Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Untitled Part 2


II - Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng trong pháp luật Việt Nam - Bảo đảm và thực hiện.

1) Sơ lược về nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

a) Pháp luật HN&GĐ trước CMT8 năm 1945.

Trước CMT8 năm 1945 nước ta tồn tại dưới chế độ nửa thực dân nửa phong kiến đặt dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Nhìn chung, chế độ hôn nhân gia đình nước ta bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng phong kiến lạc hậu tồn tại từ nhiều thế kỷ trước với quan niệm "trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng". Pháp luật Việt Nam trước 1945 đều công nhận chế độ đa thê, người đàn ông được quyền kết nạp nhiều vợ, thể hiện rõ sự kì thị, coi thường địa vị của người phụ nữ.

Một số đặc trưng của pháp luật hôn nhân thời kỳ này là:

+ Kết hôn phải có sự đồng ý của ông bà, cha mẹ, bậc tôn trưởng,...

+ Duy chì chế độ đa thê: Trong các bộ dân luật thời kỳ này có những điều luật mang tính chất công nhận chế độ đa thê như là tất yếu, tuy nhiên, pháp luật cấm người đàn ông đã có vợ chính lại cưới vợ chính khác.

+ Quan hệ bất bình đẳng giữa vợ chồng: Người chồng là người gia trưởng, người vợ luôn phụ thuộc vào người chồng,...

=> Trước CMT8 năm 1945 pháp luật chưa thừa nhân nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, người chồng có quyền lấy nhiều vợ, duy trì quyền gia trưởng của người đàn ông, quan hệ bất bình đẳng trong hôn nhân vẫn tồn tại.


b) Pháp luật hôn nhân Việt Nam từ sau CMT8 năm 1945 đến nay.

b.1) Trước Luật hôn nhân và gia đình 1959.

Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời 1946, lần đầu tiên ghi nhận sự bình đẳng giữa nam và nữ: " Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" . Đây chính là lời tuyên ngôn của Nhà nước Việt Nam độc lập, thể hiện quyết tâm giải phóng tự do cho người phụ nữ khỏi áp bức, bóc lột, là cơ sở pháp lí để đấu tranh xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, tạo cơ sở cho việc xây dựng chế độ hôn nhân gia đình mới, phù hợp với chế độ dân chủ tiến bộ của một quốc gia độc lập .

Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành sắc lệnh số 97 (nhằm sửa đổi chế định trong Dân luật) đã ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ: " Người đàn bà có chồng, có toàn năng lực thực hiện mọi hành vi dân sự, không cần phải được chồng cho phép như trước nữa". Tuy nhiên SL- 97 chưa ghi nhận của thể về bãi bỏ chế độ đa thê, vì thế những tục lệ lạc hậu như tảo hôn, đa thê,... vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi.

Vài đặc trưng của pháp luật hôn nhân thời kỳ này là:

+ Kết hôn không phải có cần sự đồng ý của bậc tôn trưởng.

+ Bình đẳng trong quan hệ vợ chồng.

+ Tự do giá thú, tự do ly hôn.

b.2) Pháp luật về hôn nhân gia đình Việt Nam từ khi Luật HN&GĐ 1959 ra đời đến nay.

Từ năm 1959 đến nay, nước ta đã ban hành bốn Luật HN&GĐ. Luật HN&GĐ sau ra đời trên sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc của pháp luật giai đoạn trước nhưng có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội.

- Luật HN&GĐ 1959.

Đây được coi là bộ luật HN&GĐ chính thức đầu tiên của Việt Nam, ra đời 1959, có hiệu lực thi hành 13/1/1960. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được thừa nhận một cách chính thức. Khẳng định sự bảo vệ của nhà nước trong quan hệ hôn nhân gia đình. Xóa bỏ chế độ đa thê đã ăn sâu bén rễ, tồn tại hàng ngàn năm qua để xác lập một chế độ hôn nhân mới, chế độ hôn nhân tiến bộ, bình đẳng.

Tuy nhiên, điểm hạn chế của Luật HN&GĐ đầu tiên này là chưa có quy định nào về việc hủy kết hôn trái pháp luật đối với những trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Việc xử lí các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng phải sau 13 năm mới được quy định trong: TT 112/NCPL ngày 19/08/1972TANDTC hướng dẫn xử lí việc kết hôn vi phạm thủ tục kết hôn.

- Luật HN&GĐ 1986.

Xây dựng trên cơ sở phát triển những nguyên tắc cơ bản trong Hiến pháp 1980 " Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng..." và Luật HN&GĐ 1959, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng tiếp tục trở thành nguyên tắc hiến định, được cụ thể hóa trong Luật HN&GĐ năm 1986: " Nhà nước bảo đảm chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc, bền vững" - Điều 1.

Luật HN&GĐ 1986 đã có những quy định cụ thể để bảo vệ nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng (Khoản a Điều 7): " Cấm kết hôn trong trường hợp người đang có vợ hoặc có chồng"; (Điều 9): " Việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5,6,7 của Luật này là trái pháp luật, Tòa án nhân dân có quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật đó".

Hơn nữa, đảm bảo sự công bằng cũng như sự mềm dẻo của pháp luật, xuất pháp từ tình hình thực tế, điều kiện lịch sử của đất nước, Nghị quyết 01/NQ - HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao quy định: " Nếu thuộc trường hợp cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc hồi năm 1954, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc thì vẫn xử lí theo Thông tư số 60/TATC ngày 22/02/1978 của Tòa án nhân dân tối cao " Hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác" thì quan hệ hôn nhân với người vợ mới này không bị coi là vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng.

- Luật HN&GĐ 2000.

Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, xét thấy những quy định của Luật năm 1986 cần phải được sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp hơn Luật HN&GĐ 2000 ra đời. Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng tiếp tục được ghi nhận - Khoản 1 Điều 2.

Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng năm 2000 là sự kế thừa và phát triển của nguyên tắc trong luật hôn nhân và gia đình 1986. Để đảm bảo chế độ một vợ, một chồng được thực hiện trong thực tế cuộc sống, luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định " Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng hoặc đang có vợ". Như vậy, pháp luật không chỉ không thừa nhận quan hệ hôn nhân phát sinh giữa người đang tồn tại một quan hệ hôn nhân với người khác mà còn không thừa nhận quan hệ chung sống như vợ chồng với người khác khi đang tồn tại quan hệ hôn nhân. Các biện pháp xử lí khi vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được quy định tại các Điều 16, 17 luật này.

- Luật HN&GĐ 2014.

Sau 13 năm thực thi quy định Luật HN&GĐ 2000, trước sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, xã hội các quan hệ hôn nhân và gia đình ngày càng phức tạp, nhiều vẫn đề mới xuất hiện mà pháp luật chưa có quy định hướng dẫn, giải quyết. Để khắc phục những hạn chế, bất cập đó Luật HN&GĐ 2014 ra đời.

Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng tiếp tục trở thành nguyên tắc hiến định ( cụ thể hóa từ Khoản 1 Điều 36 Hiến pháp 2013), được ghi nhận trong Khoản 1 Điều 2.


Điều 9 Hiến pháp 1946.

Đinh Thị Mai Phương, Bình luận khoa học Luật HN&GĐVN năm 2000, Nxb Chính trị QG, Tr20.


Không nói về pháp luật hôn nhân và gia đình ở miền Nam trước giải phóng (1975).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com