúi. Bản giáo chuyên giảng đạo và thu nhận đám thân hào sĩ tộc và quan viên danh sĩ làm đồ đệ, đấy mới là thuật kinh bang tế thế giành lấy thiên hạ.
Thúy Nhi hừ nhẹ, buông giọng ghen tuông:
- Ông gấp gì chứ? Hay là Lưu hộ pháp đã tăm tia Hồng nương tử nhà người ta rồi? Nói thật cho lão hay, hai người bọn họ hiện không phải đang cứu tế ngoài thành đâu, mà là đến thăm tổng đốc Dương Lăng của Nội xưởng đấy. Xem ra Dương Hổ không phải chỉ là loại vũ phu chỉ biết dùng sức, hì hì, mà còn biết kết giao với quyền quý nữa đấy.
Lưu đạo sĩ cả kinh, vội đứng bật dậy, vẻ mặt kinh hoảng kêu lên:
- Hồ đồ! Hoang đường! Bọn chúng làm vậy chẳng phải là dắt dê vào miệng cọp sao? Dựa theo tin tức mật thám bản giáo truyền về, khu vực thành Tây trong tối ngoài sáng đều có thám tử của Nội xưởng. Cái xưởng mới lập này rõ ràng khác rất xa hai xưởng một vệ chỉ biết bắt bớ dọa dẫm kia, trong xưởng này hiển nhiên có cao nhân phò tá. Nếu để lộ sơ hở, há chẳng hỏng việc lớn ư?
Lưu đạo sĩ vừa nói xong, cổng trước sân ngoài đã vang lên tiếng gõ thình thình, người trong sương phòng nghe tiếng liền ra mở cổng. Vợ chồng Dương Hổ dắt ngựa đi vào, đạo sĩ vội đặt chén trà xuống rồi ra đón. Thúy Nhi cũng thu nét mặt lại, vẻ phóng đãng tiêu hồn tán cốt hoàn toàn tan biến, trở lại thành một tiểu tỳ ngây thơ đáng yêu lanh lợi, chạy ra ngoài cất giọng giòn tan:
- Tiểu thư, anh rể, hai người đã về rồi.
Hồng nương tử nghiêm mặt ừm đáp, trông thấy đạo sĩ thì mặt mới bớt giận, chắp tay chào:
- Lưu tiên sinh đã đến rồi à!
Trước nay Thôi Oanh Nhi luôn cảm thấy những gì vợ chồng nàng làm là thay trời hành đạo, cho dù trượng phu muốn tạo phản, cũng là vì bá tánh lê dân, nào ngờ Dương Hổ vì muốn được làm hoàng đế lại rắp tâm phá hủy thứ có thể cứu vớt mấy mươi vạn dân, làm vậy có khác gì đích thân ra tay giết hại dân chúng chứ?
Dương Hổ tuy đã xin lỗi nhận sai với nàng, thề không dám có âm mưu gì với Dương Lăng và đám hoa màu đó nữa, nhưng dọc đường từ hành vi và lời nói Dương Hổ đã thầm biểu hiện dã tâm và tham vọng, tỏ thái độ vì làm hoàng đế mà không từ thủ đoạn, khiến Thôi Oanh Nhi cảm thấy khinh bỉ, trong lòng hết sức không vui.
Dương Hổ trông thấy quân sư của mình liền vội vàng rảo bước, kéo tay lão ta, mừng rỡ nói:
- Dương Hổ nhận được truyền tin của tiên sinh liền đã gấp rút đêm ngày chạy đến kinh sư, sợ lỡ thời gian, nhưng đến nơi này lại không gặp tiên sinh. Ngài vân du tứ phương, hành tung bất định, ta đang sốt ruột đây.
Lưu đạo sĩ chính là vị Lưu thần tiên năm đó đoán mệnh cho Dương Hổ, tâng bốc hắn là chân mệnh thiên tử chuyển thế. Lão ta dùng những thủ đoạn như bút gỗ đào viết vào mâm cát, giấy vàng hiện chữ, trong núi đào được bia đá ghi lại lời kệ của tiên nhân, khiến cả Dương Hổ, sơn tặc và bá tánh cùng khổ khắp cả Bá Châu đều bị mê hoặc tin lấy tin để, đều cho rằng Dương Hổ đích thực là chân long thiên tử.
Lưu đạo sĩ cười lớn nói:
- Thời cơ chưa đến, đương nhiên không tiện hiện thân. Hiện tại chẳng phải bần đạo đã đến rồi đó sao? Ha ha ha…
Lão ta thoáng liếc sang Thôi Oanh Nhi, trêu hắn:
- Lạ thực, ngươi đã ăn phải gan hùm mật gấu hay sao mà lại dám đắc tội với Khóa Hổ phu nhân thế?
Trong giới lục lâm ai nấy đều biết phu nhân Thôi Thị của Dương Hổ võ nghệ hơn xa hắn, tính tình lại ương bướng ngang ngược. Dương Hổ là một hảo hán tiếng tăm vang dội trong giới lục lâm, ấy thế mà trước mặt phu nhân lại khép nép như mèo, vậy nên những người quen hắn đều trêu gọi nương tử hắn là Dương Khóa Hổ, ý nói nàng khoẻ mạnh dũng cảm hơn hẳn ông chồng, thường hay gọi trêu trước mặt bọn họ, vợ chồng Dương Hổ cũng không vì thế mà khó chịu.
Dương Hổ cười hề hề, khẽ liếc nương tử hắn rồi lại thân thiết nói với đạo sĩ:
- Chắc hẳn tiên sinh đã có tin tức chính xác rồi phải không? Nào nào, bên ngoài lạnh lẽo, chúng ta vào trong nhà đi. Thúy Nhi, đi làm một mâm thịt muối, hâm hai hũ rượu nóng, ta và nương tử phải uống với Lưu tiên sinh vài chén, cùng thương nghị đại sự.
Hồng nương tử chưa nguôi giận, lạnh lùng hừ một tiếng rồi nói:
- Giờ huynh có bản lĩnh rồi, ta là phận nữ nhi thì có thể đưa ra ý kiến gì chứ. Huynh hãy uống với tiên sinh đi, ta đi về phòng.
Nói đoạn quay sang Lưu đạo sĩ khẽ gật đầu tỏ ý, rồi cũng không thèm liếc Dương Hổ lấy một cái, đi thẳng vào phòng trong. Lưu đạo sĩ tham lam liếc theo bóng dáng mỹ miều của nàng, quay đầu lại thấy trên mặt Dương Hổ hiện chút lúng túng, liền vội cười bảo:
- Ha ha, cọp cái đã ra oai rồi, chốc nữa ngươi hãy tạ tội với phu nhân thì sẽ khiến nàng ta vui trở lại thôi. Nào, hai người chúng ta đã lâu không gặp, vào trong chuyện trò một chút!
*****
Dương Lăng và Thành Khởi Vận đưa tiễn Ngô Kiệt và hai người Liễu, Dương rồi chậm rãi thả bộ đi về phía hậu viện. Mới nhớm nửa bước chân vào dãy hành lang bằng đá, Dương Lăng chợt dừng lại ngước đầu nhìn bầu trời; nửa vầng trăng lưỡi liềm mới vừa được treo trên trời đêm, chỉ lác đác vài vì sao sáng lấp lánh.
Y nghĩ ngợi một chút rồi nói:
- Chúng ta phái người lần theo hộ tịch, giấy giới thiệu đến quê nhà bọn họ điều tra nội tình, e rằng cho dù có tra ra được cũng phải mất hơn một tháng. Nếu bọn họ thật sự muốn ra tay, tuyệt đối sẽ không đợi đến lúc đó.
Thành Khởi Vận dừng lại bên cạnh y, mùi thơm nhàn nhạt lan tỏa khắp bốn phía, nàng lên tiếng đáp:
- Dạ. Đại nhân từng nói với bọn họ rằng mười lăm tháng giêng sẽ bắt đầu sai người mang giống cây trồng chia cho các nơi. tới giờ trước sau gì tính ra cũng chỉ còn lại hơn hai mươi ngày, nếu như bọn họ muốn động thủ nhất định sẽ là trước lúc ấy.
Dương Lăng thở dài:
- Chỉ mong bọn họ không phải là người như cô nói, nếu như bọn họ thật sự là đôi vợ chồng đạo tặc, cô nghĩ khi nào thì bọn họ sẽ đến?
Thành Khởi Vận mỉm cười đáp:
- Nếu là ti chức, nội trong ba ngày nhất định sẽ tới! Thân phận đôi bên chênh xa, hôm nay đến nhà là để cảm tạ, nếu lui tới nhiều lần sẽ khó tránh khiến người ta nghi ngờ. Vả lại... bọn họ còn có một lớp thân phận khác, cũng không thể không lo đêm dài lắm mộng, ngộ nhỡ bị đại nhân nhìn thấu, vậy thực công lao đổ biển rồi.
Dương Lăng cười lớn:
- Tốt, vậy ta sẽ chuẩn bị tinh thần, chờ hắn mấy ngày.
Đám người Hàn Ấu Nương và Tô Tam đang cười nói chuyện trò trong phòng khách, Dương Lăng từng nói đêm nay muốn giữ Cao Văn Tâm lại ăn cùng, cho nên Hàn Ấu Nương kéo nàng ấy ngồi cạnh mình, không chịu thả cho về. Lúc này đã quá thời gian thết tiệc mà Dương Lăng vẫn còn cùng đám người Ngô Kiệt luận bàn nghị sự ở trung đường. Hàn Ấu Nương căn dặn nhà bếp hâm nóng thức ăn, mọi người chưa ăn vội. Thấy Dương Lăng và Thành Khởi Vận kẻ trước người sau bước vào trong phòng, Hàn Ấu Nương tươi cười đứng dậy đi đến đón, vừa ra hiệu cho Vân Nhi báo cho nhà bếp dâng món ăn lên, vừa cầm giúp áo khoác cho Dương Lăng, cười nói:
- Cứ hễ bàn đến việc công là tướng công lại quên cả ăn uống, mau ngồi xuống đi, mọi người đang đợi đó.
Tiểu nha đầu xinh xắn ngây thơ năm xưa giờ đã mang hơi hướm của một thiếu phụ thanh tú đẫy đà, như đóa hồng ngậm sương đã nở rộ. Dương Lăng quở trách:
- Xem nàng kìa, đã nói biết bao nhiêu lần rồi, khi nào ta bận việc thì đừng có chờ, lúc này nàng có thể để cho mình đói được sao? Hơn nữa tối nay chúng ta còn giữ Văn Tâm lại ăn mà, thực vô lễ quá.
Y nói vậy quả thực đã coi Cao Văn Tâm như người ngoài. Tuy rằng nàng đích thực là người ngoài, song sắc mặt Cao Văn Tâm vẫn hơi mất tự nhiên. Tô Tam thấy vậy liền cười khẽ đỡ lời:
- Xin lão gia hãy mau ngồi bên trên, chúng thiếp mới vừa ăn chút điểm tâm, vả lại Văn Tâm tỷ tỷ và chúng thiếp thực cũng không thể xem như người ngoài mà.
Nàng chỉ nghĩ rằng Dương Lăng và Cao Văn Tâm chắc đã sớm có quan hệ tình cảm mập mờ, vừa nói cặp mắt trong vắt vừa liếc Cao Văn Tâm một cách đầy thâm ý. Cao Văn Tâm không biết nội tình, còn tưởng rằng nàng ấy nói đến chuyện mấy người bọn họ kết nghĩa kim lan, thế là không khỏi mỉm cười cảm kích.
Dương Lăng nghĩ nếu hai người Dương, Phúc thực sự là đôi vợ chồng Dương Hổ, nói không chừng đêm nay sẽ tìm đến Cao Lão trang, một khi nhận được tin tức y sẽ phải đích thân đốc chiến, Ấu Nương đang có mang, không thể để nàng ấy bận lòng lo lắng, liền nói:
- Phải phải phải, đúng là lỗi của ta, sớm biết các nàng tình như tỷ muội rồi, ha ha.
Đoạn y ngồi xuống trước bàn, nói với Cao Văn Tâm:
- Ngày mai là tết ông Táo, ta có mời mấy vị đồng liêu ở Nội xưởng đến phủ, nội quyến dẫn theo cũng sẽ được thết tiệc ở hậu đường. Ta vốn định đến lúc đó mời cô cùng đến dự luôn, hay đêm nay cô đừng về, ở lại ngủ với Ấu Nương đi.
Hàn Ấu Nương nghe vậy thì lấy làm lạ, bèn hỏi:
- Tướng công, đêm nay chàng còn phải ra ngoài sao?
Dương Lăng ho khan một tiếng rồi đáp:
- Không có, đêm nay ta ngủ lại trong phòng Tuyết Nhi là được.
Tuyết Lý Mai đang mới vừa cắn một miếng dưa, nghe vậy trong lòng liền tràn ngập hoan hỉ, vểnh môi nhìn về phía Dương Lăng; ánh mắt trong veo, trên má không hẹn mà đã hưng phấn đỏ hây.
*****
Mọi người dùng bữa xong, bưng trà lên phòng khách tiếp tục tán gẫu hơn nửa canh giờ, rồi ai nấy tự về phòng nghỉ. Dương Lăng ngồi lại một mình trong phòng thêm một chốc, chợt Cao quản gia dẫn Liễu Bưu vội vã chạy đến hậu viện. Dương Lăng đứng dậy đón:
- Đã an bài mọi thứ thỏa đáng rồi chứ?
Liễu Bưu gật đầu đáp:
- Dạ, đã kiểm soát chặt chẽ bọn chúng, chỉ cần chúng có hành động bất thường gì chúng ta sẽ lập tức có thể thu được tin tức. Tuân theo sự căn dặn của đại nhân, để tránh cho bá tánh bị kinh hoảng, ti chức đã an bài nhân mã hai bên quan đạo vào thôn, chỉ cần bọn chúng dám đến, cam đoan sẽ bắt được cả người lẫn vật.
Dương Lăng cười nói:
- Cực cho các huynh đệ rồi, làm to chuyện như vậy, hiện tại ta lại chỉ lo bọn chúng không đến. Huynh hãy toạ trấn ở trung đường đi, có biến động gì hãy lập tức bảo quản gia thông báo cho ta.
Nói đoạn y quay sang Cao quản gia nhắn nhủ:
- Sợ là mấy ngày này lão quản gia cũng không thể ngủ giấc ngon rồi, hôm nay ta sẽ ngủ lại trong phòng Tuyết Nhi, đến khi xảy ra chuyện ông phải ngàn vạn lần cẩn thận, chớ để kinh động đến phu nhân.
Cao quản gia hết lòng trung thành chỉ biết có kẻ lại muốn gây bất lợi với Dương phủ, trong lòng căm phẫn không thôi, nghe Dương Lăng dặn dò xong liền vội kính cẩn đáp:
- Dạ, ban ngày lão nô không có việc gì làm cũng đã tranh thủ thiếp đi một chút, hiện tại hết sức tỉnh táo, lão nô sẽ đi cùng đại nhân đây vào trung đường, lão gia cứ yên tâm.
Hai người lui khỏi hậu viện, Dương Lăng uống thêm một chén trà, rồi đến phòng Tuyết Lý Mai. Trong phòng thắp hai cây nến đỏ, màn đã được buông xuống, Tuyết Lý Mai đang quỳ trên giường trải chăn nệm; quần áo mượt mà dán sát người nàng tôn lên đường cong uyển chuyển của bờ mông tròn lẳn, tấm màn lụa mỏng như sương mù phản chiếu một bóng hình thon thả mông lung.
Nghe thấy tiếng kẹt cửa Tuyết Lý Mai vội vén màn, xoay người trèo xuống giường, khuôn mặt hoa đào khi giận lẫn khi vui đều xinh đẹp ấy mang theo mấy phần thẹn thùng. Nàng chỉnh trang vái Dương Lăng một lễ, dịu dàng thỏ thẻ:
- Lão gia...!
Dương Lăng nhìn thấy trên giường tấm chăn lụa 'uyên ương hí thủy' và chiếc gối đôi độn trà thơm Long Tĩnh đều đã được sắp xếp ngay ngắn, tuyết Lý Mai vận áo khoác mỏng lụa xanh, chiếc quần ống tơ màu hồng nhạt, đôi giày ngủ thêu hoa. Mái tóc buông xoã hai vai, trông muôn phần kiều mị.
Căn phòng ngập tràn hơi ấm. Dương Lăng đưa mũi ngửi, trong chậu than lửa đang cháy rừng rực, bên trong hẳn đã cho thêm hương liệu hảo hạng; mùi thơm dìu dịu nức mũi. Xem ra cô nàng này quả thực vì muốn lấy lòng lão gia mà đã chuẩn bị đây.
Dương Lăng nhịn không được bật cười lớn, bộ dạng nghênh ngang đi đến ngồi xuống chiếc ghế trước bàn, nói với Tuyết Lý Mai:
- Ha ha, Tiểu Tuyết Nhi, qua đây!
Tuyết Lý Mai kéo vạt áo lại, bước tới. Dương Lăng chắn ôm lấy nàng, đặt nàng ngồi ngang trên đùi mình, hôn nhẹ lên gò má trắng như tuyết của nàng một cái rồi nói:
- Đêm nay lão gia có thể có công vụ phải lo, không muốn khiến phu nhân lo lắng, đến chỗ nàng ngủ, là bởi vì Tuyết Nhi của ta thông minh lanh lợi, sẽ giúp lão gia che giấu. Đừng để cho lão gia bị lộ sơ hở đó, biết không?
Tuyết Lý Mai vừa nghe liền biết mình đã hiểu lầm ý, con tim thiếu nữ cảm thấy chán chường, nàng trề môi:
- Biết rồi mà, lão gia muốn làm gì, người ta đương nhiên sẽ giúp chàng, không nói cho Ấu Nương tỷ tỷ biết là được.
Tấm thân của Tuyết Lý Mai mềm mại yêu kiều, giọng nói giòn tan, ngồi lả lướt trên đùi y, mềm mại như không xương. Vẻ điềm đạm yêu kiều ấy khiến Dương Lăng yêu mến không thôi, nhịn không được bèn ôm chặt lấy chiếc eo thon của nàng kéo sát vào trong lòng, miệng cười ha hả:
- Vậy mới ngoan chứ. Làm gì mà trề môi ra vậy hử? Tiểu Tuyết Nhi của ta ngoan như vậy, biết để tâm như vậy, sao lão gia nỡ để cho nàng thất vọng chứ?
Tuyết Lý Mai bị y nói trúng tâm sự, không khỏi đỏ lựng mặt, ấp úng:
- Người ta... người ta mới không... thất vọng đó, lão gia cứ thích ức hiếp thiếp.
Bờ mông tròn mượt vểnh cao của Tuyết Lý Mai, cho dù đang cách một lớp lụa mỏng vẫn đầy tính đàn hồi kỳ diệu. Lúc này nàng hiện rõ vẻ thẹn thùng, ngữ khí nhẹ nhàng, mặc dù Dương Lăng nếm trải rất nhiều tuyệt sắc, vẫn không khỏi bị thần thái ngượng ngùng thánh khiết ấy làm cho chảy dãi.
Y ôm chặt lấy tiểu mỹ nhân khiến người ta phải thương tiếc đó, ngón tay lần vào trong áo, xuôi xuống dưới ngực chụp lấy quả tuyết lê nhỏ nhắn mềm mại, khẽ cười thì thào vào tai nàng:
- Nàng nói lão gia ức hiếp nàng, vậy lão gia sẽ ức hiếp nàng cho biết, để làm "công chuyện" của nàng trước rồi nói tiếp...
Gần đến canh ba, Dương Lăng đột nhiên bị lay tỉnh dậy, một cây nến đỏ trên bàn chưa tắt, lúc này cũng đã le lói sắp tàn, ánh sáng cực kỳ yếu ớt. Dương Lăng đang định mở miệng hỏi, Tuyết Lý Mai đã thì thầm: "Lão gia, có người nhìn cửa, nghe tiếng thì hình như là của lão quản gia."
Dương Lăng ngóng tai nghe, ngoại đường có vài tiếng ho khan, sau đó có tiếng người gọi khẽ: "Lão gia, lão gia, xin hãy mau thức dậy."
Dương Lăng và Tuyết Nhi sau cơn hoan ái cùng cực đều đã mặc đồ lót, lúc này nghe tiếng lập tức ngồi bật dậy, khoác lấy miên bào (áo dài vải bông), chộp lấy cây nến khác châm lên, rồi ra gian ngoài mở cửa phòng. Chỉ thấy lão quản gia tóc bạc phơ đang cầm ngọn đèn lồng đứng trước cửa phòng, khuôn mặt đỏ au, giọng căm giận:
- Lão gia, Liễu đại nhân kêu lão nô truyền tin gấp cho người, đám cường đạo đó quả thực đã chạy đến chỗ chúng ta rồi.
Dương Lăng nghe vậy thì cười khổ sở, vung tay thổi tắt nến rồi khẽ thở dài: - Điều không mong muốn lại xảy ra..., đi thôi, chúng ta ra phía trước xem thử.
Đoạn y quay về phía trong phòng gọi:"Tuyết Nhi, tự cài then cẩn thận nhé."
Vừa nói vừa rời khỏi cửa phòng lật đật theo sau quản gia, buộc thắt lưng lại rồi đi vào trung đường. Cuối ngã rẽ hướng ra ngoài phòng khách chính là nội thư phòng, Dương Lăng vừa mới đi đến cửa, bên trong chợt vọng ra tiếng gọi: "Đại nhân, bọn chúng đến rồi à?"
Cùng lúc rèm cửa được vén lên, Thành Khởi Vận tay cầm đèn lồng bước ra ngoài. Chỉ thấy trên đầu nàng vấn khăn, người mặc áo dài cổ tròn ống chật, eo thắt đai rộng, chân mang đôi giày da dê màu đen, một thân nam trang; trong vẻ thanh tao nho nhã lộ ra khí thế mạnh mẽ oai hùng.
Dương Lăng không khỏi lấy làm kinh ngạc, hỏi:
- Cô... không hề ngủ sao?
Thành Khởi Vận hớn hở trả lời:
- Vốn lẽ định ngủ, nhưng nghĩ đến những điều đã ba hoa khoác lác với đại nhân, nếu thực sự mình hiểu lầm người ta, điều động binh lực để đại nhân lo lắng như vậy, khiến cho hơn nghìn huynh đệ phải chịu lạnh gác đêm, ti chức thực sự khó mà yên gối. May mà... ha ha...
Dương Lăng thấy vẻ hớn hở yên lòng trên khuôn mặt nàng, bất giác cũng hơi rung động, y mở miệng, cuối cùng lại nở một nụ cười, điềm nhiên nói:"Đi thôi, theo ta xem thử thì sẽ biết kết quả ngay", ngữ khí dịu dàng chưa từng có.
*******
Nửa vầng trăng sáng treo trên không trung, ngoài bờ tây kinh sư, mặt đất vốn là đồng ruộng đều bị bao trùm trong lớp tuyết trắng toát. Bên trong những mẫu ruộng nằm chếch về phía Cao Lão trang, hơn hai trăm gã hán tử đang đứng nghiêm trang, không một tiếng động, chỉ có tay áo phất phơ trong gió. Dương Hổ vào kinh do bị lão quân sư quạt mo Lưu thần tiên mê hoặc, hòng thích sát Chính Đức. Đám hảo hán lục lâm này đôi lúc suy nghĩ hết sức đơn giản, lại đi tin mấy lời nói xằng của Lưu đạo sĩ, bảo rằng giết chết Chính Đức thì thiên hạ sẽ đại loạn, một nửa giang sơn liền sẽ vào tay.
Dương Hộ không hề biết quân sư của hắn thật ra là nhân vật quan trọng trong giáo phái Di Lặc, thế là bèn an bài tâm phúc lần lượt tề tụ tại kinh thành dưới các dạng thân phận, rồi lại phi ngựa triệu hồi nương tử của hắn là Thôi Thị đang ở Sơn Đông thuyết phục bè phái các nơi cùng mưu đại sự, hòng một vố giết Chính Đức luôn.
Thế nhưng tuy hai mỹ nữ giáo phái Di Lặc đưa vào trong cung chiếm được lòng yêu mến của Chính Đức, có biện pháp lừa phỉnh Chính Đức cải trang vi hành, nhằm tạo cơ hội cho bọn họ. Song đám nhân vật giang hồ bọn họ đã quá xem nhẹ tầm quan trọng của ngày Tết.
Vào dịp này, hoàng thất phải cử hành các loại nghi lễ mà so với gia đình bình thường còn phức tạp gấp trăm lần, trong khoảng thời gian này Chính Đức căn bản không cách gì rời khỏi hoàng cung. Khó khăn lắm Lý Phúc Đạt mới an bài hai thân tín bên cạnh hoàng đế, cũng không mong bọn họ vì quá ân cần khuyên dụ mà bại lộ thân phận, vì vậy khi nghe nói sang xuân Chính Đức sẽ dời ra khỏi hoàng cung dọn đến Báo phòng, để chắn chắn ổn thoả, chúng đã quyết định trì hoãn thời gian động thủ.
Thế là Lưu đạo sĩ lại bịa chuyện với Dương Hổ nói rằng đế tinh ảm đạm sắp sụp, nhưng bỗng có tướng tinh(2) bảo hộ, lúc này không thích hợp để động thủ, khuyên hắn tạm thời nhẫn nại, hai tháng nữa thời cơ chín mùi mới hẵng trở lại kinh sư. Dương Hổ thấy hắn bảo sao nghe vậy, vô cùng tin tưởng mấy thứ huyền diệu khó giải thích này, đương nhiên không dám trái lời.
Tuy nhiên Dương Hổ vẫn chưa từ bỏ ý niệm trừ khử Dương Lăng, hắn đem tình huống thăm viếng Dương phủ cho Lưu đạo sĩ để cùng tìm ra sơ hở, thỉnh kế quân sư. Lưu đạo sĩ nghe xong cũng cảm thấy chuyện này rất có ảnh hưởng đến đại kế của giáo chủ, cần phải nhổ cái đinh trong mắt này đi. Thuộc hạ của Dương Hổ vào kinh dưới đủ các loại thân phận, đám ngựa dùng để kéo xe thồ hàng chở người đều là ngựa tốt thượng đẳng, sẽ kéo ra ngoài thành trước, một khi xong chuyện liền sẽ cao bay xa chạy, khi đó còn ai có thể tra ra căn nguyên của vụ huyết án này.
Huống hồ với số nhân mã Dương Hổ dẫn đến, nếu tập kích bất thình lình, thì không một gia tướng bảo vệ trạch viện của bất kỳ một vị vương công đại thần nào có thể chống chọi nổi. Hơn nữa cho dù giết chết Dương Lăng, cũng sẽ không khiến hoàng đế sợ đến nỗi hai tháng sau vẫn còn cảnh giác không dám ra ngoài du ngoạn.
Hành tung của Lý Phúc Đạt được xếp vào hạng cực cơ mật của giáo phái Di Lặc, ngoại trừ ba vị công tử của lão ta, không ai biết được tăm tích của lão, cho nên Lưu đạo sĩ không cách nào xin được ý kiến giáo chủ. Lo trước tính sau cảm thấy phần thắng rất cao, lão liền gật đầu đồng ý.
Dương Hổ lập tức phái thân tín báo tin cho toàn bộ nhân mã thừa dịp cổng thành chưa khóa lặng lẽ lẩn ra khỏi thành. Hắn chỉ sợ Thôi Thị sinh nghi mà ngăn cản, không dám đột ngột rời đi, cố ý cùng Lưu đạo sĩ uống rượu đến tận canh hai. Khi thấy Thôi Thị đã ngủ, mới thay quần áo dạ hành, dùng móc câu thừng chão nối với đầu thành trèo xuống rồi đi tìm thuộc hạ của mình.
Hắn muốn giữ Lưu đạo sĩ ở lại phủ, đợi đến sát lúc mới sẽ thông tri để Thôi Thị rời thành, cùng đào tẩu đến địa điểm ước định. Khi đó đại sự đã thành, cho dù nàng ấy không vui cũng phải đành chịu.
Dương Hổ vận một bộ trang phục bó sát màu xanh thẫm, trên tấm thắt lưng da rộng sáu tấc gắn mười hai thanh phi đao, trong tay cầm một thanh đơn đao đầu hẹp, đứng đầu đội ngũ hô:
- Các vị huynh đệ, chốc nữa đến thôn trang, xông thẳng vào phủ Uy Vũ bá, toàn trang trên dưới không bỏ qua bất cứ kẻ nào. Mã nhị ca, Điền lão tứ phụ trách vây giường giết người, Trọng Dương dẫn ba mươi anh em theo ta, nghe thấy hiệu lệnh của ta thì rút lui.
- Ngựa của chúng ta đang tập trung tại Lộ Ao Lý cách bốn mươi dặm ngoài phía trước, xong việc lập tức chạy đến đó, chia thành đội mười người, tản ra trốn ở các nơi tránh gió, đừng tùy tiện trở về Bá Châu, đi!
Mấy tên đầu mục khẽ dạ một tiếng, những lưỡi đao trắng buốt như rừng lập loè phản chiếu dưới ánh trăng, phát ra một quầng hào quang lạnh lẽo.
Hơn hai trăm đạo tặc lục lâm giết người không chớp mắt, bước chân như gió, chạy ào ào về phía thôn trang đang đắm mình trong ánh trăng yên ả, trong tĩnh lặng chỉ có tiếng gió lạnh thổn thức táp vào mặt.
Chú thích:
(1) Cuối đời nhà Nguyên, Hàn Sơn Đồng và Lưu Phúc Thông lợi dụng danh nghĩa tôn giáo tổ chức cuộc khởi nghĩa võ trang nông dân, dùng khăn đỏ làm dấu hiệu, thường gọi là "hồng quân" (quân đội đỏ), bởi bọn họ thắp hương cúng Phật, nên cũng gọi là "hương quân" (quân đội dâng hương). (theo Minh sử - Hàn Lâm Nhi truyện)
(2) Người xưa cho rằng quan tướng và vua chúa đều ứng với một vì sao trên trời. Tướng tinh chỉ vì sao tượng trưng cho đại tướng. Đế tinh, còn được gọi là thiên đế, tục gọi là sao Tử Vi, là ngôi sao trong chòm Tử Hùng.
chương 174 - Mãnh hổ phá vây
Dịch: vo vong
Biên dịch: TheJoker
Biên tập: Ba_Van
Hiệu đính:
Nguồn: www.tangthuvien.com
Trước mặt là vài chục gốc táo to, ở giữa là một con đường dẫn đến một cây cầu, vượt qua cây cầu nọ là đã đến địa giới Cao Lão trang. Lá cây đã rụng hết, những gốc táo già hình thù kì lạ có vẻ hơi quỷ dị giữa màn đêm.
Quen thuộc đường lối, Dương Hổ giơ tay phất nhẹ rồi lập tức chạy tới. Bọn hắn chỉ còn cách rừng táo chừng hơn hai mươi trượng thì trước mặt chợt có một chùm ánh lửa bắn lên cao, cảnh vật chung quanh hiện rõ trong màn đêm. Dương Hổ không khỏi cả kinh, bước chân vừa hơi chậm lại thì giữa không trung đã nổ bùng một quả cầu lửa.
Ánh sáng chiếu lên rực rỡ, nhưng tiếng nổ thì lại rất nhỏ, khói lửa bừng lên rồi vụt tắt, trong khu rừng phía trước đột nhiên xuất hiện rất nhiều bóng người. Cũng chẳng rõ có bao nhiêu người tất cả, nhưng dưới ánh trăng mờ mịt, ánh sáng lạnh ngắt phản chiếu từ những thanh vũ khí thì lại tràn ngập những luồng sát khí khiến người ta phải rùng mình.
Tên sơn tặc Mã Nhị theo sát bên cạnh Dương Hổ kinh hãi kêu lên:
- Hổ ca! Bọn chó săn đã phòng bị rồi, chúng ta mau rút thôi!
Dương Hổ cũng kinh hãi không ít, nhìn tình hình này thì rõ ràng quan binh đã sớm mai phục ở đây. Sao tin tức bị rò rỉ được?
Dương Lăng đã chuẩn bị sẵn, đêm nay muốn động đến y e là không còn cơ hội rồi. Trong lòng Dương Hổ thầm bực bội nhưng cũng chẳng sợ hãi chút nào, sự bất tài của quan binh hắn sớm đã lãnh giáo qua. Cho dù đám sơn tặc bình thường đi chăng nữa thì bọn quan binh nếu không có quân số đông gấp mấy lần thì cũng chẳng dám tùy tiện trêu chọc, huống chi lần này để ám sát Hoàng đế Chính Đức hắn đã mang tới kinh sư toàn những thủ hạ đắc lực.
Chẳng hề sợ hãi, Dương Hổ lạnh lùng nhìn về phía trước. Nhận thấy số người đột ngột xuất hiện trong rừng có khoảng hai trăm, nhân số hai bên tương đương nhau nên hắn lại càng trấn tĩnh. Hắn lập tức cao giọng ra lệnh:
- Các huynh đệ đừng rối loạn! Bọn chúng không đông, hãy lập tức rút về phía sau.
Đúng lúc này, ở hai bên cánh cũng có người kinh hãi kêu lên:
- Hổ ca! Bên này cũng có người. Mẹ nó, chúng ta bị bao vây rồi.
Dương Hổ kinh hãi đảo mắt nhìn qua hai bên. Dưới ánh trăng tà, hắn nhìn thấy từ những cánh đồng hoang hai bên cánh cũng đột nhiên xuất hiện vô số quan binh. Những kẻ này không nói một lời, chỉ lặng lẽ tiến đến, mang theo một luồng áp lực và sát khí vô hình khiến người ta run sợ.
Dương Hổ thấy vậy trái tim bất giác run lên, Điền lão tứ từ phía sau lại chợt kêu lớn:
- Phía sau cũng có người! Hổ ca, xông ra ngoài thôi!
Dương Hổ dừng chân lại, nghiến răng:
- Các huynh đệ, lao ra ngoài thôi! Đến điểm hẹn lấy ngựa rồi phải lập tức chia nhau rời khỏi kinh sư!
Lúc này các quan binh đột nhiên xuất hiện từ bốn phía đã tiến đến khoảng hơn hai mươi trượng (khoảng 67m), loáng thoáng nghe có người hô :
- Bắn!
Tiếng tên xé gió bay tới vun vút, một loạt những tiếng kêu thảm vang lên, bốn phía xung quanh đã có mấy chục tên sơn tặc trúng tên gục ngã, cả bọn lập tức trở nên hỗn loạn. Những phiên tử dưới tay Dương Lăng đều xuất thân từ quân ngũ, mà quân đội tác chiến lấy cung nỏ làm đầu; chỉ mong giết được càng nhiều kẻ địch càng tốt, ai còn quan tâm đến việc so bì võ nghệ cá nhân?
Trong quân có nỏ cứng, lực sát thương có thể xa tới ngàn bước chân, cung nỏ thì có thể đưa người ta vào chỗ chết trong phạm vi ba trăm bước. Thần Cơ doanh của Dương Lăng lấy hỏa khí làm chủ, ngoại trừ năm trăm cận vệ của Dương Lăng, phần lớn đều không sở trường cung nỏ.
Nếu đám phiênt ử Nội xưởng sử dụng một lượng lớn hỏa khí để ra đòn phủ đầu ngay ở gần kinh sư thì âm thanh phát ra một là sẽ làm kinh động trăm họ, hai là nếu chuyện lọt vào trong cung, e rằng sẽ khiến triều đình kiêng dè, nghi kỵ. Do đó lần chiến đấu này mọi quan binh đều được trang bị nỏ liên châu.
Nỏ liên châu chỉ có phạm vi sát thương trong vòng bốn mươi trượng, nhưng hộp tên lại chưa được mười mũi, mỗi lần có thể bắn liên tiếp đượcmười phát. Hơn nữa lực sát thương cũng rất mạnh, trong phạm vi hai mươi trượng có thể bắn xuyên qua tấm giáp bằng da thuộc găm thẳng vào cơ thể người. Nội xưởng hiện giờ đã là Đại Quan Thương(*) đứng đầu thiên hạ, dưới sự kinh doanh của Vu Vĩnh tiền tài đổ vào không ngừng, ngay đến nỏ liên châu đắt đỏ cũng được trang bị tới hơn một ngàn chiếc, ở cự li gần như vậy đương nhiên là sức sát thương càng lợi hại hơn.
(*: Quan thương: Chỉ quan lại tham gia việc buôn bán, kinh doanh; Ở đây là Công ty quốc doanh, tập đoàn nhà nước,...)
Mắt thấy nhiều huynh đệ một lòng trung thành với mình bỏ mạng ngay trước mặt như vậy, hai mắt Dương Hổ như phun lửa, hắn lớn tiếng quát:
- Các huynh đệ, đánh giết ra ngoài!
Nói đoạn, hắn cầm cương đao xông về phía quan binh Thần Cơ doanh ở gần nhất.
Đám đại đạo lục lâm dũng mãnh không sợ chết nào đã từng phải chịu thiệt như thế này? Sau chốc lát hoảng loạn, mùi máu tanh đã khiến hung tính bùng lên, bọn chúng lập tức vung vũ khí theo sau Dương Hổ lao về phía quan binh.
- Hự…
Một tên đại đạo vừa lao đi được vài bước thì đã bị tên bắn xuyên qua cổ họng, hắn vẫn lao tiếp về phía trước vài bước theo quán tính rồi mới nặng nề ngã xuống. Những mũi tên nỏ đều ngắn, nhỏ, khi bay đi gần như không phát ra tiếng động. Ở giữa màn đêm thì dù với công lực của Dương Hổ cũng khó mà nhìn thấy. Hắn bèn múa đao kín kẽ đến mức giọt nước mưa cũng không thể lọt qua, sau nháy mắt đã lao đi được hơn mười trượng, chém bay bốn năm mũi tên.
Bên cạnh Dương Hổ không ngừng có người trúng tên ngã xuống khiến hắn càng trợn mắt phẫn nộ. Mắt thấy chỉ cần xông tiếp về phía trước hơn mười trượng là có thể đánh giết vào đám quan binh, tìm được một con đường sống thì đột nhiên hắn cảm thấy đùi tê rần, thân thể loạng choạng ngã khuỵu xuống đất.
Đưa tay sờ thử, Dương Hổ nhận thấy trên đùi đã bị một mũi tên cắm ngập, chỉ còn thừa lại phần đuôi. Không kịp rút tên ra, hắn vứt đao qua một bên, nén đau đưa tay thọc vào thắt lưng, hai tay ném ra liên tiếp; mười hai mũi phi đao không ngừng bay đi, quan binh trúng đao lần lượt gục ngã xuống đất.
Mười mấy tên cường đạo võ nghệ cao cường nhân cơ hội ấy hung hãn xông vào giữa đám phiên tử, cận chiến với quan binh. Trận chiến đấu bằng đao kiếm bắt đầu diễn ra giữa vùng đồng cỏ hoang vu, những tiếng keng keng vang lên không ngớt. Quan binh tuy đông người, nhưng đơn đả độc đấu thì đâu thể là đối thủ của lũ đại đạo kia. Mấy viên quan binh vừa vội vã rút đao nghênh chiến thì đã bị chém ngã xuống đất, đám đại đạo còn lại thừa cơ ào ào xông lên, cùng quan binh triển khai một cuộc hỗn chiến.
Vừa rồi mấy lượt tên dày như mưa xé gió bay tới khiến hai trăm tên đại đạo ngay cả bóng mũi tên còn chưa nhìn thấy thì đã có quá nửa gục ngã rồi. Còn lại sáu bảy chục người thì phần lớn đều có võ nghệ cực cao, hơn nữa đều vô cùng hung hãn và cảnh giác. Có kẻ vừa thấy huynh đệ xung quanh trúng tên bèn lập tức lăn xuống mặt đất, có kẻ thì dứt khoát xách đồng bọn vừa bị bắn chết lên làm lá chắn, giữ lấy tính mạng của bản thân.
Dương Hổ rút mũi tên trên đùi ra, cầm lấy thanh đơn đao lưỡi hẹp vươn người đứng dậy. Mấy viên phiên tử vung đao xông tới, Dương Hổ gầm lên một tiếng vang trời, vung chân quét mạnh, một mảng đất bị hất tung lên, xen lẫn với những bông tuyết bay rào rào về phía bọn họ.
Mấy viên phiên tử vội che mặt lùi về phía sau. Chỉ trong chớp mắt ấy, Dương Hổ đã cười gằn tung người nhảy vọt tới, đơn đao chém ngang qua eo lưng một người, đưa viên phiên tử đó về cõi chết. Dương Hổ đại triển thần uy, quả nhiên chẳng khác gì hổ xông vào đàn dê, lưỡi đao đi đến đâu máu bèn bắn tung lên ở đó, chỉ trong nháy mắt đã có sáu bảy người gục ngã dưới đao của hắn.
Sau lượt giao thủ này Dương Hổ mới phát hiện ra điều ảo diệu. Thì ra những viên phiên tử này đều khoác áo choàng có màu sắc rất kỳ lạ: một đường xám rồi một đường trắng ngoằn ngoèo xen lẫn vào nhau. Cho dù ở cách rất gần, Dương Hổ cũng khó lòng nhìn thấy rõ những viên phiên tử đang quay lưng về phía hắn mà giao chiến với các huynh đệ của hắn dưới ánh trăng. Thảo nào bọn chúng có thể mai phục mấy trăm người ở phạm vi ngoài ba mươi trượng mà tai mắt mình cũng không hề phát hiện.
Cường đạo tuy dũng mãnh, nhưng phiên tử lại đông người, hơn nữa tuy võ công kém nhưng không hề có người sợ hãi lùi lại. Sáu bảy chục gã đại đạo có gần phân nửa đã bị trúng tên rồi, chỉ cần tên nào động tác hơi chậm lại một chút là sẽ có bốn năm thanh đao sắc bén xé nát hắn ra thành từng mảnh vụn. Sau một hồi giao đấu, tuy quan binh đã tử thương mấy chục người, nhưng đám cường đạo cũng chỉ còn hơn ba mươi người sống sót.
Dương Hổ thấy một huynh đệ bị phiên tử chém trúng đùi lảo đảo ngã xuống, lưỡi đao của viên phiên tử kia đã vung lên chuẩn bị chém xuống. Hắn vội phóng vụt thanh đao trong tay, chỉ nghe phập một tiếng, thanh đao đã cắm vào giữa sống lưng viên phiên tử kia. Dương Hổ quyền đấm cước đá, lại đánh cho một viên phiên tử hộc máu ngã bay đi, lớn tiếng hô to:
- Đừng ham đánh, đi!
Nói rồi hắn dẫn đầu xông thẳng ra ngoài, đám cường đạo bèn lập tức bám sát theo sau. Vết thương trên đùi Dương Hổ chưa được băng bó nên sau một hồi giao chiến miệng vết thương bị rách toạc ra, máu tuôn như suối. Tuy thế hắn vẫn chẳng để tâm, vừa chạy vừa vung chân quết, hất không ngừng, khiến những viên đất vụn và hoa tuyết bắn tung tóe. Trong lúc các phiên tử thu đao lại để che đỡ, đám cường đạo đã nhân cơ hội xông vào chém giết rồi.
Mấy chục tên đại đạo này tụ tập lại một chỗ để phá vây, các phiên tử có thể giao chiến trực tiếp với bọn chúng chỉ còn là những người đang đối diện bọn chúng, ưu thế về nhân số lập tức giảm hẳn. Do đó, bọn chúng dần dần xông ra, sắp thoát khỏi vòng vây.
Các phiên tử này đều là do hai người Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh dốc lòng dốc sức huấn luyện, nhưng kinh nghiệm chiến đấu lại không đủ. Trong bọn chỉ có mấy viên thập trưởng là kinh nghiệm chiến đấu phong phú, lại từng theo Dương Lăng trải qua mấy cuộc đại chiến ở Giang Nam. Một viên thập trưởng thấy người của mình võ nghệ kém xa đám đại đạo hung hãn kia, chiến đấu giáp lá cà chính là lấy sở đoản của mình đấu với sở trường của kẻ địch. Y lập tức gọi những phiên tử có nỏ liên châu chưa bắn hết tên lại, rồi quay về phía những người còn đang liều chết ngăn cản đám đại đạo mà hô lớn:
- Lùi hết lại đi, đừng hỗn chiến với bọn chúng, nhanh lên…
Lời của y còn chưa dứt, Dương Hổ đã nhận biết được điều không hay. Hắn lập tức tung người nhảy vọt tới hệt như mãnh hổ vồ mồi, sau nháy mắt đã đứng trước mặt y. Mấy viên phiên tử vừa vung đao lên, Dương Hổ đã quát lớn một tiếng như sấm động, thiết quyền trên tay phải mang theo tiếng gió đánh ra, “bình” một tiếng trúng vào ngực của viên thập trưởng kia, khiến cho ngực y lõm hẳn vào.
Lời của viên thập trưởng bị nghẹn lại trong cổ họng, thân hình ngã bay về phía sau, làm ngã mấy viên thủ hạ. Lúc này trong cổ họng y chỉ còn phát ra những tiếng rên khẽ, thất khiếu đều rỉ máu, hẳn không sống được nữa rồi. Thân hình Dương Hổ khom xuống, tránh khỏi hai thanh cương đao, đoạn cùi trỏ tay trái thúc ra, đánh bay một viên phiên tử, lại vung chân phải đá về phía sau, trúng vào bụng một người, lại tiện tay đoạt lấy một thanh đao, giữa không trung lập tức bắn tung một màn mưa máu. Bốn phía xung quanh đao thương liền sát, không ngờ lại chẳng ai có thể đến gần hắn được.
Dương Hổ nhân cơ hội xông trở về giữa đám cường đạo, lớn tiếng hô to:
- Xông ra theo ta, kẻ nào cản ta thì chết!
Những phiên tử này vốn chưa từng nhìn thấy tên cường đạo nào hung hãn dũng mãnh như vậy, khí thế lập tức giảm hẳn. Dương Hổ cùng mấy tên đại đạo tung hoành phương bắc, là những tay đại đạo hung hãn nhất, xông lên trước mở đường. Vũ khí trong tay bọn chúng vung lên chém xuống không ngừng, ra tay không hề nương nhẹ, rốt cuộc lại mở được một con đường máu. Hơn ba mươi tên cường đạo một lòng liều mạng trốn vào trong màn đêm hun hút.
***
Cửa lớn của phủ Uy Vũ Bá mở rộng, hai chiếc đèn lớn màu đỏ chiếu sáng khu vực trước cửa như ban ngày, trong phòng chính thắp một cây nến to bằng cánh tay trẻ nhỏ. Mái tóc dài của Dương Lăng được buộc lại buông qua sau vai, trên người mặc một chiếc áo bông ống tay bó màu xanh nước biển, bên ngoài khoác thêm chiếc áo không tay, ngồi nghiêm trang giữa phòng, dáng vẻ hết sức phong tưu tiêu sái.
Thành Khởi Vận đầu đội chiếc mũ cánh chuồn cánh mềm(**), trên người mặc chiếc trường bào cổ tròn tay áo hẹp, môi đỏ răng trắng, dáng vẻ nôn nóng đi đi lại lại trước mặt Dương Lăng. Liễu Bưu đứng ngay trước cửa phòng, một gã phiên tử vội vã chạy vào trong sân, lại gần gã khẽ nói mấy câu gì đó. Liễu Bưu phất tay cho lui, đoạn xoay người bước vào phòng. Thành Khởi Vận lập tức không kìm được hỏi:
- Liễu đại nhân, thế nào rồi?
(**) xem hình thứ 3 http://www.sdmuseum.com/upload/2012-...1130556071.jpg
Liễu Bưu cất tiếng tán thưởng:
- Quả không hổ là đại đạo Dương Hổ, sơn tặc hung hãn nhất lục lâm phương bắc!
Xưởng đốc! Thành đại nhân! Dương Hổ dẫn theo chừng hai trăm người. Dù bị chúng ta phục kích nhưng hắn vẫn mang được hơn ba mươi người mở một đường máu, đột phá trùng vây.
Dương Lăng và Thành Khởi Vận nghe xong liền đồng thanh cất tiếng hỏi. Dương Lăng hỏi rằng:
- Người của chúng ta thương vong thế nào?
Thành Khởi Vận thì hỏi:
- Đã phái người đuổi theo chưa? Phục binh ở nơi giấu ngựa đã thu xếp ổn thỏa chưa?
Hai người vừa mới nói xong, Thành Khởi Vận liền không khỏi đỏ mặt.
Trong lòng Dương Lăng thầm thở dài. Cô nương này vẫn quá chú trọng đến lợi ích, chỉ suy nghĩ đến bản thân, hoàn toàn không để tâm đến sự sống chết của người khác.
Tuy nàng đã lặng lẽ giúp đỡ Dương Lăng rất nhiều chuyện, lại hết sức dịu dàng chưa từng than trách. Cho dù là người làm bằng sắt hẳn cũng phải bị nàng khiến cho mềm lòng rồi, nhưng Dương Lăng thủy chung vẫn có mấy phần cảnh giác, nguyên nhân chính là vì điều này.
Nàng có lẽ đã thật sự nảy sinh tình cảm với y, nhưng Dương Lăng không biết mối tình cảm này có trọng lượng thế nào trong lòng nàng. Y không thể biết một khi gặp phải áp lực nặng nề từ bên ngoài, khi buộc phải phát sinh xung đột lợi ích với y, liệu nàng có từ bỏ tình cảm để lựa chọn lợi ích, phản bội y hay không.
Cuộc đời nàng quá phức tạp, tuy thực khiến người khác phải cảm thông, nhưng cũng vì thế mà đã tôi luyện trái tim của nàng trở nên cứng rắn như sắt đá, chỉ biết lấy lợi ích làm đầu. Không trải qua những sự trải nghiệm lâu dài và quan sát cẩn thận, thực sự người ta khó có thể yên tâm về sự trung thành của nàng.
Liễu Bưu đáp lời Dương Lăng:
- Xưởng đốc bất tất phải lo lắng! Chúng ta chẳng qua chỉ thương vong mấy chục người, lũ sơn tặc ngoài mười mấy kẻ trọng thương bị bắt và hơn ba chục kẻ trốn thoát ra, còn lại đều đã bị giết chết.
Nói xong gã lại quay sang cười nói với Thành Khởi Vận:
- Thành đại nhân yên tâm! Bành đáng đầu đã đích thân dẫn theo người của Hỏa Súng doanh đến mai phục chỗ Lộ Ao Lí cách đây mấy dặm. Đám tàn dư sơn tặc nếu không chạy tới đó thì ngày mai chúng ta sẽ truy nã khắp nơi, bọn chúng chỉ có thể khoanh tay chờ trói. Còn nếu bọn chúng chạy tới chỗ đó thì đêm nay cho dù mọc cánh cũng khó mà bay thoát.
Dương Lăng gật gật đầu, bảo:
- Là bản đốc đã đánh giá thấp đám sơn tặc này! Thật không ngờ bọn chúng còn dũng mãnh hơn hải khấu, vốn ta cho rằng ngoài vợ chồng Dương Hổ ra thì chẳng còn cao thủ nào khác nữa.
Thành Khởi Vận hơi chau mày lại, nói với Dương Lăng:
- Đại nhân! Vốn chúng ta tưởng rằng bọn chúng sẽ dốc hết lực lượng, sau khi xong việc thì trốn đi nơi khác, do đó phục binh của chúng ta đều mai phục ở ngoài thành. Dương thiên hộ chỉ dẫn theo hơn hai chục huynh đệ giám sát trong thành mà thôi.
Tin tức vừa đưa về cho biết chỉ một mình Dương Hổ rời khỏi khu nhà đó, nương tử của hắn sao còn lưu lại trong thành? Chẳng lẽ không sợ bên này xảy ra chuyện, ả sẽ chẳng còn cơ hội rời đi ư? Hay là còn có âm mưu gì khác?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Ta cũng không đoán được dụng ý của vợ chồng bọn họ, ban đêm khi cửa thành đã đóng dù là bản quan cũng chẳng thể kêu mở cửa thành được.
Y đứng dậy đi đi lại lại vài bước trong phòng, đột nhiên ngẩng đầu ra lệnh:
- Không thể đợi thêm nữa, mau đi truyền tin, kêu Dương Nhất Thanh lập tức triệu tập người của Ngũ Thành Binh Mã ti đi bắt… đi bắt Hồng Nương Tử ngay!
***
Cửa phòng của Thôi Oanh Nhi vang lên mấy tiếng “cốc cốc”. Nàng lập tức giật mình tỉnh dậy, hỏi:
- Chuyện gì thế?
Nàng vén chiếc rèm lên, vì đợi trượng phu trở về nên nàng vẫn để nguyên ngọn nến không tắt. Đưa mắt nhìn ngọn nến thấy đã cháy được quá nửa, Thôi Oanh Nhi bất giác hơi chau mày, lúc này chắc hẳn đã đến canh ba mà Dương Hổ và Lưu Thần Tiên vẫn còn đang uống rượu hay sao?
Giọng nói của Thúy Nhi ngoài cửa khẽ vang lên:
- Tiểu thư! Mau mau dậy thôi, chúng ta phải lập tức rời đi!
Hồng Nương Tử đưa tay với áo váy vội vã mặc vào, bước xuống giường mang giày rồi kéo cửa phòng ra. Thấy Lưu đạo sĩ cũng đang đứng ngoài cửa với Thúy Nhi, bất giác nàng ngây người. Vừa buộc chặt cổ áo nàng vừa hỏi:
- Xảy ra chuyện gì vậy? Dương Hổ đâu?
Mái tóc của Hồng Nương Tử buông xõa qua vai, làn da để lộ ra nơi cổ áo trắng mịn động lòng người, đầu tóc hơi rối, dáng vẻ mơ màng, thực là vô cùng quyến rũ. Lưu đạo sĩ không kìm được cặp mắt sáng bừng, lão không dám để lộ ra vẻ thèm muốn, bèn vội vàng cúi đầu xuống.
Thúy Nhi lắp bắp đáp:
- Tiểu thư, cô gia lúc canh hai đã rời thành đến phủ Uy Vũ Bá rồi. Lúc này e rằng đã phát động, chúng ta cũng phải mai mau rời thành mới được.
Hồng Nương Tử ngẩn người, rồi lập tức cả giận:
- Hắn còn không chịu bỏ cuộc sao? Lá gan của ngươi lớn thật, sao đến bây giờ mới nói với ta?
Lưu lão đạo vội cười xun xoe:
- Phu nhân! Thủ lĩnh quyết ý muốn đi, bắt lão đạo phải giấu giếm thay cho ông ấy, Thúy Nhi cô nương cũng vừa mới biết. Thủ lĩnh đã chuẩn bị sẵn ngựa ở Lộ Ao Lí bên ngoài thành, yêu cầu lão đạo đến canh ba thì thông báo cho phu nhân mau mau rời thành đến đó hội họp. Lúc này thời gian vừa đúng, chúng ta mau mau lên đường thôi. Đến khi trời sáng thì tin tức Dương Lăng bị giết chắc đã truyền vào trong thành, lúc đó muốn đi cũng khó.
Mày liễu dựng ngược, Hồng Nương Tử chẳng nói lời nào vội vã đi vào trong phòng, cánh cửa phòng rầm một tiếng đóng chặt lại. Thúy Nhi không kìm được le le lưỡi, Lưu lão đạo thì lại lộ một nụ cười quỷ dị tỏ ý gian kế đã thành.
Chỉ sau khoảnh khắc cửa phòng đã lại mở ra. Hồng Nương Tử thay một bộ quần áo màu xanh bó sát người, mái tóc dài được một chiếc khăn lụa quấn chặt lại, trên vòng eo thon đeo một thanh đoản kiếm, dưới chân đi đôi giày đế mềm, thần thái lạnh lùng, tràn đầy khí khái.
Thôi Oanh Nhi bừng bừng nổi giận bảo:
- Đi, theo ta rời thành!
Chương 175 Không rõ sống chết
Dịch: TheJoker
Biên dịch: 6300
Biên tập: Monsoon
Hiệu đính:
Nguồn: www.tangthuvien.com
Bóng đêm sâu thẳm trở lại vẻ tĩnh mịch vốn dĩ của nó.
Trận đại chiến ngoài thôn chỉ kinh động đến hơn chục hộ gia đình kế cận, song tiếng chó sủa inh ỏi lại khiến cả thôn náo loạn. Có mấy kẻ hóng chuyện mặc quần áo vào chạy ra quan sát thì bị phiên tử được bố trí canh phòng trong thôn ngăn cản, giải thích rằng có giặc cướp đột nhập vào thôn cướp bóc, Nội xưởng đang tróc nã, rồi hết sức khách sáo mời bọn họ trở về.
Những thôn dân này thấy động tĩnh không lớn, quan binh lấp ló đầy thôn xóm, nghĩ bụng dưới chân thiên tử cho dù có giặc cỏ cũng bất quá chỉ là vài con sâu mọt hại dân, bèn lẩu bẩu lầu bầu trở về nhà, chèn thêm cây chày cán bột lên cửa rồi yên tâm đi ngủ.
Trong Phủ Uy Vũ Bá, Dương Lăng hớp ngụm trà đặc, Thành Khởi Vận đang ngồi bên cạnh, y vô tình nhìn thấy nàng đang lấy bàn tay nhỏ nhắn che miệng ngáp khẽ, không khỏi hiểu ý bèn cười bảo:
- Mọi thứ đã rõ ràng, đại cuộc đã định, lần này hẳn là đã yên tâm rồi chứ? Những thứ hiện cần làm chẳng qua là giải quyết hậu quả, nữ Gia Cát hãy về phòng nghỉ ngơi một chút đi.
Thành Khởi Vận nguýt yêu y, khẽ trách:
- Còn dám nói giải quyết hậu quả ư? Vẫn chưa bắt được hai tên đầu mục Dương Hổ và Hồng Nương Tử đó. Bọn chúng ấy... giang hồ truyền rằng chúng đang chuẩn bị tụ tập tạo phản, đại nhân há có thể lơ là?
Ngoại trừ Ninh Vương, Dương Lăng không nhớ vào thời Chính Đức có sự kiện quy mô lớn nào khác. Cuộc khởi nghĩa Bạch Liên giáo của Đường Tái Nhi(1), Từ Hồng Nho(2), thậm chí là cuộc khởi nghĩa nông dân của Lý Tự Thành(3) và Trương Hiến Trung(4) đều không thuộc niên đại này, thiết nghĩ cho dù có chuyện giang hồ đồn đãi thì cùng lắm cũng chỉ lũ nhãi nhép không có tiền đồ tự chiếm núi xưng làm vua cỏ mà thôi.
Dương Lăng nghĩ đi nghĩ lại, nhớ rõ là không có đôi đạo tặc nào như vậy thành công, bèn tự tin cười nói:
- Đại Minh vận nước đang thịnh, bên ngoài không có họa lớn có thể thương tổn đến gốc rễ, bên trong cũng không lo bị dân biến. Chỉ vài tên đạo tặc lục lâm thì có thể làm nên chuyện gì chứ? Huống hồ, trừ phi Dương Hổ thấy tình thế không ổn, lập tức bỏ đường cái mà chạy, bằng không chỉ cần hắn đến Lộ Ao lí, trước năm trăm tay súng hỏa mai, cho dù võ công có lợi hại thế nào cũng đừng hòng thoát chết. Nếu nói lo lắng thì ta lại lo cho tình hình trong thành. Giết quan chính là tạo phản, vạn lần không ngờ Dương Hổ tập kích mà Hồng Nương Tử lại vẫn ở trong thành. Nơi đó chỉ an bài hơn hai mươi người, cái đám phiên tử cậy quyền đó tuy là những kẻ lành nghề trong việc khoét cửa đào hang và dò la tin tức, song lại không thạo việc bắt giặc tróc hung. Ta đã từng chứng kiến võ nghệ của Hồng Nương Tử, nếu ả nhận được tin tức mà trốn tránh trước khi Ngũ thành binh mã ty xuất binh, Nhất Thanh tuyệt sẽ không ngăn được ả.
Thành Khởi Vận đảo tròng mắt, che môi khẽ cười nói:
- Hoá ra đại nhân cực khổ chờ đợi ở đây không phải vì muốn biết tung tích của Dương Hổ mà vì lo vuột mất vị Hồng Nương Tử này.
Dương Lăng vờ nạt:
- Giỏi cho Khởi Vận nhà ngươi, đem bản quan ra đùa cợt có phải không?
Thành Khởi Vận liền duyên dáng đáp lại:
- Khởi Vận nào dám ạ?
Dương Lăng trừng mắt với nàng, rồi thở dài bảo:
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, để xem cô ta có mạng sống đến bình minh không. Đám người này tụ tập làm loạn, ít nhiều cũng vì bị tham quan ô lại và sự quản lý tồi của triều đình bức bách, vô kế mưu sinh mới phải lên Lương Sơn. Tội không thể tha, song về tình thì có thể thứ. Ép bản quan phải vùi hoa dập liễu, quả thực trong lòng có phần không nỡ.
Từ xưa đến nay những kẻ tạo phản đối kháng triều đình đều có hình tượng rất tốt trong đánh giá của dân gian, nếu Dương Lăng không bởi thân ở triều đình, mình nằm trong cuộc, nghe kể về những chuyện anh hùng lục lâm này, khó dám đảm bảo rằng sẽ không xem bọn họ như những người anh hùng thay trời hành đạo. Y nhớ lúc trước từng xem một bộ phim truyền hình tựa là “Đường Tái Nhi”, trong đó tướng lĩnh nhà Minh đi dẹp loạn đều bị khắc hoạ là nham hiểm độc ác, tham lam háo sắc, ai nấy đều là đại tham quan. Dương Lăng không khỏi thầm cười khổ: "Nếu trên danh sách nịnh thần lại ghi thêm tên mình, nói không chừng một ngày nào đó trên màn ảnh mình cũng sẽ mang hình tượng mắt tam giác, gò má cao, chua ngoa cay nghiệt, hà hiếp thiện lương đây."
Thành Khởi Vận nghe vậy thì đăm chiêu, lẩm bẩm:
- Tội không thể tha, song về tình lại có thể thứ, tình có thể thứ...
Nàng trầm ngâm hồi lâu, mới thoáng liếc lấy Dương Lăng, cất giọng hờn dỗi:
- Đạo tặc giết quan tạo phản trong miệng đại nhân lại có lý lẽ để tha thứ, vậy mà một tiểu nữ tử một lòng dốc sức cho đại nhân thì lại năm lần bảy lượt suýt nữa bị đại nhân chém đầu.
Mặt Dương Lăng thoáng đỏ lên, hơi lúng túng nói:
- Lại nữa rồi. Ta cũng chỉ hù doạ cô một chút thôi, chứ đâu thực sự muốn động đao động kiếm? Hồng nương tử và bản quan ranh giới phân minh, cho dù bị hại, trong lòng bản quan cũng không có kiêng dè, cô thì lại khác...
Ánh mắt Thành Khởi Vận sáng lên, nàng mím môi, đôi mắt quyến rũ như tơ trời liếc y, ngữ khí dịu dàng:
- Nô gia... nô gia và ả ta có gì khác biệt?
Dương Lăng bỗng cảm thấy hơi rợn người, y vươn người đứng dậy, làm như không nghe thấy và nói:
- Đi thôi, chúng ta ra trước thôn đi dạo một chút. Nếu cô đã không ngủ, vậy đi dạo một chút sẽ không buồn ngủ nữa.
Trêu ghẹo Dương Lăng đã trở thành chuyện vui nhất cuộc đời của nàng, ngày tháng còn dài, Thành Khởi Vận cũng không muốn bức chàng trai trẻ - mà trong ý thức nàng coi là chỗ dựa, là tình nhân, rồi dần dà lại coi là người đệ đệ yêu mến cưng chiều này - thẹn quá mà hoá giận. Lúc này nghe ẩn ý y tiết lộ trong lúc vô tình, trong lòng Thành Khởi Vận chợt có cảm giác hoan hỉ và thoả mãn lạ kỳ. Nàng cũng không truy vấn tiếp, chỉ tươi cười đứng dậy theo.
Dương Lăng đi đến trước cửa, lão quản gia vội mang áo khoác dài đến, mười mấy tay thị vệ đứng ngoài đình trông thấy Dương Lăng liền vội khom người thi lễ. Dương Lăng cầm lấy áo khoác, thấy Thành Khởi Vận ăn mặc hơi sơ sài, ngồi trong trung đường lâu như vậy, đôi môi đã có chút nhợt nhạt, liền đưa cho nàng và nói:
- Khoác vào đi, ban đêm trời rét, cô chịu không nổi lạnh đâu.
Hai hàng thị vệ theo sát Dương Lăng bước vào trong sân, chợt một giọng nói sang sảng cất lên dưới hành lang bên trái:
- Đại nhân, trong thôn có phải đã xảy ra chuyện gì? Có cần kẻ hèn cống hiến sức lực không?
Trung đường đèn đóm sáng trưng, cả đám thị vệ phiên tử đeo đao giắt kiếm đứng trang nghiêm trong sân, đừng nói thoát không khỏi tai mắt của Ngũ Hán Siêu mà ngay cả chú cháu Dương Tuyền cũng sớm đã bị kinh động. Có điều khắp sân thị đều là vệ sát khí đằng đằng, Dương Tuyền biết Dương Lăng không ưa mình nên cũng không dám ra ngoài hỏi han.Ngũ Hán Siêu chưa được phép nên cũng không tiện đường đột yết kiến, lúc này thấy Dương Lăng dẫn người định rời phủ, mới nhịn không được lách ra khỏi phòng cất to tiếng hỏi han.
Dương Lăng dừng chân lại, cười gọi:
- Là Hán Siêu à? Nhân mã huyên náo, thực đã làm quấy nhiễu giấc ngủ của huynh rồi. Ha ha, huynh hãy qua đây!
Đám phiên tử tay lăm lăm đao canh phòng cẩn thậnnhường ra một con đường, Ngũ Hán Siêu đi đến bên cạnh Dương Lăng ôm quyền vái một vái; đầu y đội khăn tiêu dao(5), thân vận thường phục đơn bào, để tránh hiểu lầm nên hai tay để không, thực trông cũng rất tuấn tú.
Dương Lăng vỗ vai y cười nói:
- Bản quan đã coi thường bản lĩnh của đám cường đạo giỏi võ đó quá. Nếu sớm mời huynh xuất thủ, tên Dương Hổ đó vị tất đã có thể trốn chạy.
Ngũ Hán Siêu theo cạnh Dương Lăng, vừa ra ngoài thôn vừa nghe y kể lại lai lịch vợ chồng Dương Hổ, lúc này mới biết Dương Phúc, thủ lĩnh đoàn ngựa thồ dọc đường cứu mình rồi hộ tống vào kinh, lại là đạo tặc lục lâm. Ngũ Hán Siêu ngoài giật mình thất kinh còn không khỏi thầm cảm thấy may mắn. Tuy y là con cháu quan lại nhưng đồng thời cũng là người trong võ lâm, nghĩa khí giang hồ tri ân tất báo ấy đối với y có ảnh hưởng rất lớn. Bất kể Dương Hổ xuất phát từ mục đích gì, dẫu sao mình cũng đã được hắn cứu giúp và chăm sóc đưa vào kinh, nếu thực gặp lại trong cảnh binh đao, là bắt hay tha đều sẽ muôn phần khó xử.
Ngoài đầu thôn. mấy trăm tên phiên tử đang thắp đèn soi đuốc lùng sục khắp rừng táo bao la bát ngát; để ngừa có giặc cướp giả chết náu thân, sĩ tốt bị thương và chết của Nội xưởng đều đã được đưa về núi. Liễu Bưu đang bố trí lại canh gác, trông thấy Dương Lăng đến liền vội bước đến đón.
Dương Lăng nhìn thấy từng cỗ thi thể bị kéo vào trong rừng táo thì nói với Liễu Bưu:
- Sai người canh gác, sau khi trời sáng đừng để thôn dân đến gần, tránh làm cho bọn họ kinh sợ. Một khi cổng thành mở ra liền sai người thông báo cho bộ Hình và Ngũ thành binh mã ty, phái người đến xử lý.
Một thớt khoái mã phi tới, bị phiên tử chặn lại ở đằng xa, người trên ngựa thì thầm cùng phiên tử một chốc thì được dẫn đến trước mặt. Người này cũng vận trang phục Nội xưởng, nhìn thấy xưởng đốc đại nhân cũng có mặt liền vội quỳ sụp xuống thi lễ:
- Ra mắt xưởng đốc đại nhân, Liễu đại nhân.
Liễu Bưu vội hỏi:
- Mau đứng lên, Lộ Ao lí có tin tức à? Thế nào rồi?
Phiên tử nọ đứng dậy, dáng vẻ vui mừng đáp:
- Đại nhân, giặc cướp tháo chạy về Lộ Ao lí, Cổ đáng đầu quát ra lệnh bọn chúng tước nộp vũ khí, một đợt hỏa lực đồng loạt đã bắn cho chúng thành cái nia, không tên nào thoát thân.
Dương Lăng lộ vẻ xúc động hỏi:
- Dương Hổ... cũng nằm trong số đó chứ?
Phiên tử do dự một chút rồi đáp:
- Việc đó... Lộ Ao lí không giữ lại người sống, chúng thuộc hạ không biết tướng mạo tên đạo tặc đó, Cổ đáng đầu đang dẫn người dọn dẹp thi thể, độ nửa canh giờ nữa sẽ có thể đưa toàn bộ xác người về tới.
Liễu Bưu khẽ nói:
- Đại nhân từng thấy diện mạo của tên thủ lĩnh đạo tặc đó, cũng có thể tra hỏi mấy tên còn sống bị bắt , đại nhân chớ nên sốt ruột. Có điều... theo ti chức thấy, Dương Hổ ắt sẽ lành ít dữ nhiều.
Dương Lăng lặng lẽ gật đầu, phiên tử nọ lại hớn hở khoe:
- Xưởng đốc đại nhân, hai trăm thớt mã đó đều là ngựa tốt ở biên tái, Bành đại nhân mê thích không thôi, Nội xưởng chúng ta quả thực chưa từng có ngựa tốt như vậy.
Dương Lăng chỉ cười cười mà không nói gì, thời này ngựa tốt khó tìm, cũng khó trách Bành Kế Tổ vui sướng như vậy, nếu còn một canh giờ nữa Bành Kế Tổ mới trở về, Dương Lăng liền muốn trở lên núi thăm hỏi thương binh một lượt. Trong lúc vô ý, y hướng mắt vọng nhìn về phương xa, mắt chợt nheo lại, trong bóng đêm lờ mờ thoáng ẩn hiện một chấm đen; người đó cưỡi ngựa, không men theo đường nhỏ, mà băng thẳng qua đồng ruộng phi tới, phương hướng chính là kinh thành.
Thành Khởi Vận và Ngũ Hán Siêu cũng đến gần, khi còn cách khoảng mười bước người đó liền nhảy xuống ngựa, vừa chạy đến phía trước vừa gọi lớn:
- Có Liễu đại nhân ở đây không? Trong thành đã truyền tin tức đến rồi.
Liễu Bưu vội vàng bước lên mấy bước đón, quát:
- Đừng gấp, từ từ mà nói, xưởng đốc đại nhân đang ở đây.
Phiên tử nọ không ngừng thở dốc, trông thấy Dương Lăng dưới hai hàng đuốc, vội vàng bước tới thưa:
- Đại nhân, trong thành Dương thiên hộ truyền ra tin tức, vào canh ba Hồng Nương Tử dẫn theo sáu bảy người đột nhiên rời khỏi viện trạch, Dương thiên hộ chưa kịp điều binh, đành phải âm thầm bám đuôi, Hồng nương tử chưa rời khỏi ngõ hẻm liền phát hiện có người theo dõi, lập tức đã dẫn người trốn vào trong một hộ gia đình rồi trèo tường chạy mất. Dương đại nhân nhận được lệnh căn dặn của đại nhân, đã thông tri cho Ngũ thành binh mã ty lục soát truy bắt khắp khu vực đó, song vẫn chưa có tung tích.
Dương Lăng gật nhẹ đầu, nói với Liễu Bưu:
- Ta đoán bọn chúng cũng sẽ không ở yên đó chờ đợi. Nhất Thanh nhân thủ không đủ, đối phó không nổi đám cường đạo bản lĩnh cao cường này là việc nằm trong dự liệu, bất kể bọn chúng ở lại trong thành còn có âm mưu gì, đã kinh động chúng ta, đêm nay sẽ không giở thêm thủ đoạn gì nữa đâu. Bảo Nhất Thanh đừng làm ra thanh thế quá lớn, không có chứng cứ tạo phản, nếu chỉ vì mấy tên cường đạo xâm phạm phủ ta mà lục soát toàn thành, đám ngôn quan sẽ lại sinh sự đấy.
Liễu Bưu dạ một tiếng, căn dặn tên phiên tử đó mấy câu, kẻ đó liền chắp tay cáo từ, phóng lên ngựa rồi lại vội vàng phi lướt vào trong màn đêm. Dương Lăng dõi về phía kinh thành đương chìm trong bóng đêm, khẽ lắc đầu nói:
- Kinh sư rộng lớn như vậy, nếu bọn chúng đã chạy thoát, biển người mênh mông, muốn bắt lại sẽ khó đây.
Thành Khởi Vận máy động trong lòng, vội nói:
- Đại nhân, quả như Dương Hổ đã chết, vậy phải đề phòng Hồng Nương Tử báo thù cho chồng. Người phụ nữ này có công phu cao cường, nếu tập kích ám sát, sẽ khó lòng phòng bị.
Từ khi đến thời đại này, Dương Lăng cũng biết võ nghệ cá nhân còn lâu mới lợi hại như trên phim ảnh, có thể ngang nhiên xông vào đối địch với thiên quân vạn mã. Bất quá trong thời đại chủ yếu sử dụng vũ khí lạnh này, chung quy võ nghệ vẫn còn có thể phát huy tác dụng trọng đại. Nếu như có một quả phụ xinh đẹp có thể băng tường vượt nóc như đi trên đất bằng suốt ngày tìm cách lấy mạng mình, hại khiến mình đi đâu cũng chẳng dám đi, thì thực sẽ khiến người ta rất nhức đầu.
Y dời ánh mắt, chợt thấy Ngũ Hán Siêu đang đứng cạnh mình, thế là không khỏi bật cười thoải mái:
- Ta có Ngũ Hán Siêu, há còn sợ Hồng Nương Tử? Hán Siêu à, bản quan vốn định ngày mai tiến cử huynh vào triều làm quan, tìm một công việc trong Lục Bộ, nay xem ra huynh phải tạm thời ở cạnh bản quan chờ đợi rồi.
Võ nghệ của Ngũ Hán Siêu hơn hẳn tài văn chương, cũng không có thành kiến gì với xưởng vệ, ở lại trong Nội xưởng quyền khuynh thiên hạ đương nhiên oai phong hơn hẳn đi đến Lục Bộ làm một chức quan bé rồi. Ngũ Hán Siêu nghe vậy thì mỉm cười, vái một vái dài đáp:
- Vốn là mong ước không dám thỉnh cầu. Hán Siêu nguyện noi theo ý đại nhân, bám gót từ đây.
*****
Hồng Nương Tử đang dẫn người chạy ra khỏi ngõ tắt, liền phát hiện có người âm thầm theo dõi. Nơi ở của nàng đã nằm trong sự giám thị, vậy hành động tập kích thôn trang của Dương Hổ còn có thể thành công sao? Thôi Oanh Nhi vừa nghĩ vậy, lòng liền như lửa đốt, hận không thể lập tức xông ra khỏi thành, cứu trượng phu thoát khỏi lao ngục.
Công phu quyền cước của Lưu đạo sĩ tuy kém, song tâm kế lại cao sâu hơn nàng, vừa nghe có người ngầm theo dõi, lập tức khuyên Hồng Nương Tử theo lão lẩn trốn trước. Lúc này hành động của Dương hổ sớm đã phát động, nếu như trúng kế thì cũng đã trúng rồi.
Lúc này mà rời thành thì chỉ tổ tự chui đầu vào lưới, chi bằng thừa lúc đối phương vẫn chưa điều động nhân thủ đối phó với nàng mà mau chạy trốn và náu thân. Quả như Dương Hổ bình yên vô sự, sẽ lại phái người đến liên lạc cùng hắn, ví bằng Dương Hổ thất bại, có thể cứu được thì cứu, cùng lắm cũng có thể giữ lại người báo thù cho hắn.
Hồng Nương Tử tuy bận lòng đến sự an nguy của trượng phu như từ nhỏ lớn lên trong giới lục lâm, nghe quen tai nhìn quen mắt, đương nhiên biết được lợi hại trong đó. Tuy nói rằng kẻ nào tài cao gan đều lớn, song nàng cũng không dám vọng tưởng lấy sức một mình mình đối kháng với quan binh đã sớm có chuẩn bị, sau thoáng cân nhắc, đành chọn theo Lưu đạo sĩ trốn đi.
Từ thời Tống, Nguyên đến nay, Bạch Liên giáo nhiều lần khởi sự, nhiều lần thất bại, nhưng hương hoả vẫn chưa tận. Sau khi Chu Nguyên Chương lợi dụng Bạch Liên giáo khởi sự và thâu tóm được thiên hạ, sự đả kích đối với bọn họ càng thêm kinh khủng. Trong quan phủ có một lượng lớn xuất thân là người của Bạch Liên giáo, cho nên hiểu rõ phương thức liên lạc như lòng bàn tay, qua nhiều bài học kinh nghiệm bằng xương máu, hành tung của Bạch Liên giáo và phân đàn của nó càng trở nên bí hiểm, kinh nghiệm trốn chạy cũng vì vậy mà phong phú hơn.
Từ sau khi giáo phái Di Lặc của Lý Phúc Đạt khởi sự ở Sơn Tây thất bại, bị quan phủ vây quét, đã chuyển hướng vươn vòi sang các thế lực thân hào đại tộc các nơi, nơi an toàn để ẩn náu càng nhiều không đếm xuể.
Có dân chúng cuồng tín bị bọn họ dùng phép thuật che mắt khiến cho thần hồn điên đảo, có phú hào đại tộc bước lên thuyền giặc, đến khi tỉnh ngộ muốn rút chân thì vận mệnh của cả gia tộc đều đã ràng chung với giáo phái Di Lặc, không thể không tiếp tay cho giặc.
Ở kinh sư Hồng Nương Tử lạ nước lạ cái, song Lưu đạo sĩ lại biết rõ đường đi lối tắt hơn nhiều. Ban đêm binh sĩ tuần thành ở kinh sư cực đông, bọn họ xuyên nhà trèo tường mà đi, vừa thoát khỏi Dương Nhất Thanh và đám thủ hạ, lại tránh được tai mắt quan binh.
Bọn họ lặng lẽ trèo vào một khu trạch viện rộng lớn, rồi lại men theo bóng đêm trèo từ phía vách tường vào; cũng không biết là nhà của ai. Lưu đạo sĩ bịa chuyện nói rằng đây là nơi ở của một tín đồ của lão, bảo đám người Hồng Nương Tử đợi tại hoa viên, còn lão thì lách vào bên trong sân như một bóng ma, lặng lẽ đi vào tìm kiếm chủ nhân.
Sau thời gian hai chén trà, một viên ngoại dáng phốp pháp mồ hôi đầy đầu mặc áo dài gấm màu đồng, đích thân cầm đèn lồng theo Lưu đạo sĩ chạy ra, cuống quít dẫn bọn họ vào sâu trong nhà rồi thu xếp chỗ ở.
Cho dù kết cấu phòng ốc, trạch viện của mỗi gia đình giàu có những thay đổi nhất định nhưng phần lớn vẫn theo kết cấu tạo thành bởi tiền viện, trung đường, hậu viên của nội quyến, sương phòng. Cùng lắm là thêm vài nhà ngang ở phía đông và phía tây để thết đãi bạn bè thân thích, tuy nhiên những chỗ chi tiết thì rất hiếm khi rập khuôn. Trong bóng tối mà Lưu đạo sĩ có thể tìm thẳng đến chủ nhà mà không kinh động những người khác, hiển nhiên là hết sức quen thuộc nơi này.
Với sự cơ cảnh thường ngày của Hồng Nương Tử trông thấy chuyện này khó tránh sẽ có điều nghi ngờ về thân phận thật của Lưu đạo sĩ, có điều lúc này lòng nàng đang rối như tơ vò, nên cũng không bận tâm đến những chi tiết nhỏ này. Tuy rằng nàng vô cùng bất mãn với hành vi của trượng phu mình, song nói cho cùng thì vẫn là phu quân nàng, sao có thể không để ý đến sống chết của hắn.
Trạch viện này là chỗ ở gia đình này dùng để chiêu đãi thân bằng quyến thuộc, do đã cuối năm, cho nên phòng ốc được dọn sạch sẽ tươm tất. Căn phòng của Thôi Oanh Nhi là nơi ở dành cho nữ quyến, trên bàn trang điểm thắp một ngọn đèn dầu, phát ra ánh sáng lờ mờ u ám.
Chủ nhà được gọi là Cừu viên ngoại kêu mấy gia nhân tâm phúc dậy đốt hai lò than đồng hình đầu thú trong phòng, trong chốc lát căn phòng ấm áp như xuân. Thu xếp ổn thoả hết thảy, Lưu đạo sĩ đưa Cừu viên ngoại đi. Hai người ra đến dưới hành lang bên ngoài, thấy không ai ra theo, Cừu viên ngoại mới quệt mồ hôi túa ra vì căng thẳng, hết sức lo lắng nói:
- Lưu hương chủ, ngài dẫn đến đều là những kẻ gì vậy. Kẻ nào kẻ nấy cầm kiếm cầm đao, ngay cả vị nương tử áo đỏ đó trông cũng thật đáng sợ. Gần trăm nhân khẩu cả nhà Cừu mỗ, ngài đừng hại ta đó.
Lưu đạo sĩ cười nham hiểm trấn an:
- Cừu viên ngoại, ông cứ việc yên tâm, chỉ cần ông không rêu rao ra ngoài, trừ khi là hoàng đế bị giết, ai dám xông vào hết mọi nhà trong kinh thành để bắt người chứ? An toàn lắm.
Lão thấy trời đang rét run mà Cừu viên ngoại lại đổ mồ hôi ròng ròng khắp mặt thì nhịn không được bèn bật cười ha hả, rồi vỗ vỗ vai hắn nói:
- Ông là thí chủ hộ pháp của bản giáo, nếu như bản giáo đoạt được thiên hạ, vinh hoa phú quý há sẽ thiếu phần ông? Yên tâm đi, chúng ta ở lại đây nửa bước không ra, sáng sớm ngày mai ông phái người ra ngoài dò la tin tức một chút, xem thử Nội xưởng có động tĩnh gì không?
Cừu viên ngoại cuống quít giậm chân nài khẩn:
- Ối trời ơi! Hương chủ của tôi ơi, không ngờ các người lại trêu chọc đến Nội xưởng nữa? Bên phía xưởng vệ đáng sợ nhất chính là Nội xưởng đó. Các người... các người...
Lưu đạo sĩ lạnh lùng nói:
- Ông tỉnh lại đi, chúng ta làm là giao dịch tạo phản đoạt thiên hạ! Nội xưởng ư? Cho dù là hoàng đế, chúng ta cũng không sợ trêu phải. Ngươi là hộ pháp hương đàn của bản giáo trong kinh sư, làm nhiều việc cho bản giáo như vậy, đứa con bảo bối độc nhất của ngươi thì được giữ lại bên người giáo chủ, sớm đã là người cùng hội cùng thuyền với chúng ta rồi.
Lão hừ một tiếng rồi tiếp:
- Còn nữa, phải tránh nhắc đến thân phận của ngươi và ta trước mặt người khác, kể cả những người mà ta dẫn đến, bọn họ không phải là người của bản giáo. Trở về ôm lục phu nhân của ngươi mà ngủ ngon giấc đi, ngày mai thức dậy đừng quên đi dò la tin tức cho ta đó.
Đoạn lão cười ám muội nói:
- Lục phu nhân là đệ tử thánh đường của bản giáo, cô ả lẳng lơ đó quyến rũ động lòng người, công phu trên giường cao thâm lắm. Cái đồ già nhà ngươi có phước hưởng thụ còn không phải vì bản giáo coi trọng thân phận của ngươi ư. Nên tự thu xếp cho ổn thoả đi.
Nói rồi Lưu đạo sĩ xoay người đi vào phòng. Cừu viên ngoại cầm đèn lồng, đứng ngây người trong gió thật lâu. Một cơn gió thổi tới, lão bất giác rùng mình, lúc này mới thở dài ra một hơi, thẫn thờ bước đi.
Lưu đạo sĩ lách mình vào trong căn phòng của Hồng Nương Tử. Đây là khuê phòng nữ nhân, màn lụa cuộn lên, trên chiếc giường khảm ngà voi đặt một chồng chăn gấm, bề mặt lờ mờ để lộ hình uyên ương hí thủy bằng tơ lụa. Thôi Oanh Nhi vận bộ đồ bó sát người màu xanh thẫm, đang ngồi trước bàn nhíu mày trầm tư.
Eo thon mảnh khảnh, bờ mông tròn lẳn đẫy đà, phơi bày mọi đường cong, vẻ phong tình mê hoặc lòng người. Lưu đạo sĩ bước vào, vừa trông thấy dưới ánh đèn Thôi Oanh Nhi tựa như một đoá mẫu đơn màu đen; dáng người như ngọc, nét mặt như hoa, trong mắt không khỏi loé lên vẻ dị thường.
Thúy Nhi đang đứng hầu cạnh bên trông thấy vậy thì không khỏi bĩu môi. Hồng Nương Tử là hào kiệt lục lâm, không hề để ý đến những quy củ thối tha của các gia đình giàu có, thấy lão ta không gõ cửa đã xông vào khuê phòng thì không hề lấy làm tức giận, mà lại lo lắng hỏi:
- Lưu tiên sinh, Hổ ca sống chết không rõ, ta thật sự một khắc cũng không yên, theo tiên sinh thấy, huynh ấy có thể gặp chuyện không?
Lưu đạo sĩ bày ra bộ mặt thần bí khó lường, nghiêm mặt nói:
- Dương phu nhân, bần đạo đã bấm đốt tính toán, đương kim hoàng đế Đế tinh sắp sụp, lại có Tướng tinh phò tá, tạm thời chuyển nguy thành an. Khi ấy không biết Tướng tinh đó là người nào, nay xem ra, chính là ứng trên người Dương Lăng. Chậc, là bần đạo không thể xem trộm thiên cơ, đã không ngăn cản lão đại.
Lão ngồi đối diện với Thôi Oanh Nhi, dưới ánh đèn hai cánh tay thon thả trắng nõn như hoa lan, da dẻ sáng ngời, trong lòng lão không khỏi gợn sóng, lập tức cụp ánh mắt, kiềm chế ý niệm muốn vuốt ve một phen. Nữ nhân này thoạt trông thì yêu kiều mềm mại, lúc động thủ lại hung mãnh hơn cọp dữ, quyền nào cước nào đều đủ lấy mạng, lão thực không dám vọng động.
Lưu đạo sĩ bấm ngón tay, làm bộ làm tịch nói:
- Trong số mạng của mỗi con người đều có ba ngôi sao chính, Thất Sát coi giữ thành bại, Phá Quân coi giữ chinh phạt, Tham Lang coi giữ hoạ phúc, hiện Tổng Biều Bả Tử bị sao Phá Quân coi giữ chinh phạt nhập vào cung chủ mệnh, mới gặp phải kiếp nạn này.
Thôi Oanh Nhi run rẩy hỏi:
- Vậy... có thể bị thương hoặc sống chết sao?
Lưu đạo sĩ nào dám nói hắn đã chết, người phụ nữ này tính nóng như lửa, trở mặt còn nhanh hơn lật sách, nếu ngày mai nhận được tin báo tử của Dương Hổ, e rằng cho dù mình có nói ông trời sắp sập thì cô nàng cũng sẽ không chịu để yên đâu.
Thế là Lưu đạo sĩ cười khùng khục, ậm ờ trả lời:
- Dương Lăng là Tướng tinh hộ vệ cho Đế tinh cũ, mà lão đại là Đế tinh mới, cũ mới thay nhau, nhật nguyệt luân chuyển, trong số mệnh của lão đại nên có kiếp này. Bất quá Phá Quân nhập chủ cũng là chuyện tốt, đại nạn không chết mai sau ắt sẽ gặp phúc. Chờ hai ngôi sao còn lại cũng nhập vào cung chủ mệnh, Sát-Phá-Lang tam tinh tụ hợp, thì thiên hạ tất sẽ đổi chủ, không thể nghịch chuyển!
Thôi Oanh Nhi đứng bật dậy vung tay áo nói:
- Nói cả buổi vẫn chưa biết rõ là sống hay chết, cửa ải này có thể vượt qua hay không còn không biết đây,
Nói rồi nàng mới cảm thấy mình quá nặng lời, bèn lúng túng phẩy mái tóc mai, giọng dịu lại:
- Nô gia lo cho trượng phu, nóng lòng nên đã thất lễ, xin tiên sinh chớ trách.
Nói đoạn nàng đanh mặt lại, sát khí đằng đằng:
- Nô gia sẽ đợi tại nơi này, ngày mai dò thám được tin tức rồi hẵng nói tiếp. Nếu Dương Hổ bình yên vô sự thì thôi, nhược bằng huynh ấy xảy ra chuyện gì không may, Thôi Oanh Nhi là phận nữ nhi, cũng sẽ mặc kệ hắn là Tướng tinh hay Đế tinh gì, ta nhất định sẽ đánh vào Dương phủ. Cho dù có liều mạng đồng quy vu tận cũng phải giết chết cái tên khốn đó!
(1) Đường Tái Nhi (1399 - không rõ năm mất), nữ thủ lĩnh Bạch Liên giáo trứ danh trong cuộc khởi nghĩa nông dân đầu thời Minh, là người huyện Bồ Đài châu Tân tỉnh Sơn Đông.
(2) Từ Hồng Nho (không rõ năm sinh - 1622), người Cự Dã tỉnh Sơn Đông, giáo đồ Bạch Liên giáo, thủ lĩnh cuộc dân biến cuối thời Minh, tự xưng là Trung Hưng Phúc Liệt đế.
(3) Lý Tự Thành (1606 - 1645?), người Mễ Chi, tỉnh Thiểm Tây, là người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân lật đổ nhà Minh vào năm 1644, tự xưng Đại Thuận hoàng đế.
(4) Trương Hiến Trung (1606 – 1647), tên tự là Bỉnh Trung, hiệu là Kính Hiên, người Bảo Giản, huyện Liễu Thụ, vệ Duyên An, là lãnh tụ khởi nghĩa nông dân cuối đời nhà Minh, từng kiến lập chính quyền Đại Tây; đồng thời với Lý Tự Thành, người kiến lập chính quyền Đại Thuận.
(5) "tiêu diêu cân", còn gọi là "hà diệp cân" (khăn lá sen).
Chương 176 Tiệc rượu
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Hiệu đính:
Nguồn: www.tangthuvien.com
Hôm qua một toán cướp lớn bị tiêu diệt, gần hai trăm cỗ thi hài được giao cho Ngũ thành binh mã ty. Dưới chân thiên tử lại xảy ra vụ án lớn như vậy, Ngũ thành binh mã ty và Kinh doanh khẩn trương vạn phần, lập tức tăng cường kiểm soát kinh sư, nghiêm ngặt thẩm tra từng bá tánh muốn ra khỏi thành; thám mã của bộ Hình lẫn ba xưởng một vệ liên tục xuất hiện, dò la tin tức khắp nơi.
Triều đình không muốn bá tánh biết tin vào ngày cận Tết lại có một đám cướp lớn tập kích trọng thần triều đình vào ban đêm, tránh cho lòng người phấp phỏng; nhưng như thế lại càng phản tác dụng, đủ loại tin đồn vẫn được lan truyền.
Đến khi có người đến Cao Lão trang thăm viếng bạn bè trở về, câu chuyện dần dần được thống nhất: kể rằng có một đám đại đạo đến từ phương Bắc, đều là hảo hán lục lâm võ nghệ cao cường, một có thể chọi trăm, ban đêm tìm đến Nội xưởng làm loạn. Sau khi giáp chiến với mấy ngàn phiên tử Nội xưởng, toàn quân đã bị diệt. Lại kể rằng thủ lĩnh đám giặc cướp nọ tên là Dương Hổ, thân cao hai trượng, lưng hùm vai gấu, một mình đã giết chết hơn trăm viên phiên tử Nội xưởng, cuối cùng bị súng thần hỏa bắn thủng như cái nia. Tin tức đó đã trở thành đề tài hấp dẫn nhất của mọi người khi thăm thân nhân viếng bằng hữu trong dịp tết ông Táo.
Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh đều mong muốn biến cả Cao Lão trang thành quân doanh để đề phòng vợ chồng Dương Hổ quay lại, nhưng Dương Lăng nhất quyết không chịu. Đừng nói hôm nay là ngày tết ông Táo, là ngày mà bá tánh đi thăm viếng thân nhân bằng hữu, mà cho dù là ngày thường, cũng không có lẽ gì lại hạn chế mọi người ra vào. Đây là Cao Lão trang, chứ không phải là Nội tập sự xưởng; là Uy Vũ bá cư trú ở thôn trang, chứ không phải người của thôn trang cư trú trong Nội xưởng.
Không còn cách nào khác, hai người Liễu Bưu đành “ngoài buông lơi trong siết chặt”. Tuy không cấm tiệt bá tánh lui tới trong thôn thăm hỏi thân nhân, cũng không hề có người đến gặng hỏi, song chung quanh phủ Uy Vũ Bá lại bí mật bố trí thêm nhân thủ, tăng cường canh gác.
Thi thể của đám đạo tặc bị loạn súng bắn chết tại Lộ Ao lý hôm qua đều đã được đưa về, trong đó không hề thấy hình dáng của Dương Hổ. Vào giờ Tỵ ba khắc, Bắc trấn phủ ty Thiệu Tiết Vũ của Cẩm Y vệ phái người đến đưa tin rằng bọn họ bắt được một tên đạo tặc bị thương đang chạy trốn. Kẻ đó hung hãn không sợ chết, khi phải hứng chịu đủ loại cực hình của Cẩm Y vệ đã định cắn lưỡi tự vận nhưng không thành. Sau khi trải qua thêm mấy loại cực hình tàn khốc khác hắn đành phải thều thào tiết lộ sự thật.
Đêm qua Dương Hổ thoát khỏi kiếp nạn quả thực là do ý trời. Vốn dĩ Dương Hổ trúng tên trên bắp đùi, trong lúc chiến đấu ác liệt miệng vết thương bị toét lớn, máu chảy không ngừng. Thoát ra khỏi vòng vây được ba dặm thì thân thể cường tráng của hắn cũng không chịu nổi nữa, bốn tên bộ hạ thân tín đành phải dìu hắn ẩn náu trong một phần mộ ven đường để băng bó vết thương, chờ đợi các huynh đệ đi kiếm ngựa về.
Không ngờ đợi một hồi rồi lại thêm một lúc, cả bọn láng máng nghe đâu đó như có tiếng súng giòn giã như đậu rang. Một tên đạo tặc bèn lặng lẽ bí mật lẻn đi quan sát thì thấy Bành Kế Tổ đang hào hứng dẫn binh sĩ thu thập thi thể và thu gom ngựa chiến. Tên đạo tặc này thấy tình thế không ổn, lập tức trở về bẩm báo với Dương Hổ, mấy người bọn chúng bèn trốn vào đồng hoang.
Đến tảng sáng, bọn chúng chạy vào một thôn trang nhỏ không rõ tên, cướp được ba thớt la và ngựa, hai tên thân tín kèm Dương Hổ chạy trốn mất dạng, hai tên còn lại chia nhau lẩn tránh. Tên này luống cuống không biết đường, bị Cẩm Y Vệ thấy khả nghi chặn lại. Vừa mới bị gặng hỏi mấy câu thì tên đạo tặc này liền đột ngột ra tay đả thương người, giết chết sáu bảy tay Cẩm Y Vệ. Cuối cùng một người không chống nổi đám đông nên gã đã bị bắt.
Nghe được tin tức này, Dương Lăng liền đoán rằng rất có nhiều khả năng Dương Hổ đã trốn về sào huyệt, bèn căn dặn thủ hạ thông tri cho bộ Hình, bảo bọn họ gởi công văn đến Bá châu, lệnh cho quan phủ địa phương tra kỹ vụ án này. Thu xếp xong xuôi, Dương Lăng mới trở về phủ chuẩn bị đón tiếp khoản đãi khách mời sẽ đến dự tiệc hôm nay.
Tuy rằng trong ngoài kinh sư căng như dây đàn nhưng bên trong Dương phủ lại ngập tràn bầu không khí vui vẻ. Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vĩnh, Bành Kế Tổ, Liên Đắc Lộc, Phùng Đường và thậm chí cả Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh sau khi đã an bài thủ vệ thỏa đáng đều tụ tập dưới một mái nhà. Những người này đều là trụ cột của Nội xưởng, hết lòng theo phò Dương Lăng, tận sức tận lực, Nội xưởng mới có thể phát triển nhanh chóng như hiện nay.
Hơn nửa năm mưa máu gió tanh, chung vai tác chiến, những người này cùng tiến cùng lui, nay nghiễm nhiên đã trở thành một nhóm có chung lợi ích gắn kết vững bền. Dương Lăng tin tưởng bọn họ vô cùng.
Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận và Vu Vĩnh đều dẫn theo gia quyến đến phủ. Ngô Kiệt dưới gối không con, chỉ dẫn phu nhân cùng đến; Hoàng phu nhân dẫn theo cháu trai; trưởng nữ của Vu Vĩnh đã xuất giá, lão ta dẫn theo cả phu nhân lẫn nhị nữ, tam nữ. Gia quyến của ba vị Đô ty thuộc Thần Cơ doanh trước đây đều đang sinh sống ở nơi khác; bình thường bọn họ vẫn sống trên núi, chỉ thi thoảng vào thành tìm đến xóm làng chơi hưởng thụ mùi vị âu yếm, cho nên bọn họ đi dự tiệc hết sức thuận tiện.
Ngày thường Hàn Ấu Nương, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi ăn mặc hết sức tùy ý, trang điểm qua loa, vì ở không trong nhà nên các nàng cùng lắm cũng chỉ đeo bông tai và cài trâm nạm trân châu. Hôm nay khách đến rộn nhà, bọn họ bèn khoác lên người những bộ cánh sang trọng theo bên cạnh Dương Lăng, xinh đẹp như hoa, sáng ngời như ngọc.
Hoàng phu nhân, Ngô phu nhân và Vu phu nhân tuổi đã hơn năm mươi nên rành rẽ lễ nghi. Vừa gặp các vị Cáo Mệnh phu nhân của triều đình, cả ba bà liền vội bước tới làm đại lễ yết kiến khiến ba cô nàng tuổi còn nhỏ xíu ngượng chín cả mặt, lật đật bước tới đỡ dậy.
Phu nhân Vu Vĩnh cũng là người Sắc Mục, mũi cao mắt sâu, mái tóc vàng óng. Người Sắc Mục ở kinh sư không hiếm nên ngoại trừ Hàn Ấu Nương, các cô này ai nấy đều có kiến thức sâu rộng nên không hề lấy làm lạ, nhưng hai người con gái thướt tha chưa xuất giá của Vu phu nhân đang đứng sau lưng bà ấy thì lại hấp dẫn ánh mắt mọi người.
Vóc dáng thon cao, so với Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận bọn họ còn cao hơn non nửa đầu, mái tóc mềm mại óng vàng, mặt che bởi một lớp voan mỏng chỉ để lộ hai con mắt xinh xắn màu xanh thẫm, chiếc mũi ngọc ngà cùng cánh môi anh đào như ẩn như hiện dưới lớp voan càng làm tăng thêm vẻ mỹ miều.
Đôi tỷ muội này vận váy lụa cân vạt ống tay hẹp, bên ngoài khoác áo chẽn bông nhiều màu. Bên dưới là một chiếc quần dài ống chật màu xanh nhạt làm tôn thêm vẻ mềm mại dịu dàng của thân hình gợi cảm; đường cong trên đôi chân thon thả chắc nịch ẩn dưới lớp quần trông hết sức mê người. Lúc di chuyển eo thon khẽ đong đưa càng khiến người ta thêm mê mệt, gây một ấn tượng thật mạnh.
Phụ nữ thời Minh ra ngoài rất thích mặc áo chẽn váy khít, rất hiếm người mặc quần dài ống chật hoặc miệng ống loe, có thể gặp mỹ nữ phong tình dị quốc ăn mặc như vậy lại càng thêm hiếm. Tô Tam và Tuyết Lý Mai thầm nổi lòng hiếu thắng, thế nhưng bên dưới bộ ngực cao vút và bên trên cặp mông tròn lẳn như trăng rằm mà dường như còn to gấp đôi của bọn họ, chiếc eo thon thả mảnh dẻ khiến người ta phải đỏ mắt vì ghen tị ấy không khỏi khiến bọn họ âm thầm cảm thấy hổ thẹn.
Các cô thực không biết hai chị em đó đã dùng thứ gì mà có thể thít chặt eo đến tắt thở như vậy, bằng không cho dù eo họ có thon cỡ nào đi chăng nữa thì làm sao có thể thon thả bằng chiếc eo của hai cô chứ?
Dương Lăng tươi cười đón khách vào trong nhà. Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm cũng tươi cười nghênh đón, rồi cùng với Hàn Ấu Nương vừa vui vẻ chuyện trò vừa đưa nữ khách theo hành lang bên hông vào trong hậu viện.
Dương Lăng đưa đám khách đàn ông vào trung đường. Trong chậu than lửa kêu tí tách, than củi thượng đẳng trộn lẫn hương liệu cháy thơm ngát cả căn phòng. Quản gia sớm đã bày biện đủ bàn ghế.
Mọi người ngồi vào chỗ trò chuyện cười đùa. Uống trà đàm đạo được một chốc, Dương Lăng mỉm cười đứng dậy nói:
- Ngô lão, Hoàng lão, các vị huynh đệ đồng nghiệp! Dương mỗ nhờ có các vị dốc lòng tương trợ, Nội xưởng mới có được ngày oanh oanh liệt liệt như hôm nay. Hôm nay là ngày tết ông Táo, Dương mỗ mời các vị hảo huynh đệ vào phủ sum họp một nhà là để biểu đạt sự tôn kính và lòng cảm tạ với các vị. Chỉ mong huynh đệ chúng ta nắm tay đồng hành, về sau kiến công lập nghiệp, Nội xưởng của chúng ta...
Đoạn y chỉ vào ngọn lửa đang cháy bùng trong chậu than nói tiếp:
- Nội xưởng của chúng ta dưới sự nỗ lực chung của các vị và ta sẽ huy hoàng rực rỡ, phát triển không ngừng như ngọn lửa này.
Liên Đắc Lộc cười lớn:
- Xưởng đốc quá khách sáo rồi, nếu như Nội xưởng không có đại nhân chủ trì thì sao có được oai phong của ngày hôm nay? Thỉnh thoảng ti chức trở về Thần Cơ doanh chơi, những người bạn đồng liêu nơi đó gặp ti chức đều kính sợ và hâm mộ không thôi. Theo đại nhân ngài kiếm sống, tuyệt đối là không sai.
Một trận cười lớn nổ vang khắp căn phòng. Bành Đắc Lộc ưỡn cái bụng phệ ra vẻ trịnh trọng gật gù phụ hoạ:
- Nói rất đúng. Thực ra lần đầu ti chức gặp đại nhân, thấy đại nhân bước lên điểm tướng đài, khí vũ hiên ngang, oai phong lẫm liệt, liền đã cảm thấy đại nhân tuyệt không phải là vật trong ao rồi. Nhãn quang của lão Bành quả nhiên không tệ!
Lời ba hoa tâng bốc của lão khiến ngay cả Phùng Đường xưa nay luôn hiền lành ít nói cũng nhịn không được phải bật cười phì. Dương Lăng mỉm cười nhìn lão, chế diễu:
- Thật như thế à? Khi đó bản quan bị Bào tham tướng gây khó dễ, dẫn mấy người các ông dùng đại lễ yết kiến Liễu thiên hộ; lúc bản quan đăng đài điểm tướng, bản quan thấy lão Bành ông hình như vẫn chưa tình nguyện quỳ xuống mà. Chẳng lẽ vì bụng quá to cho nên khó quỳ?
Bành Kế Tổ bị y trêu khiến khuôn mặt già đỏ au, nghe được câu cuối liền vội vỗ bụng tán thành:
- Chính phải, chính phải! Xưởng đốc thật anh minh. Ti chức đều bị cái bụng này cản trở, hắc hắc, là do cái bụng to này cản trở.
"Ha ha", mọi người càng cười to hơn. Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh nghe xong cũng không khỏi cảm khái vạn phần. Đúng là “nam sợ đi lầm đường, nữ sợ gả lầm chỗ”. Mới nửa năm trước đây mình chỉ là một viên hiệu úy cỏn con của Cẩm Y vệ, từ ngày đi theo Dương Lăng lại thăng tiến như diều gặp gió, nay cho dù là Cẩm Y đề đốc gặp mình cũng phải đối đãi nồng hậu mấy phần. Chức thiên hộ này kẻ khác dù lăn lộn ba mươi năm cũng chưa chắc đã với tới được.
Đợi mọi người ngưng cười, Dương Lăng nói tiếp:
- Thành nhị đáng đầu là nữ nhân, không tiện cùng mọi người uống rượu, hiện cô ta đã ra hậu viện bầu bạn cùng phu nhân, chúng ta không cần phải...
Bành Kế Tổ ngoác miệng cười to:
- Cô ta không có mặt ở đây càng tốt. Lần trước cô ta đến Nội xưởng dạo một vòng, cặp mắt hoa đào đó liếc Bành mỗ một cái, hại khiến lão Bành ta tim đập thình thịch, cả ngày cũng không yên...
Liên Đắc Lộc ngồi cạnh chợt huých khuỷu tay vào hông Bành Kế Tổ khiến lão loạng choạng suýt ngã. Lão quay đầu lại bực bội la lên:
- Cái tên Liên mặt rỗ này, chưa uống mà đã bị ma men nhập rồi à?! Ngươi huých ta làm gì?
Liên Đắc Lộc nháy mắt với lão:
- Lỡ tay, chỉ là lỡ tay thôi mà! Ha ha, chốc nữa huynh đệ tự phạt ba chén là xong.
Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh không nhịn được cúi mặt cười thầm. Ngô Kiệt vừa vuốt râu mỉm cười vừa liếc nhìn Dương Lăng không nói gì. Dương Lăng thấy Vu Vĩnh nghiêng người kề tai nói nhỏ mấy câu với Bành Kế Tổ, khuôn mặt lão Bành lập tức xám ngoét như quả gan lợn, thấp thỏm liếc về phía mình, thì bất giác cũng cảm thấy lúng túng.
Đừng nói là ở thời đó, cho dù ở xã hội hiện đại thì việc trọng dụng một người con gái cũng đã là đề tài câu chuyện được mọi người say sưa bàn tán, huống hồ đó lại là một người con gái duyên dáng yêu kiều, phong tình tha thướt; làm sao không có những lời đồn đãi phong tình chứ?
Dương Lăng ho khan vài tiếng, vờ như không trông thấy, tiếp tục:
- Ngoài ra, bản quan còn muốn giới thiệu với các vị một vị bằng hữu: Hán Siêu!
Ngũ Hán Siêu từ nội thư phòng lách người bước ra, ôm quyền vái mọi người:
- Ngũ Hán Siêu ra mắt các vị đại nhân.
Mọi người thấy là người do Dương Lăng tự thân giới thiệu nên nào dám qua quýt, liền vội đứng dậy chào hỏi. Dương Lăng ra hiệu bảo Ngũ Hán Siêu ngồi vào chỗ rồi cười nói:
- Hán Siêu là công tử của Ngũ Văn Định đại nhân, Thành Đô đồng tri, là đệ tử thân truyền của chưởng môn chân nhân núi Võ Đang, giỏi văn hay võ, một thân tài nghệ hết sức cao cường.
Nội xưởng vừa mới thành lập, nhân tài thiếu hụt, bản đốc cầu hiền như khát nước, may kết giao được Hán Siêu, huynh ấy đã đáp ứng tương trợ bản đốc, gia nhập vào Nội xưởng cùng làm việc. Sau này Hán Siêu sẽ là đồng liêu của các vị, hôm nay các vị hãy cùng nhau gặp mặt, sau này chúng ta sẽ cùng hội cùng thuyền, cùng vượt qua hoạn nạn.
Nói xong Dương Lăng vỗ tay, gia bộc nối đuôi nhau đưa món ăn lên, nhất thời sơn hào hải vị, thức ăn hoa quả có đủ, thịnh soạn vô cùng. Từng chiếc đĩa sứ Thanh Hoa tinh xảo sáng bóng được bày lên bàn, tiểu tì nhẹ nhàng dâng rượu rót đầy từng chén rồi lui sang chầu chực một bên.
Dương Lăng nâng chén đứng dậy:
- Trên bàn rượu bất luận chức vị tôn ti. Ở đây Hoàng lão và Ngô lão tuổi tác cao nhất, trước ta xin kính hai vị trưởng giả, tiếp kính các vị huynh trưởng Bành, Liên, Phùng. Hôm nay chúng ta nhất định phải vui cho thoả thích, không say không về.
Hoàng Kỳ Dận và Ngô Kiệt vội đứng dậy chắp tay cảm tạ, mọi người đều theo Dương Lăng đứng dậy kính rượu hai lão. Hai ông già được Dương Lăng trọng đãi như vậy không khỏi cảm kích vạn phần, hai người ngưỡng cổ uống cạn rượu ngon trong chén, dốc cho mọi người xem chén rượu cạn trơn rồi mới mỉm cười ngồi xuống.
Dương Lăng cũng uống một hơi cạn rượu trong chén rồi từ từ ngồi xuống. Rượu hôm nay dịu mà tinh khiết ngọt lịm, uống vào hai má ngát hương, là rượu Phượng Tường(1) chính gốc, mới uống vào thì cảm thấy không nặng, dần dà ngấm vào lại không nhẹ. Tửu lượng Dương Lăng không cao cho nên y chỉ kính rượu hai chén, sau đó mặc kệ đám người phàm ăn tục uống Bành Kế Tổ hét hò thi rượu.
Sau ba tuần rượu, thưởng thức đồ ăn đủ các loại mùi vị(*), Ngô Kiệt mới nghiêng người thấp giọng hỏi:
- Đại nhân, nghe nói lúc sáng Cẩm Y Vệ bắt được một tên đạo tặc lọt lưới, đã đặc biệt chạy đến báo tin cho đại nhân?
(*) nguyên văn “ngũ vị”, chỉ các món mặn, ngọt, chua, cay, đắng.
Dương Lăng kinh ngạc cười nói:
- Tai mắt của Ngô lão càng lúc càng lợi hại, người Trấn phủ ti nha môn chạy đến ông liền biết rõ nội tình ngay. Đúng vậy, Thiệu Tiết Vũ quả thực đã phái người đến. Nhắc đến việc này, ta chợt nhớ đến một chuyện. Mục tiêu dò xét và truy lùng bên phía Ngô lão dường như chỉ chú trọng vào các quan viên văn võ; tin tức dân gian tuy phần nhiều là hoang đường không đáng tin, song tăng cường thêm bên phía ấy cũng rất có ích. Nội tình chuyện Dương Hổ đến nay chúng ta vẫn chưa nắm rõ. Sau này cũng nên chú ý thêm về phương diện này.
Ngô Kiệp đáp:
- Dạ! Bởi Nội xưởng vừa mới thành lập mạng lưới tình báo, nên vẫn chưa đủ sức xâm nhập đến mọi ngõ ngách. Ti chức lo ngại trong triều vẫn còn quan viên gây bất lợi cho đại nhân, cho nên cố ý yêu cầu bọn thám tử tập trung tinh thần vào triều đình nhiều hơn, việc trong thiên hạ chúng ta cũng sẽ dần dà để ý tới.
Dương Lăng ừ một tiếng, lại nghe Ngô Kiệt nói tiếp:
- Cẩm Y vệ nghe nói đại nhân bị tập kích, đã phóng ngựa khắp nơi, dốc lòng bán sức, vì bắt một tên cường đạo mà đã bị tử thương sáu bảy người. Đại nhân có biết vì sao Cẩm Y vệ lại dốc sức giúp ngài như vậy không?
Ánh mắt Dương Lăng lập tức trở nên tập trung, y thấp giọng hỏi:
- Bên trong còn có nội tình gì khác à?
Ngô Kiệt cười ra vẻ bí hiểm:
- Biếu lễ cho người tất có mưu cầu. Ban đầu Trương Tú của Cẩm Y vệ dựa vào Đông xưởng, phái Mâu Bân cực kỳ bất mãn với hành vi khom lưng uốn gối của lão ta, cho nên sau khi lên nắm quyền hắn vẫn duy trì khoảng cách với Đông xưởng, Tây xưởng và Nội xưởng, giữ cho Cẩm Y vệ không chịu sự tiết chế của ba xưởng. Nay hắn hao tâm tổn trí tặng cho đại nhân món nhân tình này, đương nhiên là có dụng tâm khác.
Dương Lăng rót rượu vào chén Ngô Kiệt, trầm ngâm:
- Ừm! Dạo này khoảng cách giữa Cẩm Y vệ và chúng ta đích thực không xa cũng không gần, song bọn họ lại đem hết sức mình giúp đỡ chúng ta điều tra chuyện buôn lậu của đám quan lại, sĩ tộc và thân hào cự phú vùng duyên hải. Mâu Bân và Thiệu Tiết Vũ lại hết lòng trợ giúp chúng ta bắt cướp như vậy là có dụng ý gì?
Ngô Kiệt mỉm cười đáp:
- Đây cũng chỉ là suy đoán của ti chức. Liên hệ hai việc bề ngoài không hề có liên quan gì với nhau mà suy đoán ra, tuy nhiên dựa theo những hoạt động nổi bật của Cẩm Y Vệ trong thời gian gần đây, dường như cũng chỉ có chuyện này là có thể giải thích được.
Đoạn lão liếm môi, mỉm cười nói:
- Hẳn đại nhân vẫn còn nhớ chuyện hai mươi mốt người Đới Nghĩa dâng tấu xin Hoàng thượng giữ lại Lưu Kiện và Tạ Thiên chứ?
Dương Lăng nhíu mày hỏi:
- Không phải là mấy lão ngự lại ngôn quan đó bị nhốt vào ngục một hồi rồi lại đuổi về rồi sao? Xui xẻo nhất là hai người Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân cũng đã được ta bảo vệ đưa đến Đại Đồng làm tướng. Chẳng lẽ lại có người đến gây chuyện hay sao?
Ngô Kiệt cười cười đáp:
- Vậy cũng không phải, chỉ là dư âm chưa nguôi mà thôi. Khi đám người Đới Tiễn bị bắt vào Cẩm Y vệ, lúc ở trong ngục đã viết tờ khai, luôn miệng mắng Lưu Cẩn là tên thiến cậy quyền. Tờ khai đưa vào cung, Lưu Cẩn xem xong thì rất lấy làm bất mãn, chưa dám dâng thẳng lên cho Hoàng thượng, mà trả lại Cẩm Y vệ kêu bọn họ sửa đổi lời khai rồi mới trình lên. Mâu Bân cả giận, hắn bảo xưa nay Cẩm Y vệ xét xử chưa từng có tiền lệ tự ý thay đổi lời khai của khâm phạm để dối gạt thiên tử, cho nên khăng khăng không chịu, hai bên đã căng thẳng nhiều ngày rồi.
Cốc Đại Dụng từng ra mặt hoà giải, nhưng Mâu Bân như cưỡi trên lưng cọp, lúc này mà hắn cúi đầu trước mặt thuộc hạ thì sẽ mất sạch oai phong, thế là đành phải mượn cớ chạy đến phương nam để tránh gió.
Mấy ngày trước còn có việc Doãn Chu Tỉ của phủ Thuận Thiên và Hầu Dương Nguyên của Ngũ Quan giám bị Lưu Cẩn phạt đình trượng đến chết. Lý do công khai là tham ô và chểnh mảng công vụ, song thực tế bên trong là bởi bọn họ qua lại quá thân thiết với Cẩm Y vệ, cho nên Lưu Cẩn mới giết gà để doạ khỉ.
Dương Lăng tựa lưng vào ghế ngẫm nghĩ một chốc, rồi lắc đầu cười khổ:
- Nói vậy không bao lâu nữa thì Thiệu trấn phủ sẽ lại đến nhà nhờ ta ra mặt hoà giải ư? Đã xét phạt cựu thần khiến cho đại học sĩ phải dẫn đầu bá quan đến quỳ dưới cổng cung, món nợ này còn chưa tính xong mà giờ lại quay sang gây sự với Cẩm Y Vệ rồi. Chậc! Lưu Cẩn ơi Lưu Cẩn, vị Lưu công công này tinh thần thật là khoẻ đây, lão ta nghĩ rằng có Hoàng thượng chống lưng thì không còn phải sợ gì nữa hay sao?
Bành Kế Tổ đang uống say đến độ con mắt lừ đừ, loáng thoáng nghe câu được câu mất, liền bật cười lớn chen lời:
- Lưu công công hả? Ờ... sức khoẻ đương nhiên có đủ, lão ta có sức mà không thể tiêu trên mình đàn bà, đương nhiên phải tìm ít việc làm để tiêu bớt sức lực rồi.
Liên Đắc Lộc cũng đã uống say quắc, khuôn mặt gầy gò đỏ gay như đít khỉ, cười hềnh hệch bảo:
- Lão Bành lại nói bậy rồi! Lời này mà lan truyền ra ngoài, chính ông sẽ là người “tiêu” đấy.
Bành Kế Tổ trợn mắt:
- Ai sẽ rêu rao ra ngoài hử? Là ngươi? Là ngươi? Hay là ngươi?
Ngón tay thô kệch của gã chỉ một vòng, đến khi chỉ tới mũi Dương Lăng, gã mới phát hiện bất tiện, không khỏi cười hắc hắc rồi cầm chén rượu của mình lên nốc một hơi.
Dương Lăng cười cười, cúi đầu trầm ngâm:
- Phía bắc có giặc Thát xâm phạm, dùng binh là việc lớn của nước nhà. Việc bãi bỏ lệnh bế môn tỏa cảng và dẹp trừ giặc Oa cũng cần triều đình thật tâm đoàn kết, trên dưới một lòng. Lúc này xưởng vệ lại đấu đá lẫn nhau thực không phải là chuyện tốt, xem ra việc hoà giải lần này vẫn phải do bản quan đứng ra thực hiện rồi.
- Không được!
Hoàng Kỳ Dận và Ngô Kiệt nãy giờ im lặng lắng nghe bỗng đồng thanh kêu to ngăn cản. Mấy người Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu ngồi cách xa đó đang nâng rượu mời nhau nghe được câu này bèn quay đầu nhìn lại.
Hai ông già mưu sâu kế rộng liền vội nhỏ giọng lại. Hoàng Kỳ Dận nói:
- Đại nhân! Làm người tốt chưa hẳn đã là việc hay. Đại nhân nhất định đừng nhúng tay vào, nếu Thiệu Tiết Vũ tìm đến nhà, đại nhân cũng phải lựa lời thoái thác, khi nào bọn họ còn chưa phân rõ thắng thua, đại nhân chưa thể ra mặt.
- Hử?
Dẫu sao Dương Lăng vẫn còn trẻ, mấy chuyện ơn nghĩa nhân tình này y kém hiểu biết hai ông già lăn lộn lâu năm giữa chốn quan trường, chịu đủ mọi ghẻ lạnh này nhiều nên không khỏi nhìn bọn họ nghi hoặc.
Ngô Kiệt giải thích:
- Ti chức chính là lo Cẩm Y Vệ sẽ tìm gặp đại nhân, cho nên mới cố ý khơi ra chuyện này. Chuyện này rất quan hệ đến uy vọng của Cẩm Y vệ và Ti Lễ giám. Dựa vào ảnh hưởng của đại nhân, nếu đại nhân tỏ thái độ ủng hộ một phe, phe kia cũng chỉ có thể nuốt giận mà thôi.
Thế nhưng bất luận đại nhân có ăn nói khách sáo và uyển chuyển như thế nào đi chăng nữa, nếu đại nhân đã khuyên Lưu Cẩn nhượng bộ, để Cẩm Y vệ công khai trình lời cung tố cáo “bọn thiến lạm quyền” lên Hoàng thượng thì không chỉ Lưu Cẩn sẽ ôm lòng oán hận ngài mà Bát Hổ của Nội đình cũng sẽ canh cánh trong lòng. Còn nếu đại nhân khuyên giải Mâu Bân sửa xoá lời cung thì oai vọng mà hắn cực khổ gầy dựng trong Cẩm Y vệ cũng sẽ rơi xuống nghìn trượng.
Hoàng Kỳ Dận gật đầu tiếp lời:
- Trừ phi một phe chịu lùi bước, bằng không cuộc chiến rối rắm này sẽ không thể nào hoá giải. Nếu như đại nhân đứng giữa điều đình, thì phe phải lùi bước sẽ trút giận sang đại nhân. Bởi thế... đại nhân nên đặt thân mình ngoài cuộc, mặc cho bọn chúng đấu đá long trời lở đất, đợi đến khi một phe thất bại thảm hại rồi, lúc đó đại nhân hãy ra mặt thu nhặt tàn cuộc. Dù đại nhân chỉ hơi đưa tay cứu vớt, đảm bảo cho sự an nguy của bọn chúng thì bọn chúng, vốn đã hứng chịu đủ mọi khổ đau, vẫn sẽ phải mang ơn đội nghĩa đại nhân.
Dương Lăng nhìn hai người một lúc rồi lặng lẽ gật đầu. Quan lại đấu đá, diệt trừ lẫn nhau, sự cay nghiệt và vô tình trong đó y đã phần nào giác ngộ. Y đành thở dài bảo:
- Thôi bỏ đi. Mâu Bân đã chạy đi tránh gió, xem ra bản quan cũng phải trốn tránh một chút vậy.
Lưu Cẩn là đại thủ lĩnh Ty Lễ Giám, mấy ngày này sự vụ trong cung rất nhiều, lão ta nhất định không thể dứt ra bức bách Cẩm Y vệ làm việc cho lão. Ngày mai bản quan sẽ đi gặp Hoàng thượng, việc minh ước với Đoá Nhan Tam Vệ không thể trì hoãn quá lâu. Bản quan phải tấu xin Hoàng thượng phái một vị thân thuộc nào đó trong hoàng thất đủ để thay mặt triều đình đến Đại Đồng vào năm sau. Bản quan sẽ đi cùng y, trong kinh cứ để lão ta làm loạn đi.
Tiệc vui người say, đến lúc hoàng hôn nặng nề buông xuống, hầu hết mọi người trong phòng khách đã uống đến say mèm. Hai người Bành, Liên như hai con chó chết được thân binh dìu đỡ lên ngựa, vừa leo lên lại ngã cắm đầu xuống đất, khiến tay đội trưởng thân binh chỉ biết cười khổ sở gọi mấy tay phiên tử cường tráng cõng hai viên đáng đầu đang say như chết trở lên núi.
Phùng Đường bước chân cũng đã xiêu vẹo, song hành động vẫn còn tỉnh táo, cũng cáo từ Dương Lăng xin phép lui ra. Lão quản gia đi đến hậu đường báo Ấu Nương mời các vị nữ khách ra ngoài. Tiệc rượu trong hậu viện sớm đã tàn, Ấu Nương đang ngồi tiếp chuyện trong phòng khách, nghe tin liền vội đưa các vị nữ khách đến tiền sảnh.
Hàn Ấu Nương sắp sẵn gia nhân mang lễ vật theo sau. Nàng là nữ chủ nhân của Dương phủ, vốn có quyền tặng lễ vật, nhưng hôm nay Dương Lăng đáp tạ đồng liêu Nội xưởng nên nàng để Thành Khởi Vận giúp chọn ra vài món quà vừa hào phóng vừa đúng mực, nhằm trượng phu đích thân tặng khách.
Nghe Ấu Nương dặn dò xong, Dương Lăng mỉm cười đi đến trước mặt mấy người Ngô Kiệt và nói:
- Năm mới sắp đến, Dương mỗ có chuẩn bị một ít quà nho nhỏ tặng các vị, vẫn mong Ngô lão, Hoàng lão và Vu đại nhân đừng từ chối.
Đoạn y lấy từ trên tay gia bộc một gói quà, hai tay bưng lấy đưa cho Hoàng Kỳ Dận và bảo:
- Hoàng lão! Khí trời đang lạnh, Hoàng lão lại không tập võ, cả ngày chạy lên chạy xuống phủ trên núi e sẽ nhiễm phong hàn. Đây là hai cuộn nhung Lan Châu, nhẹ mềm lại giữ ấm, xin tặng Hoàng lão và phu nhân làm áo nhung.
Vải nhung Lan Châu vốn đã nổi danh, được chế tạo từ nhung của loài sơn dương, một cuộn nặng chỉ mười bốn lạng (một lạng Tàu tương đương 50gr - ND), mỏng nhẹ mà tinh xảo, trơn mượt như lụa tơ, mềm mại khít người, mặc vào rất ấm. Hai cuộn vải nhung này cầm vào càng thấy mềm mại nhẹ nhàng hơn mấy phần, xem ra là loại nhung Lan Châu thượng phẩm. Mặc dù đối với Dương Lăng thì giá trị của nó không quá quý giá gì, nhưng cũng đủ biểu lộ sự quan tâm yêu quý của y, Hoàng Kỳ Dận vui vẻ nhận lấy.
Dương Lăng cúi xuống xoa đầu đứa cháu nhỏ mới hơn mười tuổi của Hoàng Kỳ Dận, cười bảo:
- Thằng nhóc này lại cao thêm rồi, đã mời được thầy dạy chưa?
Thằng bé lễ phép thưa:
- Dương thúc thúc... Con chào đại nhân ạ! Hiện nay gia gia không có thời gian dạy con viết chữ đọc sách nữa, cho nên đã mời thầy cho con rồi. Thầy giáo không tốt bằng gia gia đâu, thỉnh thoảng lại đòi khẽ tay con nữa.
Dương Lăng bật cười lớn, mọi người đứng bên cạnh cũng không khỏi mỉm cười. Dương Lăng cười bảo:
- Con mà ngoan ngoãn đọc sách thì sẽ không còn ai khẽ tay con nữa đâu.
Nói rồi y thuận tay gở miếng ngọc bội đeo ở hông, miếng ngọc bích óng ánh trong suốt, rõ là loại thượng phẩm trân quý. Dương Lăng nhét nó vào tay thằng bé rồi dặn dò:
- Đây, thúc thúc đại nhân tặng con quà năm mới, mau cao chóng lớn, chăm chỉ đọc sách, học được một thân bản lĩnh nhé. Sau này con làm quan rồi sẽ chỉ có con khẽ tay người khác, người khác sẽ không khẽ được tay con nữa.
Nói rồi Dương Lăng đứng dậy, lấy một món quà khác nói với Ngô Kiệt:
- Ngô lão! Đây là hai cuộn lụa Tô Châu, một cuộn thảm lông Thiên Trúc, ngoài ra ở đây còn có một hũ rượu thuốc. Ngô lão là con cháu Ngô lão thần y Ngô Thanh Viễn, gia đình có truyền thống uyên bác từ lâu, lại biết y thuật. Có điều nếu như phương thuốc trị thấp khớp của ông đã không thể trị khỏi thì hãy dùng thử hũ rượu thuốc này của bản quan xem sao.
Ngô Kiệt hiểu ý bèn liếc sang Cao Văn Tâm đang đứng mỉm cười bên cạnh, cười đáp:
- Hẳn là do tay nữ thần y pha chế rồi? Ngô Kiệt thẹn là con cháu y đạo thế gia, thế mà ngoại trừ một ít phương thuốc tổ truyền là còn nhớ, đối với y thuật chỉ hiểu biết lơ mơ mà thôi. Thực đã làm phiền xưởng đốc đại nhân và Cao cô nương rồi.
Vu Vĩnh bàn đến chuyện buôn bán thì hết sức hào hứng. Nhưng bữa tiệc đêm nay không ai tình nguyện nói mấy chuyện này với hắn, nên hắn đành vừa uống rượu vừa tính toán mấy chuyện buôn ngựa Tây Bắc, chế áo lông Đông Bắc, nấu muối ăn duyên hải. Càng tính càng cảm thấy rất có lời nên tự rót tự uống vẫn cảm thấy rất thú vị, lúc này cũng phải nhờ tôi tớ dìu đỡ mới đứng vững được.
Dương Lăng cũng không dám đối đãi qua quýt với ông thần tài này, y cầm lên ba hộp gấm:
- Vu huynh trông nhiều hiểu rộng, bản quan cũng không biết nên tặng món gì. Ở đây có ba món nữ trang, tuy rằng giá trị không cao nhưng chế tác rất là tinh xảo, tặng cho phu nhân và con gái huynh vậy.
Vu Vĩnh coi Dương Lăng là tri âm có mắt nhìn người, vật phẩm của y tặng thì tốt xấu cũng không hề quan tâm, bèn vội cười nói:
- Đa tạ đại nhân! Na Na, Liễu Liễu, mau bước lên cảm ơn đại nhân đi.
Hai người thiếu nữ vội bẽn lẽn bước lên, uyển chuyển quỳ lạy, cất giọng dịu dàng:
- Na Na, Liễu Liễu cảm ơn Dương đại nhân.
Ở hậu trạch bọn họ đã bỏ khăn che mặt ra, khi trở về lại che mặt lại, hiện nay tấm lụa mỏng đã che phủ hai gương mặt.
Lúc bọn họ đến khách khứa rất đông, tuy Dương Lăng cảm thấy hai người thiếu nữ này có tấm thân khiến lòng người rung động, song cũng không thể chú ý nhiều. Lúc này y để ý mới thấy bọn họ vận áo xanh ống hẹp, áo chẽ bó sát người, quần dài mảnh khảnh, trên mặt lại phủ một lớp lụa mỏng chỉ để lộ cặp mắt long lanh màu lam; lúc đôi mày liễu cong vút ngó quanh thì thần thái trông hết sức mê người.
Hàn Ấu Nương cầm lấy hộp gấm trong tay Dương Lăng đưa đến tay người con gái có vóc dáng cao hơn, mỉm cười:
- Hai vị muội muội thật xinh đẹp, vẫn mong hai món nữ trang này có thể hợp với tâm ý của hai người.
Hai cô thiếu nữ cúi đầu vái thêm một vái, rồi mỉm cười nhận lấy hộp gấm.
Dương Lăng cười bảo:
- Ừm! Na Na nhất định là chị thứ hai, còn Liễu Liễu thì là cô em thứ ba rồi. Vu huynh, bản quan nói có đúng không?
Dương Lăng chưa đến tuổi nhược quán (20 tuổi), nhưng luôn mồm gọi lão là "Vu huynh", thực đã coi mình là thúc thúc của hai người thiếu nữ này. Người thiếu nữ có cặp mặt xanh ngắt như mặt nước hồ che miệng khẽ cười đáp:
- Dương phu nhân gọi con là muội muội, Dương đại nhân lại gọi cha là Vu huynh. Cha à, cha giỏi nhất là tính toán, không biết phép tính này nên tính thế nào nhỉ?
Vu Vĩnh trừng mắt với nàng, rồi đáp lời Dương Lăng:
- Đúng vậy, nha đầu tinh nghịch này chính là Na Na. Phùng Y Cống Phú Nhĩ Tư Thái Bá Cách Na Na, ha ha, đại nhân nghe thấy có oai phong không?
Mấy người Hàn Ấu Nương nghe thấy cái tên dài kỳ lạ như vậy đều bất giác che miệng cười, Vu Vĩnh không hề phát hiện, vẫn tự dương dương dương đắc ý. Chắp tay từ biệt Dương Lăng và các vị phu nhân xong, lão bước xiêu vẹo ra ngoài cổng, trèo lên kiệu trở về phủ.
Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh và Ngũ Hán Siêu vừa rồi cũng đã ngà ngà say, khi thấy Dương Lăng đã hồi phục tinh thần, ba người liền vụt đứng thẳng người dậy. Các khuôn mặt tuấn tú tuy vẫn còn hồng hào nhưng ánh mắt đã lanh lợi sắc sảo trở lại.
Dương Lăng gật đầu hài lòng, bảo:
- Cực khổ cho các vị rồi, mấy ngày nay vẫn cần đề phòng kín kẽ. Đám đại đạo đó dám tụ tập mấy trăm người ngang nhiên gây án trong kinh sư, coi thường vương pháp, trong mắt vốn không hề có triều đình. Bọn chúng có còn to gan xông tiếp vào Dương phủ hay không, việc đó không ai dám nói trước. Liễu Bưu hãy ngủ ở tiền viện, điều hành việc phòng vệ.
Liễu Bưu mỉm cười chắp tay đáp:
- Tuân lệnh đại nhân. Bọn ti chức cũng không uống nhiều nên sẽ không để lỡ việc công,
Nói đoạn gã xoay người rời đi.
Dương Lăng gật đầu ra lệnh tiếp:
- Ừm! Nhất Thanh hãy đến hậu viện! Hầm sưởi đó là nơi bản quan hết sức coi trọng. Từ trận chiến hôm qua có thể thấy được rằng, nếu không cậy vào vũ khí lợi hại mà chỉ dựa vào sự tinh nhuệ của Nội xưởng ta thì sẽ không phải là đối thủ của đám đại đạo lục lâm vùng vẫy chốn núi rừng đó. Huynh phải hết sức cẩn thận.
Dương Nhất Thanh để lọt mất Hồng Nương Tử ngay dưới mắt mình trong khi Liễu Bưu ở nơi này đã vây đánh hơn hai trăm tên đại đạo ngang tàng hung hợn nhất trong giới lục lâm, trong lòng gã sớm đã cảm thấy hổ thẹn. Cho nên gã đã hao tổn tâm huyết đảm bảo an ninh cho hậu viện, nghe dặn dò xong liền tự tin đáp ngay:
- Đại nhân yên tâm! Trừ phi đám giặc đó không đến, bằng không cho dù có ba đầu sáu tay cũng sẽ không thoát khỏi thiên la địa võng của ti chức!
Ngũ Hán Siêu thấy Dương Nhất Thanh đã đi, bèn nôn nóng hỏi:
- Đại nhân! Tại hạ sẽ làm gì?
Dương Lăng nhìn đánh giá chàng ta mấy lượt, rồi mỉm cười hỏi Ấu Nương:
- Ấu Nương, nàng thấy vóc người của Hán Siêu có giống ta không?
Hàn Ấu Nương cười tươi đáp:
- Ưm, chỉ rắn chắc hơn tướng công một chút thôi.
Dương Lăng bèn cười nói:
- Vậy thì được rồi, nàng hãy chuẩn bị một bộ áo dài của ta, bảo người đưa đến phòng của Hán Siêu. Ngày mai ta muốn Hán Siêu cùng theo ta vào thành một chuyến.
Ngũ Hán Siêu nhìn lại mình từ trên xuống dưới một lượt. Dương Lăng mua quần áo cho y không chút keo kiệt, nếu vào thành thì cớ gì phải thay đồ của Dương Lăng chứ. Nhất thời y không biết Dương Lăng làm vậy là có dụng ý gì, trong lòng không khỏi hơi nghi hoặc.
Dương Lăng không để ý đến vẻ ngơ ngác của chàng ta, lại nói tiếp:
- Bản quan vẫn chưa mệt, hay đến phòng huynh ngồi một chút đi.
Nói rồi y đến bên cạnh Ngũ Hán Siêu,cùng sánh vai đồng hành, vừa đi vừa cười nhẹ:
- Nội công tâm pháp mà đêm qua huynh dạy cho ta, cái gì mà tay trái ôm nhật nguyệt, tay phải gạt Càn Khôn, bảo rằng lúc đi đường cũng có thể luyện tập đó, sáng nay ta mới thử một chút mà thiếu chút nữa đã trẹo cả lưng. Sáng sớm mai bản quan sẽ kêu quân dịch (quân bưu vụ, đội dịch trạm của quân đội) đưa thiệp bái sư đến thẳng Võ Đang cho Tiêu chưởng môn. Huynh có nói là chưởng môn chân nhân nhất định sẽ thu nhận ta, vậy bây giờ xin nhờ đại sư huynh tương lai chỉ giáo thêm cho tiểu đệ luôn nhé!
(1) loại rượu trắng nổi tiếng ở huyện Phượng Tường, Thiểm Tây, Trung Quốc
Chương 177 Chính hợp ý trẫm
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Monsoon
Hiệu đính:
Nguồn:
www.tangthuvien.com
Dương Lăng đến cổng cung, kiệu phu và bốn tay thị vệ tự đi sang chỗ tránh gió để sưởi nắng và nghỉ ngơi. Chỗ ở của Dương Lăng cách nơi này quá xa. Thường ngày y đều cưỡi ngựa vào thành nhưng lúc này hai tên đầu sỏ của bọn thổ phỉ một đã chạy trốn, một thì không biết có còn ẩn náu trong kinh sư không. Cho nên Dương Lăng không dám chủ quan, sợ chẳng may sẽ bị trúng tên bắn lén.
Chiếc ghế mềm nửa nằm hoa lệ trong chiếc kiệu lớn này đã bị bỏ đi, thay bằng hai băng ghế, một trước và một sau. Ngồi đối diện tấm rèm vải mỏng che cửa sổ kiệu ở băng trước là Ngũ Hán Siêu đang ăn mặc giống y. Dương Lăng ngồi băng phía sau, nhìn từ bên ngoài tuyệt không thấy chỗ nào đáng ngờ.
Dương Lăng là 'khách quen' trong cung, dù thị vệ trực gác được thay phiên ba ngày một lần nhưng ai cũng có thể nhận ra vị đại nhân này. Ngọ môn tướng quân (viên quan gác cổng Ngọ môn - ND) nhận lấy thẻ bài bằng ngà, liếc qua lấy lệ, rồi tươi cười hai tay dâng trả cho Dương Lăng.
Dương Lăng thuận tay nhét thẻ bài vào trong người rồi hỏi:
- Hoàng thượng vẫn chưa bãi triều à?
Ngọ môn tướng quân cười đáp:
- Dạ phải thưa đại nhân, hạ quan vẫn luôn canh gác cổng cung, các vị đại nhân chưa rời cung đâu.
Dương Lăng khẽ gật đầu, không xuôi theo hướng cầu Kim Thủy, mà đi vòng qua điện Thái Hoà. Lúc này tiếng chuông, trống đồng loạt vang lên, bá quan bãi triều, Dương Lăng đứng dưới cột hành lang lầu gác, đợi cho bá quan văn võ lui hết ra, đội nghi trượng của hoàng đế đi về phía hậu điện, đến khi chiếc lọng vàng khuất khỏi tầm mắt, y mới tiếp tục cất bước về phía trung điện.
Đến trước điện Hoa Cái, chỉ thấy có hai vị đại nhân đang nổi giận đùng đùng bước ra khỏi cổng điện, từ từ chạm mặt với Dương Lăng. Dương Lăng nhận ra họ gồm đại tài tử Vương Ngao từng thi đỗ Tam Nguyên và Chiêm sự Dương Phương thì lấy làm bất ngờ, bước chân bất giác dừng lại, chắp tay thi lễ với bọn họ.
Sau khi Lưu Cẩn giáng chức Lưu Kiện và Tạ Thiên, Dương Phương vì phẫn nộ mà cáo bệnh về quê, đã lâu không ở trong kinh, hôm nay bỗng thấy ông ta lộ diện, tuy không còn giữ cương vị xưa, song Dương Lăng vẫn dùng lễ đối đãi.
Dương Phương tuy già nhưng vẫn rất kiên cường, dù biết hiện nay chức vị Dương Lăng tuy không đổi, nhưng quyền thế ngút trời, có thể ảnh hưởng thao túng triều chính, song vẫn giữ mắt nhìn thẳng, lướt ngang vai mà đi.
Cách nhìn của Vương Ngao về Dương Lăng đã thay đổi rất nhiều, nhất là sau lần bá quan quỳ trước cổng cung trong đêm tuyết, Dương Lăng khuyên bảo hoàng đế thu hồi danh sách bè lũ gian thần, lại tiến cử Dương Nhất Thanh đang bị bãi quan và Vương Thủ Nhân đang ở trong ngục cầm quân giữ ấn, thì cảm nhận của ông về y tốt hơn rất nhiều. Thấy Dương Lăng thi lễ, ông vội vã dừng bước trả lễ và nói:
- Dương đại nhân hãy bớt lễ tiết, Dương chiêm sự đã phát sinh tranh chấp với Lý đại học sĩ nên mới tức giận bỏ đi, Vương mỗ phải đi khuyên giải đã.
Vương Ngao, Dương Phương vốn có quan hệ thân thiết với Lý Đông Dương, Dương Lăng không biết giữa bọn họ có tranh chấp gì, bèn vội mỉm cười nói:
- Xin Vương đại nhân cứ tự nhiên.
Vương Ngao cười gượng gạo rồi nâng áo đuổi vội theo Dương Phương. Dương Lăng ngẩn ngơ một chốc rồi cũng xoay người đi vào điện Hoa Cái.
Tiểu thái giám trông thấy Dương Lăng đến, vừa định cao giọng xướng lễ, Dương Lăng đã vung tay ngăn lại. Vén tấm rèm che làm bằng da dê dày cộp, y bước vào buồng sưởi bên phải. Bên trong, Lý Đông Dương đang ngồi chấp bút phê duyệt tấu chương.
Thấy Dương Lăng đi vào, Lý Đông Dương vội gác bút đứng dậy, mỉm cười với y:
- Dương đại nhân, sao hôm nay nhàn rỗi đến thăm vậy? Xin hãy mau ngồi.
Dương Lăng cười đáp:
- Không dám nhọc đại nhân đâu.
Nói đoạn tự kéo chiếc ghế dựa đến đầu bàn ngồi. Lý Đông Dương gọi người dâng lên một chén trà nóng, ngồi xuống rồi nói:
- Lão quan hoảng sợ khi nghe đêm qua có đám giặc cướp trắng trợn xông vào phủ của đại nhân gây hại, bản tấu của bộ Hình ghi lại không tỉ mỉ, chẳng hay bên ấy đại nhân có tình hình cụ thể và chi tiết không?
Dương Lăng đáp:
- Mấy tên giặc cướp bị bắt hung hãn không sợ chết, song cực hình của xưởng vệ không phải thứ mà da thịt có thể chịu đựng được, bọn chúng không thể không khai. Theo khẩu cung của đám đạo tặc đó, thủ lĩnh của bọn chúng là đại đạo Dương Hổ quả thực có ý đồ mưu phản, có điều hành động ban đêm tập kích phủ đệ của bản quan lần này dường như là do bất chợt nảy sinh. Tuy nhiên rốt cuộc vì sao bọn chúng lại tụ tập đông người như vậy lặng lẽ vào kinh thành, thì đám đạo phỉ đó cũng không nắm rõ cụ thể.
Lý Đông Dương chau mày, khẽ gật đầu, nói:
- Ta đã xem qua kỹ lưỡng công văn từ bộ Hình. Nếu nói bọn chúng đến là vì Dương đại nhân, về tình hay lý đều không thuyết phục, càng không cần phải giả danh Dương Phúc kết giao với đại nhân. Xem ra đích thực là do nhất thời nảy lòng, thay đổi kế hoạch. Rốt cuộc mục đích ban đầu của bọn chúng vào kinh là để làm gì, thực khiến người ta khó lòng nghĩ ra.
Dương Lăng cười nói:
- Lúc này để bộ Hình và quan phủ Bá Châu đi lùng bắt là được rồi. Những chuyện khôi hài về kẻ ngu dân mù quáng tin vào mấy lời nói vô căn cứ, tự cho mình là chân mệnh thiên tử nhiều vô số kể. Hiện triều đình đang phát lệnh truy nã, thiết nghĩ bọn chúng cũng sẽ không dám giở trò gì đâu.
Chẳng phải thôn Mạnh Trì tỉnh Hà Nam từng có người tự cho mình là hoàng đế, nửa số dân của cả thôn đều là tể tướng, đại thần, đứa bé mười tuổi cũng phong làm Trạm Điện tướng quân, xưng vua gọi chúa hơn hai mươi năm mới bị triều đình phát hiện đó sao? Tiên đế hay tin cũng chỉ cười xoà cho qua, đám ngu dân đó không một ai bị trừng trị cả.
Lý Đông Dương nhìn y một cách đầy thâm ý, rồi vuốt râu nói:
- Hình như Dương đại nhân có ý rất muốn thông cảm lượng thứ cho đám cường đạo có ý đồ phản nghịch này thì phải?
… đoạn lắc đầu:
- Con đê dài nghìn dặm vỡ toang chỉ vì tổ kiến nhỏ, nhà cao trăm thước cháy rụi chỉ bởi ống khói hư. Dương Hổ không giống như đám ngu dân đấy. Hắn đã liên lạc đại đạo lục lâm của tam sơn ngũ nhạc, âm mưu tạo phản, thậm chí tập kích trọng thần triều đình ngay dưới chân thiên tử, có thể thấy sự hung hãn. Một khi khởi sự, nhất định sẽ là họa lớn khôn lường.
Dương Lăng gật đầu nói:
- Đại nhân nói chí phải, có điều cái họa của bọn trộm cướp vốn lại do tệ nạn của triều đình, bằng không hôm nay diệt trừ Dương Hổ, ngày mai lại sẽ có Trương Hổ, Lý Hổ, sẽ không bao giờ giết hết được.
Tiên đế nắm quyền hơn mười năm, chăm lo việc nước, là vị vua hiền minh sáng suốt xưa nay hiếm có. Chỉ bởi không biết vì sao mấy năm nay thiên tai liên miên, thường xuyên có lũ lụt cuồn cuộn nơi này, hạn hán nghìn dặm nơi nọ, lại có một đám tham quan không biết thương xót dân tình. Bá tánh thiếu cơm ăn áo mặc, nên mới mặc kệ triều đình trong sạch hay thối nát, bị kẻ có lòng mê hoặc, khó tránh có người làm loạn.
Y nâng chén hớp một ngụm trà, rồi nói tiếp:
- Những vật trồng Nam Dương mà hạ quan giới thiệu quả thực có thể khiến sản lượng lương thực Đại Minh tăng trưởng mấy lần, cứu giúp vô số bá tánh. Hạ quan cho rằng Dương Hổ đột nhiên nảy lòng mưu hại bản quan, chính là vì những mầm cây được chăm sóc trong hầm sưởi mà ra. Có lẽ thoạt đầu hắn vì bị bức bách nên làm giặc, nay đồng bọn mỗi lúc một đông, lòng tham cũng lớn theo dần, có ý dòm ngó ngôi báu quốc gia, đương nhiên sẽ không từ thủ đoạn.
Lý Đông Dương cười lớn:
- Từ khi bản quan nghe nói về những giống cây trồng Nam Dương mà đại nhân giới thiệu, đã từng phái người đến Nam Dương điều tra qua một phen, đám cây trồng đó sản lượng quả thực rất cao. Tuy lão quan không biết Đông Bắc và Tây Bắc có thích nghi để trồng trọt hay không, song nếu trồng trên dải đất rộng lớn ở Giang Nam nhất định sẽ không thành vấn đề.
Dương Lăng mừng rỡ, vội nói:
- Đại nhân đã điều tra rồi ư? Hạ quan tuyệt không nói dối. Đất khô hạn hoặc lạnh lẽo cũng đều thích hợp để trồng, sang xuân sau khi trồng thử liền sẽ biết rõ đúng sai, có điều việc này cũng chỉ có thể giúp bá tánh no bụng, nếu muốn cho dân giàu nước mạnh, giải trừ cấm biển mới là khẩn thiết.
Bá tánh vùng duyên hải chiếm ít nhất một phần tư dân số Đại Minh, nơi đó ba phần núi, sáu phần nước, ruộng đất chỉ chiếm một phần, đất hẹp người thưa, ngũ cốc không phong phú. Người dân sống ven biển đều lấy thuyền làm nhà, lấy biển làm ruộng, cấm biển rồi, sinh kế của bá tánh tiêu điều, khiến những kẻ tụ tập làm giặc mới ngày một đông.
Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, không chỉ giúp bá tánh được sung túc, làm dồi dào quốc khố, hơn nữa còn có thể tăng cường giao lưu với mọi quốc gia hải ngoại, người nước ngoài có sở trường của họ, chúng ta có sở đoản của chúng ta, lấy sở trường của họ bổ sung cho sở đoản của ta, trăm sông đổ về biển lớn, đều là con đường duy nhất để con dân Đại Minh có thể mở rộng tầm mắt và kiến thức, triều đình có thể mở rộng biên cương, kéo dài lãnh thổ, quân đội lớn mạnh, oai danh tứ hải. Đóng cửa làm xe còn không vừa khớp, huống hồ là một quốc gia to như vậy?
Lý Đông Dương gật đầu nói:
- Tình hình duyên hải, bản quan cũng đã sai người điều tra kỹ càng tỉ mỉ. Người xưa có nói: hang chuột tuy là nguồn gốc của cái xấu, cũng cần phải giữ lại một cái, nếu bịt hết lại rồi, nơi đâu cũng sẽ toàn lỗ thủng. Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương cũng có cái tác hại của nó, nhưng việc cai trị vốn là bỏ hại lấy lợi, chỉ vì mắc nghẹn mà bỏ cái ăn là điều rất không khôn ngoan.
Ông nhướng mắt mỉm cười:
- Thật ra bản quan cũng đã cân nhắc nhiều ngày, ta nguyện ý giúp đỡ Dương đại nhân gỡ bỏ lệnh cấm biển, mưu lược thông thương cùng với ngoại bang. Có điều theo bản quan thấy, vẫn còn hai điểm cần phải thương thảo. Thứ nhất là không thể thuyết phục bá quan triều đình, thứ nhì là nếu hiện tại gỡ bỏ lệnh cấm toàn diện, được cái này sẽ mất cái kia, loạn giặc Oa trên biển còn chưa...
Dương Lăng hưng phấn cắt ngang:
- Điểm thứ nhất không khó xử lắm, chỉ cần Lý đại học sĩ gật đầu đồng ý, những việc khác xin cứ giao cho hạ quan đi làm. Còn về điểm thứ hai, đại nhân lo lắng rất phải, hạ quan cho rằng có thể mở lại Bạc ty ở Ninh Ba và Quảng Châu thị trước, rồi mở tiếp Bạc ty ở Thiên Tân thị, cộng thêm Bạc ty sẵn có ở Tuyền Châu thị, tổng cộng bốn nơi.
Thiên Tân thông với Triều Tiên, La Sát. Ninh Ba thông với Nhật Bản. Tuyền Châu thông với Lưu Cầu. Quảng Châu thông với Chiêm Thành, Xiêm La và các nước Tây Dương. Tiếp để bộ Hình, bộ Lễ và bộ Hộ lập ra các nha môn quan lại quản lý luật pháp, tố tụng, thuế khoá và nghị định về giá cả hàng hoá giao dịch thông thương trong và ngoài nước. Đại nhân thấy có được không?
Điều mà Lý Đông Dương lo lắng nhất là Dương Lăng lạm quyền độc đoán, giành nắm hết quyền thông thương vào tay, nghe y nói vậy thì không khỏi lấy làm kinh ngạc 'Dương Lăng hao tâm tổn sức muốn gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, chẳng lẽ lại không hưởng bất kỳ lợi ích, không muốn bất cứ quyền lợi gì ư?'
Lý Đông Dương do dự một hồi, hỏi:
- Dương đại nhân khởi xướng việc này, chẳng lẽ một khi gỡ bỏ lệnh cấm rồi, nội xưởng sẽ không can thiệp vào trong ư?
Dương Lăng cười thầm trong bụng. Xem ra vị Lý đại nhân này không chỉ là hạng văn chương sáo rỗng, mà cũng biết theo đuổi lợi ích, là một người thực dụng đây. Một khi lệnh cấm thông thượng được gỡ bỏ, cửa hàng ngựa xe rải rác khắp toàn quốc của Dương Lăng sẽ trở thành ngành vận chuyển lớn nhất khống chế tiền bạc lưu thông, nếu nói một ngày thu về một đấu vàng thì cũng không hề quá lời chút nào
Dương Lăng lại nắm quyền ty Thuế Giám, đến khi đó không biết bao nhiều người sẽ đâm lén, bắn trộm, ghen tức với lợi ích của y, cho dù Bát Hổ hiện giờ đang cương quyết đứng chung chiến tuyến với y, về lâu về dài cũng khó đảm bảo sẽ không có dị tâm. Dương Lăng sớm đã muốn vứt bỏ cái ty Thuế Giám này.
Dương Lăng cười đáp:
- Người thông thương trên biển qua lại với ngoại bang rất nhiều, vừa có bộ Hình phán quyết kết quả kiện tụng, Cẩm Y vệ lùng bắt con buôn phạm pháp, ty Thuế Giám và ty Thuế Lại của bộ Hộ thay nhau phụ trách, ty Thuế Giám thu thuế, ty Thuế Lại giám sát thuế, cũng có thể đổi ngược lại, khiến cho các nha môn chế ước lẫn nhau, có thể tránh việc các nha môn mạnh ai nấy làm, tự tạo danh mục, giúp cho bá tánh đỡ khổ.
Lý Đông Dương cười vui vẻ nói:
- Xem ra Dương đại nhân suy nghĩ tường tận, sớm đã có lòng tin. Rất tốt, đại nhân thấy khi nào thì nên dâng tấu lên Hoàng thượng?
Dương Lăng thầm tính toán: thám mã điều tra quan viên có bố cảnh thân hào sĩ tộc duyên hải trong triều vẫn chưa đưa tin tức về đầy đủ, chiến sự phương bắc đang căng thẳng, lúc này đề xuất chính sách mới cũng không thích hợp, bèn nói:
- Bản quan thấy hay là đợi chiến sự phương bắc yên ả trở lại, triều đình mới có toàn lực ứng phó làm tốt việc lớn này. Vậy quyết định vào... tháng hai năm sau thì thế nào?
Lý Đông Dương mỉm cười gật đầu, Dương Lăng thoải mái trong lòng, đặt chén trà lên bàn, lúc này mới để ý trên bàn đang bày ra một bức tranh. Nếu là công văn Lý Đông Dương đang xử lý thì y cũng không tiện xem kỹ, nhưng nếu là một bức tranh thì lại không có gì. Dương Lăng thuận tay xoay bức tranh lại, chỉ thấy trên tranh vẽ một bà lão xấu xí đang cưỡi trên lưng một con trâu, vênh vang thổi sáo, trên trán bà lão đề một hàng chữ nhỏ: "Sự nghiệp tể tướng của Lý Tây Nhai là đây(1)".
Tây Nhai là tên hiệu của Lý Đông Dương, kẻ nào mà quá to gan, không ngờ dám sỉ nhục lão như thế? Dương Lăng giật mình thất kinh, liền không kịp nhìn kỹ bên dưới, ngạc nhiên hỏi:
- Là... là kẻ nào vô lễ như vậy, dám vẽ tranh sỉ nhục đại nhân vậy?
Lý Đông Dương cười hờ hững, nói:
- Dương Phương và lão phu đùa giỡn một chút mà thôi, không can hệ gì, ha ha.
Dương Lăng nhớ lại tình cảnh ban nãy Dương Phương nổi giận đùng đùng rời khỏi đây, lại đăm chiêu xem tiếp phía dưới bức tranh đó. Tranh không phải mới vừa được vẽ, nhưng bên tranh lại đề một bài thơ chưa ráo mực, hiển nhiên mới được đề lên chưa lâu. Bài thơ tuyệt cú đó như rồng bay phượng múa, viết rằng: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái bình ca." (dịch thơ: )
Lời đề tặng cũng là Tây Nhai, thì ra là khi nãy Lý Đông Dương xem xong tranh đã đề thơ. Câu thơ khí phách vô cùng, không hề quan tâm đến ý châm biếm ông ăn trên ngồi trốc, cúi đầu với nịnh thần ở trong tranh, ngược lại còn xoay chuyển bố cục, đưa ra một cái nhìn khác. Dương Lăng giở tranh xem xong, đứng thẳng người dậy, cung kính vái Lý Đông Dương một vái thật dài.
Lý Đông Dương kinh ngạc hỏi:
- Dương đại nhân làm vậy là ý gì?
Dương Lăng đáp:
- Đại học sĩ khí tiết thanh cao, bụng dạ rộng lượng, khiến cho Dương Lăng khâm phục không thôi. Bức tranh này do tài tử Dương Phương vẽ, Thủ phụ Lý công đề thơ, Dương mỗ xem xong xúc động muôn phần. Thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc, còn mong đại học sĩ tặng bức tranh này cho hạ quan, hạ quan nguyện học theo đại nhân, vì Đại Minh, vì bá tánh, còn sợ chi lời ra tiếng vào?
Trong mắt Lý Đông Dương thoáng loé lên vẻ kỳ dị. Lần trước Dương Lăng đến nhà thăm viếng, vừa vào đề liền mắng ngay Bát Hổ, ông liền thầm nghi ngờ Dương Lăng làm vậy là vì muốn chơi trò hai mặt với Bát Hổ, mượn sức Bát Hổ để thể hiện tham vọng trong lòng. Quan sát hành động của y hôm nay, nghe ý tứ trong lời nói của y, hiển nhiên đây cũng là người đồng đạo. Lý Đông Dương lo lắng ở chỗ Bát Hổ thế to, hoàng thượng lại ham chơi, đế quốc to như vậy, một mình ông khó chống, nếu như Dương Lăng thật sự là người cùng chung chí hướng, vậy còn phải lo lắng gì?
Lý Đông Dương mừng lắm, nói:
- Chỉ là một bức tranh mà thôi, nếu như Dương đại nhân thích, vậy cứ cầm lấy đi.
Dương Lăng cuộn bức tranh lại cất vào người, ngồi xuống rồi nói:
- Vừa rồi Dương đại nhân nuốt giận mà đi, lại để lại bức tranh ngầm châm biếm, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?
Lý Đông Dương nói với giọng bất đắc dĩ:
- Lưu công công chủ trì nội đình trước nay, một số đại thần trong triều rất bất mãn, lũ lượt cáo bệnh không đến nha môn làm, khiến cho rất nhiều nha môn có quan lại không ai xử lý công việc, công văn chất cao như núi.
Cộng thêm chiến sự phương bắc căng thẳng, trưng dịch(2), sung quân, chiến sự, cứu tế, lương thảo, điều binh, liên can đến hơn chục nha môn, quan chủ sự vắng mặt, chánh lệnh không được thi hành, đã lỡ rất nhiều đại sự.
Lưu công công giận đến tím mặt, liền ban lệnh rằng: quan viên không thể xử lý công vụ đến một tháng do bị bệnh, miễn bổng lộc tháng đó; đến một năm, giáng xuống chức quan nhàn tản; đến ba năm, bãi quan làm dân, không bao giờ thu nhận lại.
Những quan viên đó hết cách đành phải trở lại nha môn làm việc. Lưu công công vẫn chưa nguôi giận, lại xin thánh dụ, nói rằng quan văn quá lạm dụng ban thưởng, sau này nếu không có chiến công hiển hách, chính tích chói lọi, không được ban thưởng. Dương đại nhân vừa mới trở lại nha môn, nghe được tin tức chỉnh đốn quan văn này liền giận đến tím mặt, tìm gặp lão phu để lý luận, kết quả... Chao ôi!
Dương Lăng nghe xong cũng phẫn nộ vô cùng "Đây mà là thanh quan ư? Bất chấp đại cuộc. Không thấy được đạo lý. Chỉ vì cái 'phong cách thanh cao' đáng tởm ấy của bọn họ, mà gác lại toàn bộ chính sự sang một bên, gác lại việc quân có quan hệ đến sống chết của hàng nghìn hàng vạn bá tánh sang một bên, cáo bệnh nghỉ ốm, yên tâm thoải mái mà hưởng thụ bổng lộc triều đình. Thật là một đám khốn nạn!"
Dương Lăng nghiến hàm răng lại, cười gằn nói:
- Quan lại tham ô phạm pháp, không đáng dùng! Quan lại thanh liêm nhưng tầm thường vô năng, không đáng dùng! Quan lại bảo thủ tuy thanh liêm và giỏi giang song lại thiển cận, trở ngại triều đình trừ bỏ tệ bệnh, hưng thịnh Đại Minh, càng không đáng dùng! Có lẽ Lưu công công có rất nhiều điểm bị người ta chỉ trích, và mục đích để chỉnh đốn lại cũng không chính đáng gì, nhưng quan lại như vậy, thực đáng vứt đi không dùng. Hạ quan kiên quyết ủng hộ quyết định này của Lưu công công.
Dương Lăng đã thật sự nổi giận, bèn đứng dậy nói:
- Đại học sĩ không cần phải khó xử, những việc ác này hãy cứ giao cho Lưu công công đi làm là được. Triều đình thực thi biện pháp chính trị, dẫu sao cũng không thể không mất lòng nhau, cả nhà cùng vui. 'Trầm chu trắc bàng thiên phàm quá, bệnh thụ tiền đầu van mộc xuân'(*), những hủ bại vướng víu chân tay này, cứ đá văng đi là xong! (*tạm dịch: một chiếc thuyền chìm nghìn chiếc vượt, một cây phải bệnh vẫn xanh rừng)
Dương Lăng cáo từ lui khỏi điện Hoa Cái, cơn giận trong lòng mới nguôi được một ít. Tuyết đọng trong cung đã được quét sạch, không khí khô mát, Dương Lăng hứng cơn gió lạnh lùa vào mặt, thần chí liền thanh tỉnh lại, mới cảm thấy mình vô cớ nổi giận như vậy, dường như đã quá dễ bị kích động rồi.
Y âm thầm cảnh tỉnh bản thân: giờ đây quyền uy của mình mỗi ngày một lớn, mỗi một lời nói mỗi một hành động đều dẫn đến sự chú ý của mọi người, không nên hành động theo cảm tính, giận vui đều lộ hết ra mặt, sau này cần phải để ý tu thân dưỡng tính hơn, học cách đối nhân xử thế.
Dương Lăng uốn cong lưỡi hít sâu vào một hơi, toàn thân thả lỏng, rồi dựa theo phương pháp mà Ngũ Hán Siêu đã chỉ dạy: tay trái vòng vào trong, như vẽ một quả cầu tròn, ngón trỏ tay phải bấm vào chi ngọ trên ngón giữa, hai gối hơi trùng, chân đi chậm rãi, như bước nhẹ trên mây.
Đây là nội công tâm pháp thượng thừa của Võ Đang, nếu luyện đến đại thành, có lẽ phải mất đến mấy mươi năm. Dương Lăng đã qua tuổi đẹp nhất để tập võ, cũng không nghĩ hề nghĩ sẽ luyện thành cao thủ võ lâm gì, chủ yếu luyện cho tinh thần và thể xác được khỏe mạnh và tu thân dưỡng tính mà thôi.
Có điều thuật thổ nạp này quả thực có chỗ kỳ diệu, chẳng những khiến tâm linh con người thanh sảng, không còn bồn chồn nóng nảy, tĩnh tọa một hồi cũng có thể giải trừ mệt mỏi, tinh thần sảng khoái. Dương Lăng chẳng thèm quan tâm đến cái gì là môn quy, nghe xong khẩu quyết, hỏi cho kỹ càng, trở về liền giảng kỹ lại cho Ấu Nương nghe một lượt. Hàn Ấu Nương vốn đã có nền tảng vững chắc, lại từng luyện qua ngạnh khí công, vì vậy học thêm công phu thượng thừa không khó. Bản thân Dương Lăng đã không thể thành tài, nhưng nếu nương tử học được rồi, thì chẳng khác con cháu đời sau của nhà họ Dương cũng sẽ học được, cái lợi trong đó Dương Lăng coi như cũng hiểu được.
Dương Lăng mới học mới luyện, động tác hơi lóng ngóng, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, dáng đi kỳ dị nhẹ nhàng tiến về phía Tây Noãn gác cung Càn Thanh. Khi ngẩng đầu thì nhìn thấy Chính Đức toàn thân vận long bào màu đen tuyền, đầu đội mũ Dực Long, tay ôm cái lò sưởi(3) trước bụng, đang nhìn y cười tủm tỉm, đám thái giám và cung nữ đúng chung quanh và một đám người cũng đều đang ngóng nhìn, mặt đầy vẻ hiếu kỳ.
Dương Lăng không khỏi cười ngượng nghịu, liền vội bỏ tư thế đó rồi vội vã bước tới thi lễ:
- Vi thầm tham kiến hoàng thượng. Sao hoàng thượng lại đứng đây?
Chính Đức anh tuấn, mặt như ngọc, kéo Dương Lăng dậy mừng rỡ nói:
- Ha ha, trẫm đang ở trong sân xem du hí tạp kỹ, nghe có người nói khanh đi lắc la lắc lư, giống như một con vịt, cho nên chạy qua xem náo nhiệt một chút.
Dương Lăng thoáng đỏ mặt, trông thấy trong sân dựng cái đài, cửa điện Noãn gác mở rộng, bên trong đốt một lò than, chính giữa bày một chiếc ghế nằm hình rồng cuộn, bên trên trải thêm một tấm thảm nhung mượt trắng như tuyết.
Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn si mê những trò tạp kỹ này, không khỏi nhắc nhở nhẹ nhàng:
- Hoàng thượng, cũng khó trách đám ngoại thần càm ràm bát sát, hoàng thượng đã kế thừa đế vị, cưới hậu nạp phi, qua mấy ngày nữa sẽ thay đổi niên hiệu thành Chính Đức, nay trong triều chưa ổn định, biên ải lại đang có chiến tranh, ngài thật không nên quá phân tâm vào những việc này.
Chính Đức nhăn nhó nói:
- Lý học sĩ khuyên, Dương sư phụ khuyên, Tiêu đại nhân khuyên, giờ khanh cũng tới khuyên trẫm. Bị nhốt trong thâm cung, mỗi ngày những nơi trẫm có thể đi đến chỉ có điện Thái Hòa, cung Càn Thanh, cung Nhân Thọ. Sinh ra và lớn lên ở đây, ngẩng đầu lên là cái bầu trời đó, cả ngày ngoại trừ thượng triều, nghe giảng, phê duyệt tấu chương, thì không còn gì khác, ít ra cũng phải để trẫm kiếm chút gì đó làm chứ? Dương thị độc, tấu chương của trẫm đều được phê duyệt đúng hạn, tuyệt không tồn đọng đâu nhé.
Dương Lăng nghe hoàng thượng 'kể khổ' như vậy, chỉ đành nói:
- Nhưng mà... trời lạnh rét, hoàng thượng dựng đài xem tạp kỹ trong sân, cửa Noãn gác lại mở toang, nếu bị nhiễm phong hàn, vậy sẽ nguy biết bao!
Chính Đức không nghĩ vậy, nói:
- Đâu dễ như thế. Sáng nào trẫm cũng luyện Thái tổ trường quyền hai lần, đều mặc áo manh giáp mỏng, luận về thân thể, trẫm còn khỏe khoắn hơn khanh đấy.
Đoạn y phấn khởi nói:
- Đúng rồi, khanh theo trẫm vào trong điện. Hôm nay mấy con khỉ cũng đã biết đánh quyền, cho khanh xem mở rộng tầm mắt.
Chỉ thấy, một lão già mặc một đồ màu xanh nước biển, đầu đội khăn vuông, dắt bốn con khỉ bước ra, làm đủ các trò nhào lộn, chồng người, hay nhất là lão già vừa hút sáo một tiếng, bốn con khỉ liền xúm lại đánh quyền. Dương Lăng thấy hai con khi vung vẩy cái chân đầy lông lá của chúng, lảo đa lảo đảo trông hết sức ngây ngô, bèn không kiềm được mà mỉm cười vỡ lẽ: trông bộ dạng, có lẽ là đang đánh túy quyền.
Hai con khỉ còn lại đánh quyền đâu ra đấy, có bài có bản hẳn hoi, tuy chưa được bốn năm chiêu liền chạy về bên lão già xin trái cây ăn, song Chính Đức lại nhìn ra bài quyền chúng đánh đích thực là Thái tổ trường quyền, bèn vỗ tay cười nói:
- Người đâu, thưởng cho thưởng cho.
Hai tên tiểu thái giám xách cái sọt nhỏ, cười hì hì đi tới trước bậc thềm, dùng sức ném cái sọt ra ngoài một cái, trong cái sọt đều là tiền đồng mới toanh, sợ không dưới nghìn văn tiền, vương vãi xuống đất kêu rào rào.
Chính Đức cười bảo:
- Ha ha, trẫm thấy mấy con khỉ này còn dễ mến hơn cái đám người đáng ghét trong cung và ngoại đình đó. Dương thị độc, khanh thấy chúng đánh quyền có hay không?
Dương Lăng mỉm cười, chợt nghe trong phòng bên được ngăn cách bởi cửa sổ có tiếng đàn ông cất lên:
- Đích xác là thú vị, mấy con khỉ này thật thông minh, nhớ buổi sáng thấy Hoàng thượng luyện tập quyền cước, bài Thái tổ trường quyền uy vũ nhanh nhẹn, liền học trộm được chiêu thức ngay.
Dương Lăng sững ra, tròn xoe hai mắt: giọng nói đó giống hệt như y, âm điệu và ngữ khí đều hoàn toàn giống, thậm chí y còn nghi ngờ rằng có phải mình đang ở trong căn phòng khác không. Tiếp theo sau đó, một tràng cười lớn đắc ý truyền ra, lại nghe giọng nói của hoàng đế "Chính Đức":
- Tuy rằng thú vị, nhưng xem cũng đã chán rồi. Nếu là cảnh xuân về hoa nở, muôn chim tranh hót, cảnh đẹp ấy hơn xa xem mấy con khỉ này nhiều.
Theo đó, giọng nói "Dương Lăng" lại cất lên:
- Điều đó có gì khó? Hoàng thượng là thiên tử, muốn ra lệnh cho xuân về khắp mặt đất, trăm hoa đua nở, muôn chim đến hót, có lẽ vị thần xoay chuyển bốn mùa cũng không dám không tuân thánh dụ.
Âm thanh chưa dứt, lờ mờ lại nghe như có tiếng chim tước hót vang, dần dà tiếng vó ngựa nổi lên, có tiếng cười yêu kiều duyên dáng, khiến trong đầu người ta bất giác hiện ra một bức tranh cung nữ đạp xuân, chậm rãi bước tới; rừng tùng, nước chảy, cảnh trí mênh mông sâu thẳm như hiện ra ngay trước mắt, lại có phu tử ngâm thơ, tiếng tiêu réo rắt.
Mắt Dương Lăng càng lúc càng mở lớn, tim đập loạn thình thịch, suýt nữa thì đã buột miệng thốt ra một cái tên. Y không kiềm nén được tâm tình lao qua, vừa kéo mở cửa gác, các loại âm thanh lập tức im bặt, hai người con gái xinh đẹp đang khom nửa người kinh ngạc đứng dậy.
Hai người thiếu nữ xinh đẹp vận áo lĩnh tím, gấm đen, chẽn đỏ, dưới mặc váy màu xanh nhạt, hai bàn chân yêu kiều xỏ đôi giày da dê màu vàng, nước da sáng ngần thơm ngát, khuôn mặt trái xoan, cặp mày lá liễu, chính là hai người con gái phường hát y gặp qua lần trước.
Tu Hoa vẫn vậy, là một khuôn mặt xinh đẹp đầy lạnh lùng, Giải Ngữ thì lại cười tươi liếc y, má tựa mây hồng, mắt như thu thủy, càng khiến người ta rung động tâm hồn. Chính Đức lầu bầu nói:
- Không vui gì cả, không vui gì cả, đợi chút nữa sẽ còn có tiết mục thiếu niên hung ác thôn quê khinh nhờn dân nữ, trẫm ra tay cứu người cho khanh xem đấy, bị vạch trần như vậy mất hết cả vui đi, khanh thực là dễ bị kích động quá.
Dương Lăng thất vọng quay người lại, lặng lẽ đến bên thân Chính Đức nói:
- Vi thần... vừa nãy nghe loại khẩu kỹ giống y như đúc này, bất giác nhớ tới một cố nhân, còn tưởng rằng... ngoài cửa là cô ấy...
Giải Ngữ và Tu Hoa cũng bước tiến vào trong điện, duyên dáng đứng hai bên Chính Đức, nghe thấy lời này hai cặp mắt xinh xắn đều dồn vào người Dương Lăng.
Chính Đức lấy làm lạ bèn hỏi:
- Lúc trẫm được nghe khẩu kỹ này quả sự đã rất kinh ngạc, ngay cả tiếng đàn sáo nhạc cụ bọn họ cũng bắt chước được, vị cố nhân đó của khanh là ai, cũng có bản lĩnh như vậy sao?
Dương Lăng nhớ đến người thiếu nữ đứng trong nắng, vẻ mặt rạng ngời giải thích với y. Nàng thoáng nhướng đôi mày liễu, nụ cười trong vắt:
- Dương đại nhân, tiêu này của tiểu tỳ ấy, không cần tiêu thổi...
Giọng nói yêu kiều giòn giã vẫn còn quanh quẩn bên tai. Y lại nhớ tới tảng đá dính máu và vài sợi tóc bên dốc núi nọ, con tim như thắt lại. Cổ họng Dương Lăng nghèn nghẹn, y ho khan vài tiếng rồi mới cảm thán nói:
- Vị cố nhân này, hoàng thượng ngài cũng biết, đó chính là vị Đường cô nương... Đường Nhất Tiên.
- Đường... Nhất Tiên...
Chính Đức từ từ nhớ lại, sắc mặt cũng dần trở nên ảm đạm, người con gái lưu lại bóng hình đầu tiên trong lòng hắn, nào dễ dàng quên được.
Hai người đàn ông im lặng, bọn thái giám và cung nữ trong cung không biết đã xảy ra chuyện gì, không ai dám mở miệng nói gì. Giải Ngữ và Tu Hoa đưa mắt nhìn nhau, khẽ mím môi, hàng mi dài cong vút chớp chớp không ngừng, vẻ mặt hết sức hiếu kỳ.
Đàn ông bọn họ gặp đã nhiều, song thực hiếm thấy khi hai người đàn ông ở trước mặt, một người là hoàng đế tay ôm thiên hạ, một người là trọng thần triều đình dưới một người trên vạn kẻ, muốn bao nhiêu mỹ nữ cũng được, lại có thể biểu lộ cảm xúc hoài niệm khi nhắc đến một người con gái. Người con gái đó là ai? Nhất Tiên... cái tên thật là đẹp.
Chính Đức rờ mũi, một lúc sau mới chợt hỏi:
- Vẫn chưa có tin tức gì sao? Cho dù là... tin xấu?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Dạ chưa, bên phía quan phủ đã sớm bỏ qua tìm kiếm, vi thần đã sai phiên tử Nội xưởng để ý quan sát, tuyệt nhiên vẫn không có manh mối.
Chính Đức chán nản vung tay nói:
- Giải tán hết đi, Dương thị độc vào cung, nhất định có việc công cần bàn với trẫm.
Đoạn hắn nhìn sang Liễu Giải và Tu Hoa, hai người con gái rất biết điều, biết khi nào có thể làm nũng đùa cợt, khi nào phải giữ phận, lập tức nhún người thi lễ, rồi cũng lặng lẽ lui ra.
Hai người đi vào thư phòng, Chính Đức ngồi lên ghế, thuận tay chỉ xuống bảo:
- Khanh ngồi đi.
Thư phòng của Hoàng thượng làm gì có chiếc ghế thứ hai, bên cạnh chính là giường ngủ của Chính Đức. Từ dạo bị Vương Quỳnh trỏ mặt mắng cho một trận, Dương Lăng đã không dám không để ý đến những tiểu tiết này nữa, bèn mỉm cười đứng trước ngự án, nói:
- Tạ hoàng thượng, thần đứng đây cũng tiện bẩm báo sự tình rồi.
Chính Đức gật nhẹ đầu, liếc mắt trầm ngâm một chốc rồi hỏi:
- Là chuyện gỡ bỏ lệnh cấm biển có manh mối hay là biên tái phương bắc có chiến sự khẩn cấp?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Thưa, đều không phải. Hoàng thượng còn nhớ trước lúc xuất binh từng bí mật căn dặn Miêu Quỳ nghiêm trị Tiểu vương tử, răn nhẹ Hỏa Sư, phân hóa bọn chúng, và bí mật liên lạc với Đóa Nhan Tam Vệ không?
Mắt Chính Đức liền sáng lên, hưng phấn hỏi:
- Có phải đã có hiệu quả?
Dương Lăng gật đầu đáp: - Dạ, Tiểu vương tử nghi ngờ Hỏa Sư có hiệp nghị bí mật với Đại Minh, hiện đang rất đề phòng bọn họ, một vạn năm nghìn nhân mã của Hỏa Sư đang bị an bài bên sườn, một mình chống cự với đại quân của Tổng binh Hứa Thái, lương thảo cướp được cũng không muốn chi viện cho bọn họ, có rất nhiều bộ hạ của Hỏa Sư đã buông lời oán hận. Tình thế chiến trường trước mắt xem ra không nguy cấp lắm, Dương Nhất Thanh án binh bất động, lại níu chặt lấy chân Tiểu vương tử không cho hắn đi, trong đó tất có ý đồ. Có điều hằng năm giặc Thát đều đến biên cảnh ta cướp bóc, họa này nhất định phải tiêu trừ, hiện tại phân hóa Hỏa Sư chỉ là bước thứ nhất.
Nếu đạt được sự hỗ trợ của Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta sẽ có thể không tốn gì mà có được một đội tinh binh, đồng thời mỗi năm có thể lấy được lượng lớn chiến mã từ vùng Hà Sáo. Một mặt vừa có thể tăng cường tính cơ động và năng lực tác chiến của biên quân.
Mặt khác, bá tánh vùng Hà Bắc phụ trách dưỡng mã, nhưng nơi đó lại không nuôi cho ra được ngựa tốt, bá tánh cực công phu dịch, uổng công khổ lao, mà lại không đem nhiều ích lợi cho đất nước. Nếu có thể cải thiện quan hệ với Đóa Nhan Tam Vệ, sẽ có thể khiến bá tánh trút được gánh nặng này. Chúng ta có được ảnh hưởng ở Hà Sáo và Liêu Đông rồi, tương lại sẽ có thể tiến thêm một bước, mở mang bờ cõi, chiếm lấy thảo nguyên phì nhiêu. Sau đó đi vào A Lạp Bá Mã (tên gọi các dân tộc Ả Rập xưa - ND), dùng nó để cải tạo ngựa Mông Cổ và Tây Nam, thì ưu thế của Thát Đát Mông Cổ sẽ không còn nữa.
"Mở mang bờ cõi", đó là cụm từ khiến cho mọi vị vua từ xưa đến nay động lòng nhất. Trong các triều đại lịch sử, chưa một vị vua nào dám sánh mình với vị vua khai quốc. Cho dù là quân vương có sáng suốt và tài đức cỡ nào thì chính tích cũng không thể nào rạng rỡ và chói lọi như mở mang bờ cõi được.
Trái tim của Chính Đức đập thình thịch, khuôn mặt trẻ tuổi anh tuấn đỏ bừng vì hưng phấn, hắn gật đầu lia lịa:
- Dương khanh nói rất đúng, đánh với Thát Đát một trận bất quá chỉ là công tích nhất thời, kết minh với Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta thêm một đội quân, địch quân mất đi một mảnh đất, lại phân hóa làm cho bọn chúng tan rã, mới là sách lược chính trị lâu dài. Nếu sự này thành, công lao của Dương khanh thực sẽ không chỉ như đại tướng công thành chiếm đất, chém tướng đoạt cờ. Có phải phía Đóa Nhan Tam Vệ đã nhận được mật hàm của triều đình không?
Dương Lăng gật đầu thưa:
- Đã liên hệ được với bọn họ, tuy vậy do giữa chúng ta và Đóa Nhan Tam Vệ từng có rất nhiều bất hòa, đại thủ lĩnh Hoa Đáng tuy có lòng hướng về phía phe Đại Minh chúng ta nhưng trong ba bộ lạc lớn lại có rất nhiều quý tộc vẫn còn nặng lòng nghi ngờ. Bọn họ không tin tưởng sứ thần mà chúng ta phái đi lắm. Tin tức hồi đáp là các tù trưởng đó muốn Đại Minh ta...
Y thoáng do dự. Điều kiện Hoa Đáng đưa ra quả thực đã đặt địa vị của hắn ngang hàng với thiên tử Đại Minh, nếu y nói ra chỉ sợ thiên tử Chính Đức sẽ long nhan nổi giận. Song đây là việc lớn, y thực không dám bỏ qua, Dương Lăng bèn lấy hết can đảm nói:
- Hoa Đáng chẳng qua chỉ là đại tù trưởng một bộ lạc thảo nguyên, không học thánh hiền, không hiểu lễ nghi, thế mà lại yêu cầu hoàng thượng phải đích thân đến Đại Đồng, cùng hắn uống máu ăn thề trên núi Bạch Đăng, thì Đóa Nhan Tam Vệ mới chịu nương về Đại Minh.
Dương Lăng nói xong liền vội vã chêm thêm:
- Tuy nhiên chuyện này thực vẫn có thể mặc cả. Theo ý vi thần, hoàng thượng có thể cử một vị tông thân hoàng thất thay mặt cho triều đình và thiên tử đi đến nơi hẹn ước, ắt sẽ có thể xua tan mối lo ngại của hắn.
Không ngờ, nằm ngoài dự đoán của Dương Lăng, Chính Đức nghe xong không hề nổi giận, ngược lại vuốt cằm như có điều suy nghĩ. Trầm ngâm một hồi lâu, hắn mới khẽ mỉm cười, ngước mắt nhìn Dương Lăng và nói:
- Muốn trẫm đích thân đến gặp bọn chúng? Cho dù là Bá Nhan Khả Hãn lúc đánh hay cầu hòa cũng đều lấy lễ bầy tôi mà đối đãi với trẫm. Lá gan của Hoa Đáng thực không nhỏ.
Dương Lăng nghe vậy thì cuống lên, vội nói:
- Hoàng thượng, vi thần cũng biết Hoa Đáng làm vậy thực hơi cuồng vọng, nhưng việc nhỏ nếu không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng.
Ánh mắt của y chợt trở nên ranh mãnh, thấp giọng nói khẽ:
- Không cùng tộc với ta, tim nó ắt khác. Đóa Nhan Tam Vệ tựu chung vẫn là kẻ ngu muội, bọn chúng nương về chúng ta, chỉ bởi bọn chúng không có thực lực lớn mạnh như Bá Nhan Khả Hãn có thể cướp bóc của cải với số lượng lớn, cho nên hiện tại hợp tác chẳng qua là vì lợi ích riêng.Hiện tại chúng ta tạm thời nhẫn nhịn, sau này sức nước cường thịnh, vũ lực đầy đủ, chẳng những sẽ sát nhập Thát Đát Mông Cổ, Ngõa Thích Mông Cổ vào bản đồ Đại Minh, mà con hổ cạnh giường này sao có thể là ngoại lệ? Việc nhỏ không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng đó bệ hạ.
- Ha ha ha ha...
Hoàng đế Chính Đức đứng dậy, cười như con gà mái đẻ. Hắn đấm vào ngực Dương Lăng một cái, cười khanh khách:
- Ai nói trẫm không thể nhẫn nhịn tạm thời?
Đoạn hắn xòe hai tay ra, chớp chớp mắt nói:
- Tiên hoàng chỉ có mỗi một mụn con là trẫm, tông thân hoàng tộc khác đều phong làm vương gia ở các nơi, há có thể thay mặt triều đình và thiên tử? Nếu là ái khanh thì phái ai đi mới thích hợp đây? Là thái hoàng thái hậu? Thái hậu? Hay là hai vị ngự muội của trẫm?
Dương Lăng nghe xong mà nghẹn họng, trong lúc còn chần chừ, chợt thấy Chính Đức nhảy bật lên, ngửa mặt lên trời cười lớn:
- Ha ha, một khi vận khí lên hương, liền như nước lũ tường thành khôn ngăn. Cái tên Hoa Đáng thực đáng yêu quá đi.
Đoạn hắn dương dương đắc ý nói:
- Lần này trẫm sẽ đích thân đi đến Đại Đồng, đó là vì nước vì dân, vì giang sơn xã tắc Đại Minh, bá quan văn võ sẽ không nói gì nữa chứ?
Dương Lăng nghe vậy thì há hốc mồm, chỉ thấy Chính Đức mặt đỏ bừng, hai tay chống nạnh nói:
- Không để trẫm đi công khai, trẫm sẽ lén đi. Đại Đồng trẫm đã quyết định sẽ đi rồi!
Đoạn hắn chỉ vào Dương Lăng, nói với giọng oai phong lẫm liệt:
- Chuyện này giao cho Dương khanh phụ trách. Qua năm mới, chúng ta sẽ mở đường Tuyên Phủ, thẳng tiến Đại Đồng!
Chú thích:
(1) nguyên văn "Thử Lý Tây Nhai tướng nghiệp". Tích rằng: vào năm Chính Đức (1506 - 1521), Lưu Kiện và Tạ Thiên của Nội các bị giáng chức đuổi khỏi kinh, chỉ còn lại một mình Lý Đông Dương. Đương thời Lưu Cẩn nắm quyền lực triều chính, Lý Đông Dương một cây chống chẳng vững nhà, không cách nào xoay chuyển. Vì vậy có người vẽ một bức tranh bà lão cưỡi trâu thổi sáo nhằm châm biếm. Trên trán bà lão đề "Thử Lý Tây Nhai (tên hiệu của ông) tướng nghiệp", nghĩa là "sự nghiệp tể tướng của Lý Đông Dương là đây", nhằm trào phúng Lý Đông Dương. Có người báo cho ông hay biết chuyện này, thế nhưng ông vẫn dửng dưng, tự đề lên tranh một bài thơ tuyệt cú: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái bình ca", nghĩa là "Dương Quý Phi thì bỏ thân nơi Mã Ngôi, Chiêu Quân mang theo ra biên tái nhiều ai oán. Sao như bà lão cưỡi trâu, hát vang khúc thái bình trong gió xuân". Về sau trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ Lưu Cẩn, họ Lý đã nổi lên như một nhân vật có vai trò mấu chốt.
(2) chính phủ triệu tập người dân thực hiện nghĩa vụ quân sự gọi là 'trưng dịch'
(3) loại lò sưởi cầm tay
Chương 178 Nàng vốn là người tốt
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Hiệu đính:
Nguồn: www.tangthuvien.com
Hoàng đế là vua một nước. Vua chúa dựng nên các triều đại có ai mà không cả đời chinh chiến, chém giết nơi chiến trường? Để Chính Đức chứng kiến qua sự thảm khốc ở chiến trường, thấu hiểu được một phần nỗi khổ của bá tánh sẽ còn tác dụng nhiều hơn đọc vạn câu di huấn của các bậc thánh hiền.
Những lý lẽ này đương nhiên Dương Lăng hiểu rõ. Hế nhưng vừa nghĩ đến việc dẫn Hoàng đế ra biên tái, còn phải để hắn ta âm thầm lặng lẽ giữa chiến trường chém giết của hơn mười vạn quân Minh và Thát Đát mà lẻn lên núi Bạch Đăng gặp mặt thủ lĩnh của đám người Đóa Nhan Tam Vệ lúc là bạn lúc là thù thì… Càng nghĩ Dương Lăng càng thấy lo sợ.
Để cho đức vạn thặng chi tôn(*) giá lâm đến nơi hiểm địa, chỉ một chuyện này thôi đã đủ khiến bá quan dốc mạng mà hặc tội y rồi. Hơn nữa, nếu như Thát Đát hay tin đem trọng binh tập kích, hoặc là Hoa Đáng khởi dị tâm bắt Chính Đức làm con tin, lúc đó phải làm sao?
(*) nghĩa đen: bậc tôn quí giá trị bằng vạn cỗ xe. Cụm từ này thường được dùng để chỉ nhà vua.
Đang gật gù đắc ý, hoàng đế Chính Đức chợt nhìn thấy sắc mặt Dương Lăng trắng bệch, hắn không khỏi thu lại nụ cười, nghiêm túc gọi Dương Lăng:
- Dương thị độc...
- Có thần!
Dương Lăng khổ sở đáp.
Chính Đức nghiêm mặt nói:
- Người trong thiên hạ thường nói thiên hạ của trẫm rộng lớn, thế nhưng thiên hạ của trẫm chẳng lẽ chỉ là một mảng đất trời trong Tử Cấm Thành này đây sao? Trẫm muốn ra ngoài nhìn ngắm giang sơn vạn dặm thì có gì là không tốt? Huống hồ, hiện tại đi gặp mặt Hoa Đáng chính là làm một việc lớn cho Đại Minh. Quân đội của trẫm sẽ có thể bớt đổ máu, bớt hy sinh; con dân của trẫm sẽ bớt chịu khổ đau. Thân là quân vương, trẫm... không nên đi hay sao?
Thoáng ngưng lại, hắn nhẹ giọng nói tiếp:
- Trẫm biết khanh đang lo lắng cho an nguy của trẫm, cũng lo lắng sẽ vì vậy mà bị bá quan chỉ trích.
Rồi hắn cười nhạt một tiếng, giọng khinh miệt:
- Cứ để mặc bọn chúng nói cho sướng miệng. Bọn chúng chỉ muốn coi trẫm là một con chim bị nhốt trong cái lồng này, chỉ cần trẫm giữ khuôn phép đúng mực một chút, kính trọng sĩ tử một chút, lắng nghe lời ngay thẳng của bọn chúng một chút, yên tâm ngồi đây làm một vị thần bằng đất sét thì sẽ là hoàng đế tốt trong mắt bọn chúng.
Nhưng mà, trẫm không muốn làm loại vua như vậy! Đại Minh là thiên hạ của trẫm, trẫm phải làm tròn trách nhiệm thiên tử!
Dương Lăng ngẩn ngơ đứng nhìn Chính Đức, khuôn mặt non trẻ của hắn đầy sự nghiêm túc hiếm có. Ánh mắt sáng ngời, hắn nhìn chằm chằm Dương Lăng nói tiếp:
- Còn nhớ lúc khanh mới vào kinh thành, từng kể cho trẫm nghe rất nhiều chuyện về vạn quốc ở hải ngoại hay không? Vị quân vương anh minh trong đó, khi không làm tròn trách nhiệm bản thân, lại lo sợ rúc mình trong cung điện, tự hào nói với kẻ khác rằng bảo vệ tốt cái mạng của hắn chính là làm tròn bổn phận với con dân. Khanh mong muốn trẫm là một hoàng đế như vậy sao?
Chính Đức nhếch cặp mày tuấn tú, buông từng chữ:
- Trẫm là thiên tử, hiện tại trẫm muốn đi làm một việc cần làm cho Đại Minh! Khanh là bầy tôi yêu mến của trẫm, khanh có thể phò tá trẫm hoàn thành tốt việc này hay không?
Trong lòng Dương Lăng dậy sóng: ai bảo tiểu hoàng đế trước mặt này trẻ người non dạ, trong mắt chỉ có vui chơi đùa nghịch? Là do hắn chưa từng suy nghĩ nghiêm túc về trách nhiệm làm vua hay là vì hiện thực cay đắng khiến hắn chỉ có thể đắm chìm vào trong đủ loại trò chơi để giết thời gian?
Không nói lời nào, Dương Lăng lui lại hai bước, lần đầu y mang lòng kính trọng vái Chính Đức một cái thật sâu:
- Vi thần tuân chỉ! Thần nguyện phò tá đức vua, chấn hưng Đại Minh, hoàn thành bá nghiệp lẫy lừng!
Chính Đức mừng rơn nắm chặt lấy tay Dương Lăng lắc lia lịa, vừa định mở miệng thì chợt nghe có tiếng 'rột rột' phát ra. Hắn thoáng ngẩn người, rồi không nín được bật cười lớn:
- Cùng khanh trò chuyện say sưa nên quên mất đã đến bữa rồi. Lại đây, Dương khanh hãy dùng bữa cùng trẫm! Chuyến đi đến Đại Đồng của trẫm sẽ nhờ vào khanh cả đấy.
Lúc còn kèm thái tử đọc sách ở Xuân Phường, đã không ít lần Dương Lăng dùng bữa chung với hắn, nhưng sau khi Chính Đức đăng cơ lên ngôi đế thì đây mới là lần đầu. Được dùng bữa cùng với Hoàng đế là đãi ngộ trọng hậu vô cùng, trên Khởi Cư Chú(2) và công báo triều đình đều phải ghi rõ.
Dương Lăng không muốn bị rêu rao nên đang tính lựa lời cự tuyệt thì Chính Đức đã quay ra ngoài cửa gọi to:
- Người đâu, truyền đưa cơm vào! Trẫm muốn dùng bữa chung với Dương khanh. Gọi Giải Ngữ và Tu Hoa đến cùng luôn đi.
Dương Lăng cuống quýt thưa:
- Hoàng thượng, làm vậy không thích hợp lắm đâu. Giải Ngữ, Tu Hoa tuy không phải là phi tần trong cung, nhưng dẫu gì cũng là người hầu hạ cho Hoàng thượng, thần sao dám cùng bọn họ...
Chính Đức không đồng ý, khoát tay ngăn y, rồi hào hứng bàn tiếp cách rời khỏi kinh sư. Trong lúc hai người đang bàn bạc thì tiểu thái giám của Ngự Thiện phòng đã đưa các món ăn thịnh soạn trong cung lên thoăn thoắt như thoi đưa, bọn họ bèn dừng trò chuyện.
Trên chiếc bàn lớn thếp vàng chạm trổ hình con rồng cuộn mình bày đầy các thức ăn, bốn chiếc ghế gấm đặt ở bốn cạnh bàn. Tiểu thái giám nhanh nhẹn dùng đũa bạc thử qua từng món ăn, lại nếm thử từng món một, sau đó quay sang vái Chính Đức một lạy rồi lặng lẽ lui ra, chỉ để lại bốn tiểu thái giám đứng hầu.
Giải Ngữ và Tu Hoa bước vào trong điện, tha thướt như một đám mây, mùi thơm của son phấn tức thời ùa vào trong cánh mũi. Chính Đức bảo hai người con gái xinh đẹp yêu kiều đó dùng tách ngọc, còn hắn và Dương Lăng thì ngồi đối diện với nhau, cả hai đều dùng chén rượu ba chân(3).
Mới uống một chén mà Dương Lăng đã thấy hơi ngà ngà. Trong lòng lo nghĩ đến chuyện năm sau hoàng thượng sẽ xuất kinh nên mặc cho Chính Đức năm lần bảy lượt thúc giục y cũng không dám uống thêm, chỉ gắp vài món ăn nhẹ cho vào miệng.
Chính Đức thì lại cao hứng vô cùng, ăn đến non nửa mới cười nói với Dương Lăng:
- Dương thị độc, hai vị cô nương này đều biết hát dân ca đấy. Giải Ngữ, Tu Hoa, hai nàng hãy hát một khúc trợ hứng cho trẫm đi.
Giải Ngữ nhoẻn miệng cười, sóng mắt đong đưa liếc Dương Lăng, thuận tay nhón lấy chiếc đũa ngà gõ nhè nhẹ lên cốc vàng bát ngọc. Trong tiếng nhạc trong vắt vui tai, cô nàng cất tiếng ngân nga một điệu hát dân gian. Tiếng ca dịu dàng mà da diết, Chính Đức nhịp đùi đắc ý, nghe rất say sưa.
Cố gắng đợi đến khi tiệc tàn rượu cạn, nhân lúc Chính Đức đang rửa tay trong thau vàng, Dương Lăng mới thấp giọng thưa với hắn:
- Hoàng thượng! Nếu ngài muốn xuất cung thì đó là việc quan trọng vô cùng. Khi nãy thần đã suy tính kỹ lưỡng rồi, muốn bá quan gật đầu đồng ý thì thật là điều không thể, xem ra chỉ có thể theo ý của Hoàng thượng là lặng lẽ rời kinh mà thôi.
Nhưng mà, cho dù có thể giấu được bá quan văn võ thì dù sao trong kinh cũng phải có người chủ trì, cho nên không thể giấu giếm ba đại học sĩ. Tiêu đại học sĩ lão luyện thành thục lại rất quan tâm đến thánh ý, thần muốn mật nghị với ông ta trước đã.
Chính Đức cười hì hà bảo:
- Được, khanh đi đi! Việc này là ý tưởng của trẫm, Dương khanh chỉ là bị ép buộc phải tuân lệnh vua, theo vua làm việc mà thôi, không ai dám làm gì khanh đâu.
Đại Minh tuy nhiều tệ chính, nhưng đương thời vẫn là quốc gia có quốc lực lớn mạnh nhất, lúc có chiến tranh, lương thảo và quân bị đều hơn xa những nước bé chung quanh, thế nhưng chiến sự lại thường luôn ở thế hạ phong, nguyên do lớn nhất là vì "trọng văn khinh võ".
Bản thân không thể trải nghiệm qua sát phạt, thì sao rèn thành một Chính Đức văn hay, trị giỏi, võ công cao? Sau khi nghe xong lời tâm sự chân thành của Chính Đức, Dương Lăng đã quyết định mặc kệ được mất cá nhân, cho dù núi đao biển lửa y cũng sẽ cùng hắn đi một chuyến. Y nghe Chính Đức ôm hết trách nhiệm về mình, không muốn y bị bá quan thừa cơ chỉ trích thì cảm kích mỉm cười rồi cung tay thưa:
- Tạ ơn Hoàng thượng quan tâm che chở, thần xin cáo lui.
Chính Đức lấy chiếc khăn lụa trắng mịn như tuyết lau tay xong, hai người con gái xinh đẹp liền vây lại, mỗi người ôm lấy một cánh tay y. Giải Ngữ cười duyên dáng hỏi:
- Hôm nay sao Hoàng thượng vui vẻ quá vậy? Đầu mày cuối mặt ngài đều rất tươi tỉnh.
Từ khi lớn đến giờ Chính Đức mới có cơ hội được ra khỏi “nhà” lần đầu, hơn nữa lại được đi đến chốn sa trường xa xôi, cho nên hắn thực sự không kiềm nén được sự hưng phấn trong lòng. Vả lại Giải Ngữ và Tu Hoa đều là những mỹ nữ vô cùng đáng yêu; hơn nữa Giải Ngữ vui vẻ rạng ngời, nghênh đón người ta bằng sự ngọt ngào mềm mại, rất hợp với tính khí của hắn.
Không kiềm được sự hào hứng trong lòng, hắn vuốt nhẹ khuôn mặt mịn màng của Giải Ngữ, hăm hở:
- Trẫm nói cho nàng hay, nhưng nàng nhất định không được để cho người khác biết đó.
Đoạn y hạ thấp giọng, nói nhỏ:
- Đợi sang năm, trẫm sẽ trốn khỏi kinh đi tuần rồi, ha ha ha! Biển rộng sóng dâng cá vẫy vùng, trời cao gió lộng chim tung cánh.
Giải Ngữ và Tu Hoa chợt ngẩn người, bốn mắt của hai cô vừa chạm vào nhau, trong mắt Tu Hoa liền không nén được sự vui mừng. Cô nàng cũng khoác lên một bộ dáng tươi cười ngọt lịm, kéo tay Chính Đức cạ vào bộ ngực đầy đặn cao vút của mình, thỏ thẻ:
- Hoàng thượng! Ngài nói rõ hơn được không, nô gia có thể đi cùng ngài không?
Chính Đức vội lắc đầu, đáp:
- Không được không được! Nếu dẫn phụ nữ theo thì nhất định Dương thị độc sẽ không cho, trẫm thực không muốn tự làm mất mặt mình.
Tu Hoa giậm chân làm nũng:
- Trời ơi! Vậy ngài nói cho nô gia biết sẽ đi đâu đi! Hoàng hậu nương nương không ưa gì chị em nô gia, nếu như ngài không ở trong kinh nữa..., - vừa nói cô nàng vừa làm ra vẻ chực khóc.
Chính Đức thấy vậy thì trở nên mềm lòng, liền vội kéo lấy tay cô nàng cười nói:
- Yên tâm đi, trẫm sẽ thu xếp cho các nàng đến Báo phòng, bảo Lưu Cẩn hết sức chăm sóc cho hai nàng là được rồi. Muốn biết trẫm sẽ đi đâu hả? Hắc hắc, thơm trẫm một cái đi rồi sẽ nói!
***
Giờ đây, trong ba đại học sĩ thì Tiêu Phương xếp thứ hai. Được quyền cao chức trọng, thân phận tôn quý, lại không phải chịu sự ghẻ lạnh như lúc còn ở bộ Lễ và bộ Lại năm xưa, sau lưng có Dương Lăng chống đỡ, tiền đồ như thuyền xuôi gió, thế nên mặt mày của lão luôn luôn tươi rói.
Lão đang ngồi trong điện phê duyệt tấu chương, thu xếp các bộ tính toán quân lương, chuẩn bị phu dịch, vận chuyển lương thảo, khí giới, vỗ về giúp đỡ những binh sĩ thương vong, điều động thầy lang, thu gom dược liệu, … Cả đống công việc nên lão bận đến túi bụi. Chợt nghe báo Dương Lăng đến thăm, ông già Tiêu Phương liền vội bước xuống giường lò, tươi cười ra đón.
Dương Lăng là thống lĩnh thân quân của Hoàng đế, là võ tướng Chánh tam phẩm. Nội xưởng là nha môn Hoàng đế tự lập ra, không hạn chế bởi phẩm hàm trong triều, không có cấp bậc, nhưng Dương Lăng thân mang tước vị (Bá tước – ND), mặc áo bào thêu hình mãng xà bốn vuốt do vua ban thưởng, quyền lực thực tế lại không ai sánh được.
Tiêu Phương tự coi mình là người cùng phe cánh với Dương Lăng, mỗi khi gặp y vẫn đều tôn kính gọi là đại nhân, tự nhún nhường xưng là môn hạ. Lúc này tuy đang ở trong cung nhưng lão vẫn rất cung kính giữ lễ. Nghênh đón Dương Lăng vào trong thư các xong, lão đích thân dâng chén trà ngon rồi mỉm cười mở lời:
- Đại nhân vào cung lúc nào vậy? Mấy ngày nay môn hạ cần phải xử lý tấu chương rất nhiều, mãi chưa đến quý phủ thăm viếng được. Môn hạ đang tính năm mới sẽ dẫn khuyển tử đến nhà thăm viếng ngài đây.
Dương Lăng cười đáp:
- Lão Tiêu chớ nên khách sáo. Trong triều còn có những quan viên mượn việc công trả thù riêng, các nha môn bất tuân chính lệnh, tiền phương đang có chiến tranh; những việc mà hậu phương phải làm cũng quan trọng không thua kém gì. Thực đã làm khó cho ông rồi.
Gương mặt già nua của Tiêu Phương thoáng đỏ lên, lão xúc động:
- Đa tạ đại nhân đã quan tâm, môn hạ cảm kích vô cùng. Lưu công công biết được những chuyện này đã nổi cơn thịnh nộ, mấy ngày nay đang ra lệnh cho bá quan lập tức trở về nha môn xử lý chính vụ, bận rộn thêm dăm bữa nữa thì sẽ thoải mái hơn.
Dương Lăng gật đầu, ngồi xuống bên mép giường. Nhìn thấy tên tiểu thái giám đang đứng chầu chực ngoài cửa, y bèn bảo:
- Lui xuống đi! Ở đây không cần ngươi hầu hạ nữa.
Đợi tấm rèm dạ nhung buông xuống sau lưng tên tiểu thái giám, Tiêu Phương mới sáp lại gần, nhỏ giọng hỏi:
- Đại nhân! Có phải là có chuyện quan trọng không?
Dương Lăng gật đầu đáp:
- Ừm! Quả là có chuyện muốn thương nghị cùng ông một chút, - đoạn y đem chuyện Chính Đức muốn đến Đại Đồng kể cho Tiêu Phương nghe.
Tiêu Phương vừa nghe liền nhảy dựng lên, vội vã xua hai tay phản đối:
- Vạn lần không thể được! Đúng ra đại nhân nên khuyên can Hoàng thượng, chỗ binh đao há lại có thể để cho Hoàng thượng dễ dàng mạo hiểm? Việc này không thể được, vạn lần không thể được.
Dương Lăng im lặng nhìn lão, đợi lão bình tĩnh trở lại rồi y mới nhẹ nhàng bảo:
- Thánh ý đã quyết! Tôi tới tìm lão Tiêu ông là muốn thương nghị cùng ông làm sao để thu xếp cho Hoàng thượng đi được đến Đại Đồng, việc trong kinh phải xử lý thế nào. Chuyện khuyên can sẽ không bàn tới nữa.
Lúc này Tiêu Phương mới định thần lại. Lão ngồi xuống cạnh bàn, vuốt râu, đôi mày bạc phơ cau tít, một lúc lâu sau mới khổ sở lắc đầu:
- Văn võ bá quan quyết sẽ không đồng ý.
Dương Lăng gật đầu đồng tình:
- Ừm! Việc này tôi cũng đã nghĩ đến, cho nên... Hoàng thượng chỉ có thể cải trang vi hành.
Y trầm ngâm một chút rồi nói tiếp:
- Vốn để bí mật gặp gỡ thủ lĩnh Đoá Nhan Tam Vệ, Hoàng thượng vẫn phải bí mật mà đi; cho dù không có bá quan ngăn cản thì hành trang cũng vẫn phải gọn nhẹ.
Nhưng…, tuy nói là cải trang vi hành nhưng số người bảo vệ cũng không thể ít được, cho nên tôi muốn rút lực lượng tinh nhuệ nhất từ Cấm quân, Kinh doanh, Nội xưởng và Đông xưởng để đi cùng Hoàng thượng. Ít nhất cũng phải... năm nghìn người, toàn bộ nhân mã sẽ cải trang thành quân binh tăng viện cho biên ải. Như vậy, năm nghìn nhân mã cũng không đáng kể, ít nhất cũng sẽ không khiến cho quan phủ địa phương và mật thám của phe giặc chú ý.
Dương Lăng thuật lại tình hình tỉ mỉ cho Tiêu Phương rõ. Nghe xong, Tiêu Phương suy nghĩ một hồi rồi hỏi:
- Đại nhân có đi cùng không?
Dương Lăng cười khổ sở đáp:
- Nếu tôi không ở cạnh trông coi Hoàng thượng thì sao yên tâm cho được? Chỉ sợ lúc đó muốn ăn ăn không nổi, muốn ngủ ngủ không yên, đương nhiên tôi phải chăm sóc bên cạnh Hoàng thượng rồi. Tôi sẽ mượn cớ thị sát để có thể đồng hành cùng Hoàng thượng đến biên ải.
Sắc mặt của Tiêu Phương lập tức hoà hoãn trở lại, lão hơi trầm ngâm:
- Vậy thì... kế này có thể thực hiện được. Nhưng để cẩn thận, đến Đại Đồng rồi, đại nhân nên bí mật thông báo cho tuần phủ Đại Đồng là Hồ Toán biết. Hắn là quan viên quân chính (kiêm quân sự lẫn chính trị - ND) cao nhất của Đại Đồng. Hiện tại tuy Dương Nhất Thanh thống lĩnh binh sĩ tiền tuyến, Miêu Quỳ đốc quân song trong tay hắn có thể điều động ít nhất hai vạn nhân mã. Có hắn âm thầm phối hợp mới bảo đảm không gặp phải sơ hở gì.
Sau thoáng trầm ngâm, Dương Lăng gật đầu đồng ý:
- Tốt lắm! Ngoài ra, chuyện này sẽ không thể giấu được mấy vị đại học sĩ Nội các. Đến khi đó Hoàng thượng sẽ mượn cớ long thể suy bệnh để lần lữa mấy ngày, áng chừng đợi bọn tôi đến Tuyên Phủ rồi, mới sẽ nhờ lão Tiêu ông thông báo cho hai vị đại học sĩ Lý, Dương.
Khi đó ván đã đóng thuyền, bọn họ cũng chỉ đành phải giúp giấu giếm cho. Có ba vị tọa trấn kinh sư thì tôi yên tâm rồi, còn về những quan viên khác... Ba đại học sĩ Nội các cứ hiểu dụ(4) Lục Bộ Cửu Khanh, tuyên bố với toàn bộ quan viên bên dưới rằng Hoàng thượng long thể bất an, tạm thời không thể thăng triều là được.
Tưởng tượng đến lúc Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà phát hiện Hoàng thượng mất tích sẽ nổi trận lôi đình như thế nào, Tiêu Phương không khỏi cảm thấy nhức đầu. Lão đành thở dài:
- Thôi được, phải xin Hoàng thượng hạ mật chỉ vậy! Bằng không môn hạ sẽ không kiềm nổi hai vị đại học sĩ đâu.
Lão suy nghĩ một chút rồi lại hỏi:
- Ngoài ra, việc lập trữ vương trấn thủ(*) sẽ được thu xếp thế nào?
(*) nguyên văn là “kiến trữ cư thủ”, trữ vương: người được chỉ định kế nhiệm ngôi vua.
Dương Lăng trố mắt hỏi:
- Lập trữ vương săn thú(*)? Lập trữ vương săn thú gì?
(*) nguyên văn 'kiến trữ thu thú', do hai chữ 'cư thủ' (jū shǒu, nghĩa canh giữ) và 'thu thú' (qiū shòu, nghĩa đi săn) đọc na ná nhau, nên Dương Lăng mới hiểu lầm
Dương Lăng đã lộ dốt. Y chỉ từng nghe nói hoàng đế triều Thanh hằng năm vào mùa thu thường đến Mộc Lan săn bắn, nên việc rời cung săn bắn gọi là “thu thú”. Chẳng lẽ rời kinh còn được gọi là săn thú, sao thời Minh cũng có cái thú đi săn này này?
Tiêu Phương cũng ngẩn người. Lão chợt sực nhớ vị đại nhân này chỉ đậu tú tài, vào kinh một bước lên trời mới trở thành bầy tôi quyền cao chức trọng, cho nên y không hiểu lắm về chế độ triều đình cũng là lẽ thường. Lão bèn thư thái cười đáp:
- Lập trữ vương trấn thủ là pháp lệnh mà các đời triều đình bắt buộc phải tuân theo. Đã gần trăm năm Hoàng thượng Đại Minh chưa từng rời kinh, bình thường không ai nhắc đến thể chế cũ này, chẳng trách đại nhân không nhớ.
Tiêu Phương hớp một ngụm trà, giải thích tiếp:
- Hoàng đế thân chinh ra trận hoặc giả tuần du thiên hạ, đều phải ra lệnh cho thái tử ở lại canh giữ kinh thành, gọi là “giám quốc”. Nếu như Hoàng thượng chưa có con nối dõi, hoặc thái tử tuổi còn nhỏ không thể trông nom quốc sự, thì phái hoàng đệ làm giám quốc cho, cũng có thể châm chế được.
Năm xưa khi Anh Tông bắc chinh, ngài đã phái hoàng đệ là Thành Vương ở lại trông giữ. Đương kim Hoàng thượng chưa có con nối dõi, cũng không có anh em ruột thịt, vậy chỉ có thể tạm thời tìm một vị thế tử(5) lập làm người kế vị, có người kế vị rồi mới bàn đến trấn thủ vậy.
Dương Lăng nhíu mày hỏi:
- Hoàng thượng tuổi xuân đang thịnh, hiện mới chỉ mười sáu, có cần phải lập trữ vương này nọ to chuyện như vậy không?
Tiêu Phương vội vàng giải thích:
- Đại nhân! Đây chỉ là một quy định phải có, lo trước khỏi họa sau mà thôi. Nếu như Hoàng thượng đã bí mật rời kinh thì đương nhiên việc phong lập này cũng chỉ là soạn mật chỉ. Đến lúc đó cũng chỉ có Lục Bộ Cửu Khanh và ba đại học sĩ biết được chuyện này, cho dù là thế tử phiên vương được lập cũng không hề biết đến việc ấy. Hoàng thượng hồi kinh lại hủy đi ý chỉ đó là xong.
Dương Lăng nghe xong mới cảm thấy yên tâm, nhưng việc lập người kế vị chính là chuyện của Hoàng thượng, xem ra chuyện này vẫn phải do Chính Đức quyết định. Dương Lăng đang do dự không biết có nên quay lại cung Càn Thanh gặp Chính Đức hay không thì chợt nghe có tiếng tiểu thái giám bên ngoài kêu:
- Đại học sĩ đang thương nghị quốc sự với Dương Lăng Dương đại nhân. Ngài cứ để công văn ở đó, chốc nữa sẽ quay lại lấy.
Dương Lăng cất giọng hỏi:
- Chuyện gì vậy? Ai đưa công văn đến?
Tên tiểu thái giám đứng gác bên ngoài cung kính đáp:
- Hồi bẩm đại nhân! Là lang trung Nghiêm Tung của bộ Hộ, nói có tấu chương về việc chuẩn bị lương thảo và điều động phu dịch cần trình cho đại học sĩ.
Nghiêm Tung không phải là người ngoài. Phẩm quan của hắn thấp kém cho nên hắn rất biết điều, hiếm khi đến nhà Dương Lăng mà chỉ thông qua phu nhân làm công tác ngoại giao, thủy chung vẫn bảo trì quan hệ mật thiết với nhà họ Dương.
Dương Lăng sai phái ba tỉnh Giang Nam, Hồ Nam, và Thiểm Tây, mỗi nơi cắt cử một vùng, một huyện, một tỉnh trồng thử những giống cây lương thực mới. Tuy lúc này giống lương thực và những người nông dân được đào tạo vẫn chưa được phái đi, nhưng y đã sớm ra lệnh cho ba tỉnh đo đạc và tính toán ruộng đất, nắm rõ tình hình đất đai trồng trọt nơi đó, chuẩn bị nông cụ và thuyết phục tá điền. Tất cả những việc này đều thông qua bộ Hộ ban bố thành mệnh lệnh hành chính.
Đối với việc chưa trồng thử nghiệm mà đã cho trồng trọt thí nghiệm khắp cả một tỉnh, Hàn Văn vẫn giữ vững ý kiến phản đối. Mặc dù Tuần phủ Thiểm Tây là người cùng phe cánh được Lưu Cẩn bổ nhiệm, tận hết sức lực chấp hành mệnh lệnh này, song phản ứng của Hàn Văn đối với tin tức truyền đạt từ trên xuống lại hết sức tiêu cực. Nếu không nhờ có Nghiêm Tung, là một Lang trung nho nhỏ của bộ Hộ, đứng giữa điều đình và liên lạc giữa hai bên thì không biết Dương Lăng sẽ còn lao tâm khổ trí biết bao nhiêu mà kể, tuyệt sẽ không an nhàn như hiện tại.
Dần dà hình tượng vốn có về Nghiêm Tung là một đại gian thần trong lòng Dương Lăng đã tiêu tan. Người này tuy đam mê quyền lực nhưng lại không háo sắc, không tham tiền tài, đơn giản chỉ là một kẻ cuồng sự nghiệp. Dương Lăng có cảm nhận rất tốt về hắn, đã coi hắn như tâm phúc đắc lực của mình, cho nên nghe vậy liền bảo:
- Gọi hắn vào đi!
Nghiêm Tung ôm một chồng tấu chương bước vào, đưa mắt nhìn Dương Lăng song vẫn dựa theo quy củ phẩm hàm mà thi lễ với Tiêu Phương trước, sau đó mới quay sang thi lễ với Dương Lăng. Hắn nhũn nhặn cười nói:
- Hạ quan không biết đại nhân đang cùng đại học sĩ thương nghị quốc sự, đến thực mạo muội rồi. Những tấu chương này chỉ báo cáo tình hình lương thảo và quân dịch, quan phủ các địa phương cũng không dám qua loa với việc lớn như dụng binh, họ không dám trì hoãn giấu giếm gì cho nên cũng không có gì hệ trọng.
Dương Lăng cười nói:
- Việc này các vị biết phải làm thế nào rồi. Nếu có gì thật sự khó xử thì cứ đi tìm Lưu công công, ông ấy đang rất háo hức được vẫy vùng, đang lo lắng không có chỗ để ra tay đấy. Bản quan sẽ không xen vào đâu.
Tiêu Phương và Nghiêm Tung nghe xong đều bật cười. Dương Lăng mỉm cười nói tiếp:
- Đừng khách sáo nữa, ngươi cũng ngồi xuống đi, bản quan đang có một việc lớn thương nghị cùng lão Tiêu. Ngươi cũng không phải là người ngoài, cùng nghe luôn đi.
Nghiêm Tung dạ một tiếng, ngồi khép nép xuống chiếc ghế dựa mũ quan cạnh giường, mỉm cười nói:
- Lúc hạ quan còn ở Hàn Lâm viện thì cả ngày chỉ chơi đùa với bút, viết lách ít văn chương thơ cú. Từ khi chuyển sang bộ Hộ suốt ngày tiếp xúc với lương thảo gạo tiền, mới cảm thấy tài học nông cạn, sức không bằng người. Thật như đại nhân có chuyện quan trọng, hạ quan đành xin ngóng cả hai tai, trái nghe phải đoán vậy.
Dương Lăng bực mình cười đáp:
- Chuyện này vô cùng quan trọng. Bản quan vốn biết ngươi tính tình nghiêm cẩn, hành sự ổn thỏa nên mới muốn ngươi cùng tham nghị, nếu chỉ nghe thôi thì không được.
Dương Lăng phải đi cùng Chính Đức đến Đại Đồng mà việc trồng thử lương thực mới lại không thể gác lại, rất nhiều việc lớn đều cần phải bàn giao cho gã tâm phúc này. Vốn y cũng không muốn giấu giếm hắn nên bèn thuật lại sự tình một lần nữa.
Nghiêm Tung lắng nghe, khoé miệng mang nụ cười nhẹ. Nghe nói Hoàng đế muốn cải trang rời kinh đi tuần, sắc mặt hắn cũng không hề có vẻ gì là kinh sợ, nghe đến việc an bài của Dương Lăng và Tiêu Phương, hắn cũng liên tục gật đầu, mãi đến khi nghe việc lập trữ vương trấn thủ, đôi mày rậm của hắn mới thoáng nhíu lại. Hắn trầm ngâm một lúc lâu mới lo sợ nói:
- Hạ quan cho rằng... việc này không ổn.
Dương Lăng và Tiêu Phương kinh ngạc nhìn nhau, Tiêu Phương vuốt râu bảo:
- Ừm! Duy Trung có kiến giải gì thì đừng ngại, cứ nói ra nghe thử.
Nghiêm Tung chần chừ một chút rồi đáp:
- Hạ quan cho rằng việc Hoàng thượng đi tuần phương bắc, hai vị đại nhân sớm đã tính toán sẵn trong lòng, hẳn cho rằng sẽ không có gì hung hiểm, vậy cớ gì phải rập theo cái lệ cũ là lập trữ quân trấn thủ?
Năm xưa Lưu Bang nhà Hán từng bị bốn mươi vạn thiết kỵ Hung Nô vây hãm trên Bạch Đăng sơn, nhưng thời thế xưa nay đã khác. Mảnh đất trải dài phía bắc và tây Đại Đồng đều đã nằm trong tay Đại Minh ta. Giặc Thát tuy đang tập kích quấy nhiễu, Đoá Nhan Tam Vệ tuy chưa hẳn đã trung thành, nhưng về binh mã thì Đại Minh ta lại chiếm ưu thế.
Hoàng thượng có thể đến Đại Đồng trước, sau đó mới báo tin cho Đoá Nhan Tam Vệ. Trong thời gian đó sẽ thu xếp điều binh khiển tướng, an bài ổn thỏa, chiếm hết thiên thời, địa lợi, nhân hoà, thì cho dù là Thát Đát hay Đoá Nhan Tam Vệ cũng sẽ không thể thừa cơ tấn kích. Nhưng nếu lập trữ vương trấn thủ thì ngược lại sẽ mang đến nhiều mối nguy hiểm và hậu họa vô cùng.
Dương Lăng lo lắng hỏi:
- Nghĩa là thế nào? Ngươi hãy nói rõ hơn đi!
Nghiêm Tung cưa quậy thân thể gầy như cây sậy, liếm môi đáp:
- Đại nhân! Họa không nằm ở bên ngoài mà là ở bên trong. Đại nhân thử nghĩ xem: Hoàng thượng ở bên ngoài, nếu như gặp chuyện khốn khó như bị vây hãm, những người đi theo bảo vệ đương nhiên sẽ tận lực hộ giá, còn trong triều như rắn mất đầu, bá quan văn võ tất sẽ trên dưới một lòng, hy vọng quân vương sớm ngày trở lại.
Việc Hoàng thượng không ở trong cung chưa hẳn sẽ thật sự che giấu được bá quan văn võ, cùng lắm là bọn họ e ngại lòng người hoang mang nên vờ như không biết. Nhưng giả như Hoàng thượng đã lập người kế vị..., khó dám đảm bảo sẽ không có kẻ mang dị tâm.
Hoàng thượng lâm triều chưa trọn một năm, căn cơ chưa ổn, Lục Bộ Cửu Khanh há sẽ đều trung thành? Giả như có người mang ý niệm ủng hộ vua mới, kiến công lập nghiệp thì cho dù Hoàng thượng vốn không có gì nguy hiểm, sợ rằng cũng sẽ có kẻ tiết lộ tin tức cho giặc Thát. Còn nếu như Hoàng thượng đang bị vây hãm, vậy sẽ càng...
Dương Lăng vừa nghe liền bừng tỉnh. Người kế nghiệp chưa được quyết định, bá quan văn võ tất sẽ tận tâm cống hiến và ra sức tranh giành sự yêu mến của Hoàng đế. Còn nếu người kế nghiệp đã được xác định, Hoàng đế lại ở nơi nguy hiểm mà bất cứ lúc nào cũng có thể bị kẻ khác thay thế, vậy thực sẽ rất nguy. Bá quan văn võ tất sẽ có mưu tính riêng cho mình, ngáng chân cấu xé lẫn nhau, vậy sẽ lỡ hết đại sự.
Thêm nữa, sau khi Chính Đức kế vị, triều chính đổi thay, đầu tiên là một nửa số thượng thư Lục Bộ bị cho bãi chức, tiếp đó ba đại học sĩ lại mất đi hai, bá quan văn võ bị liên lụy nhiều vô số kể. Một số lão thần sớm đã sinh lòng oán hận với Hoàng thượng, cho dù là họ có ý định lập một vị vua mới có ích cho giang sơn hay là có tư tâm, muốn ủng hộ lập nên một vì vua mới, kiếm công phò tá quân vương cũng vậy, e rằng bọn họ sẽ chỉ khoanh tay đứng nhìn, thậm chí có thể còn ném đá xuống giếng nữa.
Như vậy, việc lập trữ vương trấn thủ sẽ trở thành chuyện không đề phòng chưa hẳn đã có họa, mà có đề phòng thì nhất định sẽ có họa lớn. Tiêu Phương lăn lộn lâu năm chốn quan trường, vừa nghe liền thông suốt điểm kỳ diệu trong đó ngay.
Dương Lăng bỗng vỗ đùi đánh đét nói:
- Phải à! Nếu đã như vậy, kiến nghị lập trữ vương trái lại sẽ khiến Hoàng thượng sa vào hiểm địa. Ngươi suy nghĩ rất phải, việc lập trữ vương trấn thủ tuyệt không thể làm, là ta suy xét chưa chu toàn rồi.
Nghiêm Tung khom người khẽ cười đáp:
- Không dám! Hoàng thượng bản tính thượng võ, đại nhân có phần lo lắng cũng là để Hoàng thượng không phải lo âu về việc cung đình, mới có thể như cá gặp nước mà thản nhiên đi tuần du bên ngoài.
Tiêu Phương vuốt râu đưa mắt nhìn Nghiêm Tung, khẽ thở dài:
- Đến cửu biên tái ngoại, mạo muội dấn thân nơi đầu giáo mũi kiếm, nguy hiểm khôn lường, quả nên suy xét mọi mặt như ngươi. Ừm! Đúng là hậu sinh khả úy, hậu sinh khả úy!
Tiêu Phương thuộc làu các điển chương và quy định, Nghiêm Tung lại thông thạo thế sự nhân tình. Có hai người một già một trẻ rất có tiềm năng trở thành “gian thần lộng quyền” này xem xét cặn kẽ, Dương Lăng đứng giữa cân nhắc chọn lựa, việc Chính Đức cải trang rời khỏi kinh sư được an bài hết sức cẩn thận. Chuyện trò đến lúc trời gần nhá nhem, ba người mới vui vẻ chia tay.
Lòng như tấu nhạc, Dương Lăng vui sướng rời khỏi cổng cung, chui vào trong chiếc kiệu quan, đám người hầu nâng chiếc kiệu lớn lên. Ngũ Hán Siêu đang ngồi tĩnh tọa, thấy y trở về bèn thu thế lại nhường chỗ cho y chui vào. Dương Lăng vào trong kiệu, vừa ngồi xuống liền áy náy:
- Đã làm phiền Hán Siêu rồi! Với tài học của mình, huynh vốn có nhiều chỗ để dùng, giờ lại bảo huynh bảo vệ che chở cho ta, ha ha! Đợi mấy ngày nữa đi, chờ yên ổn rồi, ta sẽ bổ nhiệm cho huynh một chức quan.
Ngũ Hán Siêu cười đáp:
- Đại nhân không cần phải khách sáo, kẻ hèn thương thế chưa khỏi, nghỉ ngơi thêm mấy ngày cũng tốt. Khi còn ở trên núi, thông thường mỗi lần tĩnh tọa là suốt một ngày, cho nên quả thực cũng không cảm thấy buồn tẻ.
Trong lúc hai người chuyện trò, chiếc kiệu đã được nhấc lên, lắc lư di chuyển trên đường.
Chiếc kiệu rời khỏi sân rồng lát đá xanh, rẽ vào một phố lớn phồn hoa. Ngũ Hán Siêu đang quay đầu giảng giải tâm pháp nội công cho Dương Lăng thì bất chợt ngừng lại, thân dưới thoáng nhích, cả thân trên đột nhiên dịch sang ngang nửa thước, một thanh kiếm bén ngót lạnh lẽo từ ngoài rèm kiệu đâm vào. Một kiếm đâm hụt, kẻ ra tay cũng phát hiện được, “xoạt” một tiếng trường kiếm bèn được rút về.
Lúc này ngoài kiệu hỗn loạn, một loạt những âm thanh huyên náo vọng vào. Ngũ Hán Siêu mắng khẽ:
- Quả nhiên có thích khách!
Dứt lời chàng quơ lấy thanh trường kiếm bên cạnh, búng người phóng ra ngoài.
Nhát kiếm vừa nãy khiến cho Dương Lăng trông thấy mà khiếp vía vô cùng. Ngoài kiệu tiếng binh khí chạm nhau vang lên dồn dập xen lẫn với những tiếng la hét ầm ĩ của bá tánh trên đường, sau đó có tiếng con gái chửi mắng vọng lại xa dần, lại nghe Ngũ Hán Siêu quát tháo: "Bảo vệ đại nhân", rồi không còn tiếng động gì nữa.
Dương Lăng thoáng định thần lại, vén hờ rèm kiệu, thấy bốn tay thị vệ đang căng thẳng bao vây chung quanh. Gần cuối năm nên nhiều người dân ra đường mua đồ sắm tết đông đúc, nơi này lại là con đường cực kỳ phồn hoa, đám đông nhốn nháo hoảng loạn quanh đấy vẫn còn trốn chạy, trên đường vứt bừa bãi nào là đầu heo, nào là bàn thờ, vàng mã, ... ngổn ngang hỗn loạn.
Dương Lăng vén rèm bước ra ngoài quát hỏi:
- Ngũ huynh đâu?
Một tay thị vệ cầm đao, vừa căng thẳng nhìn bá tánh đang chạy tán loạn khắp nơi vừa đáp:
- Dạ đã đuổi theo nữ thích khách che mặt nọ rồi.
Dương Lăng thở phào một hơi, ra lệnh:
- Cử một người đi bảo người của Ngũ thành binh mã ty mau đến trấn áp khu vực, tình hình càng hỗn loạn thì....
Y còn chưa dứt lời, mắt đã thấy một bóng hình yêu kiều mà mau lẹ chợt xuất hiện, tay thị vệ bị kẻ đó đá văng vào trong đám người, mồm hộc máu tươi.
Kẻ vừa xuất hiện hết sức nhanh nhẹn, kiếm loé như chớp, một tay thị vệ khác vừa cảnh giác vặn người bổ một đao đã bị một kiếm đâm xuyên vai. Kiếm lui chân tới, tên thị vệ bị đá quay một vòng văng vào giữa đám đông. Dương Lăng chỉ cảm thấy hông bị siết lại, y đã bị người ta ôm chặt, bên tay vẳng lại giọng nữ khẽ quát:
- Mau đoạn hậu! Gió rát, ai nấy về chùa! (từ lóng: ý nói tình thế không tốt, mọi người rút lui)
Dương Lăng chân không chạm được đất, bị kẻ đó kẹp nhảy vào trong đám đông, rẽ quanh rẽ quẩn rồi tiến vào một con hẻm chưa chong đèn. Con hẻm không sâu, nháy mắt đã ra khỏi đầu hẻm, đã có một cỗ xe ngựa đợi sẵn. Tay kẻ đó thoáng vung lên, ném bay Dương Lăng vào trong xe, rồi co người nhún chân nhảy vọt lên xe, quát:
- Lập tức rời thành!
Dương Lăng bị ném ngã vào trong xe, đầu vàng mắt hoa, vừa mới ngẩng đầu lên liền có một người nữa xông vào, chen ngồi cạnh y. Kế đó y bị kẻ kia túm lấy cổ áo nhấc lên.
Dương Lăng hoảng hốt chống tay gượng dậy. Y cảm thấy tay vịn vào một khối thịt mềm mại nở nang, vừa phát hiện ra là một cặp đùi săn mẩy chắc nịch thì cả người y đã bị ấn về phía sau, đập vào thanh xe "bộp" một tiếng, một lưỡi kiếm sắc lẹm lạnh lẽo đã kề sát trên cổ.
Dương Lăng định thần lại, thấy trong xe treo một cây đèn bão. Dưới ánh đèn, kẻ đó gỡ khăn che mặt xuống, toàn thân mặc đồ đen, da trắng như tuyết, tôn lên một vẻ đẹp không nhiễm bụi trần.
Gương mặt xinh xắn đó thanh nhã mà thoát tục, rực rỡ rạng ngời, một cây trâm ngọc bích màu xanh lá óng ánh cài trên mái tóc đen mượt, dưới hàng mi cong cong là một đôi mắt xinh đẹp lóe lên vẻ lạnh lùng và nghiêm nghị vô cùng.
Dương Lăng thoáng sững người, bật thốt:
- Dương Khóa Hổ Hồng Nương Tử?
Người con gái xinh đẹp vận bộ đồ bó màu đen nọ thoạt tiên ngẩn ra, sau đó nhếch miệng cười, thấp thoáng hàm răng trắng đều như bắp:
- Thì ra ngươi đã biết rõ tông tích của ta. Không sai, ta chính là Thôi Oanh Nhi! Xưởng đốc đại nhân, dù bản lĩnh ngươi to như vậy mà còn không phải đã rơi vào trong tay ta đó ư?
Nàng thoáng lật mũi thanh đoản kiếm, sống kiếm ấn vào cổ Dương Lăng, khuôn mặt xinh đẹp nghiêm lại, giọng lạnh lùng quát:
- Trượng phu của ta đâu? Có phải đã trúng phải độc thủ của ngươi rồi không?
Nụ cười thoáng qua kia như "bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước", nét mặt tươi cười tựa như "mây phá, trăng ra, hoa giỡn bóng", rúng động lòng người. Trong chớp mắt vẻ đẹp rạng ngời như bóng ngựa qua khe cửa, thoáng cái đã không thấy tăm hơi, trên khuôn mặt thanh tú lạnh lùng chỉ còn lại một đôi mắt đang nhìn y chằm chằm đầy thù hận.
Chú thích:
(1) Nguyên văn "Khanh bản giai nhân".
Ngoài nghĩa là người đẹp, giai nhân cũng có nghĩa là người tốt, chỉ bực quân tử.
Hán Vũ đế trong "Thu Phong từ" có câu: "Lan hữu tú hề cúc hữu phương, huề giai nhân hề bất năng vong." (Ý: Lan đẹp có cúc mới có hương thơm, gần người quân tử không thể mất nước).
Cụm từ "khanh bản giai nhân" được dùng với ý trách móc: "Ngươi vốn là người tốt, sao lại..."
Trong Đào Khản truyện, sách Tấn thư, có câu: “Khanh bản giai nhân, hà vi tùy chi dã?" (Ý: Ngươi là người tốt, sao lại theo làm (điều xấu)?).
(nguồn: http://baike.baidu.com/view/850350.htm)
(2) "Khởi Cư" nghĩa là sinh hoạt thường ngày; đây là quyển sổ ghi chép sinh hoạt hằng ngày của vua chúa
(3) nguyên văn "tước bôi" là loại chén rót rượu cao có ba chân thời xưa, hình giống con chim sẻ (chim tước), thường thấy trong phim Tam Quốc Diễn Nghĩa.
(4) người trên bảo cho các người dưới đều biết gọi là hiểu dụ, cũng như hiểu thị.
(5) từ thời Chu, con vua và các chư hầu đều được gọi là thế tử.
Chương 179 Rơi vào tay kẻ địch
Dịch: vo vong
Biên dịch: TheJoker
Biên tập: Monsoon
Hiệu đính:
Nguồn: www.tangthuvien.com
Nhát kiếm đó từ ngoài tấm rèm đâm vào, thế kiếm hết sức tàn độc, vẻ như thể nhất quyết phải thành công. Trong lòng Ngũ Hán Siêu lửa giận bừng lên, bèn xách kiếm lao ra ngoài kiệu, thấy bốn gã thị vệ đang rút đao xông về phía tên thích khách đột nhiên tập kích kia, còn kiệu phu thì đã sợ hãi trốn qua một bên rồi. Y bèn lập tức rút kiếm lao tới, giao chiến với tên thích khách mặc đồ đen có thân hình nhỏ nhắn, che mặt bằng khăn đen kia.
Y đã nhận định trong lòng đây chính là đại đạo Thôi Oanh Nhi chưa kịp trốn đi. Giang hồ đồn rằng Thôi phu nhân xinh đẹp như hoa, thuần thục nghề cung ngựa, một thân võ nghệ còn lợi hại hơn trượng phu, người trong giang hồ tặng cho biệt hiệu là Dương Khóa Hổ. Ngũ Hán Siêu từng kiến thức võ nghệ của Dương Hổ, tuy còn kém xa mình, song lúc này trên người đang có nhiệm vụ nặng nề, đối mặt với nữ tử bịt mặt này cũng không dám sơ ý.
Hai bên giao đấu được vài hiệp, Ngũ Hán Siêu liền cảm thấy yên tâm, Dương Khóa Hổ chỉ có hư danh, võ nghệ thật ra cũng chỉ xấp xỉ với Dương Hổ. Đấu được một lát nữ tử kia cũng nhìn ra mình không phải là đối thủ của Ngũ Hán Siêu, đột nhiên quát lớn một tiếng, vung tay ném ra một thanh tiểu đao, đoạn thừa cơ trốn vào trong đám người.
Ngũ Hán Siêu vừa mới theo vào dưới trướng Dương Lăng, nếu có thể bắt được ả đại đạo này ắt là một công lớn, có thể nở mày nở mặt, y làm sao chịu bỏ qua, bèn lập tức tung người đuổi theo. Trong suy nghĩ của y, Dương Khóa Hổ đã sinh lòng sợ hãi, dựa vào võ công của y muốn bắt sống đối phương cũng chẳng phải chuyện gì khó khăn.
Nhưng nữ tử bịt mặt kia cực kỳ giảo hoạt, ỷ có thân hình nhỏ nhắn nên không ngừng rẽ trái rẽ phải trong đám người, dựa vào sự che chắn của dòng người khiến Ngũ Hán Siêu không cách nào bắt được. Đuổi theo chừng hai con đường, trong lòng Ngũ Hán Siêu chợt động, cảm thấy sự tình có điều không ổn.
Y vốn cho rằng nữ tử võ nghệ cao cường này chính là Hồng Nương Tử, một mình tới hành thích Dương Lăng, xem ra là đã ở vào đường cùng không còn ai để sai phái, do đó y mới yên tâm đuổi theo. Nếu lỡ như ả còn mai phục thêm người khác, dựa vào những thị vệ chỉ quen việc chiến đấu nơi sa trường, không giỏi về võ nghệ kia liệu có thể bảo vệ chu toàn cho đại nhân không đây?
Ngũ Hán Siêu nghĩ tới đây, không dám tham công đuổi theo tiếp nữa, tập tức quay người chạy về chỗ cũ. Khi về đến nơi chỉ thấy một đội quan binh đang vây quanh nơi đó, trên mặt đất có một thi thể, bốn gã phiên tử đều đã bị thương. Trái tim Ngũ Hán Siêu nhảy lên tận cổ họng, hoang mang chạy đến gần. Chỉ thấy một thị vệ đang dùng tay giữ chặt vai, máu tươi rỉ ra không ngừng song cũng chẳng để tâm tới vết thương của bản thân, hướng về phía đám quan binh tuần thành lớn tiếng gầm lên:
- Còn đứng ngây ra đó làm gì? Tổng đốc Nội xưởng đã bị quân giặc cướp bắt đi rồi, mau đi thông báo cho Ngũ Thành Binh Mã ti lục soát toàn thành, lệnh cho Kinh doanh (Trỏ doanh trại quân đội đóng ở khu vực kinh sư - ND) đóng chặt Cửu môn, mau đi!
Hôm qua Dương phủ bị tập kích, gian tặc đến xâm phạm gần như đã bị tiêu diệt hoàn toàn, tên thủ lĩnh đã trốn đi. Dựa theo lẽ thường thì cường đạo dù hung hãn đến đâu đi nữa, một khi đã bại lộ hành tung trước mặt quan phủ thì ắt sẽ cao chạy xa bay, không dám ở lại chỗ cũ nhưng quan binh tuần thành cũng không dám sơ ý chút nào. Dưới mệnh lệnh của cấp trên, các quan binh mười người lập thành một đội đi lại khắp thành, nơi nào có động tĩnh cũng đừng hòng giấu được.
Nơi này vừa mới xảy ra giao tranh bọn họ đã lập tức nghe tin mà tới, năm tên đại đạo phụ trách đoạn hậu có một tên trúng đao bỏ mạng, những kẻ còn lại thấy tình hình không hay liền lập tức tản đi, lẩn vào trong đám người rồi biến mất chẳng còn tung tích. Bốn gã thị vệ vừa lo lắng vừa tức giận, không kìm được nổi cơn lôi đình với lũ ngu ngốc kia.
Tổng đốc Nội xưởng bị bắt cóc ngay tại kinh sư, Ngũ Thành Binh Mã ti hay tin thì không ngừng kêu khổ, lập tức phái ra toàn bộ lực lượng. Các nha dịch người cầm đao kẻ cầm thương khí thế bừng bừng phong tỏa mọi con đường, năm bước một trạm gác nhỏ, mười bước một trạm gác lớn, toàn thành giới nghiêm.
Hình bộ nhân lúc cửa cung còn chưa đóng vội vã đưa tin vào trong cung. Chính Đức hay tin thì cả giận, lập tức hạ lệnh đóng chặt Cửu môn phong tỏa toàn thành, lại vội vã triệu Lưu Đại Hạ vào cung, lệnh cho ông ta quét sạch đám giặc cướp tụ tập làm loạn ở khu vực Bá Châu. Hình bộ, Kinh doanh, Đông xưởng, Tây xưởng, Cẩm Y vệ cũng nhận được thánh dụ, phái nhân thủ đi khắp nơi, khiến cho khắp kinh sư rơi vào cảnh gà bay chó chạy.
Các vị quan sai lão gia của các ti các bộ đều nhân cơ hội này để làm khó các gia đình giàu có, lấy cớ có người tố cáo mà đến tận cửa lục soát, tiện tay vơ vét những thứ đồ đáng tiền. Các phú thương giàu có sao chịu để cho đám sai dịch như lang như hổ đó vào nhà tìm kiếm, để cầu bình an chỉ còn cách bỏ ra chút tiền cho xong việc, đuổi đám quan sai lão gia ấy đi.
Thế nhưng lượt này đi rồi lượt sau lại tới, còn cái bóng của Dương Lăng thì vẫn chẳng thấy đâu, rốt lại thành ra giúp lũ người đó kiếm được một khoản tiền. Tin tức truyền lên trên núi, Ngô Kiệt hay tin không khỏi cả kinh, nếu Dương Lăng có mệnh hệ gì Nội xưởng coi như sụp đổ. Dù ông ta trước nay cơ cảnh bình tĩnh nhưng cũng bị tin tức này làm cho kinh hãi đến độ lòng dạ rối bời, nhất thời không nghĩ ra được chủ ý nào hay cả.
Duy có Hoàng Kỳ Dận là hết sức tỉnh táo, hỏi kĩ tình hình từ viên phiên tử đến báo tin, rồi kêu y lập tức trở về dặn dò đám người Ngũ Hán Siêu phải ở lại Hình bộ không được trở lại Dương phủ. Vẻ mặt lo âu, ông ta quay sang nói với Ngô Kiệt:
- Ngô đại nhân, xin chớ tự làm loạn trận cước, tên đại đạo đó bắt mà không giết, ắt là còn có mục đích khác, đại nhân tạm thời không có mối nguy về tính mạng đâu.
Ngô Kiệt trấn tĩnh trở lại, nói:
- Đúng rồi, bản quan hay tin mà kinh hãi quá, trong lòng chẳng nghĩ ra được chủ ý nào. Bọn chúng bắt đại nhân đi ắt có mưu đồ, phòng ốc trong kinh sư dày đặc, dân cư trăm vạn có dư, nếu mà ẩn nấp thì thực khó lòng tìm được, Hoàng lão có diệu kế gì không?
Hoàng Kỳ Dận nói:
- Phu nhân đang mang thai, lỡ mà hay tin đại nhân gặp nguy hiểm, với nỗi kinh hãi và lo lắng khó đảm bảo sẽ không có điều sơ sảy nào. Đại nhân cần lập tức phái người đi phong tỏa phủ Uy Vũ bá, không được để tin tức truyền vào trong phủ!
Ngô Kiệt nghe xong cả kinh, Dương Lăng chưa rõ sống chết, nhất thời chẳng biết tìm ở đâu. Y chỉ có một người con này, quả thực là một chuyện lớn không thể sơ xuất. Ông ta bèn quay sang nói với Liễu Bưu vừa hay tin chạy tới:
- Liễu thiên hộ, chuyện này giao cho ngươi đấy, nhất định phải bảo vệ Dương phủ an toàn, không được có điều sơ sảy!
Liễu Bưu thần sắc ngưng trọng, chẳng nói lời nào, vội vã ôm quyền rời đi. Ngô Kiệt suy nghĩ rồi tiếp:
- Nữ tặc đó bắt đại nhân đi, trong lòng thấp thỏm, chưa chắc đã dám ở lại trong kinh, có điều ả đã bắt mà không giết, chắc chắc là có mưu đồ, dù đi cũng không đi xa. Bành đáng đầu, Liên đáng đầu, Phùng đáng đầu, Dương thiên hộ, các vị mỗi người dẫn theo một đội quân, lập tức đến bốn cửa lớn của kinh thành tra hỏi xem có xe ngựa nào khả nghi không. Tìm kiếm thật kỹ, hãy nhớ mọi sự phải cẩn thận, đừng ép gấp quá, khiến cho lũ đạo tặc chó cùng rứt giậu.
Bốn người lập tức vâng lời, rồi cũng vội vã rời đi. Ngô Kiệt đưa mắt nhìn Hoàng Kỳ Dận, thở dài than rằng:
- Nay ta và ông chỉ có thể ngồi đây chờ tin tức, mong rằng đại nhân… người tốt sẽ được trời trợ giúp!
***
Dương Lăng bị lưỡi đao sắc bén kề lên cổ họng, trong lòng nghĩ thầm: “Hồng Nương Tử mạo hiểm như thế bắt mình đi, xem ra là còn chưa biết Dương Hổ đã trốn thoát. Nếu nàng ta biết tin tức chính xác của Dương Hổ, hẳn đã nghĩ cách trốn khỏi kinh thành rồi, sao dám mạo hiểm như vậy để bắt mình chứ? Cũng may mà nàng ta chưa biết trượng phu còn sống hay đã chết, ném chuột sợ vỡ đồ, do đó mới không dám giết mình. Mình vì chuyện này mà gặp họa, cũng vì chuyện này mà được an toàn, xem ra nhất thời không có nguy hiểm về tính mạng rồi.”
Xe ngựa đi nhanh rất xóc. Dương Lăng nghĩ đến đây, trong lòng thầm thở dài một hơi, lại đưa mắt nhìn khuôn mặt xinh đẹp trắng ngần của Thôi Oanh Nhi, bèn khẽ thở dài nói:
- Hôm trước cô còn là khách của ta, hôm nay ta lại là tù nhân của cô rồi. Dương phu nhân, bản quan đối với vợ chồng cô hết sức đúng mực, không hề có chút ác ý nào, cớ sao lại tập trung mấy trăm kiêu hùng, muốn giết cả nhà ta?
Thôi Oanh Nhi nghĩ đến mục đích của chồng mình, trong lòng thoáng qua một chút áy náy, nhưng ngay sau đó lại trầm mặt gằn giọng:
- Ngươi là quan, ta là giặc, quan và giặc vốn đã thế bất lưỡng lập rồi. Quan binh bắt giặc, giặc giết quan binh, đều là dựa vào bản lĩnh, còn cần có lý do gì sao?
Nàng nghĩ đến việc trượng phu sống chết chưa rõ, hai trăm thủ hạ đắc lực mà y dẫn theo gần như đã bị thư sinh trước mắt này giết sạch, không khỏi căm hận nghiến răng nghiến lợi, hằn học hỏi:
- Mau nói đi, trượng phu của ta hiện giờ thế nào rồi?
Dương Lăng thấy nàng quả nhiên không biết tin tức của Dương Hổ, trong lòng lại càng yên tâm hơn, bèn ung dung nói:
- Đám đạo tặc đó nửa đêm xông vào Cao Lão Trang, dưới sự bao vây của hơn ngàn quan binh đã bị tiêu diệt hoàn toàn, còn về Dương Hổ…
Hồng Nương Tử nghe vậy thần sắc lộ rõ vẻ lo lắng, vội vã hỏi:
- Chàng thế nào rồi?
Dương Lăng bấm bụng nói:
- Trên đùi gã trúng một tên, đã bị bản quan bắt sống, hiện giờ đang bị nhốt trong đại lao.
Dương Hổ trúng tên bị thương, sau đó bị bắt sao? Điều này nghe cũng có mấy phần đáng tin, với tính cách của Dương Hổ quyết không lý nào lại một mình bỏ chạy, mà nếu gã không bị thương, dựa vào võ công của quan binh muốn bắt được gã thì chẳng phải chuyện dễ dàng gì.
Hồng Nương Tử nhìn Dương Lăng vẻ bán tín bán nghi, cười lạnh một tiếng nói:
- Được, ta tạm thời tin ngươi, ngươi sống hay chết phải xem xem Dương Hổ giờ đây sống hay chết. Nếu để ta biết tin chàng đã không còn sống trên đời, ta sẽ dùng cái đầu ngươi để tế vong hồn của trượng phu ta!
Thôi Oanh Nhi đột nhiên thu kiếm lại, dùng cán kiếm vén rèm cửa sổ xe lên, đưa mắt nhìn ra bên ngoài một chút, sau đó bèn thay quần áo ngay trước mặt Dương Lăng, mặc vào một bộ quần áo bình thường, dáng vẻ thản nhiên như thể Dương Lăng là một người chết vậy.
Thứ nàng mặc bên trong tuy không phải quần áo lót, nhưng vì nàng eo thon ngực nở, chân dài mông cong, vóc dáng quyến rũ vô cùng, trong khoang xe lại chật hẹp, thỉnh thoảng có va chạm là lại một phen diễm phúc, nhưng rốt cuộc lại làm cho Dương Lăng thấy thiếu tự nhiên, ngoảnh đầu qua hướng khác.
Hồng Nương Tử nhanh chóng thay xong quần áo, đoạn yêu kiều quát bảo:
- Dừng xe!
Xe ngựa dừng lại, Hồng Nương Tử đưa tay chụp lấy cánh tay Dương Lăng, hệt như một chiếc vòng sắt quấn vào, khiến cho Dương Lăng chẳng thể giãy giụa. Hồng Nương Tử lạnh lùng quát:
- Xuống xe!
Nàng kéo Dương Lăng xuống xe, ngồi bên ngoài đánh xe là một đại hán râu quan nón mặc áo đay, Hồng Nương Tử nói:
- Hồ lão tứ, ra ngoài thành rồi hãy đánh xe đi một mạch về hướng bắc, sau đêm nay hãy tạm thời tránh đi, đợi khi gió yên sóng lặng thì trở về sơn môn.
Hồ lão tứ đó vốn là một đại đạo độc hành, sau bị Dương Hổ thu phục về rồi kết nghĩa huynh đệ, cái trò một mình đi lại giữa sự bao vây của quan phủ này trải qua đã nhiều, đối với tương lai nguy hiểm trước mắt căn bản chẳng để tâm là mấy, vẫn thản nhiên cất tiếng cười vang:
- Tẩu tẩu yên tâm, huynh đệ đi đây, tẩu tẩu nhớ bảo trọng!
Dứt lời bèn nhìn Dương Lăng cười gằn một tiếng, vung roi quất ngựa rời đi.
Dương Lăng có chút bất ngờ, nghĩ bụng: “Hồng Nương Tử chỉ là một đại đạo lục lâm, trong kinh sư này cũng có chỗ ở bí mật sao? Mình vừa bị bắt, ắt đang được tìm kiếm khắp toàn thành, nếu ở tại khách điếm hay gia đình bình thường nào đó, nàng ta làm sao đảm bảo rằng không bị phát hiện đây?”
Con hẻm này có chút vắng vẻ, đằng xa thỉnh thoảng mới có vài bóng người qua lại, Hồng Nương Tử thúc cán kiếm vào eo lưng Dương Lăng, thấp giọng nói: “Chớ có lên tiếng, đi theo ta! Nếu dám giở trò, ta sẽ cho ngươi đầu rơi xuống đất.” Nói xong bèn đưa tay đẩy Dương Lăng, ép y đi vào trong con hẻm âm u.
Kinh sư phân làm bốn lớp là cung thành, hoàng thành, nội thành và ngoại thành, nơi này đã là ngoại thành, không được xây dựng tường thành, nhưng vẫn thuộc vào phạm vi kinh sư. Nhân khẩu cư trú ở đây khá ít, đi ra khỏi con hẻm là một mảnh đất hoang vu, đi tiếp về phía trước nữa thì là một đạo quán còn chưa được xây dựng xong.
Trong đạo quán Lưu lão đạo đang rì rầm nói chuyện riêng với Thúy Nhi. Lưu lão đại đưa mắt nhìn mấy tên sơn tặc đang ôm vũ khí đi qua đi lại trước mắt, ngồi dựa vào hương án thấp giọng nói:
- Thật là thất sách, ta trù tính để nàng ra tay trước, chính là muốn nàng một kiếm lấy mạng gã họ Dương kia luôn, ai ngờ hắn thật quá giảo hoạt, còn chơi trò giấu thêm người trong kiệu, không biết giờ Hồng Nương Tử đã đắc thủ chưa?
Thúy Nhi cũng thấp giọng nói:
- Dương Hổ rất có uy vọng trong giới lục lâm phương bắc, hô một tiếng ắt có vô số người theo, có thể giúp ích rất nhiều cho đại kế của giáo chủ. Nếu Hồng Nương Tử thật sự có thể dùng hắn đổi về Dương Hổ, tính ra lại càng có lợi cho chúng ta, giết một tên thủ lĩnh Nội xưởng thì có lợi gì cho đại cuộc chứ?
Lưu lão đạo khẽ hừ một tiếng:
- Dương Hổ là sống hay chết vẫn còn chưa biết, nếu còn sống thì liệu có thật sự đã rơi vào tay quan phủ hay không cũng chưa biết. Quan phủ liệu có chịu bất chấp thể diện mà trao đổi con tin với đạo tặc không cũng vẫn chưa biết. Chúng ta đi theo ả mạo hiểm như vậy, còn cống hiến luôn cả hương đàn bí mật vẫn chưa hoàn thành này của bản giáo ra, nếu không có chút thu hoạch nào, biết ăn nói ra sao với giáo chủ đây?
Rồi lão lại thấp giọng:
- Ta đã an bài nhân thủ đi thăm dò tin tức chuẩn xác trong cung và trong nha môn. Nếu Dương Hổ căn bản không ở trong tay quan phủ, vậy thì cứ giết Dương Lăng, sau đó tạm tránh trong địa cung vài ngày, đợi phong ba lắng xuống một chút rồi sẽ rời đi.
Thúy Nhi cười phì một tiếng nói:
- Việc này không cần ông lo, nếu Hồng Nương Tử thả Dương Lăng đi thì biết ăn nói thế nào với các huynh đệ của trượng phu chứ? Hơn nữa mấy kẻ bên cạnh chúng ta hiện giờ đều là bè lũ với hai trăm tên đại đạo kia, hận Dương Lăng đến thấu xương. Bất luận Dương Hổ còn sống hay đã chết, Dương Lăng đều đừng hòng còn sống mà rời đi được.
Hai người đang nói chuyện, ngoài cửa chợt vang lên mấy tiếng động nhỏ, mấy người trong điện vội cầm binh khí lặng lẽ nấp vào hai bên cửa điện, phía xa có một âm thanh khe khẽ vang lên:
- Đừng lo, là đại tẩu trở về rồi.
Đám người trong điện mừng rỡ vô cùng, vội vàng bước ra nghênh đón, Lưu lão đạo và Thúy Nhi đưa mắt nhìn nhau, cũng vội bước ra theo.
Hồng Nương Tử và Dương Lăng bước vào trong điện dưới sự vây quanh của mấy hán tử tay cầm đao kiếm, trong điện không thắp đèn, bởi vì trời lạnh, mái điện lợp được một nửa thì tạm dừng, ánh trăng ánh sao từ trên trời chiếu xuống, khung cảnh cũng có thể nhìn thấy khá rõ ràng.
Hồng Nương Tử hạ giọng nói:
- Các huynh đệ đã an toàn trở về hết chưa?
Một tên đại đạo nói:
- Ba Lục Tử bị giết ở đó rồi, các huynh đệ khác đều không sao.
Nói rồi đá mạnh Dương Lăng một cái, cất tiếng mắng chửi:
- Cẩu quan, nhất định phải bắt ngươi đền mạng cho các huynh đệ!
Hồng Nương Tử lạnh lùng quát một tiếng:
- Dừng tay, Hổ ca của ngươi còn ở trong tay quan phủ, người này còn có tác dụng.
Lưu lão đạo thò đầu nhìn ra bên ngoài một chút, sau đó co đầu lại nói:
- Tốt rồi, người đã bắt được rồi, mọi người cũng an toàn trở về rồi, mau tránh vào trong mật thất đi, cẩn thận đừng để lộ hành tung!
Lão rón ra rón rén đi đến bên cạnh hương án, mày mò trên nền đá một hồi, đẩy một phiến đá ra, để lộ ra một cửa hang động tối thui. Có người đánh lửa lên, dẫn tất cả mọi người tránh vào trong mật thất dưới lòng đất đó.
Công trình trên mặt đất còn chưa hoàn thành, phía dưới này cũng rất sơ sài đơn giản, chỉ có ba căn phòng đá trống không, mấy bức tường đều lạnh ngắt. Có điều những người này đã quyết ý tạm lánh ở đây, đã chuẩn bị sẵn nước uống đồ ăn và đuốc thắp. Lúc này ngọn đuốc được thắp lên, chiếu sáng mọi thứ.
Hồng Nương Tử nhìn Dương Lăng bị hai tên đại đạo áp giải vào trong một căn phòng đá, xoay người lại cười nói với Lưu lão đạo:
- Tiên sinh đúng là thần cơ diệu toán! Thảo nào lại cứ phải để Thúy Nhi động thủ trước, hóa ra trong kiệu của Dương Lăng còn có cao thủ mai phục, nếu không nhờ tiên sinh dùng kế, chúng ta cứ thế xông lên để lộ hành tung, ắt khó mà bắt được Dương Lăng.
Lưu lão đạo ngẩn ra một chút, cười khan hai tiếng nói:
- Điều này… Khụ khụ, có tin tức gì của thủ lĩnh không?
Thôi Oanh Nhi vừa biết tin trượng phu bình yên vô sự, bèn vui vẻ kể lại:
- Vừa rồi hắn khai nhận rằng đã bắt được Hổ ca, Hổ ca hiện giờ chỉ bị thương, không có nỗi lo về tính mạng. Hôm nay sắc trời đã tối, đi lại trong thành hết sức khó khăn, tiên sinh có văn thư thông hành trong người, hẳn không bị kẻ khác hoài nghi. Ngày mai còn phiền tiên sinh đến đưa cho quan phủ một bức thư mật, yêu cầu đổi tên cẩu quan này lấy Hổ ca.
Lúc này từ trong căn phòng trống trải phía bên kia chợt vang tới mấy tiếng kêu lớn, Thôi Oanh Nhi lập tức đứng dậy chạy qua, thấy hai tên đại đạo kia đang muốn dùng hình với Dương Lăng, lập tức quát bảo:
- Các ngươi làm gì đấy?
Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 180 - Lại sinh thêm chuyện
Vừa nhìn tình hình liền hiểu rõ mọi chuyện, Hồng Nương Tử lạnh lùng quát:
- Bỏ hắn ra, các ngươi ra ngoài!
Tuy hận Dương Lăng đến thấu xương nhưng dưới uy thế của Dương Khóa Hổ, hai gã đại đạo cũng không dám phát tác bừa bãi. Dù sao Dương Lăng cũng đã rơi vào trong tay rồi, chẳng sợ y trốn đi đâu được, hai gã bèn nhổ một bãi nước bọt về phía Dương Lăng, khẽ ôm quyền chào Hồng Nương Tử rồi bước ra ngoài.
Dương Lăng ôm ngực thở dốc, chậm chạm đứng dậy. Hồng Nương Tử hờ hững đưa mắt nhìn y, đoạn xoay người bước ra ngoài. Một lát sau nàng quay trở lại, đưa cho y một túi nước sạch và hai chiếc màn thầu, ôm bảo kiếm ngồi dựa vào vách đá, bảo:
- Ta ở đây trông coi ngươi, ăn xong rồi nghỉ ngơi đi. Ngày mai ngươi hãy tự tay viết một phong thư gửi đến quan phủ yêu cầu đổi người, ta đảm bảo cái mạng chó của ngươi sẽ giữ được.
Dương Hổ sớm đã trốn thoát mất rồi, nếu để nàng biết sự thật liệu mình còn sống được ư? Dương Lăng nhất thời chẳng có cách nào khác, đành cầm lấy túi nước và bánh màn thầu, ngồi xuống dựa lưng vào vách đá đối diện với nàng, khẽ thở dài:
- Lần đầu gặp mặt, phu nhân đang bỏ tiền mua lương thực cứu tế nạn dân, một lòng nhân từ, khá có tác phong hiệp nghĩa. Dương mỗ tuy thân ở triều đình, nhưng tự hỏi chưa từng làm chuyện gì có lỗi với trăm họ, cớ sao các vị lại muốn dồn ta vào chỗ chết vậy?
Y định nhắc tới chuyện ở hầm sưởi nhưng lại sợ cô ả này thẹn quá hóa giận khiến mình sẽ phải chịu thêm khổ sở, lời nói đã đến miệng đành nuốt trở về. Thôi Oanh Nhi cũng hơi nghẹn họng, nàng khựng lại một hồi rồi cười lạnh đáp:
- Ta cứu tế nạn dân là vì bản thân ta cũng là người cùng khổ, biết rõ nỗi khổ sở khi phải chịu đói chịu rét. Bọn ta không chỉ muốn giết ngươi mà còn muốn giết tất cả đám quan lại, lật đổ cái thiên hạ hại người này, xây dựng một triều đại mới.
Dương Lăng thở dài thườn thượt, nói:
- Cô cứu tế nạn dân cũng chỉ có thể cho bọn họ ăn no một bữa cơm. Thiên tai nhân họa không ngừng, trăm họ bữa nào cũng cần ăn, cô có bao nhiêu tiền bạc để mua sắm lương thực chứ? Đợi đến lúc kho lương của quan phủ cũng bị ăn hết cả rồi, cô kêu trăm họ trong thiên hạ phải ăn cái gì đây? Cô chỉ giúp được bọn họ nhất thời, còn ta đưa những thứ cây trồng từ nước ngoài về lại là kế sách dài lâu.
Đừng tưởng rằng chỉ có cô mới xót thương trăm họ! Thiên hạ hiện nay tuy có nhiều tệ nạn, nhưng triều đình không hề thối nát, các quan viên cũng có rất nhiều người thương dân như con. Cô muốn lập triều đình mới, vậy phải đánh bao nhiêu trận, chết bao nhiêu người đây? Đánh cho thiên hạ này trở nên tan nát, phá xong lại lập, nhưng sao bằng ủng hộ các đại thần thanh liêm chính trực trong triều, canh tân cải cách, trừ bỏ lũ tham quan ô lại để trăm họ được ăn no, được mặc ấm, có đất cày? Hơn nữa, chỉ dựa vào các người mà có thể lật đổ được thiên hạ này sao?
Hồng Nương Tử ngạo nghễ đáp:
- Quan binh giỏi lắm hay sao? Sơn trại của bọn ta bị tiễu trừ biết bao nhiêu lần rồi, đám quan binh đó có làm gì được bọn ta? Nếu nhân mã của tất cả các sơn trại tập hợp lại, chắc chắn sẽ là một đội tinh binh vượt hẳn quân đội triều đình. Muốn lấy thiên hạ, có gì là khó chứ?
Dương Lăng cười lạnh:
- Mơ tưởng hão huyền!
Thôi Oanh Nhi trừng mắt, Dương Lăng vội vã nói tiếp:
- Các người dựa vào địa lợi, quan binh tới tiễu trừ thì nấp vào trong núi sâu nên có thể an toàn thoát khỏi tay quan binh mà không tổn thất gì. Nhưng như thế mà cho rằng có thể đối phó với thiên quân vạn mã của triều đình sao?
Cô vào nam ra bắc, thấy nhiều hiểu rộng, phải biết rằng hoàng thất Đại Minh chính thống mang họ Chu, trong thiên hạ người tin phục nhiều vô số kể. Khi các người chỉ làm đại vương trên núi thì tưởng rằng điều này chẳng quan trọng gì, nhưng một khi thật sự muốn khởi binh tạo phản, liệu có bao nhiêu người tin phục mà đi theo đây? Còn bốn chữ Đại Minh chính thống kia thì lại có thể biến thành lương thảo, tiền tài, đao thương và binh sỹ, biến thành những lực lượng thật sự.
Thôi Oanh Nhi cười lạnh không đáp, Dương Lăng lại lấy can đảm nói tiếp:
- Cô nói là muốn lật đổ triều đình, thành lập một triều đình mới phải không? Được, ta hỏi cô, nếu Hồng Nương Tử cô là chủ nhân của thiên hạ, cô định tạo phúc cho nhân dân trăm họ bằng cách nào đây?
Hai mắt sáng rực, Hồng Nương Tử buột miệng đáp:
- Đương nhiên là hủy bỏ những thứ sưu thuế đáng chết kia, không bắt trăm họ ở Hà Nam, Hà Bắc phải nuôi ngựa cho triều đình để rồi nhà tan cửa nát nữa, để trăm họ được sống cuộc sống yên lành, có cơm ăn, còn có thịt ăn, có quần áo mặc, không phải chịu đói chịu rét. Bản thân ta phải chịu khổ đã nhiều, ắt không bạc đãi nhân dân trăm họ.
Dương Lăng cười nhạt không ngớt. Thôi Oanh Nhi đỏ bừng mặt ngọc, lúng túng quát bảo:
- Ngươi cười cái gì? Ta nói sai cái gì sao?
Dương Lăng gật đầu đáp:
- Đúng, đều đúng hết! Vậy để ta hỏi cô, năm nay Hà Nam lũ lụt, Thiểm Tây hạn hán, Sơn Đông bị nạn châu chấu ngợp trời, còn Thổ Dao làm loạn suốt một dải Miêu Sơn. Cô hủy bỏ sưu thuế, vậy lấy cái gì để nuôi dưỡng quân đội của cô, nuôi dưỡng những quan viên trong triều đình của cô, lấy cái gì để cứu tế cho những người dân sắp chết đói? Trong cơn thiên tai nhân họa, lương thực chỉ thu hoạch được không tới ba phần mười, cô làm thế nào để nhân dân trăm họ không phải lo về cơm ăn áo mặc đây?
Thôi Oanh Nhi hơi ngẩn người. Xưa này nàng chỉ oán hận quan phủ vô dụng bất tài nên muốn giành lấy giang sơn để mọi người dân đều được sống những ngày tốt đẹp, thực chưa từng nghĩ tới những điều này. Nàng cắn chặt môi, đáp:
- Những tên phú hào địa chủ đó đều có đất đai vạn khoảnh, dù gặp năm thiên tai trong nhà cũng ăn đủ mặc đầy. Ta có thể để trăm họ ăn lương thực của những kẻ đó, dù sao cũng không thể đến nỗi phải chết đói.
Dương Lăng lắc đầu:
- Khi đó những người phú hào kia cũng là con dân của cô, tài sản đất đai của bọn họ đều phải qua bao nhiêu đời mới tích cóp được, cô muốn ép bọn họ phải tạo phản sao? Hơn nữa số phú hào trong thiên hạ thực chẳng có tới một phần mười, tiền tài tụ tập trong tay một số ít người bọn họ thì coi như là giàu đến chảy mỡ, nhưng sau khi chia ra cho trăm họ thì chẳng qua mỗi người cũng chỉ có bát cháo mà ăn. Triều đình dẫn trăm họ đi ăn lương thực của nhà giàu, đây chính là cách của cô sao?
Cô lại nói đến việc hủy bỏ mã chính (Chính sách bắt buộc người dân phải nuôi ngựa cho nhà nước - ND), không sai, ta cũng từng nghe nói việc quan phủ hà khắc, ép cho trăm họ khổ sở vô cùng, điều này triều đình cần phải sửa đổi từng chút một, nhưng chẳng lẽ không nuôi ngựa nữa lại là phương cách tốt hay sao? Hiện nay giặc Thát đang xâm phạm biên cảnh, thiết kỵ của giặc có tới mấy vạn, nếu không có kỵ binh, cô dựa vào cái gì để bảo vệ giang sơn và trăm họ? Giặc Thát tới rồi, sự tàn độc của chúng còn chẳng hơn sưu thuế cả trăm lần ư?
Nơi duyên hải giặc Oa làm loạn, có cần đóng thuyền không? Có cần huấn luyện thủy quân không? Chặt cây, đóng thuyền cần dùng đến lao dịch, nuôi binh luyện binh cần thu sưu thuế, đóng thuyền may áo giáp chỗ nào cũng cần phải bỏ tiền. Trong lòng cô chỉ nghĩ cần đối xử tốt với trăm họ, nhưng cô có làm được không?
Hồng Nương Tử nghe mà mặt mũi tái hẳn đi, Dương Lăng lại tiếp tục tàn phá sự tự tin của nàng, chẳng hề lưu tình:
- Sưu thuế, nuôi ngựa không thể không cần, nhưng phải xem thi hành thế nào. Quan lại, đồn điền không thể không sửa, nhưng phải xem sửa như thế nào. Quản lý hành chính, xử lý sưu thuế các người có hiểu không? Các người chỉ biết phá hoại, không biết xây dựng!
Hồng Nương Tử không kìm được, quát:
- Câm miệng! Mặc cho ngươi ngụy biện thế nào, Chu Hồng Vũ kia vẫn có xuất thân như thế, chẳng phải y cũng trị được thiên hạ đó sao?
Dương Lăng ung dung đáp:
-Hoàng đế Hồng Vũ xuất thân thấp kém nhưng chẳng phải là hạng võ phu bất học vô thuật, hơn nữa ông ta nổi lên chống lại nhà Nguyên tàn bạo, bên cạnh có biết bao người tài trí giúp đỡ chứ? Còn cô thì sao? Chắc cô cũng biết trái tim người đọc sách trong thiên hạ đứng về bên nào phải không?
Nếu thật sự làm phản, các người chẳng qua là từ sơn tặc biến thành giặc cỏ, theo sóng gió mà nổi lên rồi lại theo sóng gió mà chìm xuống. Một trăm năm sau, người đời có nhắc đến các người cũng chẳng qua chỉ là nhắc đến một đám thổ phỉ gây họa một thời, khiến cho thiên hạ máu chảy thành sông, chẳng giúp ích gì cho nhân dân trăm họ. Nếu các người có con cháu, ắt bọn chúng cũng cảm thấy xấu hổ thay cho các người…
Một hơi của Dương Lăng còn chưa nói hết, đã nghe “keng” một tiếng vang lên lanh lảnh, ánh sáng tỏa ra lạnh ngắt. Thanh đoản kiếm đã kề sát vào cổ y, khiến cho y bất giác run rẩy từng hồi. Thoạt đầu Dương Lăng hơi hoảng loạn, nhưng ngay sau đó y dần bình tĩnh, thản nhiên đưa mắt nhìn Hồng Nương Tử.
Trong thạch thất nhất thời trở nên tĩnh lặng, chỉ nghe thấy tiếng hô hấp của hai người. Một hồi lâu sau Hồng Nương Tử mới lạnh lùng nói:
- Ta biết ngươi đọc sách nhiều, đừng có hòng khoe chữ với ta! Ta chỉ biết cả nhà ta đều bị quan phủ ép phải lên núi làm giặc, chỉ biết trăm họ ở Bá Châu và vô số nơi khác còn đang bị quan phủ áp bức thậm tệ, ăn bước trước phải lo bữa sau, do đó… bọn ta muốn làm phản!
Nàng nói xong bèn thu kiếm lại, “cạch” một tiếng đút kiếm vào vỏ, rồi dựa đầu vào vách đá, khép hờ hai mắt đe:
- Đừng có nghĩ đến chuyện bỏ trốn! Ngoan ngoãn nghỉ ngơi đi, nếu còn nhiều lời nữa ta sẽ cắt cái lưỡi của ngươi xuống!
Dương Lăng thấy khuôn mặt nàng thoáng co giật, hiển nhiên đang cố gắng đè nén lửa giận nên y cũng không tiện nói tiếp nữa mà ngồi ngây một hồi. Y vẫn chưa nghĩ được nếu ngày mai Hồng Nương Tử mang y đi trao đổi với Dương Hổ, y phải làm thế nào mới thoát thân được đây?
Dương Lăng trầm tư hồi lâu, thầm nghĩ mấy người Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận đều đa mưu túc kế, trong triều cũng có không ít bậc tài năng. Ngày mai đưa bức thư trao đổi con tin đến chỗ bọn họ, ắt bọn họ không ngu xuẩn đến mức nói với đạo tặc rằng không có người để trao đổi. Hiện giờ chỉ đành đi bước nào tính bước đó thôi, chờ có cơ hội rồi thoát thân.
Y thở dài một hơi, cảm thấy trong bụng đã hơi đói, bèn vừa uống nước vừa ăn một chiếc màn thầu, sau đó dựa vào vách đá nhắm mắt giả vờ ngủ. Chốc lát sau, ngọn đuốc trên vách đá yếu dần đi, cuối cùng tắt hẳn.
Dương Lăng cũng bắt đầu cảm thấy hơi buồn ngủ, chỉ là y chưa từng ngủ trên nền đá cứng ngắt lạnh băng thế này nên nhất thời khó mà ngủ được. Trong phòng tĩnh lặng như tờ, Dương Lăng cứ lặng lẽ ngồi dựa vào vách đá, thầm suy nghĩ đối sách. Chợt y phát giác phía đối diện phát ra những tiếng sột soạt, dường như nàng đang trằn trọc chuyển mình không ngủ được, thỉnh thoảng còn xen lẫn những tiếng thở dài. Xem ra những lời vừa rồi của Dương Lăng nàng vẫn nghe lọt vào tai.
***
Dưới lòng đất chẳng biết trời đã sáng hay còn tối, nhưng thời gian tới là tự nhiên tỉnh dậy, trong phòng lại được thắp lên một ngọn đuốc, người canh gác bên ngoài lẳng lặng đi vào, theo sau là Lưu lão đạo. Hóa ra đêm qua lão ta không hề nghỉ lại đây, khi trời vừa sáng mới từ chỗ ở của một tín đồ bí mật khác trở về.
Hồng Nương Tử và Thúy Nhi vội bước lên nghênh đón. Hồng Nương Tử hỏi:
- Lưu tiên sinh, tình hình bên ngoài hiện giờ thế nào?
Lưu lão đạo cười khổ:
- Quan binh kiếm chuyện một hồi lâu rồi cũng dừng lại, nhưng nội thành hiện đã giới nghiêm, mọi con đường xung quanh kinh sư đều đặt trạm gác. Vào thành không bị ngăn trở nhưng người ra ngoài thành nhất định phải có giấy thông hành của quan phủ, tất cả mọi xe ngựa hàng hóa đều bị kiểm tra, ngay đến một con ruồi cũng không thoát ra ngoài được. Những người từ ngoại ô vào thành nếu không có giấy thông hành thì phải đến quan phủ đăng ký, có người nhà đảm bảo mới được ra ngoài.
Hồng Nương Tử biến sắc:
- Ồn ào đến vậy hay sao? Lưu tiên sinh có bị người ta chú ý đến không?
Lưu lão đạo đáp:
- Còn may ta là một đạo nhân vân du bốn bể, theo giấy thông hành thì ta là người từ phương nam tới nên rất ít bị hiềm nghi; hơn nữa ta chỉ đi lại trong thành không hề xuất kinh, do đó kiểm tra một phen rồi cũng không sao. Chỉ là… lần này lộ tẩy, cơ nghiệp do chúng ta vất vả đánh hạ ở một dải Bá Châu e là sẽ bị hủy trong một sớm một chiều thôi.
Hồng Nương Tử không đồng tình:
- Sợ cái gì chứ? Núi xanh còn đó, lo gì không có củi đun? Huống chi tổng trại sớm đã di dời khỏi Bá Châu. Ta sẽ lập tức kêu Dương Lăng tự tay viết một bức thư, chỉ cần bọn chúng đồng ý đổi người, chúng ta sẽ dùng tính mạng con tin uy hiếp bọn chúng để rời thành. Trao đổi người ở chỗ Phong Đài xong, dựa vào khoái mã đã được chuẩn bị sẵn và thuật cưỡi ngựa của chúng ta, một khi ra khỏi kinh sư là sẽ không kẻ nào chặn được.
Mấy tên đại đạo bên cạnh nghe nói đại ca sắp được cứu ra, không kìm được đều xoa tay nắn chân rất mực hưng phấn. Lưu lão đạo thường mang theo cây phướn, lấy việc đoán chữ đoán mệnh làm vỏ bọc, bút mực giấy nghiên luôn có sẵn trên người, bèn lấy từ trong ruột tượng ra giao Hồng Nương Tử đưa vào để Dương Lăng viết thư.
Dương Lăng do dự một hồi mới cầm bút viết một bức thư. Cũng coi như y rất biết điều, trong thư không dám ám chỉ vị trí của mình hiện tại chút nào. Thực tế y cũng chẳng quen thuộc thành Bắc Kinh cho lắm nên ngoài việc biết nơi này nằm phía dưới một đạo quán còn chưa được xây dựng xong, y cũng chẳng biết hiện mình đang ở đâu.
Trong thư Dương Lăng nói rõ mình đã bị bắt làm con tin, kẻ xấu yêu cầu trao đổi mình với Dương Hổ. Y lại nhắc người đọc được thư này mau dâng lên Hoàng thượng, nếu Hoàng thượng cho phép hãy đến chỗ Cẩm Y vệ đưa đại đạo Dương Hổ bị nhốt trong đại lao ra, lại dựa theo yêu cầu của đối phương mà mang đến địa điểm chỉ định. Để cho chân thực, y còn cởi ngọc bội tùy thân ra làm tín vật.
Phong thư đã chỉ ra một cách rõ ràng địa điểm mà Dương Hổ bị bắt nhốt. Cho dù người trong quan phủ đọc được thư này là kẻ ngốc đi chăng nữa hẳn cũng không đến nổi không hiểu được ý của y.
Có điều hiện giờ là thời đại vũ khí lạnh, đám đạo tặc chỉ cần có võ nghệ cao cường, thuật cưỡi ngựa tinh thông là có thể dễ dàng thoát thân khỏi tay quan binh. Huống chi khi hai bên trao đổi con tin, ắt bọn chúng không cho phép quan binh phái ra quá nhiều người, như vậy hai bên cùng lắm cũng chỉ có thể trao đổi người khi cách nhau hai ba mươi trượng, Dương Lăng chẳng lạc quan chút nào về việc mình có thể thoát khỏi tay đối phương.
Nếu quan phủ định dùng kẻ giả mạo để trao đổi, đám đại đạo Bá Châu chẳng có lý nào lại không kiểm tra, hơn nữa Hồng Nương Tử còn là người chung chăn gối với Dương Hổ, chỉ cần nàng nhìn dáng người cũng đoán được sáu bảy phần rồi. Dù quan phủ có hiểu được sự ám thị của mình thì việc cứu mình thoát thân vẫn là một vấn đề khó khăn.
Hồng Nương Tử đứng một bên nhìn y chằm chằm . Dương Lăng cũng chẳng thể nghĩ nhiều, chỉ đành bấm bụm viết thư xong giao cho Hồng Nương Tử; chỉ mong triều đình có người tài nghĩ ra kế hoạch nào đó có thể gạt được đám lục lâm này.
Hồng Nương Tử đón lấy bức thư cùng ngọc bội, kêu hai người đến trông coi Dương Lăng, còn chính mình thì vội vã đi ra ngoài đưa thư cho Lưu lão đạo. Lưu lão đạo năm lần bảy lượt đọc thật kỹ bức thư dưới ánh đuốc, xác thực không có ẩn ý gì, nhìn ngang nhìn dọc đều không thấy huyền cơ, mới yên tâm nhét bức thư vào trong chiếc dây lưng dưới tấm đạo bào, rồi bảo:
- Các cô ăn chút gì đó rồi cứ chờ ở đây, đợi ta đến Ngũ Thành Binh Mã ti tìm cơ hội chuyển bức thư này cho quan phủ.
Lưu lão đạo vội vã ra khỏi địa đạo, đóng chặt cửa động lại rồi lặng lẽ rời đi. Một gã đại đạo mặt mũi dữ dằn đứng bên cạnh Hồng Nương Tử lạnh lùng đưa mắt nhìn căn phòng nhốt Dương Lăng, khẽ nói với Hồng Nương Tử:
- Tẩu tẩu, đợi sau khi cứu được đại ca ra, chúng ta cứ giết luôn tên tiểu tử này rồi hẵng bỏ trốn. Ra khỏi kinh thành rồi thì chúng ta như là mãnh hổ về núi, giao long xuống nước, đừng hòng có ai làm gì được chúng ta nữa.
Hồng Nương Tử hơi khựng người, do dự:
- Nói bậy! Phía chúng ta động thủ vậy bên quan binh sẽ không động thủ ư? Hôm nay có thể cứu được Hổ ca của ngươi về là được rồi, đừng để sinh thêm chuyện phiền toái!
Một tên đại hán đầu trọc mặt rỗ lỗ chỗ, nhìn rất ghê người gằn giọng đáp:
- Đại tẩu yên tâm! Chúng ta không động thủ chẳng lẽ quan binh lại chịu trơ mắt nhìn chúng ta đi ư? Tụ tiễn (
ám tiễn giấu trong tay áo - ND
) tẩm độc của Hồ Đại Chùy này trong vòng mười trượng chính là thiếp mời của diêm vương. Hổ ca thành thạo Địa Tranh quyền (
một môn quyền thuật Trung Quốc, các động tác chủ yếu được thực hiện khi bò rạp hay lăn lộn dưới đất - ND
), đến lúc đó chỉ cần tiểu đệ hô lên một tiếng, huynh ấy bò rạp xuống đất mà chạy ra, sẽ không có chuyện gì đâu. Chẳng lẽ chúng ta còn phải nói chuyện tín nghĩa với quan binh hay sao chứ?
Trong lòng Hồng Nương Tử hơi loạn. Những lời Dương Lăng nói đêm qua đã lưu lại một dấu ấn rất sâu trong lòng nàng, quả thật nàng muốn cứu trượng phu ra rồi thảo luận kỹ lưỡng với hắn một phen. Còn đối với Dương Lăng thì quả thực nàng chẳng thể sinh ra chút sát tâm nào cả.
Thúy Nhi ở bên cạnh nhìn rõ vẻ mặt Hồng Nương Tử, bèn lựa lúc mà chen vào:
- Tiểu thư! Lời của Hồ đại ca đúng lắm, cô gia với các huynh đệ tình như thủ túc, lần này có tới gần hai trăm huynh đệ thân cận nhất đã mất mạng trong tay Dương Lăng. Với tính cách hiệp nghĩa của cô gia, món huyết hải thâm thù này sao có thể bỏ qua được chứ?
Nếu để tên cẩu quan đó an toàn quay về, ngày sau ắt sẽ phòng bị nghiêm ngặt, cô gia muốn báo thù há chẳng phải hung hiểm muôn phần hay sao? Chúng ta cứ tiện tay kết liễu luôn cái mạng chó của y, vừa hay có thể báo thù cho các huynh đệ vừa bị giết, khi trở lại sơn môn cũng tiện ăn nói, lại tránh cho cô gia một lần nữa dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Mấy tên đại đạo nghe thế đều gật đầu lia lịa, nhất tề đưa mắt nhìn Hồng Nương Tử. Hồng Nương Tử lòng rối như tơ vò, suy nghĩ suốt hồi lâu mới giẫm mạnh chân, cắn răng quyết:
- Được rồi! Nếu vậy ta nghe theo lời các ngươi. Có điều nhất định phải hết sức cẩn thận, lấy sự an nguy của Hổ ca làm đầu!
Mấy tên đại đạo đồng loạt gật đầu đáp:
- Đại tẩu yên tâm, điều này thì bọn đệ hiểu!
Thúy Nhi thấy thế thì khẽ mỉm cười, một tia đắc ý thoáng qua trong đáy mắt.
***
Đường xá chốn kinh sư vẫn phồn hoa như cũ nhưng lại tràn ngập không khí căng thẳng, tất cả mọi cửa thành đều gươm giáo như rừng, phòng bị nghiêm ngặt. Bởi vì việc kiểm tra diễn ra rất chậm nên người ra vào thành đều phải xếp thành một hàng rất dài.
Trên đường lớn của kinh sư, không khí hoan hỉ chuẩn bị đón ngày đầu năm đã nhạt đi không ít, từng đội quan binh của Kinh doanh và lính đi tuần liên tục qua lại, tất cả các nha môn và nơi ở của quan viên đều được bố trí trọng binh canh gác kỹ càng. Các vị đại thần thường ngày chỉ đi xe nhẹ và dẫn theo vài tên tùy tùng, nay đều có mấy chục gia tướng tiền hô hậu ủng, còn những quan viên không có cái thực lực ấy thì liền dứt khoát chẳng ra ngoài.
Không khí căng thẳng như vậy quả thực chưa từng xuất hiện tại chốn kinh sư. Bởi việc xuất nhập không tiện, rất nhiều hàng hóa dịp tết chẳng thể đưa được vào thành, dẫn đến việc vật giá tăng cao. Có tin nếu không tìm được Dương xưởng đốc thì lệnh cấm thành sẽ không được hủy bỏ sớm, do đó mọi người dân đều lo vật giá sẽ tăng thêm nên đành liều mình chịu rét mà ra phố mua sắm đồ tết.
Lưu lão đạo giơ cao cây phướn liêu xiêu bước đi trên đường. Quan binh đi ngang chỉ cho rằng lão là một lão đạo còm nhom dáng vẻ bình thường, đang nhòm đông ngó tây kiếm mối làm ăn, nên chỉ liếc nhìn qua rồi không chú tâm đến nữa.
Lưu lão đạo chậm rãi bước tới trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti, rồi đi vào trong một con hẻm nhỏ ngay bên hông nha môn. Khi sắp đi tới đầu hẻm, lão bèn giả vờ đặt cây phướn xuống nghỉ ngơi. Sau đó lão nhặt một hòn đá lên, móc phong thư trong thắt lưng ra, quấn vải bọc chung thư vào với hòn đá. Thừa dịp mọi người không chú ý, lão ném mạnh viên đá cùng bức thư qua bức tường rồi vác phướn vội vã rời khỏi.
Người của Binh Mã ty không thể làm chủ việc này, nên bức thư cứ thế được trình dần lên, nhanh nhất cũng phải đến trưa mới có trả lời. Nếu triều đình đồng ý đổi người, ắt sẽ lưu lại ký hiệu dễ thấy ở tòa nhà mà lão chỉ định. Đến lúc đó lão lại tìm một nha môn khác để ném thư, đưa ra yêu cầu tiếp theo là được.
Đường Xưởng Điện có rất nhiều cửa tiệm nhỏ, là một con đường khá phồn hoa. Lưu lão đạo bỏ ra một văn tiền thuê một chiếc bàn của quầy hoành thánh để tự mở quán riêng, nhởn nha chờ khách tới. Hôm nay người có tâm tư xem bói không nhiều, không những chẳng có ai ghé thăm mà ngay cả đến liếc mắt nhìn qua cũng chẳng có hứng thú. Lưu lão đạo chẳng hề để tâm, lão chỉ nheo mắt quan sát mặt trời ước lượng thời gian. Đang lúc lão chuẩn bị dọn quán tìm chỗ ăn trưa, một thiếu niên mặt mũi thanh tú bộ dạng như kẻ hầu đã đứng trước quán của lão ta.
Lưu lão đạo hờ hững liếc mắt nhìn gã, vuốt râu cười hỏi:
- Tiểu ca muốn đoán chữ hay đoán mệnh? Hoặc là muốn ta viết hộ thư nhà chăng?
Thiếu niên cười đáp:
- Ta không biết chữ, cả đời này chỉ có cái số hầu hạ người khác, còn đoán làm gì? Xin tiên sinh giúp ta viết bức thư nhà.
Trong lúc nói, gã có vẻ như quá buồn chán nên bàn tay gảy gảy túi hành lý đeo trên người, những ngón tay tạo ra mấy ký hiệu gì đó một cách mau lẹ.
Sắc mặt Lưu lão đạo hơi đổi, bàn tay thu vào trong tay áo rồi cũng đáp lại bằng mấy ký hiệu mà chỉ có thiếu niên đang đứng trước mặt mới nhìn thấy, sau đó thân mật mời:
- Mời ngồi mời ngồi!
Rồi lão vừa lấy bút mực ra, vừa khẽ hỏi:
- Cấp trên có mệnh lệnh gì không?
Gã hầu đó đưa tay chống cằm nhìn xuống bàn, thấp giọng:
- Rất gấp! Bất kể thế nào đi chăng nữa cũng phải giữ được tính mạng Dương Lăng, đưa y trở về. Bất luận dùng cách gì cũng được!
Lưu lão đạo hơi ngẩn người. Lão nhẹ nhàng trải một tờ giấy ra, cầm lấy chiếc nghiên ra bộ mài mực, đáp:
- Tên này là tâm phúc của Hoàng đế, giết y sẽ rất lợi với đại nghiệp của chúng ta, tại sao phải thả y chứ? Huống chi y đã giết nhiều người của Dương Hổ như vậy, đời nào Hồng Nương Tử lại chịu bỏ qua? Xin trở về báo lại với đàn chủ, người này không thể tha được.
Gã thiếu niên kia tuy có vẻ ngoài như kẻ hầu người hạ, nhưng lại lập tức vênh mặt nghênh ngang với lão rất có khí thế. Gã cười lạnh bảo:
- Nếu Hồng Nương Tử cản trở thì cứ giết luôn cả Hồng Nương Tử! Ngươi nhớ lấy, bằng bất kỳ cách nào cũng phải giữ cho y được an toàn. Đây không phải mệnh lệnh của đàn chủ, mà là mệnh lệnh của giáo chủ!
Lưu lão đạo cả kinh, bàn tay mài mực lập tức dừng lại, kinh ngạc hỏi:
- Giáo chủ lão nhân gia cũng ở kinh sư sao? Chuyện này… thực khó xử quá, sao đột nhiên lại phải bảo vệ y vậy?
Ánh mắt thiếu niên trở nên lạnh ngắt, gã gằn giọng:
- Giáo chủ đang ở đâu, đây là điều mà ngươi có thể dò hỏi sao?
Lưu lão đạo khẽ rùng mình, không dám hỏi tiếp nữa. Bờ môi mỏng dính của gã thiếu niên hơi nhếch lên:
- Trong cung vừa đưa tin ra, chân long sắp xuất thủy, thiếu y thì việc chưa chắc đã thành, muốn câu được rồng thì phải tạm bỏ tướng cua. Hơn nữa, Dương Hổ đã trốn thoát rồi, nếu Hồng Nương Tử mà chết thì còn sợ hắn không càng thêm bán mạng giúp chúng ta đoạt thiên hạ hay sao?
Chương 181 - Âm mưu bại lộ
Chiếc trống kêu oan trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti vẫn còn nằm nguyên ở đó. Theo ước định trong thư, nếu quan phủ đồng ý đổi người thì bọn họ sẽ cất chiếc trống kêu oan này đi. Nha môn nằm giữa chốn phố phường đông đúc, đứng từ xa tít đã có thể nhìn thấy rõ chiếc trống lớn vẫn còn đó, xem ra quan phủ nhất thời còn chưa thể đưa ra quyết định.
Lưu lão đạo đứng ở chỗ rẽ đằng xa liếc mắt nhìn qua, rồi giơ cây phướn lên bỏ đi thẳng như chẳng có chuyện gì. Hoàng thượng muốn xuất kinh, Dương Hổ đã bỏ trốn, quan binh chuẩn bị ồ ạt tiến tới Bá Châu, dưới cơn phẫn nộ của thiên tử thế lực lục lâm của Dương Hổ sắp lâm nguy đến nơi. Một loạt những tin tức vừa nhận trên khiến tính toán ban đầu của lão trở nên rối loạn.
Vốn Di Lặc giáo không định lợi dụng đại đạo lục lâm để tranh đoạt thiên hạ. Bọn họ muốn đi theo con đường thượng tầng, mưu đoạt binh quyền và hoàng vị để giành lấy thiên hạ một cách thuận lợi. Hiện giờ lại sắp có cơ hội tốt nhân khi Hoàng đế xuất kinh, cho dù thế nào đi chăng nữa, Lý Phúc Đạt cũng không thể vì một con tôm nhỏ mà bỏ một con cá lớn được.
Huống chi dưới sự bao vây tiễu trừ toàn lực của quan phủ, thế lực lục lâm ở Bá Châu đã chẳng còn bao nhiêu giá trị sử dụng nữa rồi. Hiện giờ, Dương Hổ chẳng qua cũng chỉ có tác dụng như một tên thích khách kiêu dũng, gã quân sư như lão có bại lộ thân phận cũng chẳng sao, do đó cấp trên mới hạ nghiêm lệnh cho lão phải bảo vệ an toàn cho Dương Lăng bằng mọi giá.
Lưu lão đạo thầm cười khổ một tiếng. Đêm qua mình còn ra sức nghĩ kế đưa Dương Lăng vào chỗ chết, ai ngờ chỉ sau một đêm mọi chuyện đã xoay chuyển như thế này, giờ đây lại phải nghĩ cách bảo vệ tính mạng cho y. Nếu người đời thật sự do vận mệnh chi phối, e rằng trên đời này chẳng còn ai tốt phúc hơn y.
Giả bộ sợ hãi trước quan uy mà đến tố cáo với quan phủ, rồi dẫn quan quân đến bắt giết Hồng Nương Tử ư? Vừa mới nghĩ đến ý này, lão đã lập tức nhẹ lắc đầu, hộ tịch và giấy thông hành của lão và Thúy Nhi đều là đồ giả. Một tên đại đạo lục lâm như Dương Hổ không thể tìm hiểu được gốc gác thật sự của lão nhưng quan phủ thì quyết không dung thứ cho một kẻ lai lịch bất minh như lão.
Hai vị được đưa vào cung kia quả thực đã từng đóng giả làm nghệ nhân tạp kỹ mà đi lại trên giang hồ hết bảy, tám năm, nhưng dù là như vậy cũng vẫn cần đích thân Ninh vương đứng ra làm người đảm bảo mới có thể đưa được họ vào trong cung. Lão mà đi tố cáo với quan phủ, lỡ mà bị người ta điều tra được chân tướng… Năm đó lão từng theo giáo chủ Lý Việt truyền giáo ở một dải Cam Thiểm, là một trong tám đại hộ pháp có tiếng tăm ở đó, rất nhiều người nhận biết lão.
Tốt nhất là Hồng Nương Tử biết điều, sau khi hay tin Dương Hổ đã trốn thoát thì chịu thả Dương Lăng, nếu không… Lưu lão đạo thầm nghiến răng, một tia sát khí thoáng lóe lên nơi đáy mắt.
***
Buổi ngọ triều đã trôi qua rất lâu, các vị trọng thần trong điện Bảo Hòa vẫn chen chúc vào một nơi, cuộc tranh cãi sôi nổi mãi vẫn chưa đến hồi kết. Vốn Chính Đức muốn cho mang thức ăn lên cho các vị đại thần này ăn no cái bụng trước đã, nhưng nhìn tình hình này thì hắn bất giác bực mình, cứ ngồi yên vừa nhìn bọn họ cãi nhau vừa đè nén lửa giận, sắc mặt càng lúc càng khó coi.
Các vị đại thần cũng chú ý đến sắc mặt tiểu Hoàng đế, tiếng huyên náo dần nhỏ lại.
Chính Đức lẳng lặng vân vê chiếc chén ngọc cực kỳ tinh xảo trong tay, chậm rãi nhìn quanh một vòng. Hắn thấy Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng đang rì rầm nói chuyện gì đó; Lý Đông Dương và Tiêu Phương thì cùng trưng vẻ mặt như quả mướp đắng, không ngừng vuốt râu; Dương Đình Hòa đang chắp tay sau lưng nhìn bức tranh chữ trên tường. Còn Lục bộ Cửu khanh và Thị lang các bộ mỗi người một thần sắc riêng, kẻ thì đầy mặt giận dữ, người thì hả hê ra mặt.
Chính Đức lại liếc nhìn Ngô Kiệt. Vị đại nhân già nua, gày gò chưa từng bước vào hoàng cung này mặt mũi lấm tấm mồ hôi, đang nhìn về phía hắn với vẻ vạn phần lo lắng.
Chính Đức khẽ ho một tiếng, xả bớt khí giận trong lồng ngực ra rồi mới nói:
- Các vị ái khanh! Cứ theo tình hình hiện nay, hẳn là nữ tặc Hồng Nương Tử chưa biết trượng phu của ả đã trốn khỏi kinh thành nên muốn đổi Dương thị độc lấy Dương Hổ. Hiện lũ đạo tặc đang chờ câu trả lời của triều đình, các vị ái khanh bàn bạc thế nào rồi?
Lưu Đại Hạ trầm giọng thưa:
- Hoàng thượng! Lão thần cho rằng nữ tặc đó đã có thể gửi thư vào kinh nên hiển nhiên là kinh sư phong tỏa kịp thời, bọn chúng còn chưa kịp trốn thoát. Hiện giờ trong thành binh mã như mây, có Binh bộ, Kinh doanh, Thuận Thiên phủ, Ngũ Thành Binh Mã ti, rồi còn cả ba xưởng một vệ, muốn lật tung kinh thành lên cũng có gì là khó? Có thể lệnh cho các bộ tăng cường tìm kiếm lục soát, bọn chúng còn có thể trốn lên trời hay sao?
Chính Đức cười lạnh:
- Đã tìm suốt một ngày một đêm rồi, nhưng đã tìm được gì chưa? Thuận Thiên phủ dâng sớ tâu trăm họ ở kinh sư đã cất tiếng oán than đầy đường, còn muốn tìm kiếm như thế nào nữa đây? Vả lại Dương khanh đang ở trong tay bọn chúng, nếu ép quá há lại chẳng phải xôi hỏng bỏng không hay sao?
Dương Phương cất tiếng:
- Hoàng thượng! Thần cho rằng lời của Lưu đại nhân đúng lắm, đường đường triều đình há có thể mặc cả với đám đạo tặc? Năm xưa Hạ Hầu Thuần phòng thủ Bộc Dương, Lữ Bố phái người bắt cóc ông ta đòi lấy tiền tài, nhưng bộ tướng của ông ta là Hàn Hạo đóng quân ngoài doanh quyết không thỏa hiệp, còn kiên quyết dùng binh với lũ tặc nhân, từ đó không còn kẻ nào dám bắt người làm con tin nữa. Nay lũ cuồng đồ dám phạm trọng tội ngay dưới chân Thiên tử, còn cả gan mặc cả với triều đình, như thế thể diện của triều đình còn đâu nữa? Mà ngày sau lũ gian tặc lại học theo đó, triều đình phải ứng phó ra sao? Việc này dứt khoát là không được!
Tiêu Phương nhướng mày lên cãi:
- Lời này của Dương đại nhân sai rồi. Có câu rằng binh bất yếm trá, Dương Hổ vốn chẳng ở trong tay triều đình, chúng ta cứ tương kế tựu kế, giả vờ đồng ý trao đổi con tin rồi thừa cơ cứu Dương đại nhân ra, thế có gì là không được? Chẳng lẽ lại trơ mắt nhìn một vị trọng thần của triều đình mất mạng trong tay gian tặc, như thế há lại chẳng mất thể diện của triều đình ư?
Hàn Văn trầm ngâm:
- Hoàng thượng! Luật pháp của triều đình không thể không để tâm đến, mà tính mạng của Dương đại nhân cũng cần phải bảo toàn. Theo thần thấy, chúng ta cứ nên suy nghĩ thêm, tính toán chu toàn. Lũ gian tặc đã có việc cần, ắt tạm thời Dương đại nhân không bị hại. Đương nhiên triều đình cũng cần phong tỏa tin tức, tăng cường tuần tra trong thành, đừng để lũ gian tặc trốn mất, cũng đừng để lộ tin Dương Hổ đã trốn thoát rồi.
Lý Đông Dương nghe vậy thì khẽ lắc đầu, vừa khéo Chính Đức nhìn thấy động tác của ông ta bèn vội hỏi:
- Lý đại học sỹ có cao kiến gì chăng?
Lý Đông Dương chắp tay thưa:
- Bẩm Hoàng thượng! Theo thần thấy, nếu đại đạo Dương Hổ thật sự ở trong tay chúng ta, với một tên thủ lĩnh cường đạo tụ tập giặc cướp chốn núi rừng, dám mưu sát đại thần, ý đồ làm phản như vậy, có nên thỏa hiệp hay không mới cần bàn bạc kỹ, dù sao luật pháp và mặt mũi của triều đình cũng là điều không thể bỏ mặc. Dương đại nhân đã hưởng ơn vua, tất nhiên phải suy nghĩ cho triều đình, không đồng tình với hành vi thỏa hiệp này cũng là hợp lẽ.
Nhưng… hiện giờ Dương Hổ không ở trong tay chúng ta, tạm dùng kế quyền nghi cũng không phải là không được. Thần cho rằng nên tạm dừng việc lục soát nhà dân để tra xét. Đừng nói là hành động này chưa chắc đã tìm được nơi ẩn nấp của lũ gian tặc mà cho dù thật sự tìm được đi chăng nữa, Dương đại nhân đang ở trong tay bọn chúng, ném chuột sợ vỡ đồ thì làm sao cứu người được đây?
Do đó, triều đình cứ đồng ý với yêu cầu của bọn chúng cũng chẳng sao, dù gì hai bên muốn đạt thành hiệp nghị cuối cùng cũng cần thời gian hai, ba ngày. Triều đình nên lệnh cho Kinh doanh và Ngũ Thành Binh Mã ti tăng cường phong tỏa và tuần tra, tránh việc gian tặc trốn thoát. Lại lệnh cho mật thám của Hình bộ và người của xưởng vệ bí mật tìm kiếm chỗ Dương đại nhân bị giam giữ, chờ thời cơ ứng cứu. Đợi khi hai bên bàn định xong nơi trao đổi con tin, triều đình có thể bố trí cung thủ phục kích, tùy cơ hành sự.
Mã Văn Thăng nghe xong bèn bước lên một bước. Lão vừa định mở lời, Cốc Đại Dụng đã bàn bạc với Lưu Cẩn xong xuôi bèn giành tâu trước:
- Hoàng thượng! Nô tài cho rằng kế này của Lý đại học sỹ là thỏa đáng nhất. Nếu không đồng ý thì thành ra hại mất tính mạng của Dương đại nhân, đường đường trọng thần của triều đình mà mất mạng trong tay gian tặc, như thế há chẳng ảnh hưởng đến thể diện của triều đình hay sao?
Còn nếu cứ đồng ý bừa, trong tay chúng ta không có tên đại đạo Dương Hổ kia, lỡ mà kẻ địch phái một tên lâu la kiểm tra thực giả, ắt sẽ bị bại lộ. Chi bằng cứ tạm đồng ý trước đã, bấy giờ chúng ta vừa chuẩn bị vừa dốc sức tìm kiếm, nếu có thể thuận lợi cứu được Dương đại nhân ra là tốt nhất, còn nếu không thể, lại nghĩ cách khác đánh lừa bọn chúng, khi trao đổi con tin sẽ làm một mẻ lưới tiêu diệt sạch lũ gian tặc luôn.
Chính Đức nghe vậy bèn vỗ án hô lớn:
- Hay! Các khanh không cần bàn bạc thêm nữa, cứ làm theo cách này đi! Đại Dụng, đi truyền tin cho Ngũ Thành Binh Mã ti, chờ gian tặc phái người đến liên hệ, còn việc truy tìm sào huyệt kẻ địch và trao đổi con tin thì do ngươi và Ngô Kiệt của Nội xưởng phụ trách. Nhớ lấy, trẫm cần một Dương Lăng sống chứ không phải một Xưởng đốc chết.
Các vị đại thần nhất tề khom người đáp:
- Thần tuân chỉ!
***
Lưu lão đạo vừa đi lại trên đường vừa suy tính đối sách. Nếu trao đổi con tin, khó đảm bảo bên phía quan phủ sẽ không bố trí phục binh; cho dù Hồng Nương Tử chạy thoát được thì bản thân mình có thể chạy thoát hay không cũng là một vấn đề khó nói.
Lại nữa, Hồng Nương Tử cũng từng không ít lần bắt cóc người nhà giàu đòi tiền chuộc, có thể coi là một chuyên gia trong nghề bắt cóc đòi tiền, nếu trước khi trao đổi ả phái người kiểm tra con tin, ắt hẳn sẽ lộ tẩy.
Nếu nói rõ với Hồng Nương Tử việc Dương Hổ đã trốn thoát, khả năng Dương Lăng được thả ra là rất nhỏ; rất có thể y sẽ bị lập tức giết chết ngay. Nói với ả việc thả Dương Lăng ra có thể dụ Hoàng đế xuất kinh ư? Cô ta từ nhỏ đã đi lại trong giới lục lâm, là người hết sức cảnh giác: mình mới vừa đi loanh quanh trong kinh sư được canh phòng nghiêm ngặt này mới có một vòng mà đã nhận được tin tức cơ mật và chuẩn xác như thế, làm sao cô ả không nảy lòng nghi ngờ?
Lưu lão đạo suy đi tính lại, rốt cuộc đành hạ quyết tâm cứ tạm trở về một chuyến trước, đợi thăm dò được suy nghĩ của cô ả rồi tính sau. Nếu thật sự không được, để câu con cá to là Hoàng đế Chính Đức và cũng vì tiền đồ của bản thân, ta đành gieo khổ cho Hồng Nương Tử vậy. Một tiểu nương tử xinh đẹp như hoa như ngọc phải bỏ mạng lúc tuổi còn xanh thì thật đáng tiếc lắm thay.
Lưu lão đạo đoán mệnh cho hai vị lão thái thái, nhận được mấy văn tiền, sau buổi trưa lại lòng vòng đi tới trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti. Lão thấy trên chiếc giá đã chẳng còn gì, chiếc trống kia không biết đã đi đâu mất rồi. Lúc này sắc trời đang âm u, lưa thưa mấy bông tuyết phất phơ bay xuống, người đi lại trên đường dần dần thưa thớt, Lưu lão đạo sợ khiến người khác hoài nghi, bèn xoay người lại chậm rãi đi về phía thành bắc. Đi tới con hẻm, thấy không có người nào chú ý, Lưu lão đạo bèn vội vã bước vào trong đạo quán.
Tòa đạo quán xây dở này ngay đến cửa cũng không có, bốn phía gió lùa. Đêm qua là đêm đầu tiên, còn có thể phái người ra ngoài canh gác, ban ngày thì lại không thể cho người đứng chờ ở ngoài sợ sẽ khiến người đi đường chú ý. Lưu lão đạo khởi động cơ quan, lặng lẽ chui vào trong thạch thất, hai đại hán cầm đao kiếm nhìn thấy là lão bèn buông vũ khí trong tay xuống, nôn nóng hỏi:
- Lưu tiên sinh, quan phủ có đồng ý không? Hổ ca vẫn an toàn chứ?
Lưu lão đạo khẽ mỉm cười đáp:
- Còn may, quan phủ đã tỏ ý bằng lòng trao đổi con tin với chúng ta.
Lúc này Thôi Oanh Nhi và Thúy Nhi cũng hay tin ra đón. Lưu lão đạo cùng bọn họ tránh vào trong một gian thạch thất, sau khi sắp xếp về những lời cần nói, lão bèn hỏi:
- Phu nhân có dự định gì không? Sau khi cứu được đại đương gia ra nên xử trí Dương Lăng thế nào đây?
Rốt cuộc Hồng Nương Tử vẫn phải cắn chặt môi, khẽ cất tiếng:
- Sáng nay bọn ta đã bàn định xong. Mối thù của hơn hai trăm huynh đệ không thể không báo, một khi cứu được người ra sẽ lập tức giết chết Dương Lăng, tế vong linh của bọn họ.
Lưu lão đạo gượng cười:
- Chuyện này… Cứ nên lấy đại cục làm trọng. Phu nhân và đại đương gia đều là người làm việc lớn, nếu vì chuyện này mà chọc giận quan phủ, cơ nghiệp do đại đương gia vất vả lắm mới gây dựng được khó tránh khỏi sẽ bị tấn công tiêu hủy, chi bằng tha cho y một phen…
Thúy Nhi ngẩn ra, nhìn lão với vẻ rất kinh ngạc, không biết lão lại có trò mới gì. Nụ cười của Lưu lão đạo hơi nhiễm vẻ cay đắng, nhưng lại chẳng thể nói rõ ra được.
Hai tên sơn tặc đứng ngoài cửa nghe vậy thì bèn bước vào. Một gã đại hán mặt mày hung ác nói với vẻ bất mãn:
- Lưu tiên sinh sao lại có lòng nhân từ của đàn bà như thế? Cho dù không giết hắn thì chúng ta cũng đã gây ra sự biến lớn đến thế này rồi, quan phủ còn chịu dễ dàng bỏ qua hay sao chứ?
Tên đại hán trọc đầu còn lại hăng hái:
- Chính thế! Chúng ta đã làm việc này thì không sợ đắc tội quan phủ, chỉ sợ danh hiệu không vang dội mà thôi. Lần này tiến kinh tổn thất mất hai trăm huynh đệ, không giết được y thì khi về trại biết ăn nói với mọi người sao đây? Còn nếu giết y rồi, các hảo hán ở tam sơn ngũ nhạc có ai mà không khâm phục chúng ta? Ắt hẳn danh hiệu của Hổ ca sẽ càng vang dội hơn, cho dù cả ngọn núi kia bị hủy đi, chúng ta muốn xây dựng lại cơ nghiệp ở nơi khác cũng là chuyện dễ như trở bàn tay.
Hồng Nương Tử nghe tới đây bèn quyết tâm:
- Cứ làm như vậy đi, với quan phủ thì còn phải nói gì đến tín nghĩa nữa chứ? Hồ Đại Chùy, quan phủ đã đồng ý rồi, vậy ngày mai chúng ta sẽ chuẩn bị dùng vũ lực rời thành, ngươi tới chỗ quan phủ xem tình hình của đại ca ngươi trước, đừng để bọn chúng lừa đấy.
Mặt mày hung ác, Hồ Đại Chùy gật đầu đáp với vẻ thản nhiên:
- Đại tẩu yên tâm! Có tên cẩu quan kia ở đây, quan phủ còn có thể làm gì được một gã tiểu lâu la như đệ chứ? Đệ nhất định sẽ có thể cùng Hổ ca an toàn đến Phong Đài, quan binh đừng hòng giở trò gì với đệ.
Lưu lão đạo nghe tới đây thì lòng dạ nguội lạnh hẳn đi.
Hồng Nương Tử nghĩ đến Dương Lăng, tuy trong lòng vẫn hơi áy náy nhưng trượng phu đã đi theo con đường này rồi, nàng là thê tử, ngoài việc tiếp tục đi theo hắn thì còn có thể làm được gì khác nữa? Nàng buồn bã thở dài một hơi, nói với Lưu lão đạo:
- Lưu tiên sinh đã vất vả rồi, ông hãy nghỉ ngơi trước đi. Đợi qua được ngày mai, chúng ta sẽ có thể cao bay xa chạy rồi.
Hồng Nương Tử xoay người đi vào phòng của Dương Lăng, Hồ Đại Chùy và gã đại hán đầu trọc Hắc Diêu Tử kia lén lút theo sau. Thôi Oanh Nhi ngoảnh đầu trừng mắt nhìn bọn hắn, hai gã sơn tặc nhìn về phía Dương Lăng cười cười với vẻ hung ác, đoạn chậm rãi bước ra ngoài.
Dương Lăng vịn tường gượng đứng dậy, trong phòng không đốt lửa, tuy ấm hơn bên ngoài một chút nhưng vẫn lạnh lẽo vô cùng. Thân thể y vốn đã không so được với đám sơn tặc, lại ở một mình trong gian phòng đá, khó chịu vô cùng, bèn ngồi xếp bằng tĩnh tọa theo cách của Ngũ Hán Siêu. Hiện giờ y vẫn chưa biết ngồi kiểu “đại bàn”, dưới sự trông coi của đám sơn tặc cũng không dám quá lộ liễu, nhưng chỉ ngồi kiểu “tiểu bàn” hơn nữa canh giờ, hai chân cũng đã mỏi nhừ.
(tiểu bàn: ngồi xếp bằng bình thường, bàn chân dưới đùi; đại bàn: kiểu hoa sen, bàn chân này gác lên đùi kia)
Thấy sắc mặt Hồng Nương Tử, y hỏi:
- Triều đình đồng ý trao đổi rồi ư?
Nhìn dáng vẻ hơi tiều tụy của y, trái tim Hồng Nương Tử bất giác nhũn đi. Trên đời liệu có mấy vị quan chịu bỏ tiền phát cháo cứu tế cho nạn dân? Y còn khổ tâm dốc sức nghĩ cách để cải tạo giống cây trồng, thật là một vị quan tốt.
Khi đến thăm phủ của y, phu nhân của y cũng là một người hòa nhã thân thiện, không hề có vẻ kiêu ngạo của một ả vợ quan, nhưng… Nếu không giết y, biết phải ăn nói thế nào với các huynh đệ khác về hai trăm huynh đệ đã bị giết? Hơn nữa trượng phu đã bước lên con đường này rồi, càng là vị quan hữu dụng với triều đình thì càng là đại địch của mình. Có ai ngờ được lần này lên kinh sư, không giết được Hoàng đế mà lại để y trở thành con dê chịu tội thay chứ?
Trong lòng đang áy náy, giọng nói cũng bất giác dịu hơn vài phần, nàng khẽ gật đầu:
- Ừm, xem ra Hoàng đế rất coi trọng ngươi đấy, vì ngươi mà phong tỏa toàn bộ kinh thành, bọn ta đưa ra yêu cầu trao đổi, quan phủ chẳng hề nghĩ ngợi gì đã đồng ý ngay. Ngày mai ta sẽ phái người đi gặp quan phủ, chỉ cần bọn chúng không giở trò gì khi trao đổi con tin, ngươi sẽ… sẽ có thể trở về rồi.
Thôi Oanh Nhi tung hoành chốn núi rừng, giết người cướp bóc cũng là tay lão luyện, chưa từng chớp mắt bao giờ. bằng không làm sao nàng có thể khuất phục được bao nhiêu tay đại đạo kiêu căng như thế. Nhưng nói tới đây khuôn mặt nàng lại bất giác nóng rần, có chút hổ thẹn. Nàng vội vã xoay người, cởi chiếc áo choàng độn bông ra, vứt cho y rồi bảo:
- Các ngươi làm quan không so được với bọn ta, đã ở đây rồi cũng đừng làm bộ làm tịch kiểu nhà quan nữa, khoác nó lên đi, đêm nay… Ta kêu người đi kiếm chút rượu thịt về, ngươi cũng không đến mức lạnh quá không ngủ được như đêm qua.
***
Trong gian phòng trước, Hồng Nương Tử vừa mới rời đi, Thúy Nhi đã ghé sát đến bên cạnh Lưu lão đạo, thấp giọng hỏi:
- Ông giở trò gì thế? Không phải ông từng bảo cần xúi bẩy Hồng Nương Tử giết y sao? Sao lại đổi quẻ rồi?
Lưu lão đạo cười khổ, đưa mắt liếc nhìn ra bên ngoài, đáp nhanh:
- Ôi! Cũng là việc đời khó liệu… Giáo chủ đã đích thân phái người đến thông báo có thể Hoàng đế sẽ xuất kinh, đây là một cơ hội cực tốt. Mà Dương Lăng lại là nhân vật quan trọng đi theo phò tá, nếu thiếu sự ủng hộ của y, e là Hoàng đế khó lòng đi được. Do đó chúng ta nhất định phải bảo vệ sự an toàn của Dương Lăng, bằng bất cứ cách nào cũng không được để y chết.
Thúy Nhi cả kinh, thấp giọng:
- Có chuyện như vậy sao? Thảm rồi, bây giờ phải làm thế nào đây? Mấy kẻ kia cứ nhất quyết muốn báo thù cho huynh đệ, ta cũng đã đỡ lời khuyên nhủ Hồng Nương Tử rồi. Nếu ả đã quyết định chuyện gì rồi thì ngoan cổ lắm, chẳng mấy người có thể khiến ả thay đổi ý kiến được đâu.
Lưu lão đạo lạnh lùng đáp:
- Cô cũng đã đi theo ả mấy năm, rất quen thuộc tính cách của ả, ả cũng đã coi cô như tỷ muội thân thiết nhất rồi, đợi lát nữa hãy thử khuyên nhủ thêm xem. Ta sẽ ngụ lại tại nhà của Hồng viên ngoại ở phía sau đạo quán. Ở đây không thể nghe thấy tiếng điểm canh, cô cứ ước lượng thời gian, chừng canh hai ta sẽ dẫn người tới, cô giả vờ đi tiểu đêm ra ngoài gặp ta. Nếu Hồng Nương Tử đã hồi tâm chuyển ý thì thôi, còn nếu không, cô ra mặt giải quyết người canh gác trước, rồi chúng ta và ả đoạn tuyệt quan hệ!
Thúy Nhi thất thanh:
- Cái gì? Nếu như vậy thì tâm huyết bao năm nay của chúng ta ở giới lục lâm…
Lưu lão đạo khẽ giải thích:
- Bọn chúng đã để lộ diện trước mắt triều đình, cô nghĩ dưới sự vây ráp tiễu trừ của quan binh mà bọn chúng còn làm gì được nữa hay sao? Vốn liếng của chúng ta không thể đặt cả vào đám sơn tặc ấy được!
Ban đêm. Ánh lửa trong phòng khi mờ khi tỏ. Thúy Nhi đang ngủ ngoài cửa đột nhiên mở mắt ra, chậm rãi chống tay ngồi dậy, nhìn qua phía Hồng Nương Tử với vẻ hơi căng thẳng. Thị thấy lúc này Hồng Nương Tử đang dựa lưng vào bức tường đá, hai tay ôm vai, quàng thanh đoản kiếm trước ngực, hơi thở đều đều tự nhiên.
Thúy Nhi lại nhìn vào trong phòng. Dương Lăng không quen ngủ trong tư thế ngồi nên đang nằm co, cuộn người lại trên mặt đất trong chiếc áo choàng độn bông. Thúy Nhi khẽ thở phào một hơi, đứng dậy lẳng lặng đi ra phía ngoài. Đêm nay người canh gác bên ngoài là Hồ Đại Chùy và Phàn lão nhị. Thấy ả đi tới, Hồ Đại Chùy cười híp mắt lại:
- Thúy Nhi, có phải cô lạnh quá không ngủ được phải không? Để ca ca đây ôm một chút cho ấm nhé!
Thúy Nhi cười mắng:
- Cút ngay! Chớ nói với ta những lời dơ bẩn đó, để tiểu thư nghe được xem người có thu thập ngươi không! Tránh xa ra một chút!
Thúy Nhi đi lên bậc thang. Tuy Hồ Đại Chùy dám bỡn cợt ngoài miệng nhưng lại không dám động chân động tay với người của Hồng Nương Tử. Huống chi hắn cũng biết võ công của cô gái này cao minh hơn mình nhiều, nên bèn cười hì hì tránh sang một bên, nhìn cặp mông căng tròn kia ưỡn ẹo biến ra khỏi tầm mắt.
Phía sau đạo quán là một vạt rừng thấp. Hồi chiều gió lạnh rít gào nhưng lúc này đã bớt gió, từng bông từng bông tuyết lớn lặng lẽ rơi xuống, trời không trăng không sao, tối đen như mực.
Ứng phó xong với gã đại đạo canh gác bên ngoài, Thúy Nhi lẳng lặng đi vào trong rừng. Lắng nghe thử thấy phía sau không có động tĩnh gì, ả lại rón rén đi tiếp về phía trước, lần mò đến bên cạnh bức tường thấp bên ngoài khu rừng. Thúy Nhi ghé tai lắng nghe một hồi, hai bàn tay khẽ vỗ ba cái, cách đó không xa có người thấp giọng hỏi:
- Ai đó?
Thúy Nhi cũng thấp giọng đáp:
- Trời giáng Di Lặc phật.
Đối phương vui mừng đáp lại:
- Làm chủ thế giới kia! Lưu hộ pháp, người tới rồi.
Thúy Nhi lần mò bước về phía trước. Phía đối phương không dám đốt đèn, dưới ánh sáng mờ mờ chỉ có thể nhìn thấy sáu bảy bóng người đi tới. Người ở giữa khẽ hỏi:
- Thúy Nhi, thế nào rồi?
Nhận ra giọng của Lưu lão đạo, Thúy Nhi vội bước tới đáp:
- Hồng Nương Tử cảnh giác lắm, hồi sáng ta mới khuyên ả giết Dương Lăng xong, buổi tối khuyên một câu rồi cũng không dám khuyên nữa, sợ khiến ả nảy lòng nghi ngờ. Về sau mấy người Hắc Diêu Tử nghe thấy, lại tới phản bác lời ta. Bọn họ đều là huynh đệ kết nghĩa của Dương Hổ, Hồng Nương Tử nghe xong lời của bọn họ lại càng không chịu thay đổi ý định.
Lưu lão đạo buồn bực:
- Chẳng còn cách nào! Vì đại kế của giáo chủ, giờ đây xem ra chỉ đành phải giết ả thôi. Con ả này võ công ghê gớm lắm, đợi lát nữa hãy nhanh nhạy một chút. Đáng tiếc chúng ta không mang theo dược vật, nếu không thì tiện lợi hơn nhiều rồi.
Thúy Nhi thấp giọng trách:
- Trên đời này làm gì có thứ độc dược nào không màu không mùi chứ? Hơn nữa ta đã theo ả mấy năm, biết rõ sự lợi hại của ả. Mấy thứ hại người tầm thường đó ả chỉ cần ngửi cái là biết ngay, đừng đưa ra mấy ý kiến tồi tệ như vậy nữa! Chẳng bằng nhân lúc ả ta không đề phòng mà tung ra đòn thật mạnh đi!
Lưu lão đạo đồng ý:
- Được! Mọi người chú ý, nhất định phải làm thật nhanh thật độc, quyết không được tha cho bất cứ kẻ nào! Sau đó đổ cái chết của Hồng Nương Tử lên đầu quan binh; khi ấy cho dù có phải leo núi đao thì Dương Hổ cũng chẳng quản ngại gì.
Một bóng đen có địa vị dường như không thấp khẽ cười, vẻ dâm dật:
- Hay cho kế xua hổ đuổi lang! Đáng tiếc, Dương Hổ đại danh đỉnh đỉnh lại là một con hổ ngốc, tự dưng lãng phí hai trăm tên tâm phúc đắc lực cho chúng ta rồi hiện giờ ngay đến vợ cũng để mất. Nghe nói ả đó một thân võ nghệ quyền cước hơn người, tướng mạo quyến rũ, vóc dáng yêu kiều. Ta có mang theo ‘Thần Tiên Võng’ đây, có cần bắt sống ả không?
Lưu lão đạo nghĩ đến dáng vẻ xinh đẹp quyến rũ của Hồng Nương Tử thì cũng thầm bức rức trong lòng. Có điều có thể lọt vào hàng ngũ Bát đại hộ pháp của Di Lặc giáo thì đều là hạng tâm chí kiên định, sau khi cân nhắc một lúc về sự lợi hại được mất, lão bèn hủy bỏ ý định này, nghiêm chỉnh đáp:
- Vạn lần không được! Hồng Nương Tử võ nghệ cao cường, nhất định phải nhân lúc ả không để phòng mà nhanh chóng giết chết! Đi thôi!
Cả bọn theo sau Thúy Nhi lặng lẽ lần mò về hướng đạo quán. Nhìn thấy mấy tòa kiến trúc đen thui phía trước, Thúy Nhi dừng lại sau một gốc cây, thấp giọng:
- Trên xà ngang của ngôi điện phía trước có kẻ canh gác. Các ngươi đợi ở đây, ta đi dụ hắn xuống rồi kết liễu hắn trước.
Lời của Thúy Nhi còn chưa dứt, kẻ đi sau cùng chợt kêu thảm một tiếng rồi im bặt. Mấy người đi phía trước tay nắm chặt binh khí kinh hãi nhìn về phía sau, chỉ thấy bóng đen đó lắc lư mấy cái, rồi đổ gục xuống mặt đất.
Cả bọn đều sởn gai ốc, cơ thịt toàn thân căng cứng, đều không dám động đậy. Tuyết vẫn từ trên trời buông xuống, ngay đến bờ mi mỗi người cũng đều có tuyết bám vào, nhưng lại chẳng ai dám giơ tay lên gạt đi.
Tất cả đều mở to hai mắt nhìn chằm chằm vào bóng đêm tối mịt xung quanh, qua một hồi lâu Thúy Nhi mới run giọng hỏi:
- Chuyện gì vậy?
Từ phía bên trái chợt vang lên tiếng leng keng vũ khí va chạm. Cả bọn chợt thấy hai bóng người rất nhanh đã quấn vào một chỗ, sau đó một bóng người lao đi, biến vào trong màn đêm. Người còn lại thì kêu lên “Ối!” một tiếng, ngã ngược về phía sau, đau đớn kêu lên:
- Có kẻ tập kích, ta… dưới xương sườn ta bị trúng một kiếm.
Lưu lão đạo vội hỏi:
- Có chuyện gì thế? Là kẻ nào? Quan binh đã tìm tới rồi hay …
Lão đột nhiên xoay người lại, khẽ quát Thúy Nhi:
- Ngươi đã phản bội bản giáo?
Thúy Nhi hoảng hốt:
- Ta… Ta không có, rốt cuộc là kẻ nào?
Một giọng nữ uy nghiêm vô hạn vang lên:
- Là ta!
Thúy Nhi và Lưu lão đạo đều toàn thân chấn động. Thúy Nhi la thất thanh:
- Hồng Nương Tử? Ta… Ta không nên khuyên ngươi, khiến ngươi nảy lòng nghi ngờ!
Giọng nữ kia cười lên khe khẽ. Tiếng cười chợt dừng lại, thay bằng giọng nói khoan thai:
- Thúy Nhi! Chắc ngươi chưa biết ta từng bị quan binh vây quét, liên tục hai mươi ngày không được ngủ đẫy giấc nào. Huống chi đây là nơi kinh sư trọng địa, dưới sự bao vây trùng trùng của quan binh làm sao ta có thể ngủ sâu được cơ chứ?
Những lời khuyên của ngươi hoàn toàn không hề khiến ta nghi ngờ. Chỉ là khi thức dậy ngươi không nên lén lút thăm dò động tĩnh của ta như thế! Dã thú hết sức mẫn cảm với địch ý của kẻ khác, còn ta chính là một con mãnh hổ trong rừng!
Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 182 Xin tiễn người đi
------------------------
Trong Ngũ thành binh mã ty, đám hung thần nha môn tụ tập lúc nhúc; Đông Xưởng, Tây Xưởng, Nội Xưởng, Cẩm Y Vệ và các quan lớn của bộ Hình giống như những con tu hú chiếm lấy tổ chim khách, dồn viên Ngự sử tuần thành xuống chỗ ngồi bên dưới, vị quan này đang chau mày lắng nghe tên nô bộc trẻ tuổi chuyển lời.
Bởi phong thư đầu tiên được nhận ở Ngũ thành binh mã ty nên quan lớn các bộ đều chạy đến đây, hy vọng chiếm được tin tức trước một bước. Chung quanh Ngũ thành binh mã ty thông rộng ra bốn con đường, mặc kệ tuyết lớn bay lả tả, trời tối như mực, mật thám vẫn được cài cắm, nếu ban đêm có người tình cờ dám tạt qua, lập tức sẽ xuất hiện những kẻ không biết từ đâu chui ra, bất ngờ kẹp nách xốc vào trong căn nhà nhỏ bên đường ngay.
Trên công đường, các quan lớn không ngừng nhận được tình báo thu thập từ nhiều con đường khác nhau, nhưng đúng như người ta thường nói, "một người đem giấu, vạn kẻ khó tìm", kinh sư rộng lớn như vậy, muốn giấu vài người quả thực dễ như trở bàn tay, đến tận giờ vẫn chưa có được tin tức gì hữu dụng. Đến canh ba, Lưu Cẩn và mấy đại nhân không thức nổi nữa bèn kêu người dọn chiếc bàn chân thấp ra khỏi giường, rồi nằm chen chúc nhau đánh một giấc.
Công đường của Binh mã ty đã sớm rối như canh hẹ; đám chủ nhà Điển sử, Chủ bộ, Tuần kiểm đều không dám về nhà, toàn bộ ở lại công đường bận bịu làm việc của mỗi người. Ngũ Hán Siêu đi đi lại lại trên công đường, đã hai ngày hai đêm nay hắn không thể chợp mắt, râu dưới cằm đã mọc lún phún, mắt hằn đầy tơ máu, trông hệt như một con thú bị nhốt trong chuồng.
Hắn lầm tưởng cô ả che mặt kia là Hồng Nương Tử, mới ra ràng nên nặng lòng háo thắng, chỉ nghĩ bắt sống được tên đạo tặc đó, làm đại lễ quy thuận Nội xưởng, không ngờ lại trúng phải kế điệu hổ ly sơn, giờ đây không rõ Dương Lăng sống hay chết. Nghĩ đến hậu quả có thể xảy ra, hắn liền sởn gai ốc.
Ngũ Hán Siêu thả bộ đi đến bên chiếc bàn chân thấp, ngọn đèn dầu trên bàn sáng trưng, một Chủ bộ khoác trên người áo da đang chống cằm ngủ gật. Ngũ Hán Siêu nhìn thấy trên bàn bày chồng hồ sơ dày cộp, thuận tay nhón lấy một tờ lên xem, vừa nhìn thấy tin tức bên trên, liền cúi xuống gõ nhẹ bàn.
Lão Chủ bộ đang ngủ say sưa, đột nhiên bị hắn đánh thức. Lão không biết Ngũ Hán Siêu, có điều vị công tử này tuy không ăn vận như sai nha, mấy ngày nay lại thường thấy hắn đi ra đi vào cùng với đám người của xưởng vệ, dường như lai lịch không nhỏ, lão Chủ bộ nào dám xem thường, liền vội dụi mắt hỏi:
- Công tử, ngài có việc gì sao?
Ngũ Hán Siêu trỏ vào hồ sơ án hỏi:
- Lính bảo an khu hẻm nghèo nát phía thành bắc nói rằng mấy ngày nay có một đạo sĩ vân du lạ mặt thường hay ra vào, sáng hôm nay có tên hầu đổ phân phát hiện lão ta bước ra từ trong một đạo quán đang xây dở, đã phái người tra xét chưa?
Lão Chủ bộ khẽ gật đầu, thần trí tỉnh lại một chút rồi lại lắc đầu, Ngũ Hán Siêu nổi giận, túm lấy lão nhấc lên, quát:
- Rốt cuộc là đã tra chưa?
Lão Chủ bộ nhăn nhó khổ sở van xin:
- Công tử hãy buông tay, hãy buông tay, xin nghe lão phu nói đã. Khụ khụ khụ, thở... thở không nổi rồi.
Ngũ Hán Siêu hừ lạnh, bỏ tay ra, lão Chủ bộ vuốt vuốt cổ họng, thở hổn hển nói:
- Công tử, tra không nổi đâu. Nhân mã của chúng ta tuy đông, nhưng vào lúc này, cả thành Bắc Kinh nơm nớp lo sợ, chia quân ra canh gác, trông coi các nha môn và phủ đệ của các vị đại nhân, tuần tra kinh thành, có điều khắp kinh thành cũng sẽ không đủ dùng.
Từ khi triều đình dán công văn treo thưởng, tin báo nhận được trong mấy ngày nay không một vạn cũng tới tám nghìn, kẻ nào cũng nói tận mắt trông thấy, kết quả mỗi lần phái đại đội nhân mã đều là một chuyến uổng công, bắt được toàn những kẻ trộm vặt, ăn cướp, lừa bịp, và lưu dân không có giấy tùy thân, thậm chí có cả thông dâm nuôi trai, đại lao đã nhét chật cả người.
Nay tình hình kinh sư như vậy, ngay cả khách điếm cũng không muốn tiếp đón khách mới, càng đừng nói là chùa chiền đạo quán. Đạo sĩ đó vân du bốn phương không chỗ ngả lưng, nghỉ lại nơi miếu chùa đổ nát ngoài thành cũng hết sức bình thường, những kẻ khả nghi còn tra không nổi, lấy đâu người mà đến đó điều tra lão ta?
Ngũ Hán Siêu lạnh lùng hừ một tiếng, xoay người đi ra, lão Chủ bộ liền trừng mắt, nhếch môi. Không thấy tin tức này thì thôi, nhưng nếu đã thấy rồi, người trong lúc tuyệt vọng chỉ cần có một tia hy vọng liền sẽ không kiềm được mà suy nghĩ lung tung, cho nên tin tức này thủy chung vẫn luẩn quẩn trong đầu Ngũ Hán Siêu.
Ngũ Hán Siêu trở lại ghế ngồi, song càng nghĩ càng thấy bực bội, nếu không đích thân đi xem thử thì chuyện này sẽ mãi canh cánh trong lòng. Hắn bỗng đứng dậy, chụp lấy áo khoác ngoài trên ghế rồi vội vã mặc vào.
Liễu Bưu đang ủ rũ từ trong nhị đường(1) bước ra, trông thấy bộ dáng của hắn như vậy bèn đi đến hỏi:
- Ngũ công tử, hiện chỉ có thể đợi đám đại đạo đưa tin đến lần nữa, huynh đệ đã hai ngày không chợp mắt, đến bữa cũng không ăn miếng nào, nếu cứ tiếp tục như vậy, đến lúc có được tin tức của đại nhân rồi, sợ rằng huynh đệ cũng không gắng gượng được nữa đâu.
Ngũ Hán Siêu gượng cười nói:
- Đa tạ Liễu huynh đã quan tâm. Đại nhân bị bắt là do tiểu đệ không làm tròn bổn phận, mỗi khi nghĩ đến chuyện này, thực sự đứng ngồi không yên.
Liễu Bưu nhìn bộ dạng của hắn, thắc mắc:
- Huynh đệ còn muốn ra ngoài ư?
Ngũ Hán Siêu đáp:
- Tin báo bên phía thành bắc nói rằng mấy ngày nay có đạo sĩ vân du lui tới một đạo quán đang xây dở, đệ tính đến đó điều tra cho rõ.
Chủ bộ nọ không nhịn được bèn chen miệng vào:
- Đại nhân, khu vực thành bắc, bao gồm cả đạo quán đang xây dở đó cũng đã được Binh mã ty điều tra một lượt, không hề phát hiện có gì khác thường.
Ngũ Hán Siêu vặn lại:
- Tuy đã điều tra đạo quán, nhưng đã điều tra lão đạo sĩ nọ chưa? Ngươi từng nói có thể đạo sĩ đó đang tá túc tại đấy, lúc này tiết trời giá rét, thế nhưng bên trong đạo quán đó chăn đệm hay vết lửa không?
- Việc đó...
Lão Chủ bộ cứng họng, rờ mũi không biết nói thế nào. Liễu Bưu nhíu mày lại, thấp giọng nói:
- Ngũ công tử, có câu vua không sai được lính đói, quan binh tìm kiếm cả ngày lẫn đêm, cả người lẫn ngựa sớm đã mỏi mệt, lúc này vẫn chưa đến canh tư, thêm nữa tuyết lớn mịt mù, ta thấy hay là đợi trời sáng một chút hẵng cùng nhân mã đi điều tra.
Ngũ Hán Siêu buộc đai lại, đeo kiếm lên, nói:
- Thực như đã có nghi ngờ, dẫn đại quân đến sẽ khiến kẻ gian cảnh giác. Tự mình đệ đi xem thử.
Liễu Bưu biết trong lòng hắn không thoải mái, cũng không khuyên bảo thêm, bèn nói:
- Thôi được, ta sẽ đi cùng huynh đệ một chuyến.
Tuyết vẫn rơi lả tả, trời lại nổi gió, gió rít gào cuốn phăng những bông tuyết. Bóng đêm mờ mịt, mặt đất xốp mềm, cầm đèn soi không thấy nổi ba trượng. Liễu Bưu sang phòng trực gác đêm gọi bốn tay thân binh dậy, sáu người cưỡi ngựa chạy đến phía thành bắc, những giao lộ trọng yếu dọc đường vẫn có quan binh canh gác, kiểm tra thẻ bài giắt lưng của Liễu Bưu xong thì vẫy tay cho qua.
Trong rừng, Lưu đạo sĩ, Thúy Nhi và một giáo đồ Di Lặc giáo dựa sát vào nhau thành hình chữ phẩm (品); nỗi khiếp đảm và một phen chiến đấu đã khiến bọn họ thở hổn hển như trâu. Lưu đạo sĩ đảo mắt liên tục, hòng tìm cơ hội đào thoát, nhưng trong cái bóng đêm như mực ấy, bất cứ lúc nào cũng có thể có một bà la sát nhảy ra đòi mạng, không có Thúy Nhi và tay giáo đồ Di Lặc giáo nọ bảo vệ, lão căn bản không dám tự mình chạy trốn.
Hai bên vừa mới giao thủ, tên đạo tặc canh gác trên xà nhà của đạo quán đã loáng thoáng nghe thấy động tĩnh; lúc Hồng Nương Tử âm thầm bám theo Thúy Nhi ra khỏi hầm, nàng vẫn chưa thể xác định ả ta có hai lòng hay không, vì vậy chỉ bảo tên nọ canh phòng cẩn thận, lúc này nghe thấy tiếng binh khí va chạm, không cần Hồng Nương Tử ra lệnh, hắn liền chạy vào trong hầm gọi người ra.
Đám cướp còn tưởng rằng đã bị quan binh bao vây, bèn để một tên ở lại trông chừng Dương Lăng, những kẻ khác cầm lấy binh khí xông ra ngoài. Đến lúc xông vào trong rừng, Hồng Nương Tử lập tức quát bảo bọn chúng bao vây bốn phía, không cho bất cứ kẻ nào thừa lúc hỗn loạn mà đào thoát.
Bọn chúng cũng không biết đã xảy ra chuyện gì, đến khi nghe nói những kẻ này là giáo đồ Di Lặc, dư nghiệt của Bạch Liên giáo, từng hoành hành tại Cam Túc, Thiểm Tây và Sơn Tây, đám cướp mới yên tâm. Song phương đều 'đen', không thể ra 'sáng', chỉ cần không phải quan binh thì dễ xử rồi.
Người trong lục lâm căm ghét nhất chính là bị phản bội, nếu có người làm chuyện có lỗi với huynh đệ, cho dù đó là cha ruột, bọn chúng cũng sẽ không chút do dự tìm kẻ đó để chấp hành sơn quy. Bọn chúng không biết Thúy Nhi vốn là người trong Di Lặc giáo, cho nên chỉ dò hỏi mấy câu qua loa, nhầm tưởng ả phản bội gia nhập Di Lặc giáo, thế nên trong lòng căm ghét vô cùng.
Thúy Nhi có võ công cao nhất trong đám giáo đồ Di Lặc này, tuy đả thương được hai tên dưới sự công kích điên cuồng của bọn chúng, song vẫn bị chặn đường lui. Hồng Nương Tử có võ nghệ kinh người, mượn màn đêm mà rảnh rang ra tay giữa bầy địch, căn bản không cần phân biệt địch ta, chém giết nửa canh giờ, hiện chỉ còn lại ba tên.
Lưu đạo sĩ búng chân thoăn thoắt, chợt khàn giọng kêu lên:
- Hồng Nương Tử, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, nay triều đình đã điều động đại quân, sơn trại lục lâm của ngươi sắp không giữ được nữa rồi. Bắt cóc mệnh quan triều đình là tội lớn tày trời, ngươi và Dương Hổ đã không còn lối thoát. Bản giáo căn cơ hùng hậu, giáo đồ rải khắp thiên hạ, với võ nghệ hai vợ chồng ngươi, nếu như gia nhập bản giáo, tất sẽ là một viên hổ tướng. Ngươi có muốn suy nghĩ lại không?
Hồng Nương Tử nắm chặt thanh đoản kiếm nhuốm máu, lặng lẽ di chuyển trong khu rừng, cười khẩy nói:
- Có lẽ ngươi nên suy nghĩ trước đi! Di Lặc giáo dùng những trò bịp mê hoặc những đôi vợ chồng ngu dốt dâng hiến mọi tiền tài con cái cho các ngươi, cung cấp nô dịch cho các ngươi sai khiến, hán tử trong giới lục lâm chúng ta cũng khinh thường các ngươi. Giết!
Thừa lúc nói chuyện khiến đối phương buông lỏng, Hồng Nương Tử đột ngột lộn người tới phía trước, đâm một kiếm vào ngực gã tín đồ Di Lặc giáo nọ, rồi lại búng người lủi vào trong bóng đêm. Tên tín đồ Di Lặc nọ kêu "hự" một tiếng, buông cây đơn đao trong tay, lảo đảo mấy bước rồi ngã sấp xuống mặt đất phủ tuyết, máu tươi trong ngực trào ra ồ ạt.
Lưu đạo sĩ cực kỳ bi phẫn, giọng run lên:
- Con đàn bà ngu ngốc nhà ngươi, hợp tác thì cùng có lợi, mà chia rẽ thì đều có hại, gia nhập bản giáo, ngươi và Dương Hổ sẽ có thể được phong làm Thiên sư và Phật mẫu, dưới một người trên vạn kẻ, vinh hoa phú quý hưởng không hết.
Không sai, hai trăm huynh đệ đó của ngươi là do bọn ta sai khiến, bán mạng cho chúng ta, nhưng người trong giang hồ nguy hiểm chập trùng, việc đó có gì kỳ lạ? Chỉ dựa vào ngươi ư? Hay dựa vào ngươi và cả Dương Hổ thì có thể báo thù?
Đoạn lão cười sằng sặc dọa nạt:
- Cho dù là nhân mã lục lâm cùng tận ở Bá Châu của ngươi, cũng đừng hòng đối phó với bản giáo. Trong khu rừng này, ta là cá thịt, ngươi là dao thớt, nhưng chỉ cần rời khỏi nơi đây, ta sẽ có tiền tài và nhân thủ vô tận để dùng, cả đời này ngươi cũng đừng mơ báo thù!
Thúy Nhi cũng thấp giọng dụ dỗ:
- Đại tiểu thư, đừng trách Thúy Nhi vô tình, chúng ta ai nấy đều vì chúa của mình. Giáo chủ thần thông quảng đại, là Di Lặc giáng trần, người mới là chân long đó. Bây giờ tiểu thư đã biết Tử Vi chuyển thế, ứng tại Dương Hổ gì đó đều là lời nói gạt rồi chứ?
Hãy nghe Thúy Nhi khuyên một câu, chỉ cần tiểu thư dừng tay giảng hòa, ta và Lưu hộ pháp có thể bảo đảm rằng người sẽ có được địa vị cao quý trong bản giáo. Hiện tiểu thư đã thấy công phu thực tế của ta không kém người là mấy rồi chứ? Nếu thực sự liều mạng liệu tiểu thư có thể giết được ta mà không mất mấy người không?
Trong rừng im phăng phắc, chỉ có tuyết rơi, gió thổi...
Nghe xong lời này Hồng Nương Tử và mấy tay đại đạo đều im lặng không nói lời nào. Một lúc lâu sau, mới nghe Thôi Oanh Nhi cất giọng lạnh lùng:
- Muốn ta không giết ngươi cũng được, ngươi và ta đều phản lại triều đình, chúng ta sẽ không quy thuận các ngươi, có điều muốn hợp tác cũng không hẳn là không thể...
Thúy Nhi mừng ra mặt, vội nói:
- Đại tiểu thư, người đồng ý sao?
Thôi Oanh Nhi cười nhạt nói:
- Đừng gọi ta là đại tiểu thư, hẳn là địa vị của ngươi trong Di Lặc giáo cũng không thấp chứ? Ngươi nên biết là rằng kẻ làm thủ lĩnh nếu muốn thu phục mọi người, thì phải không phụ lòng huynh đệ. Chúng ta lúc đi mang theo hai trăm người, cha mẹ vợ con bọn họ vẫn đang chờ bọn họ trở về ăn Tết, nay đến cả di hài ta cũng không thể mang về thì sao có thể ăn nói với bọn họ?
Thúy Nhi do dự hỏi:
- Vậy... ý của tiểu thư là...?
Thôi Oanh Nhi nói một cách quả quyết:
- Nếu không phải vì Lưu đạo sĩ, chúng ta hà tất phải cực khổ chạy vào trong thành tìm chết? Ngươi giết cho ta cái tên chủ mưu gây nên chuyện này, để ta có thể ăn nói với các huynh đệ, ta sẽ tha cho ngươi, hơn nữa sẽ suy nghĩ hợp tác cùng Di Lặc giáo. Ngươi yên tâm, chuyện này trời biết đất biết, tuyệt sẽ không có bất cứ tín đồ Di Lặc nào biết ngươi làm đâu.
Người Lưu đạo sĩ thoáng run lên, cố mạnh miệng cười nói:
- Ha ha, ha ha, đúng là buồn cười, ngươi muốn chia rẽ để bọn ta tự giết lẫn nhau, để ngươi ngồi hưởng lợi ngư ông sao? Thuý Nhi là Tiên cơ của bản giáo, có thể mắc lừa ngươi sao?
Lão và Thúy Nhi vốn tựa lưng vào nhau, kết chặt thành một khối, nhưng miệng vừa nói vậy lão lại lặng lẽ tách người ra một chút, đặt một nửa sự chú ý ra phía sau, lo sợ Thúy Nhi sẽ bất thình lình cho lão một kiếm.
Thôi Oanh Nhi cười lạnh, giọng quanh quẩn khắp nơi:
- Vừa nãy ai đã nói kẻ thức thời là trang tuấn kiệt? Thúy Nhi, ngươi và ta quen biết đã lâu, nên biết lời ta thốt ra tuyệt không thay đổi. Ta sẽ đếm đến mười, nếu ngươi không động thủ, ta sẽ kêu các huynh đệ chôn xác các ngươi tại nơi này, có lẽ mấy ngày sau thi thể trong đống tuyết của ngươi cũng sẽ bị chó hoang bươi ra thôi. Một, hai, ba...
Theo nhịp đếm của Thôi Oanh Nhi, trái tim của Lưu đạo sĩ và Thúy Nhi đập thình thịch, Lưu đạo sĩ đột nhiên thấy Thúy Nhi bên cạnh thoáng có cử động, bèn cũng vội giật mình tránh thân, hông dường như bị vật gì chém sượt qua, liền nổi giận đùng đùng, chém trả lại một đao, mở miệng mắng:
- Con điếm thối tha, ngươi thực sự động thủ với ta à?
Thúy Nhi lánh người là do cũng bị một vật quét sượt qua, cảm giác giống như cành cây khô, lập tức phát giác bị mắc lừa, ngay lúc nào Lưu đạo sĩ đã hung tợn bổ một đao tới. Thúy Nhi vừa tức giận vừa lo lắng, hất kiếm lên, "keng" một tiếng, một loạt tia lửa bắn ra. Thúy Nhi quát lớn:
- Đồ ngu, đừng trúng kế ả ta.
Chính vào lúc này, từ trong bóng đêm, Hồng Nương Tử người theo ánh kiếm mang theo hoa tuyết, lao đến nhanh như một cơn lốc, một tiếng quát lạnh lùng và nghiêm nghị vang lên:
- Giết!
Từ động tác và phản ứng của Thúy Nhi sau khi vung đao, Lưu đạo sĩ liền phát hiện mình đã bị trúng kế, lúc này nhìn thấy những bóng đen đánh úp tới, Lưu đạo sĩ không kịp suy nghĩ, lập tức vung đao chém tới, la lên:
- Cẩn thận!
Một kiếm của Hồng Nương Tử vốn nhắm vào ngực Thúy Nhi, nàng liền khom người tránh lưỡi đao của lão, rồi hất kiếm lên, đâm ngay vai Thúy Nhi, tiếp đó thân kiếm bị đao chém trúng, mũi kiếm kẹp dưới xương quai xanh của Thúy Nhi rung mạnh, khiến cô ả đau đớn kêu thét lên, trước mắt tối sầm, cơ hồ ngất xỉu.
Rồi không thèm suy nghĩ, nàng lập tức bỏ kiếm, co người bổ nhào vào Lưu đạo sĩ, ôm lấy lão lao về phía trước. Hai người quấn vào nhau, trượt xa hơn trượng mới ngừng lại.
Lúc này, Lưu đạo sĩ đã choáng đến không còn biết trời đất sao trăng chi nữa. Hồng Nương Tử nâng gối thúc mạnh một cái ngay giữa quần lão, giữa tiếng kêu la thảm thiết nàng lại lấy hai tay kẹp lấy đầu lão vặn mạnh, "rắc" một tiếng, tiếng kêu thảm thiết vừa thốt ra lập tức im bặt.
Trúng phải một kiếm nọ, Thúy Nhi vẫn có thể chịu được, nhưng cây kiếm cắm vào hốc xương lại bị đao chém vào gần như chẻ xương quai xanh của ả đứt rời. Cô ả nửa quỳ trên mặt đất, khó khăn lắm mới có thể thẳng lưng dậy, liền tuyệt vọng phát hiện bên cạnh có mấy bóng người lầm lì vây quanh.
Thôi Oanh Nhi buông một câu lạnh nhạt:
- Kéo nó vào đạo quán!
Thúy Nhi chưa kịp mở miệng, liền cảm thấy da đầu bị siết lại, một cánh tay to lớn nắm đầu cô ả kéo lên, sau đó hai vai lại bị đánh một chưởng, hai cánh tay lập tức rũ xuống mềm oặt, chỗ bị thương chịu phải một kích này gần như khiến cô ả đau muốn ngất đi.
Mấy gã đại hán kéo lê Thúy Nhi vào trong đạo quán, Thôi Oanh Nhi đứng nguyên tại chỗ không nói lời nào, mấy tay hán tử còn ở lại bèn gọi:
- Chị dâu...
Thôi Oanh Nhi nhỏ giọng nói:
- Mặc dù bọn chúng để lại tai mắt nhưng tạm thời khó có thể tập hợp nhân thủ, có điều vẫn nên cẩn thận là hơn, đi dạo một vòng xem thử. Nơi này... đã không thể ở lại nữa.
Hai tên đại đạo dạ một tiếng, rồi lặng lẽ xoay người bước đi. Thôi Oanh Nhi ngước mặt lên trời, để mặc cho bông tuyết rơi phất phơ xuống khuôn mặt, hoá thành giọt nước lạnh ngắt. Tuyết đổ rất dày, rất nhanh mấy thi thể trên mặt đất đã bị phủ lên bởi một lớp tuyết trắng ngần.
Thôi Oanh Nhi khẽ run rẩy, quay người trở về trong đạo quán. Dương Lăng ngồi chờ trong một căn phòng đá nằm ở trong cùng, chỉ nghe thấy bên ngoài có tiếng con gái kêu la thảm thiết, lại bị bọn cướp nhốt trong phòng không cho ra ngoài, y còn tưởng đám giặc cướp này không chịu nổi trống vắng cho nên đêm khuya đã bắt cóc con gái nhà dân về chơi đùa, trong lòng căm hận không thôi.
Thôi Oanh Nhi đi vào trong hang, thấy cả người Thúy Nhi đầy máu, khuôn mặt vốn dĩ xinh đẹp đã bị đánh cho tím bầm, tóc tai bù xù trông như quỷ dữ. Hồ Đại Chuy xách đầu cô ả, đang định tát thêm một cái, Thôi Oanh Nhi liền nghiêm giọng nạt:
- Dừng tay!
Nàng bước tới trước mặt Thúy Nhi, chậm rãi ngồi xếp bằng, lạnh lùng nhìn một hồi lâu, rồi mới cất giọng hỏi:
- Ta hỏi ngươi ba việc. Một, tình hình của Hổ ca hiện nay thế nào? Hai, ngươi và Lưu đạo sĩ là Hộ pháp và Tiên cơ của Di Lặc giáo, lại lao tâm tổn sức trà trộn vào trong sơn trại của chúng ta rốt cuộc tính làm gì? Ba, nếu đã muốn lợi dụng ta, cớ sao lại muốn giết ta?
Thúy Nhi phun ra một bãi nước bọt lẫn với máu, thở hổn hển nói:
- Ngươi cứ giết ta đi, đừng hòng moi được tin tức gì từ chỗ của bản Tiên cơ, rồi sẽ biến thành con ma dốt của quan phủ. Ha ha... hộc!
Hắc Diêu Tử đạp một cước vào bụng dưới cô ả, tiếng cười thảm thiết của Thúy Nhi lập tức ngưng bặt. Thôi Oanh Nhi chỉ cười nhạt, lấy làm thú vị hỏi:
- Tiên cơ? Nghe nói Di Lặc giáo thần thông quảng đại, có thể lôi kéo ngũ quỷ(2), có thể biến sắt thành vàng, đao thương bất nhập, bạch nhật phi tiên, lừa gạt khiến một đám dân đen điên đảo thần hồn. Được, vậy để ta lĩnh giáo thủ đoạn của tiên cô Thúy Nhi một chút.
Đoạn nàng đứng dậy, mỉm cười, rút từ trên tường một cây đuốc chưa cháy hết, cầm kiếm gọt vài cái, đẽo thành một cây cọc có cạnh sắc nhọn, sau đó đến bên cạnh Thúy Nhi, đột nhiên vén váy cô ả lên, thò tay giật ống quần của cô ả xuống.
Bên dưới chiếc váy là chiếc quần màu xanh nhạt, trong lợp vải bông, nhưng sức tay của Thôi Oanh Nhi rất khoẻ, vừa kéo xoạt một tiếng, khúc chân trắng trẻo, thon thả và ưu mỹ liền lộ ra. Thúy Nhi rúm người lại, giọng run rẩy:
- Ngươi muốn làm gì?
Thôi Oanh Nhi nhướng đôi mày liễu, giơ cây cọc đen thùi lên, thản nhiên nói:
- Ta đang nghĩ, nếu như đục một lỗ trên chân ngươi, cắm cây cọc này vào, xuyên nó lên tận bắp đùi, không biết đám yêu đạo có thể thỉnh nhờ Đại La Kim Tiên nhập xác các ngươi sẽ vẫn chịu nổi hay không.
Sắc mặt Thúy Nhi trắng bệch. Cô ả cúi đầu trầm tư một chốc, rồi mới cười đau khổ nói:
- Thôi được! Ta biết rõ thủ đoạn của Hồng Nương Tử ngươi, rơi vào tay ngươi rồi, cũng đừng hòng sống mà thoát ra. Ta nói cho ngươi rồi, chỉ xin ngươi... có thể cho ta một cái chết thoải mái.
Thôi Oanh Nhi cười đáp:
- Thông minh, lại đây, nói nhỏ một chút. Ta đồng ý với yêu cầu của ngươi!
* * *
Sắc trời chạng vạng, bông tuyết tuy nhỏ nhưng cũng rất dày, giống như mạt phấn. Hồng Nương Tử và năm gã đại hán áp giải Dương Lăng loạng choạng đi về phía thành ngoại. Dương Lăng lạnh đến độ da dẻ tím tái, y nheo mắt để tránh gió tuyết, bước thất tha thất thểu theo sau Hồng Nương Tử.
Thành bắc là thành ngoại, bên ngoài không có tường thành, mãi đến những năm Gia Tĩnh sau này tường thành của thành ngoại mới bắt đầu được xây sửa để phòng ngừa giặc ngoài. Tiếc rằng chuẩn bị không thỏa, kế hoạch ban đầu là bao thành nội lại, song sức người và sức của không đủ, chỉ xây được mặt thành nam, còn đông và tây chỉ cho ôm lấy thành nội qua loa là liền cho kết thúc công trình.
Vốn vào thời điểm này, cấm thành trong kinh sư bình thường đều tập trung kiểm tra ở cổng nội thành, nhưng do trọng thần trong triều bị bắt cóc, cho nên hiện tại nơi ra vào của thành ngoại dựng đầy lều trại và trạm gác. Mỗi trạm gác đều có một Bả tổng, kiểm tra nghiêm ngặt người ra vào.
Vẫn chưa đến canh năm, cộng thêm tuyết lớn, trạm gác chỉ có bốn tay vệ binh ôm giáo sắt co ro đứng gác. Trông xa xa thấy có mấy nam nữ đi tới, một tên binh sĩ lập tức quát hỏi:
- Kẻ nào sớm như vậy đã muốn rời thành? Mau đưa ra giấy thông hành và hộ tịch, ngươi, một mình qua đây, những người khác không được tới gần.
Bởi vì gió gắt, tiếng của binh sĩ nọ nghe không thấy lớn. Thôi Oanh Nhi dừng bước chân, ngó năm sáu căn lều trại dựng ở đó, cười lớn bảo:
- Đi gọi quan tướng dẫn binh của các ngươi ra đây, nói có đại đạo Bá Châu là Hồng Nương Tử muốn gặp hắn!
***
Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu dẫn bốn tay thân binh tiến vào căn ngõ hẻm cũ kỹ ở thành bắc. Đến trước đạo quán nọ, Ngũ Hán Siêu nhảy xuống ngựa nói:
- Liễu huynh, tiểu đệ vào trong xem thử!
Chàng ta phi thân vào trong đại điện. Một nửa số phòng ốc của đại điện trống trơn, tuyết bay vào không ít, dưới một bên tường tuyết bị gió cuốn vào gom thành ụ, phía tường đối diện lại không có chút tuyết nào. Chàng ta quan sát chính điện trống không, rồi đẩy mở cửa hông, điện thờ hai bên vẫn chưa lợp mái, chỉ đặt một cái giá, chỉ cần liếc một chút là thấy hết bên trong ngay.
Chàng ta bước mấy bước về phía trước, Liễu Bưu cũng cầm đao theo vào, vòng qua trụ điện, vừa thấy đài đá đặt hương án nọ, hai người liền không khỏi sững ra. Mặt bên hương án xuất hiện một lỗ hang, Ngũ Hán Siêu mừng quýnh, liền phóng qua, trông thấy bên trong dường như có ánh sáng lập loè. Chàng ta cúi tai xuống đất lắng nghe động tĩnh bên trong, đoạn bạt kiếm ra khỏi vỏ rồi nhảy xuống.
Liễu Bưu không kịp cản, vội cùng bốn tay thị vệ đi theo cầm đao đứng thủ ngay cửa hang, chỉ khoảnh khắc liền nghe giọng Ngũ Hán Siêu run run cất lên:
- Liễu huynh hãy mau xuống đây, nơi này không có người, chỉ có xác của một cô gái!
Liễu Bưu nghe vậy liền phóng người nhảy xuống, một lúc sau, hai người lại vội vã nhảy ra ngoài. Ngũ Hán Siêu nói:
- Thân hình và vóc dáng nữ nhân này cực kỳ giống với người đã giao thủ cùng tiểu đệ, thi thể mới vừa cứng lại, đuốc trong động vẫn chưa tàn, chứng tỏ bọn họ rời nơi này chưa lâu. Xem đồ vật để lại bên trong, hẳn có thể giấu được năm, sáu người, rất có khả năng chính là nơi này!
Liễu Bưu liền quát ra lệnh:
- Kỳ chưởng ban, lập tức đi gọi người, đến cổng thành nội, triệu tập nhân mã lật tung cả thành bắc cho ta!
Thị vệ nọ nghe có tin tức của xưởng đốc, liền vội mừng rỡ đáp vâng, rồi xoay người chạy đi. Liễu Bưu trầm ngâm nói:
- Nếu như nơi này chính là nơi ẩn nấp của bọn chúng, bọn chúng bỏ ổ, tại sao không che lấp miệng hang để giấu? Trừ phi...
Ngũ Hán Siêu tiếp lời:
- Trừ phi bọn chúng không muốn trốn nữa!
Liễu Bưu lập tức biến sắc, lo lắng nói:
- Hỏng rồi! Chẳng lẽ tin tức Dương Hổ không nằm trong tay chúng ta đã bị bọn chúng biết rồi sao? Nếu quả như vậy, bọn chúng sẽ đi đâu?
Hai người đưa mắt nhìn nhau, cùng đồng thanh:
- Ra khỏi thành!
* * *
Trước mặt gần trăm quan binh giáp trụ sáng choang, đao thương san sát, đám người Hồng Nương Tử ngông nghênh cưỡi những con ngựa của họ. Chỉ có năm thớt ngựa, hai trong số đó lại là ngựa thồ, Hồng Nương Tử và Dương Lăng ngồi chung một ngựa, hai tên đại đạo có thân thể gầy gò khác cưỡi chung một ngựa.
Hồng Nương Tử kẹp chặt bụng ngựa, một tay ôm lưng Dương Lăng, một tay cầm thanh đoản kiếm gác trên cổ y, nhoẻn miệng cười tươi như hoa, nói với tay Bả tổng râu xồm đang đứng ngây tại chỗ:
- Đa tạ tướng quân đã ban thưởng ngựa, đại nhân đã kiểm tra lệnh bài ra vào hoàng cung của Dương đại nhân rồi, quả thực không chút giả tạo. Hiện tại ta muốn mời Dương đại nhân của ngươi tiễn ta một chặng, nếu như ngươi dám mang một binh một tốt đuổi theo, hơn trăm quan binh ở đây có thể bảo đảm rằng Dương đại nhân chính là bị ngươi bức chết. Lúc đó tự ngươi đi mà giải thích với đám hổ sói của Nội xưởng nhé. Giá!
Nàng co chân thúc vào bụng ngựa, nghênh ngang phóng đi trong chuỗi tiếng cười hào sảng.
* * *
Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu đuổi theo một mạch, giữa đường gặp được tên binh sĩ được gã Bả tổng xui xẻo nọ phái trở về báo tin, nghe chưa hết lời hai người liền phi ngựa đuổi đến lều trại, chỉ thấy một đám quan binh đang đứng trong gió tuyết, gã Bả tổng râu xồm nọ đầu tóc và hai vai dính đầy tuyết. Trông thấy bọn họ đuổi đến, vẻ mặt của lão ta cũng không biết là đang khóc hay đang cười.
Ngựa chạy được một chốc, vừa rời khỏi tầm mắt quan binh, cả bọn liền bỏ quan đạo mà xông vào trong đồng cỏ hoang vu. Dương Lăng đột nhiên hỏi:
- Cô không định trao đổi Dương Hổ sao?
Hồng Nương Tử cười mỉa mai :
- Huynh ấy thực sự nằm trong tay các ngươi sao?
Dương Lăng im lặng, một hồi sau mới nói:
- Các người trốn không thoát đâu, chỉ với mấy thớt ngựa này, còn có tuyết lớn như vậy, các người chạy không tới mười dặm.
Hồng Nương Tử cười lớn nói:
- Đa tạ Dương đại nhân quan tâm. Thực ra ta phải cảm ơn con tuyết lớn này. Tuyết lớn khó đi, đất không lưu vết, đường không thấy người, ngoài trăm trượng không thấy rõ gì cả, trời đất mịt mù, cho dù có trăm vạn truy binh đuổi theo phía sau, có thể làm gì được ta chứ?
Nàng bỗng đảo mắt, kẹp lấy lưng Dương Lăng, ném y xuống đất. Dương Lăng ngã lảo đảo mấy bước, giữ cho ổn định người lại, rồi bình tĩnh ngước nhìn nàng hỏi:
- Cô muốn giết ư?
Hồng Nương Tử vòng ngựa đi quanh y mấy vòng rồi dừng lại, hai người đưa mắt nhìn nhau, bông tuyết rơi nhẹ giữa hai người, che mờ dung mạo của bọn họ. Hồng Nương Tử hít vào một hơi, rồi chợt nói:
- Oan có đầu, nợ có chủ, thật sự bại dưới tay của ngươi, là do bản lĩnh chúng ta kém, hán tử lục lâm không ghi món thù này.
Xúi giục bọn ta vào kinh giết ngươi là người của Di Lặc giáo, gian tế của Di Lặc giáo đó, cũng là thị nữ Thúy Nhi bên người của ta đã bị xử tử. Ngươi cũng đã thấy, hai trăm mạng người này, ta sẽ tìm Di Lặc giáo đòi lại. Dương đại nhân, Hồng Nương Tử ta, nói là giữ lời, hôm nay mượn ngươi để rời thành, thì sẽ tha ngươi một mạng!
Hồng Nương Tử quay đầu ngựa, quát bảo thủ hạ:
-Đi!
Rồi quay đầu lại, mỉm cười nói với Dương Lăng:
- Dương đại nhân! Ngươi là quan, ta là giặc, trượng phu ta bại dưới tay ngươi, ngày sau, chúng ta gặp nhau trên chiến trường, ta sẽ tìm trở lại cuộc chiến này! Giá!
Nói đoạn, nàng vung roi, kiện mã tung bốn vó, phóng như bay đuổi theo mấy tên thủ hạ. Dương Lăng đứng ngẩn ngơ vòng nhìn theo bóng lưng bọn họ đang dần biến mất trong màn tuyết mù mịt đất trời, nhất thời không dám tin nàng ấy sẽ dễ dàng tha cho mình như vậy.
Ngựa chạy xa dần, phía trước vẫn là một màn trời mênh mông mờ mịt. Đang dẫn đầu ở đằng trước, Hồng Nương Tử đột nhiên ghìm cương ngựa, quát:
- Đi, đến Phong Đài, đổi ngựa tốt của chúng ta, nhờ sự trợ giúp của trời đất, rời xa kinh sư!
Hồ Đại Chuy vừa chạy song song với nàng, vẫn bất bình nói:
- Chị dâu, Hổ ca tuy rằng đã thoát khỏi hiểm địa, nhưng sao chúng ta không thừa cơ giết chết tên cẩu quan đó luôn? Cứ vậy mà tha cho hắn, huynh đệ thực sự không phục!
Hồng Nương Tử cười nhạt, vặn hỏi:
- Giết y? Giết y rồi Di Lặc giáo sẽ ra tay với hoàng đế thế nào? Di Lặc giáo mà không ra tay với hoàng đế, liệu triều đình sẽ tập trung toàn lực đi báo thù thay chúng ta sao?
Hồ Đại Chuy sực tỉnh nói:
- A! Ý của chị dâu là...
Hồng Nương Tử cướp lời:
- Chạy mau lên, y tưởng chúng ta chạy về Bá Châu, chúng ta càng phải theo y đến Đại Đồng. Di Lặc giáo coi chúng ta là giáo, lần này ta muốn mượn 'cây giáo' này của triều đình đối phó với lão già Lý Phúc Đạt!
Chú thích:
(1) nơi làm việc đằng sau công đường trong quan phủ
(2) còn gọi là Ngũ ôn thần, hay Ngũ ôn sứ giả, gồm có: Xuân ôn Trương Nguyên Bá, Hạ ôn Lưu Nguyên Đạt, Thu ôn Triệu Công Minh, Đông ôn Chung Sĩ Quý, Tổng quản trung ôn Sử Văn Nghiệp
Chương 183 - Vua muốn đi xa
------------------------
Quan binh canh giữ những quan ải quan trọng của kinh thành cũng không có nhiều kỵ binh cho lắm, mặc dù là kinh sư cũng không nuôi nổi bấy nhiêu chiến mã mà bình thường chỉ để đó không dùng. Nhưng ngay khi tin vừa được đưa vào nội thành, đề kỵ(1) của Cẩm Y Vệ và mã khoái (sai nha cưỡi ngựa) của Ngũ thành binh mã ty liền tranh đi trước đại quân, đuổi theo ra ngoài thành tới mấy dặm đường, bất chấp tuyết rơi mù trời.
Tuyết lớn khó đi, bọn họ đuổi đến khi cả người lẫn ngựa đều mệt lử thì chợt trông thấy ở đằng trước xuất hiện mấy bóng người lẻ loi trên đường. Đám quan binh vội ghìm ngựa rút đao, dè chừng tiến tới gần mới thấy rõ là vài viên thị vệ Nội xưởng đang đứng bất động trong tuyết.
Đám Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu đang đứng như trời trồng, hồn bay phách lạc: phía trước, một gốc cây khô to bằng một vòng tay bị tuyết nặng đè gãy chắn ngang trên đường, trên gốc cây tuyết xốp phủ đều, hiển nhiên bọn đạo tặc đã đi vòng qua. Thế nhưng tuyết lớn mịt mù, trên đường mất sạch dấu tích, bọn họ chẳng khác gì anh mù cưỡi ngựa lòa, biết đuổi về phương nao bây giờ?
Một tay Cẩm Y bách hộ tra cây Tú Xuân đao(2) vào vỏ, thúc ngựa tiến tới. Khi đến gần, trông thấy người ngồi trên ngựa ở đằng trước là Thiên hộ Liễu Bưu của Nội xưởng, hắn liền vội ôm quyền thi lễ:
- Liễu đại nhân! Có phải đã có tung tích của Dương xưởng đốc?
Liễu Bưu quay đầu lại, thấy sau lưng có hơn trăm quan binh cưỡi ngựa bèn hít sâu một hơi rồi quát bảo:
- Toàn bộ tản ra! Năm người một nhóm, lấy nơi này làm trung tâm tìm kiếm chung quanh, thường xuyên trao đổi tin tức lẫn nhau. Một khi có manh mối của đại nhân phải lập tức phi ngựa về báo, không được tự ý quyết định.
Tay Bách hộ đó vâng dạ rồi dặn dò Cẩm Y Vệ và mã khoái tản vào trong đồng hoang. Một lát sau, thềm nhiều người ngựa lục tục kéo đến lũ lượt gia nhập vào trong đoàn người tìm kiếm.
Dương Lăng bị mang vào đồng hoang cách đường cái mấy dặm. Đôi giày quan của y bị tuyết ngấm vào ướt sũng, đôi giày da trâu này vừa ẩm vừa nặng, y bước đi loạng choạng, đi đến độ mồ hôi đẫm lưng, tim đập như trống. Chợt trông thấy trong gió tuyết có mấy bóng người đang đến gần, Dương Lăng trợt chân, suýt nữa ngã nhào.
Mấy tay quan quân trông thấy trước mặt có người, cũng căng thẳng rút đao thương ra quát lớn:
- Kẻ nào đó? Đứng lại! Cấm đến gần! Người đâu mau lên, ở đây có người, ở đây có người!
Dương Lăng định thần lại, trông thấy những kẻ trước mặt mang mũ tua đỏ trông như quan binh, liền vội quát:
- Ta là Dương Lăng, các ngươi là quan binh của bộ nào?
Mấy tên quan binh đó nghe xong thì bán tín bán nghi, bèn đi tới gần quan sát y từ đầu đến chân một lượt, trông thấy y phục của y lập tức tin tưởng mấy phần, nhịn không được liền hào hứng reo to:
- Tìm được Dương đại nhân rồi! Chúng tôi tìm được Dương đại nhân rồi!
Tay tiểu ngũ trưởng cầm đầu hưng phấn đến độ cả mặt đỏ bừng, "Công to ở ngay trước mắt rồi! Đây quả là ông trời tặng đại lễ mừng Tết cho ta rồi!". Gã chỉnh đốn lại y phục, bước vội tới dùng quân lễ ra mắt, cao giọng thưa:
- Tiêu hạ (như thuộc hạ - ND) là Hạ Đại Niên, Ngũ trưởng của Chấn Uy doanh, tham kiến xưởng đốc đại nhân!
Dương Lăng cười khổ, bảo:
- Miễn lễ, mau đưa bản quan trở về! Thực sự chịu hết nổi rồi.
Tay Ngũ trưởng nọ liền vội đứng dậy rồi cùng với một sĩ tốt cường tráng dìu Dương Lăng nhanh chóng quay về. Tin tức mau chóng lan truyền, quan binh nhanh nhẹn tụ tập về hướng đó, đến khi Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu hay tin, mừng như điên chạy đến nơi thì người dìu Dương Lăng đã đổi thành Tì tướng Lưu Bản Nguyên và Bả tổng Trương Khai của Chấn Uy doanh.
Liễu Bưu mặt mày kích động, dừng bước chân ngắm nhìn Dương Lăng một lúc rồi mới nghẹn ngào:
- May sao xưởng đốc đại nhân... bình an vô sự!
Ngũ Hán Siêu bước đến trước mặt Dương Lăng, hổ thẹn nhìn y, rồi không nói không rằng vén áo bào quỳ xuống tuyết.
Tuy Dương Lăng ngồi nơi ghế cao nhưng lại không hề có thói kênh kiệu vênh vang, lấy thân chủ nhân đãi phận tôi tớ; đó cũng là chỗ khác biệt giữa y và những mệnh quan khác.
Tuy thuật tiết chế kẻ dưới từ xưa quý nhất là ở chân thành, chứ không phải thủ đoạn, coi chúa như thầy, coi vua như bạn, coi việc mất nước cấp bách như việc quân. Thế nhưng thời xưa quan niệm tôn ti trên dưới quá nghiêm, dẫu rằng quan viên có đối đãi rộng lượng với kẻ dưới cũng rất khó lòng tôn trọng thuộc hạ, mà chủ yếu là chỉ ban thưởng tiền tài và danh lợi. Cho nên Trình Bất Thức trị quân nghiêm ngặt, một vạn sĩ tốt dưới trướng ai nấy đều nghe lệnh, còn Lý Quảng cai quản thuộc hạ khoan dung, ấy vậy mà năm nghìn thủ hạ lại có thể chọi năm vạn người, mỗi khi gặp chiến trận ai nấy đều dốc sức liều mạng.
(Xin xem Lý tướng quân liệt truyện – Sử ký Tư Mã Thiên, http://www.saharavn.com/index.php?pa...2773&page_num=)
Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi mà Dương Lăng có thể xem các nội tướng Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vĩnh cùng ba vị nguyên Đô ty Thần Cơ doanh và hai người Liễu, Dương là tâm phúc. Bọn họ cũng theo y không rời không bỏ, dĩ nhiên cũng có nhân tố là họ theo y để được tiền đồ như gấm, song quan niệm "sẵn sàng chết vì tri kỷ" của những nhân sĩ này cũng chiếm một phần rất lớn tâm tư của bọn họ.
Về phần Ngũ Hán Siêu, hắn xuất thân võ lâm chỉ mới vừa gia nhập Nội xưởng; uổng cho một thân võ công thế mà lại chưa hề có ý thức làm bảo tiêu. Nay thấy hắn xấu hổ tự thẹn, bộ dạng lôi thôi lếch thếch, Dương Lăng cũng không nỡ trách thêm.
Y bước tới đỡ Ngũ Hán Siêu dậy, mỉm cười nói:
- Minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng, đừng tự trách mình nữa. Có điều sau này phải nhớ kỹ bốn chữ 'làm tròn bổn phận', không phải chức trách của mình thì không can dự vào. Ngươi là thị vệ cận thân của bản quan, hộ vệ bản quan không bị làm hại chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, việc bắt giặc cứ giao cho nha môn xử án là xong. Nếu như lần sau lại xảy ra việc như vầy, cho dù bản quan không phạt gậy ngươi thì phu nhân của ta cũng sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu.
Lời của Dương Lăng khoan dung độ lượng, có mềm có cứng, khiến Ngũ Hán Siêu cảm kích không thôi. Miệng hắn mấp máy, muốn nói rồi lại thôi, cuối cùng đành chôn chặt sự hối hận và cảm kích trong lòng, không thốt tiếng nào.
Dương Lăng quay đầu hỏi Liễu Bưu:
- Chuyện của ta... phu nhân đã biết chưa?
Hiện tại Liễu Bưu đã kiềm được sự kích động khi vừa gặp mặt, rạng rỡ đáp:
- Đại nhân yên tâm! Ngô đại nhân và Hoàng đại nhân không dám để trong phủ hay tin. Thuộc hạ đã đưa tin cho phu nhân rằng do chiến sự tiền phương và sắp đến Tết nên ở cung đình sự vụ bộn bề, vì vậy mấy ngày nay đại nhân không thể hồi phủ.
Liễu Bưu vừa cởi áo choàng của mình khoác cho Dương Lăng vừa nói tiếp:
- Đại nhân! Tin tức đã được phi mã hồi báo về thành rồi, đại nhân hãy mau hồi kinh đi, tránh để Hoàng thượng nhung nhớ. Mấy tên cường đạo đó...?
Dương Lăng bảo:
- Trời tuyết lớn khó lần ra tung tích, bọn chúng chạy về hướng nào khó mà đoán được. Quay về bảo quan phủ các nơi dán tranh, vẽ hình truy nã nghiêm ngặt là được. Còn nữa, bảo người của chúng ta chú ý đến những nhân vật khả nghi vừa xuất hiện trong thành.
Đạo tặc Dương Hổ đến kinh thành, lại do Di Lặc giáo âm thầm dụ dỗ, cuối cùng hai bên lại xảy ra chém giết, rõ ràng không chỉ đơn giản là tạm thời nảy ra ý muốn giết mình như vậy. Tuy Hồng Nương Tử không nói rõ ràng, song Dương Lăng cũng ngờ rằng trong đó ắt có âm mưu, chỉ là chuyện này y không tiện đề cập với Liễu Bưu trước đám đông người.
Y chỉ kể lại qua loa chuyện mình được thả, rồi được mọi người dìu đỡ lên ngựa vội vã hồi thành. Lưu Cẩn vừa nhận được tin, một mặt sai người báo tin mừng cho Hoàng thượng, mặt khác đích thân dẫn người ra ngoài nghênh đón.
Lúc Dương Lăng vào cung, tảo triều hãy còn chưa kết thúc. Thái giám đứng hầu ghé tai nói nhỏ với Chính Đức mấy câu, hắn vừa nghe liền mừng ra mặt, vội vã giải quyết cho hết công vụ, cho dừng tảo triều rồi liền lập tức chạy về phía điện Bảo Hòa.
Chính Đức vừa bước vào đại điện, Dương Lăng đang ngồi dựa bên cạnh lò than lửa long phượng sưởi ấm trông thấy lập tức bước tới làm lễ ra mắt. Chính Đức nâng tay đỡ y, quan sát một lượt rồi mừng rỡ cười nói:
- Tốt, tốt! Trở về là tốt rồi, mấy ngày nay khiến trẫm thực lo quá đi.
Hắn kéo Dương Lăng vào trong nội điện, ngồi trên giường lò, rồi cười nói với đám người Dương Lăng, Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng:
- Ngồi đi, ngồi xuống cả đi! Dương khanh, đám đại đạo Bá Châu đó không làm khó gì khanh chứ?
Tiểu hoàng môn dọn vào sáu bảy cái bệ gấm, đám người Dương Lăng tạ tội rồi ngồi xuống. Thấy trong phòng chỉ có mấy người trong đám bát hổ, Dương Lăng bèn đáp:
- Dạ! Nữ tặc đó bắt cóc thần chỉ vì muốn trao đổi với đạo tặc Dương Hổ của ả, cho nên không hề ngược đãi thần. Về sau biết được Dương Hổ đã bỏ trốn, ả mới mang tính mạng của thần uy hiếp, phá ải xông ra ngoài tẩu thoát.
Chính Đức nhướng mày, nôn nao bứt rứt:
- Từ xưa những kẻ cậy võ vi phạm cấm lệnh, dám bắt cóc trọng thần triều đình quả thực rất hiếm. Gan dạ và bản lĩnh của nữ tặc này thực bất phàm, có thể bắt cóc khanh ngay giữa phố chợ sầm uất, phải chăng là phi tặc biết khinh công bay lượn trong truyền thuyết? Thực khiến cho trẫm rất háo hức, tò mò đây.
Dương Lăng đáp:
- Lên cao xuống thấp như đi trên đất bằng, búng người không cao hơn một trượng, kiếm không (dài) tới ba thước chỉ có thể cậy võ phạm cấm, khiến cho máu đổ năm bước mà thôi. Điều Hoàng thượng tu chính là Thiên Tử kiếm, một cái vung tay, binh ở ngoài vạn dặm liền kéo đi như thủy triều, vừa ra chiếu lệnh, liền thao túng tính mạng sinh tử cùng hỷ nộ ái ố của tất cả mọi người. Võ công cao có gì mà đáng hâm mộ?
Chính Đức cười to, mặt mày nở nang:
- Ái khanh nói chí phải! Thị vệ đại nội của trẫm cũng có bản lĩnh như vậy, cái gì là tám bước đuổi ve, lướt bèo qua nước gì chứ!? Có lần trẫm cao hứng từng bảo bọn chúng tay không trèo lên điện Thái Cực, song lại không một ai trèo nổi.
Dương Lăng tiếp lời:
- Lời đồn của dân gian bao giờ cũng thổi phồng bản lĩnh của bọn họ. Có điều đám mã tặc này cậy vũ lực đối chọi phép vua vẫn không đáng sợ, song hiện tại lại có một lực lượng mà Hoàng thượng vạn lần chớ nên xem nhẹ.
Chính Đức hiếu kỳ hỏi:
- Lực lượng nào?
Dương Lăng thưa:
- Di Lặc giáo! Bọn chúng dùng lời tà thuyết mê hoặc dân chúng, khắp tam giáo cửu lưu đều có tín đồ mù quáng nghe theo. Theo lời của đám mã tặc Bá Châu mà thần nghe trộm được, lần này mấy trăm đại đạo âm thầm vào kinh chính là do sự sai bảo của giáo chủ Di Lặc, mưu đồ hiển nhiên không chỉ là tính mạng của thần. Cái nguy hại của tà giáo hơn xa mối nguy của đám vũ phu tụ tập nơi núi rừng, Hoàng thượng không thể không cẩn thận!
Từ xưa, điều đế vương e ngại nhất chính là những tổ chức tà giáo mê hoặc lòng dân; lực lượng của bọn họ như rễ cây bám sâu vào lòng đất, ẩn náu trong dân gian. Khi bọn họ không phát động đấu tranh hoặc nổi loạn thực khó mà phân biệt lương dân với tín đồ; đợi đến khi bọn họ vừa khởi sự lập tức đã có ngay mấy mươi vạn tín đồ, sẽ rất nguy hại cho triều đình. Triều Minh vốn lợi dụng giáo phái để khởi sự, thành sự rồi mới thoát ly khỏi bọn họ, cho nên hiểu rõ nhất về sự đáng sợ của lực lượng tôn giáo.
Chính Đức nghe xong nụ cười liền tắt vụt, lo lắng:
- Di Lặc giáo? Lúc bọn chúng truyền đạo ở Thiểm Tây, lôi giành sự ủng hộ xa gần, ngu dân giào nghèo theo họ có kẻ dâng biếu cả nghìn vàng, cho dù phá gia cũng cam tâm tình nguyện, hoặc hy sinh con cái, hoặc buông bỏ đồ dùng, nối đuôi mà theo. Một khi giáo chủ hạ lệnh, liền có thể thu được vạn lượng hoàng kim trong một tối, hương dân gần xa không ai mà không theo bóng nó, quả thực là cái họa lớn của triều đình.
Có điều sau khi cái tên Lý Việt bị chém đầu, bọn chúng liền tan đàn xẻ nghé, triều đình đã không còn nghe đến tung tích của Di Lặc giáo nữa, chẳng lẽ bọn chúng vẫn đang hoạt động?
Dương Lăng gật đầu đáp:
- Dạ, Di Lặc và Bạch Liên vốn một nhà. Từ cuối đời Đường, Tống, Nguyên đến nay, người Hán làm chủ thì sẽ phản Hán, người Nguyên làm chủ lại sẽ phản Nguyên, mưu đồ của nó chính là xã tắc vậy. Mỗi khi gặp phải đả kích, nó liền sẽ biến lớn thành nhỏ, biến nhỏ thành không, rút vào trong bóng tối, âm thầm tích góp lực lượng chậm rãi chờ ngày quật khởi. Theo thần nghĩ, do lực lượng của bọn chúng hiện chưa đủ để đối kháng với triều đình nên mới mượn tay kẻ khác, nhằm loạn chính nhiễu dân.
Chính Đức đứng bật dậy, đám người Dương Lăng và Lưu Cẩn liền vội đứng lên theo. Chính Đức chậm rãi thả bước trong điện một hồi, chợt trỏ Cốc Đại Dụng bảo:
- Đại Dụng! Việc này giao cho ngươi đi làm, tập hợp lực lượng Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y Vệ, bí mật truy lùng Di Lặc giáo, nhất thiết phải diệt trừ gốc rễ bọn chúng.
Cốc Đại Dụng liền vội vâng dạ đáp lời. Chính Đức thoáng trầm ngâm, lại vung tay hạ lệnh:
- Các ngươi lui xuống đi, Dương khanh hãy ở lại.
Đợi mọi người lui ra khỏi điện rồi, Chính Đức vội nói với Dương Lăng:
- Dương khanh, mạch máu của Bạch Liên giáo kéo dài đã mấy trăm năm, đời sau nối tiếp đời trước, trước nay đều không thể tiêu diệt được nó.
Khi tiên hoàng còn sống, thường hay nói rằng bá tánh thờ ngưỡng nó, hoặc vì phú quý, hoặc do trường sinh, trong đó không thiếu người lương thiện, chưa hẳn đều là những kẻ có mưu đồ tạo phản. Nếu như trừng phạt quá rộng, sẽ gây tổn hại đến gốc rễ của Đại Minh, còn nếu chỉ tiêu diệt kẻ cầm đầu, lại sẽ như ngắm hoa trong sương. Đại Minh từ thời dựng nước đã diệt trừ tà giáo, không biết còn phải diệt trừ đến năm nào tháng nào.
Việc này không gấp, giao cho hai xưởng một vệ xử lý là được. Nội xưởng của khanh vẫn còn phải để ý đến chiến sự ngoài Đại Đồng và chuẩn bị cho trẫm đi lên phương bắc.
Dương Lăng do dự:
- Hoàng thượng! Thần bị đạo tặc bắt cóc đã khiến cho lòng người bất an, nếu như lúc này Hoàng thượng xuất kinh, e rằng bá quan sẽ càng kinh hãi. Chi bằng bí mật thông tri cho Đoá Nhan Tam Vệ trước, đợi khi việc thanh trừng giặc cướp và đả kích tà giáo của thần có chút thành quả rồi Hoàng thượng mới khởi hành. Hoàng thượng thấy thế nào?
Chính Đức có mỗi việc xuất kinh này là chuyện vui, thật sự còn sướng hơn cả đón Tết nên nào thèm nghe. Hắn không chịu:
- Kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ sớm một ngày thì biên ải sẽ bớt được một ngày tổn hại. Đây là đại sự nước nhà, trẫm đường đường là vua một nước, há có thể sợ một đám giặc cướp? Lòng dân bất ổn thì mặt mũi triều đình càng bị tổn hại, cho nên trẫm càng phải xuất kinh!
Rồi hắn hớn hở nói tiếp:
- Đợi trẫm từ biên ải nở mày nở mặt trở về kinh sư, lòng dân sẽ yên ổn ngay. Nếu như ngay cả lãnh thổ của chính mình mà trẫm còn không dám bước chân đến thì mới thực sự là mất hết mặt mũi đó. Bọn chúng có thể bắt cóc ái khanh giữa dăm ba thị vệ là có thể khiến trẫm bị thương giữa trăm nghìn giáp sĩ ư? Nếu như có bản lĩnh đó, bọn chúng cũng có thể xông vào cung bắt cóc trẫm vậy. Thế thì trẫm cũng nên chắp tay dâng cái giang sơn này cho rồi, trốn trong Tử Cấm Thành còn an toàn sao?
Dương Lăng cười khổ sở đáp:
- Muốn Hoàng thượng xuất kinh, tự dấn thân nơi biên ải, thị sát dân tình, kết giao với nước chư hầu, làm một thánh quân lưu danh thiên cổ, vốn là tâm nguyện của thần. Nhưng mà Hoàng thượng lại can hệ đến cả thiên hạ, thần thực sự chưa nguôi hết nỗi lo.
Chính Đức cười hí hửng:
- Chưa nguôi hết nỗi lo thì sẽ từ từ mà nguôi, kinh thành này trẫm vẫn sẽ phải rời khỏi. Trẫm dẫn theo ba trăm thị vệ đại nội, cộng thêm mấy nghìn quân thiết giáp của khanh, thực muốn xem thử còn ai có thể đả thương được trẫm.
Nói đoạn hắn sực nhớ ra một chuyện, bèn hớn hở kể:
- Đúng rồi! Dương khanh quả nhiên có nhãn quan độc đáo. Mấy ngày trước có đám ngôn quan dâng sớ chỉ trích Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân uổng công ôm mười vạn quân nhưng lại đóng thành không ra, mặc cho giặc Thát hung hăng càn quấy ngoài thành. Ái khanh lại nói bọn họ làm vậy ắt có mưu đồ, cho nên trẫm nghe xong mới không hạ chỉ giục bọn họ xuất binh, chỉ chuyển tấu chương hặc tội đến cho Dương Nhất Thanh, bảo gã dâng sớ biện bác.
Hôm qua tấu chương của Dương Nhất Thanh đã được đưa vào trong kinh, bọn họ quả nhiên có mưu kế khác. Ha ha, hai người này khẩu vị không nhỏ đâu à! - Chính Đức vừa nói vừa lục lọi trên chiếc bàn chân thấp trên giường một hồi, không tìm thấy bản tấu chương bèn kể tiếp - Xưa nay giặc Thát xuất binh, luôn lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, không mang theo cấp dưỡng, và thực sự là bọn chúng cũng không có cấp dưỡng để mang theo. Cho nên khi đánh luôn phải nhanh như mưa sa gió táp, phải một kích tất trúng. Mục đích không đạt được liền chuyển sang công kích nơi khác, không thể dừng lại ở một nơi quá lâu.
Lúc đầu bọn chúng công thành chiếm đất, cướp được một số lượng lớn tiền bạc và lương thực. Dương Nhất Thanh lại không cho bọn chúng có cơ hội rút lui, cứ kẹp chặt lấy bọn chúng, níu chân bọn chúng ở vùng lân cận Đại Đồng. Hơn bảy vạn đại quân giặc Thát, phải nuôi cả ngựa lẫn người, nay những thức bọn chúng cướp được đều đã hết sạch.
Năm nay bọn chúng xuất binh cướp bóc, chẳng những không thể lấy được gì về cấp dưỡng cho bộ tộc mình mà lúc xuất binh còn dùng hết lương thực dự trữ, sau khi trở về e rằng sẽ phải giết bò ngựa mới có thể qua khỏi mùa đông, ắt sẽ đại thương nguyên khí. Tên Dương Nhất Thanh này đánh giặc không chỉ lo nghĩ trước mắt, mà tầm mắt lại còn trông xa đến vậy, quả nhiên là một tướng tài.
Hai ngày trước Vương Thủ Nhân đóng quân giữ ải, sau một ngày khổ chiến đã quăng mũ cởi giáp, vờ đại bại mà chuồn, bỏ lại lương thảo cho giặc Thát. Những tên lính đói đó vội vã chôn nồi nấu cơm. Ăn xong bữa đó, lính trúng độc mà chết đã có hơn năm nghìn, ngay cả chiến mã ăn phải cỏ độc cũng chết quá nửa, đó đều là tinh nhuệ của Bá Nhan đó à. Ha ha, không phí một binh một tốt mà có thể khuất nhục được địch quân, đánh trận như vậy trẫm mới thích!
Chậc! Có điều không biết Bá Nhan Mãnh Khả nghe báo xong có thổ huyết không nữa, chốc nữa hãy kêu người của khanh thám thính thử xem sao.
Chính Đức mỉm cười vỗ vai Dương Lăng, hết sức hài lòng.
Dương Lăng nghe xong cũng vui sướng vô cùng, bèn tâu:
- Công lớn như vậy, Hoàng thượng nên thưởng lớn mới được. Trên chiến trường, làm tướng dụng binh thực không dễ, có Hoàng thượng ban thưởng, nhuệ khí sẽ được nâng cao, một lính có thể chọi hai quân đấy.
- A! Chính Đức vỗ vỗ trán, - Vốn trẫm cũng định ban thưởng, nhưng Lưu Cẩn nói mới chỉ là tin thắng trận mở màn, nếu như thưởng to, e rằng binh tướng sẽ sinh ra kiêu ngạo, cho nên trẫm đã gác lại. Việc này... hiện tại ban thưởng có sao không?
Dương Lăng nghe hắn nói vậy thì ngẩn người. Y đã lường trước Lưu Cẩn nhất định cực kỳ bất mãn với hai người Dương Nhất Thanh, tuy kết quả dụng binh của hai người này có liên quan trực tiếp đến niềm vui nỗi buồn của lão cho nên lão phải dốc sức làm tốt công việc hậu cần, song lão sẽ không mong thấy hai người bọn họ được khen thưởng.
Dương Lăng không trả lời ngay, mà lại cười, nhớm hỏi:
- Có công thì thưởng, có tội thì phạt, lúc nào ban ơn, khi nào nghiêm luật, Hoàng thượng nhất định đã có dự tính sẵn trong lòng. Nếu như Hoàng thượng là tướng lĩnh dẫn binh, sẽ hy vọng thế nào?
Chính Đức không hề nghĩ ngợi gì, hùng hồn đáp ngay:
- Trẫm ư? Trẫm đã lập được đại công thì đương nhiên muốn được thưởng, muốn thăng quan, muốn tiến chức, muốn cưỡi ngựa diễu hành, được nở mày nở mặt mà, bằng không ai còn bán mạng cho khanh chứ? Trẫm hài lòng thì lính của trẫm cũng không... ồ...
Hắn chợt ngậm miệng, liếc xéo Dương Lăng, cười tủm tỉm, đấm ngực y một cách thân thiết, rồi cười lớn bảo:
- Nói chuyện vòng vo! Dương thị độc cũng gạt cả trẫm vào tròng rồi.
Chính Đức suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Vậy tức là thưởng. Tết rồi, tướng sĩ ở tiền phương phục tùng mệnh lệnh, không vì chuyện này thì vẫn phải thưởng. Chốc nữa trẫm sẽ bảo Lý Đông Dương và Tiêu Phương thu xếp là được. Đúng rồi, tấu chương liên danh của Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân còn đề cập đến việc khi giặc Thát đại thương nguyên khí, bọn chúng lấy du mục làm chủ, không quen trồng trọt, mùa đông năm nay dê bò tiêu hao quá nhiều, e rằng sang xuân cũng sẽ thay đổi thói quen trước kia, sẽ không ngừng tập kích biên giới. Bọn họ kiến nghị với trẫm là vẫn cho phép đóng trọng binh ở biên tái. Nếu như Thát Đát tập kích biên giới mà không được gì, chắc hẳn bọn chúng sẽ quay sang Đoá Nhan Tam Vệ gây áp lực đòi lấy tài vật, cho nên đề nghị trẫm ban ơn lôi kéo Đoá Nhan Tam Vệ, không ngờ lại khéo hợp với đề nghị của khanh.
Dương Lăng đăm chiêu đáp:
- Ừm! Bọn họ ở tiền phương, đương nhiên sẽ thấy được rõ, nghĩ được xa, năm sau Thát Đát tập kích biên giới, chính hợp với ý thần. Đúng lúc Hoàng thượng đổi chỗ Kinh doanh và biên quân để bọn họ luân phiên ra chiến trường rèn luyện một phen, nhân dịp này mượn tay Thát Đát huấn luyện quân Đại Minh của chúng ta.
Về phần Đoá Nhan Tam Vệ, chuyện này vốn đã được dự tính trước, đây cũng là một cơ hội tốt để bức bọn chúng quy thuận triều đình. Có điều bọn chúng chỉ biết theo đuổi cái lợi, không giữ vững lập trường, đục nước béo cò, trước đây khi còn giao hảo vẫn thỉnh thoảng tập kích cướp bóc biên cảnh, chưa hề thực sự ngoan ngoãn quy thuận. Kết minh chẳng qua chỉ là cái kế tạm thời, mảnh đất rộng lớn Liêu Đông sớm muộn gì sẽ phải nằm trong tay triều đình mới được, cho nên không thể vì vậy mà áp chế bọn chúng.
Muốn nhận trước hết phải cho. Bọn chúng có ngựa, chúng ta có lương thực, dầu, muối, vải vóc, tơ lụa, lợi ích chẳng những không thua kém, mà còn có thể cho bọn chúng nhiều hơn, tăng thêm tỉ suất trao đổi chiến mã và lương thực dầu mỡ, khiến chúng càng lúc càng giàu, càng sẽ không để ý đến Thát Đát nữa. Thát Đát cũng sẽ càng lúc càng đỏ mắt vì ghen tị, khi đó sẽ chính là cơ hội của triều đình.
Dường như Chính Đức bẩm sinh rất hứng thú với những thủ đoạn lừa bịp của phường cường đạo, không hề có chút giác ngộ nào của bậc đế vương thiên triều, nghe xong kế sách "hèn hạ thâm độc" của Dương Lăng thì hắn không khỏi gật đầu lia lịa, luôn mồm khen phải.
Đã sát cuối năm, chuyện vì một đại đạo mà binh giáp khắp thành đã tổn hại đến năng lực và uy tín trong việc khống chế thiên hạ của triều đình, nếu không phải việc cực chẳng đã, thực sự triều đình chẳng cần phải căng thẳng như vậy. Hồng Nương Tử đã thoát khỏi kinh sư, Lý Đông Dương liền xin Chính Đức thánh chỉ rút quan binh Kinh doanh về, kinh sư dường như đã khôi phục lại cục diện yên tĩnh phồn vinh trước đây.
Bộ Hình lập tức công khai phát công văn đến các phủ và các đạo, ra lệnh truy bắt đại đạo Dương Hổ và Hồng Nương Tử.
Mùa đông mà dụng binh với sơn tặc là việc lợi bất cập hại, thế nhưng hành động của vợ chồng Dương Hổ đã làm mất thể diện của triều đình. Dưới tình hình đó Lưu Đại Hạ cũng không dám làm trái thánh chỉ, lão đành phải âm thầm căn dặn tướng lĩnh dẫn binh vừa đấm vừa xoa, vây bắt thay vì tấn công, không được tùy tiện xông vào núi một cách ồ ạt.
Trên thi thể được phát hiện phía sau đạo quán trong con hẻm đổ nát phía thành bắc, quan viên khảo sát hiện trường của bộ Hình đã phát hiện tín vật của Di Lặc giáo, chứng thực nhận định của Dương Lăng. Vốn hai xưởng một vệ tưởng rằng Di Lặc giáo đã tan thành mây khói, lúc này mới biết bọn họ đã quật khởi, không khỏi bèn tăng cường việc lùng bắt.
Đã sắp đến Tết. Trước Tết ba ngày ấy là lúc triều đình được 'nghỉ phép'(3), vua không phải xử lí chính sự, một ít quan viên vùng khác cũng xin nghỉ trở về quê ăn Tết. Ngày này khắp chốn ăn mừng, ngay cả kinh sư cũng cho phép ăn xin kiếm cơm trong thành; lệnh giới nghiêm ban đêm được dỡ bỏ, đám quan sai của Ngũ thành binh mã ty cũng bớt hống hách, không tùy tiện vụt roi người đi đường phạm lỗi nữa.
Trận tuyết lớn hai ngày trước đã làm đổ nhà một số hộ dân ở thành bắc và thành tây. Bộ Hộ phái dịch phu tu sửa hoặc tài trợ ít tiền tài. Đây là thông lệ của triều đình, quan phủ các nơi cũng đều như vậy, không ai dám làm trái.
Những người phụ nữ mà ngày thường không bước chân ra khỏi nhà nay cũng có thể ra ngoài dạo chơi, đi chùa thắp hương, ra chợ mua ít son phấn, bột nước, tranh Tết cầu may lẫn những thứ mà bọn họ ưa thích.
Trở về đến phủ, Dương Lăng vẫn không dám để lộ chuyện bị bắt cóc. Thấy đám phụ nữ trong nhà hớn hở muốn ra ngoài dạo phố, y không nỡ cắt sự hào hứng của bọn họ trong ngày Tết nên đành âm thầm phái người Nội xưởng đi theo làm tùy tùng kiêm bảo vệ. Lần này y không dám lơ là, bốn mươi viên phiên tử vận thường phục được chọn đi theo ba vị phu nhân cùng với Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận đều là những kẻ biết công phu giang hồ, trong người đều nhét nỏ mạnh và hỏa súng ngắn.
Quan viên ở lại trong kinh đều phải tham gia đại lễ tại triều đình, ngoài ra, là người đứng đầu một nhà, bọn họ còn phải chủ trì thu xếp đón ngày Tết cho toàn gia đình, nên ai nấy bận rộn không thôi. Dương Lăng càng bận bịu hơn, bận đến nỗi thậm chí không có thời gian dạo phố cùng ba vị phu nhân. Cả ngày y bôn ba giữa ba xưởng, một vệ và mười hai đoàn doanh, chỉnh đốn quân ngũ, kiểm tra gia thế để tinh lọc, tuyển trạch tinh nhuệ, dùng Nội xưởng làm chủ lực nhằm tuyển chọn tinh binh theo tùy tùng Hoàng đế đến phương bắc. Đương nhiên những việc này đều được tiến hành một cách bí mật, rất ít người biết được mục đích thật sự của y.
Dương Lăng thân vận giáp mềm, khi ra vào thành cũng được bảo vệ canh gác, chận đường nghiêm ngặt. Vốn xuất thân danh môn nên Ngũ Hán Siêu vẫn coi thường việc sử dụng ám khí, song từ dạo ăn phải trái đắng, lúc này ngoài thanh lợi kiếm tùy thân hắn còn kè kè thêm hai bọc phi tiêu Kim Tiền, theo Dương Lăng như hình với bóng, một tấc không rời. Chung quanh y còn có mười hai viên phiên tử bảo hộ công khai và ngần ấy người âm thầm bảo vệ, có thể nói là gió mưa không lọt.
Thị vệ cận thân của Hoàng đế đã có cao thủ đại nội, còn những tinh binh do Dương Lăng tuyển chọn đều là những tráng sĩ trăm người chọn một, kiêu dũng hơn người. Đội ngũ gồm năm nghìn người tinh nhuệ như thế này đủ khiến bất kỳ một đội quân nào cũng phải ghen tị.
Năm trăm nữ kiếm sĩ hộ vệ tùy thân, hai nghìn nội giám quân túc trực luân phiên, cộng thêm dũng sĩ và quan quân hộ giá, thị vệ đại nội, lại còn có một số sư thái là đệ tử thân truyền của sư thái Thủy Vân của am Thủy Vân, đạo sĩ phái Long Hổ Sơn do Bỉnh Nhất chân nhân Đào Trọng Văn tiến cử, một số đạo sĩ của Toàn Chân Long Môn phái, đạo sĩ tu chân ở các miếu Võ Đang được hoàng gia sắc kiến(4), võ tăng ở các chùa chiền Thiếu Lâm được hoàng gia sắc kiến, cao tăng Ngũ Đài Sơn ở Sơn Tây; một đám người đang sẵn sàng đứng trước xa giá chờ nghe hiệu lệnh, thật là quyền thế ngút trời.
Tuyển chọn quân dũng sĩ tinh nhuệ xong, vẫn cần bọn họ làm quen với nhau, phối hợp ăn ý. Dương Lăng thu xếp cho năm nghìn tinh binh này ở trong Thần Cơ doanh, mời Ngũ quân đô đốc phủ và đại nội luân phiên phái người huấn luyện cho bọn họ phép đánh trận và phối hợp chiến đấu. Hôm nay y mới vừa từ trong Thầnh Cơ doanh chạy về, còn phải trở lên Nội xưởng xem thử hành trình xuất kinh cụ thể mà đám người Ngô Kiệt đã chuẩn bị cho Hoàng đế.
Ngựa chạy đến cổng thành, trong dòng người đông nghìn nghịt Dương Lăng chợt nhìn thấy mấy bóng hình quen thuộc. Y chăm chú nhìn, thấy là các cô Hàn Ấu Nương, Tô Tam và Tuyết Lý Mai đang kiễng chân sờ cái ụ đồng trên bề mặt cổng thành, đứng sau lưng là hai người Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận. Nghiêng đầu mỉm cười, hai má ửng hồng, các cô gái ấy xinh đẹp muôn phần, dân chúng đi qua đều trao cho bọn họ những nụ cười đầy thiện cảm.
Quan binh chặn gác cổng thành vẫn còn rất đông, cộng thêm hiện đang là lúc Bá Châu quét cướp, Đại Đồng chống giặc, thế nên thường có quan binh cưỡi ngựa lui tới báo tin. Cách cổng thành không xa là hai đội múa lân múa rồng trống chiên inh ỏi. Đám người Dương Lăng đi từ ngoài thành vào, vẫn chưa thu hút sự chú ý của các cô, có điều Liễu Bưu đứng cạnh mấy vị phu nhân luôn để ý đến động tĩnh chung quanh đã trông thấy y tới. Hắn vội ghé tai nói nhỏ với một người cải trang làm bá tánh thường dân mấy câu, sau đó vòng qua bọn họ tiến về phía y.
Dương Lăng ngồi trên ngựa khom người xuống hỏi:
- Các vị phu nhân đang làm gì vậy?
Liễu Bưu không nhịn được cười đáp:
- Đại nhân! Thuộc hạ đi theo phu nhân vào miếu dâng hương rôi đi dạo phố chợ, thuộc hạ có nhắc đến chuyện mười sáu tháng giêng nữ giới nên leo lên đầu thành, lên tường thành xua tan bệnh tật, chị em bạn dâu qua cầu nhỏ để vượt tai ương, rờ ụ đồng thì sẽ sinh con, còn là con trai nữa. Khụ khụ... mấy vị phu nhân liền đến... liền đến rờ ụ đồng. Thuộc hạ có nói rằng mười sáu tháng giêng mới linh, song Tuyết phu nhân lại nói... đã sẵn dịp ra ngoài, rờ thêm một lần cũng tốt vậy.
Dương Lăng nghe xong thì lắc đầu cười khổ. Y thấy mấy vị phu nhân đang cao hứng như vậy mà lúc này mới là chính ngọ, nếu mình đi ngang qua, bọn họ trông thấy nhất định sẽ theo mình trở về. Hiếm khi bọn họ có dịp ra ngoài như thế nên Dương Lăng không muốn làm bọn họ mất hứng. Y đang do dự không biết có nên tránh đi hay không, bỗng nhiên một hàng người ngựa dừng lại bên cạnh. Một người đàn ông vạm vỡ tuổi trạc tứ tuần, vận áo bào ống rộng, ngồi thẳng trên lưng ngựa, ghìm cương cười hỏi:
- Đằng trước có phải là Dương đại nhân không?
Dương Lăng ngẩng đầu, thấy người đó ria mép đen như mực, áo gấm đai ngọc, thẳng lưng trên ngựa, khí khái hào hùng, hai bên có mấy gia tướng đi theo; cưỡi ngựa bên cạnh là một vị tuổi trạc ngũ tuần, toàn thân vận nho phục cổ tròn, dáng cười toe toét.
Dương Lăng suy nghĩ một lúc mới nhớ ra người này là con trai của Vũ Định hầu Quách Lương, tên là Quách Huân. Tuy vẫn chưa kế thừa tước vị, song vì thân phụ tuổi đã cao, không tiện đi lại, mọi việc đối đáp xã giao đều giao cho ông ta ra mặt, cho nên ông nghiễm nhiên mang thân phận huân khanh. Nhà họ Quách và hoàng thất đã kết thân ba đời, hiện Quách Huân là Chánh đề đốc của Tam Thiên doanh, hai ngày trước Dương Lăng đã từng gặp qua.
Dương Lăng rẽ ngựa sang, chắp tay chào:
- Hóa ra là Quách tướng quân, thất lễ thất lễ! Tướng quân đang muốn ra ngoài thành ư?
Quách Huân cười đáp:
- Hôm nay ba mươi tháng chạp, là ngày phong ấn, nha môn không phải mở cửa làm việc. Vị bạn tốt này của bản tướng lại phải vội vã rời kinh đi nhậm chức, vì vậy ta tiễn y ra ngoài thành.
Dương Lăng thấy Quách Huân trỏ vào người đàn ông tuổi ngũ tuần trông nho nhã và thân thiện bên cạnh, nghe nói ông ta đi nhậm chức quan, lại là bạn thân của Quách Huân nên hẳn không phải là một chức quan nhỏ, bèn vội chắp tay chào:
- Hân hạnh hân hạnh! Vị đại nhân này thực lạ mặt, đã sắp đến Tết rồi, sao không ở lại kinh ăn Tết rồi hẵng đi nhậm chức vậy?
Quách Huân cười nói:
- Không phải đâu! Đại nhân tưởng vị hảo hữu hào hoa phong nhã này của bản tướng là quan văn ư? Vị này họ Trương tên Dần. Chỉ huy sứ Thái Nguyên vệ gặp cơn bạo bệnh mới qua đời, vị hảo hữu này của bản tướng nhận lệnh kế nhiệm vận chuyển vũ khí trang bị và lương thảo từ các nơi đến Đại Đồng. Y đã đến Thái Nguyên nhiều lần, trọng trách nặng vai, cho nên không thể không đi ngay.
Chú thích:
(1) trỏ quan lại truy nã tội phạm
(2) loại đao lưỡi hẹp của Cẩm Y Vệ, xem hình trang phục Cẩm Y Vệ (http://www.forex.com.cn/upload/2010-...4073125912.jpg)
(3) nguyên văn "hưu mộc"', nghĩa là “nghỉ để tắm gội”. Lệ xưa làm quan cứ mười ngày được nghỉ một lần để tắm gội, cho nên sau này ngày lễ nghỉ được gọi là ‘hưu mộc nhật’
(4) "sắc" nghĩa chiếu thư của vua; "kiến" nghĩa xây dựng, trỏ công trình dựng nên theo chiếu mệnh vua ban
Chương 184 - Mồng sáu lên đường
------------------------
Thái Nguyên và Đại Đồng nương tựa lẫn nhau, tạo thành thế ỷ giốc. Giặc Thát nhiều lần tấn công biên ải, đa phần đều tấn kích trước vào Tuyên Phủ Đại Đồng. Thái Nguyên tựa vào đất liền, không phải là mục tiêu công kích chính nên binh mã Thái Nguyên đã trở thành một cánh quân quan trọng để kiềm chế Thát Đát. Mỗi khi Đại Đồng gặp phải hiểm nguy triều đình đều điều động binh mã từ Thái Nguyên đến cứu viện.
Trước khi đại quân của Dương Nhất Thanh tiến đến Đại Đồng, do tình thế biên quan nguy cấp nên Chỉ huy sứ của vệ Thái Nguyên đã dẫn đại quân gấp rút chi viện. Trên chiến trường ông bị trúng phải tên lạc, bệnh tình vốn không quá nghiêm trọng, nhưng không ngờ sau khi trở về Thái Nguyên, vết thương lại đột nhiên diễn biến xấu, thế là ô hô thương thay. Không ngờ Chỉ huy sứ tân nhiệm của vệ Thái Nguyên lại chính là vị Trương đại nhân Trương Dần này.
Nhà họ Quách rất có ảnh hưởng trong quân đội, xem ra vị Trương Dần này hẳn là thân tín do Quách Huân đề bạt. Dương Lăng bèn vội chắp tay chào ông ta:
- Ngưỡng mộ đã lâu, ngưỡng mộ đã lâu! Đêm giao thừa mà Trương đại nhân vẫn phải bôn ba trên đường, thực sự là cực khổ cho ngài rồi.
Trương Dần ôm quyền thi lễ, mỉm cười đáp:
- Hoá ra là Dương đại nhân ở ngay trước mặt. Hạ quan nghe uy danh của đại nhân đã lâu, như sấm bên tai, hôm nay được gặp thật là may mắn ba đời. Thân đã gửi vào nơi binh nghiệp, vốn chính là nuôi quân nghìn ngày, dùng quân một chốc, lúc này cực khổ cũng là lẽ đương nhiên thôi.
Lão ta vừa nói vừa quét mắt sang những người bên cạnh Dương Lăng, lúc thấy Ngũ Hán Siêu ánh mắt lão dừng lâu hơn một chút, rồi lại dời mắt về phía Dương Lăng như thể không có việc gì. Dương Lăng thấy lão nhã nhặn nho nhã, hai mắt có thần, nói chuyện đúng chừng đúng mực, cũng bất giác nảy sinh hảo cảm.
Đôi bên trò chuyện mấy câu, thấy người đứng ở cổng thành càng lúc càng đông, đã hơi bị ùn tắc, Quách Huân bèn khẽ chau mày nói với Dương Lăng:
- Không quấy rầy Dương đại nhân nữa. Trương huynh nóng lòng nhậm chức lo liệu chính sự, xin phép cáo từ tại đây.
Dương Lăng cười đáp:
- Được! Có dịp chúng ta sẽ lại trò chuyện, cung tiễn Quách tướng quân, Trương đại nhân!
Trương Dần mỉm cười gật đầu, cất giọng sang sảng:
- Dương đại nhân, hạ quan cáo từ!
Dương Lăng dõi mắt tiễn bọn họ phóng ngựa rời khỏi kinh thành. Lúc quay lại, y mới thấy mấy người Hàn Ấu Nương và Tô Tam đang đứng ở một bên tươi cười ríu rít. Thấy y quay đầu lại, Hàn Ấu Nương đi đến hớn hở khoe:
- Tướng công! Hôm nay là ngày ba mươi rồi, thiếp và mấy tỷ muội đang nói không biết khi nào tướng công mới trở về đây, không ngờ chàng lại về sớm như vậy rồi.
Dương Lăng trở người nhảy xuống ngựa đi đến chỗ bọn họ, đưa mắt nhìn các cô Tô Tam rồi mỉm cười hỏi:
- Không phải các nàng đi miếu dâng hương sao? Chạy đến cổng thành để làm gì?
Hàn Ấu Nương thoáng đỏ mặt, Tô Tam và Tuyết Lý Mai cũng có phần ngượng nghịu còn Cao Văn Tâm đứng ở phía sau che miệng cười khẽ. Dương Lăng cũng không nỡ vạch trần, bèn cười nói:
- Đã gặp rồi thì cùng nhau trở về thôi.
Kiệu của các cô dừng lại bên đường cho mấy vị cô nương lên kiệu. Dương Lăng cưỡi ngựa chậm rãi theo cạnh, vừa nhìn không khí đón tết tưng bừng trong kinh sư, vừa cách rèm trò chuyện cùng Hàn Ấu Nương. Lúc gần đến rìa thành tây, mọi người trông thấy bên đường có một đám đông đang túm tụm, người của Binh mã ty cũng đã kéo đến.
Sau việc Xưởng đốc bị bắt cóc lần trước, chỉ cần có chút biến động nhỏ là đám phiên tử dưới quyền của Dương Lăng ai nấy liền như lâm phải đại địch, mấy chục người trong tối ngoài sáng liền lập tức bảo hộ kiệu và ngựa, cách ly toàn bộ bá tánh, lặng lẽ thò tay vào ngực, nắm chặt lấy nỏ cứng và súng ngắn.
Ngũ Hán Siêu cũng không để ý đến chốn om sòm ở đằng trước. Hắn vừa ghìm ngựa đến gần Dương Lăng, vừa liếc nhanh quan sát chung quanh, để ý đến bá tánh bên đường. Dương Lăng hơi nhổm người, ngó vào trong đám đông, vừa nhìn thấy người đứng giữa, y không khỏi khẽ chau mày. Vẫy tay gọi Liễu Bưu lại, y thấp giọng bảo:
- Đi xem thử đã xảy ra chuyện gì!
Liễu Bưu hiểu ý, buông cương nhảy xuống ngựa, chen vào trong đám đông đang xem chuyện náo nhiệt. Hắn thấy ông chủ một tiệm may vừa lôi kéo một gã đàn ông tuổi trạc tứ tuần vừa rống họng tru tréo với tuần bộ của Binh mã ty:
- Hồ tứ gia đến thực tốt quá, kẻ này thực không biết lý lẽ gì cả. Hôm trước hắn đến, bỏ một lạng bạc ra đặt cọc, nói rõ là muốn thảo dân may một bộ áo bào Cô nhung hảo hạng. Hôm nay đến thử thấy vừa vặn, hắn lại chối bay bảo là ban đầu nói chỉ mua đồ nhung hạ phẩm. Thảo dân đưa ký ước ra cũng bị hắn xé vụn, nói là thảo dân vu cáo hắn.
Lão đây tự nhận xui xẻo, vốn định nhân nhượng cho khỏi phiền, hắn lại nói ngày mai là năm mới, thảo dân đã may nhầm áo bào của hắn, phải lấy áo nhung này ra để bồi thường. Lão đây mở tiệm ba mươi năm, xưa nay mua bán công bằng, chưa từng khinh già gạt trẻ, láng giềng phố phường đều có thể làm chứng, đã từng gạt người bao giờ? Kẻ này thật quá ư ngang ngược đi!
Đứng cạnh gã đàn ông tuổi trạc tứ tuần đó là một thư sinh tuổi trạc độ hai mươi, đang đỏ mặt níu áo hắn. Gã đàn ông trung niên gạt tay hắn vùng ra, thấy quan binh chẳng những không sợ mà ngược lại còn nghênh ngang tự đắc. Gã liếc xéo tay thủ lĩnh Tuần bộ rồi cười nhạt:
- Ngươi không lừa gạt? Ngươi không lừa gạt chẳng lẽ đại gia ta lại lừa gạt sao? Buông tay!
Đoạn gã hừ một tiếng, vùng khỏi tay thợ may già, phủi phủi vạt áo, thong thả nói tiếp:
- Ngươi có biết ta là ai không? Đại gia ta là đường huynh của Đề đốc nội xưởng, thống lĩnh ngự tiền thân quân của hoàng thượng, Uy Vũ bá gia Dương Lăng!
Người thợ may già nghe xong thì sợ run cầm cập. Tay thủ lĩnh Tuần bộ được gọi là Hồ tứ gia nọ cũng không khỏi biến sắc, bốn bề im phăng phắc. Gã ta vẫn ung dung nói tiếp:
- Là đường huynh! Hồ tuần bộ, người nói đại gia ta có giống phường lừa bịp không?
Nói đoạn, gã vênh mặt nhướng mắt. Không ngờ làm vậy, vừa khéo khiến gã trông thấy bên ngoài đám đông, Dương Lăng được vây quanh bởi mấy thớt ngựa to lớn, đang sầm mặt nhìn gã. Cả người gã không khỏi run lên, vẻ mặt lập tức trở nên lo lắng.
Hồ tuần bộ khổ sở gật đầu khom người đáp:
- Không giống không giống! Đại gia ngài dáng vẻ đường đường, quả là huynh trưởng của Dương bá gia Dương đại nhân rồi, nào sẽ lại ức hiếp ông chủ tiệm may nho nhỏ như lão ấy chứ. Hề hề, hề hề.
Cười nịnh bợ xong, hắn liền thẳng lưng quát lão thợ may:
- Lão Bùi à, rõ ràng là lão già rồi lẩm cẩm, nghe lầm lời căn dặn rồi. Dương đại gia là người có danh phận, lẽ nào lại so đo tính toán với một thợ may nho nhỏ như lão chứ? Đã có lỗi với đại gia, ông tự nói nên làm sao đây?
Người thợ may già ấp úng:
- Vậy... vậy..., lão đây đưa bộ áo bào này cho đại gia xem như là nhận lỗi vậy!
Nói xong câu này, lão cảm thấy rất đau lòng, nhưng mà xưởng vệ thực sự không thể trêu vào.
Thường có câu "bắc có Cô nhung, nam có Nữ cát(1)", nhung quý Lan Châu cực phẩm chỉ có thể thấy trong cống phẩm hoàng cung. Chiếc áo khoác lụa vàng lót Cô nhung màu mận tía mà Dương Lăng đang khoác chính là mới được hoàng đế Chính Đức ban thưởng hai ngày trước, trị giá trăm lạng bạc ròng.
Cô nhung của lão thợ may tuy không phải là cống phẩm, nhưng cũng trị giá gần mười lạng bạc ròng, là thứ mà gia đình giàu có thường mặc cả mấy mươi năm, thậm chí truyền xuống đời con đời cháu. Đem thí bộ áo bào này rồi, coi như lão làm không công mấy tháng.
Dương Tuyền nhìn Dương Lăng lom lom, miệng môi trắng bệch, nào còn dám nhận lấy chiếc áo bào Cô nhung đó chứ. Liễu Bưu quay đầu nhìn Dương Lăng, y nén giận, gật đầu tỏ ý, Liễu Bưu bèn gật đầu, xoay người chen vào trong đám đông. Hắn lấy từ trong tay áo một thỏi bạc nặng, nhét vào trong tay người thợ may già, mỉm cười nói:
- Sao Dương phủ có thể tiếm lợi ích của ông được? Tam gia vốn định may một bộ thường phục mặc thường ngày, cũng không lo bị dơ hoặc sờn. Nếu bộ áo này đã dùng vải tốt, vậy chúng ta nhất định sẽ mua. Thỏi bạc này đủ mười lạng, cộng với một lạng đặt cọc trước, hẳn là đã đủ chứ?
Lão thợ may họ Bùi mừng khôn kể xiết, liền gật đầu cảm ơn rối rít:
- Đủ rồi đủ rồi! Khấu trừ tiền vải và tiền công, còn phải trả lại cho ngài năm phân bạc nữa.
Liễu Bưu cười hà hà:
- Không cần đâu, làm lễ tế trời(2) không thể sơ sài, coi như tam gia nhà ta thưởng cho ngươi đó.
Nói đoạn, hắn cầm lấy bộ áo bào rồi nói với Dương Tuyền:
- Tam gia, chúng ta về phủ thôi.
Dương Tuyền giật mình, vội "à, ờ" mấy tiếng rồi ngoan ngoãn bước theo hắn ra khỏi đám đông. Dương Lăng mặt nặng như chì, hờ hững nhìn gã rồi giật cương ngựa đi trước. mặt Dương Tuyền trờ thành tím ngắt. Liễu Bưu làm việc hết sức khéo léo, tuy biết Dương Lăng rất giận, song suy cho cùng chú cháu Dương Tuyền là người nhà họ Dương, có xa cách mấy vẫn gần hơn hắn rất nhiều. Hắn biết hai người không thể cưỡi ngựa, bèn vội gọi một viên phiên tử lại thuê kiệu ngựa đưa hai người về.
Thành Khởi Vận vén rèm kiệu, trông thấy hết mọi chuyện, đôi mắt đen láy của nàng đảo một vòng, ra vẻ đăm chiêu.
Về đến phủ, Dương Lăng hầm hầm bước vào trong trung đường, cởi áo khoác ra. Hàn Ấu Nương biết hiện tại tâm tình y không tốt nên bèn ngoan ngoãn cầm lấy áo, trộm nháy mắt với mấy vị tỷ muội, mọi người lặng lẽ trở về nhà sau.
Dương Lăng chỉ vận áo cổ bó ống tay hẹp màu xanh thẫm, mới vừa vào thư phòng trong trung đường ngồi, Dương Tuyền và Dương Vân Long đã lo lắng bước theo vào. Dương Tuyền ngượng ngập mở miệng:
- Lăng đệ...
Dương Vân Long cũng sợ sệt gọi:
- Lão thúc!
Trong nhà dán đầy câu đối cùng chữ Phúc lẫn tranh tết, tràn ngập một không khí hân hoan. Khắp nơi trong thôn thi thoảng lại có tiếng pháo rộn ràng. Hôm nay đã là ba mươi tết...
Nhớ đến điều đó, Dương Lăng chỉ thở dài, đứng dậy bảo:
- Nếu như thường ngày không đủ chi dùng, tam ca cứ nói với Ấu Nương một tiếng là được. Làm sao nhà chúng ta lại có thể làm những chuyện khiến người ta đàm tiếu sau lưng như vậy chứ?
Dương Tuyền vừa xấu hổ vừa bực tức nhưng lại không dám phát tác, chỉ biết vâng vâng dạ dạ. Dương Lăng liếc qua Dương Vân Long nói:
- Đã sắp sang năm mới, ta đã báo cho bộ Lại, qua ngày mười lăm sẽ thu xếp cho Vân Long một công việc. Ngươi biết viết biết tính, đừng chỉ dựa vào cái danh hiệu nhà họ Dương, hãy dựa vào bản lĩnh của mình mà làm cho tốt, đừng có được voi đòi tiên.
Dương Vân Long mừng rỡ cảm ơn:
- Đa tạ lão thúc! Chỉ cần có công việc ở trong kinh là được, Vân Long nhất định sẽ không gây thêm phiền phức cho thúc đâu.
Dương Lăng ừ một tiếng, rồi ngó sang Dương Tuyền bảo:
- Cho dù làm một tiểu tốt ở nha môn trong kinh cũng không phải là dễ. Tam ca... ờm... chốc nữa đệ sẽ giúp huynh tìm một vị trí ổn thỏa.
Dương Tuyền hơi thất vọng nhưng không dám biểu hiện ra mặt, chỉ đành vâng dạ; thấy Dương Lăng không muốn nói thêm gì với gã nữa, bèn cáo từ lui ra.
Ngồi trên ghế dựa, Dương Lăng day ấn đường nhắm mắt nghỉ ngơi một lúc. Dương Tuyền văn dốt võ dát, phẩm hạnh tồi tệ, thực sự y không muốn dây dưa với gã. Nhưng mà quan hệ họ hàng thân thuộc như một cái lưới vô hình khổng lồ bao trùm lấy y, loại áp lực ngầm ấy khiến con người ta không thể nào phản kháng. Sóng to gió lớn cỡ nào y cũng đã đều trải qua, thế nhưng y lại không biết nên làm thế nào cho phải với cái tên tiểu nhân vật bé tí như con kiến này.
Ban đầu y còn định thu xếp cho gã công việc cai ngục trong đại lao bộ Hình, song xem ra cũng không thể sử dụng tên này được. Dương Lăng thở dài, tạm thời không nghĩ đến gã nữa, y lại cân nhắc kỹ lưỡng việc thu xếp để năm sau hoàng đế xuất kinh một lượt, rồi mới đứng dậy đi về phía nhà sau.
Trên khuôn mặt Thành Khởi Vận đọng một nụ cười ngọt ngào, nàng vừa mới chào hỏi ba vị phu nhân và Cao Văn Tâm xong. Vừa rẽ vào trong thư phòng, nụ cười trên gương mặt lập tức tan biến, nàng uể oải thỏng vai, rì rì bước vào chỗ ở của mình.
Đám người Hàn Ấu Nương đều là con gái tuổi còn khá trẻ, tinh lực dồi dào, trò chuyện cũng ăn ý. Nàng lớn hơn bọn họ cả chục tuổi, kinh nghiệm và tuổi tác khiến nàng khó lòng cảm thấy hứng thú với những đề tài mà bốn người con gái nọ nói chuyện say sưa. Buổi sáng đi dạo trong thành, đám người Hàn Ấu Nương vẫn tràn trề tinh lực, trong khi sự nhạt nhẽo và vô vị lại khiến nàng cảm thấy cả người rã rời.
Thành Khởi Vận sợ lạnh, cho nên Dương Lăng đặc biệt căn dặn đặt nhiều lò sưởi trong phòng nàng, ban ngày đốt lò sưởi, buổi tối giường lò và tường kép sưởi ấm cũng được đốt lửa khiến cho căn phòng trở nên ấm áp. Lúc này mặt trời mới vừa qua chính ngọ, bởi đêm nay là giao thừa, cho nên lò sưởi trong phòng vẫn được đốt, cả phòng ấm áp như tắm trong gió xuân.
Thành Khởi Vận lười nhác cởi váy lụa, áo kép, thay giày da hươu bằng giày thêu, ngồi duyên dáng trước gương; khuôn trăng đầy đặn trong gương, mày như lá liễu mắt như sao trời, má đào môi hạnh sáng ngời, vẫn là một vẻ rạng ngời như hoa.
Nàng vận chiếc áo cánh ống hẹp cân vạt, quần dài xanh nhạt chấm đất, chiếc "yếm kha tử"(3) màu đỏ tươi mặc bên trong ôm chặt lấy bộ ngực đầy đặn, rãnh ngực hõm sâu, như chực bung ra ngoài, phác hoạ nên đường cong mê người.
Thành Khởi Vận khẽ thở dài một hơi, ngón tay như ngọc trắng vuốt nhẹ bộ ngực mềm mại và mịn màng. Thân thể nàng vẫn kiều mị mê người như trước, cặp mắt hạnh to và sáng như sao trời vẫn có sức hút mê hoặc chúng sinh như trước, nhưng sẽ còn được bao nhiêu năm tháng thanh xuân? Hết hôm nay, sẽ lại già thêm một tuổi.
Không khí vui mừng rộn rã khắp Dương phủ và tiếng pháo giòn giã thi thoảng truyền đến từ thôn trang khiến nàng cảm thấy lạc lõng và cô quạnh, chán chường và mệt mỏi với hết thảy mọi thứ mà nàng đã theo đuổi trước đây. Lúc này nàng chỉ muốn tìm kiếm một người để nàng có thể tựa vào, có thể cuộn vào trong lòng thủ thỉ chuyện trò. Nhưng yêu cầu tối đơn giản đến vậy cũng không kiếm dễ bằng kim tiền và quyền thế.
Lười nhác chùng vai, Thành Khởi Vận ngước nhìn hình ảnh mình trong gương rồi thở dài chán nản. Nàng vừa định leo lên giường nghỉ ngơi một chút, chợt có tiếng Dương Lăng từ ngoài cửa vọng vào:
- Thành cô nương, cô đã đi nghỉ chưa?
Thành Khởi Vận giật mình, ánh mắt chợt loé lên tia vui mừng, cảm giác mệt mỏi đau nhức lập tức tan biến, tinh thần thoắt đã trở lại. Nàng vội đáp:
- Vẫn chưa ạ! Đại nhân chờ một chút, ti chức sẽ ra ngay.
Thành Khởi Vận lật đật nhặt lấy quần áo mặc vào, kéo lê đôi giày thêu đế mềm vội vã chạy ra nghênh đón. Dương Lăng đang chắp tay đứng bên cạnh bàn ngắm bức tranh do Thành Khởi Vận tiện tay vẽ nguệch ngoạc nên. Trông thấy nàng kéo rèm bước ra, y mỉm cười hỏi:
- Chắc mệt hả? Tôi cũng ghét nhất là đi dạo phố, mùa hè thì thà thả câu dưới bóng dương liễu, buông cần xuống nước, nằm trên chiếu nghe gió mà chìm vào giấc ngủ; mùa đông thì ngả trên đầu giường đọc quyển sách hay. Các cô Ấu Nương còn nhỏ, hiếm khi được dịp ra ngoài cho nên ham thích náo nhiệt. Mọi người lại không phải người ngoài, cô không cần thuận theo bọn họ, không muốn đi thì cứ đợi trong phủ cũng được.
Thành Khởi Vận vụt cười duyên dáng:
- Thì bởi khó có dịp ra ngoài, ti chức sao nỡ làm mọi người cụt hứng? Mấy ngày nay đại nhân công việc bộn bề, ti chức cũng không tiện hỏi han, có điều nghe nói đại nhân thường đến chỗ trú đóng của ba xưởng một vệ và mười ba đoàn doanh, phải chăng vẫn là vì chiến sự phương bắc?
Dương Lăng gật đầu đáp:
- Ừ! Sự việc trọng đại, trong Nội xưởng cũng chỉ có một mình Ngô lão biết rõ tình hình tường tận mà thôi, những người khác chỉ biết nó như vậy, chứ không biết rõ nguyên do. Ha ha, lúc đầu vốn định vào kinh thu xếp ổn thoả rồi sẽ quyết định thời gian để cô trở về Giang Nam. Không ngờ, trước tiên là vì dỡ bỏ lệnh cấm biển mà phải toan tính đến chuyện nông canh, vì nông canh mà lo toan đến giống cây trồng, rồi lại sơn tặc vào kinh, giặc Thát tác loạn biên cương, khiến cho chuyện của cô cứ bị hoãn lại. Cô ở đây đã quen chưa?
Thành Khởi Vận khẽ hé môi cười đáp:
- Phương bắc gió như dao cắt, ban đầu thì chưa quen, bây giờ cảm thấy nó cũng có ý vị khác. So với nhà cửa phương nam trong ngoài đều ẩm thấp lạnh lẽo, ở đây khi bước vào lại có cảm giác ấm áp như xuân. Đại nhân và phu nhân cũng hết mực quan tâm ti chức, cứ tiếp tục như vậy, ti chức thực sẽ vui đến quên quê nhà đấy.
Dương Lăng mỉm cười:
- Như vậy sao được, muốn quên quê nhà cũng phải làm xong đại sự giải trừ lệnh cấm biển rồi mới được.
Ánh mắt Thành Khởi Vận vụt sáng, nàng hỏi:
- Đã nắm chắc rồi sao?
Dương Lăng gật đầu:
- Ừ, có điều phải cực khổ cho cô rồi. Mồng sáu tôi sẽ phải rời kinh lên bắc, cô cũng sẽ đồng thời vào nam xuống Kim Lăng, bắt đầu chuẩn bị hết thảy mọi việc. Thượng tuần tháng hai, nhất định cô phải dẫn được người vào kinh. Về phía các quan viên đại biểu cho quan lại vùng duyên hải đó, tôi đã nắm thóp được một ít rồi, Hoàng thượng cũng đã gật đầu đồng ý. Hiện tại khó nhai nhất chính là đám hại nước, hại dân đã bảo thủ mà lại cứ hùng hồn mượn thể diện thiên triều thượng quốc làm lá chắn. Đánh thì không đánh được, chửi cũng không chửi nổi, thực phải phiền đến phương cách của Thành cô nương để bịt miệng bọn họ lại thôi.
Thành Khởi Vận chậm rãi ngồi xuống chiếc ghế dựa đối diện, cười duyên dáng:
- Đại nhân yên tâm, Khởi Vận nhất định sẽ không làm nhục sứ mệnh. Tháng giêng về Kim Lăng, tháng hai ti chức nhất định sẽ về kinh phục lệnh đúng hẹn.
Đầu ngón tay Dương Lăng mơn trớn miếng chặn giấy trơn nhẵn bằng ngọc thạch, y đáp:
- Được! Tuy cô thể chất yếu ớt, nhưng lại là nữ trung hào kiệt, chưa từng lừa dối bản quan. Cô làm việc, ta tuyệt đối tin tưởng.
Y thoáng trầm ngâm, rồi đứng dậy nói tiếp:
- Hôm nay là giao thừa, đến giờ cơm chiều cô hãy đến phòng khách, mọi người tề tụ cho náo nhiệt, đừng trốn ở đây nữa.
Thành Khởi Vận mỉm cười dạ đáp lời, trông thấy y bước ra cửa, chợt hỏi:
- Đại nhân! Vị bà con Dương tam gia vào kinh nương nhờ, dường như đại nhân đang lo nghĩ không biết nên bố trí như thế nào cho ổn thỏa thì phải? Không bằng để ti chức dẫn gã đến Giang Nam xem sao?
Dương Lăng do dự:
- Việc này... quả thực khiến người ta lo nghĩ. Cũng không giấu gì cô, người này văn dốt võ dát, thói xấu lại có đủ, tuy không phải là một mầm họa lớn, song thực sự khiến người ta khó ưa. Do có huyết thống họ hàng nên đuổi thì không được, giữ cũng không xong. Bản quan nhìn tên lưu manh này, thực như chó cắn phải nhím, không biết nên mở miệng thế nào. Cô dám rước cái của phiền phức này theo bên mình sao?
Thành Khởi Vận nghe y nói với giọng điệu tự giễu, không khỏi che miệng cười nói:
- Đại nhân thật! Nói hắn không biết phấn đấu là được rồi, sao còn so sánh mình với... với... Ha ha, ti chức có gì mà không dám chứ, có điều đương nhiên phải xin đại nhân một cây Kim Phê lệnh tiễn(4). Dương tam gia là người chí thân của đại nhân, từ xưa việc quản lý thuộc hạ khó nhất chính là vướng phải quan hệ thân thích. Ti chức xa cách một tầng, chỉ cần công chính vô tư, vẫn dễ nói chuyện với gã hơn đại nhân nhiều.
Dương Lăng nghĩ ngợi một lúc rồi nhoẻn miệng cười nói:
- Được, vậy tôi sẽ giao cho cô cái của nợ này. Cô phải nghiêm khắc không được dung túng gã, nếu tôi nghe nói gã cậy vào quyền thế của tôi làm điều xằng bậy thì tôi sẽ chỉ hỏi tội cô thôi đó!
Thành Khởi Vận cười đáp:
- Ti chức tuân lệnh!
***
Mùng một tết, Hoàng đế không phải lâm triều, tuy nhiên đám cận thần trong cung vẫn phải vào cung viếng thăm theo lệ. Cả nhà Dương Lăng quây quần trong phòng sưởi, chơi đùa trò chuyện đến quá trưa. Ước chừng đại thần vào cung đều đã về hết rồi, y mới dẫn theo người hầu thân cận vào cung gặp Hoàng đế.
Chính Đức bận bịu suốt cả buổi sáng: sớm ra vừa thức dậy đầu tiên là đến tẩm cung thỉnh an Thái hoàng thái hậu và Thái hậu, nhận lì xì, sau đó trở về cung Càn Thanh ngồi ngay ngắn đón một đám hoàng thân quốc thích và đại thần văn võ đến thỉnh an, phát bao lì xì. Hiện hắn đã làm xong tất tần tật những công việc cần làm, đang cùng Giải Ngữ và Tu Hoa ở trong điện thi ném thẻ vào vò. Lưu Cẩn đứng một bên cười vỗ tay ủng hộ.
Dương Lăng bước vào điện, đứng một bên đợi Chính Đức ném hết thẻ trên tay xong, mới bước đến làm lễ, chúc mừng năm mới. Diễn xong màn hỏi han chúc mừng xong, hai người vua tôi bọn họ mới cùng thở ra một hơi thật dài.
Chính Đức bảo Dương Lăng và Lưu Cẩn vào nội thư phòng, rồi không thể đợi thêm nữa, hắn lập tức hỏi ngay:
- Dương thị độc, mọi thứ chuẩn bị thế nào rồi?
Dương Lăng đáp:
- Mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ, chỉ đợi có cơ hội thích hợp, mời Hoàng thượng hạ chỉ, lệnh cho thần đến biên cương ủy lạo, sau đó sẽ có thể thực hiện kế minh tu sạn đạo...
Khi nói đến đây, y chợt nhớ đến một chuyện, mặt liền biến sắc.
Chính Đức cũng rất lanh trí, trông thấy mặt y cứng lại, liền hỏi:
- Đã xảy ra chuyện gì vậy?
Dương Lăng lưỡng lự một lúc rồi hỏi:
- Hoàng thượng, chuyện ngài xuất kinh, ngoại đình chỉ có thần, Tiêu đại học sĩ và Nghiêm Tung của bộ Hộ rõ, Nội xưởng có Ngô Kiệt biết, nội đình ngoài Lưu công công ra còn có ai nghe nói đến nữa không?
Chính Đức thoáng do dự rồi gượng cười nói:
- Chuyện thú vị như vậy mà phải đem giữ ở trong lòng trẫm thực sự cảm thấy khó chịu, cho nên... ta đã từng nhắc đến với hai vị cô nương Giải Ngữ và Tu Hoa. Có điều chỉ nói sẽ đi về phía bắc, cuối cùng sẽ đến Đại Đồng, ngoài ra chưa từng nói với bọn họ điều gì khác. Có chuyện gì sao?
Dương Lăng chau mày thưa:
- Thần nhớ đến một chuyện, hai trăm đại đạo lục lâm Bá Châu bị Di Lặc giáo mê hoặc đột nhiên vào kinh, mục đích ban đầu là gì, chỉ có mấy thủ lĩnh trong đám sơn tặc đó biết, chứ hiện tại chúng ta vẫn chưa tường tận. Hoàng thượng xuất kinh là chuyện lớn biết dường nào, người biết được thực không nên quá nhiều.
Đoạn y cười khan hai tiếng, làm bộ nói đùa bảo tiếp:
- Từ dạo thần bị Di Lặc giáo “dạy dỗ”, đến giờ vẫn còn khiếp sợ chưa vơi. Nhớ lần đầu gặp cô nương Giải Ngữ, từng thấy trên người nàng ấy đeo một miếng ngọc bội khắc tượng phật Di Lặc. Nữ tử đeo tượng phật trên người chẳng phải kỳ quái sao? Ha ha, đương nhiên, có thể là thần đã suy nghĩ quá nhiều, thực có hơi vô lý...
Chính Đức thoáng ngẩn ra, rồi bật cười nói:
- Khanh đó nha, đúng là hoang đường! Khanh nghi ngờ hai vị mỹ nhân Giải Ngữ và Tu Hoa là người của Di Lặc giáo à? Làm sao có khả năng đó chứ, hơn nữa, nam đeo quan âm nữ đeo phật, tượng phật mà cô gái đeo ngẫu nhiên lại là phật Di Lặc thôi. Nếu như vậy liền coi là Di Lặc giáo, các cô gái trong thiên hạ mười phần sẽ có đến bảy phần bị chém đầu rồi.
Dương Lăng nghe vậy thì ngớ ra. Nghe Chính Đức nói, y mới nhớ trước đây mình cũng từng nghe nói nam đeo quan âm nữ đeo tượng phật, chỉ là nhờ Chính Đức nhắc nhở mới nhớ lại. Ngẫm kỹ lại, tri thức về lịch sử của mình có hạn, mặc dù biết Ninh Vương tạo phản, song lại chưa từng nghe nói có liên quan gì với Di Lặc giáo cả. Hay là mình đã quá đa nghi?
Dương Lăng ngượng ngập đáp:
- Chuyện này... cẩn thận một chút vẫn tốt hơn. Thần vốn cũng không phải vì vậy mới sinh lòng nghi ngờ, có điều khi ấy bái kiến Hoàng thượng, hai vị cô nương biết tránh sang một bên để không phải tội nhận xằng đại lễ của quan viên. Người dân quê mùa lại hiểu biết lễ nghi như vậy, thần mới cảm thấy hơi kỳ quái.
Lưu Cẩn đứng một bên nghe xong cũng bật cười ha hả, nói:
- Dương đại nhân, bọn họ tuy xuất thân quê mùa, nhưng trước khi được đưa vào trong cung, phủ Ninh vương sẽ phải dạy dỗ đủ mọi lễ nghi cung đình hết ba tháng. Trước khi tiến cung, Ty Lễ giám lại phái người dạy thực tập hết năm ngày, những lễ nghi này mà còn không biết thì mới là lạ đó.
Bọn họ được Ninh vương bảo đảm đưa đến. Ninh vương là hoàng thúc, là hoàng tộc Đại Minh, Di lặc giáo phản lại chính là hoàng triều của Đại Minh chúng ta, hai bên vốn không thể nào đồng loã. Huống hồ trước giờ Ninh vương vẫn luôn trung thành với Hoàng thượng!
Chính Đức nhớ lại lúc làm đại lễ đăng cơ, trong số phiên vương đến tặng lễ vật thì Ninh vương trú đóng ở nơi xa nhất, lễ vật đem tặng cũng nhiều nhất, hợp với tâm ý của mình nhất. Nay lại tặng thêm Giải Ngữ và Tu Hoa, có thể thấy được sự kính cẩn và nể sợ của hắn. Huống hồ trong tay hắn lại không có một binh một tốt, sao có thể có ác ý chứ. Thế là Chính Đức bèn gật đầu kêu phải.
Dương Lăng nói:
- Có lẽ là thần đã đa nghi. Có điều vì an toàn của Hoàng thượng, thần sẽ quyết định đường đi, hành tung, phương thức xuất kinh và thời gian xuất kinh, vẫn mong Hoàng thượng đừng đề cập chuyện này với bất cứ người nào khác, bao gồm cả hai vị nương nương.
Chính Đức bất đắc dĩ cười bảo:
- Theo ý khanh, theo ý khanh đi! Chỉ cần có thể xuất kinh, trẫm sẽ theo ý khanh hết, được chưa?
Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn chưa thực tâm đồng ý với mình, bèn nghiêm mặt thưa:
- Hoàng thượng, vua không nói lời đùa giỡn, ngài đã đồng ý thì vạn lần phải giữ lấy lời. Hoàng thượng phải đến Đại Đồng, ấy là vì tận trách nhiệm của thiên tử với thiên hạ, thần cũng sẽ vì sự an nguy của Hoàng thượng mà tận trách nhiệm của thần!
Chính Đức nghe xong bèn nghiêm túc trở lại, nghiêm nghị:
- Được, ra khỏi miệng khanh, chỉ vào tai trẫm! Đừng nói là Giải Ngữ và Tu Hoa, - hắn liếc sang Lưu Cẩn rồi nói tiếp, - Cho dù là lão Lưu, trẫm cũng sẽ không nói cho lão biết. Như vậy được chưa?
Chú thích:
(1) vải thô, làm bằng dây đay, dùng may áo mặc mùa hè
(2) nguyên văn "đại quá niên", xuất phát từ câu "quá đông đại quá niên". Ý nghĩa của nó là: ngày xưa, vào ngày đông chí, từ đế vương ở trên cho đến bá tánh ở dưới đều phải mổ gia súc và lấy trái cây tế trời hết sức trang trọng để cảm tạ ông trời năm qua đã ban ơn, và đồng thời khấn cầu năm sau ông trời tiếp tục cho dân gian được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, vân vân.
(3) loại áo nịt ngực thời xưa
(4) xem hình giữa http://www.china001.com/ifile.php?xn...1216202912.jpg
Lệnh tiễn: còn gọi là cờ lệnh, ý TKV xin DL cho phép TKV toàn quyền trị tội Dương Tuyền.
Chương 185 - Rồng ra biển lớn
------------------------
Năm mới đã qua được ba ngày, tuy vẫn còn non nửa văn võ bá quan chưa hồi kinh chấp hành nhiệm vụ nhưng tới mồng bốn hoàng đế vẫn lâm triều xử lí chính sự. Ngay khi thượng triều, Chính Đức liền ban một ý chỉ, bảo rằng bởi Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân lần đầu thắng trận, làm tiêu tan nhuệ khí của quân đội Thát Đát nên đặc biệt bổ nhiệm Dương Nhất Thanh làm Tam biên tổng chế, Vương Thủ Nhân làm phó tướng, toàn bộ tổng binh của ba trấn đều phải theo sự điều khiển, dưới quyền của hai người.
Thát Đát tập kích biên giới cũng giống như người Hán đón tết, mỗi năm đều tới. Lúc đầu quân Minh chiếm thượng phong, sau nữa thì hai bên thế lực ngang bằng, đến mấy năm gần đây phàm là Thát Đát phái trọng binh tiến đánh, nếu không có binh mã đông gấp đôi trở lên thì quân Minh không thể nào chống lại nổi.
Dương Nhất Thanh tính tình chính trực, cương nghị thanh liêm, rất được đại học sĩ Lý Đông Dương xem trọng lại vốn xuất thân từ quan văn, cho nên khi giành được trọng dụng với chiến quả ấy, văn võ cả triều cũng không ai dị nghị gì. Thừa dịp mọi người cao hứng, Chính Đức lại tuyên bố để khao thưởng tướng sĩ cực khổ ở tam quan, nay ban đặc chỉ cho Thống lĩnh ngự tiền thân quân thị vệ là Dương Lăng sẽ dẫn quân đến Đại Đồng ủy lạo, khởi hành vào mồng sáu.
Sáng mồng năm, mấy chục tay thị vệ cường tráng mặc đồ đen đứng im phăng phắc trước cổng phủ Uy Vũ bá của họ Dương. Hai cỗ xe ngựa tam mã đỗ bên cạnh, mấy thớt ngựa lực lưỡng sốt ruột cào vó, phì phì thở ra sương trắng.
Dương Lăng và ba vị phu nhân cùng Cao Văn Tâm đưa Thành Khởi Vận và chú cháu Dương Tuyền ra ngoài. Thành Khởi Vận khoác áo choàng lông chim rộng màu đỏ, nổi bật giữa mảng đất trời trắng xóa, dung nhan thùy mị như sóng nước, tựa hoa mai ngạo nghễ trong tuyết trời; trong vẻ xinh tươi khiến tim người ta đập thình thịch đó lại mang theo mấy phần hào khí.
Dương Lăng ghé mắt nhìn sang, không khỏi cười nói:
- Trông bộ dạng của cô y hệt như một Hồng Nương Tử vậy. Chuyến nam hạ này, nếu không có đám thị vệ này đi cùng, không biết cô sẽ bị quan phủ tróc nã mấy lần đây?!
Thành Khởi Vận bó tay vào trong ống tay áo, tay áo gấm hoa lộ bên dưới chiếc áo choàng, lông chồn trắng trên viền tay áo khẽ lay trong gió.
Có thể trở về với vùng đất phương nam quen thuộc, được làm một số việc, quả thực nàng có phần hào hứng. Đưa mắt nhìn Dương Lăng, thật tâm nàng cũng có phần quyến luyến. Nàng liếc nghiêng Dương Lăng, rồi như trêu ghẹo mà “nghiêm túc” đáp rằng:
- Lo gì?! Cùng lắm thì ti chức sẽ lệnh cho bọn thị vệ bắt Dương đại nhân ngài. Có ngài làm hộ tống, dù là chân trời góc biển, có nơi nào mà không thể đến chứ?
Dương Lăng nhìn Thành Khởi Vận. Tuy nàng chỉ buột miệng nhưng trong ánh mắt lại lộ tình ý miên man thắm thiết. Dương Lăng không khỏi giật thót trong lòng, y vội ho khan mấy tiếng rồi dời mắt đi, đánh trống lãng:
- Còn chưa hết tết mà đã bắt cô phải vội vã lên đường, quả thực là chuyện đặng chẳng đừng. Chuyện của Kim Lăng xin nhờ vào cô vậy.
Thành Khởi Vận thầm buông tiếng thở dài, khoé môi cố nặn một nụ cười, khẽ giọng đáp:
- Đại nhân yên tâm, ti chức... lo liệu được.
Hàn Ấu Nương có thai chưa được hai tháng, lưng bụng vẫn chưa thấy có gì thay đổi, nhưng một khi nàng ra khỏi nhà liền trở thành đối tượng bảo hộ trọng điểm. Khoác áo choàng vải nhung lạc đà mềm mại ấm áp, đeo đôi găng tay da chồn, nàng đang nói chuyện phiếm với Cao Văn Tâm, nghe thấy hai người trò chuyện bèn quay sang Thành Khởi Vận mỉm cười nói:
- Tỷ tỷ, mấy ngày qua sống chung với nhau, thực không nỡ để tỷ đi xa. Tướng công nói cần tỷ đi làm một việc hệ trọng, vậy Ấu Nương không thể ngăn tỷ rồi. Tướng công thường nói rằng Ấu Nương một thân võ nghệ, Văn Tâm tỷ tỷ y thuật diệu kỳ, Tuyết Nhi và Ngọc Nhi thông minh ngoan ngoãn, cầm kỳ thi họa đều tinh thông; nhưng nếu luận về mưu kế và trí tuệ, thì cho dù là nam nhi trong thiên hạ cũng không có mấy người bằng được tỷ tỷ. Tướng công được tỷ giúp đỡ rất nhiều, cho nên làm xong đại sự rồi, mong rằng tỷ tỷ có thể trở về phương bắc sớm một chút.
Trong lòng Thành Khởi Vận chợt có một cảm giác ấm áp ùa vào: cô bé này đúng thật là vị cô nương tốt, cô nàng ấy làm bạn khuê phòng với Cao Văn Tâm, nhất định đã sớm biết xuất thân và lai lịch của mình, đã từng... Cho dù mình ăn ngon mặc đẹp, những thôn phụ bên đường vẫn ném về phía mình những cái nhìn miệt thị, thế nhưng vị Cáo Mệnh phu nhân này lại không hề có ý gì là xem thường và khinh bỉ mình. Nàng ấy thực sự coi mình là người đáng được tôn trọng.
Mắt Thành Khởi Vận rơm rớm, nàng vuốt nhẹ tay Hàn Ấu Nương, khẽ giọng:
- Đa tạ phu nhân quan tâm! Lần này Khởi Vận đi đến khoảng thượng tuần tháng hai là sẽ trở về. Phu nhân đang mang thai, xin hãy bảo trọng thân thể. Khởi Vận mong ngóng đến trung thu năm nay, khi cây quế tỏa hương, được ôm tiểu Uy Vũ bá gia trắng trẻo và bụ bẫm vào lòng đấy!
Hàn Ấu Nương đỏ mặt, vừa ngượng vừa thích, liếc Dương Lăng rồi lại lay nhẹ tay Thành Khởi Vận trách:
- Tỷ tỷ đừng nói vậy! Người ta còn chưa biết mà, nhỡ đâu... nhỡ đâu là con gái cũng không chừng.
Vừa nói nàng vừa lo lắng liếc sang Dương Lăng. Dương Lăng mỉm cười:
- Con gái thì sao chứ? Tướng công nhà nàng thích con gái mà.
Nói đoạn Dương Lăng vẫy tay gọi lão quản gia đến, cầm lấy một gói đồ rồi nói:
- Thành cô nương, ở đây có mấy món lễ vật mà tôi và Ấu Nương tặng cho Mã Liên Nhi cô nương ở quán rượu Trường đình trong xóm Trường Can. Sau khi đến Kim Lăng, phiền cô hãy giúp tôi chuyển đến cho cô ấy nhé!
Thành Khởi Vận nghe xong thì lấy làm ngạc nhiên, "Dương Lăng đến từ Tuyên Phủ, không hề có thân thích gì ở phương nam, mình cũng từng nghe nói đến việc này. Vị Liên Nhi cô nương này là gì của y?" Thành Khởi Vận liếc nhanh sang Hàn Ấu Nương, bèn lờ mờ đoán ra mấy phần, thế là ngoài sự kinh ngạc còn có chút ghen tị.
Nàng không biết về quá khứ của Dương Lăng và Mã Liên Nhi, còn tưởng rằng đây là một vị cô nương mà khi Dương Lăng xuống Giang Nam vừa gặp đã yêu ngay. Vị cô nương này có thể khiến y nhung nhớ không quên như vậy, phải là mỹ nhân xinh đẹp tới dường nào?
Chung quy thì Thành Khởi Vận vẫn là phụ nữ, một người phụ nữ xinh đẹp và tự phụ, lại mang lòng yêu mến Dương Lăng. Cho dù nàng có rộng lượng đến đâu, việc có liên hệ đến đức lang quân của mình thì làm sao mà nàng không để ý đến được?
Nhìn toàn bộ số nữ nhân bên cạnh Dương Lăng: Ấu Nương như đóa tường vi, Tô Tam tựa hoa bách hợp, Văn Tâm như loài u lan, Tuyết Nhi lại giống đỗ quyên, tuy ai nấy muôn vẻ yêu kiều, đều có sở trường riêng, song luận về sắc đẹp và vẻ phong tình thì không một ai có thể sánh bằng nàng. Vị cô nương này có thể khiến cho Dương Lăng bận lòng như vậy, chẳng lẽ lại là quốc sắc thiên hương? Thành Khởi Vận âm thầm ghi nhớ trong lòng, việc đầu tiên phải làm khi trở về Kim Lăng là đi gặp vị Mã cô nương này thử một chuyến.
Nàng giữ vẻ mặt điềm tĩnh cầm lấy gói quà rồi mỉm cười đáp:
- Đại nhân yên tâm! Ti chức nhất định sẽ không làm nhục sứ mệnh.
Thành Khởi Vận lễ phép gật đầu chào với từng người trong đám phụ nữ xong xoay người bước lên kiệu, rồi vén rèm cửa sổ từ biệt:
- Đại nhân! Tiết trời lạnh lẽo, xin các vị hãy trở về, Khởi Vận lên đường đây!
Dương Tuyền nghe vậy liền như được đại xá. Hiện nay Dương Lăng ra vào đều mang theo một đám thị vệ trùng trùng, loại khí thế mỗi lúc một oai nghiêm đó khiến ngay cả gã vốn là kẻ ngu ngốc hồ đồ cũng cảm nhận được rất rõ. Từ lúc đến Dương phủ gã đều luôn tuân thủ khuôn phép, không ngờ mới vừa lần đầu định tác oai tác phúc, thử làm ra vẻ đại lão gia một chuyến thì lại bị Dương Lăng phát hiện.
Mấy ngày nay gã đều co đầu rụt cổ không dám lộ diện, lần này có thể rời khỏi Dương Lăng đi đến tận Giang Nam trù phú nhất thiên hạ, gã liền thấy nhẹ nhõm cả người, như thể đã trút được gánh nặng. Với thân phận hiện tại của gã, nếu chỉ quanh quẩn bên người Dương Lăng thì sẽ chẳng là gì, nhưng một khi rời khỏi Dương Lăng, dựa vào tấm chiêu bài là "đường huynh của Xưởng đốc Nội xưởng", thì đi đâu cũng sẽ thuận tiện. Đánh chó cũng phải ngó mặt chủ chứ, đúng không?
Huống hồ vị Thành cô nương này thực sự là mỹ nhân hiếm thấy. Mặc dù bình thường nàng ta trông có vẻ lạnh lùng, nhưng khi nàng thi thoảng nhoẻn miệng cười, vẻ xinh đẹp vụt thoáng qua ấy thực khiến cho gã đầu váng mắt hoa, thần hồn ngơ ngẩn. Có thể theo cạnh mỹ nhân như vậy... nghe nói nàng ta còn là thuộc hạ của đường đệ mình? Khà khà...
Dương Tuyền lật đật cáo từ vợ chồng Dương Lăng, rồi lập tức trèo lên chiếc xe thứ hai. Dương Lăng thoáng chau mày nhìn theo bóng lưng gã. "Cuối cùng cũng đã nuốt trôi được miếng thuốc cao này." Nhưng mà, cậy vào quan hệ với mình, nếu gã đến Giang Nam tác oai tác phúc, liệu Thành Khởi Vận có dám quản chế gã không?
Dương Lăng cảm thấy hơi lo lo, song hiện tại y cũng không còn cách nào khác. Cho dù Dương Tuyền có khiến người ta chán ghét đến đâu, thì dựa vào quan hệ họ hàng và địa vị thấp kém của gã, vẫn sẽ là tấm bài ngụy trang dễ thu hút được sự đồng cảm của mọi người nhất. Nếu mình chiếu cố gã không chu đáo, thì sẽ bị coi là kẻ bất chấp cương thường, khinh họ hàng chê nghèo khó, là loại người xấu xa mà từ vương hầu công khanh cho đến bá tánh lê dân ai nấy đều căm ghét và khinh bỉ.
Trông thấy vẻ mặt lo lắng của Dương Lăng, khóe môi Cao Văn Tâm bất giác nhếch nụ cười nhẹ.
Hàn Ấu Nương chỉ có nàng là chị em có tuổi tác lớn hơn một chút, nên hễ có gì trong lòng đều đem kể cho nàng nghe. Nàng sớm đã được nghe kể chuyện vị Dương tam gia này chòng ghẹo đe dọa em dâu như thế nào, cho nên khi biết Thành Khởi Vận muốn mang Dương Tuyền xuôi nam, nàng bèn lén khéo léo tiết lộ thông tin đó cho cô ta biết.
Không ai có thể thấu rõ tâm tư của Thành Khởi Vận đối với Dương Lăng như nàng, nàng tin tưởng Thành Khởi Vận sẽ không tiếc sức lực, thậm chí cả thủ đoạn để bảo vệ y.
Ai mà có ý định làm tổn hại đến uy vọng, quyền lực và hạnh phúc của Dương Lăng, thì mỹ nhân muôn vẻ phong tình ấy lập tức sẽ cởi bỏ tấm da vẽ(*), nhe nanh giơ vuốt ra ngay. Ngay dưới tầm mắt của Dương Lăng, vị Dương tam gia này vô tình đã được y che chở, người ngoài cũng không ai dám làm gì gã. Nhưng nếu gã đến phương xa làm loạn, bằng vào tâm tư của Thành cô nương mà không trừng trị khiến gã phải ngoan ngoãn thành thật được thì mới là chuyện lạ.
(*): nguyên văn "họa bì", nhắc đến truyện Họa Bì trong Liêu Trai Chí Dị
Xem http://thptdaimo.cc/f/baiviet/8975-L...Bo-da-ve.daimo
Thành Khởi Vận buông rèm, ngồi vào chỗ mới đột nhiên phát hiện trong kiệu xe bài trí hết sức thoải mái: đệm ngồi bằng da gấu trắng, thảm nhung tuyết Ba Tư lộng lẫy, xa hoa, áo bông mỏng cổ lông chồn, một bên là bếp lửa bằng đồng, trên cái giá ở bên kia là mấy quyển sách cùng điểm tâm và rượu ngon các loại.
Con tim Thành Khởi Vận thoáng trở nên loạn nhịp, nàng chợt vươn tay về phía rèm cửa, ngón tay chạm vào rèm, hơi vén ra một chút thì liền ngưng lại. Kiệu xe khẽ lắc lư di chuyển. Một chốc sau, nàng lặng lẽ rút tay về, day nhẹ khóe mắt, rồi uể oải cuộn người vào trong tấm chăn lông mềm mại và ấm áp. Thân thể dần ấm lên, con tim cũng thêm phần ấm áp, một nụ cười ngọt ngào vụt thoáng trên khuôn trăng, chân mày khóe mắt chợt toát ra một vẻ dịu dàng mê hồn khôn xiết.
Ngựa xe bắt đầu lên đường, nụ cười trên khuôn mặt Hàn Ấu Nương cũng dần biến mất: “Chao ôi! Hôm nay Thành cô nương xuôi nam, ngày mai tướng công lại phải đi đến Đại Đồng.” Phu quân đi xa, bảo sao nàng có thể không bận lòng lo lắng?
Bọn họ ai nấy mang theo tâm tư của mình dõi nhìn theo chiếc xe ngựa lộc cộc chạy đi, tiếng vó ngựa vang lên giòn giã, chớp mắt đã rẽ qua góc đường...
Mồng sáu tháng giêng. Trên thao trường điểm binh.
Cờ phướn tung bay rợp trời, trên đài cao treo đầy bảng đỏ, dưới quảng trường kiếm rìu đao kích kín mít như rừng.
Năm nghìn tinh binh chọn ra từ trong mười vạn quân đều cưỡi chiến mã khỏe mạnh được mua về từ địa khu Hà Sáo. Ai nấy đều mặc giáp nhẹ, chia ra làm đội cung nỏ, đội phi lao, đội trường thương, đội đao thuẫn cưỡi ngựa, đội thiết côn, đội hỏa súng và năm trăm thị vệ hạch tâm.
Đội quân này được trang bị giáp nhẹ, khinh kỵ và vũ khí công kích sắc bén khác hẳn với trang bị mà các binh đoàn lớn của quân Minh sử dụng để tác chiến và công thủ thành trì. Thứ mà đội ngũ này đòi hỏi chính là “ứng biến nhanh, công kích lẹ, rút lui mau”, chẳng những sức chiến đấu phải hơn người Mông Cổ, mà tính cơ động cũng được yêu cầu rất cao, có thể nói là rất hao tâm tổn huyết.
Các tướng lĩnh của bộ Binh, Ngũ quân đô đốc phủ và mười hai đoàn doanh trong kinh trông thấy kiểu cách như vậy đều không khỏi cười thầm. Một vị đô đốc thuộc Ngũ quân đô đốc phủ thấp giọng cười bảo:
- Dương xưởng đốc thực là người tâm tư. Bảo y đến Đại Đồng ủy lạo binh sĩ mà thôi chứ đâu phải kêu y ra chiến trường đâu, thế mà y lại tuyển chọn ra đám tinh binh trải qua muôn vàn trui luyện từ trong hơn vạn người của mười hai đoàn doanh này. Bộ y muốn chuẩn bị chạy thoát thân hay sao chứ?
Mấy vị tướng quân đứng cạnh nghe xong đều khẽ cười hắc hắc. Dương Lăng có danh vọng rất cao trong quân đội, cho nên đám tướng lĩnh này mới không hề có ác ý với y, bằng không sẽ không hợp tác tuyển chọn tinh binh từ các bộ như vậy. Tuy nhiên có cơ hội trêu chọc Dương xưởng đốc, biểu hiện oai phong của bậc tiền bối trong quân đội thì đương nhiên bọn họ sẽ không bỏ qua.
Khoác trên người bộ tỏa tử giáp(1) màu bạc, chiến bào màu đỏ, dải tua đỏ trên mũ tung bay, Dương Lăng bước vào thao trường dưới sự bảo hộ của tám viên hiệu úy cầm thương. Thao trường lập tức im phăng phắc, hàng nghìn cặp mắt đồng loạt đổ dồn về phía y.
Đã lâu Dương Lăng chưa trải qua khung cảnh này: trên thao trường năm nghìn tinh binh chẳng những sát khí đằng đằng, hình thành một loại sát khí và nghiêm trang vô hình, mà vây quanh dưới điểm tướng đài là những quan quân cao cấp trong quân đội. Y nín thở, trang nghiêm bước ra khỏi đám người, bước lên điểm tướng đài, ủng giáp kêu lộp bộp.
Thoáng cái, tiếng trống trận vang rền, lọng vàng từ phương xa từ từ kéo tới. Hoàng đế Chính Đức đích thân đăng đài điểm tướng, tiễn biệt Dương Lăng. Hoàng đế đích thân ngự giá, mọi tướng sĩ trong thao trường rào rào quỳ xuống nghênh đón.
Tiểu hoàng đế Chính Đức vận áo bào thêu hình rồng cuộn màu đen tuyền, tôn lên môi hồng răng trắng, khí phách bừng bừng. Khi hắn bước lên đài, viên minh châu gắn trên mũ Dực Long khẽ rung rinh. Hắn vừa đến chính giữa điểm tướng đài, Dương Lăng liền vội quỳ xuống nghênh giá.
Theo sau Chính Đức là Lưu Cẩn và bốn tên tiểu thái giám, dâng chiếc khay sơn son thếp vàng đựng thánh chỉ, lệnh tiễn, ấn tín và Thiên Tử kiếm. Trên tấm thảm đỏ trải chính giữa điểm tướng đài, long thư án (cái bàn họa khắc hình rồng -ND) và long ỷ bề mặt phủ bởi vải lĩnh màu vàng đã sớm được bày biện ngay ngắn. Hoàng đế Chính Đức bước tới ngồi sau chiếc bàn, cao giọng tuyên:
- Chúng khanh bình thân!
Giáp bào lào xào, hơn năm nghìn viên tướng sĩ đồng loạt đứng dậy. Ba tiếng pháo vang lên rền rã khắp trời, tiếng kèn lệnh réo gào cùng tiếng trống trận gầm gừ như sấm dậy lần nữa được vang lên, khiến hoàng đế Chính Đức nghe thấy cũng dâng trào nhiệt huyết.
Khuôn mặt anh tuấn như ngọc của hắn đỏ bừng vì kích động, vừa định đứng lên nói mấy lời, hắn chợt sực nhớ nơi đây cũng có quy củ riêng của nó, bèn hướng mắt sang Lưu Cẩn. Lưu Cẩn vội hô to:
- Tướng lĩnh phụng chỉ tuần biên bước lên nghe chỉ!
Dương Lăng bước lên mấy bước, quỳ lạy:
- Có mạt tướng!
Lưu Cẩn cầm lấy thánh chỉ, cao giọng tuyên:
- Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu rằng: Nay phương bắc có Thát Đát xâm phạm Đại Minh ta, quấy nhiễu nhân dân ta, khiến cho tiếng oán dậy trời, thế nên trẫm xuất binh đánh chúng. Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân lần đầu lập chiến công, đáng nên khen thưởng. Ý trẫm trao cho Dương Lăng chức Uy Vũ tướng quân, đặc biệt ban cho Thiên Tử kiếm, thay trẫm tuần thú(*) biên thùy, ủy lạo tướng sĩ, và quyết định chiến sự tiền phương; đồng thời cử đề đốc Kinh doanh là Trương Vĩnh làm phó sứ, thưởng cho mãng long bào. Hai người lập tức lên đường, không được trì hoãn. Khâm thử!"
(*: thiên tử đi tuần, xem xét các đất nước chư hầu thì gọi là tuần thú)
Dương Lăng lĩnh chỉ tạ ơn, Trương Vĩnh cũng vội quỳ dưới đài, cung kính thưa lĩnh chỉ.
Dương Lăng cầm lấy Thiên Tử kiếm giắt bên hông, tiếp nhận kim ấn và lệnh tiễn, rồi lệnh cho đại quân lên đường, năm nghìn tinh binh hùng dũng rời khỏi thao trường. Trước đây Chính Đức đã ban thưởng mãng long bào cho Dương Lăng, Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng, duy chỉ Trương Vĩnh là chưa có phần, khiến lão trông thấy mà phát thèm. Lần này phụng chỉ tuần biên, cuối cùng lão cũng đã được ân thưởng mãng long bào, Trương Vĩnh hớn hở không thôi. Tiếp nhận lấy áo bào mặc vào chỉnh tề, lão cũng trèo lên ngựa, cung kính ôm quyền thực hiện quân lễ với Chính Đức, rồi quay đầu ngựa đi theo đại quân.
Hoàng đế Chính Đức tủm tỉm cười nhìn theo Dương Lăng bước xuống điểm tướng đài, vịn yên nhảy lên ngựa tung bụi rời đi, liền như không thể chờ được nữa mà hắn lập tức khởi giá hồi cung. Thao trường này đặt trong Thần Cơ doanh, vốn nằm bên ngoài kinh thành. Hôm nay Chính Đức đòi bày ra nghi thức xuất binh long trọng như vậy, văn võ trong triều chỉ nghĩ tiểu hoàng đế lại thích vẽ chuyện cho nên cũng không ai để ý.
Hắn không thể thượng triều, nhưng đại sự trong triều vẫn phải có người xử lí, cho nên đại học sĩ nội các và Lục Bộ Cửu Khanh đều phải yên phận ở lại trong kinh xử lí công việc. Hoàng đế ngự giá rời khỏi thao trường, các võ tướng bèn quỳ xuống đưa tiễn, không ai dám sóng vai cùng hắn rời khỏi viên môn. Mãi khi lọng vàng khuất xa khỏi góc núi, các viên tướng mới lần lượt bảo đám thân binh dắt ngựa đến, rồi chắp tay cáo từ nhau.
Đội nghi trượng ngự giá dài cuồn cuộn, bám đuôi theo đại quân của Dương Lăng. Ngã ba phía trước có một con đường rẽ về kinh sư, một đi tuốt đến Xương Bình. Hai đội ngũ mỗi đội tiến về một hướng. Đang lúc từ từ tách ra, trong đội nghi trượng của Hoàng đế Chính Đức mà hôm nay trông long trọng một cách dị thường chợt có hơn mười tay hiệu úy hông giắt bội đao phóng ngựa tách ra, lặng lẽ gia nhập vào trong đại quân của Dương Lăng.
Đội nghi trượng của Hoàng đế Chính Đức vẫn thong thả túc tắc trở về kinh sư. Xa xa ở phía sau đám võ tướng không dám vọt lên vượt qua đội nghi trượng của Hoàng đế, bèn nhẫn nại chống đầu ngựa chờ ở ven đường. Ở hai bên đường, cứ ba bước một đội, năm bước một tiêu (đồn), binh sĩ đứng canh gác nghiêm ngặt, không cho bất kỳ kẻ vô phận sự nào đến gần trong phạm vi mười trượng.
Giữa đại quân, có mấy chục tay tiểu hiệu kè kè bên người Dương Lăng, trong đó có một hiệu úy theo sát y, mặt mày hăm hở, hết nhòm đông lại ngó tây, rất không yên phận.
Dương Lăng ghìm cương, đợi hắn lên cạnh rồi mới nhỏ giọng khuyên:
- Hoàng thượng! Cỗ xe ngựa ở phía trước tuy bề ngoài chỉ dùng để vận chuyển quân nhu nhưng bên trong bài trí rất là thoải mái, hay là Hoàng thượng hãy vào trong xe nghỉ ngơi đi. Trời lạnh gió rét, xin ngài chớ để nhiễm lạnh.
Năm nghìn quân tinh nhuệ chỉ biết phải theo Dương Lăng đến Đại Đồng tuần thị, ủy lạo quân sĩ. Ngoài ba trăm đại nội thị vệ được điều vào trong quân trước đó, cũng chỉ có mấy tướng lĩnh hạch tâm như Dương Lăng và Trương Vĩnh mới thật sự biết Hoàng đế đang trà trộn vào trong quân đội. Chung quanh bọn họ, ngoài vài người là tâm phúc của Dương Lăng, còn lại đều là thị vệ cao thủ của đại nội, cho nên Dương Lăng mới dám gọi thẳng hắn là Hoàng thượng.
Chính Đức cười khì khì, vung vẩy chiếc roi ngựa trong tay, liếc xéo Dương Lăng nói:
- Muốn đi thì ngươi đi đi! Ngươi là đại tướng quân phụng chỉ tuần biên mà, ta chỉ là hiệu úy thủ hạ cỏn con của ngươi, đương nhiên phải có đãi ngộ giống những sĩ tốt cùng đi cùng nghỉ rồi. Vả lại, luận thân thể và xương cốt, ta còn cường tráng hơn ngươi nhiều đó. Phù... thì ra không cần phải cứ hễ mở miệng thì phải xưng “trẫm” lại thoải mái đến như vậy, ha ha ha ha...
Chính Đức cười toe toét, quất mạnh roi lên mông ngựa phóng thẳng về phía trước. Mấy chục tay cao thủ đại nội chung quanh khiếp sợ lập tức vung roi phóng ngựa vọt lên theo sau.
Dương Lăng chỉ đành lắc đầu cười khổ sở. Hoàng đế xuất kinh vi hành như vậy, còn cải trang làm một tiểu tốt thấp hèn, trong mắt đám sĩ phu, hẳn là một hành động đánh mất tôn nghiêm đáng hổ thẹn của thiên tử. Xem ra vị Hoàng đế này hãy còn rất ham chơi, rời khỏi kinh sư rồi mà cũng không chịu thay quần áo, ngược lại còn hào hứng như vậy, quả là lạc quan yêu đời.
Đại quân tiến về phía trước, Dương Lăng tổ chức nhân mã của Xích Hầu(*) doanh của Nội xưởng thành mười đội thám mã, ở phía trái và phía phải mỗi bên có ba đội giữ khoảng đi cạnh ở xa xa, đằng sau đặt thêm hai đội, đằng trước là bốn đội luân phiên hồi báo tin tức. Đại quân đều là thiết kỵ, ngay cả vật tư mang đi cũng được xe tứ mã kéo theo, cho nên hành quân rất nhanh.
(*: 'xích' nghĩa là trinh sát, hiểu là đội quân chuyên trách trinh sát)
Đi được hơn hai canh giờ, đến giữa trưa, đoàn quân dừng lại dưới một triền núi chôn nồi nấu cơm. Nơi đây, một bên là triền núi hướng mặt trời, chung quanh được bao bọc bởi rặng núi dài, cho nên ấm áp vô cùng. Dương Lăng phái bốn đội, mỗi đội trăm người chia ra đồn trú bên ngoài một dặm để phòng ngừa bất trắc. Y xuống ngựa, cùng Trương Vĩnh đưa Chính Đức lên triền núi nghỉ chân.
Ánh nắng chói chang, khí hậu ôn hoà, thảm đỗ quyên mọc trên triền núi đã hé lộ những nụ hoa tươi tắn. Tuy cây vẫn khô lá, nhưng những cành cây khô ấy cũng đã hút đủ nước, vỏ cây đã hơi nhuốm sắc xanh nhưng dưới khóm hoa vẫn còn một màu trắng xoá.
Chính Đức lấy làm lạ:
- Nơi đây thực kì quái! Hoa này chẳng phải là hoa mai, song lại có thể đâm chồi trong tuyết, xem ra, có lẽ qua mấy ngày nữa hoa tươi sẽ nở rộ đây.
Dương Lăng cười đáp:
- Đúng vậy! Hoa này tên là đỗ quyên. Lúc trời thoắt nóng thoắt lạnh, mọi loài hoa đều thần phục trước cái oai đáng sợ của cái rét mùa đông, là lúc đỗ quyên bắt đầu nở bung trong tuyết trắng. Chờ khi Hoàng thượng thành công trở về, khắp triền núi này sẽ phủ một màu đỏ rực như lửa, vừa khéo chúc mừng Hoàng thượng.
Chính Đức thích thú cười ha hả. Hắn đứng trên triền núi dõi mắt nhìn về phương bắc xa xăm, một hồi lâu sau mới ngoái lại nói với Dương Lăng:
- Trẫm đang nghĩ, vị Bá Nhan Khả Hãn được tôn sùng là hùng ưng chốn thảo nguyên cùng dũng sĩ Hỏa Sư hung mãnh như một con ngựa hoang kia đang dẫn thiên quân vạn mã quét ngang thảo nguyên, rong ruổi sa trường, hẳn là oai phong và mãn nguyện lắm. Trẫm thua kém bọn họ sao? Không!
Lần này đi là vì mưu lược chính sự. Rồi sẽ có một ngày, trẫm sẽ đích thân dẫn binh gặp gỡ cái tên Bá Nhan và Hỏa Sư đó. Hoàng đế Hồng Vũ đã đuổi bọn chúng rút về đại mạc, hoàng đế Vĩnh Nhạc đánh đuổi bọn chúng phải trốn đông núp tây, hiện tại đến phiên trẫm làm Hoàng đế, chẳng lẽ phải ngồi nhìn giang sơn Đại Minh trở thành bãi chăn thả của bọn chúng, con dân Đại Minh trở thành bò dê của bọn chúng ư?
Rồi hắn quả quyết:
- Khanh hãy xem đi! Sẽ có một ngày trẫm sẽ đích thân nói với bọn chúng rằng, thiên tử của người Hán là thần long hô mây gọi mưa, ngao du khắp chín tầng trời, chứ không phải là một con giun đất, mặc cho bọn chúng tha mổ, gặm rỉa!
Dương Lăng mừng thầm, giảng trăm đạo lý không bằng để Hoàng đế tận mắt nhìn thấy giang sơn và nhân dân của mình mà cảm ngộ ra đạo lý riêng. Đại Minh đồi bại là ở điểm này, là ngay ở lãnh tụ của bọn họ. Nếu như vua nhà mạt Tần thời bảy nước không phải là Doanh Chính, liệu sẽ có Tần Thủy Hoàng Đế? Nếu như Hoàng đế đời thứ bảy của nhà Tây Hán không phải là Lưu Triệt, liệu sẽ có câu "Kẻ nào xâm phạm đến Đại Hán hùng mạnh của ta, cho dù chạy xa cách mấy cũng sẽ bị đuổi giết"?
Dương Lăng mừng rỡ đáp:
- Hoàng thượng nói rất phải, hùng ưng ngựa hoang gì đều sẽ phải thuần phục Hoàng thượng hết thảy! Đến lúc đó, Hoàng thượng cao hứng muốn đi săn, sẽ cưỡi con ngựa Hỏa Sư, dẫn con ưng Bá Nhan, tiêu dao tự tại biết dường nào!
Trương Vĩnh chen vào phụ họa:
- Hỏng rồi! Như vậy há chẳng phải Hoàng thượng trở thành phường áo gấm ác ôn ư?(2)
Dương Lăng thõng tay “than”:
- Biết làm sao được! Thiên hạ thái bình rồi, không có gì để cai trị, Hoàng thượng không cưỡi ngựa dẫn ưng dạo chơi thì còn việc gì để làm nữa chứ?
Chính Đức được bọn họ kẻ tung người hứng sướng đến nở mặt nở mày, thế là liền nổi hùng tâm, phấn khởi bảo:
- Ai nói không có việc gì làm chứ? Đến lúc đó, trong nước đã thái bình, trẫm sẽ thả thuyền đến Đông Dương, căng buồm giong biển!
Mặt mày hoan hỉ, Dương Lăng liền thưa:
- Quả nhiên Hoàng thượng hùng tài đại lược! Phải chăng ngài muốn Đại Minh chúng ta xây dựng hạm đội thủy quân vô địch, oai truyền bốn bể, trở thành bá chủ thiên hạ?
Chính Đức trợn mắt:
- Bậy bạ! Làm vậy có gì là thú vị? Trẫm muốn giống như trong truyện mà khanh đã kể với trẫm vậy:
“Tay trần cầm chắc Quỷ Đầu đao,
Đầu quấn lên thêm tấm vải đào,
Mắt đeo miếng bịt cho hung bạo,
Đi làm hải tặc sướng biết bao!"
Chú thích:
((1) xem hình http://www.elanzhou.net/story/Upload...5185427229.jpg
(2) ngày xưa có câu "giá ưng khiên cẩu" (架鹰牵狗) nghĩa là dẫn theo chim ưng dắt theo chó săn, nhằm trỏ phường ác bá cậy quyền cậy thế. Trương Vĩnh trêu Chính Đức là dựa trên câu nói này.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com