Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Những bí ẩn về con người

Bí ẩn cơ thể người: “Công năng thấu thị” dựa trên nghiên cứu cận tâm lý

Tác giả: Ngô Uyên

[Chanhkien.org] “Cận tâm lý học” (parapsychology) đã bắt đầu xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 như một bộ môn tâm lý học thực nghiệm mới. Mục đích của nó là chứng thực thông qua khoa học thực nghiệm về sự tồn tại của các tiềm năng trên cơ thể người và các nhân tố ảnh hưởng đến những tiềm năng này. Tiềm năng cơ thể người còn được gọi là “công năng đặc dị”, và ở phương Tây nó được biết đến với cái tên “hiện tượng Psi”, có nghĩa là “chưa biết”. “Hiện tượng Psi” đã được nghiên cứu theo hai loại chính: tri giác siêu cảm (extrasensory perception) và trạng thái xuất thần (psychokinesis). “Tri giác siêu cảm” là chỉ khả năng có được năng lực tri giác mà không qua các giác quan, bao gồm tha tâm thông hay cảm ứng từ cự ly xa (telepathy), công năng thấu thị hay thiên mục (clairvoyance), công năng dao thị hay nhìn xa (remote viewing), công năng túc mệnh thông hay biết trước tương lai (precognition) và nhớ lại quá khứ (retrocognition). “Trạng thái xuất thần” là chỉ khả năng ảnh hưởng hay thao túng thế giới vật chất bên ngoài mà không cần động tay hay động chân, bao gồm công năng ban vận hay dùng ý niệm di chuyển vật thể (teleportation), dùng ý niệm điều khiển thiết bị điện tử, hoặc thúc đẩy hạt giống nảy mầm, v.v.

Trong hơn 70 năm nghiên cứu thực nghiệm, người ta đã chứng thực được sự tồn tại của những công năng này. Các nhà khoa học đã nhận thức thêm và hiểu rõ hơn rằng những công năng này đều bắt nguồn từ một dạng năng lượng tâm lý bí ẩn, điều mà sinh lý học hiện đại đã công nhận. Để vén bức màn bí ẩn bao phủ các tiềm năng của cơ thể người, người ta phải đột phá những rào cản cố hữu mà khoa học hiện đại dựng nên và thiết lập một cách tiếp cận mới để nhận thức cơ thể người và vũ trụ.

Vào cuối năm 2001, “Nghiên cứu cơ sở về cận tâm lý” (The Fundamental Study of Parapsychology) đã được biên soạn và xuất bản bởi nhà cận tâm lý nổi tiếng, K.R. Rao. Cuốn sách điện tử này đã tổng kết các thí nghiệm trong lĩnh vực cận tâm lý và sau đó phân tích kết quả. Qua tham khảo cuốn sách này, chúng ta có thể thấy được sự tiến bộ trong nghiên cứu lĩnh vực cận tâm lý và cùng nhau thảo luận về các bí ẩn của cơ thể người.

1. Công năng thấu thị: Chuỗi thí nghiệm Pearce-Pratt

Công năng thấu thị (clairvoyance) chỉ khả năng nhìn một đồ vật bị che khuất hoặc được ngăn cách bằng một bức tường (“cách tường khán vật”). Thí nghiệm kinh điển trong lĩnh vực này chính là chuỗi thí nghiệm Pearce-Pratt.

Năm 1934, Tiến sĩ J.B. Rhine thuộc Đại học Duke ở Hoa Kỳ đã thiết kế 5 bộ thẻ được gọi là Thẻ Trắc nghiệm Siêu cảm (Extrasensory Testing Cards). Trên mỗi bộ thẻ là một hình vẽ đơn giản: hình tròn, hình vuông, hình chữ thập, hình sóng nước và hình ngôi sao.

Bằng việc sử dụng 5 bộ thẻ này, ông và cộng sự, Tiến sĩ J.G. Pratt, đã tiến hành một chuỗi thí nghiệm trên một học sinh, H. E. Pearce, Jr., người tuyên bố là có công năng thấu thị.

Các thí nghiệm được tiến hành 34 lần trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1933 đến tháng 3 năm 1934. Năm loại thẻ (tổng cộng 25 thẻ) đã được sử dụng vào mỗi lần thí nghiệm. Người được thí nghiệm, Pearce, Jr., ngồi trong một căn phòng nhỏ tại thư viện Đại học Duke, trong khi cộng sự Pratt ngồi trước một chiếc bàn ở tòa nhà cách nơi mà ông có thể thấy Pearce từ 100-200 thước. Trước khi thí nghiệm bắt đầu, Pratt trộn một cách ngẫu nhiên những tấm thẻ và đặt chúng ở phía bên phải chiếc bàn, với mặt thẻ có hình úp xuống. Một cuốn sách cũng được đặt ở giữa chiếc bàn.

Ngay khi thí nghiệm bắt đầu, Pratt chọn một tấm thẻ bằng tay phải và đặt nó lên cuốn sách với mặt có hình úp xuống. Cùng lúc đó, Pearce cố gắng đoán xem hình trên chiếc thẻ là gì. Một phút sau, Pratt dùng tay trái để chuyển chiếc thẻ từ cuốn sách sang phía bên trái của chiếc bàn với mặt thẻ úp xuống, và rồi chọn tấm thẻ tiếp theo bằng tay phải. Với mỗi chiếc thẻ được chọn trong vòng một phút, quá trình này tiếp tục cho tới khi 25 chiếc thẻ được lấy hết. Những chiếc thẻ luôn được đảm bảo là úp xuống trong toàn bộ quá trình, và cả Pearce và Pratt đều không thể nhìn thấy các hình vẽ.

Sau khi hoàn thành lượt đầu tiên của thí nghiệm, Pearce sẽ ghi lại đáp án vào một tờ giấy, gói kín trong một phong bì và đưa cho Tiến sĩ Rhine. Pratt cũng ghi lại đáp án mà ông cố gắng đoán rồi đưa riêng nó cho Tiến sĩ Rhine. Tiến sĩ Rhine mở cả hai phong bì và sau đó tiến hành phân tích kết quả thống kê. Pratt và Pearce cũng so sánh kết quả thống kê của Tiến sĩ Rhine với đáp án mà họ tự lưu để xem có sai sót nào không. Toàn bộ quá trình thí nghiệm rất tỉ mỉ, kỹ càng, và kết quả thống kê thu được là rất chính xác.

Phân tích thống kê cho thấy trong 74 lượt thí nghiệm với 1.850 chiếc thẻ được chọn, độ chính xác trong đáp án của Pearce là hơn 30%. Điều này vượt qua xác suất thống kê khi đoán ngẫu nhiên (chỉ là 20%), và mức độ có ý nghĩa lên tới 10-22. Nói thẳng là, đoán ngẫu nhiên mà không có công năng thấu thị thì không bao giờ đạt chính xác đến 30% (Rhine, 1934, 1937). Thí nghiệm này đã được công nhận rộng rãi trong lĩnh vực tâm lý học và Tiến sĩ Rhine cũng được ca ngợi như là cha đẻ của bộ môn cận tâm lý đương đại.

Nhiều nhà khoa học sau đó đã làm lại thí nghiệm này và cũng thu được kết quả tương tự. Điều này đã chứng thực sự tồn tại khách quan của công năng thấu thị. (Russell, 1943).

Tại sao Pearce có thể thấy được vật thể được che khuất từ một cự ly xa như vậy? Vấn đề này, điều mà các nhà khoa học nghĩ rằng thần bí và khó giải thích, có thể được hiểu một cách đơn giản bởi giới tu luyện. Họ cho rằng ở bộ phận phía trước thể tùng quả (pineal body) của cơ thể người đã được trang bị kết cấu hoàn chỉnh của một con mắt người, và y học hiện đại gọi nó là một con mắt thoái hóa. Trên trán người, ở giữa hai lông mày hơi chếch lên trên một chút, có một đường thông kết nối với con mắt này, con mắt ở phía trước thể tùng quả. Nếu một người có thể nhìn trực tiếp bằng con mắt này thông qua đường thông thay vì nhìn bằng con mắt thịt, thì người ấy có thể có sẵn lực xuyên thấu, thậm chí nhìn được những sự vật mà mắt thường nhìn không thấy. Đây là điều mà giới tu luyện gọi là “thiên mục”, hay con mắt thứ ba. Rất có thể Pearce đã dùng thiên mục để nhìn những chiếc thẻ kia. Trong trường hợp này, sẽ không có gì là thần bí khi anh có thể có lực xuyên thấu như vậy.

Cơ thể phát sáng

Các nhà khoa học phát hiện ra rằng cơ thể người phát ra ánh sáng

Ánh sáng khỏe mạnh: Các nhà khoa học Nhật Bản đã khám phá ra rằng cơ thể người thực sự phát sáng (Ảnh: Photos.com)

Khi nghĩ về các loài sinh vật phát sáng, chỉ một vài ví dụ hiện lên trong óc chúng ta. Những ví dụ nổi tiếng hơn về các loài sinh vật có khả năng phát quang gồm có đom đóm và sứa biển, nhưng gần đây các nhà khoa học đã khám phá ra rằng cơ thể con người cũng phát ra ánh sáng.

Thông qua một cố gắng chung của các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu Công nghệ thuộc Đại học Kyoto, Nhật Bản, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra rằng con người thực sự là những sinh vật phát sáng … ở một mức độ nhất định.

Tất nhiên, ánh sáng mà con người phát ra không thật rực rỡ. Trên thực tế, ánh sáng mà cơ thể chúng ta phát ra nhỏ hơn một nghìn lần so với những gì đôi mắt của chúng ta có thể nhận thấy. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã khám phá ra rằng sự phát quang yếu này có thể được nắm bắt bằng thiết bị siêu nhạy được biết đến như một camera sử dụng thiết bị điện tích kép (CCD) có khả năng làm lạnh.

Chụp ảnh

Để nắm bắt được ánh sáng yếu ớt phát ra từ cơ thể người, đầu tiên các nhà khoa học hạ CCD xuống đến – 184 độ F và chụp ảnh một đối tượng hoàn toàn trong bóng tối. Ánh sáng này đo được ở mức một photon ánh sáng đơn lẻ.

Trong một căn phòng tối, 5 nam thanh niên ở độ tuổi trên dưới 20, để trần từ thắt lưng trở lên, đứng trước camera và cứ 3 tiếng một lần được ghi lại trong 20 phút từ 10 giờ sáng đến 10 giờ tối.

Các nhà nghiên cứu có thể nhận thấy ánh sáng phát ra từ ba đối tượng với bước sóng từ 500 đến 700 nm, bước sóng mà mắt người có thể nhận thấy được trong dãy quang phổ như các màu xanh lá cây hoặc đỏ.

Bất cứ ánh sáng nào, mặc dù yếu, cũng là một đặc tính thú vị của một loài sinh vật. Nhưng về mặt này con người có lẽ không đặc biệt như thế. Các nhà nghiên cứu giải thích rằng sự phát quang có mặt ở gần như tất cả các loài sinh vật sống.

Tuy nhiên, một nghiên cứu khác được thực hiện tại Viện Vật lý Sinh học Quốc tế ở Đức đã phát hiện ra rằng sự phát sáng tăng lên ở những đối tượng tập thiền. Qua việc quan sát những thay đổi sinh hóa theo một chu kỳ thiền định, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng việc tập thiền thực sự làm gia tăng sự phát ra photon ánh sáng ở con người.

Những khuôn mặt sáng

Sự phát sáng cực yếu này không có tương quan đáng kể nào với nhiệt độ. Thay vào đó, nó có liên hệ nhiều hơn đến một chuỗi các phản ứng hóa năng phức tạp trong quá trình trao đổi chất, trong đó chuyển hóa năng lượng thành các phân tử huỳnh quang fluorophore – những thành phần phân tử đảm nhiệm sự huỳnh quang.

Phụ thuộc vào số lượng phân tử huỳnh quang và điều kiện của chúng, sự huỳnh quang cũng khác nhau về cường độ và bước sóng. Điều đó giải thích tại sao các nhà nghiên cứu quan sát thấy sự phát sáng từ khuôn mặt mạnh hơn từ cơ thể. Khi toàn bộ cơ thể được phơi ra trước ánh sáng mặt trời, thì khuôn mặt là sáng nhất, và lượng phân tử huỳnh quang được tìm thấy trên khuôn mặt lớn hơn nhiều so với trên phần da còn lại của cơ thể.

Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng sự phát sáng này thay đổi trong suốt cả ngày, ánh sáng yếu nhất là vào lúc 10 giờ sáng và mạnh nhất vào lúc 4 giờ chiều. Họ tin rằng điều này có thể có liên hệ với nhịp sinh học hàng ngày của cơ thể người – đồng hồ nội bộ sinh hóa của chúng ta đảm nhiệm việc điều hòa một loạt các quá trình sinh lý học trên toàn cơ thể.

Theo nhà nghiên cứu Hitoshi Okamura, một nhà nghiê cứu sinh lý học sinh vật tại Đại học Kyoto, phát hiện này gợi ý với chúng ta rằng sự phát sáng có thể giúp phát hiện ra các chứng bệnh nhất định.

Tuyến quả thông, con mắt ở bên trong bộ não

Nằm sâu bên trong trung tâm bộ não, tuyến quả thông có một cấu trúc tương tự như đôi mắt hai bên của chúng ta. (Photos.com)

Hàng nghìn năm qua, tuyến quả thông đã được thừa nhận như một mối liên hệ của cơ thể người với những cảnh giới tư tưởng thâm sâu hơn – một cửa sổ nhìn vào các chiều không gian khác. Trong khi quan niệm này  dần phai nhạt đi theo thời gian, khoa học đã bắt đầu tập trung nỗ lực để hiểu về những chức năng bí mật của “con mắt ẩn” này.

Khi tôi còn trẻ, những cuộc nói chuyện với bố tôi bao gồm cả những điều có thể quan sát được một cách khoa học và những điều huyền bí. Một trong những chủ đề thú vị nhất mà tôi còn nhớ là hiện tượng trải nghiệm cận tử, trong đó các bệnh nhân thuật lại về những cuộc du ngoạn tạm thời ở bên ngoài cơ thể vật lý của họ trong khi có biểu hiện chết lâm sàng. Cha tôi thường nhấn mạnh rằng trong những năm học tập của ông tại trường Y, ông đã học được rằng, các cơ quan mà cho phép con người quan sát những cảnh tượng từ bên ngoài cơ thể của họ không tồn tại vượt ra khỏi đôi mắt vật lý.

20 năm sau khi tôi cũng ở trong hành lang của cùng trường đại học đó, một giáo sư giải phẫu đã tiết lộ một thực tế bí ẩn mà cha tôi đã không nói đến trong những cuộc thảo luận của chúng tôi. Ông đã nói về một bí mật ẩn chứa trong một mạng lưới các tế bào rất nhỏ và ẩn, nhưng vẫn có thể điều khiển được các quá trình trao đổi chất quan trọng sống còn. Đó là một con mắt ẩn.

Con mắt thứ ba

Hãy tưởng tượng một cơ quan thị giác có khả năng nhìn vào các không gian vượt ra ngoài thế giới vật chất của chúng ta. Sinh vật kỳ lạ nào sở hữu những khả năng kỳ lạ như thế? Con người. Thể tùng quả (tuyến quả thông), một thứ quý giá bé xíu nằm ẩn trong trung tâm của đầu não, không chỉ có khả năng nhận biết được ánh sáng bên ngoài giống như đôi mắt ở hai bên của chúng ta, mà cấu trúc thực sự của nó còn giống với con mắt thông thường ở một trạng thái nguyên thủy hơn.

Tuyến quả thông thực hiện một loạt các chức năng quan trọng của cơ thể, như sự phát triển giới tính, sự trao đổi chất, và sự sản xuất ra melatonin. Nhưng các nhà khoa học đã phát hiện ra các đặc điểm có trong tuyến quả thông mà vượt quá một sự giải thích đơn giản. Do cấu trúc độc nhất của cơ quan này, các nhà khoa học đã kết luận rằng nó hẳn là đã từng đảm nhận một số chức năng đang tiềm ẩn. Y học hiện đại đã khám phá ra rằng tuyến nằm sâu bên trong trung tâm bộ não này có chứa các tế bào tiếp nhận ánh sáng. Nhưng quan điểm chiếm ưu thế hơn cho rằng những đặc điểm này đơn giản chỉ miêu tả những khả năng tiềm ẩn từ một thời kỳ trước trong sự tiến hóa của chúng ta.

Theo hiểu biết theo thuyết tiến hóa của khoa học về thể tùng quả, cơ quan này đã từng tồn tại như một hệ thống dây thần kinh lộn xộn nằm ở bên ngoài bề mặt của hộp sọ. Nó chuyên tiếp nhận những thay đổi về ánh sáng, cung cấp cho chủ nhân của nó nhiều khả năng chạy trốn hơn trong trường hợp bị dã thú tấn công. Hiểu biết này nhìn nhận rằng tuyến quả thông thực hiện các chức năng giống như hai con mắt, khác biệt duy nhất nằm ở sự nhất quyết kỳ lạ của nó là rút vào bên trong hộp sọ.

Một giả thuyết gần đây được đề xuất bởi David Klein, trưởng bộ phận Nội tiết thần kinh tại Viện Sức khỏe Trẻ em và Phát triển Con người Quốc gia, đề xuất rằng các võng mạc nguyên thủy đã thực hiện chức năng kép bao gồm cả thu nhận hình ảnh và sản xuất melatonin. Ông tin rằng qua thời gian chức năng thứ hai này đã chuyển sang tuyến quả thông, một cơ quan được giải phóng, trong khi sự thoái hóa của võng mạc như một sản phẩm của melatonin trong các loài động vật có vú vẫn tiếp tục mà không có sự giải thích chặt chẽ.

Mặc dù ngày nay tuyến quả thông được thừa nhận là tốt cho việc tiết ra các chất nội sinh, nhưng chắc chắn rằng nó vẫn còn chứa đựng một khả năng cảm nhận ánh sáng quan trọng, một quá trình của cơ thể đã được khoa học công nhận.

Ngạc nhiên là, nếu như cả hai mắt được bỏ đi và đường giải phẫu từ khu vực phía trước của tuyến này được phơi ra ánh sáng, thì cơ quan này vẫn có thể đáp lại kích thích theo một cách tương tự như đôi mắt ở hai bên. Thực tế này đã khiến một số nhà nghiên cứu phải cân nhắc là liệu có phải tuyến quả thông không chỉ là một con mắt bị thoái hóa. Điều gì xảy ra nếu nhiều quá trình vẫn còn bị hiểu sai của bộ não cư ngụ ở trong hình nón nhỏ bé này?

Một cửa sổ tới nhận thức cao hơn

Theo Bác sĩ Sérgio Felipe de Oliveira, Thạc sỹ Khoa học tại Trường Y thuộc Đại học São Paulo và là giám đốc của Pineal Mind Clinic (tạm dịch là Bệnh viện thực hành Tâm trí Tùng quả), sự tăng lên trong hoạt động của tùng quả có liên quan mật thiết với hoạt động tinh thần như hiện tượng nằm mơ hoặc sự thiền định.

Hơn nữa, ngoài các chức năng nội tiết của tuyến quả thông (kiểm soát vùng não điều khiển thân nhiệt và cảm giác đói, khát; và nhịp sinh học, đồng thời bảo vệ cơ thể khỏi các gốc tự do), nó còn chịu trách nhiệm tiết raN,N-dimethyltryptamine (DMT), được một số người biết đến như “phân tử tinh thần” (spirit molecule). Sự giải phóng của phân tử này được coi là một trong những chất dẫn truyền thần kinh có khả năng gây ảo giác mạnh nhất mà con người biết đến. Nó tăng lên trong khi ngủ, trong các trạng thái thiền định nào đó, trong các trải nghiệm cận tử, cũng như khi ăn vào các loại thực vật có khả năng gây ảo giác.

Những người hoài nghi đặt câu hỏi về tính xác thực của các tình tiết được cho là nhận thức cao hơn về các tầng cấp không gian khác, thay vào đó họ muốn tin rằng những trải nghiệm như vậy chỉ là hiện tượng gây ra bởi các phản ứng hóa học giới hạn trong bộ não. Nhưng họ lúng túng khi đưa ra một giải thích hợp lý cho mối quan hệ của sự giải phóng DMT (và sự hình thành như một kết quả của các hình ảnh trong tuyến quả thông) với những trải nghiệm cận tử.

Một điều như thế đã được khám phá bởi Tiến sỹ Rick Strassman, người đã tiến hành những nghiên cứu thấu đáo về những hiệu ứng của DMT ở con người. Nghiên cứu loại này bắt đầu tiếp cận tuyến quả thông như một cửa sổ bẩm sinh nhìn vào các tầng cấp tồn tại khác, hơn là một con mắt thoái hóa có nhiệm vụ sản sinh ra các hoóc-môn.

Quan điểm về tuyến quả thông này không phải là mới. Nó tượng trưng cho luân xa thứ sáu được nói tới trong tín ngưỡng của thời kỳ Vedic, là cửa sổ của thần Brahma như được biết trong Ấn Độ giáo, là Thiên Mục như người Trung Quốc cổ đại vẫn gọi, là Nê Hoàn Cung mà các Đạo sĩ biết, hay là “Tòa ngự của linh hồn” (The seat of the soul) theo như Descartes. Liệu hình nón nhỏ bé nằm ẩn tại trung tâm bộ não này có chứa đựng trong mình tiềm năng để nhìn vào những thế giới mà khoa học đơn giản là không thể thấu hiểu được?

Bí ẩn của kinh mạch

Tác giả: Nhóm Nghiên cứu Trung Quốc

Những đường kinh mạch này được mô tả một cách khoa học. (Photos.com)

Học thuyết kinh mạch là một bí ẩn đối với khoa học. Trung Y đã khám phá ra kinh mạch như thế nào? Chức năng của các kinh mạch là gì? Những nghiên cứu gần đầy về kinh mạch cho chúng ta biết những gì?

Học thuyết kinh mạch có một lịch sử lâu đời và đã được phát triển liên tục cùng với sự thực hành của y học cổ truyền Trung Quốc. Gần 2.000 năm trước, cuốn sách Hoàng Đế Nội Kinh đã ghi lại một cách hệ thống vị trí của các kinh mạch.

Trung Y tin rằng các kinh mạch là những đường dẫn khí của cơ thể. Các kinh mạch gắn liền với nội tạng và trải rộng khắp trong cơ thể.

Hệ thống kinh mạch đóng một vai trò quan trọng trong sinh lý học, bệnh lý học, và phòng ngừa bệnh. Các chuyên gia Trung Y cổ đại tin rằng sự sống là một phần của vũ trụ, và một mối quan hệ hài hòa cần được duy trì giữa Trời và vạn vật trên Trái đất.

Quan điểm này đã chỉ đạo cho Trung Y và có liên hệ mật thiết với vật lý học, thiên văn học, địa lý học, và triết học. Y học hiện đại không thể hiểu được các kinh lạc.

Nhiều người tỏ ra hoài nghi về sự tồn tại của khí và các kinh mạch. Trên thực tế, tất cả mọi người đều có kinh mạch, và mặc dù chúng không thể được nhìn hoặc sờ thấy. Tuy nhiên, dưới những hoàn cảnh nhất định, chúng có thể được cảm thấy. Các nhà khoa học Trung Quốc đã phát hiện ra rằng khoảng 1% số người là có kinh mạch nhạy cảm.

Các nhà khoa học Trung Quốc đã thử nghiệm tính khách quan của hệ thống kinh mạch bằng các thí nghiệm khoa học. Một nhà khoa học từ Học viện Khoa học Trung Quốc đã sáng chế ra một thiết bị có độ nhạy cao và phát hiện ra rằng các kinh mạch tồn tại dưới dạng các đường phát quang. Chúng tỏa sáng gấp 2,5 lần so với các photon ánh sáng và các điểm không có kinh mạch trên cơ thể.

Các kinh mạch là các điểm, thường tạo nên các đường trên cơ thể con người tại những nơi có điện trở thấp hơn các vùng xung quanh. Khi tiêm một nguyên tố vi lượng vào một kinh mạch, nguyên tố vi lượng đó sẽ di chuyển qua các kinh mạch vào trong cơ thể rồi sau đó khuyếch tán ra.

Giáo sư Li Dingzhong, một nhà khoa học da liễu nổi tiếng và là một chuyên gia về kinh mạch, đã quan sát 305 trường hợp bệnh ngoài da có thương tổn xuất hiện dọc theo các đường kinh mạch. Khám phá này đã gây nên một cú sốc lớn trong giới y học quốc tế. Cuốn sách “Hiện tượng Kinh mạch” của ông đã được xuất bản ở Nhật Bản.

Nghiên cứu về kinh mạch vẫn là một nghiên cứu dựa trên hiện tượng, và nó còn xa mới có thể cho thấy rõ ràng về khí và các kinh mạch. Nó còn xa mới có thể tiết lộ những bí ẩn về kinh mạch.

Một khi những bí ẩn này được làm sáng tỏ, một cuộc cách mạng khoa học mới chắc chắn sẽ xảy ra.

Hãy thêm thiền định vào chế độ điều trị chống lão hóa của bạn

“Thiền định không những giúp làm chậm quá trình lão hóa, mà còn mang lại sự an lạc nội tâm, giảm nguy cơ mắc bệnh, và thậm chí có thể tăng tuổi thọ. (Cat Rooney/Thời báo Đại Kỷ Nguyên)”

Thiền định là món quà giá trị nhất cho sức khỏe bởi vì nó mang lại nhiều lợi ích nhất cho cuộc sống của bạn. Hai mươi phút thiền quán (mindfulness meditation) mỗi ngày sẽ mang lại sự an lạc nội tâm, giảm các nguy cơ mắc bệnh, và thậm chí có thể kéo dài tuổi thọ. Nghiên cứu cho thấy bằng chứng đầy hứa hẹn rằng việc thiền định có thể làm giảm quá trình lão hóa tại mức tế bào, và kéo dài đời sống của bạn.

Nguồn gốc của môn thiền quán xuất phát từ phương Đông và đã bắt rễ sâu vào đời sống tâm linh. Trong lịch sử, các môn đồ Phật giáo dùng thiền định như là một quá trình hợp nhất những lời giáo huấn tinh thần nhằm giác ngộ được mục tiêu của cuộc đời và đạt được sự giải thoát tinh thần tối hậu. Môn thiền quán đã được truyền nhập vào phương Tây chủ yếu như là những kỹ thuật giải tỏa những nỗi bất an của thân và tâm.

Bất chấp việc chuyển sang trần tục, môn luyện tập sự tỉnh giác cao độ, hoặc khả năng tập trung tinh thần tại mọi thời điểm, vẫn có thể làm trì hoãn quá trình lão hóa, theo một công bố trong tạp chí Biên niên sử của Học viện Khoa học New York xuất bản năm ngoái.

Khả năng thúc đẩy những cảm xúc tích cực của thiền định và hiệu quả của nó trong việc điều trị chứng căng thẳng và stress đã được lưu trữ trong tài liệu y khoa từ thập niên 1970. Việc giảm các mức độ stress kết hợp với thiền định sẽ làm chậm sự lão hóa và chết của tế bào.

Những tế bào trong cơ thể chúng ta có chứa những khúc đuôi rất nhỏ, là phần bảo vệ tại đầu cuối của chuỗiDNA. Mỗi lần tế bào phân chia, khúc đuôi này sẽ bị ngắn đi nhằm bảo vệ DNA khỏi bị tổn thương. Các nhà khoa học khắp nơi hiện nay đã đồng ý rằng chiều dài của những khúc đuôi là dấu hiệu cho tuổi của tế bào—khúc đuôi càng ngắn, thì tế bào và toàn bộ cơ quan càng già và mệt mỏi.

Dưới sức ép hoặc trong tình trạng căng thẳng, cơ thể của chúng ta sẽ tiết ra nhiều hoóc-môn kích hoạt stresshơn, ví dụ như là cortisol và catecholamies. Phần gai nhọn của những hoóc-môn này được nối với những khúc đuôi đã bị cắt ngắn, biểu hiện sự lão hóa vật chất.

Những kết quả từ các công cụ chụp ảnh thần kinh và các phòng thí nghiệm hóa sinh đã xác nhận rằng những thay đổi trong hoạt động của não gây bởi thiền định cũng có thể làm giảm lượng hoóc-môn gây stress này. Người ta nghĩ rằng điều này có thể làm các khúc đuôi ít bị cắt hơn và về cơ bản là làm tăng đời sống của tế bào.

Những cơ chế chính xác của hoạt động này hiện tại vẫn chưa được định hình; các nhà nghiên cứu vẫn đang thăm dò lĩnh vực sinh học của khúc đuôi tế bào này.

Thân thể bất hoại của các tu sĩ phương Tây

Tác giả: Tong Yun

Thi hài của Thánh Bernadette ở thành phố Lourdes, được phủ sáp trên gương mặt và bàn tay. Nhà thờ Thiên Chúa giáo đã phát hiện ra rằng thân thể của bà vẫn không bị hủy hoại sau khi bà qua đời. (Ảnh: Wikimedia Commons)

[Chanhkien.org] Nhiều người có thể đã nghe qua các câu chuyện về thân thể bất hoại trong giới tu luyện ở Trung Quốc. Chẳng hạn như, có thân thể trần thế của một vị thần tại núi Cửu Hoa, thân thể của Từ Minh hòa thượng tại chùa Địa Tạng, và nhiều trường hợp khác nữa. Tuy vậy, hiện tượng này không chỉ xảy ra ở Trung Quốc; nó cũng tồn tại trong thế giới phương Tây.

Vị Thánh Thiên Chúa giáo Bernadette Brown từ trần năm 1879. Vào năm 1909, thi hài của bà được đào lên để chôn cất lại tại nơi khác. Hai bác sĩ đã chứng kiến cảnh khai quật. Họ nhìn thấy thi hài vẫn còn trong trạng thái rất tốt. Cách duy nhất mà một nữ tu đã chứng kiến việc chôn cất 30 năm về trước có thể nói sau nhiều năm trôi qua là nhờ vào chiếc quan tài tốt.

Vào tháng 3 năm 2001, thi hài của đức Giáo hoàng John XXIII đã được đào lên vì đức Giáo hoàng tại vị đã quyết định rằng vị Giáo hoàng tiền nhiệm của ông cần một nơi an nghỉ mới để có đủ chỗ cho rất đông người tới viếng mộ của ngài tại khu hầm mộ của Nhà thờ Thánh Peter (St. Peter’s Basilica) ở Rome. Thật đáng kinh ngạc là, mặc dù đức Giáo hoàng John XXIII đã qua đời từ 37 năm về trước, thân thể của ngài vẫn còn trong tình trạng rất tốt.

Đã có nhiều ví dụ trong lịch sử về việc thi thể được đào lên rồi đem chôn lại. Người ta không thể phủ định việc các tài liệu xác nhận rằng có nhiều thân thể bất hoại. Có nhiều ghi chép về những người đã được phong thánh vào thời Trung cổ tại Anh, thi hài của họ không bị mục nát bất chấp nhiệt độ và sự ẩm ướt, trong đó bao gồm Thánh Cuthbert, Werburgh, Waltheof, và Guthlac.

Gần đây cũng có rất nhiều ví dụ. Bà Joan Carroll Cruz, tác giả và cũng là người ở cấp bậc 3 trong Thứ bậc Trần tục của dòng Tu kín (Secular Order of Discalced Carmelites), đã ghi lại chi tiết nhiều trường hợp thân thể bất hoại trong cuốn sách của bà “The Incorruptibles” (Các thân thể bất hoại), được xuất bản năm 1997. Những trường hợp đó bao gồm Thánh Teresa vùng Avila, mà thân thể của bà không hề phân hủy mặc dù bị chôn trong vùng bùn lầy ẩm ướt.

Có thể có người nghĩ rằng sự thật về những ghi chép này khó mà kiểm chứng được. Trên thực tế, hồ sơ ghi chép các sự kiện này là rất đầy đủ và được bảo quản kỹ càng. Nhiều thân thể vẫn còn có thể thấy được ngày nay. Hơn nữa, nhiều nhân viên và người thân đã chứng kiến tận mắt các cuộc khai quật. Loại sự kiện như thế này đã xảy ra trong suốt lịch sử của Cơ Đốc giáo.

Tại sao thân thể của nhiều tu sĩ trong Phật giáo và Cơ Đốc giáo không bị hủy hoại sau khi họ từ trần? Hiện tượng này làm cho khoa học hiện đại đau đầu, nhưng nó lại xảy ra thường xuyên trong giới tu luyện. Theo sự hiểu biết thông thường [trong giới tu luyện], thì khi người tu luyện tinh thần thanh lọc tư tưởng, đề cao đạo đức, và trở về bản tính nguyên thủy của họ, thì thân thể vật chất của họ cũng sẽ chuyển hóa theo.

Thể nghiệm cận-tử tại Trung Quốc — điều tra sau động đất tại Đường Sơn

Trận động đất năm 1976 tại Đường Sơn, Trung Quốc (Ảnh từ Earthquake.usgs.gov)

Ngày 28 tháng 7, 1976, trận động đất khổng lồ tại Đường Sơn đã khiến hơn 240 nghìn người bị chết và 160 nghìn người bị thương nặng. Những y tế gia tại Trung quốc đã mở một cuộc điều tra với những người sống sót, phần đông họ bị chôn vùi dưới đá gạch của các tòa nhà bị sập.

Theo những tài liệu ghi chép của họ, hơn phân nửa những người sống sót nói lại rằng trong thời gian họ bị nguy hiểm, thì không những họ không sợ, mà trái lại đầu óc họ rất sáng suốt, bình tĩnh và thoải mái. Trong tình trạng nguy hiểm như vậy, họ không bị hoảng hốt, có người còn có cảm giác hạnh phúc và những tư tưởng chạy qua rất nhanh trong trí của họ. Nhiều tư tưởng khác nhau xuất hiện. Lúc bấy giờ, những điều đã xảy ra trong đời sống của họ trước đây tiếp tục chớp nhoáng như chớp bóng và các hình ảnh phần nhiều là vui vẻ. Ký ức những điều như là những phút giây vui sướng trong thời thơ ấu, lễ cưới, và những thành công và thắng lợi trong công việc làm. Hiện tượng này được gọi là ‘nhớ lại cuộc đời’ hoặc ‘hồi ức toàn ảnh’.

Điều ngạc nhiên hơn nữa là gần phân nữa người trong họ có cảm giác và hiểu biết rằng ý thức của họ hoặc là linh hồn của họ đã rời cơ thể của họ. Có người cho đó như là ‘linh hồn thoát xác’. Họ nhấn mạnh là họ đã cảm giác các công năng của họ nằm nơi một không gian khác bên ngoài cơ thể của họ, và không ở bên trong đầu óc của họ. Họ nghĩ rằng cơ thể da thịt của họ không có những năng khiếu đó cũng như không có năng khiếu suy nghĩ.

Một phần ba người có cái cảm giác lạ thường là đang ở bên trong một cái ống hoặc là đi xuyên qua một đường hầm. Đôi lúc, nó đi đôi với những tiếng động lớn và cái cảm giác bị kéo và ép lại. Họ gọi nó là ‘kinh nghiệm đường hầm’. Có người có cảm giác đi đến cuối đường hầm; họ nhìn thấy ánh sáng và cảm giác là ‘ánh sáng không lâu sẽ đến’.

Gần một phần tư những người được nghiện cứu đó kinh nghiệm gặp được những người-không-có-cơ-thể (incorporeal beings), hoặc là ma (ghosts). Phần đông những con người không có chất liệu đó (unsubstantial beings) là những thân nhân đã quá cố của họ. Giống như họ đều cùng đi đến một thế giới khác và tiếp tục sống nơi đó. Hoặc là, họ nhìn thấy những bạn bè còn sống, hoặc cả những người lạ mặt. Giống như một sự họp mặt (a reunion). Những gương diện ‘giống ma’ đó thường được diễn tả như bao trùm trong một thứ hình thức ‘ánh sáng’. Có người nhìn thấy họ như là đã được ‘thay hình’ theo những quan niệm trong tôn giáo.

Từ những người sống sót sau trận động đất tại Đường Sơn, các nghiên cứu gia đã thực hiện được trên 81 cuộc phỏng vấn hữu ích. Họ xếp những kinh nghiệm thành 40 loại: sự nhớ lại cuộc đời, sự tách rời ý thức và cơ thể, cảm giác không còn sức nặng, cảm giác xa lạ với chính cơ thể của họ, cảm giác khác thường, cảm giác rời đi khỏi thế giới (này), cảm giác cơ thể mình được hợp nhất với vũ trụ, cảm giác sự vô tồn của thời gian, và nhiều thứ nữa. Phần đông những người đó kinh nghiệm qua hai hoặc ba cảm giác đồng thời.

Dù cuộc nghiên cứu những người sống sót sau trận động đất ghê gớm ở Đường Sơn đưa ra chỉ có 81 trường hợp dùng được của những người kinh nghiệm qua những kinh nghiệm cận-tử, nó là có các dữ kiện được thâu thập nhiều nhất đối với tất cả những cuộc nghiên cứu cận-tử trên thế giới. Sau khi họ ‘trở về từ cõi chết’, phần đông những người này còn nhớ rõ ràng những kinh nghiệm cận-tử của họ cả 10 hoặc 20 năm sau. Những kết quả của cuộc nghiên cứu từ Trung quốc rất giống một cách lạ thường với những cuộc nghiên cứu của những học giả khác trên các quốc gia khác khắp thế giới.

Tài liệu: «Y học đại chúng» số 5 (1993), trang 34-35, Nhà in Khoa học và Kỹ thuật Thượng Hải.

Kiểm tra máu học viên Pháp Luân Đại Pháp khiến các chuyên gia kinh ngạc

[Chanhkien.org] Tại thành phố Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, có một học viên Pháp Luân Đại Pháp bắt đầu tập luyện từ năm 1996. Gần đây, đơn vị công các của ông tổ chức khám sức khỏe cho nhân viên. Một dụng cụ đa chức năng MDI đã được sử dụng. Kết quả xét nghiệm máu của học viên Pháp Luân Đại Pháp này đã làm kinh ngạc rất nhiều người, nó chứng thực rằng Pháp Luân Đại Pháp thật sự thuyết phục được những người trong giới y học.

Dụng cụ đa chức năng MDI được phát minh bởi một nhà khoa học người Mỹ, Tiến sĩ Bradford. Nó có thể phóng đại 1 mô tế bào từ 40 đến 20.000 lần trên màn hình máy tính. Nó được dùng để kiểm tra 1 giọt máu. Kết hợp với lý thuyết ECIWO (Embryo Containing the Information of the Whole Organism – Phôi chứa đủ các thông tin của toàn cơ thể) và gốc ôxy tự do, thiết bị này chủ yếu dùng để chẩn đoán, ngăn ngừa và điều trị các căn bệnh ung thư giai đoạn đầu, giai đoạn giữa và giai đoạn cuối. Nó cũng đóng vai trò chủ đạo trong chẩn đoán não và rối loạn tim mạch cũng như các bệnh về máu.

Các tế bào máu của người học viên Pháp Luân Đại Pháp được phân bố đều trên mặt kính hiển vi. Những tế bào này rất linh lợi và mọi tế bào này có thể chuyển động nhanh chóng. Không có chất cặn giữa các tế bào máu, và cũng không có tế bào nào bất thường. Kỳ diệu hơn, mọi tế bào đều được bao quanh bởi một vầng hào quang với các màu tím, xanh, vàng và trắng. Nhìn trên màn hình máy tính, chúng trong như pha lê và trông rất đẹp. Gốc tế bào cũng được phân bố đều và không có cặn.

Tế bào máu của những người khác thì phân bố không đều trên mặt kính, chúng không linh động lắm và các vết đen, cặn bẩn và quầng đen có thể nhìn thấy ở mọi nơi trong phạm vi của kính hiển vi. Mỗi tế bào máu đều bị bao quanh bởi các vầng màu đen. Phép kiểm tra các gốc tế bào cho thấy chúng còn ảm đạm hơn.

Các nhà khoa học đã choáng váng với kết quả trên. Trong khi đưa ra những kết quả, các nhà khoa học bình luận rằng mặc dù họ đã kiểm tra sức khoẻ của rất nhiều người khỏe mạnh, nhưng họ chưa bao giờ chứng kiến kết quả nào kỳ lạ như vậy. Hơn nữa, người học viên này đã trên 50 tuổi, sẽ sớm trở thành một lão niên.

Các khoa học gia khám phá rằng tha thứ là tốt nhất

Tác giả: Chu Chính

[Chanhkien.org] Khi người khác ngược đãi bạn, bạn sẽ bỏ qua hay bạn tìm cách trả đũa? Những nghiên cứu mới đây của đại học Harvard khám phá rằng trả đũa không những không đem lại lợi lộc gì cho người đó, mà còn gây không tốt cho toàn nhóm hay đội, mà thật ra nó có nghĩa rằng tha thứ là tốt nhất.

Martin Nowak là một trưởng nhóm nghiên cứu. Bản báo cáo đăng trên tạp chí Tự Nhiên vào ngày 20 tháng 3, 2008. Lần thí nghiệm này đặt nặng vấn đề liên quan giữa quyền lợi của cá nhân và tập thể cũng như sự phản ảnh giữa từng cá nhân. Bản báo cáo kết luận rằng một người bị thiệt hại ít nhiều về quyền lợi để trả đũa hay trừng phạt người khác, mà đã gây ra thiệt hại cho anh ta.

David Rand là cùng nghiên cứu trong lần thí nghiệm này. Anh ta nói rằng khi một người trả thù người khác, thì những phản ứng không tốt sẽ tiếp tục, vì thế nó có hại cho mọi người. Thật ra, một người thành công, khôn ngoan không bao giờ làm vậy.

Nowak nói rằng sự khám phá này nói cho chúng ta rằng những người thành công là những người không nóng nảy trong suốt các cuộc xung đột. Ngược lại, những người trả thù không giúp ích gì cho họ và cho người khác.

Văn hoá truyền thống Trung Hoa xem việc tha thứ là đức độ. Từ triều đại nhà Ngô cho đến nhà Lương, hay Lincoln tại tây phương, họ đều là những người thành thật với người khác và không suy nghĩ gì đến cảm giác thù ghét hay biết ơn. Vì thế, họ có nhiều nhân vật lừng danh chung quanh họ và họ sẳn sàng nghe nhận lời khuyên tốt từ những người này. 

Từ một khía cạnh khác, chúng ta có thể thấy rằng Thần cho mọi người một cơ hội và quan sát chúng ta sống như thế nào. Khi chúng ta đối đãi không tốt với người khác, nó sẽ đem lại sự không tốt cho xã hội. Nếu mọi người cùng làm vậy thì kết quả như thế nào? Ngược lại, nếu chúng ta chỉ cười xoà bỏ qua hay không thèm nghĩ đến, những người khác sẽ khâm phục sự cởi mở và sẽ cảm động vì điều đó. Có phải xã hội sẽ tốt đẹp hơn không?

Ðiều tốt lành nhất và đức độ nhất trong đời một người không thay đổi vì những gì người khác làm cho bạn. Tuy nhiên, một tâm trí và tính chất thật của một người phản ảnh khi người đó phản ứng về những việc này. Vì thế số phận con người không phải là do người khác, mà là do chính người đó. 

Trong Chân, Thiện, Nhẫn, một số người nói rằng chân và thiện là dễ làm, nhưng nhẫn là khó nhất. Tại sao chúng ta cần phải nhẫn nhục? Tôi hy vọng con người sẽ tìm thấy nhiều điều hay từ sự khám phá này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com