PHẦN 7: HÃY THOÁT RA KHỎI NHỮNG NGỘ NHẬN TRONG GIÁO DỤC
PHẦN 7: HÃY THOÁT RA KHỎI NHỮNG NGỘ NHẬN TRONG GIÁO DỤC - CHƯƠNG 44: DÒNG SÔNG CÓ THỂ VẼ MÀU HỒNG
Viên Viên hiếu kỳ đặt một ngón tay xuống hứng, để nước chảy qua ngón tay. Nước chảy xuống hết rồi, cô bé ngẩng đầu lên trầm trồ: "Nước không có màu gì cả!".
Khi Viên Viên còn học mẫu giáo, có một học kỳ nhà trường mở một số lớp bồi dưỡng năng khiếu, mỗi tuần học hai buổi, mỗi học kỳ nộp ba trăm tệ, ai thích học thì học. Các bạn nhỏ trong lớp đều thi nhau đăng ký, người này đăng ký lớp múa, người kia thích học hát. Từ nhỏ Viên Viên đã thích học vẽ, cô bé nói muốn học lớp vẽ, chúng tôi liền đăng ký cho con.
Sau khi lớp năng khiếu được mở ra, mỗi tuần Viên Viên mang từ trường về hai bức tranh do cô bé vẽ, đều là những bức tranh vẽ các con vật nhỏ bằng bút chì. Những bức tranh này đều dựa vào những hình cô giáo đã vẽ mẫu để bắt chước, cô giáo chấm điểm ngay trên đó. Qua những bức vẽ của cô bé tôi biết, tiêu chí cho điểm của cô giáo là vẽ giống hay không, vẽ càng giống, điểm sẽ càng cao.
Từ đó trở đi, khi vẽ tranh, Viên Viên bắt đầu cố gắng theo đuổi cái gọi là "giống". Cô bé rất thông minh, trước yêu cầu của cô giáo, tranh do cô bé vẽ càng ngày càng giống, điểm cũng càng ngày càng cao. Nhưng tôi cũng hơi tiếc khi phát hiện ra rằng, đường nét trong bức tranh cô bé vẽ càng ngày càng rụt rè. Để vẽ cho giống, Viên Viên phải liên tục dùng tẩy để xóa, chỉnh sửa hết lần này đến lần khác. So với những bức tranh phóng khoáng, tự nhiên mà cô bé vẽ ngày trước, có cảm giác câu nệ và thiếu phóng khoáng.
Một thời gian sau, lớp lại bắt đầu học vẽ bút màu, Viên Viên vô cùng phấn khởi. Cô bé thích vẽ tranh màu. Một hôm, cô giáo giao một bài tập về nhà cho trẻ, yêu cầu mỗi người vẽ một bức tranh một buổi đi chơi dã ngoại, nói sẽ chọn một số bức treo ở phòng triển lãm tranh của trường mầm non.
Vừa từ trường về, Viên Viên liền sốt sắng lấy ngay bút màu ra, tìm một trang giấy to để vẽ. Cô bé vẽ rất say sưa, cầm cây bút này lên rồi lại đặt cây bút kia xuống, đến khi chúng tôi gọi ra ăn cơm, cô bé còn không muốn ra. Cô bé chỉ ăn qua loa vài miếng, rồi lại quay ra vẽ. Đợi đến khi tôi rửa bát xong, Viên Viên mới vẽ xong, đắc ý mang ra cho tôi xem. Cảm giác đầu tiên của tôi là cô bé vẽ rất chuyên tâm, phối màu cũng rất đẹp. Ông mặt trời màu đỏ tỏa ánh nắng rực rỡ, giống như một đóa hoa. Lấy nền trắng của giấy làm bầu trời, bên trên có mấy áng mây màu xanh nhạt; phía dưới là thảm cỏ xanh, trên thảm cỏ có mấy cô bé đang nắm tay nhau. Bên cạnh các cô bé có một dòng sông màu hồng, đây là màu mà con gái tôi thích. Để cho mọi người biết đây là dòng sông, cô bé còn vẽ cả làn sóng và mấy chú cá nhỏ.
Nhìn bức tranh của cô bé năm tuổi này, các nét lóng ngóng, non nớt, dùng màu táo bạo, tôi cảm thấy vui vì sự ngây thơ của con gái. Tôi chân thành khen ngợi Viên Viên: "Con vẽ đẹp lắm!". Được mẹ khen, cô bé tỏ ra rất vui.
Chưa bao giờ Viên Viên lại vẽ chuyên tâm như vậy, tự mình cũng cảm thấy vẽ rất đẹp, cảm thấy khá tin tưởng rằng sẽ được chọn và dán ở phòng triển lãm, liền nói với tôi: "Mẹ ơi, nếu như tranh của con được dán ở phòng tranh thì hàng ngày đến đón con mẹ đều được nhìn thấy". Tôi nói nhất định ngày nào mẹ cũng phải xem.
Tôi bảo Viên Viên mau cất tranh và đi ngủ, lúc chuẩn bị cho vào ba lô, cô bé sợ có nếp gấp, tôi liền tìm một tờ báo cuộn tranh lại, cô bé cẩn thận đặt vào ba lô.
Chiều hôm sau tôi đi đón Viên Viên, nhìn thấy cô bé vẫn vui vẻ chơi đùa cùng các bạn như mọi bận, nhìn thấy tôi, cô bé liền chạy lại. Lúc tôi dắt tay cô bé ra sảnh lớn, bất chợt cô bé sực nhớ ra điều gì, kéo tay mẹ, ngẩng đầu lên nhìn mẹ, mặt lộ vẻ ấm ức. Tôi hỏi sao vậy, Viên Viên nói, mẹ ơi, tranh của con không được chọn. Nước mắt liền trào ra.
Tôi vội lau nước mắt cho con gái, hỏi tại sao. Cô bé dẩu môi, ngừng một lát, mới lí nhí nói: "Vì con vẽ sông thành màu hồng". Tôi hỏi: "Vẽ thành màu hồng không được sao?". "Cô giáo nói sông phải màu xanh cơ, không được vẽ thành màu hồng. Ngoài ra, mây trắng cũng không được vẽ thành màu xanh, con vẽ sai rồi". Con gái nói với giọng buồn buồn.
Như có một cái gì đó giáng vào lòng tôi, một bức tranh được chọn hay không cũng không quan trọng lắm, nhưng vì lý do này mà không được chọn, và khiến con trẻ phải nói mình "Vẽ sai rồi", nhận thức này bị rót vào đầu cô bé khiến tôi cảm thấy rất buồn.
Tôi xót xa bế Viên Viên lên, thơm vào má con bé, nói: Không sao đâu con yêu ạ, con đừng để ý, không được chọn cũng không sao. Viên Viên gật đầu với vẻ bất lực.
Tôi đưa Viên Viên về nhà, trên đường đi suy nghĩ xem nên nói gì với con về chuyện này. Tôi hỏi cô bé, con đã nộp tranh cho cô chưa? Cô bé bảo không được chọn thì không phải nộp, con đang để trong ba lô.
Về đến nhà, tôi bảo Viên Viên lấy tranh ra, cô bé rút tranh từ trong ba lô ra, tranh đã bị gấp với rất nhiều nếp gấp.
Tôi bế cô bé lên đùi mình, cùng cô bé ngắm bức tranh này. Tôi hỏi: "Tại sao con lại vẽ sông thành màu hồng?". Bé nghĩ một lát, lúng búng nói: "Con không biết là tại sao, con chỉ thấy màu hồng đẹp thôi".
Tôi nói: "Đúng, vẽ tranh là để thấy được vẻ đẹp của tranh, chính vì thế khi nói về một bức tranh, chúng ta thường nói nó đẹp hay không, không thể nói nó sai hay đúng, có đúng không con?". Nghe vậy, Viên Viên có vẻ tán đồng, gật đầu, đột nhiên lại phủ định nói: "Dòng sông không phải màu hồng, là màu xanh, con vẽ sai rồi". Tôi hỏi cô bé, sao lại biết dòng sông có màu xanh chứ không phải màu hồng?
Tôi biết trên thực tế cô bé chưa bao giờ nhìn thấy dòng sông cả, kinh nghiệm của cô bé bắt nguồn từ một số bức tranh trong sách vở và quan điểm của cô giáo ngày hôm nay. Viên Viên không trả lời được câu hỏi của tôi, cô bé nghĩ một lát, nói bằng giọng hơi cáu: "Kiểu gì thì cũng là màu xanh mà mẹ".
Tôi nói, nào, chúng ta sẽ đi xem nước có màu gì, rồi tôi đứng dậy, dắt cô bé vào bếp.
Tôi lấy ra một chiếc bát sứ màu trắng, mở vòi hứng lấy một bát nước, đặt trên bàn, hỏi Viên Viên là màu gì. Cô bé nhìn một lát, có vẻ khó trả lời, rồi lại nhìn tôi, không biết nên nói là màu gì. Tôi hỏi cô bé có phải là màu xanh không, cô bé lắc đầu. Tôi hỏi rốt cục là màu gì, cô bé nghĩ một hồi lâu, ấp úng nói ra hai chữ "màu trắng".
Tôi lại tìm một chậu nhựa nhỏ màu đỏ, đổ nước vào, hỏi cô bé: "Có phải màu trắng không con?". Cô bé nhìn chậu nước đỏ, ngượng ngùng, rồi lại nhìn tôi, hỏi với vẻ ranh mãnh "Mẹ bảo là màu gì cơ?".
Tôi cười, bê chậu nước đỏ lên, đổ nước từ từ vào bình, vừa đổ vừa nói: "Con xem, nước trong suốt, không có màu gì cả, đúng không?". Nghe tôi nói vậy, Viên Viên hiếu kỳ đặt một ngón tay xuống hứng, để nước chảy qua ngón tay. Nước chảy xuống hết rồi, cô bé ngẩng đầu lên trầm trồ: "Nước không có màu gì cả!". Vẻ như đã hiểu ra vấn đề. Tôi nói, con nói đúng rồi, và lại quay về với chủ đề chính, đưa cô bé trở lại với bức tranh của mình.
Tôi bế cô bé lên, cầm bức tranh lên, hỏi, thế con bảo, dòng sông nên vẽ màu gì? Viên Viên không nghĩ ngợi gì mà trả lời ngay: "Vẽ không có màu gì cả". Tôi hỏi: "Thế con nên dùng cây bút nào để vẽ?". Cô bé đang định nói, nhưng lập tức lại ngắc ngứ, không trả lời được.
Tôi cười, "Không có cây bút nào là không có màu cả, đúng không con?". Viên Viên gật đầu. Tôi tiếp tục hỏi, "Thế con bảo, rốt cục nên vẽ dòng sông như thế nào?". Viên Viên chớp chớp mắt, nhìn tôi với vẻ khó hiểu, không biết phải trả lời như thế nào. Đến đây, không thể vẽ dòng sông được nữa. Thấy cô bé ngơ ngác như vậy, tôi bèn thơm lên má con.
Để trả lại cho con màu sắc của dòng sông, tôi buộc phải xóa đi màu của dòng sông trước. Thế là tôi lại chậm rãi nói với Viên Viên rằng: Không ai có thể quy định dòng sông buộc phải vẽ màu xanh, bản thân dòng sông không có màu. Nhưng khi vẽ dòng sông, chúng ta luôn muốn dùng một màu gì đó để vẽ. Nếu vẽ tranh chỉ có thể vẽ màu sắc chân thực, thì chúng ta sẽ mãi mãi không bao giờ tìm được một cây bút có thể vẽ dòng sông, đúng không con? Viên Viên gật đầu.
Tôi tiếp tục nói: Và còn rất nhiều thứ khác nữa, không thể tìm ra được màu sắc của chúng trong hộp bút màu của chúng ta, nhưng chúng ta vẫn có thể vẽ ra được chúng. Chính vì thế con nên nhớ rằng, một bức tranh chỉ có đẹp hay không đẹp mà thôi, không có đúng hay sai đâu. Con có thể mạnh dạn sử dụng các loại màu sắc - dòng sông có thể vẽ màu hồng, chỉ cần con thích, nó có thể được vẽ bằng bất cứ màu gì.
Giải thích xong vấn đề màu sắc của dòng sông, Viên Viên vui vẻ quay ra chơi. Trong lòng tôi vừa lo lắng vừa cảm thấy bất lực, tôi muốn dùng quan niệm này để gây ảnh hưởng cho con gái, bảo vệ trí tưởng tượng của cô bé. Nhưng tôi đâu dám dẫn một đứa trẻ non nớt đi nghênh chiến với những điều bất cập trong giáo dục. Đơn giản nhất là vấn đề sau này có để cho con tiếp tục theo học lớp học vẽ này nữa hay không.
Nếu tiếp tục học, thì phải nghe lời cô giáo, không thể vẽ dòng sông thành màu hồng. Mỗi lần lên lớp, cô giáo đều ra một cái khung cho con trẻ, trí tưởng tượng của trẻ sẽ bị bóp nghẹt dần dần. Những lớp học vẽ như thế này, chỉ có thể khiến trí tưởng tượng của trẻ ngày càng trở nên nghèo nàn. Nếu không học nữa, khi các bạn nhỏ khác đều được học giờ năng khiếu, con gái ngồi trên ghế thèm thuồng nhìn các bạn đi ra, chắc chắn cô bé sẽ rất tủi thân, làm sao cô bé có thể hiểu được lý do tự nhiên lại bắt cô bé nghỉ học giữa chừng? Làm sao có thể giải thích cho cô bé hiểu sự lo lắng này của tôi?
Tôi than thầm, trong lòng chỉ muốn trường mầm non xóa lớp học vẽ, nếu như thế, dù cho có phải nộp thêm ba trăm tệ nữa tôi cũng sẵn lòng.
Lưu ý đặc biệt
Không ai có thể quy định dòng sông buộc phải vẽ màu xanh, bản thân dòng sông không có màu. Nhưng khi vẽ dòng sông, chúng ta luôn muốn dùng một màu gì đó để vẽ. Nếu vẽ tranh chỉ có thể vẽ màu sắc chân thực, thì chúng ta sẽ mãi mãi không bao giờ tìm được một cây bút có thể vẽ dòng sông.
Một bức tranh chỉ có đẹp hay không đẹp mà thôi, không có đúng hay sai đâu. Con có thể mạnh dạn sử dụng các loại màu sắc - dòng sông có thể vẽ màu hồng, chỉ cần con thích, nó có thể được vẽ bằng bất cứ màu gì.
CHƯƠNG 45: KHÔNG VÀO LỚP TIỀN TIỂU HỌC
Lớp học tiền tiểu học phát triển đến ngày hôm nay, sự tồn tại của nó đã biến thành chứng "tăng sinh xương" trong chương trình giáo dục bình thường. Nhưng cái thừa này hiện tại lại được nhiều người cho là đôi cánh trên lưng thiên thần, cho rằng cái "nhiều" này tốt hơn là "ít", đây thực sự là một sai lầm!
Một người bà con gọi điện thoại cho tôi, chị đang phải đối mặt với sự lựa chọn có nên cho con học lớp tiền tiểu học hay không.
Con chị chỉ còn thiếu một tháng tuổi nữa là có thể vào lớp một1), nhà trường gợi ý rằng, nếu nộp một khoản tiền thì con chị có thể vào lớp một, nếu không sẽ phải học lớp tiền tiểu học. Mọi người xung quanh chị nói nên học lớp một, có người lại nói nếu phải nộp tiền thì thà đi học lớp tiền tiểu học còn hơn, con trẻ còn được học thêm một năm. Chị không biết quyết định như thế nào. Tôi biết con chị rất thông minh, với trình độ như cháu, học lớp một hoàn toàn không có vấn đề gì. Tôi liền nói với chị, học được lớp một là tốt nhất, nếu không được thì tiếp tục ở lại trường mầm non, đừng đi học lớp tiền tiểu học.
Tôi luôn phản đối cho trẻ đi học lớp tiền tiểu học.
Hầu hết phụ huynh đều không biết được nguồn gốc của lớp tiền tiểu học, thực ra chỉ cần tìm hiểu một chút nguyên nhân ra đời của nó, sẽ phát hiện ra rằng sự tồn tại của nó trong xã hội hiện nay là bất hợp lý.
Lớp tiền tiểu học là một sản phẩm của thời bao cấp ở Trung Quốc.
Nó xuất hiện sớm nhất vào thập niên 1980. Lúc đó tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi đi mẫu giáo ở thành phố đang bùng nổ, nhưng lúc đó trường mầm non tư thục rất ít, nhu cầu đi học mầm non của trẻ không được giải quyết, vì thế đã áp dụng biện pháp để trường tiểu học mở ra một số lớp tiền tiểu học để giải quyết vấn đề giáo dục tiền tiểu học cho một số học sinh - có thể thấy sự xuất hiện của lớp tiền tiểu học chủ yếu là xuất phát từ nhu cầu giải quyết vấn đề học hành cho học sinh ở độ tuổi mầm non, không phải là sự kế tiếp mang ý nghĩa giáo dục.
Những năm qua kinh tế Trung Quốc đã phát triển khá mạnh, tỉ lệ sinh thấp, hàng loạt trường mầm non tư thục xuất hiện. Vấn đề học sinh đi học trường mầm non không còn gì khó khăn, nhưng lớp tiền tiểu học đã tồn tại hơn hai mươi năm, và từ thành phố lan rộng ra nông thôn, ngày càng danh chính ngôn thuận, dường như là một sự thiết kế hợp lý căn cứ vào nhu cầu học tập của trẻ em. Cá biệt còn có một số địa phương thậm chí là do cơ quan chủ quản giáo dục quy định, tất cả học sinh trước khi vào trường tiểu học đều phải học lớp tiền tiểu học.
Tại sao lại xuất hiện hiện tượng đáng lẽ phải biến mất nhưng lại không biến mất này? Điều này cho thấy nó có nền tảng để tồn tại. Nền tảng này chính là: Nhà trường muốn mở lớp tiền tiểu học, phụ huynh muốn cho con vào học các lớp kiểu này.
Nhà trường mở lớp là do có mục đích rất rõ ràng. Lớp tiền tiểu học không nằm trong chương trình giáo dục bắt buộc của quốc gia, có thể tự chủ trong việc thu tiền học phí, sinh hoạt phí. Năm 1985, mức giá quy định của thành phố Bắc Kinh là mỗi em ba mươi tệ một tháng, thời kỳ đó mức giá này không hề rẻ. Mấy năm nay giá cả leo thang, đã lên tới vài trăm tệ thậm chí hàng nghìn tệ, cộng với các loại tiền khác, nguồn thu rất khả quan. Cũng có nghĩa là nó là một nguồn thu nhập của trường, là một "miếng thịt béo". Mặc dù vài năm gần đây một số chính quyền địa phương đã ý thức được sự không cần thiết của lớp tiền tiểu học, ra công văn yêu cầu không được mở mô hình lớp học này, nhưng vì không mạnh tay, các trường tiểu học vẫn được lén lút mở.
Đứng trên góc độ của phụ huynh, phụ huynh muốn cho con vào học lớp tiền tiểu học, phần lớn là do a dua theo phong trào. Một là lầm tưởng rằng lớp tiền tiểu học là bước đệm nối liền trường mầm non và trường tiểu học, như muốn vào lớp ba thì phải học lớp hai vậy; hai là xuất phát từ sự lo lắng về thành tích học tập sau này của con, cho rằng học lớp tiền tiểu học là được "đặt nền móng trước", là đi trước một bước trong việc học. Điều này giống như việc mà người bà con này của tôi băn khoăn, chị nói, mọi người xung quanh đều cho con học lớp tiền tiểu học, đến khi vào lớp một, đã học hết phiên âm và phép cộng, trừ trong phạm vi một trăm rồi. Nếu con chị không vào lớp tiền tiểu học, nền tảng sẽ không vững bằng các bạn, như thế không phải là tụt hậu một bước so với người ta hay sao.
Suy nghĩ "đặt nền móng" này của người bà con của tôi là khá tiêu biểu, nhưng đây là một sự ngộ nhận của bố mẹ. Một là không hiểu rõ con trẻ cần phải đặt "nền móng" gì, hai là không nắm được tình hình chung về lớp tiền tiểu học.
Tôi nói với chị rằng, nếu bố mẹ bỏ tiền, nhà trường thu tiền, và kết quả là con trẻ tạo được nền móng tốt sau khi học lớp tiền tiểu học, vượt được bạn bè thì cũng rất đáng để làm. Nhưng qua thực tế của mấy năm gần đây thì thấy rằng, kết quả hoàn toàn ngược lại, đúng là giáo dục tiền tiểu học đã tạo được một "nền móng" cho trẻ, nhưng thường là nền móng xấu.
Qua điện thoại tôi có thể cảm nhận được sự kinh ngạc của người bà con, có thể đây là lần đầu tiên chị nghe thấy cách nói "nền móng xấu". Chị không thể ngờ rằng, cho con theo học lớp tiền tiểu học lại đem lại kết quả xấu. Thực tế những điều mà chị không nghĩ tới cũng là điều mà hầu hết các bậc phụ huynh đều không nghĩ tới, vì thông thường họ không nắm được tình hình sau:
Hiện nay Bộ giáo dục Trung Quốc chỉ đưa ra ý kiến mang tính chỉ đạo đối với lớp tiền tiểu học, không thống nhất khung chương trình và giáo trình giảng dạy đối với các lớp này. Chính vì thế, lớp tiền tiểu học dạy thế nào, hoàn toàn là do trường tiểu học tự quyết định, hoặc là dựa vào cảm nhận của giáo viên. Mặc dù lớp tiền tiểu học đem lại lợi ích kinh tế cho trường tiểu học, nhưng do tính chất không phải là giáo dục bắt buộc của nó, thành tích dạy học của lớp tiền tiểu học không cần phải tính vào thành tích dạy học chung của cả trường, thông thường nhà trường không coi trọng mảng giáo dục này.
Trong quá trình quảng cáo tuyển sinh, gần như tất cả các lớp tiền tiểu học đều nói, nhà trường sẽ bố trí một đội ngũ giáo viên giỏi, giàu kinh nghiệm cho lớp tiền tiểu học. Nhưng trên thực tế, lớp tiền tiểu học "ăn nhờ ở đậu" trong trường tiểu học thường bị gạt ra rìa. Ngoài việc thiết bị dạy học khá đơn giản, điều quan trọng hơn là, nhà trường sẽ không bố trí giáo viên giỏi cho các lớp này. Theo những gì mà tôi đã từng chứng kiến, từng được nghe nói, những giáo viên mà nhà trường cử ra để dạy lớp tiền tiểu học thường là những người dạy không tốt, hoặc quan hệ với lãnh đạo không ra gì. Hiệu trưởng không thể cho họ nghỉ việc, thế là liền giao cho họ dạy lớp tiền tiểu học.
Cũng có trường thiếu giáo viên, liền thuê một số giáo viên đã nghỉ hưu ở ngoài. Thông thường người ta cho rằng, giáo viên nghỉ hưu "giàu kinh nghiệm". Nhưng trên thực tế, họ không có nghiên cứu gì nhiều về phương pháp giáo dục dành cho trẻ em trước độ tuổi đi học. Cái gọi là "kinh nghiệm" chỉ là một số phương pháp dạy học sinh tiểu học năm xưa. Hơn nữa mấy chục năm qua, do yêu cầu của Bộ giáo dục đối với giáo viên tiểu học không cao, rất nhiều giáo viên có tố chất văn hóa hoặc tố chất giáo dục khá thấp. Tuổi nghề của họ có thể là bốn mươi năm, nhưng không có nghĩa là có "bốn mươi năm kinh nghiệm dạy học". Những kinh nghiệm đó vốn không thích hợp lắm với học sinh tiểu học, càng không thích hợp với các em trước độ tuổi đi học.
Chính vì thế "lớp tiền tiểu học" hiện nay không phải là "giáo dục tiền tiểu học" theo ý nghĩa của giáo dục học, về cơ bản nó chính là bản thu nhỏ của lớp một. Mặc dù số giờ học của lớp tiền tiểu học ít hơn lớp một một chút, thời gian trẻ chơi đùa chiếm nhiều hơn, thời gian đi học và tan học cũng tự do hơn các em lớp một, nhưng mô hình giáo dục tổng thể và khuynh hướng lựa chọn giá trị lại giống như lớp một.
Xét về hình thức lên lớp, mỗi em học sinh đều có một bàn học cố định của mình, có bài tập; xét về nội dung, chủ yếu là học phiên âm, viết chữ, từ tiếng Anh, phép cộng trừ trong phạm vi một trăm... Giáo viên luôn yêu cầu học sinh phải ngoan ngoãn ngồi đúng vị trí, nghiêm túc nghe giảng, hàng ngày yêu cầu học sinh phải viết chữ mới và phiên âm vào vở, đồng thời chấm điểm cho học sinh, thậm chí còn bố trí bài tập về nhà. Mục tiêu của giáo viên là rèn cho trẻ biết nghe lời, nhận được một số mặt chữ, viết bài tập thẳng hàng. Điều này khiến giáo viên cảm thấy mình đã đạt được một số thành tích, những "thành tích" này thường cũng được lãnh đạo nhà trường và phụ huynh công nhận. Đặc biệt là phụ huynh, cảm thấy trước khi vào lớp một con mình đã nhận được mặt chữ và biết làm bài tập, cho rằng con mình không "thua trên vạch xuất phát".
Nhưng tất cả những điều này là "thắng" hay sao?
Cách học máy móc, không hề có tính sáng tạo và phát hiện niềm hứng thú của lớp học tiền tiểu học, kể cả áp dụng vào các lớp cao của khối tiểu học, cũng rất cứng nhắc, huống chi là áp dụng vào các em chưa đi học. Lớp học tiền tiểu học có lên lớp, có kỷ luật, có bài tập, nhưng lại không có hoạt động trí tuệ. Hoạt động dạy học của lớp tiền tiểu học chủ yếu bắt học sinh phải lao động trí óc một cách biến dạng, tiêu cực. Nhà giáo dục người Liên Xô Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky nói: "Phàm là những nơi không để trẻ em hàng ngày phát hiện ra mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng trong thế giới xung quanh, tính hiếu kỳ và lòng ham hiểu biết của trẻ sẽ bị dập tắt"(1) - mất đi tính hiếu kỳ và lòng ham hiểu biết là điều cực kỳ nguy hiểm đối với việc học tập của trẻ.
__________________
(1) Theo quy định, tuổi đi học lớp một của học sinh Trung Quốc là tròn sáu tuổi (tính đến ngày 1-9 của năm em đó đi học). Cũng có nghĩa là, những em sinh trước 1- 9 mới được vào lớp một của năm đó, những em sinh sau 1-9 phải lùi lại một năm (ND).
Cũng có nghĩa là, xét về tình hình chung của "lớp tiền tiểu học" của Trung Quốc hiện nay, không những không căn cứ vào tình hình phát triển tâm sinh lý của trẻ để chúng tiến thêm một bước về trí tuệ, thói quen, tính sáng tạo, mà còn gây trở ngại cho các vấn đề này. Chính vì vậy, lớp tiền tiểu học phát triển đến ngày hôm nay, sự tồn tại của nó đã biến thành chứng "tăng sinh xương" trong chương trình giáo dục bình thường. Nhưng cái thừa này hiện tại lại được nhiều người cho là đôi cánh trên lưng thiên thần, cho rằng cái "nhiều" này tốt hơn là "ít", đây thực sự là một sai lầm!
Mong con trẻ thắng trên vạch xuất phát, thực tế là trói chặt đôi chân của trẻ đến mức tê liệt trên vạch xuất phát.
Tôi nói sơ qua với người bà con những điều trên, chị có phần hiểu, nhưng vẫn hơi lo lắng. Chị nói: Chị cũng đã từng đọc một số sách, nói giáo dục trẻ em giai đoạn sớm rất quan trọng, nói là nếu không làm tốt giáo dục vỡ lòng, sau này con trẻ học hành sẽ rất chật vật.
Tôi hiểu ý chị, bèn nói, chị nói đúng, giáo dục trẻ em giai đoạn sớm rất quan trọng, một người được giáo dục vỡ lòng ngay từ sớm hay không, trình độ trí tuệ của anh ta sẽ có sự khác biệt rất lớn. Giáo dục vỡ lòng bắt đầu càng sớm càng tốt, thậm chí có người từng nói rằng, nếu bạn bắt đầu giáo dục trẻ từ ngày thứ ba sau khi trẻ chào đời thì bạn cũng đã chậm hai ngày rồi. Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky nói, "Huấn luyện trí tuệ bắt đầu từ thời điểm càng xa với thời gian chào đời của trẻ, thì đứa trẻ này càng khó giáo dục"(1). "Huấn luyện trí tuệ" mà ông nói tới ở đây đồng nghĩa với "giáo dục vỡ lòng".
________________
(1) Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky, Lời kiến nghị với các nhà giáo, Đỗ Điện Khôn dịch, NXB Khoa học giáo dục, tái bản lần thứ nhất tháng 6-1984, tr.323.
Hiện giờ điều mà chúng ta cần phải thảo luận là, học ở lớp tiền tiểu học là "giáo dục vỡ lòng" ư?
Về mặt hình thức, giáo dục vỡ lòng tốt phải mang tính trò chơi, không có gì trói buộc, phong phú, liên quan với cuộc sống. Trong nội hàm cần có hàng loạt chức năng khai sáng trí tuệ như huấn luyện kỹ năng, phát triển ngôn ngữ, gợi mở trí tưởng tượng... Nhưng công tác dạy học ở lớp tiền tiểu học hiện nay nóng vội trong việc muốn trẻ nắm được các kiến thức trong sách vở và kiến thức thi cử. Bàn học đã hạn chế sự tự do của trẻ, nội dung học mang tính khép kín đã trói buộc trí tưởng tượng của trẻ, phương thức dạy học đã đi ngược lại với bản tính của trẻ, những bài tập vô vị đã làm trẻ mất đi lòng nhiệt tình đối với việc học - đó là một cách học mang tính vụ lợi, mang tính nô dịch, nó khiến trẻ cách xa huấn luyện trí tuệ, đi về mặt trái của "giáo dục trí tuệ", là hành vi phản giáo dục trí tuệ, cùng lắm nó chỉ được gọi là "học trước", chứ không thể gọi là "giáo dục vỡ lòng".
Người họ hàng của tôi im lặng ở đầu bên kia điện thoại, có lẽ chị đang suy nghĩ điều gì. Một lát sau, chị nói, lần đầu tiên chị được nghe thấy cách phân tích như thế này, chị cần phải được tiêu hóa từ từ. Chỉ có điều vẫn còn một vấn đề - chị ngập ngừng một lát, sau đó nói: Không chỉ là nghe người khác nói, bản thân chị cũng được tận mắt nhìn thấy một số em đã từng học lớp tiền tiểu học, sau khi vào học, các em vẫn giỏi hơn những em không đi học.
Đúng là có chuyện như vậy, đây chính là điều mà tôi chuẩn bị nói với chị.
Tôi nói, em hiểu cái "giỏi" mà chị nói ở đây là nhận biết mặt chữ, tính toán và thi, nhưng sự phán đoán này rất phiến diện. Hiện nay vấn đề lớn nhất tồn tại trong giáo dục tiểu học là mô hình dạy học và khuynh hướng lựa chọn giá trị. Từ nhà trường đến giáo viên và cuối cùng là phụ huynh, mọi người đều không hiểu rõ phương pháp và mục đích, lý giải một cách bề mặt các vấn đề giáo dục, hình thành nên một số cách phán đoán giá trị dị dạng và nông cạn trong giáo dục trẻ em. Và công tác dạy học ở lớp tiền tiểu học đã hùa theo khuynh hướng lựa chọn giá trị sai lầm này, để trẻ sớm tỏ ra "thành thạo" trong việc làm bài tập, thi cử hoặc giữ kỷ luật. Nhưng đó là "giỏi" ư?
Tạm thời không nói trong sự "thành thạo" này bao hàm bao nhiêu hành vi phản giáo dục, để lại bao nhiêu hậu họa, chỉ riêng những cái gọi là "thế mạnh trong học hành" mà trẻ biểu hiện ra cũng ngắn ngủi, trạng trái không duy trì được bao lâu. Chiến lược bồi dưỡng cả đời một con người cũng như chiến lược chạy dài, người lúc đầu chạy trước không có nghĩa sẽ mãi mãi dẫn đầu. Nếu không tin có thể vào các lớp ba, lớp bốn để điều tra, sự khác biệt về thành tích học tập của các em có mối quan hệ nhân quả với vấn đề có tham gia lớp học tiền tiểu học hay không.
Những lời phân tích của tôi có thể đã làm chị động lòng, chị nói, ừ, hình như đúng là như vậy, tại sao lại như thế nhỉ?
Tôi nói, trong giáo dục đã có phát hiện như thế này từ lâu, nếu trong quá trình học, trẻ em không thông qua sự nỗ lực của mình để giải quyết một số vấn đề, không cảm nhận được niềm vui của việc khắc phục khó khăn, mà chỉ nhai đi nhai lại những cái đã biết, sẽ khiến chúng trở nên lãnh đạm và có thái độ khinh miệt đối với tri thức. Những em đã từng học "lớp tiền tiểu học" sẽ nắm trước được một số kiến thức so với các em khác; vậy thì các em sẽ không có cảm giác mới mẻ, hứng thú phát hiện cái mới, khắc phục khó khăn. Các em rất dễ trở nên nông nổi, không chăm chỉ trong học tập. Người lớn tưởng rằng học lại một lần những cái đã học, cái gốc của con trẻ sẽ chắc hơn, thực tế lại thường không như vậy.
Hơn nữa, do trình độ của đội ngũ giáo viên ở các lớp tiền tiểu học khá kém, hầu hết giáo viên có tố chất không cao, phương pháp dạy học không phù hợp, dễ gây ảnh hưởng tiêu cực cho con trẻ, khiến trẻ chán học, dễ khiến trẻ mất hứng thú đối với chuyện học, thậm chí nảy sinh tâm lý sợ hãi. "Hứng thú chính là thiên tài", trong học tập có sự "thông minh" hoặc "chạy trước" nào địch được với hai chữ "hứng thú" này? Chính vì vậy, "thái độ học tập" và "hứng thú học tập" mới là những thứ quý giá nhất, mới là "nền móng" quan trọng nhất, tiềm năng và trí tuệ mà trẻ thể hiện trong tương lai cũng bắt nguồn từ hai phương diện này; và cách giáo dục muốn mau chóng thành công lại biến trẻ thành một quả pháo hoa, chỉ có thể rực rỡ trong thời gian rất ngắn.
Xem ra những gì tôi nói đã ảnh hưởng thực sự đến người bà con, chị nói, lúc đầu suy nghĩ của chị cũng rất đơn giản, không có ý định để cho con học được bao nhiêu kiến thức trong lớp tiền tiểu học, chỉ có điều học ở trường mầm non là chơi, ở lớp tiền tiểu học cũng là chơi, lớp tiền tiểu học ít nhiều gì thì cũng còn học được một số thứ, học được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Hiện giờ xem ra, kể cả là nghĩ như vậy, cũng không cần thiết phải cho con theo học ở lớp tiền tiểu học nữa ư?
Suy nghĩ ban đầu này của chị quả thực rất phổ biến. Có lẽ rất nhiều phụ huynh cũng nghĩ như vậy. Cho rằng lớp tiền tiểu học "ít nhiều cũng học được một số thứ". Suy nghĩ này bao hàm một sự ngộ nhận rất điển hình trong giáo dục hiện nay, đó chính là coi nhẹ quyền chơi đùa của trẻ. Coi chơi đùa là cái vô giá trị, cho rằng chơi đùa có thể ít có thể nhiều, có thể có có thể không, cho rằng "học kiến thức" là có giá trị, học bao giờ cũng tốt hơn là không học. Những bậc phụ huynh có quan điểm này không biết rằng, đối với những đứa trẻ đang còn non nớt, sự trưởng thành về trí tuệ không phải được tiến hành trước bàn học, mà nằm trong quá trình chơi.
Trong cuốn sách Emile của mình, Jean-Jacques Rousseau đã đề ra một nguyên tắc giáo dục "táo bạo nhất, quan trọng nhất và hữu dụng nhất", tức trong việc học tập của trẻ giai đoạn đầu, "Không những không nên tranh thủ thời gian, mà còn buộc phải để thời gian trôi qua một cách thoải mái"(1). Điều mà ông nhấn mạnh là, cần phải để con trẻ được chơi trò chơi một cách thoải mái, phản đối việc dùng thời gian học để lấp kín thời gian chơi trò chơi của trẻ. Đối với việc dạy học ở lớp tiền tiểu học hiện nay, cho dù bạn có đặt ra yêu cầu học tập đối với trẻ hay không, chỉ cần đưa trẻ vào lớp tiền tiểu học, môi trường này sẽ tước đoạt quyền chơi đùa của trẻ.
__________________
(1) Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky, Lời kiến nghị với các nhà giáo, Đỗ Điện Khôn dịch, NXB Khoa học giáo dục, tái bản lần thứ nhất tháng 6-1984, tr.323.
Trẻ em tuổi càng nhỏ, tính cấp bách của giáo dục vỡ lòng càng lớn, càng cần phải có một môi trường phát triển trí tuệ tốt. Thời gian vàng phát triển trí tuệ của trẻ bị cướp đi một năm, sau này không biết sẽ có bao nhiêu tổn thất. Tâm lý học cho rằng thời kỳ tốt nhất để phát triển trí tuệ của trẻ em là trước sáu tuổi, xét về ý nghĩa này "thời gian thực sự là vàng là bạc", làm sao chúng ta có thể biến quãng thời gian quý như vàng này thành một thanh sắt rỉ. Cho dù chỉ là chơi đùa thuần túy không phải học gì hết, cũng tốt hơn là việc "học trước" đi ngược lại với bản tính của trẻ.
Trên thực tế, vấn đề tồn tại ở các lớp tiền tiểu học hiện nay đã bắt đầu được mọi người chú ý, vài năm gần đây các địa phương thi nhau xóa bỏ lớp tiền tiểu học. Thành phố Bắc Kinh đã ra công văn, quyết định sẽ từng bước xóa bỏ lớp tiền tiểu học trước năm 2010. Quyết định này rất tốt, nhưng không hiểu sao phải tiến hành chậm như vậy, có lẽ là do có quá nhiều vấn đề lợi ích dính dáng vào chăng.
Đầu năm 2008, một tờ báo ở Bắc Kinh đã phối hợp với một kênh giáo dục Internet nổi tiếng tiến hành một cuộc điều tra, kết qua cho thấy, trong vấn đề có nên học lớp tiền tiểu học hay không, chỉ có mười tám phần trăm phụ huynh cho rằng "không cần thiết phải học", và trên năm mươi phần trăm phụ huynh cho rằng nên cho con theo học lớp tiền tiểu học - con số này quả là rất lớn, có thể tưởng tượng, đằng sau nó, là một thị trường béo bở biết bao.
Hiện tại không chỉ mỗi trường tiểu học mới mở lớp tiền tiểu học, một số nơi khác như cung thiếu nhi, cơ sở dạy thêm tư thục cũng tổ chức. Tiểu học hóa trường mầm non, đây thậm chí đã trở thành "nét đặc sắc" của rất nhiều trường mầm non, những trường mầm non này, khi nói đến thế mạnh của trường mình, sẽ lấy các nội dung như "dạy học song ngữ", dạy nhận biết mặt chữ, toán học... làm trọng điểm để tuyên truyền.
Mệnh lệnh hành chính có thể khiến lớp tiền tiểu học hiện nay biến mất, nhưng có thị trường như thế này, chắc chắn nó sẽ xuất hiện những biến chủng mới, diện mạo mới. Trong lúc chính quyền thành phố Bắc Kinh quyết định từng bước xóa bỏ lớp tiền tiểu học, trường dạy thêm nổi tiếng của thành phố "Trường học Vĩ Nhân" lại bắt đầu quảng cáo tuyển sinh "lớp tiền tiểu học bán trú", qua danh mục các môn học mà họ cung cấp có thể thấy, cũng là lấy việc học văn hóa làm nội dung chính. Kế hoạch PR của trường học này thực hiện rất tốt, họ luôn nắm bắt được trái tim của phụ huynh.
Giáo dục vỡ lòng có thể khiến con trẻ trở thành thiên tài, trong khi việc "học trước" không thích hợp chỉ có thể biến trẻ thành kẻ bất tài. Mục đích của việc phản đối "lớp tiền tiểu học", là muốn trả lại cho trẻ chương trình giáo dục tốt trước khi đi học.
Sau cuộc nói chuyện dài qua điện thoại với người họ hàng, cuối cùng đã khiến chị tin rằng không nên cho con theo học lớp tiền tiểu học, tôi cảm nhận được sự hài lòng của chị, tâm trạng rất vui, điều này cũng khiến tôi rất vui.
Vừa cúp máy, tôi lại nhận được một cú điện thoại của một người bà con khác.
Người bà con này gọi điện đến để trách tôi.
Hồi đầu tôi cũng tư vấn cho chị vấn đề không nên cho con theo học lớp tiền tiểu học, tôi nói với chị rằng không nên học, đồng thời khuyên chị nên mua nhiều sách, bồi dưỡng cho con niềm say mê đọc sách. Hiện giờ con chị đã lên lớp ba. Nghe chị nói cậu bé này chữ viết không đẹp, làm bài tập cẩu thả; suốt ngày chỉ thích đọc sách. Giọng chị tỏ ý phàn nàn vì không cho con theo học lớp tiền tiểu học, không học viết chữ trước; nói con hàng xóm nhà chị học lớp tiền tiểu học, tạo được nền móng tốt, chữ viết đẹp hơn chữ con chữ, học giỏi hơn con chị.
Tôi hỏi kỹ lưỡng tình hình của con chị và hỏi cả vấn đề chị gần gũi, chuyện trò với con như thế nào, trong lòng về cơ bản đã hiểu ra vấn đề.
Phụ huynh hễ sốt ruột là liền quy kết không đúng, giống như một người không may giẫm chân xuống một rãnh nước, nhưng lại trách tất đi không đúng màu. Tôi rất hiểu sự sốt ruột của chị, cũng muốn giúp chị thật lòng, chính vì thế buộc phải phê bình chị.
Tôi nói, hiện giờ con trẻ không thích học, làm bài tập không cẩn thận, đây không phải là vì không theo học lớp tiền tiểu học, mà vì kể từ khi cháu vào lớp một, chị đã quá coi trọng chuyện làm bài tập, thi cử. Chị quá căng thẳng trong những vấn đề này, luôn nghiêm khắc phê bình con, khiến con cảm thấy gánh nặng về tinh thần quá lớn, nảy sinh tâm lý phản kháng. Điểm này chị cần phải thay đổi.
Người họ hàng này vẫn nói với giọng đầy trách móc rằng, tôi cảm thấy nó không được đặt nền móng tốt, không hào hứng với việc học, từ sáng đến tối chỉ thích đọc sách linh tinh, kiếm được một tờ báo cũng đọc cả nửa ngày. Trước đây chị nói với tôi rằng, những đứa trẻ thích đọc sách sẽ làm văn hay; nhưng nó không thích làm văn, cũng không thích viết nhật ký, nói chung là không thích viết chữ.
Tôi nói, con trẻ có niềm say mê đọc sách và cái gốc như vậy, đáng lẽ phải thích làm văn, biết cách làm văn, hiện giờ chỉ là quá sợ vì những lời chỉ trích thường xuyên của chị. Hơn nữa chị không hiểu được giá trị của việc đọc sách, khi nói đến chuyện con thích đọc sách, giọng chị tỏ ra chán chường và bất lực. Trên thực tế, con trẻ thích đọc sách, sẽ tốt hơn rất nhiều so với việc học ba lớp tiền tiểu học, đáng lẽ chị phải thấy may mắn vì điều đó mới phải.
Người bà con nói, thành tích học tập của nó không bằng những đứa đã từng theo học lớp tiền tiểu học, đây là thực tế rất rõ ràng.
Tôi hỏi, chị đã bao giờ điều tra chưa, trong lớp cháu có bao nhiêu em đã từng học lớp tiền tiểu học, có bao nhiêu em không học; có phải là tất cả những em đã từng học đều có thành tích tốt hơn những em không học không? Những em đi học lớp tiền tiểu học mà thành tích tụt hậu là vì sao? Những em không đi học mà học vẫn giỏi là vì sao?
Chị không trả lời được.
Tôi nói, thành tích cao hay thấp là một vấn đề khá phức tạp, không thể do một nhân tố đơn lẻ nào đó gây ra. Hiện nay con chị đã học lớp ba, tôi có thể khẳng định, nếu con chị trước đó có đi học lớp tiền tiểu học, trong khi các nhân tố giáo dục khác xung quanh trẻ không thay đổi, thì tình hình của cháu cũng sẽ vẫn như hiện nay thôi. Cũng còn may là cháu thích đọc sách, có được nền móng như vậy, chỉ cần bố mẹ và giáo viên không làm cháu mất tự tin, không ngăn cản việc đọc sách của cháu, thế mạnh của cháu dần dần sẽ bộc lộ ra.
Tôi lại phân tích thêm rằng, vấn đề hiện nay của con trẻ rõ ràng là thiếu hứng thú học tập và thiếu sự tự tin. Chính vì thế, muốn thay đổi tình hình này chỉ có thể bắt tay từ việc tạo cho trẻ niềm hứng thú và sự tự tin, phương pháp quan trọng nhất là, bố mẹ không nên suốt ngày chỉ phê bình, càu nhàu và can thiệp vào việc học của con trẻ, cần khích lệ và khen ngợi trẻ.
Thấy tôi nói như vậy, người bà con này cuối cùng đã nói từ nay sẽ phải chú ý phương pháp giáo dục con, không nên thô bạo như vậy nữa. Nhưng tôi cũng cảm nhận được rằng chị không tự tin vào mình và con. Nghĩ đến việc muốn cải thiện phương pháp giáo dục, bố mẹ phải bắt đầu từ những việc cụ thể và các chi tiết nhỏ, tôi dặn đi dặn lại người bà con này rằng, gặp vấn đề cụ thể nếu không biết phải làm thế nào, chị cứ gọi điện thoại cho em để bàn bạc. Tôi nghĩ đây là biện pháp trực tiếp nhất mà mình có thể giúp chị.
Tôi rất muốn đưa ra những lời kiến nghị cho các bậc phụ huynh khác, tuy nhiên, có rất nhiều cái, buộc phải để bố mẹ tự mình suy nghĩ, lý giải. Ví dụ chuyện có nên theo học lớp tiền tiểu học hay không.
Lưu ý đặc biệt
Bàn học đã hạn chế sự tự do của trẻ, nội dung học mang tính khép kín đã trói buộc trí tưởng tượng của trẻ, phương thức dạy học đã đi ngược lại với bản tính của trẻ, những bài tập vô vị đã làm trẻ mất đi lòng nhiệt tình đối với việc học - đó là một cách học mang tính vụ lợi, mang tính nô dịch, nó khiến trẻ cách xa huấn luyện trí tuệ, đi về mặt trái của "giáo dục trí tuệ", là hành vi phản giáo dục trí tuệ, cùng lắm nó chỉ được gọi là "học trước", chứ không thể gọi là "giáo dục vỡ lòng".
Cho rằng lớp tiền tiểu học "ít nhiều cũng học được một số thứ". Suy nghĩ này bao hàm một sự ngộ nhận rất điển hình trong giáo dục hiện nay, đó chính là coi nhẹ quyền chơi đùa của trẻ. Coi chơi đùa là cái vô giá trị, cho rằng chơi đùa có thể ít có thể nhiều, có thể có có thể không, cho rằng "học kiến thức" là có giá trị, học bao giờ cũng tốt hơn là không học. Những bậc phụ huynh có quan điểm này không biết rằng, đối với những đứa trẻ đang còn non nớt, sự trưởng thành về trí tuệ không phải được tiến hành trước bàn học, mà nằm trong quá trình chơi.
Giáo dục vỡ lòng có thể khiến con trẻ trở thành thiên tài, trong khi việc "học trước" không thích hợp chỉ có thể biến trẻ thành kẻ bất tài. Mục đích của việc phản đối "lớp tiền tiểu học" là muốn trả lại cho trẻ chương trình giáo dục tốt trước khi đi học.
Bài tập bạo lực chính là "tai nạn giáo dục"
Bài tập bạo lực có ảnh hưởng tiêu cực đến lòng tự tin, ý chí, phẩm chất đạo đức của trẻ em. Tác dụng xấu của nó không đơn giản như mặc thừa một chiếc áo thì hơi nóng, ăn thêm một cái bánh thì quá no. Nó có thể làm thay đổi trạng thái của sự việc, khiến con trẻ mắc một căn bệnh mãn tính gọi là "chán học", làm chúng mất đi chí tiến thủ, nuốt chửng tính sáng tạo, xóa đi cảm giác hạnh phúc của chúng, trong đó "tính bạo lực" thậm chí còn có thể phá hoại đạo đức của trẻ.
Người ta luôn cho rằng, bài tập mà giáo viên bố trí đều là đúng đắn, đều cần thiết cho việc học, học sinh đều phải hoàn thành nghiêm túc. Thực tế là, hiện nay con trẻ phải làm quá nhiều bài tập không hiệu quả. Đâu chỉ mỗi không hiệu quả, mà còn phản tác dụng. Những bài tập này thật sự vô vị, nó làm trẻ mất hứng thú trong việc học, gây trở ngại cho sự phát triển trí tuệ của trẻ, trở thành những thứ phản giáo dục. Tôi gọi loại bài tập này là "bài tập bạo lực".
Bài tập bạo lực chủ yếu gồm ba loại sau.
Loại thứ nhất là số lượng lớn.
Xin hãy nhìn một lần bài tập ngữ văn rất bình thường của một em học sinh lớp một. Năm chữ mới cộng với phiên âm, mỗi chữ viết hai mươi lần, vở A, B mỗi cuốn viết một lần, tổng cộng phải viết hai trăm phiên âm, hai trăm chữ Hán. Ngoài ra còn đặt ba câu. Nếu ngày đầu tiên trong vở viết chữ mới có chữ viết sai, lại phải viết ba dòng chữ viết sai đó nữa, tức là viết sai một chữ sẽ phải viết thêm ba mươi phiên âm, ba mươi chữ Hán, ngày đầu tiên sai hai chữ, thì phải viết sáu mươi phiên âm, sáu mươi chữ Hán - đây chỉ là bài tập môn ngữ văn. Bài tập môn toán, tiếng Anh cũng không ít, về số lượng không hề kém chút nào. Thử nghĩ xem một buổi tối trẻ phải viết bao nhiêu thời gian trong khi trẻ mới học lớp một.
Loại thứ hai là mang tính trừng phạt.
Tôi đã từng nhìn thấy bài kiểm tra môn ngữ văn của một em học sinh lớp tám, trên đó có một số chỗ sai, bài tập của ngày hôm đó là sửa lại cho đúng tất cả những chỗ sai trong bài kiểm tra, mỗi đáp án đúng phải viết hai mươi lần. Ví dụ một chữ viết không đúng, phải viết lại hai mươi lần chữ này, thế vẫn còn là tốt, nếu giải thích sai một thành ngữ, thì phải viết lại thành ngữ này hai mươi lần. Ví dụ trong một đoạn văn mà giáo viên đọc cho học sinh chép có hai câu trở lên không viết đúng, hoặc viết sai năm chữ trở lên, thì bị coi là sai toàn bộ, phải chép lại đoạn văn này hai mươi lần.
Lượng bài tập của những học sinh có điểm cao và học sinh có điểm thấp cách biệt nhau rất lớn. Rõ ràng, dụng ý của giáo viên là để học sinh biết, làm bài không tốt, sẽ không được yên thân.
Thứ ba là sự đánh giá ác ý.
Khi Viên Viên học cấp hai, một cô giáo tiếng Anh của cô bé, mỗi lần kiểm tra từ mới, chỉ cần học sinh viết sai một từ, liền cho "0" điểm. Viên Viên cũng không ít lần bị điểm 0. Có thể cô giáo muốn thông qua cách này để học sinh biết rằng, nếu không muốn ăn điểm 0 thì chỉ có thể giành 100 điểm. Đây lẽ nào không phải là một lối tư duy rất nực cười hay sao? Nhà giáo dục người Liên Xô Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky nói: "Chỉ khi mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh được xây dựng trên nền tảng tin tưởng lẫn nhau và có ý tốt, việc cho điểm mới có thể trở thành yếu tố kích thích, thúc đẩy học sinh tích cực lao động trí óc"(1). Kiểu đánh giá ác ý này chỉ khiến cho học sinh càng không nghiêm túc trong bài kiểm tra. Học sinh phát hiện ra rằng, bài kiểm tra kiểu này, viết sai một từ mới và chỉ viết đúng một từ mới có số điểm như nhau, mọi người cũng không còn quan tâm đến việc đúng mấy từ hoặc sai mấy từ nữa.
_________________
(1) Jean-Jacques Rousseau, Emile, Lý Bình Âu dịch, NXB Giáo dục nhân dân, tái bản lần thứ nhất tháng 5-2001, tr.93 (Bản dịch tiếng Việt Jean-Jacques Rousseau, Emile hay là về giáo dục Lê Hồng Sâm, Trần Quốc Dương dịch, Bùi Văn Nam Sơn giới thiệu, NXB Tri thức, xuất bản tháng 7 -2008, 692 trang).
Ba kiểu bài tập bạo lực này thường đi liền với nhau, giống như ba thói tham lam, ích kỷ, đố kỵ thường song hành với nhau vậy. Nó không những khiến trẻ đau khổ trong cuộc sống hiện tại, mà còn phá hoại niềm hứng thú và ý chí học tập của trẻ, ảnh hưởng tiêu cực đến tình cảm, thái độ học tập của trẻ trong suốt cuộc đời.
Mỗi đứa trẻ trong giai đoạn mới đi học đều vô cùng mong đợi cuộc sống nhà trường, đầy sự hiếu kỳ và khát vọng đối với việc học, bạn hãy nhìn xem, giai đoạn đầu, khi mới tiếp xúc với từ "bài tập", chúng tỏ ra phấn chấn và tự hào biết bao, người lớn không cho chúng viết cũng không được. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, chúng bắt đầu tỏ ra chán ghét - một số chữ đã biết cách viết từ lâu, nhưng vẫn phải viết hết lần này đến lần khác, vừa không có thời gian chơi, cũng không được đi ngủ sớm. Dù viết cẩn thận đến đâu, cũng vẫn phải có chỗ sai, sai rồi thì bị cô giáo phạt viết nhiều hơn, một chữ thậm chí phải viết một trăm lần... Cái gọi là "học tập" dường như lúc nào cũng cố tình gây khó dễ cho chúng. Trái tim nhỏ bé của chúng bắt đầu oán hận học tập, chúng bắt đầu chán ghét học hành.
Chán ghét là kẻ thù hung ác nhất, đáng sợ nhất gặp phải trong quá trình học tập, bài tập bạo lực chính là phương tiện giao thông nhanh nhất đưa kẻ thù này đến với con trẻ. Một thực tế khiến người ta phải đau lòng là, rất nhiều giáo viên đã vận dụng rất thành thạo "phương tiện giao thông" này, họ tưởng rằng mình đang vận chuyển tri thức đến với con trẻ mà không biết trên cỗ xe đó đang chở "kẻ thù". Và lúc này lại có không ít phụ huynh đứng ở bên để giúp đỡ, bắt ép con trẻ tiếp nhận các loại bài tập bạo lực này, khiến con trẻ càng thêm chán học.
Có hai nguyên nhân trực tiếp khiến một số giáo viên và phụ huynh yêu thích bài tập bạo lực.
Một là trong đầu óc họ có một kiểu logic, ở đây tôi không hề khách khí mà gọi kiểu logic này là "logic ngớ ngẩn" - cho rằng viết nhiều sẽ học được nhiều kiến thức. Họ cho rằng một chữ nếu viết hai mươi lần sẽ tốt hơn là viết hai lần, một câu làm năm lần sẽ tốt hơn là làm một lần. Đây thật sự là coi học tập - một hoạt động trí tuệ phức tạp như việc mài kim vậy. Họ không biết rằng, nhận thức của đại não là một quá trình kỳ diệu, có quy luật riêng của nó, trong đó sự tham gia của tình cảm có một vai trò vô cùng quan trọng. Chính vì thế làm bài tập không phải càng nhiều càng tốt, mà là phù hợp mới tốt. Chắc chắn chúng ta từng có có trải nghiệm rằng, một chữ viết ba lần vẫn chưa nhớ, viết đến ba mươi lần có thể sẽ cảm thấy càng viết càng không đúng.
Những giáo viên và phụ huynh mang theo kiểu logic ngớ ngẩn đó đều không hiểu rằng phải dùng các phương pháp khác nhau để kích thích niềm hứng thú học tập của trẻ, chỉ biết dùng một khối lượng bài tập nặng nhọc để cố định cơ thể trẻ vào bàn ghế; họ không biết hậu quả của việc làm này là trong lòng trẻ sẽ xảy ra một phản ứng hóa học, sẽ sinh ra một chất gọi là "chán học".
Nguyên nhân thứ hai là tâm lý muốn nhanh chóng gặt hái được thành công của giáo viên. Tôi đã từng được tiếp xúc với một số giáo viên dạy ngữ văn ở trường tiểu học nọ. Một cô giáo khi bố trí bài tập viết chữ mới cho học sinh, luôn bắt học sinh phải tách một chữ hoàn chỉnh ra thành mấy phần để viết, ví dụ chữ "语" (ngữ), trước hết là viết một dòng "讠" (ngôn), sau đó là viết một dòng "五" (ngũ), cuối cùng là viết một dòng "口" (khẩu), cuối cùng ghép thành một chữ "语", viết hai dòng. Phiên âm cũng tách thành ba phần thanh mẫu, vận mẫu, thanh điệu, sau đó lại gộp lại để viết - chỉ một chữ này mà tổng cộng viết thành chín dòng. Cô làm như vậy, thực sự trong thời gian ngắn có thể khiến cho học sinh nhớ được những chữ mà mình viết, trong bài kiểm tra sẽ đạt thành tích tốt, khiến phụ huynh rất phấn khởi. Trong khi một cô giáo khác lại tổ chức hoạt động đọc sách trong lớp, hàng ngày giao rất ít bài tập, để học sinh về nhà đọc sách, trong quá trình đọc, học sinh vừa nâng cao được trình độ ngữ văn, đồng thời lại cảm thấy vui vẻ. Cách làm của cô cho dù là bảo vệ niềm hứng thú của học sinh, hay nâng cao lực học, đều có ảnh hưởng tốt và lâu dài.
Nhưng vì đề thi mà nhà trường ra đều chỉ kiểm tra nội dung trong sách, về cơ bản đều là những kiến thức học thuộc lòng, điểm thi của học sinh lớp "cô giáo chú trọng đọc sách" thường kém hơn "cô giáo tách chữ". Ngoài sức ép từ phía nhà trường, còn có sức ép từ phía phụ huynh.
Một số phụ huynh đã đóng góp ý kiến với "cô giáo chú trọng đọc sách" là giao bài tập quá ít và để học sinh về nhà đọc nhiều sách lãng phí thời gian. Cô giáo này vẫn cố gắng chịu sức ép và tiếp tục làm như vậy. Học sinh của cô ở giai đoạn đầu của bậc tiểu học không thấy được điểm gì nổi bật, đến những năm trên của tiểu học, đặc biệt là trong các bài kiểm tra kiến thức từ cấp một lên cấp hai, vượt trội hơn hẳn so với những học sinh chỉ chúi đầu vào học sách giáo khoa. Cô nói đã tiến hành cuộc điều tra với một số học sinh của mình, những học sinh mà cô dạy đều có lực học khá tốt trong giai đoạn học trung học cơ sở, gần như không có cái gọi là "học sinh cá biệt". Trong khi thành tích của các học sinh do "cô giáo tách chữ" dạy lại rất mông lung, sau này gặp rất nhiều vấn đề, không ít học sinh lên đến khối lớp lớn của bậc tiểu học đã tỏ ra chán học, sau khi vào trung học cơ sở, các yếu tố như thành tích học tập, phẩm chất đạo đức, sự phát triển về tâm lý đều xuất hiện không ít vấn đề. Kết quả điều tra càng khiến cô vững tin hơn. Tuy nhiên cô cũng phải than thở rằng, sau khi bước vào trung học cơ sở, thành tích học tập của học sinh cao hay thấp, có hứng thú với việc học hay không, ai quy công cho cô giáo tiểu học? Người ta chỉ nói một đứa trẻ nào đó càng ngày càng hiểu biết hoặc càng ngày càng không hiểu biết. Người ta chỉ có thể nghĩ rằng, sau khi vào trung học cơ sở trẻ gặp được cô giáo tốt, hoặc gặp phải cô giáo kém.
Tôi cũng đã từng nói chuyện với "cô giáo tách chữ", không phải cô giáo này không biết những mặt xấu khi cô làm như vậy. Cô nói, đằng nào thì tôi cũng chỉ dạy các em mấy năm mà thôi, những năm đó thành tích học tập của các em cao hơn lớp khác là được rồi, sau này thế nào, đó không phải là việc của tôi nữa. Cô giáo bắt học sinh uống thuốc độc giải khát trong quá trình giảng dạy này là "giáo viên giỏi" của trường, phụ huynh luôn thi nhau tìm đủ mọi cách để đưa con vào lớp cô. Cái mà mọi người nhìn thấy là, trong thời gian cô giảng dạy, số học sinh trong lớp đạt 100 điểm môn ngữ văn thường vượt quá nửa lớp.
Hai nguyên nhân gây ra bài tập bạo lực đã phản ánh lên hai vấn đề vĩ mô trong giáo dục hiện nay ở Trung Quốc, một là vấn đề định hướng đánh giá giảng dạy; hai là vấn đề tố chất giáo viên. Tôi cho rằng đây là hai vấn đề then chốt trong công tác cải cách giáo dục hiện nay ở Trung Quốc để giải quyết hàng loạt vấn đề. Nhưng hiện nay mọi trách nhiệm đều đổ cho "thi đại học", thi đại học đã trở thành tội đồ gây ra mọi vấn đề trong giáo dục; và mọi cái gọi là "cải cách giáo dục" đều chỉ là bình mới rượu cũ, hoặc là đau đâu chữa đó - đây là một chủ đề rất lớn, không thể mang ra bàn luận ở đây.
Nếu con trẻ gặp phải bài tập bạo lực, nhưng lại không nói với phụ huynh, không tìm kiếm sự giúp đỡ từ phía phụ huynh, thì vẫn cần tìm nguyên nhân từ phía phụ huynh.
Có một học sinh lớp bảy vì nghịch ngợm trong giờ học, bị cô giáo phạt chép bài khóa mười lần, cậu bé này liền chép mười lần bài khóa trong một buổi tối. Con trẻ thà chịu phạt còn hơn là nói với bố mẹ, đây có thể là do trẻ linh cảm trước được thái độ của bố mẹ. Nếu bình thường gặp chuyện gì đó, bố mẹ không tỏ ra thông cảm, thấu hiểu con trẻ, phê bình trẻ một cách tùy ý, tôn sùng một cách mù quáng phương pháp giảng dạy của nhà trường, vậy thì dựa vào trực giác của mình, trẻ sẽ nghĩ rằng, nói với bố mẹ cũng bằng không, không những không giải quyết được vấn đề, mà có thể còn bị ăn mắng, chết trâu lại mẻ thêm rìu. Con trẻ phải chịu đựng bài tập bạo lực, một buổi tối trẻ phải chép xong mười lần bài khóa, ngày hôm sau vẫn đi học bình thường, dường như không có chuyện gì xảy ra, không bị thiếu cái gì cả. Thậm chí có bậc phụ huynh sau khi biết được chuyện này còn thấy mừng, tưởng rằng con mình chép nhiều bài khóa tức là được học nhiều hơn người khác. Họ không nhìn thấy con trẻ đã bị tổn thương ở bên trong, thậm chí suốt đời vết thương không bao giờ lành được.
Bài tập bạo lực có ảnh hưởng tiêu cực đến lòng tự tin, ý chí, phẩm chất đạo đức của trẻ em. Tác dụng xấu của nó không đơn giản như mặc thừa một chiếc áo thì hơi nóng, ăn thêm một cái bánh thì quá no. Nó có thể làm thay đổi cả trạng thái của sự việc, khiến con trẻ mắc một căn bệnh mãn tính gọi là "chán học", làm chúng mất đi chí tiến thủ, nuốt chửng tính sáng tạo, xóa đi cảm giác hạnh phúc của chúng, trong đó "tính bạo lực" thậm chí còn có thể phá hoại đạo đức của chúng. Chính vì thế nó không phải là chuyện nhỏ, mà là "tai nạn giáo dục".
Một điều khiến người ta đau lòng là những tai nạn này đang ngày ngày xảy ra trên khắp cả nước. Chỉ cần nói chuyện với các em học sinh cấp bậc phổ thông và phụ huynh của chúng, sẽ phát hiện ra rằng "tai nạn" không những nhiều, mà nguyên nhân để xảy ra tai nạn cũng rất đa dạng, thực sự khiến người ta phải hãi hùng.
Nhiều năm trở lại đây, trẻ em có gặp bài tập bạo lực hay không, hoàn toàn dựa vào sự may mắn, xem trẻ gặp phải những giáo viên như thế nào. Chỉ cần các giáo viên này không thích bài tập bạo lực cũng đã là may mắn lắm rồi.
Hàng năm chính phủ Trung Quốc rót nguồn kinh phí khổng lồ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục. Các trường sư phạm, viện nghiên cứu khoa học giáo dục không ngừng triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học, hiện giờ các trường tiểu học và trung học cũng "nghiên cứu khoa học", dường như giới giáo dục đều đang chuyên tâm nghiên cứu các vấn đề. Tại sao lại không có ai quan tâm đến sự việc cụ thể, bức xúc như vậy? Một người bạn thời trung học phổ thông của tôi là giáo viên dạy giỏi ở một trường tiểu học, từng đạt danh hiệu nhà giáo ưu tú cấp quốc gia nói rằng, kinh nghiệm công tác bao năm của tôi cho thấy, con trẻ viết chữ mới, mỗi chữ viết ba lần là hiệu quả nhất. Một kinh nghiệm đơn giản và hữu hiệu biết bao - tôi cho rằng đây mới là "thành quả học thuật" - nếu được phổ biến rộng ra, cả nước sẽ có bao nhiêu học sinh được giảm bớt gánh nặng bài tập về nhà, thậm chí từ đó mà trở nên thích học. Dường như nó đơn giản đến mức không có bất kỳ hàm lượng kỹ thuật nào, nhưng trên thực tế lại bao hàm một hệ thống lý luận giáo dục học, tâm lý học và khoa học nhận thức rất hoàn thiện. So với những "thành quả nghiên cứu khoa học" hoàn toàn không có quan hệ gì với cuộc sống nhà trường được in trong những cuốn sách dày, kinh nghiệm của nhà giáo ưu tú này thật đơn giản, bình dị, nhưng lại giá trị biết bao. Chỉ tiếc rằng, thành quả không được phổ biến rộng rãi, người được hưởng lợi quá ít.
Còn cơ quan hành chính giáo dục luôn dùng "tư tưởng hành chính" để quản lý nhà trường, rất ít khi xem xét đến việc dùng "phương châm khoa học giáo dục" để phục vụ nhà trường. Điều này khiến cho một số biện pháp hành chính giáo dục không những không đạt được kết quả gì, mà còn trở thành gánh nặng mới cho giáo viên và học sinh. Năm 2007 tôi đọc trên báo thấy nói rằng một cơ quan hành chính giáo dục nọ đã cho ra đời phương án "giảm bớt gánh nặng" cho học sinh tiểu học, yêu cầu cặp sách, ba lô đi học của học sinh tiểu học không được vượt quá ba kilôgam. Họ đưa thông báo đến nhà trường, đồng thời cử nhân viên xuống các trường để kiểm tra. Điều này khiến học sinh đành phải nghĩ cách đối phó, trước hết là đeo chiếc cặp nặng hai kilôgam vào lớp rồi đặt xuống, sau đó lại ra cổng trường đón lấy một chiếc ba lô nặng hai phảy năm kilôgam vào nữa. Thực ra "giảm bớt trọng lượng cặp sách cho học sinh" là một cách nói mang tính ví von, "cặp sách" ở đây chỉ là một sự tượng trưng cho học tập. Trọng lượng thực tế của cặp sách và gánh nặng bài tập của học sinh có một số mối liên hệ bề ngoài, nhưng không có nghĩa là tương đương. Cần dùng suy nghĩ và phương châm để thực hiện chương trình "giảm bớt gánh nặng", làm sao có thể dùng cái cân để thực hiện? "Nếu giáo viên chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để bắt ép học sinh dành nhiều thời gian hơn cho việc ngồi gặm sách giáo khoa, làm thế nào để có thể kéo học sinh từ bỏ các hoạt động khác và chúi mũi vào việc học, thì không thể tránh khỏi hiện tượng gánh nặng quá nặng"(1). Câu nói này của Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky đã cho chúng ta thấy nguồn gốc và phương án giải quyết vấn đề gánh nặng của học sinh quá nặng, tại sao không suy nghĩ vấn đề từ đây.
_________________
(1) Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky, Lời kiến nghị với các nhà giáo, Đỗ Điện Khôn dịch, NXB Khoa học giáo dục, tái bản lần thứ nhất tháng 6-1984, tr.37.
Ngăn ngừa và chấm dứt hiện tượng bài tập bạo lực ở các mức độ khác nhau mới là hành động giảm bớt gánh nặng quan trọng nhất. Coi bài tập bạo lực là "tai nạn", có thể khiến cho người ta nhìn thấy sức phá hoại của nó, để mọi người đề cao cảnh giác.
Để ngăn chặn và chấm dứt tình trạng tai nạn lao động xảy ra ở các ngành nghề khác nhau, chính phủ Trung Quốc đã không ngừng xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn quản lý và thực thi những biện pháp tương ứng như không được phép khai man tai nạn hầm mỏ, đồng thời sẽ truy cứu trách nhiệm của những người có liên quan. Nhưng hàng ngày cả nước xảy ra bao nhiêu vụ tai nạn bài tập bạo lực, lại vẫn được tồn tại một cách hợp lý, bình thường.
Ai sẽ là người vạch trần ra sự việc này, có bao nhiêu người nghe thấy tiếng rên rỉ của hàng triệu trẻ em? Nói nhẹ đi một chút, là nó sẽ phá hoại vĩnh viễn lòng nhiệt tình và niềm hứng thú đối với học tập của rất nhiều học sinh; nếu nói nặng hơn, là nó đang ăn mòn và bóp méo tương lai của dân tộc và quốc gia. Bao giờ mới có thể ban hành một bộ "biện pháp" khoa học như thế này, để các em không phải chịu sự bức hại của bài tập bạo lực?
Lưu ý đặc biệt
Dùng một khối lượng bài tập nặng để cố định cơ thể trẻ vào bàn ghế. Hậu quả của việc làm này là trong lòng trẻ sẽ xảy ra một phản ứng hóa học, sẽ sinh ra một chất gọi là "chán học".
Điều mà người phụ huynh tốt và người giáo viên tốt cần chú ý nhất là tránh không để trẻ gặp kẻ thù "chán ghét" này, chính vì thế điều họ dốc toàn bộ công sức để làm là bảo vệ niềm hứng thú học tập cho con trẻ.
Điều quan trọng nhất là bản thân phụ huynh phải có nhận thức đúng đắn về bài tập bạo lực, nếu bạn thường xuyên có ý thức, dày công bảo vệ niềm say mê học tập của con trẻ, thì đương nhiên sẽ có biện pháp đối phó với loại bài tập này.
Ngăn ngừa và chấm dứt hiện tượng bài tập bạo lực ở các mức độ khác nhau mới là hành động giảm bớt gánh nặng quan trọng nhất.
CHƯƠNG 46: KHÔNG PHẢI LỖI CỦA TRÒ CHƠI ĐIỆN TỬ
Nếu một đứa trẻ chúi đầu vào trò chơi điện tử một thời gian dài không chịu thoát ra, đến nỗi trở thành bệnh hoạn, đó là vì thế giới bên ngoài trò chơi điện tử khiến trẻ cảm thấy vô vị, không hấp dẫn hoặc tự ti. Nếu một đứa trẻ vì trò chơi điện tử mà để lỡ mất tiền đồ của mình, thì kể cả trẻ sống trong thời đại không có máy tính điện tử cũng sẽ có những thứ khác cám dỗ em. Tôi tin rằng cái khiến người ta trở nên sa đọa không phải là bản thân trò chơi điện tử, mà là sự trống trải trong tâm hồn, hoặc thiếu một số tố chất nào đó. Những người sa đọa trong trò chơi điện tử kể cả không có trò chơi điện tử cũng sẽ có những cái khác khiến họ lún sâu vào và không thể thoát ra.
Năm mười tuổi học lớp bảy, Viên Viên bắt đầu chơi trò chơi điện tử trong máy tính, thường chơi đến mức quên ăn quên ngủ, mỗi lần đến cuối tuần, chơi mỗi lần bốn, năm tiếng đồng hồ, đến dịp nghỉ hè nghỉ đông, mỗi lần có thể chơi liền bảy, tám tiếng đồng hồ. Hai năm đó, tạp chí mà cô bé mua hầu hết đều liên quan đến trò chơi điện tử, nói chuyện điện thoại với bạn bè, cũng thường là những nội dung liên quan đến trò chơi điện tử.
Cô bé chơi điện tử là do tôi xúi giục.
Khi còn đang học tiểu học ở Diêm Đài, bạn bè Viên Viên chưa rộ lên phong trào chơi điện tử, cũng có thể là do hồi đó số gia đình có máy tính chưa nhiều, có thể do lúc đó các em còn quá nhỏ. Cô bé biết chuyện này nhưng không hào hứng lắm. Đến khi chuyển về Bắc Kinh học trung học cơ sở, phong trào chơi điện tử bắt đầu rộ lên trong giới học sinh. Một mặt, qua lời bạn bè Viên Viên biết trò chơi điện tử rất thú vị, mặt khác lại nghe thấy quá nhiều lời phê bình, chỉ trích trò chơi điện tử từ phía báo chí, các bậc phụ huynh và nhà trường. Có thể cô bé cũng có phần băn khoăn, cảm thấy mâu thuẫn, nên không chủ động đòi chơi. Đến học kỳ hai năm lớp bảy, tôi hỏi con gái rằng, có phải trong lớp con có bạn đang chơi trò chơi điện tử không, nếu con muốn con cũng có thể chơi. Cô bé hơi bất ngờ, nhưng rồi vui vẻ đồng ý ngay, lập tức đi mua đĩa trò chơi điện tử.
Suy nghĩ của tôi là, nếu trò chơi điện tử có thể làm cho trẻ em say mê đến như vậy, chắc chắn trong đó cũng chứa đựng niềm vui lớn. Con trẻ cũng cần phải chơi gì đó, tôi muốn con gái tôi được vui vẻ, có được niềm vui mà mỗi giai đoạn cần phải có. Bởi hiện nay trẻ em rất ít bạn chơi, trò chơi cũng nghèo nàn, đơn điệu, nếu không có chuyện gì thú vị cho chúng làm, chắc chắn chúng sẽ đốt thời gian vào việc xem ti vi. Thà để Viên Viên lãng phí thời gian vào việc chơi điện tử, còn hơn là để cô bé chúi đầu vào ti vi. Có quá ít chương trình thích hợp với cô bé, xem ti vi lại hoàn toàn là sự tiếp nhận bị động, xem thường xuyên sẽ khiến đại não con người trì trệ; trò chơi điện tử lại là sự tham gia chủ động, trong quá trình chơi mình phải đầu tư trí tuệ; hơn nữa trò chơi điện tử có thể giúp cô bé làm quen với máy tính. Một vấn đề khác nữa là, bạn bè cùng trang lứa với Viên Viên đều đang chơi, nếu cô bé không chơi, sẽ thiếu một chủ đề quan trọng để giao lưu. Còn về chuyện có bé có nghiện hay không, không phải là tôi không lo lắng, nhưng không muốn vì sợ nghẹn mà bỏ cả bữa ăn. Nói tóm lại là tôi có lòng tin, lòng tin này bắt nguồn từ sự nhận thức của tôi đối với trò chơi điện tử và những gì mà tôi hiểu về con gái.
Trò chơi điện tử cũng chính là trò chơi, không phải là ma túy, về bản chất, nó không có gì khác những trò chơi mà chúng ta chơi hồi nhỏ, chỉ có điều trò chơi này thú vị hơn, phức tạp hơn. Thử nghĩ mà xem, có trẻ em nào không nghiện trò chơi? Hồi nhỏ chúng ta cùng bạn bè chơi đánh trận hoặc chơi trốn tìm, thường xuyên mải chơi đến mức quên về nhà ăn cơm, quên đi ngủ, mãi cho đến khi người lớn đến, lôi cổ chúng ta về. Lúc đó chúng ta cũng không muốn giải tán, thậm chí bị ăn một trận đòn mới chịu về. Trong khi hiện nay con em chúng ta không thể tìm được nhiều bạn bè để chơi ở dưới sân khu chung cư, đành phải chơi với các bạn chơi ảo trên máy tính. Chúng cũng sẽ thường chơi say sưa đến mức quên thời gian, luôn cảm thấy chơi không đủ. Hai cách chơi này không có gì khác nhau. Niềm say mê trò chơi và "cơn nghiện" bệnh hoạn là hai trạng thái khác nhau. Tôi tin rằng hầu hết chỉ là say mê trò chơi, chỉ có một số ít trẻ sẽ phát triển thành trạng thái nghiện. Nghe nói Diêu Minh(1) cũng thích chơi game, ngoài ra còn có một số thanh niên trẻ tuổi rất thành đạt trong sự nghiệp và học hành cũng thích chơi game. Chính vì thế không phải là bản thân trò chơi điện tử có vấn đề, mà do con trẻ thiếu khả năng làm chủ mình, khiến sự việc trở nên tồi tệ. Đây là một quan niệm mà trước hết bố mẹ cần phải xác định.
________________
(1) Vasyl Olexandrovych Sukhomlynsky, Lời kiến nghị với các nhà giáo, Đỗ Điện Khôn dịch, NXB Khoa học giáo dục, tái bản lần thứ nhất tháng 6-1984, tr.67.
Nghiện trò chơi điện tử thực ra còn phản ánh một vấn đề khác của con trẻ nằm ngoài trò chơi. Nếu một đứa trẻ chúi đầu vào trò chơi điện tử một thời gian dài không chịu thoát ra, đến nỗi trở thành bệnh hoạn, đó là vì thế giới bên ngoài trò chơi điện tử khiến trẻ cảm thấy vô vị, không hấp dẫn hoặc tự ti. Một đứa trẻ nếu vì trò chơi điện tử mà để lỡ mất tiền đồ của mình, thì kể cả trẻ sống trong thời đại không có máy tính điện tử, cũng sẽ có những thứ khác cám dỗ trẻ. Tôi tin rằng cái khiến người ta trở nên sa đọa không phải là bản thân trò chơi điện tử, mà là sự trống trải trong tâm hồn, hoặc thiếu một số tố chất nào đó. Những người sa đọa trong trò chơi điện tử kể cả không có trò chơi điện tử cũng sẽ có những cái khác khiến họ lún sâu vào và không thể thoát ra.
Trên thực tế, trò chơi điện tử đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của trẻ em đương đại. Cho dù phụ huynh có thích hay không, cuối cùng chúng vẫn sẽ chơi, chính vì thế, trong vấn đề có nên cho trẻ chơi trò chơi điện tử hay không, về cơ bản phụ huynh đã không cần phải đưa ra quyết sách nữa. Trào lưu chung muốn ngăn cũng không ngăn được. Cái mà phụ huynh cần phải suy nghĩ là làm thế nào để trẻ vừa được chơi điện tử lại vừa biết cách làm chủ mình, làm thế nào mới có thể vừa được vui vẻ, vừa được trưởng thành?
Thật là "vạn sự khởi đầu nan". Sau khi Viên Viên bắt đầu chơi điện tử, cũng giống như những đứa trẻ khác, cô bé rất say mê. Gần như không có thời gian đọc sách, đến giờ luyện đàn nhị cũng không muốn tắt máy, vẫn cứ muốn chơi tiếp; gọi cô bé ăn cơm, mãi cho đến khi tôi và ông xã ăn xong hết, cơm nguội hết rồi vẫn không chịu ra. Những biểu hiện này của cô bé khiến tôi cũng sốt ruột, nhắc vài lần, nhưng sau khi phát hiện thấy không ăn thua gì, tôi nói với con rằng nên sắp xếp hợp lý thời gian, làm hết những việc cần phải làm, sau đó không nói gì nữa. Mấy lần con ra ăn cơm, chúng tôi đều đã ăn xong, bàn ăn cũng dọn rồi, tôi nói với rằng cơm ở trong bếp, muốn ăn thì tự đi mà hâm nóng. Khi nói những điều này tôi vẫn tỏ ra vui vẻ, không hề tỏ ý trách móc.
Trong lòng càng sốt ruột lại càng không thể hầm hầm quát mắng con, càng phải đứng về phía con, tuyệt đối không được đứng về phía đối lập với con. Chúng tôi thường vui vẻ hỏi con gái một số chuyện liên quan đến trò chơi điện tử, chia sẻ với con một cách chân thành niềm vui khi con chơi; lễ Noel chúng tôi còn tặng cô bé đĩa trò chơi mới. Tôi biết can thiệp sẽ chỉ khiến cô bé chơi càng vô độ hơn, cái mà cô bé cần là phải học được cách làm chủ bản thân. Chính vì thế tôi có đủ kiên nhẫn để cô bé trải nghiệm các cảm giác khác nhau trong quá trình tự mình phân bổ thời gian.
Vì bình thường Viên Viên ở nội trú trong trường, chỉ đến cuối tuần mới về nhà luyện đàn nhị. Ngày thứ nhất làm bài tập xong cô bé liền chơi điện tử, chơi quên hết trời đất, quên luyện đàn nhị, liền nói ngày thứ hai sẽ luyện thêm một lúc. Ngày thứ hai đến khi buộc phải tắt máy mới nhớ ra, lại quên luyện đàn nhị, thế là đành phải đợi đến tuần sau để luyện. Lúc này cô bé cũng tỏ ra áy náy - đây thực ra là thời điểm bắt đầu tự điều chỉnh của một đứa trẻ. Tuần thứ hai quả nhiên có nhớ luyện, nhưng thời gian rất ngắn, kết quả đến nhà cô giáo học, chơi rất tệ, lúc ra khỏi nhà cô giáo, cô bé tỏ ra rất rầu rĩ, nói xem ra phải cố gắng luyện cho tốt. Tôi không trách con, chỉ hùa theo nói, cố gắng luyện cho tốt. Tiếp sau đó, về cơ bản Viên Viên đã có thể dành thời gian cho việc luyện đàn như trước kia. Để có thời gian chơi điện tử, cô bé chú ý nhiều hơn đến năng suất công việc. Đương nhiên cũng có lúc tái phạm, thỉnh thoảng có một, hai ngày phân bổ thời gian rất tệ, nhưng tôi vẫn không gây xung đột với con, có lúc bình tĩnh nói với cô bé chuyện này, đưa ra niềm mong mỏi của tôi.
Thời gian mới bắt đầu chơi điện tử, cũng có một số ảnh hưởng đến thành tích học tập của cô bé, nhưng tôi tin rằng, con trẻ phải được chơi; tin rằng trong lòng con gái mình biết rất rõ học và chơi cái nào quan trọng hơn, chỉ cần tôi không can thiệp linh tinh, không càu nhàu, chắc chắn cô bé sẽ dần dần điều chỉnh được mình. Hơn nữa, cũng chưa đến gần thời gian thi đại học, thành tích của cô bé lên xuống một chút cũng không có gì đáng ngại. Chỉ cần không để trò chơi điện tử xung đột với việc học, không để cô bé mất hứng thú đối với việc học, tôi tin rằng lúc cần phải học chắc chắn cô bé sẽ biết cách học một cách chuyên tâm.
Hơn một năm sau khi chơi điện tử, Viên Viên vẫn rất say mê những trò chơi này, nhưng dần dần cô bé đã học được cách tự kiểm soát mình, làm hết những việc cần phải làm, hơn nữa năng suất cũng cao hơn - tôi cho rằng, đây là thu hoạch quan trọng nhất của cô bé, quan trọng hơn cả việc chỉ đơn thuần là thi được điểm cao.
Những năm trung học cơ sở, Viên Viên chỉ chơi trò chơi điện tử trong máy tính, không chơi game online. Sau khi lên lớp chín, việc học hành trở nên căng thẳng hơn. Một ngày nọ của năm lớp chín, cô bé cho tất cả các đĩa điện tử vào một hộp giấy, nói trước khi thi vào cấp ba sẽ không chơi nữa. Tôi không nói gì, mặc dù đây là hành động mà tôi mong chờ từ lâu, nhưng tôi không tỏ ra xúc động, cũng không khen ngợi con, chỉ tỏ ra đồng tình, giúp con vui vẻ dùng băng dính dán hộp giấy lại, đặt dưới gầm giường.
Sau khi kỳ thi vào cấp ba kết thúc, đáng lẽ Viên Viên đặt ra rất nhiều kế hoạch: đọc tiểu thuyết, luyện chữ, luyện đàn. Nhưng sau khi hộp đựng đĩa trò chơi điện tử được mở ra, cô bé lại dành nhiều thời gian nhất cho việc chơi điện tử, kết quả kế hoạch ban đầu về cơ bản không được thực hiện.
Mặc dù tôi thấy hơi tiếc vì con gái "lãng phí" thời gian như vậy, nhưng cũng không nói gì. Tôi nghĩ kỳ thi vào cấp ba đã gây áp lực lớn cho con trẻ, tiếp sau đó lại là giai đoạn học cấp ba còn căng thẳng hơn, chính vì vậy kỳ nghỉ này nên để cho cô bé chơi thoả thích, tại sao tôi lại phải bắt con tôi học trong kỳ nghỉ chứ.
Chỉ khi kỳ nghỉ kết thúc, tôi đã có một cuộc chuyện trò với Viên Viên, ôn lại kế hoạch đặt ra lúc đầu hè, hỏi con có cảm thấy chơi trò chơi điện tử lãng phí thời gian hay không, sẽ phá vỡ hoàn toàn kế hoạch của một người hay không. Tôi lại phân tích với con rằng, quỹ thời gian chỉ có như vậy, làm việc này sẽ không thể làm được việc khác. Ba năm học cấp ba tới là ba năm quan trọng nhất trong cuộc đời con người, chính vì thế chúng ta nên sử dụng tốt ba năm này, đây thực ra cũng là để tương lai có điều kiện chơi tốt hơn.
Một kỳ nghỉ trôi qua, thấy mình không thực hiện được theo kế hoạch, Viên Viên cũng tỏ ra rất hẫng hụt, hơn nữa cơn nghiện chơi điện tử cũng đã vơi đi khá nhiều, lúc này cô bé đã hiểu được lời của bố mẹ, không cãi lại tôi nữa. Nói lên trung học phổ thông chắc chắn học hành sẽ rất bận, nên sẽ phải chơi ít thôi. Đúng là cô bé đã nói là làm, lên trung học phổ thông cô bé có chơi mấy lần, chúng tôi cũng không nói gì. Đến năm lớp mười một, Viên Viên liền cho tất cả các đĩa điện tử vào hộp, nói thi đại học xong sẽ chơi. Hai năm sau đó không động gì đến trò chơi điện tử nữa.
Đợi đến khi kỳ thi đại học kết thúc, hầu hết thời gian Viên Viên dành cho việc đọc sách, xem đĩa, lên mạng chat với bạn bè, đi chơi cùng bạn bè. Thỉnh thoảng có chơi điện tử một lát, là những trò chơi mới mượn được của bạn bè. Hộp giấy đó cũng không mở ra nữa, có lẽ cô bé thấy những trò chơi đó đã quá cũ hoặc quá trẻ con. Hiện giờ trong trường đại học, ngoài việc học tập căng thẳng, Viên Viên còn tham gia hai câu lạc bộ, không bỏ bê việc đọc sách, cuộc sống rất phong phú cũng rất bận rộn, nghe nói thời gian lên mạng chat với bạn cũng rất ít. Thỉnh thoảng cũng có chơi điện tử, nhưng nếu bắt cô bé chơi điện tử triền miên, cô cũng không chịu.
Có thể có phụ huynh sẽ nói, con chị tự giác, lúc nào không nên chơi sẽ không chơi nữa. Con tôi nếu quả thực mà thả lỏng như vậy, nó sẽ không chịu làm gì cả, mãi mãi không bao giờ chịu dừng lại.
Giả thiết này sẽ không thành lập.
Sở dĩ sự "thả lỏng" của các bậc phụ huynh này không có tác dụng. Nguyên nhân thứ nhất là bình thường bố mẹ đã quen với việc "quản" con trẻ trong rất nhiều chuyện, chỉ riêng chuyện chơi điện tử không biết đã nói bao nhiêu lần, xảy ra bao nhiêu cuộc xung đột. Vậy thì một ngày nào đó đột nhiên bạn thả lỏng (thực ra chủ yếu là nấp ở một góc làm trinh thám), đương nhiên là trẻ sẽ chơi cho thật đã rồi. Đột nhiên vắng chủ nhà, gà không vọc niêu tôm hay sao; cảnh sát nghỉ việc hết, kẻ trộm không hoành hành hay sao? Tốt nhất giữa bố mẹ và con không nên hình thành nên mối quan hệ quản thúc và bị quản thúc này, thời gian thiết lập mối quan hệ này càng dài, càng vững chãi, tính tự giác của trẻ sẽ càng kém.
Nguyên nhân thứ hai là phụ huynh thiếu kiên nhẫn, chỉ mong mình vừa thay đổi, con trẻ cũng sẽ thành anh hùng ngay, chỉ cần mấy ngày là mọi chuyện sẽ tốt đẹp; nếu trong một thời gian con trẻ không chịu thay đổi, phụ huynh sẽ không chịu nổi nữa. Tật xấu cũng là "bệnh", bệnh đến như núi đổ, bệnh đi như kéo tơ(1). Chỉ cần mất một ngày là có thể nhiễm tật xấu, nhưng để sửa có thể sẽ phải mất ba ngày, huống chi trẻ đã nhiễm tật xấu trong mấy năm, làm sao bạn thả lỏng ba ngày là trẻ đã thay đổi ngay được.
_________________
(1) Ý nói rằng bệnh đến sẽ rất nhanh, quá trình khỏi bệnh lại diễn ra rất chậm (ND).
Giống như cách ví von của học giả Đào Hành Tri, có người bắt đầu tiếp nhận một quan niệm, biết chim chóc sẽ phát triển tốt hơn trong môi trường tự nhiên, liền kiếm một ít hoa cỏ, cành cây đặt vào lồng chim, tưởng làm như vậy chính là tạo môi trường tự nhiên cho chim. Tại sao lại không mở lồng chim ra? Bố mẹ muốn sửa một tật xấu nào đó của con, thứ nhất phải có thành ý, thứ hai phải có lòng kiên nhẫn.
Còn có một số phụ huynh, bình thường quản con rất chặt, không cho lên mạng Internet, đến khi trẻ đạt được điểm cao hoặc làm tốt một việc gì đó, thấy vui quá, bố mẹ liền lấy việc cho trẻ lên mạng hoặc lên mạng quá giờ làm phần thưởng - một mặt phụ huynh rất căm hận game online, một mặt lại coi việc lên mạng Internet là "phần thưởng" để tặng cho con. Và những thứ được coi là "phần thưởng", làm sao có thể là đồ xấu được - và thế là con trẻ đã bị đảo lộn trong nhận thức, niềm hứng thú chơi game của chúng càng được kích thích mạnh hơn.
Tôi thường nghĩ, sự việc có thể làm ngược lại, coi lên mạng là "nhiệm vụ" hoặc "biện pháp trừng phạt", chứ không nên coi là "phần thưởng" để tặng cho trẻ, phải chăng sẽ đạt được hiệu quả khống chế tốt hơn? Ví dụ, con trẻ rất thích chơi điện tử, vậy thì mỗi lần con trẻ làm sai một chuyện gì đó, bố mẹ liền nói sẽ trừng phạt trẻ, lên mạng đi, buộc phải chơi đủ mười tiếng đồng hồ, không đủ sẽ phạt tiếp mười tiếng nữa, cho đến khi nào trẻ mệt quá xin tha. Như thế, dần dần trẻ sẽ cảm thấy lên mạng không còn là một thú vui, mà là một sự trừng phạt. Nhiều lần như vậy, có thể sẽ khiến trẻ nảy sinh tâm lý đối nghịch với mạng Internet.
Hiện nay game online dường như đã trở thành một vấn đề xã hội, các cơ quan chuyên cai nghiện mạng Internet đang mọc lên như nấm. Có bệnh viện đã mở dịch vụ chữa trị bệnh "nghiện mạng Internet", coi con trẻ như bệnh nhân bình thường và phải nằm viện, điều trị bằng phương pháp uống thuốc, tiêm. Cũng có nơi tổ chức "trường quân sự" hoặc "trại huấn luyện", không thiếu thủ đoạn nào - đây thực sự là phương pháp đau đâu chữa đó. Tiêu chuẩn "chữa nghiện thành công" mà các cơ quan này tuyên truyền là một tiêu chuẩn như thế nào? Rốt cục là game chứ không phải là ma túy, họ đã theo dõi những đứa trẻ này bao nhiêu thời gian, những đứa trẻ này sau này thế nào? Những cơ quan hoặc sản phẩm này khiến bố mẹ phải mất tiền oan còn là chuyện nhỏ, nghiêm trọng hơn là không những không giải quyết được vấn đề gì, mà còn gây tổn thương cho con trẻ.
Năm 2007 báo chí phanh phui vụ việc "trường Đại Đông Phương" của Tứ Xuyên tuyên truyền có thể giúp trẻ cai được chứng nghiện Internet. Nhưng nó đâu phải là trường học, mà chẳng khác gì một "lò gạch đen". Nhân viên có tố chất thấp, hành vi "giáo dục" khiến người ta vô cùng phẫn nộ; "giáo viên" của họ tùy ý đánh chửi, sỉ nhục học sinh, biến nhà trường thành trại tập trung, cuối cùng buộc học sinh phải nhảy lầu tự tử. Nó không những gây tổn thương về mặt thể xác cho con trẻ, mà còn làm tổn thương về mặt tinh thần. Sự việc này có tính chất hoàn toàn giống với "vụ việc lò gạch đen"(1) mà báo chí phanh phui thời điểm đó, cuối cùng cũng vẫn bị làm ngơ cho qua chuyện, không thấy người nào bị xử phạt. Sự thờ ơ này, có thể là do những người bị hại này đều là các "thiếu niên hư hỏng", họ không thể được người khác cảm thông, thương xót như các công nhân đáng thương trong "lò gạch đen".
_________________
(1) Vận động viên bóng rổ nổi tiếng nhất Trung Quốc (ND).
Có người nâng "vụ việc lò gạch đen" lên tầm cao của an ninh quốc gia, nhưng không có ai phát hiện ra những hành vi như "trường Đại Đông Phương" mới là sự kiện an ninh quốc gia thực sự - sự ngu dốt của bố mẹ, hành vi bạo lực của giáo viên đã gieo mầm thù hận trong lòng con trẻ, tâm lý của chúng bị bóp méo. Những đứa trẻ học từ trường này ra ngày càng đắm mình vào game online, và còn có em thề sẽ giết vị "hiệu trưởng" đó - đây mới là quả bom hẹn giờ, thực sự khiến người ta phải lo lắng.
Bố mẹ tuyệt đối không nên nhẹ dạ cả tin vào các quảng cáo chữa trị bệnh nghiện game online, cái gọi là "nghiện mạng Internet" là một vấn đề giáo dục, không thể giải quyết ở bề nổi như vậy.
Chúng ta thường xuyên đọc được những bài báo nói về thanh thiếu niên say sưa với trò chơi điện tử không thể dứt ra được. Nhìn từ bề ngoài vấn đề đều nằm ở thanh thiếu niên và các trò game, nhưng qua mỗi bài báo đều có thể nhìn thấy hoặc cảm nhận thấy những khiếm khuyết trong giáo dục gia đình. Các "hành động tích cực" mà rất nhiều bậc phụ huynh áp dụng cho thấy họ hết lòng với con cái biết bao, chỉ tiếc rằng các biện pháp này chứa đầy yếu tố phản giáo dục, phản khoa học - tức là những hành vi phản giáo dục, phản khoa học này không những khiến sự cố gắng của bố mẹ không đạt được kết quả gì (cùng lắm chỉ đạt được hiệu quả tạm thời, bề ngoài), lại còn khiến trẻ càng lún càng sâu.
Tôi cho rằng, muốn giải quyết một cách căn bản vấn đề "nghiện mạng Internet" của trẻ, chỉ có thể bắt đầu từ giáo dục gia đình. Đòi hỏi bố mẹ phải thay đổi phương châm giáo dục và phương pháp giáo dục của mình một cách căn bản. Không có sự thay đổi của bố mẹ, sẽ không thể có sự cải thiện của con trẻ.
Một là bố mẹ phải có thái độ đúng đắn với game online, bình thản tiếp nhận nó chỉ là một trò chơi của con trẻ, là một phương thức vui chơi giải trí. Không nên để trẻ cảm thấy có tội hoặc áy náy khi chơi game, không nên để thái độ của bạn kích động tâm lý đối nghịch ở trẻ. Tâm lý đối nghịch chỉ khiến trẻ càng ham chơi hơn.
Hai là để trẻ có hoạt động đọc sách ngoài giờ học phong phú. Cho dù là trẻ em hay người lớn, bất kỳ sự buông thả nào đều có liên quan với sự trống trải trong tâm hồn và suy đồi trong đạo đức. Chỉ ở những đứa trẻ có tinh thần trống rỗng, game online mới biến thành liều thuốc phiện. Hoạt động đọc sách ngoài giờ phong phú sẽ khiến thế giới tinh thần của trẻ trở nên phong phú, chúng sẽ trở thành những đứa trẻ thông minh hơn, lý trí hơn, hình thành nên ý thức đạo đức tốt hơn, sức mạnh dữ dội của nó sẽ chiếm lĩnh mặt trận, không để lại nhiều không gian cho game. Một đứa trẻ ngay từ nhỏ đã có thói quen đọc sách tốt, đối với trẻ, hoạt động đọc sách có sức hấp dẫn vô cùng, sẽ làm chúng thờ ơ với game.
Ba là để trẻ học được cách tự quản lý mình. Đây là điều then chốt, cũng là điều khó nhất. Hầu hết những đứa trẻ nghiện game online, đặc điểm chung của bố mẹ chúng là thường xuyên đi "quản" con trẻ, không ngừng đưa ra những yêu cầu mang tính hạn chế đối với trẻ. Mục đích của họ cũng là muốn để cho trẻ học được cách tự quản lý mình, liền thường xuyên nói với trẻ rằng con nên như thế này, như thế kia. Nhìn những điều mà bố mẹ sắp xếp cho con, đúng là rất tốt, rất hợp lý. Chính vì bố mẹ tin rằng những cái mà mình sắp xếp sẽ biến thành sự sắp xếp của trẻ, chính vì thế không ngừng nhắc nhở đến lúc làm việc này rồi, đến lúc làm việc kia rồi. Thực tế là, nếu bạn gánh vác hết mọi sự "quản lý", làm sao con trẻ còn cơ hội nào để học cách tự quản lý mình nữa.
Bốn là trong các hành động, lời nói cụ thể nên vận dụng nhiều lối tư duy theo chiều ngược, ví dụ ở trên tôi đã nói đến, coi lên mạng là "nhiệm vụ" hoặc "biện pháp trừng phạt", chứ không phải là biện pháp khen thưởng để vận dụng. Đây được coi là một kỹ xảo nhỏ.
Mấy điều trên rất dễ hiểu. Trong quá trình thao tác cụ thể, phụ huynh cần lưu ý mấy điểm sau:
Mỗi câu nói, mỗi hành động của bạn sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của phương pháp. Ví dụ, bạn muốn con đọc nhiều sách ngoài giờ học, liền kéo trẻ ra khỏi máy tính, nhét vào tay trẻ một quyển sách, nói với trẻ rằng phải đọc sách nhiều, chơi game ít - làm như thế thực ra càng phá hoại niềm hứng thú đọc sách của trẻ hơn, càng khiến trẻ ham chơi game hơn. Còn có những bậc phụ huynh nóng lòng muốn con học được cách tự quản lý mình, quy định nghiêm khắc thời gian học tập và nghỉ ngơi của trẻ, đặc biệt là thời gian chơi game, đến khi trẻ sắp xếp không ổn, liền phê bình trẻ không biết tự quản lý mình - như thế sẽ cướp đi cơ hội để trẻ học cách tự quản lý mình. Nếu chỉ để "quản chặt" con trẻ, bạn hoàn toàn có thể làm như vậy, và thực hiện cũng rất đơn giản; nếu muốn "giáo dục" trẻ, để trẻ học được cách tự quản lý mình, thì bố mẹ phải động não rất nhiều.
Bố mẹ nên cố gắng ngăn trẻ đang trong độ tuổi vị thành niên chơi những trò game đầy yếu tố bạo lực và tình dục. Đồng thời định hướng đúng cho trẻ, để trẻ lựa chọn một số trò chơi có nội dung lành mạnh. Bạo lực và tình dục không phải là thuộc tính bản chất của game, giống như có những loại sách vở cũng chứa đầy nội dung bạo lực và tình dục, nhưng đây không phải là thuộc tính bản chất của sách vở. Chúng ta không cho phép trẻ đọc những cuốn sách có nội dung xấu, nhưng không thể vì thế mà không cho trẻ đọc sách.
Lưu ý đặc biệt
Can thiệp sẽ chỉ khiến con trẻ chơi game càng vô độ hơn, cái mà trẻ cần là phải học được cách làm chủ bản thân. Bố mẹ cần có đủ kiên nhẫn để trẻ trải nghiệm các cảm giác khác nhau trong quá trình tự mình phân bổ thời gian.
Tốt nhất giữa bố mẹ và con không nên hình thành nên mối quan hệ quản thúc và bị quản thúc này, thời gian thiết lập mối quan hệ này càng dài, càng vững chãi, tính tự giác của trẻ sẽ càng kém.
Khi trẻ đạt được điểm cao hoặc làm tốt một việc gì đó, bố mẹ vui quá, liền lấy việc cho trẻ lên mạng hoặc lên mạng quá giờ làm phần thưởng - một mặt phụ huynh rất căm hận game online, một mặt lại coi việc lên mạng Internet là "phần thưởng" để tặng cho con. Và những thứ được coi là "phần thưởng" làm sao có thể là đồ xấu được - và thế là con trẻ đã bị đảo lộn trong nhận thức, niềm hứng thú chơi game của chúng càng bị kích thích mạnh hơn.
Mỗi lần con trẻ làm sai một chuyện gì đó, bố mẹ liền nói sẽ trừng phạt trẻ, lên mạng đi, buộc phải chơi đủ mười tiếng đồng hồ, không đủ sẽ phạt tiếp mười tiếng nữa, cho đến khi nào trẻ mệt quá xin tha. Như thế, dần dần trẻ sẽ cảm thấy lên mạng không còn là một thú vui, mà là một sự trừng phạt. Nhiều lần như vậy, có thể sẽ khiến trẻ nảy sinh tâm lý đối nghịch với mạng Internet.
CHƯƠNG 47: "BỆNH TĂNG ĐỘNG Ở TRẺ EM" LÀ MỘT LỜI DỐI TRÁ
"Bảng điểm chẩn đoán bệnh tăng động", cái liên quan đến số phận và sức khỏe của hàng triệu trẻ em này đã ra đời như thế nào, ai đã lập ra nó, nó đã được kiểm nghiệm và luận chứng như thế nào? Cái thứ thô thiển, ngu xuẩn này lại được coi là công cụ kiểm tra chủ yếu để sử dụng cho trẻ em. Nó đâu chỉ là một bảng điểm, mà thực sự là cái bẫy chẩn đoán.
Chính vì vậy "nguyên nhân gây bệnh" thực sự của "bệnh tăng động" là hai sai lầm mà người lớn mắc phải: quan niệm sai lầm về trẻ em và phương pháp giáo dục sai lầm.
Vài năm gần đây, "bệnh tăng động ở trẻ em" dường như đã trở thành một căn bệnh phổ biến. Chỉ riêng ở xung quanh tôi, đã có không ít trẻ tự nhiên lại mắc căn bệnh này, trong đó có một số em bắt đầu uống thuốc để chữa bệnh.
Tuy nhiên, rõ ràng là tôi đã được nhìn thấy xuất xứ của các "triệu chứng" ở những đứa trẻ này - bố mẹ chúng hoặc là quá nghiêm khắc hoặc là quá nuông chiều, phương pháp giáo dục bộc lộ rõ những sai lầm. Chính vì những sai lầm này, đã gây sức ép tâm lý cực lớn cho trẻ. Các "triệu chứng" ở con trẻ gần như đều là những biểu hiện của sự phản kháng phương pháp giáo dục không đúng cách. Đồng thời, tôi không nhìn thấy đứa trẻ nào chỉ dựa vào việc uống thuốc mà chữa khỏi "bệnh tăng động", ngược lại, có không ít trẻ sau khi uống thuốc càng ngày càng giống bệnh nhân, "bệnh tình" ngày càng nặng hơn.
Cụm từ "bệnh tăng động ở trẻ em" ngày càng giống như một cái gai đâm vào tôi, thôi thúc tôi phải quan tâm đến vấn đề này.
Mấy năm trước tôi được tiếp xúc với một em học sinh nam ở một trường tiểu học. Lúc đó cậu bé này đang học lớp hai, bị coi là mắc chứng "bệnh tăng động" nặng.
Trước đây cậu bé này học ở một trường tiểu học khác, ngay từ khi học lớp một đã bắt đầu tỏ ra không yên phận. Ở lớp thì chạy lung tung khắp lớp, không ai quản được cậu, lớp học thường xuyên bị cậu làm cho náo loạn, khiến giáo viên không thể giảng bài. Cậu luôn tấn công bạn bè một cách vô cớ, tệ đến mức ấn đầu bạn vào bồn cầu, châm hương muỗi vào bạn. Còn những chuyện cào cấu bạn bị trầy da xước thịt là chuyện thường ngày. Sự việc này đã vấp phải sự phản đối của rất nhiều phụ huynh, trường tiểu học đầu tiên thực sự không có cách nào khác, yêu cầu cậu phải chuyển trường. Lên lớp hai cậu liền bị chuyển đến trường tiểu học hiện nay.
Nhưng sau khi chuyển trường tình hình vẫn không có gì thay đổi, trường học mới cũng không có biện pháp nào, đành phải để cho người nhà cậu bé đi học cùng cậu. Hàng ngày bà nội cậu bé theo sát cậu như hình với bóng, không rời nửa bước. Trên lớp ngồi cùng bàn với cậu, ấn chặt không cho cậu đứng dậy gây mất trật tự; hết giờ túm chặt tay cậu đứng ở hành lang, không cho cậu chơi với bạn bè cùng lớp, sợ cậu gây chuyện với bạn. Ở trường cậu bé này rất nổi tiếng, ngay cả hiệu trưởng cũng rất rầu rĩ, không biết phải làm gì với cậu.
Lần đầu tiên tôi gặp cậu bé này là ở ngoài hành lang lớp học, sau khi đến giờ giải lao, các bạn đều túm năm tụm ba tung tăng vui đùa. Chỉ có cậu, hai tay bị bà nội kìm chặt, không được làm gì cả. Nhìn cậu lúc nào như cũng muốn giãy ra, nhưng lại không giãy được; ánh mắt nhìn bạn bè vừa tỏ ra thèm muốn lại vừa tỏ ra bất lực, kèm cả sự đối địch, giống như một tù nhân nhỏ.
Cô giáo chủ nhiệm lớp cậu bé nói một cách quả quyết rằng học sinh này mắc bệnh tăng động, cô nói với tôi rằng, người nhà cậu bé đã đưa cậu đến khoa tâm thần của bệnh viện để khám bệnh và được bác sĩ chẩn đoán như vậy. Bác sĩ yêu cầu cậu phải uống thuốc, đồng thời nói ít nhất phải uống ba năm. Cậu uống được ba tháng, không có kết quả gì, và thuốc lại rất đắt, có lẽ ông bà nội cậu suy nghĩ đến vấn đề kinh tế nên đã cho cậu ngừng uống thuốc. Hai ông bà chỉ có một người có lương hưu.
Sau khi nói chuyện vài câu đơn giản với bà nội của cậu bé, không hiểu sao, trực giác mách bảo tôi rằng cậu bé này hoàn toàn là một đứa trẻ bình thường. Sau khi tìm hiểu một chút về hoàn cảnh gia đình cậu, về cơ bản tôi có thể khẳng định được rằng, "nguyên nhân gây bệnh" chính là vấn đề giáo dục gia đình của cậu.
Bố mẹ cậu bé sống chung với nhau khi chưa kết hôn, sau khi cậu chào đời họ liền chia tay. Mẹ cậu bé là một cô gái người miền Nam đi làm thuê, sau khi quay lại miền Nam thì không có tin tức gì nữa; bố cậu không biết lang thang ở đâu, không cho gia đình biết địa chỉ, nửa năm hoặc một năm mới về nhà một lần, không hề quan tâm đến con. Ông nội cậu bé là người tính tình nóng nảy, năm xưa thường xuyên đánh chửi con trai, hiện giờ lại áp dụng phương pháp dạy dỗ con trai vào "giáo dục" cháu, đặc biệt là thường xuyên trút lên đầu cháu sự bất mãn của mình đối với con trai. Bà nội cậu thì suốt ngày làm thay cho cháu tất cả mọi việc, đồng thời lại muốn sớm gặt hái được thành quả, chỉ muốn nuôi dạy cháu nên người, để bù đắp lại những nỗi xấu hổ mà con trai đem lại cho gia đình, chính vì thế suốt ngày yêu cầu cậu bé phải như thế này như thế kia, còn thường xuyên quở trách cậu.
Đứa trẻ lớn lên trong "môi trường hoang dại" này, làm sao có thể không là một người rừng? Nhìn thấy cậu bé nhỏ như vậy mà đã phải sống như một kẻ xấu và tội phạm, tôi rất lo, cảm thấy nếu không nghĩ cách cải thiện, tương lai cậu chỉ có thể có hai nơi để đi, nhà tù hoặc bệnh viện tâm thần. Và thế là tôi liền tiến hành công tác trị liệu tâm lý kéo dài gần một năm cho cậu.
Nhưng tôi không làm "công tác tư tưởng" trực tiếp cho cậu bé, mà bắt đầu từ việc xóa bỏ "nguồn gốc căn bệnh", tập trung công sức vào việc cải thiện môi trường sống cho cậu bé. Người giám hộ và nuôi dưỡng cậu bé là ông bà nội cậu, chính vì thế đối tượng công tác chủ yếu của tôi cũng là hai cụ già này. Thời gian đầu, tôi thường xuyên nói chuyện với hai cụ, sau đó định kỳ tiếp xúc với hai cụ. Thực ra mục đích của tôi rất đơn giản, là yêu cầu họ không đánh chửi cháu, tôn trọng cháu, không gây sức ép cho cháu. Yêu cầu nhìn thì rất đơn giản, nhưng thực tế là hai cụ già này rất khó thực hiện được, họ đã quen với phương pháp giáo dục trước đây. Tôi nói đi nói lại rất nhiều lần với họ, để họ hiểu rằng phương pháp giáo dục thô bạo có mối liên hệ nhân quả với hành vi giáo dục trẻ, đồng thời bằng hình thức quy tắc đưa ra một số nguyên tắc hành vi cơ bản. Đồng thời hướng dẫn tỉ mỉ cho họ cách gần gũi với con trẻ, nói chuyện với con trẻ như thế nào.
Thay đổi người lớn khó khăn hơn nhiều so với việc thay đổi trẻ em, nhưng nếu không thay đổi người lớn, con trẻ sẽ không thể thay đổi. Trong cả quá trình, tôi đặc biệt chú ý đến việc nắm bắt tinh thần của họ, trước hết là để họ chấp nhận tôi, không có thành kiến với tôi, tiếp đó là chấp nhận quan điểm của tôi. Dần dần hai cụ bắt đầu tin tưởng tôi, cộng với công việc mà tôi đã làm, cuối cùng đã khiến họ tin rằng phương pháp giáo dục của mình có mối quan hệ nhân quả tất yếu với vấn đề của con trẻ, dần dần thay đổi quan niệm giáo dục, từ bỏ phương pháp thô bạo ban đầu, không còn chửi đánh cháu nữa, sau đó cậu bé đã có sự thay đổi rất lớn.
Đồng thời, tôi cũng thường xuyên tìm đến cô giáo chủ nhiệm của cậu bé, cố gắng làm thay đổi cách nhìn của cô giáo chủ nhiệm đối với cậu bé, để cô chủ nhiệm tin rằng cậu không có bệnh mà là một đứa trẻ bình thường. Tôi và cô giáo chủ nhiệm đã cùng nhau nghĩ cách, để cậu bé được làm một số việc cho lớp, giúp cậu cảm thấy mình là một người có ích, gặt hái được nhiều thành công, tạo nên sự khích lệ và khẳng định đối với cậu. Khi cô giáo chủ nhiệm không nhìn cậu với ánh mắt khác lạ nữa, các bạn cùng lớp cậu bé cũng bắt đầu thay đổi thái độ.
Tôi cũng đã có mấy lần nói chuyện với cậu bé này, nội dung của các cuộc nói chuyện giữa tôi và cậu bé chủ yếu là phim hoạt hình và vẽ tranh, bởi cậu thích hai thứ này; ngoài ra còn kể chuyện. Tôi còn mời cậu và bà nội cậu đến nhà tôi chơi, đồng thời dán tranh mà cậu vẽ lên tường nhà tôi. Chỉ cần đến nhà tôi, tôi liền để cậu bé cảm thấy mình là một đứa trẻ hết sức bình thường, để tinh thần cậu vui vẻ và thoải mái. Cứ như thế, sau vài lần nói chuyện, gần gũi với tôi, cậu bé không những không còn tỏ vẻ đối địch, mà thậm chí còn tỏ ra dựa dẫm về mặt tình cảm. Khi tôi tin rằng giữa tôi và cậu bé đã xây dựng được mối quan hệ thân thiện, tin tưởng, tôi liền lựa chọn thời điểm thích hợp và đưa ra yêu cầu không được đánh bạn, trong giờ học không được rời khỏi chỗ ngồi. Khi chấp nhận ý kiến của tôi, cậu bé không hề tỏ ra miễn cưỡng, ánh mắt cậu lộ rõ vẻ vui vẻ và hạnh phúc.
Công tác của tôi đã đạt được hiệu quả rất rõ rệt. Bốn tháng sau, cậu bé không còn cần người đi học cùng nữa, cậu bắt đầu làm chủ được mình, không chủ động tấn công người khác nữa. Một năm sau, cậu bé không còn đánh nhau nữa. Mặc dù cậu bé khỏe hơn người khác, nhưng dường như cậu có ý thức né tránh xung đột hơn các em học sinh khác. Có hai lần có học sinh khác đánh cậu, cậu lại có thể ngồi thụp xuống đất ôm chặt đầu.
Tôi phân tích sức chịu đựng của cậu bé có thể bắt nguồn từ việc cậu rất trân trọng mình "là một đứa trẻ bình thường, chứ không phải là một đứa trẻ bị bệnh"; kể cả thỉnh thoảng bị đánh, cũng còn tốt hơn so với việc bị người khác nhìn mình bằng ánh mắt khác. Hiện nay cậu bé này đã sắp lên lớp năm, thành tích học tập ở mức trung bình, trong các phương diện khác như kỷ luật đều hoàn toàn bình thường. Đôi tay nhỏ của cậu cũng không bị người khác kìm kẹp nữa, cậu đã có được tự do, có được bạn bè thực sự.
Cậu bé mắc "bệnh tăng động" nặng này đã được chữa khỏi như vậy, điều này khiến tôi càng nghi ngờ về "bệnh tăng động".
Mùa hè năm 2007, một trong những tờ báo lớn của Trung Quốc -báo Thanh niên Trung Quốc đã đăng tải bài báo có tên Mùa hè, số trẻ mắc bệnh tăng động đến khám bệnh đã tăng 30% của nhà báo Triệu Tân Bồi. Bài viết đã trích lời của giáo sư Trịnh Nghị - Chủ nhiệm khoa tâm thần trẻ em bệnh viện An Định Bắc Kinh: "Hiện nay tỉ lệ phát bệnh của trẻ em mắc chứng tăng động ở Bắc Kinh đã lên tới 4%-5%". Ngày 7-10-2007, cũng trên tờ báo này còn có một bài viết của tác giả Chu Châu nói rằng: "Theo kết quả điều tra đáng tin cậy, hiện nay tỉ lệ mắc bệnh tăng động ở trẻ em Trung Quốc lên tới 4,31%-5,83%". Theo tỉ lệ này, ước tính cả nước có gần hai triệu trẻ em mắc bệnh. Tôi lại lên mạng Internet tìm một số tài liệu, nói rằng vài năm gần đây các nước trên thế giới đều có số liệu thống kê về số trẻ em mắc bệnh tăng động, chiếm khoảng từ 4%-14%, ví dụ tỉ lệ phát bệnh của Mỹ là 10%-20%, có một số quốc gia thậm chí con số thống kê lên tới 40% - tỉ lệ phát bệnh của bệnh gì mà lại cao như vậy, bệnh truyền nhiễm cũng không đến nỗi như thế. Căn bệnh chung mang tính toàn cầu xảy ra trên diện rộng này rốt cục là một loại bệnh như thế nào?
Lúc này tôi đọc được hai cuốn sách, một cuốn là Người phát minh bệnh tật của Jorg Blech - nhà khoa học tự nhiên, phóng viên nổi tiếng của Đức; một cuốn nữa là Lời nói dối trăm năm của phóng viên nổi tiếng người Mỹ Randall Fitzgerald, hai cuốn sách này đều dùng những tài liệu tường tận, xác thực và cách phân tích triệt để, vạch trần ra những "cái bẫy" và "màn tối" xuất hiện trong y học hiện đại. Họ đều tỏ ra nghi ngờ đối với "bệnh tăng động ở trẻ em", cho rằng đây là một loại "bệnh" bị thổi phồng một cách vô cớ.
________________
(1) Jorg Blech, Người phát minh bệnh tật, Trương Chí Thành dịch, NXB Hải Nam, tháng 6-2006, tr.88-91.
Sau khi đọc xong hai cuốn sách này, tôi lại lên mạng Internet và tra cứu một số tài liệu, đồng thời đọc lại tác phẩm giáo dục của nhà giáo dục học, tiến sĩ tâm thần học nổi tiếng người Italia Maria Montessori, tổng hợp tất cả các tài liệu lại, về cơ bản đã có thể có được một nhận thức rõ ràng - có lẽ không thể nói một cách tuyệt đối rằng căn bệnh "tăng động" này không tồn tại, bởi cho đến nay nó vẫn là một chuyện vẫn treo ở đó chưa được giải quyết; nhưng với khái niệm chẩn đoán hiện nay, nó không chân thực. Hiện nay những lời chẩn đoán đối với căn bệnh này vô lý như việc kết luận tất cả những người ho vài tiếng đều là bệnh nhân mắc bệnh ung thư phổi - xét về ý nghĩa này, "bệnh tăng động ở trẻ em" là một lời dối trá.
1. Từ cách thay đổi tên gọi đánh giá sự bịa đặt căn bệnh
Sự phát triển của y học hiện đại đã khiến người ta rất muốn dùng y học để giải thích tất cả các hiện tượng muốn cải thiện và chữa trị. Từ xưa đến nay sự "không ngoan" của trẻ em đã khiến rất nhiều người đau đầu, và thế là vấn đề này liền lọt vào tầm quan sát của các bác sĩ. Ngay từ năm 1845, bác sĩ tâm thần người Đức Heinrich Hoffmann đã viết tác phẩm Peter tóc rối, miêu tả một đứa trẻ quá mức hiếu động, điều này đã nhắc nhở người ta quan tâm đến hiện tượng hiếu động, bất an ở trẻ em. Một thế kỷ sau, năm 1947, có chuyên gia dự đoán rằng một số trẻ em hoạt động quá độ là do sự tổn thương ở não gây nên, vì thế đã đặt tên cho hiện tượng này là "hội chứng tổn thương não". Do cách định nghĩa này không đủ để giải thích những biểu hiện hiếu động ở những trẻ mà đại não chưa bao giờ bị tổn thương, thuyết tổn thương não đã không được thành lập, liền có người đưa ra đây là kết quả của việc "não bị tổn thương nhẹ". Tuy nhiên, thuyết "não bị tổn thương nhẹ" không tìm thấy trong quá trình kiểm tra sinh lý ở rất nhiều trẻ em, trong quá trình trưởng thành cũng không có dấu vết gì, cách đặt tên này cũng không khả thi. Và thế là mọi người liền bỏ đại não và đề ra cách gọi "trở ngại chức năng hành vi" - tên gọi này đã tránh đi sự bất tiện do không tìm được nguyên nhân gây bệnh, dùng chính những "biểu hiện" để đặt tên. Do tên gọi này có khái niệm quá mơ hồ, nên đã bị Cơ quan quản lý an toàn thực phẩm và dược phẩm Mỹ nghiêm cấm. Nhưng hành vi không ngoan ở trẻ em đã được giới y học nhận định là một căn bệnh cần phải chữa trị. Năm 1962, một hội nghị công tác khoa học thần kinh trẻ em quốc tế đã quyết định trước khi căn bệnh này được làm rõ, tạm thời đặt tên là "rối loạn chức năng não nhẹ" (Minimal Brain Dysfunction, gọi tắt là MBD). Năm 1980, trong cuốn Sổ tay chẩn đoán và thống kê trở ngại tâm thần do Mỹ công bố, đặt tên cho bệnh này là "Trở ngại thiếu chú ý" (Attention Deficit Disorder, gọi tắt là ADD). Cuối cùng, năm 1987, bác sĩ khoa tâm thần của Mỹ đã phát minh ra cách gọi phổ biến nhất hiện nay "Chứng tăng động thiếu chú ý" (Attention Deficit - Hyperactivity Disorder, gọi tắt là ADHD)(1).
__________________
(1) Tháng 5-2007, cảnh sát Sơn Tây phá được một vụ án ngược đãi công nhân trong lò gạch đen, giải cứu ba mươi mốt công nhân, trong đó có một số là trẻ em. Sau đó, hàng trăm vị phụ huynh có con bị thất lạc đã lên mạng Internet để thông báo tìm con (ND).
Những diễn biến của tên gọi này đã thực hiện được hai mục đích, thứ nhất là thoát khỏi những trở ngại trong chẩn đoán học; thứ hai là trở thành một căn bệnh phổ biến.
Do bản thân căn bệnh vẫn còn nằm trong dự đoán, làm thế nào để chẩn đoán đã trở thành một vấn đề. Nhưng thực tế là, rất nhiều trẻ em bị chẩn đoán là mắc "bệnh tăng động thiếu chú ý" (ADHD). Vậy thì, chúng ta hãy xem xem căn bệnh này đã được chẩn đoán như thế nào.
2. Sự thiếu suy nghĩ và giản đơn trong chẩn đoán
Qua các tài liệu có thể thấy, việc kiểm tra "bệnh tăng động" về cơ bản đều là những phán đoán về mặt chủ quan, có rất ít căn cứ khách quan. Có bác sĩ cũng sẽ kiểm tra thần kinh não và xét nghiệm chỉ số sinh hóa, nhưng những điều này không có ý nghĩa gì nhiều đối với hầu hết những trẻ em không có biểu hiện gì rõ nét về mặt sức khỏe, hơn nữa mối quan hệ giữa các chỉ số sinh hóa và sự hình thành bệnh tật cũng chỉ là dự đoán, không có ý nghĩa chẩn đoán lâm sàng thiết thực.
Tôi đã hỏi phụ huynh của một số em bị chẩn đoán là mắc bệnh tăng động, có cả người Trung Quốc và người nước ngoài. Phương pháp chẩn đoán gần giống nhau, chủ yếu là bác sĩ hỏi phụ huynh các vấn đề, nói chuyện với trẻ, đồng thời quan sát hành vi của trẻ; ngoài ra còn sử dụng "bảng điểm chẩn đoán", căn cứ vào số điểm có được, phán đoán trẻ có mắc chứng tăng động hay không.
Ba bảng điểm dưới đây được nhiều bệnh viện trong nước và các website y tế như website Sức khỏe trẻ em Trung Quốc, website Nuôi con Trung Hoa... sử dụng. Để nói rõ vấn đề, xin hãy tha lỗi cho tôi đã liệt kê dài dòng ra ở đây.
Bảng điểm hành vi của trẻ mắc bệnh tăng động của trường đại học Cornell ở Mỹ (mỗi câu dựa vào mức độ khác nhau và cho điểm từ 0 đến 10, bảng dưới cũng giống như vậy).
1. Hoạt động quá nhiều, không nghỉ phút nào ( )
2. Hoạt động hưng phấn, dễ phấn khích ( )
3. Gây sự với các trẻ khác ( )
4. Làm việc không thể có đầu có cuối ( )
5. Đứng ngồi không yên ( )
6. Không tập trung chú ý, dễ phân tâm ( )
7. Đòi lập tức được thoả mãn yêu cầu, dễ chán nản ( )
8. Hay khóc, dễ khóc ( )
9. Tâm trạng thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ ( )
10. Dễ có những hành vi nổi khùng hoặc không thể lường trước
Chẩn đoán: Cách tính điểm: Không có - không điểm; có một chút - một điểm; khá nhiều - hai điểm; rất nhiều - ba điểm; tổng số điểm trên mười điểm là dương tính, tức mắc bệnh tăng động.
Bảng điểm hành vi của trẻ mắc bệnh tăng động do nhóm nghiên cứu bệnh tăng động ở thành phố Thượng Hải xây dựng
1. Trong giờ học đứng ngồi không yên ( )
2. Trong giờ học thường xuyên nói chuyện ( )
3. Trong giờ học thường làm việc riêng ( )
4. Phát biểu không giơ tay ( )
5. Không tập trung, nhìn ngó xung quanh, dễ bị phân tâm bởi các yếu tố bên ngoài ( )
6. Tâm trạng nhanh thay đổi, dễ tranh cãi với người khác ( )
7. Thường làm ảnh hưởng đến người khác ( )
8. Không thể tĩnh tâm để chơi đùa ( )
9. Thường làm việc theo cảm hứng, muốn làm gì thì làm, thường không có đầu có cuối ( )
10. Khi làm việc không tính đến hậu quả ( )
11. Tùy tiện lấy tiền của bố mẹ hoặc ăn cắp ở ngoài ( )
12. Đãng trí, hay quên ( )
13. Thành tích học tập kém ( )
14. Nói dối, đánh chửi người khác ( )
Chẩn đoán: Cách tính điểm: Không có - không điểm; có một chút - một điểm; khá nhiều - hai điểm; rất nhiều - ba điểm; tổng số điểm trên mười điểm là dương tính, tức mắc bệnh tăng động.
Tiêu chuẩn chẩn đoán do Hiệp hội bệnh tâm thần của Mỹ đưa ra
1. Tay chân thường xuyên hoạt động không ngừng hoặc liên tục ngọ ngoạy trên ghế ngồi (thiếu niên có thể chỉ biểu hiện ở sự đứng ngồi không yên về mặt chủ quan) ( )
2. Dễ bị yếu tố bên ngoài kích thích và phân tán tư tưởng ( )
3. Khi bị yêu cầu phải ngồi yên thì rất khó ngồi yên ( )
4. Trong trò chơi hoặc các hoạt động tập thể không thể kiên nhẫn xếp hàng chờ đến lượt mình ( )
5. Thường xuyên người khác chưa hỏi xong câu hỏi đã tranh trả lời ( )
6. Rất khó làm theo chỉ thị của người khác, không phải do chống đối hoặc không hiểu, như không làm việc nhà ( )
7. Khi làm bài tập hoặc chơi trò chơi rất khó tập trung chú ý ( )
8. Thường xuyên một việc chưa làm xong lại đòi làm việc khác ( )
9. Rất khó chơi đùa một cách yên tĩnh ( )
10. Nói nhiều ( )
11. Thường xuyên ngắt lời hoặc làm ảnh hưởng đến hoạt động của người khác, ví dụ phá rối trò chơi của các em nhỏ khác ( )
12. Khi người khác nói chuyện với em, em tỏ ra rất lơ là ( )
13. Thường xuyên để mất đồ dùng học tập hoặc các vật dụng khác, như đồ chơi, sách, vở bài tập... ( )
14. Thường xuyên tham gia vào các trò chơi nguy hiểm và không nghĩ đến hậu quả, ví dụ chạy lung tung trên đường mà không nhìn xung quanh ( )
Chẩn đoán: Mắc bệnh trước năm bảy tuổi, bệnh sử từ nửa năm trở lên, đồng thời có tám triệu chứng nói trên trở lên là dương tính, tức mắc bệnh tăng động.
Gần như tất cả mọi hành vi bình thường của trẻ em đều trở thành "biểu hiện lâm sàng"!
Theo kết luận của những tấm bảng này, "bệnh tăng động ở trẻ em" đâu chỉ có tỉ lệ mắc bệnh đề cập ở trên, gần như tất cả các trẻ em đều trở thành "bệnh nhân", trong đó đương nhiên cũng bao gồm cả con gái tôi - Nếu dùng mấy tấm bảng này để chấm điểm cho cô bé thời còn nhỏ, mỗi nội dung đều không nghiêm trọng, nhưng đều có một chút, trung bình mỗi nội dung được "một" điểm, vậy thì cũng được chẩn đoán là "dương tính" rồi.
Vậy thì, có trẻ em nào không là "bệnh nhân" đâu?
Tác giả của cuốn Người phát minh bệnh tật đã vạch trần và chỉ trích hiện tượng chẩn đoán quá độ, lạm dụng thuốc men của giới y học hiện nay, gọi hiện tượng này là "phát minh bệnh tật". Trong đó, "bệnh tăng động" là một "căn bệnh bị phát minh" điển hình. Ông nói: "Bác sĩ thường xuyên không hiểu rõ, vì thế thường xuyên sử dụng những công cụ hỗ trợ chẩn đoán gây tranh cãi một cách sai lầm. Ngay cả những người ủng hộ bệnh tăng động đều dự đoán, một phần ba số trẻ bị chẩn đoán mắc bệnh tăng động là vật hy sinh của mô hình chẩn đoán. So sánh các nước cũng có thể phát hiện ra rằng, việc gắn mác bệnh tăng động cho trẻ thật là chuyện tùy ý biết bao. Theo nghiên cứu, Brazil có 5,8% trẻ em mắc bệnh tăng động, Phần Lan 7,1%, Ả rập Xê-út 14,9%. Tại sao lại có sự khác biệt lớn như vậy? Ai biết? Hàng ngày trẻ em phải uống thuốc một cách mù quáng như vậy, nhưng người ta tỏ ra rất mơ hồ, không biết mình đang chống chọi với căn bệnh nào. Cái mác "bệnh tăng động" nặng nề thường căn cứ vào ấn tượng chủ quan của bác sĩ; một số nguyên tắc chẩn đoán hành vi tăng động cũng có thể được tìm thấy ở đa số những trẻ em khỏe mạnh, ví dụ thường không thể tập trung lắng nghe người khác nói, làm bài tập và tổ chức hoạt động thường xuyên gặp khó khăn, trả lời câu hỏi thường không suy nghĩ. Đây là những triệu chứng ư? Hoặc chỉ là hành vi khiến (một số) người lớn khó chịu?"(1).
_________________
(1) Jorg Blech, Người phát minh bệnh tật, Trương Chí Thành dịch, NXB Hải Nam, tháng 6-2006, tr.94-95.
"Bảng điểm chẩn đoán bệnh tăng động", cái liên quan đến số phận và sức khỏe của hàng triệu trẻ em này đã ra đời như thế nào, ai đã lập ra nó, nó đã được kiểm nghiệm và luận chứng như thế nào? Cái thứ thô thiển, ngu xuẩn này lại được coi là công cụ kiểm tra chủ yếu để sử dụng cho trẻ em. Nó đâu chỉ là một bảng điểm, mà thực sự là cái bẫy chẩn đoán!
3. "Nguyên nhân gây bệnh" khiến người ta hoa mắt
Thực ra đằng sau sự chẩn đoán vô trách nhiệm có ẩn chứa một thực tế khó nói, một căn bệnh chung "phổ biến này", cơ chế hình thành của nó rốt cục là như thế nào, nguyên nhân nào khiến trẻ mắc bệnh? Sau hơn một trăm năm "nghiên cứu", ngày càng có nhiều cách giải thích, nhưng cho đến nay không ai có thể nói rõ được.
Từ những tài liệu hiện có, có mấy thuyết nói về nguyên nhân gây bệnh như sau:
Thứ nhất, tổn thương nhẹ ở tổ chức não - điểm này chủ yếu tập trung xung quanh cách chào đời của trẻ để dự đoán. Trước khi sinh mổ phổ biến thì người ta cho rằng do trong quá trình sinh, não bộ của trẻ bị chèn ép; sau khi hình thức sinh mổ phổ biến thì người ta lại nói rằng do sinh mổ gây ra. Ngoài ra còn một cách giải thích nữa là trong quá trình mang bầu, người mẹ bị mắc bệnh truyền nhiễm, cao huyết áp, hoặc quá trình cho bú và các hoạt động khác khiến não bộ bị tổn thương. Tóm lại, mỗi tình huống trong thời kỳ mang bầu, trong quá trình trưởng thành đều bị dự đoán là khả năng gây bệnh, dường như chỉ cần con người đã từng "chào đời", trải qua thời kỳ thai nhi và thời kỳ sơ sinh, não của trẻ đều bị tổn thương. Một điều rất khéo là, những sự "tổn thương" này về cơ bản đều là không thể dự đoán.
Thứ hai, hiện tượng trúng độc chì do tình trạng ô nhiễm môi trường trong thành phố gây ra - nguyên nhân này nghe thì có vẻ rất có lý. Nhưng trong đó có mấy điểm đáng ngờ: Điểm đáng ngờ thứ nhất là, hơn một trăm sáu mươi năm trước khi vấn đề được đưa ra, vấn đề ô nhiễm môi trường thành phố chắc là chưa tồn tại; điều đáng ngờ thứ hai là, trẻ em ở mỗi thành phố đều hít thở nguồn không khí chung, tại sao chỉ có một số em mắc bệnh; điều đáng ngờ thứ ba là, những em sống ở các làng quê xa xôi không mắc căn bệnh này ư?
Thứ ba, nhân tố sinh lý di truyền - cách nói này dường như là rất chuyên ngành, nhưng sau khi phân tích có thể thấy, dưới tiền đề không có được chứng cứ đầy đủ, lấy một sự khác biệt nhỏ về một chỉ tiêu sinh hóa nào đó của đại não để giải thích một nguyên nhân gây bệnh, đây chẳng qua chỉ là dự đoán mà thôi. Giữa con người với con người vốn có một số điểm khác biệt trong chỉ tiêu sinh lý, điều này rất bình thường; cùng là một người sống trong các điều kiện khí hậu, môi trường, có tâm trạng, độ tuổi, điều kiện ăn uống khác nhau, rất nhiều chỉ tiêu sinh lý sẽ khác nhau. Vì không có được lý do thuyết phục nên đành phải lấy điều này làm lý do.
Thứ tư, thiếu vitamin, dị ứng thực phẩm, thiếu nguyên tố vi lượng, môi trường ô nhiễm, chất bảo quản thực phẩm... gây ra bệnh - có rất nhiều lời dự đoán như thế này, khiến người ta hoa cả mắt. Gần như trong cuộc sống của xã hội đương đại có vấn đề gì, thì đó đều trở thành nguyên nhân gây bệnh. Nếu những nhân tố này đều có thể khiến trẻ mắc bệnh tăng động, thì câu hỏi duy nhất còn sót lại là: Sau này có còn trẻ em khỏe mạnh nữa hay không?
Thứ năm, nhân tố giáo dục trong gia đình hoặc nhà trường, khiến tâm lý trẻ bị tổn thương - đây là nguyên nhân duy nhất thông qua quan sát trực tiếp, dựa trên cơ sở của rất nhiều ví dụ để rút ra, chứ không phải rút ra thông qua dự đoán. Nguyên nhân này có sức thuyết phục nhất, nhưng luôn bị đặt ở vị trí không quan trọng nhất. Tất cả các tài liệu nói về bệnh tăng động trước hết đều muốn nói nguyên nhân gây ra căn bệnh này là do vấn đề của não bộ, là một vấn đề sinh lý, còn vấn đề giáo dục, nguyên nhân tâm lý lại chỉ thỉnh thoảng mới được các tài liệu nhắc đến rất sơ sài.
Nhưng dưới nguyên nhân bị nhắc đến một cách sơ sài này, không ai có thể giải thích, một vấn đề hình thành trên cơ sở giáo dục, tại sao lại bắt trẻ phải uống thuốc chữa bệnh. Vài năm gần đây tỉ lệ ly hôn gia tăng khiến tỉ lệ "trẻ em mắc bệnh tăng động" cũng tăng lên dường như đã trở thành một bằng chứng, người ta phát hiện ra rằng, trẻ sinh ra trong gia đình đơn thân dễ "mắc bệnh" hơn trẻ sinh ra trong một gia đình đầy đủ cả bố lẫn mẹ - nhưng vết thương tâm lý mà vấn đề ly hôn của bố mẹ gây ra cho trẻ, uống thuốc có thể giải quyết được hay không? Các trận cãi vã giữa bố mẹ đã khiến trẻ bị tổn thương trong lòng, sau đó trẻ lại được thông báo rằng chúng mắc bệnh, đây lẽ nào không phải là họa vô đơn chí ư?
Tạp chí Y học nhi khoa của Đức do Tập đoàn y dược Novartis tài trợ đã xuất bản một chuyên san Hội chứng thiếu chú ý và tăng động, trong đó thậm chí còn suy đoán rằng, bệnh tăng động là di sản của thời kỳ đồ đá. Đồng thời nói với mọi người rằng "bệnh tăng động có thể là một công cụ hành vi có ích (do di truyền quyết định) trong thời kỳ đầu của nhân loại, trong xã hội hiện đại lại trở thành khuyết điểm, đe dọa đến sự phát triển và tính thích ứng xã hội của trẻ"(1) - ngay cả đặc điểm di truyền được giữ gìn từ hàng triệu năm nay của nhân loại cũng đã biến thành bệnh.
________________
(1) Jorg Blech, Người phát minh bệnh tật, Trương Chí Thành dịch, NXB Hải Nam, tháng 6-2006, tr.97.
4. Mối quan hệ giữa hậu quả bệnh tật và logic hoang đường
Mặc dù không rõ nguyên nhân gây bệnh, trong khi hậu quả của căn bệnh này luôn được miêu tả rất rõ ràng, nghe rất đáng lo. Các tài liệu khác nhau đều nói rằng, nếu trẻ mắc bệnh tăng động không được điều trị kịp thời, hầu hết sẽ phạm tội trong độ tuổi dậy thì, khả năng tự làm chủ kém, xốc nổi, thích ngồi mát ăn bát vàng, hình thành nên nhân cách phản xã hội, sau khi trưởng thành trở thành người dễ lạm dụng cồn và các chất ma túy, tỉ lệ phạm tội cao. Tóm lại, tương lai của chúng đều rất tối tăm, thậm chí là tội ác.
Một căn bệnh cuối cùng lại phát triển thành một vấn đề đạo đức!
Mối quan hệ nhân quả giữa bệnh tăng động và nhân cách phản xã hội đã hình thành như thế nào, mối quan hệ logic giữa "bệnh tật" và "phạm tội" đã được suy đoán như thế nào, cơ chế chuyển biến giữa chúng là gì, không ai có thể giải thích được. Tuy nhiên, những thông tin y tế có liên quan đều nói như vậy.
Một trạng thái tinh thần của con người có thể sẽ ảnh hưởng đến một số chỉ tiêu sinh lý, đồng thời một số thay đổi về sinh lý cũng có thể sẽ gây ra những thay đổi trong trạng thái tinh thần. Tuy nhiên bệnh tật sinh lý và đạo đức nhân cách có thể hình thành nên mối quan hệ nhân quả trực tiếp ư, chúng ta có thể nói những người mắc bệnh cao huyết áp và giãn phế nang cuối cùng hầu hết đều biến thành kẻ xấu ư? Thực tế là những bệnh nhân từng mắc bệnh về não như viêm màng não, u não, teo não..., sự phát triển về đạo đức của họ không hề liên quan đến bệnh tật, tại sao chỉ mỗi căn bệnh tăng động lại gây ra sự biến dị trong đạo đức?
Lùi một bước nói, giả dụ những điều này đều là sự thật, một căn bệnh bắt nguồn từ yếu tố di truyền hoặc môi trường xuất hiện ở thời kỳ thơ ấu, cuối cùng lại chuyển hóa thành một diện mạo đạo đức sau khi trưởng thành, vậy thì phải chăng người bệnh không cần phải chịu trách nhiệm về hành vi phản xã hội của anh ta sau khi trưởng thành, vì bản thân anh ta chính là một người bị hại của bệnh tật. Không phải những người mắc bệnh tâm thần nếu giết người đều bị miễn tội chết đó sao? Nếu suy luận như vậy, một tên tội phạm chỉ cần chứng minh được rằng, thời ấu thơ mắc "bệnh tăng động", phải chăng có thể miễn giảm trách nhiệm hình sự?
5. Tại sao ngày càng có nhiều người được chẩn đoán là mắc bệnh
Cho đến nay, vẫn chưa có cách giải thích nào đáng tin cậy về nguyên nhân gây bệnh tăng động, vậy thì rốt cục là nguyên nhân nào khiến số người mắc bệnh tăng động càng ngày càng nhiều. Lẽ nào chỉ là sự chẩn đoán sai ư?
Thực ra hơn một thế kỷ kể từ khi Heinrich Hoffmann "phát hiện" cho đến nay, "bệnh tăng động" không được mọi người đặc biệt quan tâm, chú ý, mãi cho đến khi Methylphenidate (hay còn gọi là Ritalin) xuất hiện. Sắp xếp lại lịch sử phát triển của Methylphenidate, về cơ bản có thể hiểu được sự thật tại sao "bệnh nhân" càng ngày càng đông.
Năm 1944, công ty Ciba (cũng chính là nhà sản xuất Methylphenidate hiện nay) đã sản xuất ra Methylphenidate. Thời gian đầu, loại thuốc này chỉ kê đơn cho người lớn, chuyên trị các chứng bệnh như mệt mỏi quá độ, tâm trạng ức chế, rối loạn sinh lý ở người cao tuổi. Hơn hai mươi năm đầu, loại thuốc này không nổi tiếng, lượng tiêu thụ cũng không nhiều, vì chứng bệnh thích ứng cụ thể của nó không rõ ràng. Năm 1961, Cơ quan quản lý an toàn thực phẩm và dược phẩm Mỹ cho phép sử dụng Methylphenidate để chữa trị cho những trẻ em có vấn đề trong hành vi. Loại thuốc này đã từng được đưa đến hai ngôi trường của trẻ em da đen ở bang Maryland, sau khi học sinh uống, hiện tượng chen lấn ồn ào trong trường đã giảm đi đôi chút. Điều này đã khuyến khích một nhóm bác sĩ Mỹ sử dụng rộng rãi loại thuốc này cho trẻ em, để phát hiện ra những người nào cần phải uống thuốc. Thời gian đầu sử dụng thuốc là để kiểm tra trẻ có mắc bệnh hay không. Nếu uống vào, hành vi có nhiều thay đổi tức là có bệnh, ngược lại, những em nào không có phản ứng gì với thuốc tức là khỏe mạnh. Sau đó được coi là một loại thuốc trị bệnh được sử dụng trên diện rộng ở trẻ em. Năm 1970 Mỹ có khoảng hai trăm nghìn đến ba trăm nghìn trẻ em uống Methylphenidate(1); đến giữa thập kỷ tám mươi thế kỷ XX, có một triệu trẻ em uống Methylphenidate; đến đầu thế kỷ XXI, số trẻ em Mỹ uống loại thuốc này lên tới sáu phảy sáu triệu em, trong đó có gần một nửa dùng nó để chữa bệnh tăng động thiếu chú ý(2).
_________________
(1) Jorg Blech, Người phát minh bệnh tật, Trương Chí Thành dịch, NXB Hải Nam, tháng 6-2006, tr.89.
(2) Randall Fitzgerald, Thực phẩm và dược phẩm gây tổn hại đến sức khỏe của bạn như thế nào, Mộ Dịch dịch, NXB Đại học Sư phạm Bắc Kinh, tháng 6-2007, tr.151.
Nếu rất nhiều năm về trước vì trẻ không ngoan nên bắt chúng uống thuốc, thì đó chắc chắn là một điều không thể tưởng tượng, Methylphenidate đã biến không ngoan thành một căn bệnh cần phải điều trị bằng thuốc.
Hiện nay có rất nhiều loại thuốc điều trị bệnh tăng động, có thể chia thành thuốc kích thích trung khu thần kinh, thuốc chống trầm cảm, thuốc chống bệnh tâm thần, thuốc chống động kinh, nhưng Methylphenidate vẫn được sử dụng nhiều nhất. Một điều cần lưu ý là giá bán của các loại thuốc này đều không rẻ.
Tài liệu cho thấy, thị trường dược phẩm và điều trị cho trẻ em mắc bệnh tăng động ở Mỹ lên tới ba tỉ USD mỗi năm. Đến năm 2012, thị trường dược phẩm và điều trị cho trẻ em mắc bệnh tăng động ở Anh cũng sẽ lên tới một trăm lẻ một triệu Euro. Và mỗi năm, các công ty sản xuất thuốc lớn còn đầu tư một lượng kinh phí lớn cho đội ngũ vận động hành lang, yêu cầu chính phủ nới lỏng quản lý đối với thuốc chữa bệnh tăng động ở trẻ em.
Hiện nay thuốc chữa bệnh tăng động ở trẻ em còn được tiêu thụ sang các nước trên thế giới, bệnh ADHD cũng bắt đầu phổ biến ở Trung Quốc. Một website y tế nọ ở Trung Quốc đã viết như sau: "Methylphenidate điều trị bệnh tăng động ở trẻ em rất có hiệu quả, khuyết điểm duy nhất của Methylphenidate là không thể điều trị tận gốc căn bệnh này, chỉ có thể uống trong thời gian dài". Trên mạng Internet bán mỗi lọ từ ba trăm bảy mươi tệ đến ba nghìn bốn trăm tệ. Ở nước ngoài, nếu trong nhà có trẻ phải uống thuốc, đây cũng là một khoản chi không nhỏ.
Bánh ngon ai cũng muốn cắt một miếng. Công ty dược phẩm nổi tiếng có vốn đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc là Yangsen ở Tây An tuyên bố họ đã nghiên cứu và chế tạo ra một loại thuốc có hiệu quả lâu dài trong việc điều trị bệnh tăng động - Methylphenidate Hydrochloride Controlled Release, cách tuyên truyền của họ cũng rất đi vào lòng người. Mùa hè năm 2007, hai tờ báo có ảnh hưởng lớn nhất ở Bắc Kinh là Bắc Kinh buổi tối và Thanh niên Bắc Kinh đều đưa tin, thuốc kích thích trung khu thần kinh do công ty Eli Lilly của Mỹ sản xuất Atomoxetine Hydrochloride chính thức có mặt ở thị trường Trung Quốc. Các bài báo này tuyên truyền rằng, "Chữa bệnh bằng thuốc là sự lựa chọn hàng đầu" để điều trị bệnh tăng động ở trẻ em. Sang đến mùa đông, lại xuất hiện một bài báo tuyên truyền khác, ngày 30-11, tờ Thanh niên Bắc Kinh lại đăng tải bài viết Bệnh tăng động ở trẻ em nếu không kịp thời điều trị sẽ ảnh hưởng đến suốt đời, nhắc nhở bố mẹ không nên thờ ơ đối với căn bệnh này, nhất thiết phải điều trị, "chữa bệnh bằng thuốc là sự lựa chọn hàng đầu", sau đó nói với mọi người có một loại thuốc tên là Atomoxetine Hydrochloride, "mỗi ngày uống một viên có thể kiểm soát bệnh tật không gián đoạn trong cả ngày, thích hợp cho việc uống lâu dài nhưng lại không lệ thuộc vào thuốc".
Ngày 5-7-2008, tờ báo này lại đăng tải bài viết Khả năng tập trung của con trẻ, bố mẹ đã chú ý hay chưa?, nhắc nhở bố mẹ không chịu tập trung chính là mắc bệnh tăng động ADHD, nếu không kịp thời chữa trị, ngoài việc sẽ gặp nhiều khó khăn trong học tập, 50%-65% số người mắc bệnh tương lai sẽ gặp một số vấn đề: Có những biểu hiện không như ý trong công việc, khái niệm thời gian kém, khả năng giao tiếp kém, dễ nổi cáu, tính tình nóng nảy, nghiện rượu hoặc thuốc men, tỉ lệ phạm tội cao... Sau đó cực lực giới thiệu rằng: "Gần đây, Hiệp hội Thần kinh trẻ em Trung Hoa, Hiệp hội Bảo vệ sức khỏe trẻ em Trung Hoa và Hiệp hội Tâm thần trẻ em Trung Hoa đã phối hợp và đưa ra phương án điều trị bệnh ADHD ở Trung Quốc. Trong phương án này, Methylphenidate được coi là loại thuốc điều trị được lựa chọn ở tuyến đầu, có các đặc điểm như hiệu quả tốt, ít tác dụng phụ, dần dần được các bệnh viện coi là sự lựa chọn hàng đầu trong việc điều trị bệnh tăng động, đã được đưa vào danh mục bảo hiểm y tế trẻ em của quốc gia". Những bài tuyên truyền tương tự còn xuất hiện trên các tờ báo như Dương Thành buổi tối, Bắc Kinh buổi sáng... hồi tháng sáu, tháng bảy, các bài báo này đều nhắc đến ba "Hiệp hội" này và loại thuốc này. Nhưng ngoài ba cái tên được nhắc tới trong các bài viết này, trên mạng Internet không tìm thấy website của ba "Hiệp hội" này và các thông tin có liên quan. Tôi đã hỏi mấy người bạn trong ngành y, họ bảo chưa bao giờ nghe thấy tên của những "Hiệp hội" này.
Hiện nay có một loại quảng cáo tên là "quảng cáo mềm", đây là chuyện mà mọi người trong giới quảng cáo biết rất rõ, tức là nhà sản xuất quảng cáo sản phẩm bằng hình thức đưa tin, đưa bài. Đương nhiên, chỉ cần là quảng cáo, bất luận xuất hiện dưới hình thức nào, đều phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông.
Một bác sĩ người Mỹ đã từng nói một câu rất kinh điển rằng: "Biện pháp marketing thuốc men tốt nhất chính là mở rộng độ ảnh hưởng của bệnh tật", đây thực chất là một bí mật trong ngành sản xuất thuốc. Do mỗi năm chỉ có một lượng ít thuốc mới có thành phần mới được đưa vào thị trường, để các thuốc cũ hoặc thuốc có lượng tiêu thụ kém cũng được bán đi, các nhà sản xuất thuốc buộc phải tạo ra bệnh tật(1).
________________
(1) Jorg Blech, Người phát minh bệnh tật, Trương Chí Thành dịch, NXB Hải Nam, tháng 6-2006, tr.109.
Một căn bệnh có "tiền đồ" lớn như vậy, không phát triển thành phong trào cũng khó.
6. Tác dụng phụ đáng sợ của thuốc chữa bệnh tăng động
Những loại thuốc này có thật là không có tác dụng phụ giống như quảng cáo nói hay không?
Về tác dụng phụ của các loại thuốc kích thích trung khu thần kinh dành cho trẻ em như Methylphenidate và các loại thuốc khác, thường bao gồm: Giảm cảm giác thèm ăn, mất ngủ, đau đầu chóng mặt, giảm trọng lượng, ngoài ra còn có thể xuất hiện các triệu chứng như dị ứng, thần kinh hưng phấn mang tính vận động, ảo giác sợ hãi và bị theo dõi, đôi khi đau bụng. Những tác dụng phụ này thường chỉ được viết trong tờ đơn giới thiệu thuốc, đây chưa phải là những tác dụng phụ xấu nhất, nghiêm trọng hơn cả là những tác dụng không được ghi trên đơn giới thiệu:
Thuốc kích thích trung khu thần kinh ức chế sự tăng trưởng về thể trọng và chiều cao, những đứa trẻ uống liên tục hai năm loại thuốc thần kinh này, chiều cao trung bình thấp hơn so với trẻ cùng tuổi một phẩy năm centimet(1), uống thuốc trong thời gian dài có thể khiến cơ thể thấp bé.
_________________
(1) Jorg Blech, Người phát minh bệnh tật, Trương Chí Thành dịch, NXB Hải Nam, tháng 6-2006, tr.99.
Viện Nghiên cứu sức khỏe tâm lý quốc gia của Mỹ đã công bố một kết quả nghiên cứu về thần kinh học, những trẻ không uống thuốc điều trị bệnh tăng động thiếu chú ý, đến năm bảy tuổi rưỡi, lớp vỏ đại não ở não phải đạt tới mức dày nhất, trong khi đó, ở những trẻ uống thuốc, thời gian để lớp vỏ đại não ở não phải đạt tới mức dày nhất muộn hơn trẻ không uống thuốc ba năm. Cũng có nghĩa là, uống thuốc Methylphenidate sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Trọng lượng của trẻ em tương đối nhẹ, chúng đang ở trong giai đoạn phát triển, các cơ quan trong cơ thể vẫn chưa hoàn thiện, sức đề kháng của chúng đối với các chất hóa học rất yếu, sử dụng lâu dài loại thuốc này sẽ có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của các cơ quan, thậm chí để lại hậu họa.
Ngày 22-2-2007, diễn đàn Sohu đã trích tin từ tờ Luật pháp buổi tối và viết rằng, Cơ quan Quản lý an toàn thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) thông báo, từ năm 1999 đến năm 2003, trong số các bệnh nhân sử dụng thuốc chữa bệnh ADHD, có hai mươi lăm người tử vong, trong đó có mười chín trẻ em; đồng thời, một bản báo cáo của FDA cho thấy, xác suất nguy hiểm đối với những người sử dụng thuốc chữa bệnh ADHD xuất hiện các triệu chứng về bệnh tâm thần lên tới một phần nghìn, ví dụ những người sử dụng thuốc sẽ xuất hiện các vấn đề về bệnh tâm thần như ảo giác thính giác, nghi ngờ vô cớ, nôn nóng bất an. FDA kiến nghị, Methylphenidate cần bổ sung thêm những lời cảnh cáo đen trong tờ đơn giới thiệu thuốc, nhắc nhở mọi người loại thuốc này có thể gia tăng nguy hiểm cho người sử dụng như gây thiệt mạng hoặc gây ra các tổn thương về mặt tinh thần.
Ngoài những tác dụng phụ đáng sợ nói trên, tôi cho rằng, tác hại lớn nhất của loại thuốc này đối với trẻ em là về tâm lý. Ngày nào cũng uống một viên thuốc tức là ngày nào cũng nhắc nhở rằng: Em là người mang bệnh, em phải uống thuốc.
Tuổi thơ trôi qua sẽ không bao giờ trở lại, những thuốc đã từng uống cũng sẽ để lại vết tích trong cơ thể; bị gắn cái mác "bệnh tăng động" cũng sẽ để lại dấu vết trong tâm hồn. Tôi đã từng gặp một số em, sau khi uống thuốc một giai đoạn, các em không chịu dừng thuốc, sợ rằng nếu dừng thuốc mình sẽ càng trở nên tồi tệ hơn. Thuốc không những gây hại cho sức khỏe của trẻ, mà còn hủy hoại lòng tự tin của em - lẽ nào tác dụng phụ này không phải là đáng sợ nhất hay sao?
7. Phụ huynh và giáo viên trở thành "tay sai" gây rắc rối
Những thông tin về "bệnh tăng động ở trẻ em" càng ngày càng nhiều, nó khiến cho rất nhiều người tin rằng, đúng là có một loại bệnh đang đe dọa đến sức khỏe của trẻ em, và hơn nữa đang có chiều hướng lây lan rộng, ngay cả trẻ trong trường mầm non "không giữ kỷ luật, không ngủ trưa" cũng bị nói là triệu chứng của bệnh tăng động. Tôi đã từng gặp không ít phụ huynh, nói đến chuyện con họ không chịu nghe lời, liền lo lắng và nói rằng có thể con mình mắc bệnh tăng động. Bởi những "triệu chứng" của bệnh tăng động rất dễ khiến phụ huynh gắn con mình với căn bệnh này.
Hầu hết những vị phụ huynh tin vào "bệnh tăng động" lại không hiểu nhiều về căn bệnh này, thậm chí chưa từng tìm hiểu qua các tài liệu, thông tin của họ chủ yếu bắt nguồn từ bác sĩ, báo chí hoặc nghe người nọ người kia nói. Rất nhiều phụ huynh đưa con đi khám bệnh tăng động sau khi được giáo viên gợi ý hoặc đề nghị. Bởi hành vi của trẻ ở trường hoặc trường mầm non không phù hợp với yêu cầu, gây phiền hà cho giáo viên. Giáo viên không muốn bị một số học sinh gây phiền hà quá nhiều, không muốn hoặc không đủ khả năng tìm kiếm mấu chốt của vấn đề trong giáo dục, và thế là liền tìm biện pháp giải quyết đơn giản nhất là để cho phụ huynh đưa con đi khám bác sĩ. Chỉ cần đưa trẻ đến bác sĩ để kiểm tra, rất nhiều trẻ liền trở thành "bệnh nhân", chúng phải uống thuốc hàng ngày. Như thế giáo viên liền có thể được giải thoát một cách nhẹ nhàng trước sự quấy rối của một số học sinh.
Không ít phụ huynh cũng muốn quy kết một số "vấn đề" của con trẻ cho nguyên nhân khách quan, lối suy nghĩ này không đòi hỏi bố mẹ phải tự trách mình, thực hiện cũng giản tiện nhất. Thậm chí tôi còn gặp phụ huynh của một em học sinh cấp ba, con chị không chịu học hành chăm chỉ, không thích ngồi trước bàn học, chỉ muốn đi đá bóng hoặc xem ti vi, chị cho rằng con mình mắc bệnh tăng động, liền bắt con đi khám bác sĩ khoa tâm thần, ngày ngày bắt con uống thuốc. Và với tư cách là phụ huynh, chị không hề muốn kiểm điểm lại những sai lầm trong phương pháp giáo dục của mình bao nhiêu năm qua, càng không muốn thay đổi phương pháp giáo dục của chính bản thân mình.
Những phụ huynh hoặc giáo viên có con hoặc học sinh mắc "bệnh tăng động", nếu biết quan tâm và thấu hiểu con trẻ, chăm chú lắng nghe "ngôn ngữ hành vi" của trẻ, mọi thứ của trẻ đều trở nên bình thường. Trên lớp trẻ không chú ý nghe giảng là vì không thích cách giảng bài của giáo viên hoặc không có hứng thú với nội dung bài giảng; thành tích học tập kém, là vì trẻ không học các nội dung trong bài thi; tấn công bạn bè, là vì trẻ muốn bảo vệ mình hoặc cảm nhận được niềm vui ở trong đó; có những hành động nguy hiểm, là vì chúng muốn thể hiện mình hoặc không biết nguy hiểm là gì - hàng triệu trẻ em khác nhau sẽ có hàng triệu ý thức về mình khác nhau, hành vi của chúng cũng có những biểu hiện khác nhau. Chúng vẫn chưa có được quan niệm đạo đức, quan niệm giá trị, khả năng chịu đựng và khả năng dự đoán được hậu quả như người lớn, chính vì thế chúng rất khó dùng những cái này để kiểm soát mình.
Người lớn tiếp nhận một đứa trẻ ở mức độ như thế nào, được quyết định bởi anh ta hiểu được "lời tâm sự" của đứa trẻ ra sao.
Phụ huynh và giáo viên đều yêu trẻ, nhưng chỉ có tình yêu thôi thì chưa đủ. Sự khác biệt trong phương châm giáo dục, cách xử lý vấn đề sẽ dẫn đến sự khác biệt lớn của chất lượng của tình yêu. Chỉ khi hiểu con trẻ, mới có thể giáo dục tốt trẻ, mới có thể yêu trẻ một cách có chất lượng.
8. Rốt cục trẻ mang "bệnh tăng động" đã mắc chứng bệnh gì?
Nếu nói quả thật con trẻ biểu hiện ra một số vấn đề trong hành vi hoặc phẩm chất nhân cách, về cơ bản những vấn đề này đều có thể dùng giáo dục học để giải thích.
Một phần do phụ huynh hoặc giáo viên coi sự hiếu động, hoạt bát bình thường của trẻ là có vấn đề, không có chuyện gì mà gây chuyện. Phần lớn do trong cuộc sống gia đình trẻ phải chịu sức ép tâm lý lớn, khi chống lại sức ép, trẻ đã để nảy sinh và phát triển ra nhiều hành vi dị dạng. Đương nhiên những hành vi dị dạng này sẽ khiến người ta cảm thấy khó chịu, muốn tìm nguyên nhân gây ra nó, buộc phải quay trở về với môi trường trưởng thành trong gia đình.
Ngày càng có nhiều trẻ mắc "bệnh tăng động" chỉ có thể chứng minh một điều rằng, ngày càng có nhiều vấn đề tồn tại trong giáo dục gia đình hiện nay.
Sự theo đuổi đối với sự tiêu chuẩn hóa của xã hội hiện đại khiến xã hội nảy sinh tâm lý a dua trong mọi phương diện. Bố mẹ luôn mong con mình phát triển theo hướng "tấm gương", chứ không phát triển theo hướng mà trẻ muốn. Người lớn đã đặt ra quá nhiều tiêu chuẩn cho con trẻ, cho rằng đào tạo trẻ trong khuôn mẫu tiêu chuẩn, tương lai mới có thể thành công. Ví dụ "ham học", "lễ phép", "giữ kỷ luật", "đa tài đa nghệ"... Trẻ tỏ ra "nghe lời" trong những phương diện này, làm theo yêu cầu của phụ huynh, tức là tốt, nếu chúng không nghe lời, không đạt theo yêu cầu của người lớn, liền bị trách mắng, nghiêm trọng hơn là chửi đánh. Có bậc phụ huynh gặp phải những cảnh ngộ không được như mong muốn hoặc có khiếm khuyết về mặt nhân cách, thường đổ sự không như ý của mình vào con trẻ, giao "lý tưởng" của mình cho con trẻ thực hiện.
Thái độ của những người lớn này đối với trẻ đã thể hiện cảm giác lo lắng và không an toàn của người lớn. Nó ắt sẽ phát triển thành mối xung đột xảy ra liên tục giữa người lớn và trẻ em. Bố mẹ của những em mắc "bệnh tăng động" thường có nhân cách quá khích, một mặt họ đã dùng mô hình tư duy của mình để can thiệp một cách lâu dài, không tốt vào đặc tính tự nhiên của trẻ, lấy danh nghĩa "tình yêu" để không ngừng đảo lộn nhịp điệu sinh trưởng vốn có ở trẻ, khiến chúng sa vào nỗi buồn khổ và sợ hãi; mặt khác ý thức bảo vệ cái tôi của họ rất mạnh, người lớn muốn vừa vấp phải thử thách, liền đưa ra phản ứng ngay, thường đối xử với trẻ một cách hà khắc. Phương pháp giáo dục này có lợi cho việc giúp người lớn trút bỏ tâm trạng, nhưng không có lợi cho sự phát triển của trẻ, gây tổn thương về mặt tâm lý cho trẻ.
Phân tích mọi "triệu chứng" trong bảng điểm chẩn đoán, đều phản ánh sự điều chỉnh của trẻ em đối với mối quan hệ giữa bản thân chúng và thế giới. Chúng dùng các "triệu chứng" khác nhau để trút bày những trải nghiệm tự ti, bất an, chán ghét, thất vọng, thờ ơ, căm hận, nghi ngờ... sau khi không ngừng bị tổn thương về mặt tâm lý. Vết thương tâm lý sẽ khiến trẻ chịu sức ép lớn về mặt tinh thần, hành vi trở nên biến thái, hoặc là trở thành một đứa trẻ ngang ngạnh, khó bảo; hoặc là trở thành một kẻ bù nhìn hoàn toàn đánh mất chính mình; hoặc sẽ trở thành một con người cô độc, quá khích, không thể sống chung với người khác - đằng sau tất cả những điều này đều là do trẻ mất cảm giác an toàn, mất tự tin.
Con người là sinh vật nhạy cảm biết bao, ngay từ khi còn rất nhỏ trẻ em đã có cảm nhận mạnh mẽ về tình yêu và sự tôn trọng. Bất kỳ cảnh ngộ nào trong cuộc sống đều có thể tạo nên những thay đổi trong các chỉ tiêu sinh hóa trên cơ thể trẻ, kể cả trong đại não của những trẻ được gọi là mắc "bệnh tăng động" có thiếu Dopamine làm cho trẻ yên tĩnh, ai có thể nói rõ đây là nguyên nhân hay kết quả? Chính vì vậy "nguyên nhân gây bệnh" thực sự của "bệnh tăng động" là hai sai lầm mà người lớn mắc phải: Quan niệm sai lầm về trẻ em và phương pháp giáo dục sai lầm.
Nói như thế này khiến rất nhiều phụ huynh và giáo viên cảm thấy không vui, thậm chí phản cảm. Họ đã quen quy kết vấn đề cho một nguyên nhân khách quan, đồng thời đi tìm phương án giải quyết khách quan. Lời chẩn đoán của bác sĩ đã giảm nhẹ cảm giác có tội đối với sự thất bại trong giáo dục của phụ huynh và giáo viên, giữ thể diện cho họ. Đồng thời, so với việc lưu tâm quan sát, hạ quyết tâm tự thay đổi mình, uống thuốc là biện pháp đơn giản nhất, ít đòi hỏi bố mẹ và giáo viên phải mất công sức nhất - nó rất phù hợp với hành vi của những phụ huynh vốn thiếu quan tâm, thấu hiểu con trẻ, coi mình là nhất. Những phụ huynh và giáo viên tự coi mình là nhất tin vào thuốc hơn là tin vào giáo dục. Sai lầm mà người lớn mắc phải, lại trút toàn bộ lên đầu trẻ, bắt trẻ phải gánh chịu. Bị chẩn đoán là "có bệnh" đã gỡ tội cho bố mẹ và giáo viên, nhưng nó lại vĩnh viễn làm tổn thương con trẻ.
Hiện nay những căn bệnh phổ biến trong trẻ em còn có bệnh hội chứng Tourette(1), Rối loạn khả năng điều hòa ngũ quan(2) triệu chứng của chúng khá giống với bệnh tăng động. Có người đã đưa hai loại bệnh này vào nội hàm của bệnh tăng động, có người thì xếp chúng ngang hàng với bệnh tăng động. Sử dụng thuốc cũng đều là những loại thuốc kiểm soát trung khu thần kinh.
_________________
(1) Hội chứng Tourette là chứng rối loạn hệ thần kinh có những biểu hiện như có những động tác co giật không tự chủ, cứng nhắc, gặp trở ngại trong ngôn ngữ, hành vi, như liên tục chớp mắt, làm trò hề, lắc đầu, nhún vai, hắng giọng, phát tiếng ho...
(2 Rối loạn khả năng điều hòa ngũ quan (Sensory integration dy sfunction) là chỉ tín hiệu kích thích cảm giác bên ngoài không thể được tổ hợp một cách có hiệu quả trong hệ thống thần kinh đại não ở trẻ em, khiến cho cơ thể không thể vận động một cách hài hòa, dần dần hình thành nên các bệnh về tâm lý. Trẻ có những đặc điểm như không chịu tập trung, trí nhớ kém, hay quên, thành tích học tập kém, làm bài tập lề mề, xốc nổi, mạo hiểm, gặp khó khăn trong những công việc đòi hỏi sự kiên nhẫn, tỉ mỉ, nói lắp, không diễn đạt được ý của mình; có trẻ lại dễ căng thẳng, nhút nhát, hay khóc, không hòa đồng, kén ăn hoặc ăn uống vô độ..., (ND).
Thực ra, điều bất hạnh thực sự của những em mắc "bệnh tăng động", "Hội chứng Tourette" hoặc "Rối loạn khả năng điều hòa ngũ quan" đều là sau khi chào đời, mọi bản tính bình thường của trẻ đều bị tước đoạt. Có một vị phụ huynh khi con học đi, sợ con làm bẩn quần áo, sợ con bị ngã nên bế trên tay suốt ngày, không cho con xuống đất. Còn rất nhiều sự hạn chế tương tự như thế, không cho phép trẻ làm việc này hay việc khác. So với những trẻ cùng trang lứa, động tác của con chị không hài hòa, năm mười tuổi buộc phải vào "lớp trị liệu Rối loạn khả năng điều hòa ngũ quan". Cũng giống như vậy, rất nhiều tài liệu và kinh nghiệm có thể chứng minh được rằng, những đứa trẻ thường xuyên bị đánh mắng, do sức ép quá lớn, cũng sẽ xuất hiện hiện tượng co giật ở tứ chi hoặc ngũ quan, tức cái gọi là "hội chứng Tourette".
Những đứa trẻ này đã "ốm" rồi, nhưng uống thuốc có giải quyết được vấn đề gì không? "Lớp trị liệu" có trị liệu được không? Tôi đã từng gặp một số em tham gia "lớp trị liệu Rối loạn khả năng điều hòa ngũ quan", bố mẹ của các em đã bỏ ra rất nhiều tiền, nhưng tình trạng của các em không có gì cải thiện.
9. Các bác sĩ đại diện cho khoa học và sự quyền uy
Đứng trên góc độ của bác sĩ để xem xét vấn đề. Từ trước đến nay, giới y học luôn tranh cãi về căn bệnh này, có rất nhiều bác sĩ cho rằng đây là căn bệnh do người ta phát minh ra, là bệnh giả. Tuy nhiên nhiều bác sĩ tâm thần không phản đối việc kê thuốc cho trẻ.
Một mặt bác sĩ không đứng trên góc độ giáo dục để suy nghĩ vấn đề, mặt khác thông thường bác sĩ không muốn nói với người đến khám bệnh rằng anh không có bệnh, không kê thuốc mà cho bệnh nhân về. Người bệnh có bệnh, không chẩn đoán ra được bệnh, bác sĩ sẽ phải gánh trách nhiệm; nhưng người bệnh không có bệnh, bị nghi ngờ là có bệnh và tiến hành điều trị, kể cả cuối cùng được chẩn đoán chính xác là không có bệnh, bác sĩ cũng sẽ không gặp rắc rối gì. Những bác sĩ có thể tóm bắt được những triệu chứng mơ hồ và đưa ra lời chẩn đoán, mới được người ta tôn trọng hơn. Đây là nguyên nhân đầu tiên. Nguyên nhân thứ hai là, xét về nghiên cứu y học, bác sĩ phải không ngừng đưa ra thành quả nghiên cứu học thuật của mình, nhưng không phải mọi thành quả đều từ nghiên cứu mà ra. Trong cuốn Người phát minh bệnh tật có một đoạn rất hay, xin trích ra như sau: "Sự ra đời của một căn bệnh thường bắt nguồn từ việc một bác sĩ nào đó tuyên bố đã quan sát được một tình trạng bất thường. Lúc đầu chỉ có một số ít bác sĩ tin vào triệu chứng của bệnh mới, tiếp theo đó những người này tham gia một hội nghị nào đó, trong cuộc hội nghị giao cho một nhóm chuyên gia phụ trách công tác xuất bản kỷ yếu, dựa vào các bài viết trong kỷ yếu để mở rộng độ ảnh hưởng của căn bệnh mới đồng thời gây hứng thú cho người khác. Đến đây, các bác sĩ khác cũng chú ý tới hiện tượng mới, sau đó cố gắng tìm kiếm những bệnh nhân có triệu chứng tương tự. Trong quá trình khám bệnh mang tính lựa chọn này, đã có thể xuất hiện một dịch bệnh mới. Tiếp sau đó rất nhiều bài viết và báo cáo nghiên cứu bắt đầu khiến người ta nảy sinh một ấn tượng: Bác sĩ đã phát hiện ra căn bệnh mới thật. Nhóm bác sĩ này tự xuất bản chuyên san phát biểu kết quả nghiên cứu của mình - trong đó cam đoan là không có những báo cáo mang tính phê bình"(1).
________________
(1) Jorg Blech, Người phát minh bệnh tật, Trương Chí Thành dịch, NXB Hải Nam, tháng 6-2006, tr.55.
Nguyên nhân quan trọng thứ ba là mối quan hệ tế nhị giữa bác sĩ và nhà sản xuất thuốc. Rất nhiều quốc gia, trong đó bao gồm Mỹ, Anh, Đức, hiện tượng các nhà sản xuất thuốc tài trợ cho các tạp chí y học thanh thiếu niên, các cuộc hội thảo khoa học là rất phổ biến. Nhà sản xuất thuốc tài trợ cho hội thảo y học, sau khi các cuộc hội thảo kết thúc liền tổ chức tiệc chiêu đãi mời các bác sĩ tham gia, tổ chức các buổi du lịch. Hiện nay công tác tu nghiệp của bác sĩ theo luật định ở Đức, phần lớn là do các nhà sản xuất thuốc sắp xếp. Sau khi kiếm được một khoản tiền lớn từ nhà sản xuất thuốc, giáo sư y học và bác sĩ tư nhân liền phát biểu trong cuộc họp báo. Biện pháp hiệu quả nhất, ghê gớm nhất của các nhà sản xuất thuốc là tài trợ cho các tạp chí y học, phát biểu công trình nghiên cứu khoa học trên tạp chí, những báo cáo này rất chặt chẽ, không thể phản bác, không những thường xuyên đối chiếu xem thuốc mới có phát huy được tác dụng quan trọng hay không, mà còn ảnh hưởng đến việc sử dụng thuốc và phạm vi sử dụng thuốc của các bác sĩ sau này(1).
________________
(1) Jorg Blech, Người phát minh bệnh tật, Trương Chí Thành dịch, NXB Hải Nam, tháng 6-2006, tr.26-34.
Vài năm gần đây, không ít nhà sản xuất thuốc nổi tiếng quốc tế đã tiến quân mạnh mẽ vào thị trường Trung Quốc, ngành sản xuất thuốc trong nước cũng phát triển nhanh chóng. Cùng với đó, mô hình marketing y dược phổ biến trên thế giới không những bén rễ ở Trung Quốc, mà còn phát triển rất mạnh. Đội ngũ dược sĩ khổng lồ mới nổi, giống như những nút thắt dày đặc, gắn kết doanh nghiệp sản xuất với bác sĩ. Một số nhà sản xuất thuốc có thực lực đã mời bác sĩ thông qua việc kê đơn hoặc tuyên truyền để tiếp thị sản phẩm của mình, đây là chuyện không hề khó khăn.
Từ lâu nay, lời nói của ai cũng có thể nghi ngờ, nhưng chúng ta không nghi ngờ lời của bác sĩ. Vì họ là những người đại diện cho khoa học, là bậc quyền uy quan tâm đến sức khỏe và số phận của con người. Nhưng sự thôi thúc của lợi ích giống như dòng nước lũ có thể thay đổi và hủy hoại rất nhiều thứ.
Giới y học Australia đã tổng kết ra năm phương thức bán triệu chứng bệnh trên lâm sàng:
Coi quá trình sinh mệnh bình thường là vấn đề y tế;
Coi vấn đề cá nhân và vấn đề xã giao là vấn đề y tế;
Coi rủi ro gây bệnh là triệu chứng của bệnh;
Coi những triệu chứng hiếm gặp là bệnh dịch lây lan khắp nơi;
Coi những triệu chứng nhẹ là điềm báo của căn bệnh nặng(1).
________________
(1) Jorg Blech, Người phát minh bệnh tật, Trương Chí Thành dịch, NXB Hải Nam, tháng 6-2006, tr.3.
10. Vứt thuốc vào thùng rác là khởi đầu để chữa khỏi bệnh
Nhà giáo dục học nổi tiếng người Italia Maria Montessori là một tiến sĩ y học, bà từng là bác sĩ thần kinh trẻ em. Trong quá trình tiếp xúc với các bệnh nhân khác nhau, càng ngày bà càng cảm thấy rằng, thuốc không thể giải quyết được vấn đề, vấn đề nằm ở giáo dục, giáo dục mới là biện pháp hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề tinh thần và hành vi của trẻ. Sau nhiều năm nghiên cứu thực tiễn, bà đã rút ra được kết luận sau: "Những khiếm khuyết về mặt tâm lý và bệnh tinh thần ở trẻ chủ yếu là vấn đề giáo dục chứ không phải là vấn đề y học, huấn luyện giáo dục sẽ có hiệu quả hơn là huấn luyện y tế"(2). Kết luận này đã làm thay đổi số phận của vô số trẻ em.
__________________
(2) Montessori, Phương pháp giáo dục trẻ em khoa học của Montessori, Nhậm Đại Văn dịch, NXB Giáo dục nhân dân, tái bản lần thứ nhất tháng 5-2001, tr.4.
Bà đã thành lập "ngôi nhà tuổi thơ" chuyên chữa trị vết thương tâm lý cho trẻ em, chủ yếu chữa trị cho những em có vấn đề về mặt tinh thần, trí tuệ và trẻ em lang thang cơ nhỡ. Bà đã phát minh ra rất nhiều phương pháp dạy học và đồ dùng dạy học để cải thiện trí tuệ và tinh thần của trẻ, huấn luyện một cách có hiệu quả đối với học sinh. Bà đã coi những đứa trẻ này như những đứa trẻ bình thường và gần gũi với chúng, dành cho chúng sự quan tâm và phương pháp giáo dục phù hợp với bản tính tự nhiên của con người. Montessori đã rất thành công khi giúp được những em bước vào "ngôi nhà tuổi thơ" thoát khỏi những khó khăn và tương lai đen tối, các phương diện như phát triển ngôn ngữ, động tác hài hòa, quan hệ với mọi người, học hành đều như trẻ bình thường, dưới sự giám sát của chính phủ, vượt qua được các kỳ thi về đọc, viết, tính toán cùng trình độ với các em cùng trang lứa trong trường công lập. Thành quả giáo dục của bà đã gây chấn động trong giới giáo dục toàn cầu.
Nguyên tắc cơ bản của lý luận và phương pháp giáo dục của Montessori là "cố gắng giảm thiểu sự can thiệp vào tính chủ động của trẻ"(1), tức là tạo cho trẻ sự tự do lớn nhất, tôn trọng trẻ, phát triển tiềm năng của trẻ, để trẻ học được cách làm việc, phán đoán một cách độc lập. Giáo sư trường đại học Havard, nhà giáo dục E.G.Holmes nói: "Cái tinh hoa trong hệ thống lý luận của Montessori là có sự nhận định đúng đắn về chân lý dưới đây: Trừ phi trong bầu không khí tự do, trẻ em vừa không thể phát triển được mình, cũng không nhận được sự nghiên cứu có ích!".
__________________
(1) Montessori, Phương pháp giáo dục trẻ em khoa học của Montessori, Nhậm Đại Văn dịch, NXB Giáo dục nhân dân, tái bản lần thứ nhất tháng 5-2001, tr.12.
"Giảm thiểu can thiệp", tạo cho trẻ "bầu không khí tự do" mới có thể bồi dưỡng ra những đứa trẻ khỏe mạnh về mặt thể xác và tâm hồn, hài hòa, điều này về logic là trùng khớp với vấn đề hầu hết trẻ em mắc "bệnh tăng động" đều sinh ra trong một gia đình có sự quản giáo nghiêm khắc nói đến ở trên. Nếu nói thật sự có một loại thuốc có thể chữa được bệnh cho trẻ, thì có lẽ "giảm thiểu can thiệp" và "bầu không khí tự do" là hai loại thuốc tốt nhất.
Trong cuốn Tâm hồn mang tính hấp thu, Montessori nói: Con người là một loài động vật có trí tuệ, vì thế nhu cầu đối với nguồn lương thực tâm lý gần như lớn hơn nhu cầu đối với nguồn lương thực vật chất. Không cần phải dọa nạt hoặc dỗ dành, chỉ cần làm cho điều kiện sinh hoạt của trẻ được "bình thường hóa", bệnh tật của chúng sẽ tiêu tan, cơn ác mộng của chúng sẽ tuyệt tích, chức năng tiêu hóa của chúng sẽ trở lại bình thường, tính tham lam của chúng sẽ giảm đi. Sức khỏe của chúng được bình phục, bởi tâm lý của chúng đã trở lại bình thường.
Cuộc sống xã hội trở nên tinh tế như vậy, biết sinh con không đồng nghĩa với việc biết làm bố mẹ, phụ huynh thời hiện đại cần phải học một cách ngoan đạo cách làm bố mẹ. Nếu trong gia đình bạn có một đứa trẻ mắc "bệnh tăng động", muốn thay đổi con trẻ, trước hết và quan trọng nhất là phải thay đổi bố mẹ. Bước thứ nhất là kiên quyết vứt ngay thuốc vào thùng rác, dũng cảm thừa nhận với con trẻ rằng, bố mẹ đã sai. Ngày này chính là khởi đầu mới cho cuộc sống của bố mẹ, cũng là khởi đầu mới cho cuộc sống của con trẻ!
Lưu ý đặc biệt
Tuổi thơ trôi qua sẽ không bao giờ trở lại, những thuốc đã từng uống cũng sẽ để lại vết tích trong cơ thể; bị gắn cái mác "bệnh tăng động" cũng sẽ để lại dấu vết trong tâm hồn trẻ.
Những khiếm khuyết về mặt tâm lý và bệnh tinh thần ở trẻ chủ yếu là vấn đề giáo dục chứ không phải là vấn đề y học, huấn luyện giáo dục sẽ có hiệu quả hơn là huấn luyện y tế.
Vết thương tâm lý sẽ khiến trẻ chịu sức ép lớn về mặt tinh thần, hành vi trở nên biến thái, hoặc là trở thành một đứa trẻ ngang ngạnh, khó bảo; hoặc là trở thành một kẻ bù nhìn hoàn toàn đánh mất chính mình; hoặc sẽ trở thành một con người cô độc, quá khích không thể sống chung với người khác - đằng sau tất cả những điều này đều là do trẻ mất cảm giác an toàn, mất tự tin.
Nếu nói thật sự có mộtloại thuốc có thể chữa được bệnh cho trẻ, thì có lẽ "giảm thiểu can thiệp" và"bầu không khí tự do" là hai loại thuốc tốt nhất
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com