Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Những điều hơi khác giữa đông y khí công và đông y cổ truyền

Những điều hơi khác giữa đông y khí công và đông y cổ truyền

Thận âm thận dương :


Đông y cổ truyền cho rằng Thận dương ở người Nam bên trái, của người Nữ bên phải, vì bên to bên nhỏ. Nhưng thận dương lại còn chỉ chức năng làm việc của qủa thận.

Nếu đem lý thuyết này mà giảng dạy cho những người học tây y, họ đặt câu hỏi rằng : Như vậy, Tôi đã mổ của họ mất một thận dương rồi thì chức năng hoạt động của thận không còn nữa à ? Đông y sẽ không trả lời được.
Vì thế, giải thích của đông y khí công là : Thận dương nhờ hỏa khí của Tâm dẫn xuống Mệnh môn là huyệt chuyển hóa hai chiều, đưa hỏa khí vào thận để giúp 2 qủa thận là thận âm chuyển hóa khí ra Mệnh môn dẫn khí qua 2 huyệt Tam tiêu chuyển hoá vinh vệ khí đi nuôi khắp cơ thể, vì thế qủa thận là thận âm. chức năng chuyển hóa là thận dương, cắt 1 thận cũng vẫn còn thận duơng thận âm.

Kinh mạch có 2 đường song song, nhưng mỗi bên có ý nghĩa khác nhau :


Có những người học tây y rồi học châm cứu thắc mắc đặt câu hỏi :

1-Tôi bị bệnh đau bao tử.

Khi tôi đi thử nghiệm tây y, bao tử không có vân đề, nhưng bấm vào huyệt Lệ đoài bên trái đau, mà tại sao huyệt bên phải không đau ? Thầy châm cứu kinh nghiệm cũng không giải thích được . Lý do, khi bệnh nhân khai đau bao tử, bắt mạch, rồi châm cứu bằng kim để điều chỉnh lại sự khí hóa là xong, có bao giờ bấm vào huyệt để biết tại sao có chuyện lạ, đáng lẽ cùng đường kinh thì phải đau cả 2 bên chứ.

Mỗi kinh có 2 đuờng song song mà cổ nhân tìm ra, nếu chỉ biết châm cứu đơn thuần, thì phải châm cả hai bên, như vậy lại sai với những bệnh mà cổ nhân dạy huyệt này châm bên trái, huyệt kia châm bên phải, huyệt này châm trước, huyệt kia châm sau. Chưa có ai thắc mắc tại sao chỉ châm trái, tại sao chỉ châm phải, càng châm ít kim càng chính xác và có kết qủa cao hơn châm nhiều kim cả 2 bên của một đường kinh.

Vì phải tiếp xúc với nhiều người tây phương học châm cứu, họ có nhiều thắc mắc mà tài liệu không giải thích nên Phương pháp đông y khí công đã giải thích được một bên đường kinh thuộc chức năng, một bên thuộc cơ sở.

Trở lại thí dụ trên huyệt Lệ đoài bên trái đau, mà bên phải không đau, có nghĩa là chức năng hoạt động của bao tử bị bệnh, nên đầy tức, căng cứng, ợ hơi, nhưng chưa làm tổn thương cơ sở, nên huyệt bên trái thuộc cơ sở không đau. Ngược lại cơ sở bị tổn thương, như tiết nhìều acid hay loét nhẹ mà bệnh nhân không biết, ăn vẫn ngon vẫn tiêu hóa tốt, chỉ hơi cảm thấy đau ít sau khi ăn rồi thôi. Lúc đó huyệt Lệ đoài bên trái đau, bên phải không đau . Khi bệnh trở nặng đi khám mới biết loét bao tử lúc đó cả 2 huyệt Lệ đoài đều đau.

2-Tôi đã hút nhiều thuốc lá, tôi bị ho suyễn. Thầy thuốc đông y khám cho biết Phế hư, nhưng tôi đi chụp hình phổi tốt. Sau bệnh của tôi càng ngày càng nặng, thầy đông y khám cho biết lần này Phế hư nặng hơn lần trước, tôi lại đi chụp hình vẫn tốt. Xin Thầy đông y giải thích tại sao có sự khác biệt giữa đông tây y ? Đông y cũng không giải thích được.

Đông y Khí công giải thích, Phế hư do chức năng, kiểm soát bằng huyệt chức năng là những huyệt phế trên kinh dương Bàng quang là Phế du, bấm vào thấy đau, bên trái đau là phổi bên trái bệnh, bên phải đau là phổi bên phải bệnh, cả 2 bên bị đau là cả hai phổi bị bệnh. Nếu khám lần thứ hai, Thầy đông y nói bệnh nặng hơn, nhưng cũng không giải thích được cho bệnh nhân hiểu, thì đông y khí công giải thích bằng huyệt.



Bấm vào 2 huyệt Phế du đau, thêm 2 huyệt Hộ Phách cũng bị đau mà lần trước bấm không có cảm giác đau, đó là những huyệt chức năng, thử xem sắp tổn thương cơ sở , tức là sắp nám phổi có tỳ vết chưa, bấm vào các huyệt Phế âm là Vân môn, Trung phủ, bên nào đau nhiều là phổi bên đó sẽ bị nám, gọi là tổn thương thực thể.



Khi bệnh nhân ho có đàm lẫn máu, sốt về chiều thì có nhiều những huyệt khác bấm vào bị đau như Phế du, Hộ phách, Cao hoang, Vân môn, Trung phủ, và mẹ của Phế cũng hư, khi bấm vào Trung quản rất đau.

Chưa ai nghiên cứu tường tận sự kỳ diệu của huyệt để áp dụng trong việc khám bệnh bằng huyệt để tìm ra chức năng hay cơ sở hư hay thực, để khi chữa bệnh không lạm dụng nhiều huyệt, mà chỉ cần ít huyệt chính xác, và đa số bỏ qua quy luật dương bệnh lấy âm chữa, được đông y khí công giải thích cơ sở bệnh dùng chức năng chữa, chức năng bệnh dung cơ sở chữa, vì thế chỉ cần dùng ít huyệt. Sau đó bấm thử lại các huyệt đã bị đau khi khám bây giờ còn đau không, nếu chữa đúng những huyệt ấy sẽ hết đau là bệnh đã bớt hay khỏi hẳn. Sau đó phải duy trì các bài tập khí công cũng có lồng ngũ hành trong đó để mình tự chữa và phòng bệnh. Cách chữa này các bệnh nhân người ngoại quốc gọi là phép lạ của đông y khí công.

3-Đông y- khí công chú trọng đến sự chuyển hóa của Tam tiêu :
Đông y và châm cứu thuần túy ít áp dụng kinh Tam tiêu, có vẻ cho là thừa không cần thiết trên thực hành, chỉ cần thiết trên lý thuyết để giải thích quy luật khí hóa ngũ hành. Cho nên không thấy giá trị của từng huyệt mà công dụng tưởng như khác với sách vở kinh điển.

Huyệt Công tôn-Trung cực chữa bệnh mất hồng cầu trong bệnh ung thư máu:
Trong đông y châm cứu không có huyệt nào làm tăng hồng cầu để chữa bệnh Ung thư máu mất hồng cầu. Nhưng thật ra Huyệt Công Tôn bên phải vừa là chức năng của Tỳ, vừa là Xung Mạch thông lên tim đưa hỏa khí xuống Mệnh môn, cùng với huyệt Trung Cực là dũng thần phò tá Công tôn, huyệt này thuộc Nhâm mạch nhờ Tam tiêu thu rút các âm chất ( tinh) chuyển hóa ra dương đưa sang Mệnh môn vào cột sống hóa tủy sinh huyết bản tạo ra hồng cầu.( khí hóa tinh, tinh hoá tủy). Nếu chỉ nói Công tôn và Trung cực sinh hồng cầu, thầy đông y và châm cứu bán tín bán nghi không giải thích được, nên không dám áp dụng.
Tôi đã dùng cách này và hướng dẫn bệnh nhân Ung thư máu tập khí công mà khỏi bệnh. Tôi cũng đã email cho Mẹ của cháu Michell đang bị ung thư máu tập khí công tự chữa bệnh nhưng Mẹ cháu Michell đã từ chốI cách này, để mở chiến dịch tìm người hiến tủy, lập ra ngân hàng tủy cũng là một cơ hội tốt giúp đỡ cho nhiều bệnh khác sau này.

Huyệt tăng cường oxy :
Cũng vì công năng của sự khí hóa Tam tiêu , mà đông y khí công đã thử nghiệm và tìm ra được những huyệt dùng trong cấp cứu có hiệu quả thực tế trên lâm sàng mà không có sách vở đông y châm cứu nói đến.



Thật ra nó không mới lạ, vì môn bấm huyệt không thịnh hành nên không thấy cái hay của lý thuyết đông y kinh mạch. Tại sao môn bấm huyệt không thịnh hành ? Lý do người bấm huyệt bị hao tổn khí lực nên thời gian hành nghề không thể tồn tại lâu, nếu không nghỉ hành nghề, chính ông thầy sẽ mất sức mà bị bệnh.Cho nên môn bấm huyệt đã mai một.

Vì thế muốn phát triển môn Đông y khí công day bấm huyệt, người thầy phải biết cách luyện khí bảo vệ sức khỏe cho mình trước, trước khi chữa bệnh cho người khác thì khi bấm huyệt cho bệnh nhân, chính là truyền năng lượng của mình khai thông những huyệt đạo bế tắc của bệnh nhân, nhờ hệ thống tam tiêu dẫn khí đi khắp cơ thể bệnh nhân. Chỉ qua một huyệt như thế để truyền khí cho khỏi bệnh, người xưa cũng đã thường làm và môn này được gọi là Nhất điểm thông kinh mạch, đã có từ thời Thầy Biển Thước, thịnh hành vào thời Thầy Vương thúc Hòa bên Trung Hoa. Tại sao người xưa đã làm được mà bây giờ không làm được ? Vì bây giờ chỉ bắt chước bấm huyệt mà không luyện tập khí công, nên không thể truyền lực qua huyệt được.

Khi vào bệnh viện cấp cứu những bệnh nhân hôn mê (coma), những huyệt thường dùng sau đây có kết qủa không ngờ mà chưa có sách đông y châm cứu nào nói đến:

Tăng cường oxy cho não : day Nhân trung
Tăng cường oxy cho tim : day Hạ Quan
Tăng cường oxy cho Phổi : Bấm đè Trung quản
Tăng cường oxy cho Thận : Bấm đè Khí Hải
Hạ đàm trong phổi : day Vân môn, Trung phủ
Bụng trướng đầy hơi : Tả Túc tam lý
Thông máu tắc trên não : huyệt Chí âm.

Châm kim ở 2 huyệt Chí âm rồi nặn máu đến bao giờ ra được máu đỏ thì mới khỏi. Sau đó những máu bầm bị tắc từ não sẽ có lối thoát trào ra mũi, miệng, đường tiểu, nước tiểu sẽ có mầu đỏ nâu, không phải là bàng quang bị nhiễm trùng hay tiểu trường bị xuất huyết.

Huyệt làm mở mắt khi bị hôn mê : Vuốt huyệt Tam âm giao.
Vuốt từ dưới huyệt đi qua huyệt lên trên huyệt, vuốt 18 lần. Mới hôm qua tôi đã chỉ dẫn một người bạn có ông chú 80 tuổi bị stroke hôn mê 1 tuần trong phòng cấp cứu của một BV ở California áp dụng các huyệt trên. Sau đó ông tỉnh và mở mắt nói chuyện được, một ngày sau ông ngồi xe lăn được để đi về Viện trông nam người già.

Nếu theo đúng lý thuyết đông y thuần túy mà không qua kinh nghiệm lâm sàng thì trên thực tế môn học đông y sẽ không tồn tại được với tây y để dung hòa thành một nền y học siêu việt chung trên qủa địa cầu này.

Đỗ Đức Ngọc

Cụ Lang D.D.Ngọc kính,
Càng đọc những tài liệu của Cụ càng thú vị!
Bây giờ tôi mới vỡ lẻ về chuyện Thận Dương /Thận Âm, kinh mạch song song mà lại có công năng khác nhau,...


Cảm ơn những soi sáng của Cụ và chúc Cụ cùng gia quyến mọi sự an lành.
NDT (YRX)

Khám bệnh bằng Mạch lý đông y-Thí dụ Mạch Huyền

Khám bệnh bằng Mạch lý đông y –Thí dụ một Mạch Huyền.

Một cách khám bệnh hoàn chỉnh theo tây y là chúng ta phải có một bảng kết qủa thử nghiệm các thành phần máu, phân, nước tiểu, chụp hình tim, phổi, điện tâm đồ, điện não đồ, scan óc, gan, bao tử, lá mía, thận, bàng quang, ruột, các chất điện giải…

đầy đủ tất cả mọi cơ quan trong cơ thể để có những thông số, những biểu đồ bệnh lý của nhiều khoa chuyên ngành từ nhiều phòng thí nghiệm khác nhau, tập trung về cho bác sĩ tìm bệnh và định bệnh . Nhưng trên thực tế không làm được, vừa mất thời giờ, vừa lãng phí tiền bạc, vừa phải mất nhiều bác sĩ chuyên môn chẩn đoán bệnh chứ không thể một bác sĩ mà biết hết được những kết qủa thử nghiệm ấy .

Nhưng may mắn thay, kinh nghiện đông y đã để lại một phương pháp khám bệnh bằng Mạch , một môn khoa học cổ đông phương đã trở thành nguyên lý bất biến đúng với mọi thời đaị, với mọi loại bệnh tật từ dễ đến nan y, mà ngày nay dù khoa học có tiến bộ bao nhiêu cũng không thể khoa học hóa bằng máy móc để sáng chế ra máy đo mạch đúng theo tiêu chuẩn Mạch bệnh của đông y được.

Trời sinh ra con người cũng rất tinh vi, mọi bệnh tật ở bất cứ thời đại nào cũng không ngoài sự xáo trộn mất quân bình âm dương, khí, huyết để làm ra bệnh thực, bệnh hư của lục phủ ngũ tạng để sinh ra hàn, nhiệt, sinh ra bệnh nhẹ là biểu chứng, bệnh nặng là lý chứng …Và tất cả các bệnh chứng đó đều đã được cơ thể khám cho ra những kết qủa tương đương bằng những loại Mạch khác nhau trên 2 cổ tay, và những kết qủa đó chỉ cần có một thầy thuốc đông y giỏi, giầu kinh nghiệm có thể đọc ra được còn đầy đủ hơn những xét nghiệm của tây y đã phải cần nhiều bác sĩ chuyên khoa mới đọc được những kết qủa xét nghiệm ấy .

Trong Kinh Pháp Hoa có đoạn Đức Phật nói :

Các ngươi đã là Thầy thuốc chữa bệnh, không thể nào các ngươi treo bảng chỉ chữa được những bệnh này mà không chữa được những bệnh khác

. Chứng tỏ các Thầy thuốc cổ truyền cách nay gần 2600 năm cũng đã biết nguyên lý chữa bệnh, con người là một tổng thể, khi khám được bệnh, định được bệnh, thì khi chữa bệnh là tái lập lại quân bình cho cơ thể chứ không phải chữa riêng cho một loại bệnh nào.

Vì thế trước khi học chữa bệnh các Thầy thuốc đông y phải học cách khám tìm mạch bệnh và biện chứng lý giải để định bệnh gọi là Mạch lý ,cần phải suy luận theo quy luật ngũ hành để tìm chứng .Nói được đúng

chứng bệnh

lúc đó mới chữa bệnh bằng phương pháo

đối chứng trị liệu

để tái lập lại quân bình . Và công việc này phải được kiểm chứng lại sự thay đổi mạch mỗi ngày mỗi khác xem mạch bệnh đã khá hơn hay tệ hơn để điều chỉnh lại .

Đối với Tây y không thể nào xét nghiệm mỗi ngày được, vì bệnh nhân vừa mất sức, mất máu, tốn kém nhiều tiền bạc và thời giờ . Mỗi tuần mỗi xét nghiệm lại một lần cũng đã mất nhiều công sức ,nhưng trong một tuần điều trị , nếu điều trị đúng thì may mắn cho bệnh nhân, bằng ngược lại điều trị sai trong suốt một tuần thì bệnh càng suy nhược, nếu đổi phương pháp trị liệu khác lại sai lầm nữa thì kết qủa xét nghiệm lại xấu hơn khiến bệnh nhân không đủ sức để theo đuổi trị liệu sẽ bị chết oan uổng .

Chỉ riêng phần bắt mạch, nếu trong các bệnh viện tây y có thêm thầy thuốc đông y chuyên bắt mạch để theo dõi những trường hợp điều trị những bệnh nan y bằng ,hóa, quang trị liệu

để phối hợp hướng dẫn tăng giảm liều thuốc hay báo cho bác sĩ biết phương cách điều trị đó không hợp, không đúng với bệnh nhân vì sau mỗi liều thuốc mạch bệnh càng tồi tệ thì lúc đó khoa chữa bệnh sẽ tránh được nhiều sai lầm và cách chữa có nhiều kết qủa , bệnh nhân sẽ có nhiều may mắn sống sót và khỏi bệnh hơn…

Trong khoảng 3000 năm trước, các Thầy thuốc đông y cũng mổ xẻ, cũng thử nghiệm thuốc, thử nghiệm huyệt trên những thân sống của tử tội được nhà vua cho phép , từ đời này sang đời khác, Thầy đời sau thử nghiệm lại các kinh nghiệm của những thầy thời trước cũng trên thân sống của tử tội , lạm dụng tử tội để thử mãi từ đời này sang đời khác để bổ sung thêm vào kho tàng kiến thức đông y đều thấy kết qủa giống nhau mới tạo nên được một hệ thống đông y hoàn chỉnh, và để chấm dứt những sự lạm dụng tử tội không cần thiết, các thầy thuốc đi đến kết luận :

Cái gì chưa biết mới phải thử nghiệm, còn cái gì đã biết rồi không cần phải thử nghiệm nữa .

Bây giờ Tây y mới thịnh hành được 1000 năm, đang trên con đường thử nghiệm và hướng thử nghiệm suy luận từ tây sang đông, cuối cùng đông tây cũng hợp nhất sau mấy trăm năm có lẽ phương tây có bệnh viện đông y, phương đông có bệnh viện tây y, đó là lý lẽ biến đổi âm dương, không vượt ra khỏi quy luật âm dương của trời đất .

A-MẠCH BỆNH LÀ GÌ MÀ LỢI HẠI NHƯ VẬY ?

Đông y phân biệt rõ ràng các dấu hiệu triệu chứng bệnh bằng 28 mạch bệnh và 7 loại mạch báo hiệu bệnh nhân sẽ chết không chữa được gọi là tử mạch .

Tên gọi của 28 mạch bệnh :

Phù, Trầm, Trì, Sác, Hư, Thực, Hồng, Vi, Huyền, Khẩn, Hoãn, Sắc, Khẩn, Hoạt, Phục, Nhu, Nhưọc, Trường, Đoản, Tế, Đại, Đời, Xúc, Kết, Động, Cách, Tán, Tuyệt

(mất mạch nhưng Thầy giỏi còn có thể chữa được).

Tên gọi của 7 Tử mạch :

Chim mổ, Nhà dột, Gỏ đá, Cởi giây, Cá lượn, Tôm bơi, Canh sôi ,

Khi chúng ta bắt mạch nghe được những mạch này là đành bó tay không chữa được .

Một người học mà biết phân biệt mạch giỏi ít nhất cũng mất thời gian trải qua kinh nghiệm lâm sàng 20 năm, nếu không cũng giống như ông lang vườn mà tôi đã kể câu chuyện trong y sử một bệnh nhân ho ra máu ,3 thầy hội chẩn khám mạch định bệnh là nhiệt chứng cho thuốc hàn , đó là do bắt mạch đúng mà lý luận ngũ hành sai mới dùng lầm thuốc , nếu lý luận ngũ hành đúng thì bệnh thuộc hàn chứng phải cho thuốc nhiệt là dùng quế tâm bệnh nhân hết ho ra máu và bệnh nhân lại khen rằng thuốc mát qúa ,tại sao lại nghịch lý như vậy ? Đó là chứng bệnh nan y hàn giả nhiệt ,cho nên đối chứng dùng nhiệt giả hàn thuốc nhiệt của quế liễm vào trong, cái lạnh của bệnh bên trong bị đẩy ra ngoài da .

Ở đây chúng ta không xét các mạch, nhân tiện có người hỏi về mạch Huyền và cách chữa ,nên tôi chỉ đưa ra thảo luận một mạch Huyền làm mẫu mực để chúng ta biết những kiến thức tích lũy kinh nghiệnm của các Thầy thuốc đông y cổ truyền có tính khoa học cao siêu như thế nào mà ngày nay chúng ta vẫn chưa thể nào theo kịp, mà chỉ đang trên đường kiểm chứng được cái hay và đúng của nó được từng phần nhỏ nhoi trong rừng kiến thức đông y mà thôi .

B-MẠCH HUYỀN

Có những đặc điểm nhấc tay lên hay ấn đè tay xuống như đụng vào sợi dây cung căng thẳng.

Bệnh của mạch huyền phản ảnh tình trạng mất sức mệt nhọc quá độ thuộc loại bệnh khá nặng tổn hại đến khí huyết.

Nhưng muốn chữa những bệnh có mạch Huyền thì phải biết rõ mạch đó thuộc kinh mạch nào. ở bộ vị nào , trên mỗi cổ tay có 3 bộ mạch Thốn, Quan, Xích .Cổ tay bên trái chủ huyết thuộc bộ mạch Nhân nghinh , cổ tay bên phải chủ khí thuộc bộ mạch Khí khẩu .

1-Bên cổ tay trái Nhân nghinh :

Mạch Thốn bộ sát cổ tay (nằm trên huyệt Thái uyên) gọi là tả Thốn thuộc hỏa , bắt mạch nhẹ để xem bệnh hỏa dương là kinh Tiểu trường, đè mạnh để xem bệnh của hỏa âm là kinh Tâm .

Mạch Quan bộ ở giữa (nằm trên huyệt Kinh cừ) gọi là tả Quan thuộc mộc , bắt mạch nhẹ để xem bệnh mộc dương thuộc kinh Đởm, đè mạnh để xem bệnh của mộc âm là kinh Can .

Mạch Xích bộ ở cuối (nằm gần huyệt Liệt khuyết) gọi là tả Xích thuộc thủy, bắt mạnh nhẹ để xem bệnh thuộc thủy dương thuộc kinh Bàng quang, đè mạnh để xem bệnh của thủy âm là kinh thận .

2-Bên cổ tay phải Khí khẩu :

Mạch hữu Thốn thuộc kim, bắt mạch nhẹ để xem bệnh kim dương là kinh Đại trường, đè mạnh để xem bệnh của kim âm là kinh Phế .

Mạch hữu Quan thuộc thổ, bắt mạch nhẹ để xem bệnh thổ dương là kinh Vị , đè mạnh để xem bệnh thổ âm là kinh Tỳ.

Mạch hữu Xích thuộc hỏa , bắt mạch nhẹ để xem bệnh của tướng hỏa là kinh Tam tiêu, đè mạnh để xem bệnh của Thân dương Mệnh môn..

3-Tính chất mạch biểu hiệu bệnh của từng tạng :

Ở đây chúng ta thảo luận chỉ một mạch Huyền thôi , thì Mạch Huyền chính là mạch của Can , nếu cả hai bên Nhân Nghinh , Khí khẩu có mạch huyền thì dưới cạnh sườn đau lắm như bệnh sưng viêm gan…Nếu mạch huyền ở bộ khác mà không ở bộ gan (tả Thốn) là do huyết hư có chứng ra mồ hôi trộm, đau nhức chân tay, buồn phiền, mệt mỏi, da khô, nguyên khí hư hao. Bên trong người hư hàn nếu uống nhiều nước làm đình trệ gây đau tức sườn, thân thể co quắp khiến người như sốt rét lúc nóng lúc lạnh, hay hốt hoảng sợ sệt .

Nếu mạch Huyền nặng hơn có kèm thêm mạch Khẩn tức là căng nhưng xoắn như dây thừng là đã bị khí lạnh tích tụ ở kinh lạc sinh ung bướu trong người . Người Tây phương hay uống dư thừa nước dễ có bệnh này .(Trở lại vấn đề trong bài viết Uống nước nhiều lợi hay hại , để đông tây y kết hợp dung hòa , uống nước nhiều để lọc máu tẩy độc là đúng, nhưng uống vào 2 lít, các độc tố trong người theo nước bị đào thải ra ngoài cũng phải 2 lít, uống nước nhiều mà không lên cân là cơ thể khỏe mạnh, còn uống vào mà lên cân là nước và độc tố bị giữ lại sẽ trở thành bệnh gan chứa nước ,và trong màng mỡ tam tiêu ở bụng bị kết khối u không khu trú vào tạng phủ nào, tây y cho là loại ung thư khó trị nhất, vì không có nơi để đánh, mà đánh cũng không tan, như trường hợp trong bài viết.: Một trường hợp ung thư, do chữa sai lầm làm nát gan, hỏng thận, cuối cùng các bác sĩ hội chẩn và rút ống, lúc tôi đến bắt mạch cho bệnh nhân còn nhẩy nhưng là mạch tử.)

Nếu Huyền kèm thêm mạch Trường là đường dây mạch căng kéo dài lấn qua vị trí của Thốn và Xích là bệnh tích tụ kết khối của các loại ung thư.

Nếu mạch Huyền kèm thêm mạch Hồng như dây căng như sóng cuồn cuộn là bệnh cấp tính đau như kim đâm nhói đau cạnh sườn khó thở .

4-Phân biệt Bệnh nặng nhẹ :

Để biết bệnh nặng nhẹ còn phải nghe được chiều đi của mạch là thuận hay nghịch :

Mạch Dương sinh ở Xích bộ , động ở Thốn bộ theo chiều chạy từ trong ra phía ngón tay .

Mạch Âm sinh ở Thốn bộ , động ở Xích bộ theo chiều hướng về cùi chỏ.

Quan bộ là nơi giao nhau của âm dương , khi bắt ở Quan bộ không thấy mạch là Âm dương ly cách là bệnh nan y khó chữa, bệnh thuộc trung tiêu không hoạt động ..

Khi bắt cả 3 bộ Thốn Quan Xích nghe dòng mạch chạy vào là bệnh nặng từ biểu đã đi sâu vào lý, nếu dòng mạch chạy ra ngoài tay là bệnh ở biểu hoặc bệnh trước nặng chạy vào lý, gần khỏi thì mạch chạy ra từ lý ra biểu .

Mạch Nhân nghinh Khí khẩu còn tùy thuộc vào nam nữ như :

Nhân nghinh mạnh, Khí khẩu hòa hoãn là mạch thuận của Nam, nữ thì ngược lại . Đó là mạch tốt không bệnh.

C-CÁC BỆNH LIÊN QUAN ĐẾN MẠCH HUYỀN :

Bệnh biểu hiện không đơn giản là đơn mạch thuộc một trong 28 mạch mà còn xen kẽ các mạch khác để báo hiệu tình trạng diễn tiến của bệnh mỗi lúc mỗ khác .

1-Mạch Huyền đều có ở 3 bộ vị Thốn, Quan, Xích : là kết qủa xét nghiệm đọc được Gan nóng làm đau đỏ mắt kéo mây mờ mắt, chảy nước mắt, nặng thì phát mụn nhọt, ung thư.

2-Mạch Huyền Trường ở 3 bộ : là kết qủa xét nghiệm đọc được ở gan có bệnh

3-Mạch Huyền ở Tâm bộ:

a-Phù Huyền ở Tâm : là kết qủa xét nghiệm có giun sán làm đau bụng .

b-Huyền Sắc ở Tâm : là kết qủa xét nghiệm thấy Tâm khí hư, ít huyết, suy nhược, mất máu, nói không ra hơi, tâm hư không nuôi tỳ vị ăn không vào.

c-Trầm Huyền ở Tâm : là kết qủa xét nghiệm đọc được bệnh ở gan lấn sang Tâm làm cho lúc đói dữ ăn nhiều, lúc no thì căng đầy bụng làm mệt đau.

4-Mạch Huyền ở Tỳ bộ:

a-Phù, Đại, Huyền chạy luôn đến Thốn bộ : là kết qủa xét nghiệm đọc được do phong tà truyền vào người cho nên khi ngủ miệng hay chảy nước dãi.

b-Phù, Huyền : là kết qủa xét nghiệm đọc được do Can khí mạnh qúa hại Tỳ thổ làm tay chân co quắp, hoặc rời rã mệt mỏi hoặc làm sốt rét, đi kiết lỵ.

5-Mạch Huyền ở Can bộ :

a-Huyền : Huyền ở can bộ lên đến Thốn bộ là kết qủa đọc được nhức đầu chóng mặt, đầu nặng trĩu, gân mạch đau buốt, cao áp huyết do gan ,

b-Huyền Hoãn : là kết qủa xét nghiệm đọc được Gan và vị khí của người khỏe mạnh không có bệnh .

c-Vi,Huyền : là kết qủa xét nghiệm đọc được Túi mật bị tà khí xâm nhập sinh vàng da, chân tay mặt mũi và nước tiểu đều vàng.

d-Huyền, Sác : là kết qủa xét nghiệm đọc được phong nhiệt phạm gan thành hỏa thiêu cân, gân chân tay co rút.

e-Trầm, Huyền, Khẩn, Thực : là kết qủa xét nghiệm đọc được Thận khí không đủ nuôi gan làm gan bị khí tụ gây bệnh đau cạnh sườn.

6-Mạch Huyền ở Thận bộ :

a-Trầm, Khẩn, Hoạt, Huyền : là kết qủa xét nghiệm đọc được Thận bị phong tà, thấp khí làm lưng đùi nhức mỏi.

b-Trầm Huyền : là kết qủa xét nghiệm đọc được Bao tử hàn nên Vị thổ không khắc chế được Thận thủy nên khí đọng ở hạ tiêu làm lưng bụng dưới và chân phù thủng..

7-Mạch Huyền ở Mệnh môn bộ :

Phù, Huyền : là kết qủa xét nghiệm đọc được bụng dưới ứ đọng nước dưới rốn làm quặn đau, mất chức năng chuyển hóa thận dương.

D-KHÁM BỆNH CHUYÊN KHOA BẰNG MẠCH :

Bài viết này chuyên đề chỉ đề cập đến bệnh liên quan với mạch Huyền :

1-Bệnh thương hàn cảm lạnh :

Dương bệnh mạch âm như Trầm, Huyền, Vi, Nhược thì chết.

2-Bệnh thương phong, cảm gió :

Nếu có mạch Huyền hoặc Sác là Tà phong đã xâm nhập vào 6 kinh ( tam âm tam dương.)

3-Bệnh thương thử cảm nắng :

Nếu có Mạch Huyền, Hồng, Khâu, Trì là bị cảm nắng mà cơ thể âm dương đều thịnh .

4-Bệnh thương thấp :

Nếu có Mạch Huyền Hoãn là Phong mộc và Thấp thổ xung khắc làm đau nhức.

5-Bệnh thương táo :

Nếu có mạch Phù Huyền là chứng táo hàn (khô hanh do lạnh).

6-Huyết bệnh :

a-Nếu có Mạch Trầm Huyền : Xuất huyết mũi, mặt nhợt nhạt, mắt mờ, ngắn hơi thở khó, bụng dưới đầy do lao thương vất vả qúa nên âm hư .

b-Nếu có Mạch Huyền ở phế bộ : do lao lực vất vả ho ra máu.

c-Nếu có Mạch Huyền Tuyệt : Trong ruộc tích huyết ứ nhiệt độc do vi trùng làm mủ , đi cầu ra mủ , khó chữa.

7-Đàm bệnh :

a-Nếu có Mạch Huyền : là do khí bị tổn hại sinh đàm, có nghĩa là dưỡng trấp do khí hóa bị trục trặc không sinh vinh huyết, vệ khí, nên biến thành đàm..

b-Nếu có Mạch Huyền ở cả 2 tay Nhân nghinh, Khí khẩu do ăn thức ăn có hàn khí không tiêu như qúa nhiều rau xanh, cam, bơ sữa, dầu, chuối, kem lạnh….

c-Nếu có Mạch Phù, Huyền, Đại, Thực là có đàm đặc nghẹt trong phổi.

8-Bệnh trên đường kinh mạch :

Nếu có Mạch Huyền Hoạt do đàm, Cholesterol làm nghẹt ống mạch.

9-Bệnh nhức đầu :

Nếu có Mạch Huyền do dương thịnh.

10-Đau mắt :

Nếu có Mạch Huyền do Can mộc phát hỏa.

11-Đau miệng lưỡi :

Nếu có Mạch Huyền, Sác, Hư do Đởm hư suy

12-Đau răng :

Nếu có Mạch Huyền, Hồng do bao tửvà ruột bị phong tà hỏa nhiệt .

13-Đau phong thấp trong xương : Nếu có Mạch Huyền Trầm.

14-Đau đốt xương : Nếu có Mạch Huyền Trầm do uống rượu rồi tắm làm thủy hại tâm hỏa.

15-Ho do thiếu máu : Nếu có Mạch Huyền Sắc.

16-Ho do trong phổi có nước : Nếu có Mạch Huyền.

17-Đau bụng tiêu chảy : Nếu có Mạch Huyền Hoạt ăn không tiêu do bao tử nhiệt làm đình trệ thức ăn biến thành đàm lỏng đi tiêu chảy.

18-Đau tim do huyết thì Mạch Huyền.

19-Đau bụng có thể chết : Nếu có Mạch Phù, Đại, Huyền, Trường .

20-Sốt rét : Nếu có mạch Huyền Sác do báng tích nóng nhiều làm sốt nóng hơn sốt rét, ngược lại nếu có mạch Huyền Trì thì rét lạnh nhiều hơn nóng.

21-Kiết lỵ : Nếu có mạch Huyền Hồng mình nóng nhiều là bệnh nguy hiểm.

23-Bệnh bụng trướng to đầy ách : Nếu có mạch Huyền là do Can mộc khắc Tỳ thổ.

24-Bệnh đau lưng do thận hư tổn : Nếu có Mạch Huyền Đại.

25-Bệnh Sán Khí gốc ở gan :

a-Nếu có Mạch Huyền do vệ khí không thông nên cơ thể sợ lạnh.

b-Nếu có mạch Huyền Khẩn do bao tử bị nhiệt khí của can làm hại.

26-Đau nhức ống chân (Cước khí) : Nếu có mạch Phù Huyền là do phong tà xâm nhập.

27-Đau hông sườn : Nếu có Mạch Huyền cả 2 tay là do can khí thịnh qúa.

28_Bệnh đường tiểu : Nếu có mạch Phù, Huyền, Sắc là tiểu không thông do nhiệt thịnh.

29-Ung thư hay bướu ở gan : Nếu có Mạch Huyền Tế ở Can bộ .

30-Bệnh ói mửa : Nếu có Mạch Huyền Hoạt ở cả 2 Thốn bộ .

31-Bao tử hư suy : Nếu cóMạch Huyền

32- Bệnh phụ nữ tuột âm hộ ra ngoài : Nếu có mạch Huyền

33-Ngực tê tim đau : dương chủ mở, âm chủ đóng. Nếu có Mạch âm Huyền là thái qúa, dương hư mà âm tới làm tim đóng lại .

Đây mới chỉ bàn đến một mạch Huyền và đã có người hỏi bệnh Mạch Huyền chữa làm sao, nghe chừng tưởng dễ nhưng chữa bệnh gì, bệnh nào thì chưa biết, vì đây chỉ là kết qủa xét nghiệm mà cơ thể đã để lại ký hiệu bằng mạch cho Thầy thuốc chẩn đoán và định bệnh theo ngũ hành để tìm ra chứng, từ chứng mới đối chứng trị liệu để tái lập lại quân bình âm dương khí huyết, hư thực, hàn nhiệt .

Thực ra Mạch bệnh đông y đã đúc kết thành tự điển gồm 257 loại bệnh căn bản, 36 loại bệnh phụ khoa có những mạch nhất định riêng biệt của nó được xếp loại như sau :

a-18 loại dương bệnh ngoài tạng phủ thuộc vinh vệ khí ở các vùng đầu, gáy, eo lưng, xương sống, tay chân.

b-18 loại âm bệnh trong tạng phủ do ảnh hưởng hư thực của khí huyết làm ra như ho, hơi kéo lên, suyễn, ói mửa, nghẹn, sôi ruột, trướng đầy, tim đau, co quắp gồm 9 bệnh hư, 9 bệnh thực.

c-198 loại bệnh của lục phủ ngũ tạng, vì mỗi tạng phủ có 18 loại bệnh do lục dâm làm hại như Khí thọ tà, Huyết thọ tà, Khí huyết cũng bị tà (3 loại thọ tà x 6 lục dâm=18 loại). (5 tạng +6 phủ )x 18 loại bệnh = 198 loại bệnh.

d-5 loại bệnh lao tổn do nội tà trong 5 tạng.

e-7 loại bệnh nội tà do biến đổi tâm lý thất tình lục dục.

f-6 loại bệnh cực khổ ( lục cực) do thức, ngủ, ăn, uống, tình, chí, không điều độ.

g-5 loại tà trúng vào người như :phong là dương trúng đằng trước thân thể, hàn là âm trúng đằng sau, thấp trọc trúng từ dưới lên, sương thuộc thanh khí trúng từ trên xuống, hàn làm tổn thương kinh mạch âm, nhiệt làm tổn thương kinh mạch dương .

Đó là 257 loại bệnh tiêu chuẩn, nhưng chưa đủ nó còn biến chứng truyền kinh do hư thực. Do hư thì truyền từ mẹ sang con, truyền theo cặp âm dương cùng hành. Còn thực chứng thì có thể quậy phá truyền đến tất cả 5 hành, ngoài ra chưa kể đến các bệnh ngoại khoa răng, hàm, mặt, tai, mắt, mũi, họng và các loại bệnh do chữa sai gây ra biến chứng thành các bệnh nan y khác.

Tôi cũng đã có ý định tìm cách chế ra một sensor có đủ chức năng 28 mạch bệnh và 7 tử mạch truyền sóng mạch thành biểu đồ hiện lên màn hình oscilloscope và dùng 3 sensor gắn vào đầu ngón tay thầy thuốc đo 3 mức đô đè nhẹ lên Thốn, Quan, Xích để đo mạch của phủ, đè mạnh vừa để đo mạch của tạng và đè ấn sâu sát xương để tìm bệnh nan y trong lý, làm được như vậy cũng đã khó nhưng 3 sensor này phải liên kết có thể bắt mạch để biết chiều chạy của bệnh thuận nghịch, trường đoản, và cũng phải bắt được những dạng sóng do Mạch pha trộn 2,3,4 mạch trên một vị trí , và cũng phải tách riêng được mạch biểu thực lý hư, lý thực biểu hư .

Đối với Tây y chỉ một cái máy đọc được một biểu đồ tim mạch hay não cũng đã khó ,huống chi là một máy quá phức tạp, do đo ngay tại các nước Á Châu như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn chữa bệnh bằng đông y mà vẫn chưa có thể sáng chế ra được máy đo mạch chính xác như 3 ngón tay bắt mạch của Thầy thuốc, đến đây chúng ta mới biết các thầy thuốc đông y cổ xưa đã có một nền khoa học cổ thông minh hơn chúng ta ngày nay, và chính chúng ta đã làm chết dần môn đông y do chưa học thấu đáo tường tận mới sinh tâm bài khích.

doducngoc

Cách chữa bệnh theo đông y

Chung quanh ta chỗ nào cũng có cây cỏ đủ loại, nhiều đến nỗi chúng ta không thể biết được hết tên chúng là gì, ngày xưa các y sinh nghiên cứu về thuốc cây cỏ đều có một thắc mắc làm sao phân biệt được cây nào là thuốc, cây nào không phải là thuốc.

Để giải đáp thắc mắc ấy, vị sư phụ cho một công trình nghiên cứu ‘’Hãy tìm xem những cây nào không phải là thuốc ?

‘’.

A-Áp dụng tiêu chuẩn tính-khí-vị :

Họ áp dụng tiêu chuẩn

tính-khí-vị

của cây cỏ đem tác động vào lục phủ ngũ tạng và nhận thấy mạch khí trước và sau khi dùng cây cỏ có sự biến đổi khác nhau, có tác dụng khí hoá tốt hoặc xấu đối với cơ thể con người theo quy luật sinh khắc ngũ hành. Do đó đông y kết luận cây cỏ nào cũng đều là cây thuốc .Có những cây chúng ta đã biết, có những cây chúng ta chưa biết còn đang nghiên cứu.

Theo định nghĩa tổng quát của đông y, thức ăn hay thuốc uống cũng đều là thuốc đi vào cơ thể bằng ba yếu tố tính-khí-vi .

Vị là một chất dẫn thuốc đi vào tạng phủ, có 5 vị khác nhau như mặn, ngọt, chua, cay, đắng. Vị mặn đi vào thận và Bàng quang, vị ngọt đi vào bao tử và lá lách, vị chua đi vào gan mật, vị cay đi vào phổi và ruột già, vị đắng đi vào tim và ruột non. Vị có đậm có nhạt, vị đậm gọi là hậu, thì tạo ra tính thẩm thấu vào tạng phủ nhiều hơn, vị nhạt gọi là bạc, thì thuốc thấm vào nhẹ hơn, còn tác dụng tốt hay xấu của thức ăn hay thuốc uống lệ thuộc vào tính và khí của chất đó.

Tính của nó là làm cho cơ thể tăng sức nóng ấm thì gọi là tính nhiệt. Nếu nó làm cho cơ thể mất sức nóng thì gọi là tính hàn.

Khí của thức ăn hay thuốc uống giúp cho cơ thể sau khi hấp thụ sẽ tạo ra khí lực vận chuyển trong cơ thể làm cho khỏe lên hay yếu đi ( bổ hay tả ),làm khai thông chỗ bế tắc, làm cho khí huyết hòa hoãn, làm tiêu sưng, làm cho đi lên, đi xuống, đi vào trong, đi ra ngoài, đông y gọi là bổ, tả, hòa, thông ,tiêu, thăng, giáng, liễm, xuất...

Trong qúa trình sử dụng thuốc cây cỏ để tươi dùng ngay, hay phơi khô thì gọi là thuốc nam,( thuốc của người Việt Nam, người Hoa gọi là dược thảo ), có cái lợi là những hoạt chất của thuốc còn đủ chưa bị biến mất, công hiệu của thuốc mạnh hơn, hữu hiệu hơn, nhưng nếu cây cỏ để lâu mới dùng đến thì tính khí của thuốc sẽ bị mất cho nên chúng cần phải được sao chế để bảo quản, sau khi sao chế chúng trở thành thuốc bắc. Tên gọi thuốc bắc là do người Trung quốc ở phương bắc nước ta có kỹ thuật chế biến thuốc sống thành thuốc chín, có nghệ thuật và kỹ thuật chế biến độc đáo riêng, có thể làm cho một chất có độc mạnh trở thành ít độc, chất thuốc ít khí vị trở thành chất thuốc mạnh có nhiều khí vị hơn. Cách sao chế có thể tạo ra được nhiều công dụng chữa bệnh khác nhau do sự thay đổi tính-khí-vị của thuốc nguyên thủy.

Thí dụ như cỏ cú có nhiều công dụng tùy theo cách sao chế :
Cỏ cú tên thông dụng gọi là hương phụ, là loại củ mọc ở bãi biển, củ mập to chắc, ruột hồng nhạt, có mùi thơm. Khi dùng phải phơi thật khô, gĩa với trấu bằng chầy nhọn cho trụi hết lông .Khí của nó là chất chính dùng điều khí, khai uất, thông kinh, hóa đờm, tiêu tích ứ, bổ khí huyết. Người xưa chế biến nó rất công phu gọi là hương phụ tứ chế. Dùng 1 kg hương phụ sống chia 4 phần, một phần tẩm 200ml dấm, một phần tẩm 200ml đồng tiện ( nước tiểu nhi đồng ), một phần tẩm 200ml dung dịch muối 15%, một phần tẩm 200ml rượu 40 độ.
Mỗi phần tẩm xong để một đêm, rồi giã dập, sao khô có mùi thơm là được, phải cất trong lọ kín và chỉ dùng được trong 2-3 tuần mà không để lâu được. Nhưng qua kinh nghiệm của nhiều bậc danh y cổ đại, có nhiều cách chế biến và phối hợp với chất khác để chữa nhiều bệnh khác nhau như :

Muốn cho khí dẫn lên ngực dùng sanh hương phụ ( hương phụ sống ).
Muốn dẫn khí đi xuống gan thận dùng thục hương phụ ( hương phụ chế chín ).
Muốn cầm liễm không cho ra máu thì rang hương phụ cho khét.
Muốn bổ huyết hư thì rang sơ hơi vàng.
Muốn chữa huyết, nhuận táo thì ngâm nước muối nhạt rồi rang sơ.
Muốn bổ thận khí thì rang với muối hột.
Muốn thông kinh hoạt lạc thì ngâm rượu rồi rang.
Muốn tiêu tích tụ thì ngâm dấm rồi rang.
Muốn tiêu đờm thì rang với nước gừng.
Rối loạn tiêu hóa, bụng đầy đau thì dùng 4g hương phụ + 8g riềng khô. Hai thứ tán bột uống với nước nóng...
Muốn điều kinh bổ huyết thì dùng hương phụ với ngải cứu .

Vì thế một thầy thuốc đông y phải biết đến tính-khí-vị của thuốc hay của thức ăn, xem thuốc dẫn vào đâu, dẫn vào mạnh hay nhẹ, nhiều hay ít, làm cơ thể nóng hay lạnh, nóng nhiều làm táo bón khô khát, lạnh nhiều làm tiêu chảy sưng phù, khí của thuốc là bổ hay tả, hòa, thông, tiêu, thăng giáng, liễm, xuất. Ngược lại, thầy thuốc cũng có thể nếm thuốc để phân biệt tính-khí-vị của thuốc mà bệnh nhân đã uống để biết họ đang uống thuốc chữa bệnh gì, và bắt mạch xem thuốc đó có phù hợp trúng với bệnh tình không.

Áp dụng cách phân tích tính-khí vị của một chất thuốc vào tây y chúng ta thấy cũng có những điểm tương đồng, chẳng hạn như thuốc trị đau bao tử có công hiệu của tây y là Malox , Magnésium.

Malox thành phần chính của thuốc là cam thảo. Theo đông y, vị ngọt dẫn thuốc vào bao tử, tính làm trung hòa giải các thứ độc, khí làm điều thông khí huyết, có tính thăng khí, dùng nhiều sẽ làm cho tăng áp huyết.

Magnésium là loại bột vị ngọt nhạt dẫn vào bao tử, tính hàn, hòa hoãn, tráng vách thành bao tử để chữa loét, khí đi xuống đẩy phân ra .

Tuy nhiên có những công ty bào chế dược phẩm đã tăng thành phần chính của thuốc nhiều hơn các hãng khác hy vọng nó hiệu nghiệm hơn, mùi vị cũng khác, nhưng không để ý đến chất dẫn theo quy luật là vị ngọt, mà đổi thành vị cay sẽ dẫn thuốc vào phổi, vị đắng sẽ đem thuốc vào tim, vị chua sẽ đem thuốc vào gan, vị mặn sẽ đem thuốc vào thận. Phổi, tim, gan, thận, không cần magnésium tự nhiên bị chất thuốc bám vào làm tắc nghẽn sinh phản ứng phụ như khó thở, mệt tim, sưng phù...còn thuốc không được dẫn vào bao tử nên bao tử vẫn chưa được chữa.

Nói như vậy thì dù thuốc là đơn chất để chữa một tạng phủ hay một chỗ, hoặc hợp chất để chữa hai hay nhiều tạng phủ, hoặc hợp chất là một món ăn thức uống, đông y lúc nào cũng chú trọng đến tính-khí-vị trong mục đích chữa bệnh để điều hòa sự khí hóa chung cho cơ thể, và cách chữa thì áp dụng theo tám phương pháp căn bản của đông y ( bát pháp ), tùy theo sự chọn lựa phương pháp chữa của thầy thuốc mà đông y chia hạng thầy thành ba bậc. Bậc hạ công thì chữa ngọn, thấy kết qủa ngay, kiếm tiền dễ, mau nổi tiếng, nếu có biến chứng sang bệnh khác lại chữa tiếp bệnh khác, đó là cách chữa bá đạo, nuôi bệnh đi vòng vòng. Bậc trung công vừa chữa ngọn vừa chữa gốc, là cách chữa y đạo. Bậc thượng công gọi là thầy thuốc chữa khi chưa bị bệnh, có nghĩa là khi khám bệnh chẩn mạch cho một người họ cảm thấy có những biến đổi âm thầm trong cơ thể tây y tìm không thấy bệnh, nhưng bậc thượng công bắt mạch biết được hư thực của một tạng nào đó, nếu không chữa ngay nó sẽ truyền sang tạng khác thành hai tạng cùng bị bệnh, thí dụ khám biết tạng gan thực sau nó sẽ hại tạng tỳ nên bậc thượng công phải giúp tỳ mạnh lên, và làm cho tạng gan yếu bớt, đó là cách chữa khi chưa bệnh. Bậc thượng công phải vừa chữa ngọn, vừa chữa nguyên nhân gốc, vừa ngừa biến chứng. Chữa theo cách này bệnh nhân sẽ hết bệnh, không bị tái phát, không cần phải trở lại gặp thầy thuốc, thế gian gọi là thầy có tiếng mà không có miếng, đó là cách chữa vương đạo.

B-Áp dụng tiêu chuẩn Bát pháp :

Cơ thể bị bệnh đều phải khám theo tứ chẩn, quy kinh chẩn pháp, xác định bằng huyệt trên lưng và các nguyên huyệt, tả huyệt trên các đường kinh ,để định được bệnh thuộc kinh nào,chứng âm hay dương, về khí hay huyết, bị hư hay thực, cơ thể hàn hay nhiệt, bệnh mới phát còn ở biểu hay đã vào lý, theo tiêu chuẩn Bát cương ( âm, dương, hư, thực, hàn, nhiệt, biểu, lý), từ đó mới quyết định lập ra một trong tám phương pháp đối chứng trị liệu là Bát Pháp gồm có : Ôn, trấn, thanh, hòa, xuất, liễm, bổ, tả. Thí dụ như trong bát cương, bệnh thuộc âm là huyết bị bệnh, thì đối chứng trị liệu theo bát pháp là phải dùng dương thuộc khí để chữa âm, ngược lại dương bệnh thuộc khí, phải dùng âm thuộc huyết để chữa. Hư thì đối chứng trị liệu phải dùng phép bổ. Thực thì đối chứng trị liệu phải dùng phép tả. Bệnh thuộc hàn, đối chứng trị liệu phải dùng phép ôn là làm cho ấm nóng. Bệnh thuộc nhiệt đối chứng trị liệu phải dùng phép tả, nếu bệnh còn ở biểu thì cho xuất mổ hôi nhiệt (xuất hãn), nếu bệnh trong lý phải cho mát gọi là thanh nhiệt. Bệnh tà khí vào đến bên trong tạng phủ thì chia thành ba vùng mà bệnh cư trú như thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu, nếu bệnh còn ở thượng tiêu phải cho ói mửa ra gọi là thổ, ở trung tiêu phải cho hòa giải, ở hạ tiêu phải cho hạ tống tà khí ra ngoài bằng tiêu tiểu. Nếu bệnh đau nhức thì phải dùng phép trấn thống thần kinh (giảm đau). Nếu bệnh hư thoát khí, huyết, mồ hôi phải giữ không cho mất thêm bằng phép liễm khí, cầm huyết, cầm mồ hôi, nếu thoát tinh phải giữ lại gọi là cố tinh bổ thận..Còn nếu bệnh do lục khí của thời tiết như phong, hàn, thủy, thấp, táo, nhiệt, đối chứng trị liệu cần phải tả, có tên riêng gọi là khu phong, tán hàn, trục thủy, lợi thấp, nhuận táo, tán nhiệt...

1-Cách sử dụng phương pháp ôn :

Ôn là làm ấm, nóng, sử dụng ngoại dược hay huyệt nội dược để chữa các bệnh đã làm cho cơ thể bị lạnh như phong hàn, thấp hàn, hư hàn, khí hư, hàn đàm hoặc dương hư, nhiều đàm nhớt.
Nếu cơ thể mới bị hàn tà xâm phạm thì dùng phép ôn, nếu qúa hàn, thì không chữa theo ôn bổ, mà phải nhiệt bổ có nghĩa là dùng phép ôn mạnh hơn gọi là phép tăng nhiệt.
Nếu hàn ở thượng tiêu phải làm ấm phổi (như bệnh ho suyễn hàn).
Nếu bệnh hàn ở trung tiêu phải ôn trung hay lý trung tiêu (làm ấm tỳ vị, như bệnh tỳ vị hư hàn, ăn không tiêu, không chuyển hóa, đông y có bài thuốc lý trung thang gồm 4 vị là nhân sâm, càn cương, bạch truật, cam thảo).
Nếu bệnh ở hạ tiêu bị hư hàn (như đau bụng, tiêu chảy, tiểu nhiều..)phải tăng nhiệt phục hồi dương khí như phép hồi dương cố thoát, đông y có bài thuốc tứ nghịch thang gồm 3 vị là chích thảo, càn cương, sanh phụ tử).
Chống chỉ định :Thoát huyết, huyết hư, âm hư sinh nội nhiệt thì không được dùng phép ôn.

2-Cách sử dụng phương pháp trấn :


Trấn là trấn áp, tác động trực tiếp lên hệ thần kinh làm cho giảm đau nhức gọi là trấn thống thần kinh, hoặc làm cho không sợ hãi gọi là định tâm an thần, đôi khi đau nhức do tuần hoàn khí huyết bị bế tắc chỉ cần giải khai chỗ bế tắc cho thông cũng sẽ hết đau, hoặc hỏa khí, hoặc đờm, hay can khí nghịch lên trên cần phải trấn áp không cho lên mà đè xuống cũng gọi là phép trấn.

3-Cách sử dụng phương pháp thanh :


Thanh hoặc lương là làm mát chữa các chứng nóng thuộc ôn nhiệt gồm hai loại nhiệt : thực nhiệt và phiếm nhiệt.
Trị nóng thực nhiệt cần phải tiết tả nhiệt trong trường hợp sốt nóng hừng hực.
Trị nóng phiếm nhiệt là nóng hâm hấp, lan tỏa không dữ dội, không cần phải tả hạ nhiệt nhanh, mà chỉ cần thanh nhiệt làm mát, cả hai cách đều là thanh, đông y gọi là thanh nhiệt, thanh khí, thanh huyết nhiệt giải độc, lương huyết nhiệt (làm mát máu).

Chống chỉ định : Không được dùng phép thanh trong bệnh hư nhiệt cũng làm sốt nóng, hư cần phải bổ, phải dùng phép ôn bổ, nếu dùng phép thanh là sai lầm sẽ làm bệnh hư thêm .
Nếu bệnh nóng sốt ít thì thanh nhiệt ít không được tả nhiệt nhiều, nếu không bệnh nhân bị lạnh, trong trường hợp sau khi thanh nhiệt bệnh nhân hết nóng sau đó lại bị nóng trở lại là trong người còn có phong tà chưa ra hết, cần phải đuổi phong ra (gọi là khu phong, trục phong), phải chọn huyệt khu phong thanh nhiệt...

4-Cách sử dụng phương pháp hòa :

Hòa là hòa giải sự xung khắc lẫn nhau trong trường hợp bệnh bán biểu bán lý, chỉ thanh nhiệt mà không cho ra mồ hôi, trong trường hợp nghi ngờ bệnh hư thực thác tạp, giữa âm dương tương tranh, hàn nhiệt vãng lai, những trường hợp bệnh ở trung tiêu không thể dùng bổ, cũng không dùng được tả, không dùng được phép xuất, cũng không dùng được phép liễm, lúc đó phải dùng phép hòa giải, bao gồm cả phép khai thông chỗ bế tắc, phép thăng đưa khí lên khi khí bị hạ hãm, và phép giáng khi khí bị thượng nghịch hoặc bị ngăn chặn không xuống được.

5-Cách sử dụng phương pháp xuất :

Xuất là làm cho tà khí ra da bằng đường mồ hôi, đông y gọi là phép hãn.
Xuất cho ra ngoài bằng miệng, làm cho ói mửa thức ăn, đông y gọi là phép thổ.
Xuất cho ra ngoài bằng đường phân, đường tiểu, đông y gọi là phép hạ.

Nguyên nhân gây bệnh trong đông y bao gồm nguyên nhân không do vi trùng như phong thấp đau nhức hoặc do vi trùng, vi khuẩn, siêu vi, virus..làm ra bệnh, đông y đều gọi chung là tà khí. Khi chữa bệnh đông y chỉ chú trọng đến nguyên tắc tái lập lại quân bình âm dương khí huyết, cơ thể sẽ tự điều chỉnh cho khỏi bệnh.

a- Phép hãn : ( Cho xuất mồ hôi ).

Khi tà khí còn ở ngoài, như trong bệnh biểu nhiệt, sốt nhiệt, ngoại cảm phong, hàn, thực nhiệt, bệnh thủy thủng, ban chẩn, và bệnh còn ở trên thượng tiêu chưa vào đến trung tiêu.. cần phải đuổi tà khí ra khỏi da lông bằng đường mồ hôi để tà khí không xâm nhập sâu vào cơ thể trong tạng phủ .Phát hãn mạnh trong bệnh ngoại cảm hàn, thấp hàn. Chứng phong, hỏa, thử, và táo, chỉ phát hãn nhẹ cho da vừa rịn mồ hôi là để đuổi tà khí ra mà không làm mất nước cơ thể, trong bệnh cảm nhiệt, thấp nhiệt.
Chống chỉ định : Không dùng phép hãn khi cơ thể hư nhược, gầy yếu, tân dịch khô khan( không có nước miếng, nước bọt), da lông khô, môi họng khô, mặc dù có sốt nhưng sốt âm ra mồ hôi trộm, bệnh đã vào đến trung tiêu làm đau bụng quanh rốn như sôi bụng, nếu phát hãn gây ra biến chứng nguy hiểm.

b-Phép thổ : ( Cho mửa).

Phép thổ là làm cho nôn mửa ra những thức ăn có độc hoặc những thức ăn lâu ngày không tiêu hóa còn giữ lại trong bao tử, hoặc đờm chặn cổ họng không xuống được khiến hay nôn oẹ muốn ói mà không ói ra được, hoặc nó làm khó thở, ngực đầy, uất nghẹn thượng tiêu. Khi cơ thể muốn ói là chính khí ở trung tiêu còn mạnh, muốn đẩy tà khí ra không cho xâm nhập sâu vào cơ thể là một phản ứng tự động, cho nên trong cách chữa bằng phép thổ là giúp cơ thể tống tà khí ra không cho tà khí đi xuống sẽ hại đến trung tiêu là trường vị. Đông y thường sử dụng thuốc ngoại dược gây mửa ,có 5 loại gây mửa khác nhau :
-Do bao tử hàn hoặc thức ăn hàn, phải dùng thuốc làm ấm như gừng, quế.
-Do bao tử nhiệt hoặc thức ăn nhiệt, phải dùng thuốc mát như khổ trà, chi tử.
-Do dùng thức ăn để lâu hư thối, có độc, ăn không tiêu, muốn mửa không ra được, phải dùng nước muối hay bột cải.
-Do đờm nhớt chặn họng khó thở, cho mửa bằng nước vỏ quít.
-Do bao tử đầy hơi làm nghẹn thở, cho mửa bằng chỉ thiệt, hậu phác.
Chống chỉ định : Không được cho mửa trong trường hợp người có cơ thể suy nhược, người già, phụ nữ có thai, người bị khí hư, mạch hoãn, băng huyết.

c-Phép hạ : (Cho thoát xuống dưới )

Phép hạ là đuổi tà khí ở hạ tiêu ra khỏi cơ thể bằng cách cho xổ phân và nước tiểu trong trường hợp trường vị tích trệ, tích nhiệt, tích độc sinh ra sốt nhiệt, hoặc bón lâu ngày, hoặc trường vị căng cứng đầy ăn không vào, hoặc kiết lỵ, hoặc mỗi lần đi cầu lỏng ra phân xanh kèm đau vùng bao tử là do tà khí còn tích ở trường vị chưa ra hết. Đông y thường sử dụng bài Thừa khí thang (Tiểu thừa khí, đại thừa khí, điều vị thừa khí thang).
Chống chỉ định : Không được cho xổ trong bệnh không thuộc bệnh tích trệ trường vị, bệnh nhân muốn ói không được cho xổ, cơ thể yếu thiếu hơi, thiếu khí, mạch vô lực, chứng âm hư tân dịch khô cạn, ăn uống ít, bao tử yếu, nhu động ruột không co bóp đẩy phân ra lầm tưởng là bón (bón giả), hoặc phân ra nhão ít một thuộc bệnh trường ung ( ung thư ruột ), liệt ruột, tiêu chảy hay bón giả tức là hai ba ngày thậm chí một tuần mới đi cầu một lần đi phân nhão lỏng là do thiếu khí đẩy phân ra.
Trong trường hợp bắt buộc phải dùng phép hạ thì bệnh hư sẽ hư thêm, nên phải tả hạ ít hơn, bổ hư nhiều hơn cho chính khí mạnh mới giúp bệnh mau bình phục.

6- Cách sử dụng phương pháp liễm :

Ngăn giữ không cho thoát mất tinh, khí, huyết, thủy dịch làm mất nước trong bệnh toát mồ hôi đầm đìa, tiêu chảy không ngừng, máu chảy nhiều, xuất tinh di tinh mộng tinh.
Liễm hay sáp là cầm giữ làm ngăn lại sự thoát mất tân dịch có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo trường hợp :

· Liễm : như chứng đổ mồ hôi không cầm lại được phải liễm mồ hôi, chứng thoát khí phải liễm khí.
· Cố : là củng cố, duy trì, gìữ lại, trong phép hồi dương cố thoát ,chứng thoát tinh phải cố tinh bổ thận.
· Cầm : chứng băng lậu xuất huyết chảy máu phải cầm máu, chứng đái iả tiêu chảy không ngừng phải cầm tiêu chảy...
Phương pháp liễm tùy theo chứng bệnh để liễm, sáp, cầm, cố có thể sử dụng huyệt bổ, có thể dùng huyệt tả để đạt được mục đích.

7- Cách sử dụng phương pháp bổ :

Bổ là phương pháp phục hồi hư tổn trong các bệnh thuộc hư chứng để làm cho cơ sở hay chức năng của tạng phủ mạnh lên giúp mau khỏi bệnh. Bổ có nhiều tên gọi tùy mỗi trường hợp khác nhau và bổ ở mỗi người mỗi khác theo nguyên nhân và xét theo hư thực :
· Tuấn bổ : Bổ mạnh đối với bệnh hư nhiều.
· Tư bổ : Bổ từ từ áp dụng trong bệnh mới hư nhẹ.
· Điều bổ : Vừa chữa bệnh vừa bổ áp dụng trong trường hợp người vốn hư yếu nay lại bị một bệnh khác như cảm mạo, phải vừa chữa bệnh vừa bổ hư gọi là điều bổ.
· Tiếp bổ : là bổ thêm âm hoặc bổ thêm dương, một trong hai. Như bổ khí hư làm cho tỳ và vị mạnh.
· Dưỡng âm, tư âm : là bổ hư tổn phần âm.
· Lương huyết : vừa bổ vừa làm mát máu gọi là lương huyết.
· Hành khí, hoạt huyết : Làm cho khí huyết chạy trơn tru không trở ngại.
· Ôn dương, thanh dương : là bổ hư tổn phần dương cho ấm lại hoặc cho mát lại.
· Lý khí : Điều chỉnh, chấn chỉnh lại sự khí hóa , cho tạng phủ hoạt động mạnh hơn, tốt hơn.

Bệnh thực không được bổ, nếu không tà khí sẽ mạnh thêm khiến cho bệnh nặng hơn. Ngay cả trường hợp người vốn suy nhược lại mắc bệnh cảm, nếu chỉ bổ thì tà khí mạnh hơn chính khí sẽ làm cho bệnh nặng thêm, trường hợp này phải vừa tả tà khí vừa bổ chính khí.
Nhưng hãy coi chừng bệnh gốc là cực hư tương phản với dấu hiệu lâm sàng lầm tưởng là thực như mạch phù đại, mặt đỏ tối mà váng đầu, cần phải bổ không được tả làm hư thêm hư.
Nếu bệnh thủy hư có dấu hiệu môi miệng da khô không bổ thủy mà bổ hỏa càng làm mất thủy, hoặc ngược lại đáng bổ hỏa hư có dấu hiệu người lạnh, tiểu nhiều nước trong, da phù láng bóng, lại lầm bổ thủy làm thủy dập tắt mất hỏa thêm.

Áp dụng phương pháp bổ phải đúng nhu cầu của tạng phủ, chữa thuốc phải đúng với bệnh mới hết bệnh. Nhiều người sai lầm khi cảm thấy yếu hơi sức, mệt mỏi ăn uống không được nên đã lạm dụng thuốc bổ sâm nhung làm cho tỳ vị vốn đã hư thêm hư, sinh no hơi sình bụng, tức ngực, khó thở, mệt tim, xáo trộn áp huyết. Thực ra nguyên nhân của bệnh là tỳ vị hư hàn.

8- Cách sử dụng phương pháp tả :

Tả là làm yếu đi, mất đi, đuổi đi, mục đích của cách dùng khác nhau nên có nhiều tên gọi khác nhau như :
Trong trường hợp bón uất nhiệt từ ba ngày trở lên ở hạ tiêu. Dùng thanh nhiệt ở tạng phủ, ở trường vị, ở bàng quang, tả độc tích tụ, miệng họng khô, kiết lỵ, bao tử đầy cứng. Tả xong phải bổ hư tổn.
Chống chỉ định : Không được dùng phép tả trong trường hợp âm hư, tân dịch khô kiệt, vô lực yếu sức, ăn ít, thiếu khí.

Tả thực : Khi sự khí hóa của đường kinh, qúa mạnh, hoặc có tà khí lưu trú ở tạng phủ, cần phải sử dụng huyệt tả trong ngũ du huyệt của đường kinh.
Tiết nhiệt : Khi tạng phủ có nhiều tà nhiệt làm hại đến tạng phủ khác, cần phải làm cho mất tà nhiệt của tạng phủ ấy đi thì gọi là tiết, khác với phép hãn là cho xuất mồ hôi ra ngoài cơ thể, thường tả huyệt vinh hỏa, hoặc bổ huyệt vinh thủy .

Trục hàn, tán hàn : Khi cơ thể có hàn tà ở thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu làm cho đầu lạnh, tay lạnh, chân lạnh, bụng lạnh..cần phải đuổi hàn tà cho mất đi hoặc đi chỗ khác, gọi là trục hàn, tán hàn, thường tả huyệt vinh thủy hoặc bổ huyệt vinh hỏa.

Khu phong ,trục phong : Khi cơ thể bị phong tà do môi trường, thời tiết lục dâm làm co rút gân cơ, bế tắc kinh mạch khiến sưng đau tê nhức, cần phải đuổi phong tà đi để cho kinh mạch được thông , gọi là khu phong ,trục phong.

Khử thấp : Khi cơ thể có thấp tà cần phải đuổi thấp bằng cách cho rịn mồ hôi chứ không phải cho xuất hãn gọi là khư, khứ, hoặc khử thấp.

Hóa tích, hóa ứ, hóa đờm : Khi cơ thể có một chỗ nào đó bị tắc nghẽn do huyết tụ, hoặc đờm tụ làm trở ngại sự tuần hoàn của kinh mạch, cần phải làm cho nó tan biến đi ra chỗ khác hoặc cho biến mất đi, gọi là hóa.

Tiêu trệ :Tiêu dùng trong trường hợp người hư nhược có nhiệt tà, không bổ không tả được phải dùng phép tiêu, làm cho tiêu mòn dần những vật tích tụ như làm tiêu đàm, tiêu thức ăn, tiêu khí tích, huyết tích, tiêu khối trưng hà ( một loại bướu tử cung), sán khí, loa lịch (một loại bướu cổ) gây khó thở, nặng bụng, căng tức, đầy hơi, ngăn nghẹn không được thông, cần phải làm cho mất tình trạng ấy đi gọi là tiêu. Bệnh có thực có hư, thực thì tả, hư thì bổ.

Chống chỉ định : Bướu chai mà khí hư, tỳ suy ăn không tiêu, hoặc huyết hư làm cho thịt da chai sần sùi không được dùng phép tiêu, vì là bệnh thuộc hư cần phải bổ khí, bổ tỳ huyết.

Giải biểu hàn, biểu nhiệt : Trong trường hợp bị ngoại cảm, phải đuổi hàn tà, nhiệt tà ra khỏi cơ thể không cho xâm nhập lấn sâu vào phần lý gọi là giải biểu.

C-Áp dụng quy luật quân bình :

Xét bệnh theo đông y hay tây y, khi cơ thể bị bệnh có nghĩa là cơ thể đã mất quân bình về khí huyết do dư thừa hay thiếu đi một chất nào đó, thí dụ như dư đừờng, dư cholestérol, dư chất sắt, dư chlor, dư natri, dư calcium, thiếu calcium, thiếu máu, thiếu khí lực .. Cách chữa của tây y là dùng thuốc để loại bỏ chất dư thừa hoặc bổ sung chất thiếu. Thử nghiệm máu trước và sau khi điều trị thấy kết qủa tốt, thay vì ngưng không dùng thuốc nữa thì bệnh lại tái phát, cho nên phải dùng thuốc suốt đời không dám bỏ.
Khác với tây y, đông y chữa bệnh tức là điều chỉnh lập lại sự quân bình hòa hợp của tổng thể ngũ hành, khi hết bệnh có thể bỏ thuốc chứ không nên tiếp tục lạm dụng thuốc sẽ trở thành mất quân bình gây ra biến chứng thành một bệnh khác, thí dụ như :

1-Nếu lạm dụng thuốc chữa bệnh cao áp huyết :


Như áp huyết đã hạ bình thường mà tiếp tục hạ nữa sinh bệnh khác, mất máu não, đi lảo đảo, té ngã sinh bại liệt chân tay mềm nhũn, thay vì cao áp huyết qúa sẽ đứt gân máu sinh liệt co cứng tay chân. Những biến chứng của việc lạm dụng thuốc chữa bệnh cao áp huyết như suy tim do thuốc giãn mạch, suy hô hấp do thuốc giãn mạch và thuốc chẹn dòng giao cảm, suy thận mãn tính do hạ áp huyết và thuốc lợi tiểu, lách to do thuốc phong bế giao cảm, đau lưng nhức mỏi, phong thấp khớp, bị bệnh tiểu đường do thuốc lợi tiểu, gỉảm áp huyết ở thế đứng do thuốc và do ăn uống, biến chứng hạ áp huyết ở thế đứng và thuốc hạ đường-huyết làm hại mắt, phù gai thị do thuốc giãn mạch và cuối cùng bị tai biến mạch máu não do dùng thuốc không hợp lý sẽ bị hôn mê do một trong ba nguyên nhân xuất huyết não, khối máu tụ trong não, hoặc nhũn não.

2-Nếu lạm dụng thuốc chữa bệnh tiểu đường :


Dư đường trong máu, đường sẽ biến thành men khiến cho máu nóng ẩm thấp làm hư hỏng da sinh bệnh hoại tử phải cưa tay chân, đường nhiều làm tăng nồng độ máu gây tăng áp huyết, suy thận nên tuyến thượng thận không sản suất insulin để làm giảm lượng đường trong máu, lúc đó cơ thể cần phải được bổ sung insulin từ ngoài vào để hạ đường, nhưng ngược lại nếu lạm dụng thuốc hạ đường hoặc kiêng cữ không ăn đường khiến cơ tim không co bóp sẽ bị suy tim, nhồi máu cơ tim làm chết người.

3-Nếu lạm dụng thuốc calcium :


Tùy theo loại calcium nào, dạng bột, dạng nước, dạng sủi bọt, dạng thiên nhiên có trong thực phẩm như mè đen, đậu nành, rau brocoli, fromage...
Nếu dư calcium khiến áp huyết tăng, thân nhiệt tăng, sưng tuyến giáp trạng. Riêng thuốc viên bột calcium làm xương khô dòn dễ gẫy và mòn sụn ở khớp đầu gối do ma xát đi lại nhiều, sống lưng bị cứng, các đĩa đệm bị khô, thận và bàng quang có sạn do dư thừa chất vôi bột trong thận, trong máu làm cho máu đặc, mà thật ra xương cũng vẫn xốp do cơ thể không hấp thụ và chuyển hóa.

Chất xúc tác để chuyển hóa thức ăn thành máu, sinh tinh, hoá tủy để nuôi xương, còn giúp xương cứng chắc bền dẻo là nhờ chất lân, xương sẽ không bị xốp và bị dòn dễ gẫy. Chất lân có trong chuối, trong cá, dân tộc Việt nam ta xưa kia không biết đến viên thuốc calcium là gì, chỉ cần theo thói quen tự nhiên sau mỗi bữa cơm thì ăn một qủa chuối tráng miệng, trong bữa cơm thường có đậu hũ, cá, tép rang, cá cơm đều là những chất giúp bổ xương, ngoài ra thức uống có chất bổ xương là sữa đậu nành. Trong trường hợp chúng ta có ăn những thức ăn kể trên mà vẫn bị xốp xương thì đông y điều chỉnh lại hệ thống chuyển hóa ở chức năng tuyến thượng thận chứ không uống calcium để bổ xương, hệ thống chuyển hóa cần vitamine A,D, chất lân có trong dầu cá, trong rau và nhờ ánh nắng mặt trời giúp chuyển hóa A,D, chất lân, để cho xương cứng chắc, nếu hệ thống chuyển hóa trong cơ thể hư hỏng thì dù có uống calcium nó cũng không chuyển hóa được calcium vào xương cho nên các khớp bị đóng vôi và trong máu có thừa chất vôi, còn xương vẫn xốp. Như vậy có nghĩa là bổ xương bằng chất vôi loại viên bột không có lợi cho sức khỏe. Có loại calcium dạng lỏng dùng để chích tan trong máu mà tây y thường dùng để cấp cứu cho những người bị phản ứng khi chích péniciline bị lạnh rét, thân nhiệt hạ nhanh gây co cứng toàn thân, lúc đó chúng ta mới biết tính dược của calcium là làm cho cơ thể phục hồi thân nhiệt nhanh. Chúng ta thử suy nghĩ và thắc mắc tự hỏi, nếu thực sự cơ thể cần calcium để bổ xương, tại sao không dùng thuốc chích, có lợi hơn là thuốc viên bột, để tránh phản ứng phụ là mòn khớp xương, bị sạn thận, hoặc nhiều cặn do ăn mặn trong bệnh cao áp huyết làm dư thừa Natri tạo ra phản ứng kết tủa vôi đóng thành sạn ở bàng quang. Trong các quân y viện ở Việt nam các thương binh thường dùng loại calcium chích không phải để chữa xốp xương, mà để giúp mau lành các chỗ xương bị gẫy, giúp cho tuần hoàn máu, chống loãng máu, và tăng thân nhiệt, nếu lạm dụng chích nhiều áp huyết sẽ tăng làm đứt mạch máu não. Trong bệnh lao phổi cũng cần đến calcium để làm ấm phổi, mau lành vết thương trong phổi chứ không phải để làm cứng xương, nếu nó có thể làm cứng xương thì nó cũng có thể làm cho cứng các xoang phổi không thở được. Ở bắc Mỹ chúng ta có loại rau brocoli chứa nhiều calcium thuộc dạng dễ hấp thụ và chuyển hóa, không bị đóng cặn, không bị tăng thân nhiệt và không bị táo bón như dùng thuốc calcium viên bột.

4-Nếu lạm dụng uống nhiều nước một lần :


Đau lưng, cột sống bị chèn ép, đau sưng đầu gối, ung thư ruột gìa do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có một nguyên nhân do uống nhiều nước thì ít ai biết đến. Thể tích chứa của trực trường có giới hạn an toàn khoảng 250cc, nếu uống một hơi nửa lít hoặc 1 lít làm cơ co bóp của nhu động ruột giãn nở quá mức sinh liệt ruột mất tính đàn hồi, sẽ bị sa xệ chèn ép động mạch háng gây tắc tuần hoàn khí huyết đi xuống chân nuôi chân đùi gối và kéo căng dây thần kinh cột sống khiến đau lưng, thoái hoá đĩa đệm.

D- Áp dụng tính hợp lý :

Cách dùng thuốc cũng phải hợp lý, có tính logic .Một loại thuốc dùng để chữa bệnh như nhức đầu, đau bụng, mụn nhọt ghẻ lở.. bác sĩ cho toa mua thuốc uống đến khi khỏi bệnh thì thôi không cần phải uống nữa, đó là thuốc trúng bệnh, chứ không có vị bác sĩ nào dặn bệnh nhân cứ tiếp tục uống suốt đời để ngừa bệnh tái phát. Ngược lại thuốc uống trị cao áp huyết, tiểu đường cứ phải uống suốt đời như vậy thì thuốc đó không trúng bệnh, không phải để chữa bệnh mà chỉ có tính chất ngừa bệnh. Tây y chúng ta tin là giỏi không thể chối cãi được sự tiến bộ vượt bực của ngành y khoa, cũng vì thế mà chúng ta cho rằng tây y đã không chữa được bệnh cao áp huyết, tiểu đường, phong thấp khớp, loãng xương, cancer là những bệnh nan y, thì không thể nào có ngành y khoa nào khác chữa được, thế là chúng ta đành bó tay buông xuôi chờ đợi những rủi ro không tránh khỏi khiến chúng ta phải mang tật nguyền hoặc bị chết trong oan uổng, trái với tinh thần cầu sống của dân tộc Á đông ‘’còn nước còn tát’’ .
Trên thế giới mặc dù các quốc gia đều áp dụng tây y theo tiêu chuẩn quốc tế toàn cầu, nhưng ngoài ra, mỗi quốc gia vẫn còn duy trì và tồn tại ngành y học truyền thống mà không vứt bỏ, chứng tỏ nó còn hữu dụng và cần thiết để bổ sung cho tây y, và dần dần được khoa học khám phá ra những kết qủa đối chứng lâm sàng, cái hay sẽ được tây y hóa thành một môn y khoa tổng hợp sẽ đem lại nhiều lợi ích cho nhân loại.

Chúng ta nói còn nước còn tát ở đây, có nghĩa là Tây y bó tay bảo chúng ta chờ cái chết đến thì chúng ta còn có đông y, đông y bó tay thì còn khoa chữa bệnh bằng thức ăn, bằng tập khí công, bằng phương pháp thiền..Theo lý thuyết đông y, bệnh tật con người đều do xáo trộn khí huyết bởi ba yếu tố tinh-khí-thần dẫn đến bệnh nặng nhất mà tây y bó tay là cancer. Yếu tố tinh là do lạm dụng cách ăn uống không thanh đạm mà nhiều béo bổ, lạm dụng nhiều thuốc chữa nhiều bệnh lặt vặt của nhiều bác sĩ cho cùng một lúc khiến cho cơ thể là một thùng rác chứa nhiều độc tố, nhiều thuốc tương phản đố kỵ nhau cho ra phản ứng hóa học bất lợi gây xáo trộn thần kinh và hệ nội tiết khiến hệ miễn nhiễm suy nhược. Yếu tố khí là hơi thở vận động để chuyển hóa thức ăn thuốc uống thì không chú ý tới vì công ăn việc làm bận rộn, ăn không có thì giờ nghỉ ngơi, hoặc làm biếng , do đó yếu tố khí suy giảm không giúp cho cơ thể chuyển hóa. Yếu tố thần thì bất an, lo sợ bệnh hoạn, nếu bác sĩ cho mình biết có dấu hiệu bị bệnh cancer thì yếu tố tinh thần suy sụp buông thả khiến các chức năng hoạt động sinh hóa và chuyển hóa của cơ thể làm việc kém hiệu qủa khiến bệnh trầm trọng hơn.

Theo đông y, chúng ta có thể chủ động để điều chỉnh lại bộ ba tinh-khí-thần.
Về yếu tố tinh, bớt ăn uống nhiều bổ béo, ăn uống có điều độ, bỏ bớt thuốc không cần thiết, uống càng ít thuốc và càng cách xa giờ để thuốc có thời giờ chuyển hóa mới uống đến thuốc khác, mà không nên uống cùng lúc chúng sẽ tạo phản ứng xấu trong bao tử trong thời gian chờ đợi chuyển hóa.

Về yếu tố khí, nên tham dự các lớp khí công, hoặc bơi lội, giúp cho cơ thể nhiều khí lực để chuyển hóa thức ăn thuốc uống thành chất bổ dưỡng nuôi cơ thể, và giúp đào thải cặn bã ra khỏi cơ thể được nhanh và đều đặn mỗi ngày.
Về yếu tố thần, tham dự các khóa thiền để tĩnh tâm, dưỡng tâm an thần, khí công thiền để khai thông huyệt đạo giúp khí huyết lưu thông khắp cơ thể chống được đau đớn do khí huyết bị ứ tắc.

Về cách chữa bệnh của đông y, thầy thuốc sẽ giúp cho bệnh nhân ăn không được sẽ ăn được, ngủ không được sẽ giúp cho ngủ được, thở không được vì khí nghịch, đờm chặn ở phế khí quản sẽ có thuốc giúp cho khai thông tán đờm làm cho thở được dễ hơn, đầy bụng ăn không tiêu sẽ giúp cho tiêu hóa tốt, tiểu bí không ra sẽ giúp cho tiểu được, đại tiện không thông, bị táo bón sẽ giúp cho xả ra nhiều, đau đớn sẽ làm cho hết đau... Có nghĩa là đông y chữa bệnh bằng cách điều chỉnh dần bộ ba tinh-khí-thần cho đến lúc nào hệ thống nội tiết và hệ miễn nhiễm phòng chống bệnh tự chúng có thể hoạt động mạnh trở lại như bình thường thì con người hết bệnh tật chứ không chú trọng đến tiêu diệt tế bào cancer.

Đối với tây y chủ trương bỏ đói không cho tế bào cancer phát triển, nhưng chúng ta thử nghĩ, thí dụ nếu cơ thể có 100 tế bào trong đó có 30 tế bào cancer. Bỏ đói cơ thể cho 30 tế bào cancer bị đói đến chết thì 70 tế bào khỏe cũng bị đói đến chết khiến cơ thể bệnh nhân suy nhược, mệt mỏi rã rời, trong khi đó cơ thể phải bị hành hạ bởi hóa chất trị liệu, xạ trị, cuối cùng tế bào cancer chưa chết, chỉ có bệnh nhân yếu sức, đau đớn cho đến chết ôm theo tế bào cancer chết theo như một cảm tử quân bất đắc dĩ .Tại sao chúng ta không nghĩ ngược lại, giúp cho các tế bào mạnh lên thì thế trận giữa địch và ta vẫn giữ ở tỷ lệ 30%, đông y dùng hà thủ ô trong đó có thành phần chính là chất lécithin có khả năng liên kết các màng tế bào không cho phát triển vô tổ chức. Cơ thể muốn có các tế bào khỏe để trở thành đoàn quân mạnh tự tiêu diệt tế bào cancer thì yếu tố tinh thần phải vững mạnh, có niềm tin tất thắng, có nghĩa là tinh thần phải vận động tâm lý chiến thì chúng mới không bỏ hàng ngũ theo địch, lúc đó thực sự tế bào cancer bị cô lập và tự hủy hoại và biến mất.

Ngoài cách chữa bệnh cancer tây y còn đang nghiên cứu, nhưng còn đối với các bệnh nan y khác thì vẫn có sự lạm dụng thuốc vô lý vì cách dùng thuốc với mục đích là chữa cho khỏi bệnh chứ không phải chữa chưa khỏi bệnh này lại bị biến chứng sang bệnh khác khiến cho bệnh từ nhẹ đến nặng. Thuốc không phải dở, cũng không phải bác sĩ khám dở, mà do một bệnh có liên quan đến nhiều tạng phủ, phải tìm gốc bệnh để chữa gốc, chứ không phải chữa riêng từng khoa, như bác sĩ chuyên khoa tim mạch cho thuốc tim mạch, chuyên khoa bao tử và đường ruột cho thuốc trị bao tử và ruột, chuyên khoa thần kinh cho thuốc an thần, chuyên khoa phổi cho thuốc trị phổi, chuyên khoa gan cho thuốc trị gan, còn những thứ thuốc khác như thuốc đau nhức phong thấp, thuốc loãng máu, thuốc chống loét bao tử, thuốc chống mục xương khi phải nằm lâu.. Chúng ta cứ tưởng tượng mỗi loại bệnh chỉ cần uống 3 viên một ngày, nếu chúng ta có tám hay mười loại bệnh, các loại thuốc này vào bao tử cùng một lúc, nó có được phân phối riêng rẽ cho từng loại bệnh mà bác sĩ mong muốn hay không, hay cơ thể chúng ta là thùng rác chứa độc tố, chúng lại tạo ra một hợp chất biến thành xung khắc hại cơ thể thêm. Nếu chúng ta thử nghiệm đem những thuốc này cùng một lượt hòa chung với nhau rồi cho chó uống thử xem chó có chết hay không ? Ở xứ này không ai dám thử, nếu chó có chết thì cũng huề cả làng. Tuy nhiên con người có sức đề kháng mạnh, cứ uống thẳng tay cho hết thời gian trị liệu, một là sống hai là chết. Khi bệnh chính khỏi rồi sau đó lại tiếp tục chữa đến bệnh khác do biến chứng của thuốc nhất là bệnh gan nhiễm độc, bệnh tâm thần, si khờ, mất tri giác, chân tay tê cứng liệt, đi đứng ăn uống khó khăn, nằm một chỗ lại phải uống thuốc suốt đời cho đến chết chỉ là thời gian sớm hay muộn mà thôi.

Một số không ít những gia đình ở Việt nam đi nước ngoài theo diện đoàn tụ hay H.O. đã từng gặp cảnh vĩnh biệt những người thân trong cảnh éo le, nghẹn ngào, khi phải chết bất đắc kỳ tử trong giai đoạn uống thuốc trị lao trước khi được Cao ủy Liên hiệp quốc cho phép xuất cảnh. Tôi có một người thân, tuổi khoảng 70, ông bị lao phổi ở tuổi 40 đã chữa khỏi, người rất khỏe mạnh, trước năm 1975 là người thành công trong sự nghiệp, và đang hưởng thú điền viên, ngày ngày đạp xe đạp dạo chơi ở các chợ bán cây cảnh và có thú vui nuôi chim. Khi ông được đi Mỹ diện H.O. theo con, phải qua kỳ khám sức khỏe, phổi ông còn vết sẹo cũ nên phải uống thuốc lao, ông uống được 3 tháng, khi chụp phổi lại, vết sẹo không biến đổi, họ nghĩ chữa lao là sai lầm, cho ông đi bệnh viện ung thư để thử xem có phải ung thư không, thử tới thử lui mãi ông bị suy nhược, khó thở, mất ngủ, ăn uống không được, cho đến ngày lên danh sách chuyến bay thì ông từ gĩa cõi đời một cách oan uổng. Một trường hợp khác cũng đi đoàn tụ, người chồng phải uống thuốc lao chỉ vì hồi nhỏ bị té ngã từ trên cây cao xuống đất, phổi có vết sẹo, anh uống thuốc được khoảng 5 tháng thì bị chai gan, biến chứng thành bệnh cao áp huyết, sau bị tai biến mạch máu não rồi lìa đời. Vậy tục ngữ còn nước còn tát, cũng còn phải tùy tát theo kiểu nào, để không bị biến chứng khác có hại cho cơ thể sau khi khỏi bệnh.

Phân biệt bệnh chứng theo ngũ hành tạng phủ

Mục đích của bài này giúp cho học viên biết phân biệt các loại bệnh theo âm dương cơ sở chức năng trong và cơ sở chức năng ngoài để tìm những huyệt điều chỉnh cho phù hợp với cơ sở chức năng trong, cơ sở chức năng ngoài trên Du Mộ huyệt, trên Nhâm Đốc, trên 12 kinh cũng đã được phân biệt âm dương, cơ sở chức năng trong ngoài, và theo nguyên tắc chữa con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con, và theo nguyên tắc âm bệnh lấy dương chữa, dương bệnh lấy âm chữa, và phép tả từ trong âm ra dương, phép bổ từ ngoài dương vào âm.

1-Biểu tượng của hành KIM trong đông y :

Kim theo mùa là khí khô (táo khí) thuộc mùa thu, vị cay vào phổi, mùi tanh, mầu trắng, thuộc âm thanh , khóc, âm nốt thương (trong 5 nốt âm nhạc cổ điển : cung, thương, giốc, chủy, vũ), cơ sở vật chất bên trong là phổi, cơ sở vật chất bên ngoài là mũi, da, lông, dịch chất là nước mũi, tâm lý là buồn.
Dấu hiệu Bệnh chứng kim thực gồm tạng và phủ : Đau đầu, hoa mắt, amydal, tay rã rời.
Dấu hiệu Bệnh chứng kim hư gồm tạng và phủ

: Ù tai, cảm giác buồn bực không vui, hay sợ cuống quít.

a-Dấu hiệu bệnh chung của Cơ sơ và chức năng của Phế bệnh:

như ho suyễn, buồn phiền, đau ở vùng vai khuyết bồn (hõm vai) trên đường kinh phế
(cơ sở trong phế như tế bào, xoang phế, lá phổi gọi là âm trong âm, cơ sở ngoài phế như mũi: âm trong dương, chức năng trong phế như hô hấp co giãn nhịp thở gọi là dương trong âm, chức năng ngoài phế như điều hòa độ ẩm trong niêm mạc mũi : dương trong dương) :

Chứng Phế thực

: Ho suyễn nhiệt, khí nghịch, ra máu, ra mồ hôi, sưng đau phổi, hầu, họng.
Chứng Phế hư

: Ho suyễn hàn, khô họng, hô hấp yếu khó khăn, tay chân lạnh, tê buốt da.

b-Dấu hiệu bệnh chung của cơ sở và chức năng của Đại trường

là bệnh Trĩ, sợ lạnh, rét run..
(cơ sở trong đại trường là tế bào, ruột gọi là âm trong âm, cơ sở ngoài đại trường như hậu môn gọi là âm trong dương, chức năng trong đại trường như co bóp, thẩm thấu nước ra khỏi màng ruột cho thấm vào bang quang, giữ lại cặn bã thành phân gọi là dương trong âm, chức năng ngoài đại trường như co thắt cơ vòng hậu môn đẩy phân ra ngoài cơ thể gọi là dương trong dương) :

Chứng Đại Trường Thực

: Đau răng, đầy bụng, họng khô, sưng cổ, má, mình nóng, viêm amydal, ho suyễn, chảy máu cam.
Chứng Đại Trường Hư

: Môi khô, hư khát mà không uống được nước, sôi ruột, tiêu chảy.

2-Biểu tượng của hành THỦY trong đông y :

Thủy theo mùa là khí hàn thuộc mùa đông, vị mặm vào thận, mầu đen, âm thanh rên (âm nốt vũ, cơ sở vật chất trong là qủa thận, cơ sở ngoài là tai, xương, râu, tóc, bộ sinh dục, dịch chất là nước bọt, tinh dịch, tế bào não, tâm lý là sợ hãi
Dấu hiệu Bệnh chứng thủy thực gồm tạng và phủ

: Bệnh ở não, động kinh, lưng nẩy ngược, vai cứng đơ.
Dấu hiệu bệnh chứng thủy hư gồm tạng và phủ

: Đau tim, tiểu nhiều, tức đầy bọng đái khi tiểu, lạnh vai.

a-Dấu hiệu bệnh chung của Cơ sở và chức năng của Thận bệnh

: như ho, mửa, ỉa ra máu, bệnh về bô sinh dục .
(cơ sở trong thận như tế bào, tuyến thượng thận, qủa thận gọi là âm trong âm, chức năng trong thận như lọc nước, máu, mỡ, muối, đường, chất vôi, đìều hòa hormone...gọi là dương trong âm, cơ sở ngoài thận như tế bào nuôi dưỡng tai, xương, râu, tóc.. gọi là âm trong dương, chức năng ngoài thận như khả năng nghe, nhìn, xương cốt, răng, tóc, hoạt động còn tốt hay xấu gọi là dương trong dương)

Chứng Thận thực

: Khí nghịch làm ho suyễn, gan bàn chân nóng, bụng dưới căng đầy, tức ngực, nhai lưỡi khô, hay sợ sệt.

Chứng Thận hư

: Tiêu chảy, mình và thắt lưng lạnh, tay chân nặng nề, tê, tiểu đỏ vàng, hay quên, ù tai, điếc, chóng mặt, không muốn ăn, tinh dịch bất túc, suy nhược sinh dục về tinh huyết.

b-Dấu hiệu bệnh chung của cơ sở và chức năng của bàng quang

như đau sau đầu do khí thuộc dương trong dương, do huyết thuộc âm trong dương..

Chứng bàng quang thực

: Bệnh ở não (thuộc âm trong dương), động kinh (thuộc dương trong dương), đau mắt, chảy máu cam (thuộc âm trong dương).
Chứng bàng quang hư

: Đau nhức cẳng chân, ống chân, đau thắt lưng do khí thuộc dương trong dương, do huyết thuộc âm trong dương, bệnh trĩ thuộc âm trong dương.

3-Biểu tượng của hành MỘC trong đông y :

Mộc theo mùa là phong khí thuộc mùa Xuân, vị chua vào gan, mùi hôi, mầu xanh, âm thanh là la hét, cơ sở vật chất trong là lá gan, cơ sở ngoài là mắt, gân, sợi thần kinh, móng tay, dịch chất là nưóc mắt, tâm lý là giận.
Dấu hiệu bệnh chứng mộc thực gồm tạng và phủ : Mửa do khí nghịch, mắt đỏ, tiêu hóa kém.
Dấu hiệu bệnh chứng mộc hư gồm tạng và phủ

: Thần kinh suy nhược, hay giật mình, hô hấp yếu, ý thức mông lung.

a-Dấu hiệu bệnh chung của Cơ sở và chức năng của Gan bệnh :

Chứng can thực :

Đau mắt, chóng mặt, cứng dưới sườn, đầy bụng, nóng lạnh, bệnh sinh dục về gân cơ co thắt cứng mềm.
Khi chữa, các bệnh trên phải biết phân biệt được do huyết (âm) hay do khí (dương) thuộc cơ sở (âm) hay do chức năng (dương) để xếp bệnh thuộc âm trong âm, âm trong dương, dương trong âm, dương trong dương, lúc đó mới có thể tìm được huyệt chữa đúng.
Chứng can hư :

Thị lực giảm, gân tay chân yếu, nghẹt cứng dưới tim, bụng căng sình, sa xệ ruột, tiểu nhiều lần do cơ vòng yếu, tinh giảm.

b- Dấu hiệu bệnh chung của Cơ sở và chức năng của Đởm (túi mật) bệnh :

Chứng Đởm thực

: Đau nặng 1 bên đầu, sợ lạnh, sốt ra mồ hôi, đắng miệng, bụng nặng không muốn ăn, dễ nổi giận.
Chứng Đởm hư

: Chóng mặt, vàng da, thở yếu, gân tay chân yếu.

4-Biểu tượng của hành HỎA trong đông y :

Hỏa theo mùa là hỏa khí, nhiệt khí, thử khí thuộc mùa hè, vị đắng vào tim, mùi khê khét, mầu đỏ, âm thanh nốt chủy, cơ sở trong là qủa tim, màng bao tim (tâm bào) cơ sở ngoài là lưỡi, huyết mạch động mạch và tĩnh mạch, dây thần kinh thuộc hệ thống tam tiêu , dịch chất là mồ hôi, tâm lý là vui cười.
Dấu hiệu bệnh chứng mộc thực gồm tạng và phủ

: đau đầu, thân nhiệt nóng, tâm không yên, không muốn nằm, đại tiện khó, kém ăn.
Dấu hiệu bệnh chứng thuộc mộc hư gồm tạng và phủ

: Sợ lạnh, hô hấp yếu, chân tay lạnh, bệnh kiết lỵ.

a-Dấu hiệu chung của cơ sở, chức năng của Tâm, Tâm bào bệnh :

Chứng tâm thực

: Mình nóng, họng khô, đại tiểu tiện khó, bao tử căng, chân tay nặng nề.
Chứng tâm hư

: Đau dưới tim, hồi hộp, cơn đau tim kịch phát, bất an, nói sàm, ý mông lung.
Chứng Tâm bào thực

: Đau tim, mặt đỏ, sưng nách, đau tức ngực sườn, co quắp tay.
Chứng tâm bào hư

: Bức rứt nóng nảy, tim hồi hộp, lòng bàn tay nóng.

b-Dấu hiệu chung của cơ sở, chức năng của Tiểu trường , Tam tiêu bệnh :

Chứng tiểu trường thực

: Mình nóng ra mồ hôi, nóng đau bụng dướI, bức rứt, lở nhọt miệng, cổ sưng cứng đơ.
Chứng tiểu trường hư

: Đau nửa đầu sau tai, điếc, mắt vàng
Chứng Tam tiêu thực

: Sưng viêm họng, thanh quản, amydal, đau sau tai, đau khóe mắt, đầu mặt nóng đỏ ra mồ hôi, ù tai, đầy cứng bụng dưới
Chứng Tam tiêu hư

: Thiếu khí, hô hấp yếu, lạnh bụng.

5-Biểu tượng của hành THỔ trong đông y :

Thổ theo mùa là khí thấp thuộc mùa trưòng hạ (cuối hạ đầu thu), vị ngọt vào tỳ, mùi thơm, mầu vàng, âm thanh hay hát, cơ sở trong là lá mía, tụy tạng, cơ sở ngoài là môi miệng, bắp thịt, vú, dịch chất là nước dãi, tâm lý lo âu.
Dấu hiệu bệnh chứng thổ thực gồm tạng và phủ : Kém ăn, ỉa khó, viêm đau căng bao tử, bức rứt tim, khó nằm.
Dấu hiệu bệnh hư chứng gồm tạng và phủ

: Bao tử cảm thấy trống, hô hấp yếu, bao tử lạnh, tiêu chảy, ăn không tiêu.

a-Dấu hiệu chung của cơ sở, chức năng của Tỳ bệnh :

Chứng tỳ thực :

Bụng căng, tim bức rứt, trúng thực nôn mửa, cẳng chân nóng.
Chứng tỳ hư

: Vàng da, tiêu chảy, trung tiện, ăn ngủ không ngon, cơ thể mệt mỏi, chân tay nặng nề.

b-Dấu hiệu chung của cơ sở và chức năng của Vị bệnh :

Chứng Vị thực

: Đau bụng, nóng không mồ hôi, khô môi miệng, ợ hơi, ung thư vú, sưng đau thấp khớp.
Chứng Vị hư

: Sợ lạnh, lạnh chân, khô môi miệng, sôi ruột, nặng nề dễ mệt, kém ăn, mặt sưng húp.

Tóm tắt :

Muốn tìm đúng bệnh, chữa đúng huyệt theo phương pháp đông y khí công, hãy thực tập lý luận sắp xếp mỗi tên bệnh ra 3 yếu tố chính :
1-Tên gọi là chứng gì ?
2-Thuộc bệnh hư hay thực
3-Bệnh đó thuộc loại nào trong 4 loại như âm trong âm, âm trong dương, dương trong âm hay dương trong dương.

Dấu hiệu lâm sàng của nhiều dấu hiệu bệnh (symptoms) thuộc một chứng (système)

A- PHẾ :

1-Chứng Phế hàn :


Chứng phế hàn có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây : Co thắt phế quản, dị ứng hô hấp, đau tức sườn ngực không nằm ngửa được, nặng mí mắt, không khát, rêu lưỡi trắng trơn.

2-Chứng Phế nhiệt :


Chứng Phế nhiệt có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây : Sốt cao, mắt và 2 gò má đỏ, cổ họng đỏ đau, khát nước, đờm đặc có khi lẫn máu, ho đau ran ngực lưng, viêm nhiễm hô hấp, có sung huyết, đại tiểu tiện táo.

3-Chứng Phế hư :

Chứng Phế hư có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây : Thở khẽ, ngắn hơi, (thiểu hô hấp) tiếng nói yếu thấp, mặt nhợt trắng, tự ra mồ hôi, cổ họng khô không đau, da khô nhăn, ho suyễn hàn, chân tay lạnh, da tê buốt.

4-Chứng Phế thực :

Chứng Phế thực có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Ho suyễn nhiệt, ngực sườn đây đau tức, khó thở phải ngẩng đầu lên mới thở được, đau vai, lưng, cùi chỏ, đầu gối, cẳng chân, khí nghịch, ra mồ hôi, sưng đau hầu họng phổi.

B- THẬN :



1-Chứng Thận hàn :

Chứng thận hàn có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Do khí lạnh vào thận làm nở to thận, mắc đi tiểu luôn làm tinh khí bạc nhược, chân đùi mỏi đau, hàn khí kết thành sạn thận, đàn ông bị sưng hòn dái, di tinh, mộng mị, đàn bà bị huyết kết ở tử cung làm tắc kinh, kinh nguyệt không đều, đau tử cung, ngứa âm hộ, bệnh nặng để lâu không chữa kịp thời sẽ thành bệnh ung hư tử cung.

2-Chứng thận nhiệt :

Chứng thận nhiệt có dấu hiệu của 1 hay nhiều bẹnh sau đây :
Vì hỏa dư ức chế thủy nên đàn ông bị bệnh di mộng tinh, đái són từng giọt đau buốt, đàn bà sưng nóng âm đạo, tổn suy tinh lực, có đường trong máu, gan bàn chân nóng.

3-Chứng Thận âm hư :
Chứng thận âm hư có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Di tinh, ù tai, răng lung lay, đau lưng đùi ê ẩm, liệt dương, ho lâu ngày, nóng về đêm, mồ hôi trộm, gầy còm suy nhược, âm hư hỏa vượng do suyễn, viêm nhiễm lâu ngày, mất dịch chất nên miệng khô, đau họng, táo bón, tiểu ít, huyết áp tăng.

4-Chứng thận dương hư :

Chứng thận dương hư có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Hai chân lạnh, mình nặng nề, khí nghịch, bụng đầy, hay tiêu chảy lúc gần sáng, suyễn, da mặt sạm đen, gầy ốm, áp huyết thấp.

5-Chứng thận thực :

Chứng thận thực có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Bụng lớn, cẳng sưng to, ho suyễn do khí nghịch, thân nặng nề, sợ gió, gan bàn chân nóng, tiểu ra máu, đàn bà con gái sinh lậu huyết.

C- GAN :



1-Chứng Can hàn :

Chứng can hàn có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Can tàng huyết, huyết bị lạnh sinh ra sán lãi quấy phá làm đêm mất ngủ, nếu hàn tà tích tụ lâu trong gan sẽ làm viêm gan, ung thư gan. Huyết hư hàn không nuôi gan làm nhiệm vụ khí hóa nên gân mạch yếu, tuần hoàn huyết không không ra đều đến đầu tay chân làm các khớp ngón tay chân khó cử động co duỗi, gân lưng co rút.

2-Chứng Can nhiệt :

Chứng can nhiệt có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Hỏa thiêu cân là dư hỏa làm gân cơ co rút, huyết nóng làm sưng đau cổ họng, sốt rét, mắt mờ do bốc hỏa, lưỡi đỏ, miệng đắng, môi khô, ngủ sợ mê, do viêm nhiễn gan mật làm bài tiết kém và gây nhiễm độc thần kinh sinh co giật, sưng má, bệnh lậu.

3-Chứng Can hư :

Chứng can hư có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Ù tai, hoa mắt, choáng váng, tay chân da thịt tê dại mất cảm giác, móng chân tay khô, huyết áp hạ thấp không đủ máu lên đầu ra mắt, tai làm giảm thị lực và thính lực, gân chùng, yếu, không có sức cảm thấy sợ như có ai bắt, dưới tim nghẹt cứng, tiểu nhiều lần do cơ vòng yếu, tinh giảm, bụng sình, sa xệ ruột.

4-Chứng Can thực :

Chứng can thực có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Tức giận, đau cứng sườn ngực lan xuống bụng dưới, đầy bụng, nôn mửa nước chua, ho suyễn, thở kém, gan chân tay co rút, mắt đau, hoa mắt đầu choáng váng, điếc tai do co thắt thần kinh, huyết áp tăng, trường vị co thắt làm bón, ngoại vi ứ trệ, nóng lạnh, bệnh sinh dục..

D- TÂM :



1-Chứng Tâm hàn :

Chứng tâm hàn có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Nói mê sảng, cứng ngọng lưỡi không nói được, huyết hư, mất thần, tâm thần suy nhược, khí uất ở đầu làm mất ngủ, khí uất ở mắt làm nhức mắt, ở bụng làm băng lậu huyết. Nếu do hàn tà ở thận tràn lên làm đáy tim nở lớn làm đau dưới tim sinh uạ mửa, lở miệng, lòng bàn tay nóng dữ.

2-Chứng Tâm nhiệt :


Chứng tâm nhiệt có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Đau tim, đau các đốt xương, đau sườn ngực do đàm hỏa tích tụ, sắc mặt đỏ phừng phừng, cuồng dại, hại đường ruột nóng sinh giun sán quậy phá.

3-Chứng Tâm hư :

Chứng tâm hư có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Suy nhược thần kinh, sợ, hồi hộp, hay quên, lưỡi nhợt nhạt, mất ngủ, mất sức, đổ mồ hôi, thiếu máu, mắt mờ, gai sốt, chân tay lạnh giá.

4-Chứng Tâm thực :

Chứng tâm thực có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Mê sảng hoảng loạn do viêm nhiễm nặng, mặt đỏ, lưỡi khô, đầu lưỡi đỏ, khát, chảy máu mũi miệng, đau ngực, tiểu đỏ vàng, giai đoạn đang nhiễm độc thần kinh nặng sẽ tiểu ra máu, cách mô căng đầy tức khó chịu.

E- TỲ :



1-Chứng Tỳ hàn :

Chứng tỳ hàn có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Rối loạn tiêu hóa, iả chảy nước trong, ăn không tiêu bụng đầy trướng sinh đàm nhiều, ngắn hơi khó thở, tứ chi lạnh, mình nặng nề.

2-Chứng Tỳ nhiệt :

Chứng tỳ nhiệt có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Viêm nhiễm gan mật, ruột, làm nhiệt, tiểu vàng ít, môi đỏ, đau bụng, bao tử nóng, ợ chua, chóng đói, chân răng sưng chảy máu, mồ hôi trộm.

3-Chứng Tỳ hư :

Chứng tỳ hư có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Người gầy, sắc mặt héo vàng, ăn không tiêu, hơi phù do suy dinh dưỡng, tứ chi lạnh, ỉa chảy, hay nằm ít hoạt động.

4-Chứng Tỳ thực :

Chứng tỳ thực có dấu hiệu của 1 hay nhiều bệnh sau đây :
Có nước đọng trong ổ bụng làm khó thở, nặng ngực, chân tay gầy nhưng cảm thấy nặng nề, bắp thịt mỏi, miệng khô, cổ khát, sinh tiêu khát đái láu, tiểu đường (dấu hiệu của bệnh tiểu đường= khát nhiếu, tiểu nhiều, gầy ốm)

Chú thích :


Đông y có ngoại dược là thuốc và nội dược là huyệt để điều chỉnh được các loại bệnh. nhất là các bệnh thuộc hư chứng đối với tây y là loại bệnh mơ hồ, xét nghiệm tìm không ra bệnh thí dụ như chứng phế hư, đông y dùng phương pháp con hư bổ mẹ là tỳ vị, để tỳ thổ sinh phế kim, khí bệnh dùng huyết chữa, nên toa thuốc bổ tỳ vị là bổ vừa khí vừa huyết thì tất cả các dấu hiệu bệnh của chứng phế hư sẽ khỏi trong thời gian 1-3 tháng, khi khỏi bệnh là phải ngưng thuốc không được dùng tiếp, nếu tiếp tục thì chứng phế hư sẽ trở thành chứng phế thực, đó là lý do đông y không bao giờ được dùng một loại thuốc suốt đời sẽ gây ra chứng bệnh khác.

Nếu những bệnh này chữa theo tây y sẽ chữa ngọn qua nhiều bác sĩ chuyên môn, có bệnh chữa được có bệnh không chữa được, thí dụ : thở khẽ ngắn hơi mà không phải là suyễn, thử máu không có bệnh nên không chữa, tiếng nói yếu thấp, không chữa, tự ra mồ hôi không chữa, họng khô cho xịt thuốc, da khô dùng mỹ phẩm crème bôi da, suyễn dùng thuốc suyễn, thuốc xịt cổ họng, chân tay lạnh mặc áo ấm đeo găng đi vớ, da tê buốt bôi crèm… những thuốc này phải dùng mỗi ngày cho đến suốt đời, nếu không dùng tiếp bệnh sẽ trở lại như cũ. Do đó đã có nhiều bác sĩ tây phương ở Âu châu học thêm đông y kết luận :

Tây y chữa vào symptoms (ngọn), đông y chữa vào système (gốc).

Một ví dụ về chữa ngọn chữa gốc cho dễ hiểu như sau :
Trong vườn nhà chúng ta có một cây ăn trái, lá cây bị khô héo cằn cỗi rơi rụng dần. Theo khoa học phải lấy lá cây về thử nghiệm để tìm xem loại sâu nào, và phải tìm ra loại thuốc chữa đúng, nếu đúng loại sâu và có đúng loại thuốc chữa có thể ngăn chặn sự rụng lá, nếu loại sâu mới chưa có thuốc chữa thì đành thử nghiệm và lá vẫn rơi rụng nhiều hơn cho đến vài tháng cây sẽ chết. Theo nông dân, cây lá khô rơi rụng, không biết sâu loại gì, cần phải tưới nước bón phân chăm sóc đều mỗi ngày trước đã, lá sâu khô héo vẫn rụng, lá non đâm trồi nẩy lộc, cành khô cứ gẫy, cành mới mọc ra, 3 tháng sau cây lại ra lá xanh tươi tốt.
Cho nên y học đông tây cũng đều chữa bệnh cho con người, và mong cầu cho bệnh nhân được khỏi bệnh, nhưng tự chúng ta phân biệt đố kỵ đông tây, mà không chịu kết hợp được cả hai làm một, vừa chữa ngọn vừa chữa gốc, nên bệnh mới càng ngày càng phức tạp trở nên mãn tính nan y.

Khám phá bí mật sự sống trong con người qua cách nhìn của đông y.

Theo đông y, trong cơ thể con người mỗi cơ quan tạng phủ đều có sự biến đổi từ sinh hóa đến chuyển hóa để bảo vệ duy trì và phát triển sự sống cho con người theo một quy luật sinh, trưởng , hóa, thâu, tàng, rất chặt chẽ gọi là sự khí hóa của tổng thể ngũ hành

được chỉ huy bởi hệ thần kinh trung ương, mỗi cơ quan tạng phủ có chức năng riêng được tượng trưng là một hành, như chức năng của gan thuộc hành mộc chủ sinh, chức năng của tim thuộc hành hỏa chủ trưởng, chức năng của tỳ ( lá lách ) thuộc hành thổ chủ hóa, chức năng của phổi thuộc hành kim chủ thâu, chức năng của thận thuộc thủy chủ tàng. Giải thích theo khoa học thì sự khí hóa của ngũ tạng khí lo phần việc của hệ hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục, hệ nộI tiết ( tuyến hạch ), hệ miễn nhiễm, hệ bạch cầu..

Sự khí hóa theo luật âm-dương ngũ hành trong cơ thể rất đa dạng phức tạp nhưng chặt chẽ, vừa tự động vừa bán tự động do sự điều chỉnh kích thích từ bên ngoài vào sự khí hoá như điều kiện môi trường, ăn uống, thuốc men, và châm cứu trên 12 đường kinh mạch và 8 kỳ kinh..mà đông y đã tìm ra cách đây khoảng năm ngàn năm căn cứ vào bộ sách Hoàng đế nộI kinh được lưu truyền trước công nguyên 2800 năm, nếu biết bổ sung phù hợp vớI yêu cầu khí hóa của tạng phủ thì sự khí hóa mau được lập lại quân bình, nếu sự bổ sung không phù hợp thích nghi sẽ phá vỡ sự quân bình sự khí hoá của tổng thể làm cơ cơ thể bị bệnh.

Theo Hoàng đế nộI kinh giải thích chức năng tạng phủ theo quy luật khí hóa gồm có :

A- Sự khí hóa thủy-hỏa ( âm-dương )

:

Thủy là chất nước bổ có trong 5 tạng, gan, tim, tỳ ( lá lách),phổI, thận, tự sinh ra làm mát mẻ thấm nhuần vào tạng phủ kinh mạch. Hoả là nhiệt độ gửI trong tim và trong chất nước ấm của thận do hô hấp của phổi đem dương khí vào tim theo đường hệ mạch xuống thận làm cho có khí hoả, để làm ấm các tạng phủ và hệ thống mạch máu giúp cho sự tuần hoàn lên xuống được liên tục. Hỏa khí được tự động điều chỉnh vớI nhiệt độ trung bình làm căn nguyên sinh ra dương khí và hộ vệ da lông chống nhiệt độ lạnh bên ngoài do thờI tiết, hoặc do ăn uống chất lạnh xâm nhập vào cơ thể.

NgườI hấp thụ nhiệt khí của trờI sinh hỏa, trong con ngườI hỏa thuộc tim, tim sinh huyết có sắc đỏ. NgườI hấp thụ khí lạnh của đất, khí lạnh sinh ra nước, gốc của nước ở biển có vị mặn. Trong con ngườI thủy thuộc thận hàm chức vị mặn nên tàng giữ tinh khí.

Thủy-hỏa là khí vô hình của tim và thận. Tâm thận tương giao sinh khí hóa huyết hòa vớI phế khí thành vệ khí để bảo vệ cơ thể, hòa vớI tỳ vị do sự ăn uống hàng ngày sinh dưỡng trấp qua ruột non theo mạch về tim biến ra máu rồi theo mạch máu đi nuôi cơ thể bổ sung vào kinh mạch tạng phủ giúp cơ thể khỏe mạnh chống bệnh tật.

Ngoài thiên nhiên, nếu thủy không có hỏa tương giao thì nước thành băng giá không sinh dương khí sẽ không có sự sống, ngược lại hỏa không có thủy sẽ nóng cháy thiêu đốt cây cỏ tàn phá môi trường sống. Vì thế trong con ngườI và thiên nhiên đều có sự khí hóa của thủy-hỏa.

B-Sự khí hóa của vinh-vệ :

Khí và huyết là tinh ba của thủy cốc do tỳ vị sinh hóa thành dưỡng trấp lọc qua ruột non đưa về tim hóa huyết lưu hành trong hệ mạch tâm bào và tam tiêu để nuôi tạng phủ da thịt gọI là vinh huyết.

Phần thủy tinh khiết của thức ăn sau khi tiêu hóa cũng đi theo hệ mạch vào khí quản để phân phối ra da lông và ngoài kinh mạch gọI là vệ khí.

Khi ta uống nước vào bao tử, sẽ thấm rút ra màng lướI tam tiêu sang thận thấm vào Bàng quang, nhờ khí nóng của Mệnh môn là điểm liên lạc giữa thận thủy và tâm hỏa giao nhau ở hệ thống tam tiêu, nếu có hỏa khí ở đó nung nấu thủy ở hạ tiêu hóa thành hơi đi qua huyệt Khí hải gọI là nguyên khí thông lên cách mạc vào phổI đưa ra mũi làm nước mũi, đưa lên miệng làm thành nước miếng, phần khác thông ra da lông làm mồ hôi. Đó là sự khí hóa chung của Thận, Bàng quang và Tam tiêu.

Phần dưỡng trấp đặc hơi đục sau khi tiêu hóa thấm qua ruột non thấm rút vào vi ti huyết quản vào gan, đưa lên tim hóa huyết chạy trong mạch bồi bổ tạng phủ da thịt. Sự sinh huyết hành khí là do sự khí hóa của tim,gan.

Vinh huyết và Vệ khí lưu thông được dễ dàng là nhờ phế khí thu dưỡng khí giúp thúc đẩu sự tuần hoàn. Tỳ vị chuyển hóa thực phẩm sinh dưỡng trấp hóa huyết bồi bổ da thịt kinh mạch. Phế làm chủ khí, tim làm chủ huyết. Khí lên thì huyết lên, khí xuống thì huyết xuống gọI là Vinh vệ tuần hoàn.

Tuần hoàn của vinh huyết bắt đầu từ phổI nhờ khí hô hấp mà truyền khắp cơ thể không ngừng suốt 24 giờ qua đủ 12 đường kinh mớI trở về phổi.

Tuần hoàn của vệ khí thì 12 giờ ban ngày đi trong kinh dương từ Tam tiêu ra da thịt, lông, tay, chân mà không vào tạng phủ. 12 giờ ban đêm thì vệ khí mớI đi vào trong qua các kinh âm khởI từ tim đến thận, phổI, tỳ, gan, đến hết 24 giờ thì Vệ khí hộI lại vớI vinh khí tại phổi.

Vệ khí đi vòng các kinh mạch theo 12 chính kinh 24 giờ là một vòng, chiều dài đường kinh được tính bằng hơi thở mà các thầy thuốc đông y dùng để bắt mạch tìm bệnh cho bệnh nhân. Con ngườI hít vào và thở ra một hơi chiều dài mạch đi được 6 thốn ( 6 lóng tay của ngườI thở, nên 6 lóng tay của ngườI lớn và của trẻ em có độ dài khác nhau ). Như vậy 24 giờ thở được 13500 hơi x 6 thốn = 81000 thốn.

C-Sự khí hóa theo lục kinh lục khí :

1- Sự khí hóa của kinh Thiếu âm, lấy nhiệt khí làm chủ :

Nhiệt khí là phản ảnh của ánh sáng mặt trờI rọI xuống mặt đất và nước. Hơi nước và khí nóng bốc lên thành nhiệt khí tiềm tàng trong đất và nước, cầm giữ nhiệt độ trung bình khiến cho phong khí ôn hòa, hàn khí sinh dương khí, thấp khí chuyển hóa, táo khí thêm cứng rắn kim chất, chế hóa ngũ hành giảm cái thừa, bù cái thiếu mà vạn vật được quân bình.

Trong cơ thể Tâm liên hệ Tiểu trường, Thận liên hệ Bàng quang. Nhiệt khí là khí ấm nóng trong tim và máu nhờ ruột non dẫn xuống bàng quang giúp thận hệ hóa dương khí ra ngoài hộ vệ bì phu, bên trong sinh tân dịch nuôi dưỡng tạng phủ, hành huyết, cố tinh, liễm khí.

2- Sự khí hoá của kinh Thái âm, lấy thấp khí làm chủ :

Thấp khí là khí vừa mát vừa ráo do thủy hỏa kết hợp, có công năng duy trì vạn vật, còn khi nào vạn vật hư hoại nó làm mục rụi hóa thành đất.

Trong cơ thể Thấp khí thuộc tỳ vị . Khi thức ăn vào bao tử, nhờ phổI lấy dương khí giao xuống tim truyền xuống bao tử. Hỏa khí nơi tim giúp táo khí đắc lực để tiêu hóa thức ăn và thấm rút dưỡng trấp, cặn bã đưa xuống ruột già. Thấp khí của tỳ truyền sang bao tử làm mục thức ăn được ruột non rút dưỡng trấp đi nuôi cơ thể, đẩy cặn bã xuống ruột già được táo khí và thấp khí đồng hóa thành phân, không qúa thấp sinh bệnh tiêu chảy, không qúa táo sinh bệnh bón.

3-Sự khí hóa của kinh Quyết âm, lấy phong khí làm chủ :

Phong khí do thủy hỏa, ánh nắng mặt trờI và nước của đất giao nhau tạo thành hơi làm ra gió như khí hậu mùa xuân ôn hòa, vạn vật được phát sinh.

Trong cơ thể có kinh tâm bào liên hệ vớI Tam tiêu, Gan liên hệ vớI Mật. Tâm bào và Gan thuộc phong. Tam tiêu và Mật thuộc hỏa. Tam tiêu đưa hỏa của tim xuống hạ tiêu, đưa thủy của hạ tiêu lên giao nhau ở gan mật tạo ra phong khí điều hòa các kinh mạch làm cho tuần hoàn khí huyết nuôi khắp cùng tạng phủ cơ nhục.

4-Sự khí hóa của kinh Thiếu dương, lấy hỏa khí làm chủ ;

Hỏa khí do khí nóng của mặt trờI soi rọI lúc ban mai làm ấm áp điều hòa vạn vật.

Trong cơ thể, hỏa khí giao vớI thủy sinh dương khí, phong theo hỏa biến hóa phát động không ngừng. Thấp khí nhờ hỏa khí làm tiêu hóa không đình trệ, táo khí nhờ hỏa khí nên kim chất cứng rắn, ngũ hành nhờ hỏa khí phát dương nên sự khí hóa của ngũ tạng được liên tục cho âm khí thăng dương khí giáng.

Kinh thiếu dương là Tam tiêu và Mật, mà Tam tiêu liên hệ Tâm bào, Mật liên hệ gan. Tam tiêu đem hỏa của tâm bào hợp vớI phong là gan mật thuộc mộc phát ra dương khí lưu thông khí huyết khắp cơ thể.

5-Sự khí hóa của kinh thái dương, lấy hàn khí làm chủ :

Hàn khí là hơi nước mát mẻ tràn khắp vũ trụ hợp vớI hơi nóng mặt trờI nhẹ nhàng cũng tạo cho hàn khí tỏa ra, bay lên, cho nên cũng gọI là dương khí. Theo luật âm dương, trong âm có dương, trong dương có âm, nên cực âm thì bắt đầu phát sinh mầm dương, cực dương thì bắt đầu phát sinh mầm âm. Cho nên nước ở qủa địa cầu không có một tí hỏa của mặt trờI giao xuống thì đóng thành băng đâu còn sự khí hóa của luật âm dương.

Trong cơ thể Kinh Thái dương là Tiểu trường và Bàng quang. Tiểu trường liên hệ vớI tâm, Bàng quang liên hệ vớI thận. Tiểu trường có hỏa khí khi thu rút dưỡng trấp đưa qua mạch máu về tim lại giao xuống thận làm ấm thận thủy sinh dương khí đi thông khắp màng lướI tam tiêu để nuôi dưỡng tạng phủ kinh mạch, cơ nhục nẩy nở, thông ra da lông làm vệ khí.

6-Sự khí hóa của kinh dương minh, lấy táo khí làm chủ :

Táo khí là khí khô ráo thiếu sự giao hòa âm dương ứng hợp vớI mùa thu, cây cỏ khô héo, lá rơi rụng, nước khô cạn.

Trong cơ thể táo khí ở ruột già .Đại trường liên quan đến phổi. Bao tử liên quan đến tỳ là hai khí táo thấp giao nhau làm tiêu hóa thức ăn và thấm rút nước ẩm ướt nơi ruột già làm thành phân.

D-Chức năng sinh hóa chuyển hóa riêng của mỗI tạng phủ :

1-Sự khí hóa của gan ( mộc âm ) :

Gan có động mạch, tĩnh mạch, gan sinh ra nước mật, có ống thu nước mật chứa vào túi mật, phần khác đem xuống ruột non để giúp sự tiêu hóa và lọc độc tố. Gan tích trữ và điều hòa chất đường trong máu và bổ sung chất đường cho máu. Gan tạo ra chất gân, móng tay và nước mắt. Đường kinh can thông lên bên trong đầu xuất ra nơi hai con mắt. Gan chứa huyết do tâm biến dưỡng trấp thành huyết lưu thông khắp kinh mạch từ Mạch Xung ( Vaisseau désobtructeur ), Mạch Nhâm ( Vaisseau Conception), vào Tâm bào dẫn huyết phân chia khắp cùng các kinh mạch nuôi tạng phủ gân da thịt.

Gan chứa hồn, là tinh túy của khí huyết, ban ngày hồn ra nơi mắt để thấy hiểu sự vật, ban đêm hồn về gan thì ngườI được ngủ yên. Gan giữ sự can đảm trầm tĩnh, bạo dạn, mưu chước. DướI gan có mật thuộc mộc dương dễ phát hỏa làm dương khí phát động dễ sinh nổI giận, mất ngủ.

2-Sự khí hóa của mật ( mộc dương ) :

Nước mật do gan lọc ra được chứa vào một túi gọI là túi mật. Huyết nuôi tế bào gan bằng chất bổ của huyết, còn lại chất bã gan lọc lại thành huyết xấu đi theo mật vào đường ruột bài tiết theo cặn bã thức ăn ra ngoài.

Hỏa khí từ Mệnh môn tam tiêu vào gan truyền sang mật phát hỏa làm ấm ngũ tạng giúp cho sự tiêu hóa thức ăn của tỳ vị được nhanh sinh dưỡng trấp hóa huyết. Mộc âm là gan, mộc dương là mật liên hiệp nhau giúp trung tiêu sinh dưỡng trấp sau khi con ngườI nhai thức ăn nuốt vào bao tử.

3-Sự khí hóa của tâm ( hỏa âm ) :

Tâm thống lãnh các kinh mạch. Trong tim có 4 ngăn toàn là chất thịt bền dẻo, chắc, mầu đỏ, có sức co bóp tự động để vận chuyển huyết đi khắp cơ thể qua ba loại mạch là động mạch, tĩnh mạch, và vi ti huyết quản thuộc hệ tâm bào.

Tâm tàng thần, thông khiếu lên lưỡI, tâm làm chủ tể các tạng phủ, sự tri giác do thần ở nơi tâm, vì tâm thận giao nhau sinh tinh tủy làm thành óc và các dây thần kinh, cho nên sự tri giác đều có liên quan đến tâm và óc để biết suy tư, quan sát, phân biệt tinh thô, cho nên khi định tâm suy tư thì mớI sáng suốt.

Tâm sinh huyết, thận hóa khí, khí huyết hợp hóa sinh tinh hóa thần. Tinh khí thần đều do thủy hỏa, khí huyết sinh ra. Tâm sinh huyết là do dưỡng trấp của tỳ vị sinh hóa được khí của phổI chuyển hóa mà thành.

4-Sự khí hóa của tiểu trường ( hỏa dương ):

Ruột non là phần dài nhất của bộ tiêu hóa, dài 8 mét, trên nối vớI bao tử, dướI nối vớí ruột già, có màng bao ruột liên kết vớI các tạng phủ khác. Thức ăn vào bao tử một lúc lâu, trộn vớI chất chua trong bao tử sau vài giờ bao tử ép xuống ruột non, thấm trộn vớí chất chua trong ruột , nước mật và chất của tỳ cùng biến hóa thành dưỡng trấp. Dưỡng trấp lỏng và trong được đưa lên làm thành nước bọt, nước mũi, mồ hôi, chất đặc sền sệt hơi đục như sữa thấm vào vi ti huyết quản để làm thành máu nuôi cơ thể, chất cặn bã đẩy xuống ruột già ép rút khô tống ra ngoài thành phân.

Tâm và tiểu trường cách xa mà cùng là hỏa khí được truyền qua màng mỡ bao tim, gan, tâm bào. Nếu hỏa từ tâm không đưa xuống tiểu trường thì thức ăn không hóa thành dưỡng trấp được.

5-Sự khí hóa của tỳ( thổ âm ):

Tỳ chủ phần lưu thông phân phối, dẫn huyết , khí và các chất lỏng đi khắp cơ thể. Tỳ tàng ý, sinh nước miếng và sản xuất ra các hạch chất. Khiếu của tỳ là môi. Tỳ chứa một chất nước ngọt đưa vào miệng trên của ruột non để tiêu hóa thức ăn. Tỳ thuộc thấp khí là khí vừa nóng vừa ẩm ướt do thận thủy sinh ra khí dương đem lên màng trung tiêu, tim phổI hóa dưỡng trấp thành huyết đem hơi nóng xuống trung tiêu. Khí và huyết của tâm thận giao nhau tại trung tiêu hóa hợp vớI tỳ thành tỳ trấp sản xuất ra các loại chất xúc tác cho các tuyến hạch.

Dưỡng trấp phân làm hai loại nhẹ và nặng. Loại nhẹ là phần nước trong tinh khiết từ nước uống hay thức ăn được chất xúc tác của tỳ cho thấm qua ruột non hoá thành vệ khí để dẫn đẩy huyết lưu thông khắp kinh mạch tạng phủ ra đến ngoài da lông để bảo vệ.

phần bên ngoài của cơ thể. Dưỡng trấp nặng là một chất lỏng sệt như sữa được chất xúc tác của tỳ thấm qua thành ruột non lên màng mỡ trung tiêu gặp chất xúc tác khác của tỳ phân phối chất bổ, chất đắng về tim nuôi tạng tim, chất ngọt về tỳ nuôi tạng tỳ, chất chua về gan nuôi tạng gan, chất cay về phổI nuôi tạng phế, chất mặn về thận nuôi tạng thận. Dưỡng trấp còn lại gặp chất xúc tác khác làm cho dễ thấm rút qua vi ti huyết quản về tim phổI biến thành máu đỏ nuôi da thịt. Nếu khả năng sinh hóa và chuyển hóa của tỳ yếu dưỡng trấp không đủ chất xúc tác để đưa lên tim phổI biến thành máu đỏ sẽ biến thành chất đờm. Cặn bã của ruột non được đẩy xuống ruột già gặp chất xúc tác của tỳ giúp thấm rút vào Bàng quang làm thành nước tiểu .

6-Sự khí hóa của bao tử ( thổ dương ) :

Bao tử là một túi tiêu hóa chứa thức ăn, đầu trên thông lên miệng, đầu dướI thông vớI ruột non, hai đầu là cửa đóng mở. Bao tử có chức năng co bóp nghiền nát thức ăn và có chứa nhiều hạch sinh ra chất xúc tác thấm vào thức ăn làm cho mau tiêu hóa. Khi chúng ta nhai thức ăn đem vào bao tử, một lúc sau bao tử tiết ra chất xúc tác và co bóp nghiền thành chất nhão, sau đó bao tử lại tiết ra một chất làm trơn thành vách bao tử rồi co bóp đẩy chất nhão xuống ruột non để hóa ra dưỡng trấp do sự hợp tác của hạch tỳ, hạch gan, hạch ruột. Theo lục kinh lục khí, bao tử và đại trường thuộc táo khí, tỳ vị thuộc thấp khí. Táo khí và thấp khí dung hòa sinh ra hai phần dưỡng trấp, phần nhẹ thành vOE khí, phân nặng là vinh khí.

7-Sự khí hóa của phổI ( kim âm ) :

PhổI có hai lá do nhiều tế bào kết thành thể xốp có nhiều vi ti quản, cuối vi ti quản là túi con chứa khí thở ra hít vào của phổI, trong vách mỏng của mỗI túi con chứa máu đen chạy ngang dọc để bốc thán khí CO2, và cùng lúc thu dưỡng khí O2 làm cho máu đen oxyde sắt nhị biến thành máu đỏ oxyde sắt tam. PhổI có hai lớp màng bao, màng bao trong bao lá phổI, màng bao ngoài dính vào lồng ngực, giữa hai màng là nước. Không khí vào cơ thể qua lỗ mũi, miệng và các lỗ chân lông, cho nên phổI chủ quản da lông, khai khiếu ở mũi làm ra nước mũi.

Theo lục kinh lục khí, PhổI tỳ thuộc thấp khí, theo ngũ hành PhổI, ruột thuộc táo khí, hai khí táo thấp hóa hợp thành khí trọc thán khí. PhổI có nhiệm vụ tống thán khí ra ngoài, thu dưỡng khí vào trong vừa để hóa máu đen thành máu đỏ, vừa biến dưỡng trấp thành máu đỏ về tim, vừa dẫn khí đẩy chất nước trong bao tử và ruột già ra màng lướI tam tiêu để rút xuống bàng quang làm thành nước tiểu thông ra ngoài. Phế khí có nhiệm vụ làm chủ vệ khí, thống lãnh tất cả các khí và điều hành khí ra vào ở huyệt Khí hải và thận và giúp cho gan khí ôn hòa, tỳ khí vững mạnh, tâm khí quân bình không qúa nóng phát hỏa làm tiêu hao huyết và các dịch chất trong cơ thể, hoặc tâm hỏa kém nhiệt không đủ giao hỏa xuống thận thủy để tạo sự khí hóa âm dương cho cơ thể. Nhờ phế khí tâm được yên, tâm tàng thần, thần yên giống như một ông vua được sáng suốt tỉnh táo mớI chỉ huy kiểm soát được mọI hoạt động của quốc gia càng ngày càng thịnh vượng. Khí của các tạng đều do phế khí điều hành một cách thích hợp, không âm quá sinh hàn, không dương quá sinh nhiOEt, lúc nào cũng giữ dáng vẻ bên ngoài của cơ thể được hoạt bát linh động, về mặt hình thức đông y gọI là phách, về nộI dung, khôn lanh biết suy xét chỉ huy đông y gọI là thần, cho nên đông y nói tâm tàng thần, phế tàng phách.

8-Sự khí hóa của ruột già ( kim dương ) :

Đại trường to hơn tiểu trường, dài dộ 2m, uốn về ba chiều, gọI là kết tràng lên phía bên phải, kết tràng ngang ở giữa, và trực tràng ở phía bên trái. Tất cả khúc ruột già này chia thành từng đoạn như bướu, trừ đoạn cuối thông ra hậu môn là nhẵn.

Phế và đại trường theo ngũ hành thuộc táo kim. Phế là hô hấp thu dương khí, thải thán khí. Đại trường thu nạp cặn bã có một chất xúc tác trong ruột giúp phần lỏng thấm ra vách thành ruột xuống bàng quang làm thành nước tiểu, phần đặc được ruột điều hòa thành phân không khô qúa, không nhão qúa, lỏng qúa, không đẩy ra nhanh qúa khi chưa thành phân,không giữ lâu trong ruột để biến thành độc tố hại cơ thể, đó là nhiệm vụ điều hòa và truyền tống của đại trường, nếu đại trường thiếu chất xúc tác sẽ không chỉ huy được việc đại tiện.

9-Sự khí hóa của thận ( thủy âm ) :

Thận có hai qủa nằm về hạ tiêu, bám vào xương sống ở hai bên có dây liên kết gọI là thận hệ, là nơi giữ gìn mạng sống của con ngườI cho nên gọI là Mệnh môn, tất cả tinh ba của ngũ tạng hộI tụ lại Mệnh môn để làm ra xương tủy.

Nhiệm vụ của thận là lọc chất độc có trong máu đem xuống bàng quang theo đường tiểu ra ngoài. Chất bổ của ngũ tạng tạo ra tinh khí chứa trong bộ sinh dục ngoài là ngoại thận chế biến huyết thành tinh. Chỗ lõm của mỗI qủa thận có động mạch dẫn huyết nơi tâm vào thận, có tĩnh mạch đem huyết ở thận lên tim, có ống thu nước tiểu vào bàng quang bên trong có chứa hạch lọc nước. Thận khai khiếu ở óc và tai, thận dịch lên lưỡI làm ra nước miếng. Thận khí theo Đốc mạch lên đầu làm ra tóc, thận tàng ý chí. Thận thuộc thủy biến thành thận khí theo hệ thống tam tiêu lên tâm, tâm thuộc hỏa sinh huyết. Tâm và thận là tạng âm giao nhau nơi màng lướI tam tiêu thuộc hỏa. Khi hô hấp dương khí từ mũi qua phế xuống tâm qua cách mạch thông qua Đốc mạch giao đến tiểu trường vào thận hệ là Mệnh môn hỏa nung nấu chất nước trong bàng quang hóa thành hơi theo tam tiêu ra bộ sinh dục, theo Mạch Xung và Mạch Nhâm lên Cách mạc vào phổI ra mũi làm thành một hơi thở ra. Mặt khác phần khí ở Mệnh môn theo tam tiêu làm vệ khí bên trong bảo vệ tạng phủ, bên ngoài bảo vệ da lông thông lỗ chân lông ra mồ hôi. Thận tàng tinh và chủ 5 loại dịch chất của 5 tạng, tương đương vớI các chất trong các tuyến hạch theo tây y.

Theo đông y, quả thận bên trái giữ chức năng của qủa thận. Qủa thận bên phải chính là chức năng của Mệnh môn, đàn ông thì tàng tinh, đàn bà chứa noãn. Còn động lực phát sinh ra dương khí ở giữa hai qủa thận là thận hệ giao vớI tam tiêu ở Mệnh môn là sự khí hóa vô hình làm căn nguyên của Nguyên khí ( énergie génétique ) làm cho con ngườI được thông minh trí tuệ, thân thể cường tráng, sinh dương khí hóa thần, tàng tinh, giữ gìn tính mạng con ngườI được lâu dài hay ngắn ngủi đều lệ thuộc vào nó.

10-Sự khí hóa của bàng quang ( thủy dương )

:

Bàng quang chứa nước bẩn có trong huyết do thận gạn lọc ra, nếu nước tiểu trong bàng quang ở lâu chưa ra sẽ đóng cặn dướI đáy thành sạn.

Theo lục kinh lục khí, Bàng quang làm chủ hàn khí là hơi nước xuất ra từ bàng quang, nhờ khí nóng trên tâm giao xuống tiểu trường qua màng mỡ tam tiêu đến thận hệ nấu thành hơi nước, hàn khí trở thành dương khí đi lên hợp vớI phế khí thành vệ khí bảo vệ bên ngoài cơ thể.

Theo ngũ hành, thận và bàng quang là thủy chứa nước biến thành khí theo hệ thống tam tiêu đưa qua cách mạc vào tim làm tươi nhuận qủa tim, lên phổI làm thành chất nước của phổI, thông ra da làm thành mồ hôi và làm cho da tươi mát, vào trung tiêu tỳ sản xuất hạch chất cho chất nước xúc tác của bao tử, thông ra kinh mạch do gan chuyển tiếp làm thành huyết dịch như bạch cầu, hồng cầu.., như vậy sự khí hóa của bàng quang sinh ra ngũ dịch vừa làm vinh khí vừa làm vệ khí bảo vệ và nuôi dưỡng bên trong bên ngoài cơ thể, nơi miệng lưỡI đều có chất nước làm mũi đủ độ ẩm cần thiết, làm môi tươi nhuận, cổ họng không khô khát..

11-Sự khí hóa của tam tiêu ( hỏa dương ) :

Tam tiêu là con đường vận chuyển khí và huyết lưu thông khắp cơ thể bên ngoài và bên trong chỗ nào cũng có khí và huyết.

Thượng tiêu chủ động thu nạp thức ăn vào bao tử không cho ngược trở ra.

Trung tiêu chủ việc nung nấu biến hóa thức ăn và thức uống.

Hạ tiêu chủ việc phân loại chất bổ dưỡng của khí huyết đưa lên. Chất cặn bã của khí huyết đem xuống truyến tống ra ngoài không để lưu lại lâu trong cơ thể.

Nguồn gốc của tam tiêu sinh nơi giữa hai qủa thận gọI là thận hệ. Thận hệ sinh ra mỡ sa, thông lên cách mạc bọc tim phổI chạy lên yết hầu và các màng mỡ từ cách mạc ra tay lên đầu làm thượng tiêu. Màng mỡ bụng ra sau lưng bao bọc ruột non làm trung tiêu. Nơi bụng dướI có màng mỡ nối ruột già, bàng quang, bộ sinh dục ra sau mông đùi làm hạ tiêu.

Tam tiêu là hệ thống giao thông làm thông khí, thông huyết, làm mát mẻ tạng phủ bên trong, làm thấm nhuần da thịt bên ngoài hồng hào. Hạ tiêu là nguồn gốc sinh vệ khí phát xuất từ sự khí hóa của bàng quang, vệ khí ban ngày đi ra phần dương, ban đêm đi trong phần âm, ngày mở đêm đóng. Còn vinh khí mượn hệ thống giao thông của tam tiêu đi khắp 12 kinh thành một vòng trong 24 giờ, nơi giao hòa hỏa thủy của tâm thận thành ra lục khí ứng vớI lục kinh để cho sự khí hóa của tạng phủ được tốt đẹp.

Tam tiêu cũng còn là hệ thống cấu trúc các đường dây thần kinh liên lạc giữa các tạng phủ dọc theo cột sống lên đầu ra tay chân theo các đường kinh mạch để thống nhất sự chỉ huy các hoạt động hưng phấn hoặc ức chế đối vớI hệ giao cảm hay vận động để giữ cơ thể được quân bình về âm-dương, thủy hỏa, hàn nhiệt, khí huyết, vinh vệ, thăng giáng.. Tất cả các sự quân bình ấy tạo ra hOE thống nộI dược có nhiOEm vụ vừa sinh hóa vừa chuyển hóa để bồi bổ phát triển cơ thể vừa duy trì sự sống cho con người.

doducngoc

-----------------------

Đề phòng tập khí công bị tẩu hoả nhập ma

Hỏi:

Thưa Thầy tại sao con mỗi lần tập môn gì đó là cơ thể lại rung động nhiều rất là khó chịu, Thầy có thể giải thích tại sao không ? Tập môn khí công cũng vậy, cơ thể rung động, tại sao lại như vậy, nhiều lúc tưởng tuợng cũng như vậy ?

Giải đáp :


Một thí dụ dễ hiểu như nhà mình ở thôn quê muốn mua một máy phát điện để dùng cho 12 ngọn đèn 110v -100w chỉ cần một máy nhỏ đặt trên nền đất, máy chạy êm mà không bị rung, nhưng lại muốn chơi trội hơn hàng xóm, mua máy lớn có công suất gấp 3-4 lần, do đó khi đặt trên nền nhà, lúc máy chạy sẽ bị rung, có nghĩa là nền đất không đủ độ cứng và mấy con ốc chân máy không được xiết chặt làm máy bị rung sẽ tạo sự cộng hưởng phá hỏng nền nhà và hỏng máy. Muốn tránh tình trạng này, phải xây một bệ xi măng chắc chắn để xiết ốc giữ chân máy vững vàng, lúc đó máy sẽ không bị rung nữa.

Cũng như thế, cơ thể chúng ta là cái nền nhà, các môn tập thiền hay khí công là các loại máy lớn nhỏ khác nhau. Nền tảng tu luyện không căn bản vững chắc mà mong cầu đạt được thành qủa to lớn sẽ có hiện tượng như trên, đó là dấu hiệu sắp tẩu hỏa thành điên mà người ta gọi là bệnh tâm thần, có những giai đoạn diễn tiến từ từ như cao áp huyết, tính tình ưa nóng giận, mặt đỏ, hay tranh cãi, cố chấp, động mạch vành bị phình, bàn tay bị run giật, mỗi lần vừa ngồi định tâm là đầu cổ bị lắc không kìm hãm lại được, chính lúc đó, có thể tay chân múa may vô ý thức, dân gian gọi là ma nhập.

Đỗ Đức Ngọc

Một thí dụ khác để chúng ta hiểu rõ về tu thiền. Trong một câu chuyện tu luyện thiền yoga, ông Yoga Nanda được Thầy cho mắt ông thấy được những chuyện xảy ra trước mắt sau 5 phút một cảnh tai nạn xe hơi. Sau đó qủa thật khi hai Thầy trò đứng ngã tư chờ qua đường, thì 2 xe đụng nhau giống như cảnh mà ông đã vừa nhìn thấy trước 5 phút.

Ông hỏi Thầy : Sao Thầy không dạy cho con môn học này ?
Thầy trả lời : Không phải Thầy không muốn dạy cho con. Bởi vì công năng tu tập của con mới chỉ đạt được công suất làm sáng một bóng đèn 12 watts. Năng lượng của Thầy giống như 20 ngàn watts. Nếu Thầy cho năng lượng này vào, bóng đến của con sẽ bị cháy.

Vì vậy, để tránh hậu qủa tẩu hỏa nhập ma có thể xảy , hãy kiên nhẫn tập luyện theo dõi hơi thở tự nó đi theo kinh mạch, ý trụ vào đan điền thần hay đan đền tinh hay Mệnh môn tùy theo lúc mà cơ thể cần.

Nhớ rằng luyện thở để tự điều chỉnh sức khỏe của mình. Khi cơ thể lạnh, ý tập trung Đan điền Thần, khi cơ thể nóng, ý tập trung Đan điền tinh, chuyển tinh hóa khí thì ý tập trung Mệnh môn.

Các giai đoạn tập thứ tự :
Khởi đầu phải tập luyện khí hòa hợp với thần (tức là ý khí hợp nhất), rồi đến luyện tinh hóa khí, luyện một thời gian tinh-khí hợp nhất, mới luyện khí hóa thần, khi luyện tinh-khí-thần hợp nhất, rồi diệt dục để hoàn tinh bổ não, cuối cùng luyện thần hoàn hư, phát triển trí não, từ giai đoạn này phải giữ giới, định thần, mới phát triển trí tuệ, mà Phật giáo gọi là GIỚI ĐỊNH HUỆ.

Tự mình xét xem cách tập của mình có theo từng giai đoạn như vậy hay không, nếu không thì không phải là Môn học Khí Công Y Đạo.

Đã có nhiều học viên trước khi đến học môn Khí Công Y Đạo cũng đã từng là những người tu luyện nhiều môn khác bị tẩu hỏa nhập ma. Họ đã được chúng tôi tả tâm hỏa, tập thể dục khí công phần động công cho khí huyết lưu thông một thời gian. Khi khám lại kinh mạch được điều hòa ổn định, lúc đó mới bắt đầu tập đến phần tập thở tĩnh công .

Chính nhờ những BÀI TẬP THỂ DỤC ĐỘNG CÔNG sẽ giúp được cho những người bị hìện tượng tẩu hỏa nhập ma đìều chỉnh được cơ thể trở lại bình thường khỏe mạnh, phòng chống bệnh tật, vì toàn bộ bài tập được sắp xếp có trình tự để thông Kỳ Kinh Bát Mạch, 12 kinh mạch, thông các đại huyệt và các Luân xa để tự khai mở Tiểu Chu Thiên và Đại Chu thiên.

BÀI TẬP TĨNH CÔNG

giúp cơ thể chuyển hóa : Tinh hóa khí, khí hóa thần và giai đoạn tập luyện thần hoàn hư phải đòi hỏi rất nhiều thời gian tu luyện và được Thầy hướng dẫn và kiểm soát từng người nên không được phổ biến rộng rãi ở đây.

Chúng tôi sẽ upload DVD Bài tập thể dục khí công y đạo lên mạng. Nếu để tập chữa bệnh, quý vị có thể tập những bài liên quan đến bệnh của mịnh. Nếu muốn tăng cường sức khoẻ phòng chống bệnh tật thì tập từ đầu đến cuối .

Sau khi quý vị hiểu hết cách tập và tập nhuần nhuyễn tất cả các bài tập mà không mệt mỏi là sức khoẻ của quý vị đã được tăng cường, lúc đó quý vị có thể hướng dẫn cho những người thân có bệnh biết phải tập những bài nào để mau được khỏi bệnh.

Tập thở khí công tự chữa bệnh mất ngủ kinh niên

Trước khi đi ngủ, không uống nước, đi tiêu, tiểu và tắm rửa với nước ấm nóng cho người khỏe khoắn, mặc quần áo rộng. Nằm ngửa thẳng người, đầu không kê gối, chụm hai gót chân, cuốn lưỡi lên vòm họng trên.

A. NGUYÊN NHÂN :

Bệnh mất ngủ có nhiều lý do mà chúng ta thường gặp như :

1.Do thói quen :
a. Uống nước nhiều trước khi đi ngủ hoặc uống thuốc ngủ với nhiều nước làm cho nửa đêm phải thức giấc để đi tiểu, hoặc lạm dụng thuốc ngủ thành quen thuốc.
b. Ăn cơm tối qúa trễ với thức ăn khó tiêu hoặc có thói quen ăn tối trước khi đi ngủ.
c. Ăn ít để giảm cân, chỉ ăn ngày một bữa, tối bụng đói làm bao tử bào bọt xót dạ ngủ không yên.
d. Ngủ trái giờ, ban ngày ngủ, đêm đi làm, hoặc ban ngày ngủ gà ngủ gật, tổng số giờ ngủ chiếm khoảng 8 giờ một ngày nên đêm không ngủ được.

2.Do thời tiết, môi trường :
a.Thời tiết thay đổi bất thường, nóng hay lạnh qúa ngủ không được, hoặc bị di ứng thời tiết làm khó chịu không thể ngủ được.
b.Ngủ ở nơi lạ chỗ lạ nhà một thời gian tạm bợ không quen, mất tự nhiên không được thoải mái trở thành bệnh mất ngủ hoặc ngủ ở nơi có nhiều tiếng động ồn ào.

3.Do biến đổi tâm lý :
Vui qúa, buồn qúa, giận qúa, sợ qúa, lo nghĩ qúa làm thần kinh qúa hưng phấn hoặc ức chế bất bình thường.

4.Do cơ thể bị bệnh :
Như đau nội ngoại thương hành hạ làm mất ngủ. Do bệnh cao áp huyết máu dồn lên não kích thích thần kinh, hoặc do thiếu máu não không đủ máu nuôi thần kinh làm người bần thần khó ngủ. Do bệnh suyễn khó thở, do xáo trộn tiêu hóa, do thể chất và thần kinh suy nhược....

5.Do lạm dụng thuốc :
Do lạm dụng uống nhiều thứ thuốc để chữa nhiều bệnh một lần, đôi khi các loại thuốc tương phản nhau làm rối loạn thần kinh gây nên bệnh mất ngủ.

B. CÁCH TẬP LUYỆN HƠI THỞ :

Theo lý thuyết của khí công, khi cơ thể có bệnh, đều làm thay đổi nhịp thở sinh học khác với bình thường. Bệnh mất ngủ cũng không ngoại lệ, khi trằn trọc thao thức không ngủ được đã làm xáo trộn nhịp thở sinh học, cần phải tập luyện chỉnh lại hơi thở cho đều.

1.Chuẩn bị :

Trước khi đi ngủ, không uống nước, đi tiêu, tiểu và tắm rửa với nước ấm nóng cho người khỏe khoắn, mặc quần áo rộng. Nằm ngửa thẳng người, đầu không kê gối, chụm hai gót chân, cuốn lưỡi lên vòm họng trên, ngậm miệng bình thường không để người ngoài thấy biết được bộ dạng của mình đang cuốn lưỡi ngậm miệng, mặt bình thản. Tập thở ra hít vào đều bằng mũi để nối mạch âm dương Nhâm-Đốc, trong khi tập, nước miếng trào ra thì nuốt vào , không bị khô cổ, miệng có nước miếng không bị hỏa dồn lên làm đau khô cổ họng, làm nhức đầu và làm tẩu hỏa nhập ma ( dư hỏa ở bộ đầu làm hại thần kinh thành điên cuồng ).
Đặt bàn tay lên hai điểm quan trọng là đan điền thần, ( điểm quy tụ hỏa khí, giữa mỏm xương ức ), và đan điền tinh ( dưới rốn chừng 3-5cm ). Đàn bà đặt tay phải lên đan điền thần, đàn ông đặt tay trái lên đan điền thần, tay kia đặt lên đan điền tinh.

2.Tập nghe hơi thở :

Hai mắt nhắm lại, tai chú ý lắng nghe nơi bụng dưới rốn chỗ đặt bàn tay nơi đan điền tinh. Theo dõi trong thầm lặng, hơi thở bình thường tự nhiên, không cố ý hít vào thở ra, chỉ theo dõi hơi thở tự nhiên nó vào nó ra làm sao. Khi thở vào, chúng ta cảm thấy bụng phồng lên nhẹ, trong đầu ghi nhận là phồng, khi hơi thở ra, ta cảm thấy bụng xẹp xuống, trong đầu ghi nhận là xẹp. Lúc mới đầu tập, hơi thở vào-ra chưa đều, tần số sóng não đang ở giai đoạn làm việc, thuộc sóng béta 13-20 hertz. Cứ để cho tâm tĩnh lặng theo dõi phồng xẹp chừng 5-10 phút cho quen, lúc đó tần số sóng não chuyển sang giai đoạn nghỉ ngơi thuộc sóng alpha 8-13 hertz và ta cảm nhận được hơi thở vào ra phồng xẹp rõ ràng, sau đó chuyển sang giai đoạn kiểm soát hơi thở.

3.Kiểm soát hơi thở :

Kiểm soát hơi thở là thiền còn tỉnh thức thuộc giai đoạn sóng théta 4-7 hertz, đó cũng là ngưỡng cửa của giai đoạn hôn trầm làm buồn ngủ.

Có hai cách kiểm soát hơi thở :

a-Theo dõi hơi thở phồng-xẹp bằng cách đếm ( sổ tức ).

Nhắm mắt ,cuốn lưỡi ngậm miệng, hít thở bằng mũi tự nhiên. Bắt đầu quan sát và kiểm soát hơi thở bằng cách đếm thầm trong đầu. Khi bụng phình lên, ta ghi nhận trong đầu là phồng, khi bụng xẹp, ta ghi nhận trong đầu là xẹp và đếm thầm là 1 lần, rồi tiếp tục cứ mỗi lần theo dõi hơi thở vào hơi thở ra đếm thầm phồng-xẹp 2, rồi phồng-xẹp 3, phồng-xẹp 4, phồng-xẹp 5, phồng-xẹp 6, phồng-xẹp 7, phồng-xẹp 8, phồng-xẹp 9, phồng-xẹp 10, rồi đếm trở lại từ phồng-xẹp 1 tới phồng-xẹp 10 nhiều lần.

Nhớ rằng không cố ý hít vào, không cố ý thở ra, hơi thở lúc nào cũng tự nhiên như người đang ngủ, nó thở xong thì mình đếm thầm để kiểm soát nó thở được như vậy bao nhiêu lần, chứ không phải là mình đếm cho nó thở, vì làm như vậy là cố ý dùng sức để ép hơi thở sẽ bị mệt, hụt hơi, thần kinh căng thẳng, tần số sóng não lại tăng thành giai đoạn sóng béta 13-20 hertz là tần số thức khi đang làm việc, thay vì giảm xuống tình trạng hôn trầm thuộc sóng theta 4-7 hertz để từ từ vào giấc ngủ sâu thuộc giai đoạn sóng delta 1-3 hertz.

Cứ theo dõi hơi thở đều đều, sóng não xuống thấp dần thiếp vào giấc ngủ. Nếu trong đêm bị thức giấc, lại tập theo dõi hơi thở để duy trì lại sóng théta 4-7 hertz sẽ mau rơi vào giai đoạn hôn trầm đến giấc ngủ sâu.

b.Theo dõi hơi thở bằng một chu kỳ đều :

Chúng ta có thể tập thở theo một chu kỳ nhất định với nhịp thở sinh học 5-5.,Áp dụng hai câu thơ hay hai câu hát loại 5 chữ . Khi đọc hay hát thầm mỗi câu sẽ kéo dài trong 5 giây đồng hồ, cứ 5 giây hít vào, 5 giây thở ra đều đặn tạo ra nhịp thở sinh học 5-5.
Thí dụ chọn câu :
‘ Thở, vào, tâm, tĩnh, lặng.
Thở, ra, miệng, mỉm, cười.

Nhắm mắt, cuốn lưỡi, ngậm miệng, hít thở bình thường, ở thì hít vào, trong đầu đọc nhẩm : thở, vào, tâm, tĩnh, lặng. Nhớ là thở tự nhiên, đọc làm sao cho năm chữ theo kịp cho trùng với hơi thở, hơi thở không theo lệnh câu đọc, mà câu đọc phải theo ăn nhịp với hơi thở . Khi thở ra ,đọc câu : thở, ra, miệng, mỉm, cười cũng phải ăn nhịp vừa hết hơi thở ra, mới đầu hơi thở ngắn thì câu đọc phải nhanh cho kịp bằng với hơi thở,( nhịp thở sinh học là 3-3, tức là một hơi thở vào-ra dài 6 giây ), tiêu chuẩn lý tưởng là nhịp sinh học 5-5, tức là một hơi thở vào-ra dài 10 giây ,trong một phút thở được 6 hơi, sẽ tự chữa được rất nhiều bệnh. Tiếp tục luyện thầm câu đọc và hơi thở trùng nhau, liên tục, đều đặn, không ngừng nghỉ. Cùng lúc tập trung ý, nghĩ đến lòng bàn tay dưới nơi đan điền tinh ,nghe và theo dõi xem lòng bàn tay ấy ấm nóng chưa, hay bụng sôi và kêu lọc ọc chưa.

Khi còn tỉnh thức để theo dõi hơi thở và câu đọc là đang tập khí công tự chữa bệnh, nếu không có bệnh cơ thể sẽ tăng tính hấp thụ và chuyển hoá thức ăn ra khí huyết làm tăng hồng cầu, tăng cường hệ miễm nhiễm, hô hấp, tiêu hoá, bài tiết, sinh dục..
Nếu không tỉnh thức mà rơi vào hôn trầm ,tức là hai tay buông lơi, không đọc câu theo hơi thở, chúng ta sẽ rơi vào giấc ngủ từ từ chỉ chừng 30 phút tập đúng.

C-NHỮNG DIẾN TIẾN KỲ LẠ KHI THEO DÕI HƠI THỞ :

Bài tập theo dõi đếm hơi thở có thể tập ban ngày dùng để tự chữa bệnh, hay khi bị mệt mỏi căng thẳng thần kinh, cần phải tập để tinh thần thư giãn phục hồi sức khỏe. Ngay cả khi mất ngủ kinh niên, thay vì nằm thao thức trằn trọc suốt nhiều đêm khiến mặt mày hốc hác tiều tụy, tinh thần suy nhược, hãy tập theo dõi hơi thở ,biến dưỡng căn bản giảm không làm tiêu hao nhiều năng lượng mà khí huyết lại lưu thông dễ dàng.

Tập trong 30 phút, nghe thấy bụng sôi, những hơi bị ngăn nghẹn ở lồng ngực đi xuống, mình cảm thấy thở được nhiều hơn trước, từ bụng trên có cái gì chuyển xuống bụng dưới giúp tiêu hóa tốt, ăn biết ngon, mau đói, dễ tiêu, nghe bụng ấm rồi dần dần cơ thể ấm, cứ tập sẽ khám phá ra tai nghe rõ hơn, cảm thấy có nhịp đập của mạch máu dưới lòng bàn tay, thỉnh thoảng nghe nó nhảy một cái, tập trung ý vào lòng bàn tay nghe cho kỹ hơn, cảm nhận nó đập mạnh hơn, nhiều lần hơn, đều hơn, rồi phân biệt được mạch trong bụng đập, nghe nữa càng lúc càng rõ tiếng đập của động mạch bụng đập to dần nghe ‘ bịch, bịch ‘, nghe chán rồi chúng ta rơi vào giấc ngủ sâu, êm đềm, không mộng mị khi tỉnh dậy thì trời đã sáng lúc nào không hay.

Một thí dụ dễ thấy từ sóng béta đến théta làm thư giãn thần kinh gân cơ trong trường hợp con chúng ta ham chơi qúa khuya, sự hoạt động hưng phấn thần kinh tạo ra sóng béta, chúng ta bắt nó đi ngủ, nó vẫn còn ham chơi không thể nào ngủ được. Nhưng nếu chúng ta bắt nó ngồi yên một chỗ không cho đi ngủ, không cho chơi chạy nhảy nô đùa nữa, sóng não đổi sang sóng alpha là tình trạng nghỉ ngơi, làm nó sẽ chán và ngủ gục dễ rơi vào trạng thái sóng thêta, thần kinh thư giãn, chân tay mềm rũ, bế nó vào giường ngủ chúng ta cảm thấy chân tay nó vô lực không còn cứng như lúc nó thức. Hoặc như một người thợ máy khi đứng làm việc tự nhiên chân vô lực, té ngã xuống, không phải là chân yếu mà do buồn ngủ gục, điều đó chứng tỏ hệ thần kinh điều chỉnh tự động từ giai đoạn làm việc qúa độ ( sóng béta )sang giai đoạn thư giãn ( sóng théta ).

Vậy khi chúng ta chủ động tập thở đi vào được giai đoạn sóng théta để ngủ được thì bệnh đau nhức thần kinh, cơ bắp, xương, gân, cốt, đau nhức do tổn thương tạng phủ sẽ biến mất mà không cần phải dùng nhiều đến thuốc như trong lúc thức. Ngược lại, nếu cơ thể không ngủ được, do đau đớn khi mang bệnh, lại lạm dụng thuốc giảm đau, hoặc dùng thuốc chữa bệnh kích thích thần kinh hưng phấn sẽ làm tê liệt sự nhạy cảm thần kinh mất tính chủ động điều chỉnh tự chữa bệnh.

D. CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁC :

Để bổ sung phương pháp chữa bệnh mất ngủ kinh niên bằng cách tập thở khí công ( phần tĩnh công ), chúng ta cũng cần phải tập thể dục khí công (phần động công) chúng tôi sẽ nói đến ở một bài viết khác.
Bài tập theo dõi hơi thở trên dùng cho người lớn tuổi, thể lực yếu, bị bệnh mất ngủ kinh niên.
Người trẻ tuổi nếu vì lý do gì bị mất ngủ, có thể bớt làm việc bằng trí óc, chịu khó vận động cơ thể như đánh quần vợt, bơi lội, chạy bộ, ném bóng, đánh cầu.. làm cho khí huyết lưu thông. Tắm nước nóng trước khi đi ngủ.

Có một thanh niên mất ngủ 15 năm phải uống thuốc ngủ mỗI tối mà vẫn không ngủ được, trằn trọc suốt đêm suy nghĩ, thần kinh bị ám ảnh lo sợ cho rằng đã có người hãm hại đầu độc bằng thuốc hại thần kinh khi thời gian còn đi làm chưa bị bệnh tâm thần. Bệnh nhân thông minh, kiến thức rộng, khỏe mạnh, yêu cầu tôi giúp cho ngủ được.

Tôi giao điều kiện trước khi chữa bệnh theo bài tập trên, bệnh nhân phải thức liên tục 2 tuần lễ không được ngủ. Bệnh nhân nhận lời vì cho là quá dễ đối với mình. Qủa thật dễ nếu để bệnh nhân tự do tâm viên ý mã thì hoạt động sóng não lúc nào cũng thuộc sóng béta. Tôi giao điều kiện phải thực hiện những chỉ dẫn sau đây rồi mớI chữa :

1-Tối 8-10 giờ chạy bộ quanh công viên nhiều vòng ( khoảng 10 km ) để làm suy giảm thần kinh hưng phấn, sóng béta sẽ giảm.
2-Tắm nước nóng trước khi đi nằm cho khí huyết lưu thông .
3-Để đèn đọc sách, thức suốt đêm đọc một loại sách không ưa thích, khó đọc khó nhớ như một quyển kinh chữ latin hoặc chữ phạn, nếu thông minh phải học thuộc lòng trong một đêm một đoạn hay nhiều đoạn, mục đích giết thì giờ qua đêm tập không ngủ, chứ không được nghỉ để nghĩ chuyện khác, dù chán cũng không được bỏ cuộc, làm như vậy để ức chế thần kinh khiến cơ thể mỏi mệt tự động cần nghỉ ngơi thư giãn thì sóng théta sẽ đến.

Kết qủa một tuần lễ sau bệnh nhân đến tuyên bố thua cuộc, vì hôm đầu, tính háo thắng khiến tinh thần tập trung để học thuộc những câu kinh làm thần kinh qúa ức chế sinh mệt mỏi tự động thư giãn nghỉ ngơi, đã rơi vào hôn trầm, ngủ được liên tiếp 2 giờ mới thức lại. Ngày hôm sau số giờ ngủ tăng lên, đến cuối tuần tăng lên được 6 giờ ngủ mà không thuộc được hết quyển kinh. Và cũng do thói quen không thích đọc kinh sách, mỗi tối khi phải học thuộc kinh, thần kinh bị ức chế để cột tâm vào một việc giống như phương pháp thiền định, thần kinh trở nên đối kháng, tự động sóng não điều chỉnh giúp cơ thể thư giãn rơi vào sóng théta nhanh hơn.

Áp dụng phương pháp trên đây là phương pháp ức chế thần kinh để tạo phản xạ thần kinh chống đối tự động thành thư giãn. Còn phương pháp tập thở là định tâm an thần giúp thân tâm an lạc, đi vào giấc ngủ êm đềm, giúp cơ thể chúng ta tự động điều chỉnh được sự khí hóa của lục phủ ngũ tạng phòng chống bệnh tật, tăng cường sức đề kháng, phát triển trí thông minh, tăng cường trí nhớ,giúp chúng ta nhìn đời bằng một khía cạnh lạc quan, yêu đời và vị tha hơn.

E-Chữa bệnh mất ngủ bằng ăn uống

Ngoài ra chúng ta có thể dùng luân phiên thay đổi các loại món ăn thay thuốc giúp ngủ ngon như :

A- Bệnh mất ngủ do nhiệt chứng, dương chứng , máu cao :

1-Canh củ sen thịt heo nạc :
Nấu canh củ sen 300g hầm với thịt nạc heo 100g, lấy nước uống mỗi tối, giúp an thần, ngủ ngon.

2-Canh hạt sen :
Nấu canh hạt sen tuơi bỏ tim 100g, thịt nạc heo 50g, với giá đậu xanh, nêm nếm cho vừa ăn.

3-Cháo nếp đậu xanh :
Nãu cháo gạo nếp 100g, đậu xanh 50g, hạt sen 50g, sườn heo 200g nêm nếm vừa ăn.

4-Cháo củ mài , tim heo :
Nãu cháo gạo tẻ 100g, tim heo 1 qủa, hạt sen 50g, củ mài tươi 100g nêm nếm vừa ăn.

5-Nước uống hoa nhài :
Dùng hoa nhài tươi hay khô 10 cái pha với 1 ly nước sôi 250cc, ngâm sau 15 phút là dùng được, uống trước khi đi ngủ.

6-Nước táo nhân hoa cúc :
Hạt táo nhân mua ở tiệm thuốc bắc 30 hạt, cúc áo hoa vàng 10 cái, nấu với 300cc nước cho sôi, uống trước khi đi ngủ.

7-Nước tâm sen, lá dâu :
Tâm sen, lá dâu khô mỗI thứ 3-5g nấu với 300 cc nước cho sôi, uống trước khi đi ngủ.

B- Bệnh mất ngủ do hàn chứng, âm chứng, thiếu máu, áp huyết thấp :

1-Canh bí đỏ :
Nấu 200g bí đỏ với 100g nạc heo, nêm nếm vừa ăn.
2-Cháo bí đỏ :
Nãu cháo gạo nếp 100g, bí đỏ già 200g, hạt sen 50g, sườn heo 200g, nêm nếm vừa ăn.

3-Nước long nhãn :
Nấu long nhãn khô 10g, mạch môn 5g với 300 cc nước, đun sôi, uống trước khi đi ngủ.

4-Nước long nhãn tâm sen :
Nếu không biết người thuộc hàn hay nhiệt, nấu long nhãn, mạch môn, tâm sen, táo nhân, mỗi thứ 5g với 300cc nước, đun sôi, uống trước khi đi ngủ.

BÀI ĐỌC THÊM :

TỰ CHỮA BỆNH MẤT NGỦ DỄ HAY KHÓ ?

Hường bị bệnh mất ngủ từ lâu, mỗi đêm thức giấc trằn trọc không ngủ lại được, cứ phải uống thuốc mà cũng chẳng đêm nào ngủ ngon giấc, có thể do bệnh migraine, mỏi một bên cổ, đầu đau nhức ngấm ngầm một bên không nhiều lắm nhưng khó chịu, đầu óc lúc nào cũng căng thẳng, lâng lâng, chóng mặt, hồi hộp.

Một người bạn là học viên lớp khí công y đạo cho biết khí công tự chữa bệnh có thể chữa được rất nhiều bệnh, Hường hỏi thăm địa chỉ và hai vợ chồng mừng rỡ hăm hở ghi danh theo học, gặp Chị Mai, một học viên làm thiện nguyện ghi tên nhận bệnh nhân hỏi Hường bị bệnh gì, Hường kể bệnh, chị tươi cười bảo bệnh đó dễ chữa, một hai lần là khỏi. Hường ngạc nhiên nhìn gương mặt chị, cảm thấy rất tự tin. sau chị sắp xếp Anh Đức hướng dẫn cho Hường, lại chính là người bạn của Hường.
Hường được giải huyệt, tập những động tác thể dục khí công, trên đường về nhà cảm thấy khỏe, hy vọng đêm nay sẽ ngủ được mà không cần thuốc.

Bốn đêm ngủ được dễ dàng, nhưng những đêm sau lại thao thức cho tới 6 giờ sáng phải dậy đi làm, cơ thể rất mệt mỏi như trước. Chiều về làm, Hường gọi điện thoại lên Montréal hỏi thầy Ngọc rằng tại sao Hường vẫn tập khí công của thầy do đệ tử thầy hướng dẫn mà vẫn chưa ngủ được ngon giấc. Thầy hỏi, khi nạp khí trung tiêu có tập trung ý ở bụng nghe được tiếng sôi bụng chưa? Quả thật Hường chưa tập trung ý, Hường tự nhủ tối nay phải cố gắng.

Trước khi ngủ, Hường đọc bài viết về cách thở chữa bệnh mất ngủ trong quyển Câu chuyện đông y, đọc đến câu một giờ thiền bằng hai giờ ngủ, thật lý thú. Đêm đó, Hường nạp khí trung tiêu xong, bắt đầu để tay lên đan điền, thở theo nhịp 5-5, và theo dõi từng hơi thở, nghe được những tiếng kêu lục bục nhỏ trong bụng, trong im lặng tĩnh mịch, tinh thần bình thản không còn lo sợ không ngủ được, vì thiền giữ thân tâm yên tịnh được một giờ tương đương với hai giờ ngủ. Quả thật Hường cảm thấy thiền làm cho đầu óc nhẹ nhàng, minh mẫn, không nghĩ vẩn vơ, không mệt mỏi, tâm tĩnh lặng như mặt nước hồ thu, nó đã dẫn Hường vào giấc ngủ sâu từ lúc nào không biết, khi tỉnh dậy, tinh thần sảng khoái .

Thời gian trôi qua thấm thoát 4 tháng, Hường không hề dùng một viên thuốc ngủ, và không còn biết lo sợ bệnh mất ngủ nữa, các triệu chứng khác cũng biến mất. Tập khí công để tự chữa bệnh trở thành ham thích như một thói quen, cứ ngày hai lần sáng và chiều tập nửa giờ, cho nên mỗi tối vào giường nằm thiền chừng 5 phút là đi vào giấc ngủ sâu, cơ thể khỏe mạnh không mệt mỏi nữa.

Vợ chồng Hường cảm thấy hạnh phúc, không lo lắng bệnh tật, nay cả hai đã trở thành học viên, sẵn sàng tình nguyện hết lòng giúp đỡ hướng dẫn cho những ai đã từng khổ sở vì những chứng bệnh giống như Hường để có lại một đời sống vui tươi khoẻ mạnh.

Nguyễn thị Hường
Mississauga

--------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu hỏi :

Cho cháu hỏi số điện thoại hoặc nick chát của cô Nguyễn Thị Hường để trao đổi thông tin về cách chữa bệnh mất ngủ. Bởi vì cháu bị mất ngủ 3 năm mà cháu dùng nhiều loại thuốc mà không thấy hết và cháu không biết buồn ngủ là gì. Cháu rất mong sớm nhận được tin của cô.
Xin cám ơn!

Kim Huyền

-----------------------------------------------------------------------------------

Trả lời :

Thân gửi Kim Huyền,
Bệnh mất ngủ của cô do suy nghĩ nhiều quá, danh từ Phật giáo gọi là Tâm viên ý mã,(tâm như con vượn, nhẩy từ cành cây này sang cành cây khác luôn tay không ngừng, ý như con ngựa, lúc nào cũng chạy) Có nghĩa là khi nằm ngủ, tâm vừa nghĩ đến Mỹ, thì ý như con ngựa chạy sang Mỹ đào sâu thêm chi tiết, nào là gia đình anh hai chị ba và các cháu bây giờ ra sao..rồi tâm lại nghĩ đi nghỉ hè Cuba, thế là ý lại đào sâu vấn đề nghĩ các cuộc nghỉ hè ở Cuba...rồi tâm lại nghĩ đến VN, ý lại chạy như con ngựa đến VN đào sâu vấn đề chi tiết ở VN...tâm và ý cứ nghĩ cứ chạy suốt đêm, cho đến sáng thức dậy đi làm. Thế là mất ngủ triền miên.
Ngay thời gian này, tâm và ý cô muốn chạy đến chỗ cô Hường để đào sâu chi tiết xem cô Hường chữa bệnh mất ngủ ra làm sao , nếu có ai mách một phương pháp chữa mất ngủ khác thì tâm ý lại chạy nữa.

Muốn chữa mất ngủ hãy cột tâm lại , khi đi ngủ nằm thở chỉ nghĩ đến bụng phồng xẹp, và tập đếm phồng xẹp từ 1-10, rồi lại từ 1-10, cứ đếm suốt đêm, và để ý theo dõi kết quả của việc nằm thở, phải đạt được những hiện tượng sau đây : bàn tay và bụng nóng, xuất rịn mồ hôi, tiếng sôi bụng suốt đêm được bao nhiêu lần, khí trong người chạy từ đâu đến đâu . Nhớ rằng không cần ngủ , vì đằng nào mình cũng đã mất ngủ 3 năm rồi , có mất ngủ thêm 1 tuần cũng không hại gì , vì nằm thở thiền chính là ngủ trong tỉnh thức , 1 giờ thiền bằng 2 giờ ngủ, sáng dậy đi làm cũng không mệt mỏi. Các vị thiền sư rất ít ngủ ,hầu như không ngủ mà các ngài vẫn khoẻ mạnh .Ở các thiền viện ,giờ ngồi thiền 1 ngày 4 buổi, mỗi buổi lâu 2 giờ từ 0-2giờ sáng, từ 6-8 giờ sáng, từ 12-14 giờ, từ 18-20 giờ , như vậy thiền 8 tiếng 1 ngày là đã tương đương với 16 giờ ngủ nên không cần phải ngủ. Riêng tôi đi làm về khuya, trả lời email đến 2 giờ sáng mới đi ngủ, nằm xuống thiền là ngủ ngay, khi tỉnh dậy là 7 giờ sáng, đi làm đến khuya mới về, không có thời giờ ăn trưa, chỉ ăn cơm chiều mà sức khoẻ vẫn tốt. Trước kia khi chưa tập khí công ,tôi cần phải ngủ 10 tiếng 1 ngày mà cảm thấy chưa đủ ,vì đêm ngủ để tâm viên ý mã xây nhiều mộng cho tương lai quá mà chẳng mộng nào thành , nằm nướng đến 10 tiếng mà vẫn mất ngủ, ban ngày ngủ gà ngủ gất ,đó là phản ứng tự nhiên của cơ thể ngủ bù. Khi tôi học ngồi thiền, thì chẳng thiền và đếm hơi thở được ,lại bị ngủ gục ,danh từ chuyên môn của thiền gọi là hôn trầm ,sau tôi nghĩ ra cách, khi thiền thì buồn ngủ, vậy tại sao không nằm thiền, nếu tỉnh thức thì trí não được phát triển minh mẫn sáng suốt, còn không thì bị hôn trầm buồn ngủ, sẽ được ngủ ngon , khỏi phải lo đến bệnh mất ngủ , môn này là môn thiền lười , gọi tên cho văn vẻ một chút là ngoạ thiền. Vậy ngoạ thiền là phương pháp chữa bệnh mất ngủ hay nhất mà không cần phải dùng thuốc ngủ.
Cô hãy áp dụng, đừng để tâm viên ý mã chạy đến cô Hường làm gì , hãy cột tâm lại một chỗ ở bụng, vùng đan điền Khí hải, theo dõi hơi thở suốt đêm rồi sẽ bị hôn trầm đi vào giấc ngủ sâu, sáng dậy rất tỉnh táo khoẻ mạnh không mệt mỏi. Và áp dụng cách ăn uống đã chỉ dẫn ở bài trên. Cô sẽ trở thành cô Hường thứ hai để người khác bắt chước.

Chúc cô thành công, và báo cho mọi người trên diễn đàn biết kết quả sau 1 tuần ngoạ thiền nhé !
Thân
doducngoc

Bài nguyên thủy được đăng bởi

michael123

Tôi đã tập thở khí công chữa bệnh mất ngủ được khoảng 4 ngày rồi, chủ yếu vào buổi đêm,
các hiện tượng như: bàn tay và bụng nóng, xuất rịn mồ hôi đã có nhưng bụng chưa sôi. Xin
chị Hường chỉ giùm tôi khi kiểm soát hơi thở theo cách phồng xẹp hay là thở sinh học 5-5 thì cách nào dễ tập hơn. Thú thật tôi mong có ngày như chị lắm , sau khi đọc bài tập khí công
chữa bệnh mất ngủ tôi đã không uống thuốc ngủ nữa và quyết tâm tập , rất hy vọng sẽ ngủ được mà không cần thuốc ngủ. Ban ngày tôi không tập mà chỉ tập vào buổi đêm có được không. Đối với tôi bây giờ ngủ được mà không cần thuốc ngủ thì sự thật đang là một
giấc mơ. Rất mong nhận được hồi âm của chị. Cảm ơn chị nhiều.
Vũ Michael

Trả lời :
Thân gửi Michael,
Chưa cần theo nhịp thở sinh học 5-5 nếu thấy bị ngộp thở cũng sẽ làm mất ngủ, vì mình phải chú ý gồng ép hơi thở quá.
Dễ nhất là cơ thể buông lỏng , hơi thở tự nhiên giống như em bé đang ngủ, chỉ cần theo dõi nơi bụng tự nó phồng lên xẹp xuống, chứ không ép nó phồng xẹp theo ý của mình. Cứ theo dõi phồng xẹp như vậy ,khi nó sôi bụng mình ghi nhận là 1 lần, 2, 3,4 lần..ý đừng rời nơi bụng, cơ thể buông lỏng , đừng lo ngủ được hay không ngủ được ,vì tần số sóng não từ 18 hertz đang xuống dần để đưa bộ não vào thiền tỉnh thức ,mặc dù không ngủ được nhưng 1 giờ thiền như vậy bằng 2 giờ ngủ , sáng tỉnh dậy không mệt mỏi. Nhưng thiền tỉnh thức chỉ có các vị thiền sư mới giữ tỉnh thức mãi được , còn chúng ta sẽ bị hôn trầm đi vào giấc ngủ sâu .
Tôi đã hỏi nhiều người là anh chị đã đếm được bao nhiêu lần sôi bụng tối hôm qua? Có những kết quả như sau :
Họ trả lời :
1-Tôi mới đếm được 7,8 lần sôi bụng thì đã ngủ mất tiêu, đâu có nhớ là được bao nhiêu lần.
2-Tôi chẳng nghe sôi lần nào, và ngủ từ bao giờ mà tôi cũng không biết, sáng dậy cảm thấy người khoẻ không mệt mỏi bần thần như trước.
3-Tôi nghe suốt đêm mà bụng chẳng sôi, chỉ cảm thấy tay chân và mình nóng ấm ,nhưng tỉnh dậy không mệt mỏi , như vậy có phải là ngủ không?
Trường hợp thứ 3 này, Thiền sư Thích Thanh Từ cũng đã giảng ,có để ý nghe tiếng động nhưng nghe thấy

không động. Tức là đang thiền tỉnh thức vẫn có lợi hơn 2 trường hợp trên ,vì nếu thiền 6 giờ như vậy tương đương với 12 giờ ngủ. Hai trường hợp trên chỉ được 6,7 giờ ngủ bình thường.
Trường hợp 3 này, nếu không phải là người thiền giỏi sẽ không tỉnh thức nhiều ngày mãi như vậy được ,những ngày sau sẽ bị hôn trầm tự động rơi vào giấc ngủ ngon bình thường.
Vậy Michael tiếp tục tập xem mình rơi vào trường hợp nào nhé ,một tuần sau xin cho biết kết quả.
Thân ,
doducngoc

Bài nguyên thủy được đăng bởi

michael123

Con cảm ơn thầy Đỗ Đức Ngọc, không ngờ hôm qua con nhận được hồi âm của thầy sớm quá và con tập luôn lúc 21 giờ. Trong đầu con lúc nào cũng nghĩ 1 giờ thiền bằng 2 giờ ngủ và con không lo ngủ được hay không ngủ được nữa. Thưa thầy hôm qua con không thấy bụng sôi và con mở mắt ra đã thấy 6 giờ sáng rồi , con ngủ lúc nào không hay thầy ạ. Con hiện rất mừng và cũng lo vì không biết tối nay ra sao. Thưa thầy con làm việc ở hãng chủ yếu là chân tay đầu óc thì thoải mái , thành ra cứ nghĩ đến khí công là con tập thở ra hít vào sâu trong lúc làm việc và thầm đọc hít , vào ,tâm , tĩnh , lặng. Thở , ra , miệng , mỉm , cười. Một ngày có khi cũng được 3 đến 4 giờ. Xin thầy cho biết như thế thì có hại hay lợi hả thấy. Con có lên làm như vậy tiếp không ạ vì con thấy mỗi lần làm như vậy chừng 20 đến 30 phút là trong tim con cảm thấy đỡ hồi hộp hơn và không nghe thấy tiếng tim đập thình thịch nữa ( buổi sáng con hay bị lo sợ và tim đập cảm giác bồi hồi giống như Depsression ). Xin Thầy chỉ bảo cho con. cảm ơn thấy nhiều.
con Vũ Michael

Trả lời :
Thân gửi Michael,
Michael đã làm đúng. Khi hít thở giữ nhịp thở 5-5 bằng 2 câu

Thở vào tâm tĩnh lăng. thở ra miệng mỉn cười.

đó là cách tập thở tạo ra tần số đều 10 giây 1 hơi thở, một phút thở được 6 hơi. Nhưng còn một cách thở khác cũng giữ được 6 hơi trong 1 phút mà không thấy ngộp thở ,có thể thở suốt ngày không thấy chán, không bao giờ bị stress hay depress , đó là câu hát của khí công : one, two ,three , four, five, six, seven.. như trong băng DVD tập thể dục khí công. Hát tưc là thở ra 7 giây, hít vào tự động sau câu hát mất 3 giây, tổng cộng là 10 giây 1 hơi thở.Thở ra nhiều hơn hít vào sẽ không bao giờ bị bệnh cao áp huyết và tiểu đường. Đi đứng nằm ngồi, lái xe, làm viêc.. lúc nào cũng hát nho nhỏ sẽ làm cho tính tình vui vẻ, trẻ mãi không già. Michael có nhìn thấy hình ảnh tôi trên DVD không, một ông già 70 tuổi mà trông như mới 50 cũng nhờ tập khí công theo bài hát 1,2,3,4,5,6,7.suốt ngày đấy.
Thân,
doducngoc

Cách chữa hoả của can vượng, hoả của tỳ vượng, thuỷ của phế vượng bằng phương pháp đông y

Hỏi :


Trong học thuyết đông y nói:
mắt sưng đỏ, đau là dấu hiệu ''hỏa cùa can vượng''
miệng lở,môi nứt là " hỏa của tỳ vượng ".
sổ mủi ,nước mủi nhiều "thuỷ của phế vượng" .
Vậy có phải là bệnh không ? cách điều trị như thế nào ?
Kính mong thầy chỉ dẩn để được học hỏi thêm.
Thành thật cảm ơn.

Trả lời :


Theo quy luật đông y : Muốn chữa BỆNH, phải tìm nguyên nhân mới chữa được gốc đã phát sinh ra bệnh đó. Cho nên khi học lý thuyết đông y là học về Triệu chứng lâm sàng học. Khi biết được CHỨNG thì cách chữa là ĐỐI CHỨNG TRỊ LIỆU .

Câu 1-Mắt sưng đỏ đau là dấu hiệu của can hỏa vượng.

Có 37 chứng của Can ( từ chứng 316 đến 353 trong Sách : Lý thuyết đông y-Triệu chứng Lâm sàng học do doducngoc soạn).
Khi bệnh còn nhẹ thuộc chứng Can hỏa (337) :
Chức năng can thịnh do nhiệt nung nấu ở kinh Can (nguyên nhân do ăn uống những gia vị hoặc thức ăn tính nhiệt, do khí hóa bởi thời tiết, tà khí xâm nhập) , hoặc do tình chí bị kích thích qúa độ, gây ra bệnh đau đầu, chóng mặt, mặt mắt đỏ, đau mắt, miệng đắng, nóng nảy hay cáu gắt, rìa lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, nặng hơn sẽ chảy máu cam, khạc nôn ra máu, phát cuồng.
Nếu bệnh nặng hơn thuộc chứng Can hỏa vượng (341)
Do can khí uất hóa hỏa, bức huyết đi càn, có dấu hiệu chóng mặt, đau đầu như búa bổ, ù tai, lòng buồn bực dễ nổi giận, miệng đắng, mắt đỏ, hai bên đầu lưỡi đỏ, nước tiểu vàng, nôn ra máu, chảy máu cam. Nhưng là dấu hiệu bình thường của phụ nữ có dấu hiệu mang thai được 1 tháng.

Cách chữa :

Tả hỏa của Can hỏa là can dương thuộc chức năng của can và con của Can mộc là Tâm hỏa (quân hỏa), nhưng lý thuyết đông y nói quân hỏa không có bệnh, muốn điều chỉnh hỏa phải dùng tướng hỏa ở Tâm Bào.
Vuốt từ Thái xung xuống Hành gian bên chân trái 18 lần (tả vừa khí vừa huyết nhiệt). Tả mộc đoạn của Tâm Bào từ Lao cung xuống Đại lăng 6 lần (dùng âm huyết chữa dương khí) ở cả 2 bên tay.
Sau khi tả xong, trán mát, mắt hết sưng đỏ.

Tập khí công :

Động công : Bài Vỗ tay 4 nhịp 200 lần, Vặn mình 4 nhịp 20 lần. Dậm chân hát 1,2,3…7. 3 phút, Bài Hạc tấn mở mắt đứng 1 phút mỗi bên chân, tập 6 phút.

Tĩnh công :

Nằm thở 2 bàn tay đặt tại Đan điền Tinh, thở tự nhiên, cuốn lưỡi ngậm miệng, chú ý thì thở ra làm cho bụng vùng Khí hải lên xuống mềm mại.

Thuốc uống :

Uống trà hoa cúc khô : dùng 10 bông cúc khô hãm với 1 ly nước sôi ,để nguội uống 1 lần. Mỗi ngày 3 lần. Lấy xác hoa đắp lên mắt.
Kiêng thức ăn cay nóng có tính nhiệt, và những thức ăn gây táo bón như chiên xào, dầu mỡ, rượu bia, thuốc lá, cà phê, trái cây nhiệt đới như nhãn, xoài, chôm chôm, sầu riêng, khô mực, gan gà…

Câu 2 : Miệng lở, môi nứt là dấu hiệu của tỳ vượng .

Có 25 chứng thuộc bệnh của Tỳ.
Tỳ vượng có nhiều nghĩa :
Nếu do

Chứng Tỳ nhiệt

(225), ngoài bệnh miệng lở môi nứt, phải kèm thêm các dấu hiệu khác như : họng khô, ợ chua, chóng đói, chân răng sưng chảy máu, mồ hôi trộm, đại tiện bí kết, tiểu ít, nước tiểu vàng đậm do nhiệt tà hoặc do ăn nhiều thức ăn táo nhiệt gây nên chứng nhiệt hoặc do viêm nhiễm ở gan mật làm nhiệt kết bao tử nóng.
Nếu do

chứng Tỳ âm hư

(219), ngoài bệnh miệng lở môi nứt còn thêm những dấu hiệu khác chỉ tỳ vị âm hư, âm dịch ở tỳ vị không đủ để làm nhiệm vụ thu nạp và chuyển hóa, miệng nhạt vô vị, ăn kém, thích uống nước, đại tiện táo kết, lưỡi đỏ rêu ít và khô hoặc lưỡi sáng trơn..
Nếu do

Chứng Vị âm hư

(245), Có 11 chứng bệnh của vị.
Ngoài bệnh lở miệng, môi nứt, còn thêm các dấu hiệu khác như tỳ thấp nhiệt làm tổn thương âm chất, do vị hỏa thịnh làm vị âm bất túc gọi là vị âm hư khiến môi miệng khô ráo, ăn không biết ngon hoặc đói bụng mà không muốn ăn, ọe khan và nấc, đại tiện táo, tiểu sẻn, có sốt nhẹ, giữa lưỡi đỏ khô, rêu ít, do bệnh nhiễm trùng làm tổn thương tân dịch sinh ra vị khí yếu, thường gặp ở bệnh viêm phổi, viên bao tử mạn tính, rối loạn tiêu hóa, bệnh tiểu đường.

Cách chữa đối chứng trị liệu :

Như vậy bệnh lở miệng môi nứt không những là dấu hiệu của

chứng Tỳ vượng(chứng 225) mà cũng là dấu hiệu của 2 chứng khác (219, 245) có cách chữa khác.

Cách lý luận :

Tỳ thổ vượng do mẹ là tâm hỏa vượng truyền sang (nếu có dấu hiệu chóng đói, mồ hôi trộm, nước tiểu vàng đậm) hoặc do vị có thực nhiệt( có dấu hiệu chóng đói, chân răng sưng chảy máu) hoặc do can hỏa bị viêm nhiễm sẽ không truyền bệnh cho con mà lại khắc vị thổ khiến thức ăn trong bao tử không chuyển hóa mà biến thành men khiến ợ chua và vị thổ nhiệt lại truyền cho đại trường kim dương bị nhiệt gây táo bón. Như vậy cả 4 hành mộc, hỏa, thổ, kim đều thực nhiệt. Đối với Thầy đông y châm cứu giỏi sẽ không chữa cả 4 hành một lúc sẽ phạm phải quy luật

phạm ngũ hành, sẽ làm cho bệnh hư càng thêm hư hoặc thực càng thêm thực, đối với dược thảo cũng phải đổi nhiều thang thuốc khác nhau.


Nhưng đối với

đông y khí công, xét hư thực của âm dương trước, xét hư thực của ngũ hành kinh mạch sau thì dễ chữa hơn.
Bệnh Miệng lở môi nứt :nguyên nhân do thiếu âm thủy nên dương hỏa vượt trội lên.



Theo khí công vuốt huyệt, bệnh vừa

dương thực vừa âm hư, Dùng

phương pháp thông tạng

theo công thức của khí công:
Vuốt từ Khí hải du lên KB (Khắc bệnh) sang BB (Bản bệnh) qua SB (Sinh bệnh) xả tà khí ra ngoài bằng tĩnh huyệt của SB.(trong bài giảng Khí công vuốt huyệt tự chữa bệnh)

1-Làm mát vuốt 6 lần trên mỗi đoạn kinh, dùng 2 ngón tay cái vuốt song song 2 bên đường kinh Bàng quang thứ nhất, từ Khí hải du lên Can du 6 lần, từ Can du xuống Tỳ du 6 lần, từ Tỳ du lên Tâm du 6 lần, Khi đặt 2 đầu ngón tay cái vào huyệt, bảo bệnh nhân hít vào, rồi bảo bệnh nhân thở ra là lúc mình vuốt mỗi lần theo hơi thở ra. Nhớ thoa Vaseline trước khi vuốt huyệt. Để ý khi vuốt qua mỗi huyệt, ngón tay cảm thấy huyệt nào cứng đau, huyệt nào mền, nếu huyệt Tâm du cứng đau là đã chữa đúng bệnh. Sau khi vuốt xong, dùng kim châm thử tiểu đường để châm xả tà khí ra khỏi tĩnh huyệt của kinh tâm là Thiếu xung bên tay trái và nặn ra máu nhiệt.
Vuốt lại lần thứ 2, để ý vùng huyệt tâm du hết cứng đau là đã quân bình được sự khí hoá của ngũ hành, rồi nặn máu Thiếu xung, (không cần châm nữa).

2-Vuốt xong cho bệnh nhân nằm úp, cuốn lưỡi, ngậm miệng, thở bằng mũi, bàn tay âm của người chữa đặt vào huyệt Mệnh môn của bệnh nhân đếm 200lần ở thì thở ra của bệnh nhân để tập cho bệnh nhân điều hòa Mệnh môn dương hỏa chuyển hoá sang thận âm thủy để cơ thể tự điều chỉnh tâm tỳ, sau đó môi miệng hết lở nứt.

3-Bảo bệnh nhân uống một ngụm nước nhỏ làm chất xúc tác giữ trong miệng rồi cuốn lưỡi ngậm miệng, xúc nước miếng 36 lần để kích thích tuyến hạch ra nước miếng, rồi nuốt vào 1/2, giữ lại 1/2, xúc 36 lần tiếp rồi nuốt 1/2. Phương pháp này của tiên gia thường tập luyện để tạo ra nước cam lồ, nên trong ngày không cần phải uống nhiều nước.

Ở VN có một bệnh nhân bị bệnh háo nước, uống bao nhiêu nước mà môi miệng vẫn khô, da khô, người gầy đét, ăn không đươc. Tôi hướng dẫn ông ấy tập phương pháp này, mới đầu ông không tin, nhưng muốn thử, nếu không đúng sẽ bắt nợ ông thầy. Ngày hôm sau ông ta khen phương pháp này hay quá ,ông đã đếm được hơn 3000 lần nuốt nước miếng tương đương với 3000cc nước một ngày mà chỉ cần có 1 ngụm nước uống đầu tiên. Khi tuyến hạch nước miếng được kích thích hoạt động mạnh trở lại thì sẽ đói bụng đòi ăn lúc đó nhiệm vụ thu nạp và chuyển hoá cốc khí thành chất bổ dưỡng dễ dàng để bổ sung cho vinh vệ khí mạnh hơn.

Câu 3 : Sổ mũi, nước mũi nhiều, thủy của phế vượng .

Bệnh của phổi gồm có 27 chứng.
Bệnh trên thuộc

chứng Phong hàn phạm phế

(268) : Nguyên nhân do phong hàn xâm nhập phế làm phế không tuyên giáng, có dấu hiệu ho mạnh, chảy nước mũi, sợ lạnh, đau mình, thường gặp trong bệnh viêm phế quản cấp tính, hen phế quản.

Nói theo chứng của đông y là nói bao quát nhiều bệnh kể trên nằm trong một chứng, thực tế theo y học hiện đại có hai loại bệnh thường gặp là bệnh sổ mũi do dị ứng thời tiết hay phấn hoa (cấp tính), loại viêm mũi dị ứng (mãn tính) cũng thuộc bệnh của phế .

Cách chữa :
1-Xì hết nước mũi ra rồi lau khô lỗ mũi.

2-Dùng một ly nước nóng pha với 2 muổng canh dấm táo hay dấm tây, dấm tầu đều được cả, để mũi vào xông diệt tà khí (virus), nước mũi từ bên trong sẽ chảy ra nữa, xịt ra cho hết, rồi xông vài lần nữa cho đến khi lỗ mũi khô, thở thông. Nếu bệnh nặng, nhúng đầu mũi vào ly nước dấm 1 phút để rửa diệt trùng trong niêm mạc mũi.
Nếu là dịch cảm cúm gây bệnh do có nhiều virus trong không khí làm cả nhà bị bệnh, ngoài việc điều trị cho cá nhân, các Thầy đông y Tầu chỉ cho phương pháp đun sôi một chảo nước nóng rồi đổ vào 1/2 chai dấm (làm bằng rượu gạo) cho hơi dấm bay lên xông khắp nhà để diệt virus mà đông y gọi là tà khí.

3-Nằm ngửa, lòng bàn tay bôi dầu loại có nhiều menthol và camphre như hiệu Linh Nam Ultra balm (có bán ở các tiệm thuốc bắc) rồi tập bài Nạp khí trung tiêu lâu từ 1 đến 2 phút mỗi lần, tập 5 lần, làm tăng cường thổ khí tỳ vị giúp mạnh phế kim. Khi hạ chân xuống, vẫn cuốn lưỡi ngậm miệng, hơi bị ép trong người sẽ khiến cho bụng nhồi mạnh, phồng lên xẹp xuống liên tục nhiều lần và thở ra mạnh dồn dập hơn bình thường qua lỗ mũi, lợi dụng lúc đó, đặt bàn tay có thoa dầu lên mũi, để mũi hít được mùi dầu ấy thông vào trong phổi để sát trùng phổi và làm thông phế khí quản, phổi sẽ khô và chức năng sẽ mạnh để làm nhiệm vụ vệ khí bảo vệ cơ thể chống bệnh tật.

4-Pha 1 ly nước nóng với 2 muổng dấm táo, 2 muổng mật ong, 5 lát gừng băm nhỏ, khuấy đều uống để giúp chức năng phế vị mạnh.

5- Đứng tấn ngũ hành, nạp khí vào ngón tay phế, lâu 5 phút, cả người sẽ nóng đổ mồ hôi.(bài đứng tấn ngũ hành có trong băng DVD tập thể dục khí công).

Đỗ Đức Ngọc

Khảo cứu về bệnh cao áp huyết theo đông tây y

PHẦN MỘT :Những dấu hiệu báo trước của Bệnh cao áp huyết



Có những lúc bạn cảm thấy cơ thể bạn có gì trục trặc không ổn, sức khỏe mỗi ngày một biến đổi đáng lo ngại, cần phải đi khám tổng quát xem có bệnh hay không. Đôi khi kết qủa khám tổng quát là tốt nhưng bạn vẫn cảm thấy những biến đổi đang âm thầm đe dọa đến sức khỏe của bạn mà tây y chưa tìm ra dấu hiệu cụ thể.

Đối với đông y những biến đổi đó có để lại những dấu hiệu rõ ràng, nhờ đó bạn có thể biết để phòng ngừa được một số bệnh tật. Chẳng hạn như một người nghiện cà phê hay thuốc lá, khi số lượng caféine hoặc nicotine tích lũy vượt qúa sức chịu đựng của cơ thể làm cho mất ngủ, suy nhược thần kinh, hay ho, táo bón, đau xót bao tử..thì đó là dấu hiệu báo cho bạn biết để dừng lại, nhưng một số người chủ quan cho rằng đi chụp phổi, khám bao tử vẫn tốt nên vẫn ngoan cố tiếp tục tái phạm. Do đó, bệnh cao áp huyết cũng không phải tự nhiên mà có, nó chỉ là hậu qủa tất yếu do nhiều nguyên nhân tích lũy đã tiềm ẩn trong cơ thể bởi ăn uống sai lầm, bởi điều kiện khí hậu, môi trường sống và làm việc, bởi ít vận động chân tay và bởi xáo trộn tâm lý, thay đổi tính tình.. đông y quy về ba yếu tố chính là tinh-khí-thần.

Theo đông y TINH có được là do tinh chất của thức ăn tạo ra dưỡng trấp thành huyết, sinh tinh hóa tủy để nuôi dưỡng cơ thể.

KHÍ là do hơi thở, là một trong những chức năng làm biến đổi đồ ăn chuyển hóa thành năng lượng, làm lưu thông khí huyết đi khắp nơi để nuôi dưỡng và bảo vệ cơ thể, khí trong cơ thể cũng bị ảnh hưởng và lệ thuộc vào môi trường không khí ,thời tiết bên ngoài tạo điều kiện cho sự khí hóa của cơ thể tốt hay xấu.

THẦN là hệ thần kinh, bộ não, tình cảm tâm lý, tinh thần, tính nết do di truyền và do học hỏi ở mỗi người mỗi khác.

Đối với đông y, bộ ba tinh-khí-thần phải hòa hợp thuận với sự khí hóa ngũ hành của cơ thể thì con người mới khỏe mạnh, nếu không hòa hợp, làm mất quân bình sự khí hóa của cơ thể sẽ sinh bệnh.

1- Sự khí hóa ngũ hành là gì ?
Đông y mượn 5 yếu tố mộc (m), hỏa (h), thổ (t), kim (k), và thủy (th) gọi là ngũ hành, dùng làm quy ước để lý giải mọi hiện tượng biến đổi của vũ trụ, thiên nhiên và con người theo thuyết thiên nhân đồng nhất thể. Quy ước này giống như một định đề toán học, nó chi phối bởi 3 luật tương sinh, tương khắc, và chế hóa.

Ngũ hành tương sinh :
Mộc sinh hỏa ( ví như củi sinh ra lửa )
Hỏa sinh thổ ( lửa cháy thành tro đất )
Thổ sinh kim (trong đất sinh quặng mỏ, kim loại )
Kim sinh thủy ( kim chảy lỏng ra nước )


Thủy sinh mộc ( nước làm cho cây mọc )



Ngũ hành tương khắc :
Mộc khắc thổ ( cây cọc làm cừ chặn đất lở )
Thổ khắc thủy ( đất làm đê đập chặn nước )
Thủy khắc hỏa ( nước dập tắt lửa )
Hỏa khắc kim ( lửa làm chảy kim loại )
Kim khắc mộc ( dao chặt được cây )

Luật chế hóa ngũ hành :
Trên lý thuyết, ngũ hành không sinh không khắc tuyệt đối, nếu chỉ sinh hoặc chỉ khắc sẽ làm mất quân bình sự tuần hoàn tự nhiên .Để giữ được quân bình và hòa hợp sự khí hóa chung của tổng thể ngũ hành tạng phủ vì mục đích sinh tồn và bảo toàn năng lượng nên ngũ hành tự động hòa hợp để bảo vệ cho nhau mà không tiêu diệt nhau.

Mỗi một hành đều có hai nhiệm vụ chính , một nhiệm vụ nuôi dưỡng theo vòng tương sinh ( thuận theo vòng tròn ) là hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa. Một nhiệm vụ khác là bảo vệ theo vòng tương khắc ( thuận theo chiều ngôi sao ), không để cho một hành phát triển sự hoạt động thái qúa thí dụ như hỏa hoạt động mạnh qúa do mộc sinh ra hỏa nhiều qúa, lúc đó thay vì thủy đáng lẽ sinh thêm mộc, nhưng mộc đã dư thừa mới làm cho hỏa mạnh, thì thủy tự động không sang mộc mà cần phải sang hỏa để khắc bớt hỏa cho yếu đi.



Sự hoạt động tự động theo luật chế hóa ngũ hành, được vẽ tượng trưng bằng một vòng tròn ngoài và một ngôi sao nội tiếp gọi là vòng chế hóa ngũ hành.

2-Định đề liên kết Tinh-Khí-Thần theo ngũ hành:
Cơ sở lý luận bệnh chứng của đông y dựa trên định đề liên kết tinh-khí-thần quy về ngũ hành tạng phủ để truy tìm nguyên nhân bệnh, và cũng nhờ ngũ hành mới tìm ra cách chữa bệnh có hiệu qủa.

A-NGŨ HÀNH VỚI CƠ THỂ:
Ngũ hành : Mộc (m), Hoả (h), Thổ (t), Kim (k), Thuỷ (th)
Tạng âm : Can Tâm Tỳ Phế Thận
Phủ dương : Mật Tiểu trường Vị Đại trường Bàng quang
Thông với : Mắt Lưỡi Miệng Mũi,Da,lông Tai
Tạo ra : Gân,móng Máu Thịt Mạch Xươngrâutóc
Dịch chất : Nướcmắt Mồ hôi Nước bọt Nước mũi Nướcdãi,tinh

B-Ngũ hành hợp với Tinh ( Tính khí, mùi, vị của thức ăn uống ):
Tính khí : Phong Nhiệt Thấp Táo Hàn
Mùi : Khai Khét Thơm Tanh Thối
Vị : Chua Đắng Ngọt Cay Mặn

C-Ngũ hành hợp với khí hậu,thời tiết :
ThờI tiết: Xuân Hạ Trường hạ Thu Đông
Thời khí : Phong Thử Thấp Táo Hàn
Phương vị : Đông Nam Trung ương Tây Bắc
Khí hóa : Sinh Trưởng Hóa Thâu Tàng

D-Ngũ hành hợp với thần ( Tâm tánh ) :
Tâm : Lành Tham Xao loan Dữ Si,dâm
Tánh : Giận Vui mừng Lo nghĩ Buồn Sợ


Tâm linh : Hồn Thần Ý Phách Chí
Âm thanh : La hét Cười Ca hát Khóc Rên
Mầu sắc : Xanh Đỏ Vàng Trắng Đen

Theo bảng định đề liên kết trên cho thấy ngũ hành liên quan đến hai yếu tố chính là âm và dương mới tạo ra khí hóa của cơ thể và sự tuần hoàn của trời đất.

Tuần hoàn của trời-đất dựa vào hỏa khí của mặt trời ( dương hỏa ), tác động với thủy khí của nước biển ở qủa đất (âm thủy) tạo ra mưa thuận gió hòa, do tỷ lệ tác động khác nhau tạo ra thời tiết của một ngày đêm như sáng có gío mát (phong), trưa oi bức (thử ), sau trưa ẩm thấp ( thấp ), chiều tối khô khan ( táo ), đêm lạnh lẽo ( hàn ), và của các mùa trong năm,( xuân sinh phong khí thuộc mộc, hạ sinh nhiệt khí thuộc hỏa, trường hạ sinh thấp khí thuộc thổ, thu sinh táo khí thuộc kim, đông sinh hàn khí thuộc thủy) cứ tái diễn đều đặn liên tục. Nếu sự tuần hoàn trục trặc thất thường, con người sẽ bị mất mùa, đói khát, bệnh hoạn, tai ương.

Tuần hoàn ở con người gọi là sự khí hóa phải nhờ đến hơi thở dẫn khí nóng của qủa tim ( dương hỏa ) xuống đến thận (âm thủy) để tạo ra khí của ngũ tạng, phong khí thuộc gan, hỏa khí thuộc tim, thấp khí thuộc tỳ, táo khí thuộc phổi, hàn khí thuộc thận. Mỗi loại khí có nhiệm vụ riêng của nó. Thí dụ vị cay vào phổi, tính chất cay là nóng thuộc hỏa vào phế giúp cho phế không bị hơi nước ẩm ướt làm khó thở, nó rút khí ẩm thành khô (táo ), vì thế phế khí cần táo khí, nhưng nếu ăn cay qúa sinh nhiều hỏa lại hại phế xuất hết chất nước ra ngoài làm chảy nước mắt, chảy mồ hôi khiến phổi qúa khô sinh ho. Chức năng phế và đại trường ( ruột già ) cần táo khí làm khô rút nước của cặn bã đồ ăn thành phân giống như mùa thu đất rút hết nước thành khô, co rút các tạp chất trong lòng đất thành quặng mỏ kim khí, vì vậy phế và đại trường là táo khí thuộc kim trong ngũ hành.

Hơi thở là khí nối hoả khí của tâm và thủy khí của thận tạo ra ngũ tạng khí của lục phủ ngũ tạng, gọi chung là KHÍ được dẫn truyền bởi màng lưới tam tiêu là những lớp màng mỡ,gân mỏng ,dây thần kinh, mao mạch, li ti huyết quản bao bọc quanh xương, gân, sớ thịt, màng óc, màng tim, màng phổi, màng bụng, màng gan, màng ruột, màng thận, các màng bao quanh các cơ quan tạng phủ và khắp cơ thể không thiếu sót chỗ nào. Cơ sở vật chất của các màng liên kết ấy dùng để chuyển khí huyết nuôi dưỡng và bảo vệ cơ thể, chúng ta có thể thấy được gọi là hệ tâm bào. Chức năng đặc biệt của màng tam tiêu chuyển các dịch chất như huyết, nước, mỡ..để nuôi cơ thể gọi là tam tiêu âm ,còn chức năng chuyển huyết thành khí để bảo vệ cơ thể thì chúng ta chưa có máy móc để nhìn thấy được sự chuyển hóa mà chỉ cảm nhận được qua khí sắc hồng hào khỏe mạnh, gọi là tam tiêu dương.

Tam tiêu âm-dương hoạt động được liên tục, bền bỉ, giữ được quân bình sự khí hóa cho khí huyết vừa đúng và đủ, không dư khí thiếu huyết, không dư huyết thiếu khí là phải nhờ đến bộ não và các dây thần kinh dẫn truyền. Như vậy thần kinh cũng có âm dương, âm để chuyển tín hiệu giao cảm, dương để chuyển tín hiệu phản xạ và có một trung khu thần kinh trung ương để điều hòa âm dương, cho nên đông y rất xem trọng đến màng tam tiêu và xếp thành một cặp tạng phủ riêng biệt, tạng là hệ thống tâm bào, phủ là chức năng hoạt động của màng tam tiêu chia làm ba vùng hoạt động, vùng thượng tiêu từ hoành cách mô, tim phổi, đầu và hai tay, vùng trung tiêu từ hoành cách mô xuống rốn bao gồm những hoạt động của gan mật, tỳ vị, ruột non, vùng hạ tiêu từ rốn xuống dưới đến hai chân bao gồn hoạt động của ruột gìa thận, bàng quang, sinh dục. Tâm bào thuộc tim mang hành hỏa âm, thì tam tiêu mang hành hỏa dương, cho nên lục phủ là tam tiêu, tiểu trường ( hỏa), Vị (thổ), Đại trường (kim), Bàng quang (thủy), Đởm (mộc) tạo ra khí, gọi là ngũ hành dương ,còn ngũ tạng là Tâm và tâm bào (hỏa), Tỳ (thổ), Phế (kim), Thận (thủy), Can (mộc) tạo ra huyết gọi là ngũ hành âm.

3- Lý luận bệnh theo ngũ hành :
Khi chúng ta bị bệnh, theo xét nghiệm của tây y, phải thấy được rõ ràng qua cân đong đo đếm cụ thể và có bị tổn thương thực thể mới thấy được. Đối với đông y thì sự khám phá như thế qúa muộn màng. Đông y nhờ vào học thuyết ngũ hành có thể biết trước được sự xáo trộn chức năng khí hóa do ảnh hưởng của tinh-khí-thần đã làm hỏng chức năng chế hóa ngũ hành.

Thí dụ, ai cũng biết nếu hút thuốc lá liên tục 3000 điếu trong ba tháng sẽ dẫn đến bệnh phổi, nhưng khi chụp phổi đâu có thể nào biết được nó đã hút độc tố vào phổi là bao nhiêu điếu, có khi hút đến 1000 điếu chụp hình phổi vẫn thấy tốt, nhưng đông y thấy được cả một qúa trình khí hóa đã bị xáo trộn ở phần khí lẫn phần huyết trước khi gan và phổi bị tổn thương thực thể. Chất cay của thuốc vào phổi làm phổi càng khô táo, độc tố nicotine vào phổi làm gan phải tăng cường chức năng lọc thải độc nên hành mộc phải tăng mộc làm mạnh chức năng hoạt động của mình, mộc sinh từ thận thủy bị hao kiệt, mặt khác mộc tăng sinh hỏa tăng, đốt phế kim càng khô, chức năng của phế kim nuôi dưỡng thận thủy không có, vòng chế hóa ngũ hành mất quân bình dẫn đến dấu hiệu thủy kiệt không nuôi mộc giúp gan lọc thải độc, không khắc chế được hỏa để hỏa tự do hại phế kim dần dần phổi bị tổn thương thực thể khi bị ho tạo thành vết nứt rách các xoang phổi thành bệnh phổi. Khi phổi bệnh do tâm hỏa đốt khiến độ ẩm của phổi bốc hơi sinh đổ mồ hôi, mất nước ,táo khí âm của phổi càng khô khiến táo khí dương của đại trường cũng khô sinh táo bón, phản ứng tự nhiên của cơ thể cần uống nước nhiều để giúp phổi đỡ khô khát, bù thêm nước cho thận thủy, nhưng táo khí trong phổi qúa khô, tim qúa nhiệt, số nước vào biến thành mồ hôi, và chức năng thận suy yếu không cầm giữ lại được nước trong cơ thể lâu, nên uống nước vào bị đẩy ra đường tiểu ngay. Khi chức năng phổi suy khiến hô hấp kém làm tim mạch đập không đều, máu thiếu oxy làm giảm hồng cầu ( khi máu đen oxyde sắt nhị O2Fe3 nhận được oxy nhiều khi thở vào sẽ biến máu đen thành máu đỏ oxyde sắt tam O3Fe3 ). Nhiệm vụ của phế kim phải khắc chế gan mộc để mộc đừng sinh hỏa hại kim, nhưng chức năng gan mộc hư, phế kim hư, thận thủy hư, tâm hỏa hư ,tâm hỏa phải sinh thổ để nuôi dưỡng tỳ thổ cũng hư nên ăn uống kém không chuyển hóa tốt. Gan tàng huyết ( chứa máu theo định đề liên kết )nên gan có độc tố nicotine thì huyết cũng bị nhiễm độc, khi thử máu, tỷ lệ thành phần máu biến đổi càng ngày càng tệ, khi chức năng lọc độc của gan hư yếu thì độc tố trong phổi không được lọc sẽ từ từ bám vào phổi thành vết nám, bắt đầu thành hình tổn thương thực thể lúc đó chụp hình mới thấy được.

Nhờ vào học thuyết ngũ hành để lý luận bệnh chứng qua sự xáo trộn khí hóa của vòng chế hóa ngũ hành tạng phủ, tạo ra những dấu hiệu mất quân bình. Trước khi bị bệnh rõ ràng, nó để lại rất nhiều dấu hiệu từ đơn giản đến phức tạp để thầy thuốc tìm ra nguyên nhân, trước hết là mất quân bình về chức năng thì tây y chưa khám phá được, khi mất quân bình về cơ sở nhưng chưa có tổn thương thực thể, tây y cũng chưa thấy được, nhưng thầy thuốc đông y thấy được những dấu hiệu thay đổi đó một cách rõ ràng của mỗi giai đoạn biến đổi tốt xấu khác nhau từng giờ từng ngày bằng phương pháp khám theo tứ chẩn vọng ,văn, vấn, thiết. (nhìn hình, khí, thần, sắc, nghe tiếng nói hơi thở, hỏi những điều chẩn đoán còn nghi ngờ, bắt mạch đập, sờ nắn, khám huyệt để tìm nguyên nhân do khí hay huyết, do tạng phủ nào bệnh, tạng phủ nào không bệnh.).

4-Những dấu hiệu dẫn đến bệnh cao áp huyết :
Ở đây chúng ta chỉ xét đến những dấu hiệu trước khi thành hình bệnh cao áp huyết bằng phương pháp tứ chẩn : Vọng, văn, vấn, thiết qua kinh nghiệm của Khí Công Chữa Bệnh.

A-VỌNG ( Quan sát ) : Xem hình tướng và khí sắc :

a-HÌNH TƯỚNG:
1-Bạn không thể quay cổ ra phía sau tối đa sang trái, sang phải dễ dàng như trước kia vì khi quay làm đau hai bên gân cổ, vì chóng mặt, vì cứng cổ gáy, vì khối thịt to dầy nổi lên như cái gò sau cổ gáy lầm tưởng là mập. Khi đứng thẳng tập thế vặn mình ra sau 90 độ không được bị tức đau hai hông sườn trên.

2-Cái gò này làm tắc khí huyết ở đầu. Khí huyết lên được mà tắc không xuống được làm nhức đầu sau gáy, mỏi cổ gáy nơi chân tóc, hai bên gáy. Nếu nhức đầu sau gáy rồi nhức lan lên đến đỉnh đầu, da đỉnh đầu lùng bùng chạm vào đau là đã có bệnh cao áp huyết. Nếu khí huyết xuống được mà không lên được sinh chóng mặt là thiếu máu lên đầu, nếu máu không lên đầu ở một bên đầu cũng làm cho đau nhức đầu bên trong khi lấy tay sờ vào đầu không đau ( migraine ) để lâu không chữa cho máu lưu thông được sẽ thành khối u sọ não.

3-Bạn đứng dang chân rộng, tập thế vỗ tay hai nhịp, hai tay dang thẳng vỗ mạnh hai bàn tay ra phía sau lưng, hai bàn tay không chạm được với nhau.

4-Bạn không thể tập thế điều hòa âm dương, nhón gót ,lưng thẳng và ngồi xuống cho mông chạm gót chân, vì lý do cứng gân đùi, đau căng đầu gối, ngồi mất thăng bằng hay bị té ngã.

5.Tập đứng hạc tấn mở mắt, hai cánh tay dang ngang bằng vai như cánh chim, co một chân cao ngang hông, đứng một chân như con chim hạc. Bạn không thể đứng lâu qúa 30 giây, và mỗi khi đứng đổi chân, thời gian đứng mỗi bên chân có sự khác biệt. Người không có bệnh cao áp huyết đứng mỗi bên được lâu hơn 60 giây, người có triệu chứng áp huyết hơi cao nhưng Tây y chưa cần phải cho uống thuốc sẽ đứng được 30 giây trở lại, áp huyết càng cao càng không đứng được lâu, chỉ mới co chân lên đếm 1,2,3 là đã mất thăng bằng muốn ngã. Nếu có sự chênh lệch thời gian giữa hai bên chân trái phải qúa nhiều, chứng tỏ sự tuần hoàn khí huyết nửa bên đầu bị tắc sau sẽ dẫn đến hậu quả tê liệt bên tắc bị đứt mạch máu não.

6- Khi đi hơi nghiêng về một bên hoặc hay bị nhủi đầu về phía trước dễ bị vấp té, vì cảm thấy một bên chân yếu, hoặc lên xuống cầu thang cảm thấy mệt, hoặc không thể chạy nhanh trên 100 mét. Khi bị cao áp huyết thực sự, tướng đi sẽ chậm chap lù đù không nhanh nhẹn như trước.

7-Nếu nằm úp thấy khó thở, khi nằm úp người khác giúp mình xếp gập đầu gối cho gót chân chạm mông sẽ thấy có một chân yếu khi gập vào mềm nhũn vô lực, chân kia gập vào bị cứng đau.

8-Thỉnh thoảng đổ mồ hôi nhẹ, hoặc ở trán, hoặc ở quanh tai, hoặc sau gáy.

9-Bạn soi gương có nhìn thấy bộ mặt bị biến dạng như có khối thịt to hai bên mang tai như cái nọng heo trong khi cơ thể không có vẻ gì là mập, hoặc có sự khác biệt 2 bên má hình dạng không đều, bên lõm vào là van tim bên đó bị hẹp, bên phình ra là van tim bên đó bị hở.

10-Nếu người có bệnh hở van tim nặng thì môi dưới nở to ngả mầu hơi đen và xệ xuống, khi nói hai môi không khép kín được, các đầu ngón tay đen như nhuộm chàm..

b-KHÍ SẮC :

1-Da mặt mầu sắc không tươi sáng mà hơi xạm đen đều khắp mặt.
2-Hoặc da mặt đỏ hơn người khác mà sờ trán nóng.
3-Hoặc chỉ đỏ ở đầu mũi, hoặc vừa đầu mũi vừa trên trán đỏ, các chỗ khác trên mặt không đỏ.
4-Thỉnh thoảng mặt đỏ như lên cơn sốt nhưng không phải sốt, chỉ thoáng qua rồi hết.
5-Đầu lưỡi đỏ hơn giữa lưỡi, giữa lưỡi khô, dầy, hai cạnh lưỡi không bằng phẳng mà có hình như răng cưa.
6- Hai mắt đỏ nhưng còn thần, nếu hai mắt đỏ lờ đờ kém nhanh nhẹn là đã có bệnh.
7-Nếu người có bệnh hở van tim nặng có mầu sắc của môi như tụ máu bầm và đầu các ngón tay như bị nhuộm mực đen mà chưa rửa sạch.
B-VĂN (Nghe ) :
Nghe hơi thở và tiếng nói có gì khác biệt so với người bình thường :
1-Làm việc gì hơi qúa sức một tí thì mệt thở hổn hển vã mồ hôi.
2-Bình thường hơi thở ngắn, nhanh, gấp. Nhịp thở người khỏe mạnh 18 hơi vào-ra trong một phút, người nào thở nhiều hơn 18 hơi một phút là có bệnh.
3-Hơi thở to, không êm nhẹ.
4-Khi nói âm thanh hơi bị rè, đứt đoạn, hoặc hay gắt gỏng, gằn tiếng.
5-Khi áp huyết cao mới phát, tiếng nói to, áp huyết cao mãn tính, cơ thê suy nhược, tiếng nói nhỏ không ra hơi, nhưng thở gấp.

C-VẤN (Hỏi ) :
Bình thường thầy thuốc hỏi những điểm còn nghi ngờ sau khi đã qua giai đoạn vọng văn. Nhưng tự mình có thể đoán bệnh cho mình bằng cách theo dõi vấn đề ăn uống, tiêu hóa, tiêu tiểu, ngủ nghỉ, nóng lạnh bằng những câu hỏi sau :

1-Bạn có thường hay bị táo bón mặc dù có uống nước nhiều hay không ?
2-Hay buồn ngủ ban ngày, mất ngủ ban đêm không?


3-Hay chóng mặt nhức đầu hoa mắt, mắt như có gì vướng cản tầm nhìn hoặc như có hình ruồi, lăng quăng vờn quanh mắt không ?
4-Có hay đi tiểu đêm hoặc khi uống nước vào phải đi tiểu ngay ?
5-Có đau mỏi tê ngón tay, bàn tay, lạnh chân, đầu nặng chân nhẹ, đau mỏi lưng đùi không ?
6-Có bị tê đường gân từ cùi chỏ đến ngón tay út không, da thịt có chỗ tê, ngắt nhéo không có cảm giác hay không ?
7-Thỉnh thoảng có dấu hiệu giựt gân trên mặt ?
8-Khi ngủ hơi thở có đều hay thỉnh thoảng hơi thở bất bình thường như bị ngắt đoạn, thở dài hơn, ngắn hơn, kèm theo tiếng kêu, tiếng mớ, tiếng rên. ?
9-Có hay ăn chất béo, chất cay, chất mặn nhiều không ?
10-Có bị đổ mồ hôi vô cớ không ?
11-Có đàm nhớt vướng cổ làm thở khò khè không ?
12-Sáng ngủ dậy có choáng váng lảo đảo không ?
13-Ăn có tiêu hóa tốt hay chậm tiêu hay ợ hơi, tức ngực, khó thở ?
14-Có thường bị chảy máu cam khi trời nóng hay khi trời lạnh hay khi ăn nhiều chất cay nóng hay ăn chocolat, uống cà phê, các trái cây nóng như nhãn,xoài, sầu riêng, chôm chôm,..?

C-THIẾT : Là phương pháp sờ nắn, bắt mạch, khám huyệt :
1-Bạn tự rờ xem nhiệt độ trên trán và dưới cổ chân có thấy sự khác biệt như đầu nóng chân lạnh không ?
2-Dùng tay nhéo nhẹ hai bên má có nhận thấy nửa mặt bị tê, một bên có cảm giác đau một bên mất cảm giác ?
3-Dùng ngón tay gõ trên đầu có nhận thấy bị tê nửa đầu hoặc có cảm giác chỗ tê chỗ đau khác biệt ?
4-Chụm 5 ngón tay gõ vào hai bên mang tai cảm thấy đau nhói không bình thường hoặc bên đau bên không đau.
5-Dùng ngón tay cái đè vào phía trước tai 5-6cm ở hai bên má có cảm giác một bên đau một bên không đau ( khi há miệng có hở chỗ lõm, khi ngậm miệng chỗ lõm bị khớp hàm trên đóng lại, đó là huyệt Hạ Quan ).
6-Dùng ngón tay cái vuốt qua huyệt Chiên Trung nằm trên đường giữa ngực, giao điểm với đường ngang giữa hai núm vú, cảm thấy đau nhói một chỗ, còn chỗ khác không đau.
7-Dùng tay nắn tìm điểm đau bên hông sườn trái có một chỗ đau nhói ( ở nơi huyệt Chương Môn ).
8-Dùng ngón tay cái bấm vào giữa lòng bàn tay trái ( huyệt Lao Cung ) và giữa cổ tay trái ( huyệt Đại Lăng ), cảm thấy rất đau, tùy theo mức độ đau nhiều hay đau ít để biết áp huyết cao nhiều hay ít.
9-Nếu khám cho người khác hoặc nhờ người nhà khám cho mình bằng cách vuốt mạnh nhanh dọc theo cột sống từ trên cổ gáy xuống xương cùng, nhiều lần, xem có đoạn nào bị đau nhói hay không, nếu có bệnh cao áp huyết hoặc bệnh tim mạch sẽ nhận ra được vùng sau tim và ngang thắt lưng bị đau, như vậy có nghĩa là khí huyết bị tắc không thông .
10-Dùng tay này bẻ gấp các khớp đầu ngón của bàn tay kia cảm thấy có ngón đau có ngón không đau.
11-Nếu đau nhiều ở khớp ngón tay giữa bên trái hơn các ngón khác là bạn đã có nhiều cholestérol trong động mạch tim, nếu đau nhiều ở ngón tay giữa bên phải là có mỡ đóng ở quanh màng bao tim.
12-Nếu hai ngón tay giữa cứng, khi bẻ vào không vuông góc mà không cảm thấy đau, chỉ có cảm giác dai và cứng là không có cholestérol trong máu trong tình trạng hiện thời, có hai lý do, lý do thứ nhất trước kia đã có nhiều cholestérol đóng cứng vào vách thành mạch làm hẹp ống mạch, lý do thứ hai đã và đang dùng thuốc làm giãn ống mạch.
13-Nếu chỉ có ngón tay thứ tư ( ngón đeo nhẫn) khi bẻ vào cảm thấy đau nhiều hơn các ngón khác là sự tuần hoàn khí huyết bị tắc không lưu thông tốt, đau ngón thứ tư bên trái chỉ cho biết huyết tắc nơi tim ngực và bộ đầu thuộc vùng thượng tiêu, đau ngón thứ tư bên phải chỉ cho biết tắc tuần hoàn khí giữa thượng tiêu và trung tiêu như hơi bao tử không tiêu hóa tạo ra hơi đưa dội lên tim thỉnh thoảng làm khó thở trong bệnh đau nhói tức ngực ( angine ).
14-Nếu cả hai ngón 3-4 của cả hai bàn tay khi bẻ gập vào đều đau, chỉ cho biết vừa có cholestérol ở tĩnh mạch, động mạch, vừa bị tắc tuần hoàn cả khí và huyết mới làm cho đau đầu, chóng mặt, hở van tim, hẹp van tim .
15-Nếu chỉ có ngón út bên trái bẻ thấy đau hơn các ngón khác là dấu hiệu hẹp van tim, ngón út bên phải đau là đáy tim nở lớn. Cả hai ngón út đều đau là là có bệnh tim mạch.
16-Hai bàn tay không nắm lại chặt lại được vì bị cứng các khớp ngón tay hoặc khí huyết không ra đến đầu ngón tay khiến bàn tay vô lực..
Tất cả những dấu hiệu này là do xáo trộn ở nhiều tạng phủ bị ảnh huởng của TINH sai, KHÍ thiếu, THẦN hư, làm hỏng sự chế hóa ngũ hành bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Không nhất thiết bạn có đủ những dấu hiệu trên mới sợ mắc phải bệnh cao áp huyết, mà chỉ cần thấy có vài dấu hiệu là phải lo đề phòng bằng cách điều chỉnh ăn uống, tập luyện khí công phần động công để tăng cường khí, phần tĩnh công để dưỡng thần, tập sao cho đạt trạng thái ‘’ Điềm đạm hư vô, thân nào mà bệnh tật ‘’như cổ nhân đã từng nói đến, đó là trạng thái khí hóa quân bình nhất của âm dương ngũ hành trong con người để giữ cho tinh-khí-thần hòa hợp.

PHẦN HAI :  BỆNH CAO ÁP HUYẾT TẠI SAO KHÓ CHỮA ?



A-NGUYÊN NHÂN :
Bệnh cao áp huyết tại sao khó chữa ?
Đó là một câu hỏi còn nhiều thắc mắc nghi ngờ của cả hai giới, bệnh nhân và thầy thuốc. Có thể nói bệnh cao áp huyết còn khó chữa hơn bệnh nghiện ma túy, vì nghiện ma túy là một đam mê tự nguyện, ngày nào đó tỉnh ngộ có thể dứt bỏ mà tánh mạng không bị đe dọa, ngược lại, thuốc trị bệnh cao áp huyết hiện nay dù biết nó không thể trị dứt mà không bệnh nhân nào dám bỏ, phải dùng suốt đời cho đến khi chết, đó là điều nghịch lý đã làm cho ngành y khoa phải khổ tâm tìm tòi, nghiên cứu, phát minh không ngừng nghỉ.

Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân của bệnh cao áp huyết từ đâu đến theo hai quan niệm của Tây y và Đông y hầu tìm ra được phương pháp chữa thích hợp có hiệu qủa.

1-Theo quan điểm Tây y :
Bệnh cao áp huyết là bệnh thuộc tim mạch, có hai nguyên nhân là nguyên phát gây ra bệnh cao áp huyết thường xuyên và nguyên nhân thứ phát gây ra bệnh cao áp huyết bởi ảnh hưởng của một bệnh khác .

Tuy nhiên trên thực tế Tây y cũng đặt ra nhiều nghi vấn và giả thuyết để từ đó mới quyết định xem cần xét ngiệm cái gì để tìm nguyên nhân bệnh.
1-Về Khám Bệnh :
Thầy thuốc có thể nghi nguyên nhân do các loại thuốc khác gây ra bệnh cao áp huyết thứ phát như :
Thuốc ngừa thai, thuốc có chất cam thảo như Malox trị bệnh bao tử, thuốc xịt mũi làm co mạch để chữa bệnh nghẹt mũi, thuốc trị co giật trong bệnh Parkinson, thuốc trị phong thấp khớp, thuốc calcium trị bệnh xương, loại thuốc chữa bệnh trầm cảm I.M.A.O ( Inhibiteurs de Mono-Amine-Oxydase ),thuốc ức chế enzyme monoaminoxydaza, các loại thuốc chữa dépression, thuốc suyễn, Histamine, Sulpirid, lạm dụng Vitamine D bị ngộ độc, lạm dụng thuốc lợi tiểu, thuốc nhuận trường, thuốc adrénaline, corticoĩde, dùng thức ăn có chất men tyramine như rượu, frommage, men bia, nấm, gan gà..
Thầy thuốc phải khám tim, động mạch, đáy mắt, chức năng thận, bàng quang và gửi đi xét nghiệm những gì cần thiết có liên quan đến chẩn đoán, để so sánh những kết qủa với những điều mình nghi ngờ khi chẩn đoán có đúng không, rồi mới quyết định cách chữa.

2-Về xét nghiệm :
Phòng xét nghiệm thường xét nghiệm máu và nước tiểu để biết uré-huyết, glucoza-huyết, acide-uric-huyết, aldostérone-huyết, kali-huyết, lipide-huyết, calci-huyết, natri-huyết, phosphate-huyết, créatinine, ion đồ máu và nước tiểu, protéine-niệu, cặn Addis, vi khuẩn trong nước tiểu, natri-niệu, kali-niệu, định lượng VMA (Vanillyl Mandelic Acide ) trong nước tiểu..
Chụp X-quang ngực xem động mạch, tĩnh mạch bị phình hay hẹp, X-quang đường niệu để tìm ra sự chậm bài tiết, vết tổn thương đường niệu, chụp thận, bàng quang tìm xem thận bị ứ nước hay ứ mủ hay teo thận, sỏi thận, đau nang, phình động mạch thận ( khi nghe có tiếng thổi cạnh rốn ), xét điện tâm đồ, điện não đồ xem có tổn thương não, viêm não, áp lực sọ não hoặc do nguyên nhân tâm lý lo âu xung động mãnh liệt (raptus anxieux )đã làm cho biểu đồ dao động bất bình thường. Chụp đầu tìm khối u như u nguyên bào thần kinh giao cảm, u hạch thần kinh, u nguyên bào thận, u mạch tế bào quanh mao mạch thận hoặc do nội tiết tăng năng tuyến giáp, tăng năng vỏ thượng thận, hay suy thận, hay tắc mạch máu não...

3-Về định bệnh :
Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, việc khám phá và tìm bệnh, tìm nguyên nhân của một căn bệnh càng ngày càng nhanh chóng và dễ dàng hơn xưa, và với kinh nghiệm của thầy thuốc dựa vào kết qủa xét nghiệm, chúng ta có thể phân biệt được thế nào là cao áp huyết mãn tính, cao áp huyết do thuốc, cao áp huyết cấp tính kịch phát, cao áp huyết tâm thu, cao áp huyết tâm trương, cao áp huyết khi mang thai, cao áp huyết với giảm kali-huyết, cao áp huyết do dư calci trong máu, cao áp huyết do dư đường trong máu, cao áp huyết do thiếu máu nghiêm trọng hémoglobine dưới 7g/100ml, cao áp huyết do xáo trộn nội tiết dư hoặc thiếu hormone nhất là trong thời kỳ tiền mãn kinh, tăng tuyến hạch, u bướu, cao áp huyết do tim mạch như hở lỗ động mạch chủ, rò động mạch, tĩnh mạch, xơ gan, tổn thương thận..



Như vậy do xét nghiệm chúng ta thấy có hàng chục loại bệnh cao áp huyết do nhiều nguyên nhân khác nhau, nếu không truy tìm nguyên nhân, chỉ dùng máy đo áp huyết, thấy lúc nào cũng cao hơn tiêu chuẩn bình thường ( trên 140mmHg/90mmHg) và có những dấu hiệu đau đầu ở phía gáy, ù tai, chóng mặt, mệt mỏi, cảm giác ruồi bay trước mắt, chảy máu cam, tim đập bất bình thường.. ai cũng biết đó là bệnh cao áp huyết.

Bệnh cao áp huyết không đơn giản dừng lại ở đây mà nó cứ phát triển mãi càng ngày càng nặng, Tây y chia ra làm 4 giai đoạn :

a-Giai đoạn một :
Đo áp huyết thấy cao thường xuyên, mà xét nghiệm không thấy có tổn thương thực thể ở tim, gan, thận, mạch, chỉ thấy có cholestérol hoặc, calci, hoặc Chlor, hoặc Natri trong máu cao, trong nước tiểu tăng.. cho nên người bệnh cần phải cữ ăn chất béo, chất mặn. Vì chất béo làm tăng cholestérol trong máu sẽ làm nghẽn hẹp ống mạch bao quanh tim, ăn mặn làm số lượng muối ClNa vào cơ thể không chuyển hóa và đào thải kịp làm tăng Chlor và Natri trong máu và trong nước tiểu. Có dư Natri- huyết dễ làm kết tủa cholestérol tập trung nơi ống mạch máu về tim làm tắc nghẽn những ống mạch quanh tim sẽ dẫn đến bệnh sang giai đoạn hai.

b-Giai đoạn hai :
Nếu cơ thể khỏe mạnh, phản ứng tự nhiên là ‘’ khi ăn mặn, phải khát nước’ ’tức là phản ứng tự động của cơ thể đòi tiếp tế thêm nước để chuyển hóa Cl và Na dư thừa ra đường tiểu để bảo vệ máu không dư Natri, nếu không Natri sẽ kết tủa chất béo làm tổn thương thực thể như tim bị dầy tâm thất bên trái, hẹp động mạch võng mạc, có protéine niệu hoặc créatinine huyết tương tăng nhẹ.

c-Giai đoạn ba :
Dầy thất trái dẫn đến suy thất trái khiến qủa tim co bóp để cho huyết lưu thông không đều, xuất huyết não thành biến chứng tê liệt, nhẹ thì liệt mặt méo miệng do liệt thần kinh ngoại biên, nặng thì thêm bệnh Parkinson co giật đầu và tay chân, nặng nữa thì bán thân bất toại. Nếu không tổn thương não thì tổn thuơng đáy mắt làm xuất huyết võng mạc, sụp mí mắt, phù gai thị, nếu không tổn thương não, tổn thương mắt thì bị cơn đau thắt ngưc


(angine) làm nhồi máu cơ tim (crise cardiaque), nếu qủa tim còn khỏe sẽ có tổn thương thận như suy thận..

d-Giai đoạn bốn :
Cao áp huyết ác tính thuộc giai đoạn bốn thường gặp ở những người đã có bệnh ở các giai đoạn trên dù bệnh còn nhẹ hay vừa nhưng chữa không đúng nguyên nhân, chỉ chữa cầm chừng ngăn ngừa không cho áp huyết tăng lên chứ không làn áp huyết hạ xuống mức bình thường, có khi không phải thuốc mà do sai lầm ăn uống, biến đổi tâm lý thần kinh, tự nhiên đau đầu dữ dội, đáy mắt xuất huyết độ 3 hoặc phù gai thị độ 4, huyết áp lên cao cả tâm thu lẫn tâm trương ( cả số đo trước, số đo sau ),khát nước nhiều, sụt cân, rối loạn tiêu hóa, bệnh tiến nhanh làm tai biến mạch máu não hoặc tai biến ở tim (stroke) dẫn đến tử vong.

2-Theo quan điểm đông y :
Từ khi Đông y thuở sơ khai ,chưa dựa vào học thuyết âm dương ngũ hành của Khoa triết học đông phương để lập nên hệ thống lý luận kinh mạch tạng phủ và sự liên kết khí hóa, chỉ xem như là một giả thuyết chưa qua kinh nghiệm thực hành cách nay khỏang 6000 năm, mà nhu cầu đối phó với bệnh tật con người ở thời nào cũng có, do đó các thầy thuốc Trung Quốc thời cổ đại muốn nghiên cứu lý thuyết kinh mạch, tạng phủ, ngũ hành trên cơ thể con người để tìm hiểu thấu đáo về nguyên nhân bệnh tật, đã được phép nhà vua cho sử dụng tử tội để mổ xẻ nghiên cứu trên thân thể sống của tử tội, phải mất một thời gian dài hàng ngàn năm khám phá ra huyệt đạo, kinh mạch, được thử và theo dõi những loại thuốc đang nghiên cứu đưa vào cơ thể tội nhân, cứ thế từ đời này sang đời khác để bảo đảm công việc nghiên cứu dựa trên mọi giả thuyết đã được chứng minh là đúng trong cùng một điều kiện có kết qủa như nhau ở mọi thời đại, cuối cùng đông y đã đúc kết kinh nghiệm hoàn chỉnh thành hệ thống lý luận căn bản trong việc khám và chữa bệnh. Về châm cứu có quyển Hoàng Đế Nội Kinh, về dược thảo có Bản Thảo Thần Nông. Các đời sau có các thánh y bổ sung thêm kiến thức làm cho sáng tỏ và vững chắc rõ ràng hơn như thần y Tần Việt Nhân hiệu Biển Thước soạn ra quyển Nạn Kinh, Hoa Đà dạy mổ xẻ và bào chế thuốc. Càng về sau càng có nhiều danh y áp dụng càng thấy chính xác và có cái hay độc đáo của nó. Có thể nói hơn 2000 năm, những giả thuyết, những nghi ngờ đều dùng thân sống của tử tội để mổ xẻ chết biết bao nhiêu người để đúc kết một phương pháp chữa bệnh hoàn chỉnh và độc đáo của đông y, cuối cùng các thầy thuốc không dám lạm dụng thân sống của tử tội để thử nghiệm những cái gì đã biết do kinh nghiệm tiền nhân để lại, cho nên họ nói rằng ‘’ cái gì chưa biết mới phải thử, cái gì đã biết rồi khỏi cần phải thử nữa ‘’.

Do đó, suốt 2000 năm tây lịch, y học phương tây phát triển giỏi về khoa giải phẫu mà không hề thấy bên đông y có thuật giải phẫu, cho nên khi so sánh hai cách chữa bệnh của đông-tây y thì đông y có về lỗi thời, khám bệnh bằng nghe 28 bộ mạch đập ở cổ tay có vẻ mơ hồ khó tin, còn châm cứu dựa vào huyệt đạo kinh mạch lại mơ hồ giả tưởng vì khi giải phẫu hoặc chụp hình cơ thể không thấy. Nhưng kết qủa chữa bệnh thì không thể phủ nhận được.

Đúng ra 6000 năm qua nó phải lỗi thời, ai mà chẳng muốn sửa đổi, nhưng qủa thật nó qúa đơn giản đến mức không thể sửa đổi căn bản, nó là chân lý, nhờ chân lý người ta có thể gia tăng nhiều sáng tạo hơn. Nó đơn giản chỉ có 5 hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tượng trưng cho tạng âm là phổi, gan, thận, tim, lá mía và phủ dương là ruột già, túi mật, bàng quang, ruột non, bao tử . Nó là một môn khoa học như toán học, cả thế giới đều công nhận chỉ có 10 con số từ 0 đến 9 và 4 phép toán cộng ,trừ, nhân, chia, không bao giờ thay đổi. Mười con số và 4 phép toán đã phát minh ra từ thời con người biết sống thành đoàn thể để giao tiếp hàng ngày về buôn bán, phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật, các nhà bác học cũng dựa vào chân lý đơn giản này mà đã sáng tạo được nhiều môn học như đại số, số học, hình học, cơ học, lượng giác, giải tích, tích phân, vật lý, hóa học, vi phân, vi tính,,,phát minh ra nhiều phép tính, ra nhiều máy móc điện toán cũng không ngoài 10 con số và 4 phép tính căn bản, đơn giản này.
Lý thuyết âm dương ngũ hành giống như một định đề toán học, có chấp nhận nó mới dùng nó để chứng minh các bài toán học, đó là sự tiến bộ của khoa học, cũng như thế, từ lý thuyết đến lý luận của âm dương ngũ hành dựa theo triết học của môn dịch-lý , mọi sự vật đều biến đổi theo một quy luật cực âm sinh dương, cực dương sinh âm, giữa hai giai đoạn có sự biến đổi âm dương là sinh, trưởng, hoá , thâu, tàng nối tiếp nhau liên tục như trái rụng xuống đất, hạt nẩy mầm (sinh ), lớn lên thành cây ( trưởng ), đơm hoa ( hoá ), kết trái (thâu ),rụng xuống đất ủ thành mầm ( tàng ), rồi lại sinh, trưởng, hoá, thâu tàng liên tục.

Đem áp dụng học thuyết âm dương ngũ hành tạng phủ trong việc trị bệnh cho con người, các thầy thuốc đông y đã biết phối hợp chặt chẽ về cách khám và cách chữa đối chứng trị liệu lâm sàng vào mỗi lúc mỗi biến đổi bệnh tình khác nhau, họ đã ghi nhận được những giai đoạn biến đổi bệnh lý bằng phương pháp khám bệnh theo tứ chẩn : vọng văn vấn thiết thay cho môn khoa học xét và thử nghiệm của tây y, và đã thống kê được kinh nghiệm 28 loại mạch khác nhau do sự biến đổi của bệnh tình dựa vào 8 yếu tố căn bản như kim chỉ nam của đông y gọi là bát cương như âm-dương, hư-thực, hàn-nhiệt, biểu-lý.

         A-Về Khám Bệnh :

Xét bệnh theo Âm-Dương :
Âm bệnh thuộc về huyết bệnh, do tạng nào bệnh, bệnh về cơ sở hay bệnh về chức năng.
Dương bệnh thuộc về khí bệnh, do phủ nào bệnh, bệnh về cơ sở hay bệnh về chức năng.



Xét bệnh theo Hư-Thực :
Hư là hoạt động yếu kém, thiếu hụt về khí hay về huyết, về cơ sở hay về chức năng ở tạng nào, phủ nào, đã tổn thương thực thể hay chưa .
Thực là dư thừa, hoạt động qúa mạnh làm mất sự quân bình của tổng thể làm xáo trộn khí hay huyết, về cơ sở hay về chức năng ở tạng nào phủ nào, đã tổn thương thực thể hay chưa.

Xét bệnh theo Hàn-Nhiệt :
Vì mất quân bình âm dương của tạng phủ do hư hay thực, cơ thể sinh ra phản ứng nóng hay lạnh khác nhau, như hư hàn, hư nhiệt hay thực hàn, thực nhiệt. Đông y phân biệt ra chứng hàn, chứng nhiệt của từng tạng phủ từ đơn giản đến phức tạp.

Xét bệnh theo Biểu-Lý :
Tùy theo đường kinh của tạng phủ bị bệnh, đông y biết được bệnh tình nhẹ thuộc biểu, hoặc bệnh đã tiến sâu vào phủ tạng thành bệnh nặng thuộc lý.

               B-Về Định Bệnh :
Qua kinh nghiệm tứ chẩn Vọng, Văn, Vấn, Thiết đều quy về bát cương âm-dương, hư-thực, hàn-nhiệt, biểu-lý , đông y nhận thấy những biến đổi và diễn tiến của bệnh tình từ nặng sang nhẹ là bệnh thuyên giảm hoặc từ nhẹ sang nặng là bệnh tình trở nên nặng hơn, và đã đúc kết được những kinh nghiệm của những loại bệnh luôn luôn có những biến đổi giống nhau gọi là dấu hiệu lâm sàng ,từ đó, đông y lý luận sắp loại thành hơn một ngàn loại bệnh chứng kèm theo dấu hiệu lâm sàng lập thành môn học triệu chứng lâm sàng . Như vậy phần định bệnh phải chỉ rõ nguyên nhân của những dấu hiệu lâm sàng do âm hay dương, do tạng hay phủ, hư hay thực, hàn hay nhiệt, biểu hay lý và gọi chúng là một chứng bệnh.



Bệnh cao áp huyết đối với đông y có hư, có thực, hoặc hư thực lẫn lộn do nhiều nguyên nhân khác nhau như do chức năng gan thận, do tổn thương cơ sở ở tim, ở gan, thận, có thể do can phong, do ứ huyết, do đờm..nhưng phải xếp theo bát cương thành một chứng, và có 4 chứng chính thường gặp gồm có :

1-Dương cang can nhiệt chứng , hay là bệnh cao áp huyết do gan nhiệt :
Dãu hiệu lâm sàng : Đầu váng căng đau, trán nóng, buồn bực, dễ cáu giận, họng khô, ráo, nóng, thích uống nước mát, đại tiện khô, nước tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác. Đối chứng trị liệu phải than nhiệt bình can.
2-Âm hư dương can chứng, hay do thận hư gan thực :
Dấu hiệu lâm sàng : Đầu váng căng đau, dễ cáu giận, miệng họng khô, lưỡi đỏ,rêu lưỡi khô, lưng gối nhức mỏi, mạch huyền. Đối chứng trị liệu phải Tư thận bình can.
3-Can thận âm hư chứng, hay là do gan và thận âm hư :
Dấu hiệu lâm sàng: Váng đầu, hoa mắt, hay quên, mất ngủ, sắc lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít, lưng gối nhức mỏi ,kinh nguyệt không đều, mạch huyền sác. Đối chứng trị liệu lâm sàng phải Tư Bổ Can Thận.
4-Âm-Dương lưỡng hư chứng, do gan thận âm dương đều hư :
Dấu hiệu lâm sàng giống trường hợp 3 có thêm hiện tượng tiểu đêm nhiều, thỉnh thoảng chân lạnh, mạch xích vô lực. Đối chứng trị liệu lâm sàng phải Tư âm ôn thận.
Ngoài 4 trường hợp trên thuộc loại cao áp huyết mãn tính cần chữa trị lâu dài, còn có một số bệnh cao áp huyết do nguyên nhân thứ phát, ảnh hưởng bởi một chứng bệnh khác như :
5-Trường vị thực nhiệt chứng : để lâu không chữa khỏi sau làm thành bệnh loét bao tử hoặc viêm loét ruột..
6-Tâm, Tâm bào thực nhiệt : sau thành bệnh viêm màng bao tim, bệnh mạch vành, bệnh đau thắt tim ( angine ), nhồi máu cơ tim.
7-Can vị nhiệt : sinh phong đờm hỏa làm hẹp động mạch gây tắc nghẽn tuần hoàn tim mạch.


8-Tỳ thực, Vị suy : ăn nhiều, bao tử không chuyển hóa chất bổ thành khí huyết mà biến thành đờm làm tắc ống mạch ( cholestérol nằm trong trường hợp này ).
9-Viêm mũi : làm co dãn mạch bất thường, chỗ co chỗ dãn.
10-Tâm can hư : làm tim bị thòng, áp huyết cao thường xuyên trên 180/100 mmHg, nếu hạ áp huyết xuống 160/100 mmHg bệnh nhân cảm thấy mệt, vì đối với bệnh cao áp huyết mãn tính, áp huyết có khi tăng cao trên 220/100 mmHg.
11-Thận nhiệt : là một loại bệnh của Tiểu đường, hai gan bàn chân nóng cũng làm áp huyết tăng cao do Glucoza-huyết tăng.
12-Cao áp huyết do phong thấp : khi dùng thuốc, calci- huyết tăng làm suy thận, sạn thận.

B-CÁCH CHỮA :
1-Theo phương pháp Tây y :
Tên thuốc thương mại mang nhiều tên khác nhau,


nhưng các nhóm thuốc để phối hợp trị bệnh cao áp huyết
gồm có :
1-Thuốc lợi tiểu, có 3 loại :
     a-Lợi tiểu hạ Kali-huyết
     b-Lợi tiểu giữ Kali-huyết
     c-Lợi tiểu phối hợp.
2-Thuốc phong bế giao cảm có hai nhóm :
      a-Phong bế giao cảm tác dụng trong nơ-ron.
      b-Tác dụng lên thụ thể trung ương loại alpha, loại béta.
3-Thuốc giãn mạch.
4-Thuốc chẹn dòng calci.
5-Thuốc ức chế chuyển dạng Angiotensin

Theo hướng dẫn của Tổ chức y tế thế giới, cách trị bệnh cao áp huyết chia ra 3 giai đoạn :

Giai đoạn một :
Bệnh nhân dưới 45 tuổi, dùng thuốc chẹn béta.
Bệnh nhân trên 45 tuổi, dùng thuốc lợi niệu.
Dùng liều trung bình, nếu cần, tăng liều dần, nếu không có kết quả chuyển sang giai đoạn hai.

Giai đoạn hai :
Phối hợp cả hai vừa thuốc chẹn béta vừa thuốc lợi niệu, liều tăng dần, nếu không có kết qủa chuyển sang giai đoạn ba.

Giai đoạn ba :
Phối hợp thuốc chẹn béta, lợi niệu và một trong các loại thuốc khác như :
Hydralazine ( thuốc giãn mạch ).
Méthyldopa hoặc Clonidine tác dụng lên thụ thể trung ương.
Hoặc Guanéthidine ( tác dụng trong nơ-ron )
Nếu chưa bớt thì dùng 2 trong 3 loại thuốc kể trên.

Khi có chống chỉ định dùng thuốc chẹn béta, đổi công thức như sau :
Giai đoạn một : Lợi niệu.
Giai đoạn hai : Lợi niệu và Alpha Méthyldopa hoặc Clonidine.
Giai đoạn ba : Lợi niệu và Alpha Méthyldopa hoặc Clonidine và thuốc giãn mạch.

Trường hợp áp huyết dao động, không cao lắm không cần dùng thuốc.
Về ăn uống : Cữ rượu, giảm chất béo, hạn chế ăn muối.
Về tinh thần : Tránh stress, thư giãn, bỏ thuốc lá, cà phê, có thể dùng thuốc an thần nhẹ.
Về vận động : Thực hành thư gìãn.

2-Theo phương pháp đông y :
Phương pháp chữa của đông y đa dạng, hoàn toàn khác hẳn Tây y. Có nhiều vị bác sĩ Tây y học qua đông y, hiểu biết tường tận về phương pháp lý luận âm dương ngũ hành đều có chung một nhận xét : Tây y chữa vào organes, đông y chữa vào systèmes.

Một thí dụ đơn giản A đánh nhau với B.
Cách giải quyết của Tây phương nhờ cảnh sát can thiệp, người bị thương đi bệnh viện, người có tộI đi tù. Như vậy chưa giải quyết được nguyên nhân, sau hai người gặp lại nhau sẽ đánh nhau nữa.

Cách giải quyết của Đông phương là can gián sự xung đột, tìm người liên hệ là mẹ hay con của A hoặc B để xử lý theo nguyên tắc con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con .



Trường hợp A thực ,có lỗi đã gây chuyện với B. B yếu thế hơn gọi là hư, cần mẹ giúp sức để có cách tự bảo vệ mình làm cho A không dám đánh, hoặc B dọa nếu A đánh nó, nó sẽ đánh con của A làm A sợ không dám gây chuyện nữa, sau này hai người có gặp lại nhau cũng không đánh nhau nữa, đó là cách chữa gốc thuộc bản, can thiệp là chữa ngọn thuộc tiêu .
Nguyên tắc chữa của đông y là Đối chứng trị liệu lâm sàng do đó khi khám bệnh phải tìm được nguyên nhân gốc do chứng nào làm ra, mới có thể dùng phương pháp đối chứng trị liệu lâm sàng được. Đối chứng trị liệu lâm sàng có nhiều cách như hư thì bổ, thực thì tả, nhiệt thì làm mát, làm mất nhiệt, hàn thì làm ấm theo nguyên tắc con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con .Tuy nhiên, đông y phải chọn cách nào tối ưu để điều chỉnh lại sự khí hóa âm dương, ngũ hành của tổng thể, lập lại quân bình hòa hợp sự hoạt động của tạng phủ về cả ba phương diện khí hóa là TINH-KHÍ-THẦN, làm cho hòa hợp, cơ thể sẽ khỏe mạnh tự hết bệnh tật.

1-Điều chỉnh yếu tố do TINH :
Là điều chỉnh lại sự ăn uống, thuốc men làm sao cho phù hợp với nhu cầu của cơ thể mà không làm hại cơ thể căn cứ vào chứng.



Thí dụ bệnh thuộc âm, hư, hàn, cần ăn uống và thuốc men có tính chất thuộc âm giúp cho âm bổ mạnh lên, có tính chất làm ấm để trị hàn. Chống chỉ định là không được ăn hoặc uống thuốc làm cho âm hư thêm, hàn thêm.

Thí dụ bệnh âm hư, dương hư, âm thuộc huyết, dương thuộc khí, cần ăn hoặc uống thuốc phải bổ được cả khí cả huyết, nếu cơ thể hàn phải chọn loại bổ có tính tăng nhiệt, nếu cơ thể nhiệt, phải chọn loại bổ có tính làm mát, thanh nhiệt..

Nếu điều chỉnh TINH đúng, cơ thể sẽ hấp thụ và chuyển hóa thức ăn, uống và thuốc men giúp cơ thể lập lại quân bình, khí huyết lưu thông đầy đủ, cơ thể biến chuyển tốt hơn, mạnh hơn, bệnh sẽ thuyên giảm, mau bình phục. Ngược lại, thức ăn uống, thuốc men dù bổ nhưng không hợp đúng với nhu cầu cơ thể cần sẽ làm cho cơ thể tiêu hao năng lượng để đào thải ra ngoài khiến cơ thể suy yếu dần.

Điều chỉnh TINH đúng nhu cầu, sự khí hoá sẽ sinh khí sinh huyết nuôi dưỡng và bảo vệ cơ thể khỏe mạnh phòng chống bệnh hữu hiệu, điều chỉnh sai không đúng nhu cầu sẽ hao mất khí mất huyết khiến cơ thể suy nhược bệnh trở nên trầm trọng.

2-Điều chỉnh yếu tố KHÍ :
Là chú trọng đến sự tuần hoàn của khí và huyết trong cơ thể xem thiếu hay đủ, thông hay tắc, thuận hay nghịch, mạnh hay yếu, nóng hay lạnh.
Sự thiếu hay đủ khí huyết lệ thuộc và sự điều chỉnh ăn uống ( yếu tố tinh ).
Sự thông hay tắc ở ống mạch tuần hoàn hoặc ở đường kinh dẫn khí lưu thông phải nhờ vào châm cứu day bấm huyệt để giải tắc, tán tà.

Sự thuận hay nghịch chiều lưu thông của khí huyết phải nhờ vào thuốc hoặc bằng ngoại dược ( thuốc uống ) hoặc nội dược (thuốc tự cơ thể tiết ra do kích thích huyệt ) để làm cho khí huyết đi thuận đường kinh, hoặc qua chức năng của huyệt có thể tái lập lại chương trình hoạt động của hệ thần kinh trung ương làm cho nó có thể kiểm soát được sự khí hoá của kinh mạch tạng phủ, hòa hợp được sự quân bình của cả tổng thể âm dương ngũ hành về hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục được tốt.
Sự mạnh hay yếu phải nhờ vào sự vận động, thể dục thể thao, bơi lội, dưỡng sinh, tập luyện khí công. Về phương diện phòng bệnh, đông y chú trọng đến khí công dưỡng sinh. Về phương diện chữa bệnh trực tiếp cho từng loại bệnh, đông y chú trọng đến khí công chữa bệnh gồm hai phần tĩnh công và động công, giúp cho tăng khí huyết, lưu thông mạnh hơn, thuận theo chiều kinh mạch, hợp với nhu cầu cơ thể cần, có loại khí công cơ thể không cần sẽ làm cho hư thêm hư, thực thêm thực ,không chữa được bệnh mà khiến bệnh trở nặng thêm, vì khí công chữa bệnh cũng phải thuận với khí của ngũ hành mà cơ thể đang cần mới có thể chữa được bệnh.

3-Điều chỉnh yếu tố THẦN :
Thánh nhân từng nói : ‘’Điềm đạm hư vô, thân nào mà bệnh tật ‘’chứng tỏ yếu tố tinh thần rất cần thiết trong việc chữa bệnh.

Qủa thật đa số bệnh do yếu tố tinh thần như lo âu, buồn rầu, bực tức, bất mãn, vộI vã, căng thẳng, sợ hãi, nóng nẩy giận dữ, chán đời bị ảnh hưởng bởi đời sống, môi trường sinh hoạt cũng làm tổn thương thực thể hoặc làm xáo trộn sự quân bình khí hóa của âm dương ngũ hành tạng phủ.

Như vui qúa hại Tim, áp huyết tim mạch đập bất bình thường, loạn nhịp, hại thần kinh, cổ nhân thường nói vui qúa hóa điên dại vì tinh thần mất tự chủ để kiểm soát hành động cử chỉ qúa trớn của mình.

Lo qúa ăn mất ngon hại Tỳ Vị làm không muốn ăn, hoặc ăn không tiêu hóa, thức ăn chứa lâu trong bao tử không chuyển hóa sẽ lên men làm loét bao tử.

Buồn quá hại Phổi, hay thở ra làm teo phổi, thở ra nhiều mà không hít vào nhiều làm máu thiếu oxy, tuần hoàn huyết chậm lại sẽ suy nhược thần kinh, cơ thể gầy yếu, kém trí nhớ, ưa thở dài gây đau nhói tim ngực, ở phụ nữ thời kỳ cho con bú sẽ mất sữa, nếu không sẽ dẫn đến bệnh ung thư vú.
Sợ qúa hại thận, thực tế sợ qúa toát mồ hôi, vãi đái, xanh mặt, đều hại đến thần kinh và tế bào não..

Giận qúa bầm gan tím ruột hại đến sự hoạt động của gan, khiến các gân co rút, chân tay run rẩy, nếu có bệnh cao áp huyết, các ống mạch thắt hẹp lại máu sẽ dồn lên não làm đứt mạch máu não hoặc sung huyết não sinh tê liệt, bán thân bất toại, hôn mê (coma ).

Muốn điều chỉnh được tinh thần thì cứ để mọi chuyện tự nhiên, không vui qúa, không buồn qúa, không giận qúa, không lo qúa, không sợ qúa. Cần định tâm bằng cách thư giãn hoặc tập tĩnh công để dưỡng thần, tham dự các buổi sinh hoạt tập thể nhẹ nhàng, ca hát, bơi lộI, thể dục nhịp điệu.. Khi mắt thấy tai nghe những điều gì bất ý, tâm dừng lại không phân tích đào sâu vào chi tiết diễn tiến của sự việc để tâm đừng dấy động..
Nguyên tắc chữa bệnh của đông y là sau khi định được bệnh chứng sẽ có phương pháp đối chứng trị liệu tùy theo nguyên nhân, và áp dụng cả ba yếu tố tinh-khí-thần trong việc trị liệu.

4-Áp dụng phương pháp đông y chữa bệnh cao áp huyết


Theo đông y, bệnh cao áp huyết mãn tính có 4 trường hợp thường gặp, cách chữa sẽ tùy theo mỗi trường hợp mỗi khác tùy theo nguyên nhân gây bệnh :
Trường hợp một o dương cang can nhiệt chứng


Đối chứng trị liệu : Dùng phép Thanh nhiệt ,bình can.
Theo đông y, gan chứa huyết, trong huyết có dư calci làm máu nóng tụ ở gan sinh ra gan bị nhiệt, máu dãn nở thể tích làm căng các ống dẫn máu sẽ gây ra bệnh sung huyết não.

a-Điều chỉnh TINH :
Những loại nước uống hay thức ăn phải làm cho mát gan, mát máu, không được ăn uống những thứ làm tăng nhiệt nóng máu hại gan.

Về dược thảo :
Dùng các vị Quyết minh, sinh địa, hạ khô thảo, xa tiền thảo, cúc hoa, hy thiêm thảo. Tỷ lệ phần trăm các loại thuốc phù hợp với nhu cầu cơ thể do tỷ lệ phần trăm của bát cương âm dương, hư thực, hàn nhiệt, biểu lý ở mỗi người mỗi khác, do thầy thuốc đông y khám và định phân lượng, phải vừa đúng, đủ, thích hợp để tạo ra năng lượng khí hóa, nếu thiếu sẽ không đủ sức khí hóa, nếu dư làm cơ thể hao tốn thêm năng lượng để đào thải ra ngoài cơ thể, nếu không đào thải, chất dư thừa tích lũy lại tạo thành biến chứng một bệnh khác.

b-Điều chỉnh KHÍ :
Bằng nội dược ( dùng huyệt ) :
Can huyết nhiệt thịnh phải tả con của can mộc ở kinh Tâm Bào hỏa là huyệt Đại Lăng bên trái để hạ hỏa, bấm Thái Xung ở kinh can trái để chỉnh lại can khí. Đó là hai huyệt chính thuộc quân thần trong một thế trận, thầy châm cứu phải thêm các huyệt khác phò tá, hổ trợ, dẫn đạo cho đầy đủ liều lượng quân, thần, tá, sứ để thành bài thuốc.
Bằng khí công chữa bệnh :


Động công :Tập các động tác hạ hỏa, tăng thủy,( thế tấn ngũ hành bổ phế, bổ thận ) và động tác điều hòa âm dương.
Áp dụng động công bằng bài thể dục khí công, hạc tấn mở mắt.

c-Điều chỉnh THẦN :
Tập tĩnh công, nằm ngửa hai tay úp trên bụng dưới nơi đan điền tinh ( huyệt khí hải, quan nguyên ), cuốn lưỡi, ngậm miệng nối Nhâm Đốc điều hòa âm dương, để kích thích nước miếng trào ra cổ họng không bị khô, tránh tẩu hỏa nhập ma, thở bình thường, nhắm mắt tập trung ý vào bụng dưới xem mạch đập hoặc khí ở bụng dưới đập vào lòng bàn tay càng nghe rõ càng có kết qủa tăng thủy để khắc chế hỏa giúp cho cơ thể tăng cường khí huyết lưu thông giúp thân nhiệt trở nên mát, tiêu hóa tốt, ăn ngủ ngon, hạ áp huyết.

Trường hợp hai : do chứng âm hư dương can :
Đối chứng trị liệu : Dùng phép Tư thận, bình can.
Theo đông y, âm hư là gan tổn thương, con hư phải bổ mẹ là bổ thận. Dương can là gan khí thực, do can âm hư thì can dương vượt lên làm lệch quân bình, phải bình can là điều hòa lại sự khí hóa của gan trở lại quân bình cho âm dương bằng nhau, dương khí của gan sẽ đi xuống trở về gan sẽ làm giảm áp lực của các ống mạch máu.

a-Điều chỉnh TINH :
Những loại nước uống và thức ăn làm cho thận chuyển hóa chất bổ nuôi con là gan âm mà không làm cho can khí dương tăng lên trên đầu.
Về dược thảo :
Có huyền sâm, bạch truật, hoài ngưu tất ( cho khí xuống chân), câu đằng, chích quy bản, thiên đông, con hào sống.. liều lượng do thầy thuốc định theo tỷ lệ bát cương cho đúng và đủ thành thế trận quân thần tá sứ.

b-Điều chỉnh KHÍ :
Bằng nội dược : (dùng huyệt ) :


Bổ thận âm bằng huyệt Phục Lưu làm tăng thận âm, bổ Thái Khê để thông kinh thận và chuyển hóa nuôi gan. Bình can bằng huyệt Thái Xung giúp gan khí đi xuống về gan. Bổ Can Du thông khí hoạt động của gan.Huyệt Phục Lưu làm quân, Thái Khê làm thần,Thái Xung làm tá, thêm huyệt làm sứ thành thế trận.
Bằng khí công chữa bệnh :
Động công :Tập các động tác làm mạnh Phế thận ( bài vỗ tay 4 nhịp ). Phế khí chủ đi xuống, can khí thuộc mộc vượng đi nghịch lên bị phế kim mạnh sẽ khắc mộc đẩy can khí về gan. Phế khí kim mạnh giúp thận thủy chuyển hóa, lọc máu, giúp gan lọc và thải độc trong gan.
Tĩnh công : Như bài trên, giúp bổ âm, tăng thủy, hạ hỏa.

c-Điều chỉnh THẦN :
Tập tĩnh công : Nằm nghỉ, để hai bàn tay úp vào nơi rốn, tai nghe mạch đập dưới lòng bàn tay, hơi thở bình thường, nhắm mắt, cuốn lưỡi lên vòm họng trên, nghe có cảm giác dưới hai bàn tay nóng ấm, khí tụ tại Đan điền tinh làm mạnh thận, tăng cường hệ thống miễm nhiễm, áp lực huyết dồn về bụng, giúp bổ âm tăng thủy, hạ hỏa , hạ áp huyết.

Trường hợp ba : chứng can thận âm hư :
Đối chứng trị liệu : Dùng phép :Tư can bổ thận.
Theo lý thuyết đông y ‘’âm hư hỏa vượng’’ hoặc ‘’âm hư sinh nội nhiệt‘’, người lạnh mà hai bàn tay đỏ, hâm hấp nóng, gọi là hư hỏa, phải bổ can âm và thận âm để cho can khí và thận khí không thoát ra theo đường mồ hôi làm mất âm huyết thêm.

a-Điều chỉnh TINH :
Những loại nước uống và thức ăn phải ấm nóng, không được lạnh, không làm thoát dương theo đường mồ hôi, và không được kích thích cho đi tiểu nhiều mới bảo tồn được âm dương.
Về dược thảo:
Có Kỷ cúc, địa hoàng, huyền sâm, bạch truật, hoài ngư tất, đơn bì, câu đằng, tùy theo bát cương định tỷ lệ liều lượng của quân thần tá sứ.

b-Điều chỉnh KHÍ :
Bằng nội dược (dùng huyệt ) :
Bổ thận âm bằng huyệt Phục Lưu, Thái Khê , hai huyệt này làm quân. Bổ can âm bằng huyệt Khúc Tuyền, bổ âm, tồn âm huyết bằng huyệt Khí Hải, Quan Nguyên, ba huyệt này làm thần. Dùng huyệt Tam âm Giao làm tá. Cho thuốc chạy vào gan thận thì dùng Can du và Thận du làm sứ.
Bằng khí công chữa bệnh :
Động công : Tập thế đứng tấn ngũ hành chuyển khí vào thận.

c-Điều chỉnh THẦN :
Tĩnh công : Như bài tập trên, nằm ngửa hai bàn tay đặt úp lên bụng dưới, cuốn lưỡi ngậm miệng, thở bình thường, theo dõi hơi thở phồng-xẹp nơi bụng dưới, để chuyển âm khí tụ về Khí Hải, Quan Nguyên, để bổ dưỡng huyết, mát máu, ăn ngủ được.

Trường hợp bốn : Chứng âm dương lưỡng hư :
Đối chứng trị liệu : Dùng phép Tư âm ôn thận.
Theo đông y, âm dương lưỡng hư là cả khí và huyết đều thiếu ở gan và thận. Gan trữ máu, thận lọc máu đều không hoạt động tốt, cần phải phục hồi chức năng của gan thận và bổ cả khí và huyết. Bệnh cao áp huyết trong trường hợp này có tổn thương thực thể ở gan hoặc thận, không đủ khí huyết tuần hoàn làm tim phải co bóp mạnh, làm thất trái qủa tim bị dầy khiến cơ tim bị căng, để lâu không chữa sẽ suy tim.

a-Điều chỉnh TINH :
Nước uống, thức ăn phải nóng ấm, nhẹ, dễ tiêu, có dược tính làm mạnh gan thận.
Về dược thảo:


Có Đỗ trọng, sinh địa, thục địa, huyền sâm, tang ký dinh, hoài ngưu tất, ích trí nhân. Tùy theo bát cương định tỷ lệ quân thần tá sứ.
Nếu do đờm tắc làm tức ngực, khó thở, buồn nôn thêm Pháp bán hạ, toàn qua lâu.

b-Điều chỉnh KHÍ :
Bằng nội dược ( dùng huyệt ) :
Hơ bổ huyệt Chiên Trung làm quân để tăng cường tông khí giúp vinh vệ khí hoạt động tốt. Dùng huyệt Trung Quản tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn giúp sinh khí huyết, dùng huyệt Khí Hải làm mạnh thận âm, hơ bổ huyệt Quan Nguyên làm mạnh chức năng thu rút chất bổ của thức ăn biến thành máu bổ sung nuôi dưỡng gan, tỳ, thận, ba huyệt này làm thần. Dùng huyệt Thiên Xu làm mạnh hệ tiêu hóa, bài tiết độc tố theo đại tiện ra ngoài cơ thể, và bổ Thận du giúp thận nạp được âm khí, hai huyệt này làm tá. Tất cả hiệu lực của thuốc âm khí âm huyết phải được chuyển hóa thành dương khí làm mạnh hệ miễn nhiễm, sinh tinh hóa tủy nuôi não, nuôi tế bào, thần kinh và thải độc, cần phải dùng huyệt Mệnh Môn làm sứ để dẫn thuốc vào Mệnh môn, giúp thận âm hóa khí, đồng thời Mệnh Môn tự điều chỉnh lượng nước, acide, muối, và đường trong máu, giúp cho sự chuyển hóa của gan, tỳ, vị, thận hoạt động đều mạnh.

Bằng khí công chữa bệnh :
Động công : Bài tập Cào đầu, giúp hệ thần kinh tỉnh táo, hầu có thể kiểm soát được mọi chức năng hoạt động của cơ thể và làm tăng sức đề kháng của cơ thể.

Bài tập Vỗ tay bốn nhịp, để tăng cường tông khí, thêm oxy cho phế khí, tăng hồng cầu, mạnh tiêu hóa, tăng sức hấp thụ, mạnh cột sống, mạnh gan thận, tăng cường hệ miễn nhiễm.

Bài tập Điều hòa âm dương, để thăng thanh giáng trọc, khí huyết được lưu thông từ đầu xuống chân, chỉnh lại hai bán cầu não.

c-Điều chỉnh THẦN :
Tập tĩnh công : Nằm quán hơi thở ở hai bàn tay úp nơi đan điền thần ( trên xương ức nơi giao điểm của hai xương sườn nơi ngực, mỏm đầu xương mũi kiếm ). Tâm không nghĩ những chuyện bên ngoài thân, chỉ chú ý tập trung lắng nghe hơi thở tự nhiên và nhịp mạch đập ở dưới hai bàn tay. Bài tập này giúp tăng dương khí chuyển hóa của lục phủ ngũ tạng giúp cơ thể ấm, tăng tính tiêu hóa và hấp thụ nhanh.

5-Điều chỉnh cách ăn uống :


Người bị bệnh cao áp huyết có thể thường xuyên ăn rau cần, mộc nhĩ, hải đới, đậu xanh có vỏ, dưa chua, sơn tra.
Rau cần :
Vắt lấy nước uống làm giảm áp huyết và làn hạ cholestérol, có thể nấu canh rau cần với thịt heo nạc không cần cho muối.

Mộc nhĩ :
Bổ thận âm, chữa gan thận âm suy, thường nấu canh với nấm hương, thịt heo nạc, chữa bệnh gan thận âm hư suy, và bệnh xơ cứng động mạch.

Hải đới :
Nấu nước uống hoặc nấu canh làm hạ nhiệt, hạ áp huyết và hạ mỡ trong máu.

Đậu xanh có vỏ :
Giúp thanh nhiệt, tả hỏa, chữa bệnh gan nhiệt, chữa chứng can nhiệt, can dương thượng kháng, giải độc, trị táo bón.

Dưa chua , sơn tra :
Ăn dưa chua hoặc nấu canh dưa chua, canh sơn tra thường xuyên làm giảm nguy cơ xơ cứng động mạch, tan mỡ trong máu, hạ cholestérol.

Ngoài ra, nếu can thận âm hư sinh đờm nhiều, khí trệ khó thở, nên ăn canh củ cải, uống sữa hạnh nhân, ăn qủa dâu, làm tan đờm thông khí.
Khi có đờm, không được ăn cam, chuối, bơ sữa bò, nước cốt dừa, nước đá lạnh, nước cốt trái cam, hoặc nhiều chất bột làm bánh để nguội lạnh, vì âm hư hàn gặp thêm chất hàn sẽ không chuyển hóa dưỡng trấp thành huyết mà biến thành đờm .(đờm là tên gọi chung của đông y bao gồm cholestérol và các loại dầu mỡ chậm tan, chậm chuyển hóa ở nhiệt độ thấp của cơ thể ).

Bệnh cao áp huyết cơ thể hay bị nóng, nhiệt, táo bón, dấu hiệu lâm sàng mặt đỏ trán nóng, hai bàn tay bàn chân nóng, khó thở, suyễn nhiệt, cấm kỵ không được ăn những chất làm tăng nhiệt, áp huyết sẽ đột nhiên tăng, căng các ống mạch làm đứt mạch máu não mặc dù có đang dùng thuốc giãn mạch. Các loại ăn uống tăng nhiệt nhanh như nhãn, xoài, chôm chôm, vải, sầu riêng, mít, khô mực, bún bò huế, canh chua cay thái lan, thịt dê hầm, nước cà rốt làm bón..

C-NHẬN XÉT HAI CÁCH CHỮA :
1-Theo cách chữa của Tây y :
Cách Khám bệnh, xét nghiệm, tìm và định bệnh của cả hai phương pháp tuy khác nhau nhưng rất chính xác, công phu, nhưng khác nhau ở cách chữa.

Cách chữa của tây y tùy theo sự tiến bộ của khoa học được chia thành bốn thời kỳ :
1-Thời kỳ chưa có máy đo áp huyết :
Khi chưa có máy đo áp huyết, tây y chưa định danh được bệnh cao áp huyết, đều chữa theo triệu chứng do bệnh nhân khai bệnh :
-Nếu nhức đầu, cho uống thuốc nhức đầu.
-Nếu táo bón, chữa táo bón.
-Nếu mất ngủ, chữa mất ngủ.
-Nếu mệt mỏi, cho thuốc bổ.
-Nếu chảy máu cam, chữa chảy máu cam ( Vitamine K )
Thời kỳ này tây y dùng thuốc rất đơn giản, bệnh nhân có thể bớt được vài chứng bệnh như hết bón, hết nhức đầu, ngủ được, ăn được. Bệnh nhân tin ở bác sĩ, không phải lo lắng gì, vì những triệu chứng riêng rẽ như thế không phải là bệnh nan y.

Nếu có bệnh nhân thường xuyên tái đi tái lại, bác sĩ cảm thấy các loại thuốc bào chế sẵn không mấy hiệu nghiệm, phải viết toa bào chế riêng , công thức do bác sĩ sáng tạo cho phù hợp với chứng bệnh, bệnh nhân cầm toa ra viện bào chế ở các nhà thuốc tây lớn chờ họ bào chế xong đem về dùng, uống một thời gian ngắn một tuần các chứng giảm dần, bác sĩ điều chỉnh lại toa thuốc khác, chừng vài lần thay đổi toa bệnh nhân thấy hết hẳn một thời gian lâu không tái phát, tinh thần bệnh nhân sung sướng, không phải lo lắng hoặc bị ám ảnh mình đang bị một chứng bệnh nan y mà ngày nay phải uống thuốc suốt đời cho đến khi lìa đời mới chấm dứt cả mạng cả thuốc.

Việc khám bệnh, định bệnh cho toa thuốc trị bệnh cao áp huyết thời đó hoàn toàn do tài năng của bác sĩ. Cách suy tư, tài lý luận biện chứng để cho ra một phương thuốc riêng cho một bệnh nhân có thể nói là một sự sáng tạo đúng, chính xác, đơn giản, hiệu nghiệm.

2-Thời kỳ máy đo áp huyết ra đời và sự phát triển của ngành dược:
Mọi bệnh nhân khi có 5 chứng bệnh khai ở trên, đều được đo thử áp huyết để bác sĩ rút tỉa kinh nghiệm, có chứng lúc đo áp huyết thấy tăng cao, có chứng khi đo áp huyết không cao, nhưng phương pháp chữa vẫn cổ điển, dùng thuốc theo toa bào chế riêng cho từng người có thể nói đa số có kết qủa.

Thời kỳ kinh tế thế giới phát triển, thuốc thành phẩm được chế hàng loạt, giá rẻ, tiện lợi nhanh chóng không phải bào chế riêng vừa chờ đợi bào chế, vừa đắt tiền, có khi không đủ nguyên liệu ở một nhà thuốc, kinh tế thị trường nghiêng về lợi nhuận, bán chạy ít kẹt vốn, cho nên nhà thuốc nghiêng về nhập cảng và bán những thuốc thành phẩm bào chế sẵn, các bác sĩ dù có giỏi lý luận và kinh nghiệm chữa bệnh bằng cách cho toa thuốc riêng từng người thì ở nhà thuốc không có nguyên liệu bào chế nữa, đành phải sử dụng những thuốc thành phẩm có sẵn ở thị trường, hiệu nghiệm của thuốc kém đi nhiều.

Khi bệnh nhân được đo áp huyết bác sĩ thấy áp huyết cao, thuốc thành phẩm không đáp ứng nhu cầu, mới nẩy sinh ra nhu cầu cần phải phát minh tìm tòi chế ra thuốc trị bệnh cao áp huyết. Đầu tiên, theo nhận xét chung của tây y, áp huyết tăng là do co mạch, dễ bị biến chứng đứt mạch máu nên ngành dược chế ra thuốc làm giãn mạch.
Các bác sĩ đo áp huyết bệnh nhân thấy cao, nên điều trị các chứng nhức đầu, táo bón, phối hợp thêm thuốc giãn mạch, kết qủa cũng khả quan, liều lượng gia giảm tùy theo kinh nghiệm riêng của bác sĩ.
Một thời gian sau ngàng y lại khám phá ra nguyên nhân bí tiểu cũng có thể làm căng mạch máu, ngành dược lại chế ra thuốc thành phẩm lợi tiểu cũng góp phần làm hạ áp huyết.

3-Thời kỳ máy thử cholestérol ra đời:
Giới y học nhận xét đa số bệnh nhân cao áp huyết, nếu là người mập do ăn nhiều, dư thừa chất béo, ngành xét nghiệm đã thử chất béo trong máu gọi là cholestérol, nên ngành khoa học kỹ thuật tìm cách phát minh ra máy đo cholestérol và ngành dược phát minh ra thuốc hạ mỡ trong máu, cũng nằm trong danh sách thuốc trị bệnh cao áp huyết.

4-Thời kỳ phát triển khoa tâm lý thần kinh :
Người ta để ý rằng các bệnh nhân cao áp huyết đã dùng thuốc được ổn định, nhưng khi giận dữ, làm việc căng thẳng đầu óc, bực bội khó chịu, thì tự nhiên áp huyết tăng vọt lên làm đứt mạch máu não gây tê liệt, làm té ngã bị hôn mê bất tỉnh (coma ),bị tử vong. Từ đó rút ra được kết luận do biến đổi tâm lý làm biến đổi thần kinh khiến gân mạch co rút áp huyết tăng nhanh đột ngột, nên ngành dược lại phát minh ra thuốc phong bế giao cảm, loại tác dụng lên thụ thể trung ương làm ức chế dao động thần kinh làm cho người như ngây như dại, ít cảm giác, ít xúc động hồi hộp, xem chừng như có vẻ hiệu nghiệm, tên thuốc thị trường lúc đó thịnh hành thuốc Clonidine như là một loại thần dược, sau này người ta khám phá ra sự tai hại của Clonidine. Khi có bệnh cao áp huyết dùng clonidine áp huyết hạ, nhưng người như đờ đẫn ngây dại không năng động, đó là phản ứng phụ của thuốc, cho nên tây y không muốn lạm dụng clonidine, cho bệnh nhân nghỉ dùng clonidine để thần kinh tỉnh táo lại thì gặp trở ngại áp huyết lên đột ngột làm chết người, ngành y dược khuyến cáo không được bỏ hẳn mà phải uống liều giảm dần cầm chừng cho đến suốt đời.

5-Những biến chứng của thuốc trị cao áp huyết :
Chiều hướng dùng thuốc chẹn dòng giao cảm, ngoài Clonidine ức chế thần kinh qúa mạnh, khi giảm và ngưng nó có thể gây nguy hiểm đến tánh mạng, ngành dược cố gắng phát minh ra các loại thuốc mới thay thế. Tuy nhiên ức chế giao cảm làm hệ thần kinh đối giao cảm, thần kinh phản xạ, thần kinh chức năng, thần kinh hưng phấn, thần kinh trung ương chỉ huy sự hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục.. mất khả năng khí hóa, dần dần suy nhược làm suy tim, suy hô hấp, suy thận, suy gan, suy tỳ.. sinh ra biến chứng của bệnh cao áp huyết , có 11 trường hợp chính được ghi nhận như sau :
1-Biến chứng suy tim do thuốc giãn mạch :
Dùng thường xuyên thuốc giãn mạch làm ống mạch giãn mỏng và dai, thể tích ống mạch to ra, lượng huyết chứa trong ống sẽ tụt xuống tạo sự giảm áp huyết giả tạo, cho nên biên độ giao động của áp huyết khi áp huyết tăng cao có thể lên 240/100 mmHg vẫn không nguy hiểm, khi áp huyết tụt xuống chỉ đến mức 150/100 mmHg là mạch còn an toàn không nguy hiển tánh mạng, nhưng khi ống mạch màng bao tim giãn sẽ làm cho qủa tim bị thòng xuống khiến nhịp tim đập rất chậm, mạnh, không đều, chỉ nghe được nhịp đập ở đáy tim đưa đến tình trạng suy tim. Khi áp huyết bệnh nhân xuống dưới 140/100 mmHg bệnh nhân cảm thấy rất mệt khó thở.

2-Biến chứng suy hô hấp do thuốc giãn mạch và thuốc chẹn dòng giao cảm :
Thuốc chẹn giao cảm làm giảm bớt chức năng hưng phấn thần kinh, có ảnh hưởng đến hô hấp và tuần hoàn, cho nên suy hô hấp là tình trạng thiếu khí trong phổi, thiếu oxy trong máu, giảm oxy-huyết làm các đầu ngón tay xanh tím không cảm giác, ý thức u ám, đờ đẫn, ngủ gà. Bệnh sẽ trở nặng thêm nếu dùng thuốc ngủ, thuốc an thần, thuốc lợi tiểu gây kiềm, hoặc áp dùng liệu pháp oxy không phải lúc cần thiết đúng bệnh, hoặc áp suất không khí thay đổi như đi nghỉ hè thay đổi không khí ở vùng cao độ.
Thuốc giãn mạch liều cao có thể làm khó thở thêm, xét điện tâm đồ có dấu hiệu suy thất phải, nếu có dấu hiệu ho ban đêm là dấu hiệu xẩy ra sớm của suy thất trái.

3-Biến chứng suy thận do hạ áp huyết và thuốc lợi tiểu :
Thuốc hạ áp là một trong nhiều nguyên nhân khác nhau làm suy thận chức năng, làm tăng uré-huyết gắn liền với mất cân bằng nước-điện giải, và mất cân bằng trong tuần hoàn làm giảm kali-huyết và mất nước.
Ngược lại, lạm dụng thuốc lợi tiểu làm mất thêm nước, có dấu hiệu nhăn da, đau thắt lưng, vọp bẻ, đau bụng, giảm glucoza-huyết, giảm natri-huyết, có thể tăng kali-huyết gây nên biến chứng suy thượng thận cấp.

4-Chứng suy thận mãn tính :
Lạm dụng thuốc hạ áp huyết lâu dài để ổn định áp huyết sẽ có dấu hiệu thiếu máu, áp huyết thấp, buồn nôn, vọp bẻ, khi xét nghiện máu thấy uré-huyết tăng, nhiễm acide chuyển hóa, créatinine-huyết tăng, acide uric-huyết tăng đó là dấu hiệu của chứng suy thận mãn.
Còn có một nguyên nhân suy thận mãn do thói quen uống nhiều nước quá gọi là ‘’ngộ độc nước’’, không phải trong nước có độc, mà do lượng nước nhiều làm hại chức năng lọc của thận khiến thận bị suy yếu dần.

5-Biến chứng lách to do thuốc phong bế giao cảm :
Do lạm dụng thuốc phong bế giao cảm loại tác dụng lên thụ thể trung ương Alpha-Méthyl-dopa ( như Aldomet ) cũng là một trong nhiều nguyên nhân làm lách sưng to, cũng là dấu hiệu thiếu máu do tan máu, đôi khi có hội chứng tan máu uré-huyết với suy thận.
Ở người lớn, lách có thể sờ nắn được là lách bị bệnh, thấy có một khối ở hạ sườn trái, có thể nhìn thấy khối u thượng thận trái ở lưng không di động theo nhịp thở, lách to làm hạ góc kết tràng trái xuống thấp làm đùa bao tử sang phía phải, đấu hiệu lâm sàng trong chứng bệnh này là vàng da, nước tiểu đỏ hoặc đen (hémoglobine niệu ) và phân mầu sậm do thuốc L-dopa .

6-Biến chứng đau lưng nhức mỏi, phong thấp khớp :
Những người bị bệnh cao áp huyết khi dùng thuốc lâu dài, áp huyết được ổn định, khi ngưng thuốc đột ngột, áp huyết tăng trở lại như cũ nên phải dùng thuốc suốt đời, cho nên tình trạng áp huyết giảm sẽ làm cho khí huyết không đủ áp lực thúc đẩy tuần hoàn đi đến các khớp, các khe kẽ của khớp xương, đốt sống lưng, đốt ngón tay, khớp khuỷu tay, khớp vai, khớp đầu gối, khớp mắt cá cổ chân, cổ tay, huyết không đến nuôi dưỡng, bệnh nhân cảm thấy đau nhức, tê, bệnh kéo dài khiến gân, sụn, đầu xương khô , bị thoái hóa biến dạng như gai cột sống, vẹo khớp ngón tay chân, nổi khối u như lồi xương giữa hai khớp, đầu gối cứng khô, mòn, đau bên trong khó cử động.

Nếu chú trọng đến việc chữa bệnh cao áp huyết sẽ làm giảm áp lực tuần hoàn khí huyết sinh bệnh thoái hóa xương khớp sinh đau nhức phong thấp khớp gia tăng.

Nếu chữa bệnh phong thấp đau nhức khớp làm tăng áp lực tuần hoàn khí huyết để hết đau nhức thì áp huyết lại tăng cao, có triệu chứng sung huyết não, mất ngủ, nhức đầu, mệt tim. Khi nổi giận dễ bị đứt mạch máu não.
Vì theo tây y, bệnh xương bị đau nhức không chữa sau dễ bị xốp xương hoặc ung thư xương, nên bác sĩ chuyên khoa xương cho bệnh nhân dùng calcium để bổ xương, phụ nữ dùng thêm hormone. Nhưng khi thử máu lại có dư calci-huyết làm tăng áp huyết, bác sĩ chuyên trị áp huyết lại cho dùng thuốc chặn dòng calci để làm giảm calci-huyết để cho áp huyết hạ thì bệnh đau nhức xương khớp tái phát. Đó là cách chữa mâu thuẫn của chuyên khoa, không kết hợp với nhau, vả lại hiện nay tây y dược chưa có một loại thuốc thích hợp dung hòa để chữa chung cho cả hai bệnh cùng một lúc đựợc hoàn chỉnh, còn nếu chữa riêng rẽ thì vẫn có mâu thuẫn, chữa được bệnh này lại hại bệnh kia.

Một đề nghị cho bệnh nhân bị cả hai bệnh mâu thuẫn trên thì chỉ nên dùng một loại thuốc trị bệnh cao áp, còn bệnh đau nhức xương khớp không nên dùng thuốc uống hay chích, mà nên dùng thuốc xoa bóp bên ngoài, tắm nước nóng ấm với bột gừng, châm cứu, tập vận động chân tay, co duỗi chân tay, thể dục nhịp điệu arobic, đi bộ đi xe đạp tại chỗ, bơi lội nhẹ với nước nóng ấm, hoặc tập khí công, và tập đều mỗi ngày giúp khí huyết lưu thông đều vào đến khe kẽ khớp xương sẽ hết đau nhức.

7-Bệnh tiểu đường do thuốc lợi tiểu :
Bệnh tiểu đường, ở Việt nam gọi là bệnh của người giầu, nói chung là bệnh ăn uống dư thừa về dinh dưỡng, người béo mập, ăn nhiều mà ít chịu vận động tay chân để chuyển hóa năng lượng, ngoài ra còn do nguyên nhân di truyền, do nguyên nhân bị thương tích sọ và tủy sống, biến chứng của bệnh quai bị, thương hàn, lao, thai nghén, xáo trộn tuyến nội tiết, lạm dụng thuốc kháng viêm corticoĩds, ACTH và đặc biết là lạm dụng thuốc lợi tiểu trong điều trị bệnh cao áp huyết.

Bệnh tiểu đường và bệnh cao áp huyết cũng là một mâu thuẫn trong cách điều trị do thuốc. Dấu hiệu tiểu đường là khát nhiều do tăng năng tuyến giáp, tăng calci-huyết làm áp huyết tăng cao, mà thuốc lợi tiểu cũng làm tăng calci-huyết, tăng chlor-huyết và giảm kali-huyết làm xáo trộn tiêu hóa, xáo trộn nội tiết, xáo trộn chức năng thận, chức năng lá lách và tụy tạng mới sinh ra bệnh tiểu đường.

8-Biến chứng gỉảm áp huyết ở thế đứng do thuốc và do ăn uống :
Tất cả các loại thuốc giảm áp huyết và loại thuốc an thần kinh mạnh như Largactil,Aminazine.. thuốc lợi tiểu, thuốc nhuận trường, L-dopa, sẽ làm giảm áp huyết ở thế đứng, có dấu hiệu khởi phát như đái dầm, liệt dương, mất ý thức, mạch không đập nhanh, cuối cùng có dấu hiệu run tay chân Parkinson, liệt mắt.

Giảm áp huyết ở thế đứng làm giảm chlor-huyết dưới 90 mmol/l do chế độ ăn uống như uống nước nhiều gọi là hội chứng ngộ độc nước, làm tăng ngấm nước ngoài tế bào khiến giảm natri-huyết gây phù nề, hoặc do chế độ ăn cữ muối lâu dài, hoặc do thuốc lợi tiểu loại thiazide hoặc do bệnh thần kinh đái tháo đường.

Hợp chất của muối ăn là ClNa, do chế độ ăn nhạt trong điều trị bệnh cao áp huyết làm chlor-huyết giảm, natri-huyết giảm dẫn đến hậu qủa giảm thẩm thấu huyết tương, làm tăng ngấm nước tế bào sẽ có rối loạn ở não và thận sinh chán không muốn ăn, ói mửa, kiệt sức, lú lẫn tâm thần, viêm bể thận, co giật chân tay như bệnh Parkinson. Khi cơ thể mất qúa nhiều muối sẽ vã mồ hôi, thử natri-huyết lúc đó dưới 135 mmol/l, nhất là ở người lớn tuổi dùng thuốc lợi tiểu không được theo dõi cẩn thận làm suy thượng thận, xơ gan, suy tuyến giáp vì phải tăng tiết hormone chống lợi tiểu.

9-Biến chứng hạ áp huyết ở thế đứng và thuốc hạ đường-huyết làm hại mắt:


Bệnh mắt do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do thuốc trị bệnh cao áp huyết và thuốc hạ đường huyết, máu không đủ lên nuôi não làm nhức nửa đầu ( migraine) kéo dài một thời gian làm mù bán manh ( mờ một bên ), hoặc mắt mờ như thấy sương mù trước mắt.

Hai loại thuốc trị cao áp huyết và trị bệnh tiểu đường dùng chung không hợp lý xảy ra tai biến nhẹ gây rối loạn dẫn truyền máu ở tim, khiến tình trạng mắt nhìn thấy sương mù lúc có lúc không, lúc nhìn rõ, lúc thấy mờ mờ, bệnh mắt kéo dài sẽ có dấu hiệu xuất huyết thủy tinh thể, viêm dây thần kinh thị giác, tăng áp lực sọ não ( nhức đầu ),phù não ( não có nước ), bệnh viêm thận nặng, đục thủy tinh thể.

10-Phù gai thị do thuốc giãn mạch :
Phù gai thị có nhiều nguyên nhân, nhưng thuốc giãn mạch là một nguyên nhân, khám đáy mắt để chẩn đoán bệnh tăng áp lực sọ não, khi thuốc giãn mạch làm tăng áp lực sọ não sẽ làm giảm thị lực, mù bán manh, ý thức u ám, tâm thần chậm, có nguy cơ tiến triển làm giảm đồng tử một bên, liệt dây thần kinh số 3, cơn ngủ thoáng qua ( narcolepsie ) sau đó là hôn mê ( coma ),tuột tiểu não làm vẹo cổ, rung giật nhãn cầu.

11-Tai biến mạch máu não do dùng thuốc không hợp lý :
Biến chứng cuối cùng của bệnh cao áp huyết là tai biến mạch máu não do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân dùng thuốc trong điều trị không hợp lý làm rối loạn thần kinh não, tăng giảm áp lực sọ não bất thường bởi các chất Cl, Na, Kali, Calci, Glucoza, Uric tăng giản trong máu, trong nước tiểu. Làm mạch máu khi căng khi giãn, bất ngờ làm đau nhức đầu kịch liệt kéo dài 24 giờ, không kịp tìm nguyên nhân qua xét nghiệm để biết chính xác do hóa chất nào trong cơ thể làm biến đổi sự căng mạch thái qúa, mà chỉ tạm thời cho dùng thuốc an thần giảm đau cũng không thể nào ngăn chặn kịp thời tai biến mạch máu não.

Các thể bệnh thường gặp trong tai biến mạch máu não như :
a-Xuất huyết não.
b-Khối máu tụ trong não
c-Nhũn não

a-Xuất huyết não :
Dấu hiệu lâm sàng :
Nhức nửa đầu nhất là về đêm, kèm theo chóng mặt ù tai, đó là bên sẽ bị xuất huyết, có thể chảy máu cam, xuất huyết võng mạc. Bệnh tiến triển nhanh qua hai giai đoạn :
Giai đoạn mới phát :


Đột ngột té ngã hôn mê, hoặc bắt đầu bằng nhức đầu dữ dội, ý thức giảm dần, ngủ mê 1-2 giờ sau không chữa kịp sẽ tiến triển sang giai đoạn hai .
Giai đoạn nặng gồm ba hội chứng :
Hôn mê sâu : Rối loạn chức năng tiếp ngoại và chức năng thực vật ( coma ), mặt tái nhợt, thở như ngáy, rối loạn nước và các chất điện giải, rối loạn cơ vòng, toàn thân bất động, mất phản xạ giác mạc và đồng tử.
Liệt nửa người : Bên liệt giảm trương lực cơ, liệt mặt thể trung ương. Liệt tay chân cùng một bên.
Rối loạn chức năng thực vật : Làm tăng tiết phế quản gây ứ nghẹt, khó thở, loạn nhịp thở, nhịp tim, tăng nhiệt, tăng áp huyết cao, mặt xanh hoặc đỏ, rối loạn dinh dưỡng, phù nề, đổ mồ hôi bên liệt, đa số 2/3 trường hợp tử vong trong vòng 10 ngày. Nếu qua khỏi, vẫn còn nguy cơ biến chứng nhiễm khuẩn hô hấp, tiết niệu, dinh dưỡng, nước và điện giải.

b-Khối máu tụ trong não :
Khi xuất huyết não, máu chảy ra không xâm nhập vào nhu mô não mà ứ đọng tại chỗ tạo thành một khối u do mạch qúa căng hoặc dị dạng mạch. Ở người trẻ còn khỏe mạnh, có triệu chứng liệt nửa người hoặc hôn mê ngắt quãng lúc tỉnh lúc mê, để lâu không chữa đúng và kịp lúc bệnh nặng hơn làm tăng áp lực sọ não, cần phẫu thuật thần kinh kịp thời tránh được tai biến mạch máu não.

c-Nhũn não :
Khi mô thần kinh thiếu máu nuôi dưỡng do các mạch máu bị tắc nghẽn, co thắt hay hẹp, tùy theo vị trí tắc nghẽn sẽ có những dấu hiệu lâm sàng để phân biệt như sau :
Rối loạn lời nói : Do thiếu máu nơi bán cầu não.
Rối loạn cảm giác : Do khu vực cảm giác thần kinh hư.
Hôn mê liệt nửa người : Do tắc mạch máu não, nhũn não xẩy đến từ từ, nếu không chữa kịp thời.
Qua giai đoạn cấp tính trong thời gian 10 ngày thoát khỏi tử thần, bệnh hồi phục dần, còn lại di chứng liệt cứng hoặc liệt mềm tay chân vô lực.

6-Nhận xét cách chữa của Tây y :
a-Ở thời kỳ chưa có máy đo áp huyết :
Cách chữa còn đơn giản, bệnh thuyên giảm từng phần, thuốc không gây rối loạn chức năng thần kinh nên không xẩy ra biến chứng .

b-Ở thời kỳ máy đo áp huyết ra đời :
Chưa thống nhất cách chữa, phương pháp chữa còn tùy thuôc vào tài năng và kinh nghiệm riêng của bác sĩ, vừa chữa gốc vừa dự phòng, vừa phải cho toa bào chế thuốc cho từng trường hợp, nên cách chữa an toàn không gây biến chứng hại chức năng thần kinh tạng phủ và não bộ.

c-Ở thời kỳ định bệnh bằng xét nghiệm :
Tây y đã phân biệt được bệnh cao áp huyết và những biến chứng do thuốc ở nhiều dạng khác nhau, nhưng có trường hợp tìm ra nguyên nhân bệnh qua xét nghiệm nhưng thị trường không có thuốc đặc trị nên cần phải có sự can thiệp của phẫu thuật, ngoài ra, sự phân quyền giữa bác sĩ tổng quát và bác sĩ chuyên khoa, nên biến chứng của bệnh cao áp huyết không được giải quyết kịp thời và đồng bộ, đôi khi cách chữa và cách cho dùng thuốc mâu thuẫn tương phản làm rối loạn chức năng thần kinh thêm trầm trọng, biến chứng do thuốc không biết trách nhiệm về ai. Mặt khác, nếu áp dụng công thức trị bệnh cao áp huyết theo hướng dẫn của y tế thế giới sẽ bị gò bó, không dám sáng tạo một cách chữa toàn diện theo như kết qủa xét nghiệm, vì thẩm quyền chuyên khoa của mình bị giới hạn. Vì thế một bệnh nhân có một bệnh cao áp huyết mà phải cần đến nhiều bác sĩ chuyên khoa khiến cho thuốc của mỗi người khác nhau làm cho phản ứng thuốc gây rối loạn trầm trọng thêm.



-Đứng trên lập trường của bác sĩ gia đình :
Mình cảm thấy bó tay khi không chữa được bệnh cao áp huyết, hình như chưa có loại thuốc nào hiệu nghiệm, an toàn, mặc dù xét nghiệm đã tìm được nguyên nhân, hoặc có những loại thuốc đặc trị lại không thuộc thẩm quyền cho toa sẽ dẫm chân lên lãnh vực chuyên môn của bác sĩ chuyên khoa.

-Đứng trên lập trường của bác sĩ chuyên khoa :
Mình chỉ chữa những biến chứng thuộc lãnh vực chuyên môn và cho những thuốc thuộc lãnh vực thuộc thẩm quyền chuyên môn của mình, việc theo dõi chữa trị bệnh cao áp huyết thuộc trách nhiệm của bác sĩ gia đình. Cho nên bệnh cao áp huyết có nhiều biến chứng khác nhau phải qua nhiều bác sĩ chuyên môn khác nhau , thuốc chữa cũng khác nhau gây ra phản ứng thuốc kỵ nhau của nhiều loại thuốc chuyên trị, nào là thuốc trị cao áp huyết, nào là thuốc trị tim mạch, nào là thuốc trị Parkinson, nào là thuốc phong thấp đau nhức, nào là thuốc bổ xương , nào là thuốc thần kinh, thuốc trầm cảm trị stress, nào là thuốc trị depresse, nào là thuốc ngủ, an thần, nào là thuốc trị tiểu đêm, nào là thuốc táo bón, thuốc cholestérol, thuốc trị tiểu đường... hàng chục loại thuốc vào cơ thể một lúc gây nguy hiểm do phản ứng hóa dược tạo ra lại ngoài trách nhiệm của bác sĩ gia đình.

-Đứng trên lập trường của bệnh nhân :
Họ cảm thấy bệnh cao áp huyết là bệnh nan y khó trị, họ hoàn toàn tin vào lời dặn và cách chữa của bác sĩ gia đình suốt một thời gian dài khi thuốc chưa tạo ra biến chứng, nhưng phản ứng thuốc về lâu dài tạo ra biến chứng, sau khi xét nghiệm mới biết mình có nhiều bệnh nan y phải uống thêm nhiều loại thuốc khác của bác sĩ chuyên môn, chính nó là nguyên nhân do nhiều thuốc làm rối loạn chức năng thần kinh gây nguy hiểm hơn, nhưng không còn cách lựa chọn nào khác, đành phải nghe theo lời của nhiều thầy thuốc một lúc để tự mình hại mình một cách âm thầm cho đến khi chết mới không phải uống thuốc, đem theo nỗi oan mà không ai phải gánh trách nhiệm.

2-Theo cách chữa của đông y :
Đông y cổ đại chia làm 13 khoa gồm Nội khoa, Nhi khoa, Tạp y khoa ( tổng quát ), Phong khoa, Sản khoa, Nhãn khoa, Yết hầu khoa, Nha khoa, Chỉnh cốt khoa, Chấn thương khoa, Án ma khoa, Châm cứu khoa, Chúc do khoa. Nhĩ khoa nằm trong nội khoa, bao gồm các bệnh chuyên môn của lục phủ ngũ tạng mà không chia ra chuyên khoa tim mạch, khoa thần kinh, khoa gan ruột, thận, phổi. . như tây y.

Riêng khoa châm cứu chuyên chữa và điều chỉnh mọi chức năng thần kinh bằng châm cứu trên huyệt đạo kinh mạch. Nội khoa và Nhi khoa tên gọi thời Trung quốc cổ đại là Đại phương khoa và Tiểu phương khoa, đều chuyên sử dụng dược thảo một cách thấu đáo tường tận. Mỗi loại thuốc lấy từ cây cỏ phải biết đầy đủ các yếu tố tính-khí-vị để chữa trị như vị thuốc mặn, ngọt, chua, cay, đắng để dẫn tính thuốc và khí thuốc vào tạng phủ nào, dẫn vào mạnh gọi là vị hậu , dẫn vào yếu chậm, từ từ gọi là vị bạc.. Tính thuốc theo bát pháp như ôn, bổ, tả, tiết, hãn, xuất, liễm, thông hay hòa.. Còn khí thuốc làm cho tăng hay giảm hàn hay nhiệt, thăng lên hay giáng xuống, liễm vào hay xuất ra,làm cho thổ mửa ra hay làm cho hạ khiến đi cầu, hay có tính giảm đau an thần, loại thuốc bổ hay tả khí hay huyết..

Nếu chữa bằng huyệt đạo châm cứu, căn bản có 365 huyệt, khi huyệt được kích thích cũng có đầy đủ yếu tố tính , khí và vị hậu hay bạc như thuốc cây cỏ, còn vị giác để dẫn tính khí của thuốc vào tạng phủ như mặn vào thận, ngọt vào tỳ, chua vào gan, cay vào phế, đắng vào tim thì không có như thuốc cây cỏ, mà phải dùng huyệt trên đường kinh theo quy tắc riêng ‘’ con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con ‘’.Cho nên dùng thuốc bên ngoài đưa vào cơ thể khi cơ thể gầy ốm, thiếu khí huyết không thể kích thích bằng huyệt, người ta gọi là phương pháp dùng ngoại dược, trong trường hợp cơ thể có da thịt, mập mạp khi bị bệnh, có thể không cần ngoại dược, chỉ cần kích thích huyệt tạo ra chất thuốc tương đương như ngoại dược mà không sợ có phản ứng phụ, người ta gọi là phương pháp dùng nội dược .

Do đó, bệnh cao áp huyết hoặc các biến chứng của bệnh cao áp huyết hay bất kỳ một bệnh nào khác cũng chỉ có một thầy thuốc nội khoa hoặc châm cứu có thể chỉnh lại mọi rối loạn bất thường của sự khí hóa của tổng thể ngũ hành tạng phủ để lập lại quân bình và tái tạo lại hệ thần kinh giúp cho tinh-khí-thần hòa hợp thì mọi bệnh tật sẽ tự động hết.

Sử dụng ngoại dược ( các vị thuốc cây cỏ ) và sử dụng nội dược (các huyệt ), nếu phù hợp với nhu cầu cơ thể qua phương pháp Tứ chẩn, định ra được mạch bệnh trong 28 bộ mạch, và lý luận tìm nguyên nhân gốc là bệnh có thể chữa hết. Bệnh tật của mọi thời đại giống nhau, nên đông y không có bệnh danh cao áp huyết, đông y chỉ coi như là một chứng bệnh, như phong thấp là dấu hiệu của một chứng, tiểu đường là dấu hiệu của một chứng, nhức đầu là dấu hiệu của một chứng... đối với tây y là một bệnh danh. Chứng của đông y phải nói lên được tính chất bệnh của tạng phủ hay khí huyết như : can hàn, thận nhiệt, can hư hàn, thận thực nhiệt, can thực thận hư...



1-Điểm tương đồng :
Đông và tây y đều phải xét nghiệm để định bệnh trước khi chữa, một bên xét nghiệm bằng tứ chẩn, một bên xét nghiệm bằng máy móc dụng cụ.

2-Điểm dị biệt :
Đông y chữa bệnh ở gốc tạng phủ theo chức năng và theo hệ thống khí hóa của ngũ hành chung của lục phủ ngũ tạng và chữa vào chứng bệnh thuộc hệ thống khí hóa. Còn tây y chữa trực tiếp vào cơ sở bị tổn thương thực thể bằng mổ xẻ như ống dẫn máu tắc nghẹt, van tim, tắc mạch máu não, hoặc chữa bằng thuốc bào chế sẵn theo bệnh danh như đường trong máu, mỡ trong máu, nhức đầu, căng mạch làm giãn mạch không chữa vào nguyên nhân gốc như đông y.

Đông y cũng có bệnh danh như bệnh cao áp huyết đơn thuần, bệnh cao áp huyết tiểu đường, bệnh cao áp huyết phong thấp, bệnh cao áp huyết phong đàm, hàn đàm, nhiệt đàm, bệnh cao áp huyết suy hô hấp, cao áp huyết suy thận, cao áp huyết suy tim, cao áp huyết xơ gan, cao áp huyết thai sản, cao áp huyết tâm lý thần kinh.. ..Tất cả các loại cao áp huyết ấy đều phải tìm nguyên nhân quy về chứng do tạng phủ nào làm ra. Biết được chứng bệnh ở tạng phủ nào thì mới có cách chữa là đối chứng trị liệu .

Bệnh cao áp huyết theo đông y định bệnh gồm các chứng như là Dương cang can nhiệt chứng, âm hư dương can chứng, can thận âm hư chứng, âm dương lưỡng hư chứng, can khí uất kết chứng, can uất tỳ hư chứng, can phong nộI động chứng, can khí nghịch chứng, can hỏa thượng viêm chứng, can dương thượng kháng chứng.. mỗi chứng và mỗi bệnh danh do chứng nào làm ra bệnh đều có trong danh mục bệnh của y học đông phương cổ đại, có chỉ dẫn những dấu hiệu lâm sàng khác nhau và phương dược căn bản để chữa khác nhau bằng nội ngoại dược. Nếu thầy thuốc không muốn áp dụng theo toa căn bản đã tích lũy kinh nghiệm nhiều đời vì hai lý do, một là chưa hiểu cách phối hợp kỳ diệu của cổ nhân tại sao phải phối hợp như vậy, hai là khi dùng toa căn bản để biết vị thuốc nào trong toa là chính dùng làm quân, thần, còn tá, sứ có thể phải thay đổi gia giảm cho phù hợp với điều kiện sức khỏe của bệnh nhân, cho nên khi đối chứng trị liệu lâm sàng giỏi thì phải thay đổi thành phần thuốc luôn luôn cho hợp từng giai đoạn tiến triển của bệnh, sau mỗi lần tái khám bằng tứ chẩn để gia giảm phương dược cho đến khi khỏi bệnh.

Hiện nay bên Trung Quốc cũng như Việt Nam, một thầy thuốc được đào tạo ra phải am tường cả đông lẫn tây y, và ngoài thuốc bắc phải dùng thang mỗi khi bắt mạch, đông y phải bào chế sẵn thuốc thành phẩm theo dạng tây y theo tiêu chuẩn của tây dược để bác sĩ có thể sau khi khám xét một căn bệnh và viết toa cho thuốc được cả hai loại đông tây dược.

Thay phần kết luận :
Nếu chỉ với mục đích phục vụ sức khỏe cho con người một cách ưu việt vẹn toàn, cả hai ngành đông tây y được liên kết trong chương trình đào tạo thầy thuốc tương lai trong tinh thần cởI mở, hòa hợp trong cách khám, chữa và dùng thuốc được chọn lựa tối ưu sẽ giảm thiểu được các phản ứng phụ cho bệnh nhân lại đỡ tốn kém khi xét nghiệm về cả thời gian, tiền bạc, và kết qủa chữa bệnh lại nhanh chóng, sức khỏe mau bình phục, đó là một may mắm cho bệnh nhân hơn là một phương pháp riêng lẻ đối chọi nhau như hiện nay làm cho bệnh nhân phải chịu nhiều thiệt thòi oan uổng trong những ca bệnh nan y .

PHẦN BA : TẬP KHÍ CÔNG CHỮA BỆNH CAO ÁP HUYẾT :



1-KHÍ CÔNG LÀ GÌ ?
KHÍ là hơi thở, CÔNG là một sự chuyển hóa, do tập luyện thường xuyên, do tập trung ý theo dõi hơi thở và động tác, giúp cho sự khí hoá của tạng phủ hoạt động quân bình, đều đặn. Muốn sự chuyển hóa tốt phải nhờ vào KHÍ, và phải biết cách tạo khí. Theo khí công thì khí có 5 loại khác nhau trong cơ thể :

a-Tông khí :
Là khí tăng cường của phổi, có được tông khí cần phải thở sâu, lâu, cho oxy chiếm tối đa dung tích của phổi, như các lực sĩ, võ sĩ, vì có tông khí mới tạo ra khí lực.

b-Nguyên khí :
Là khí lực bẩm sinh do cha mẹ truyền cho, là khả năng hoạt động của thận mạnh hay yếu. Chúng ta cũng có cách tập luyện để tăng cường bổ sung khí cho nguyên khí. Nguyên khí còn gọi là Chân khí, chân khí bẩm sinh là khí tiên thiên, chân khí hậu thiên do ăn uống để bồi bổ sức khỏe, là khí dư thừa, đã dự trữ tích lũy trong cơ thể lấy được từ khí huyết tạo ra tinh, tủy, não, thay cũ đổi mới tế bào, tăng cường tuổi thọ.

c-Ngũ tạng khí :
Là khí lực tự nhiên của lục phủ ngũ tạng như tâm khí, tỳ khí, phế khí, thận khí, can khí. Ngũ tạng khí tạo ra thần trong bộ ba tinh-khí-thần của đông y.
Bộ ba tinh-khí-thần này hòa hợp theo tự nhiên, bẩm sinh, nó hòa hợp được mạnh và bền chặt hơn do tập luyện, nó sẽ lập ra một chương trình hoạt động trong cơ thể chúng ta như sự hấp thụ, phân tích, tổng hợp, chọn lọc, phân phối, điều hành, để nuôi dưỡng phát triển và tăng cường bảo vệ cơ thể.

d-Vinh khí và vệ khí :
Chất liệu để tăng cường cho bộ ba tinh-khí-thần là tập luyện, và do khí từ ăn uống có được gọi là cốc khí ( khí của ngũ cốc ) để nó cho ra hai loại khí quan trọng khác là khí dinh dưỡng ( vinh khí ), và khí bảo vệ ( vệ khí bao gồm hệ miễn nhiễm, hồng cầu, bạch cầu và hệ nội tiết ).

Con người khỏe mạnh hay bệnh tật đều do tinh-khí-thần. Nếu sự hoạt động của tinh-khí-thần yếu kém,thí dụ chỉ hấp thụ được 10% khi ăn một tô súp có năng lượng 2000 calories, thì chỉ thu nhận được 200 calories, trong khi đó lại phải mất đi một số lượng calories để loại bỏ số dư thừa ra khỏi cơ thể không được hấp thụ, nếu không số dư thừa không chuyển hóa sẽ làm cho cơ thể bị bệnh, ngược lại một nông dân ăn cơm cà muối, hay dưa muối, mỗi bát cơm chỉ có 200 calories, nhưng sức hấp thụ nhiều và chuyển hóa nhanh, ăn 3 bát cơm còn thấy đói, ăn 6 bát mới đủ no, nếu hấp thụ được 70% thì cơ thể dung nạp được 840 calories, còn hơn một tô súp mà không thu nạp được bao nhiêu.

Chúng ta đừng tưởng ăn vào một chất đại bổ như sâm, nhung, linh chi hay các thức ăn uống khác như người ta thường nói, nó không nở bề dài chắc cũng nở bề ngang, thực ra rất tai hại. Thí dụ như đang bị sốt, sức hấp thụ 0% ăn vào sẽ ói ra ngay. Sự hấp thụ còn tùy thuộc vào nhu cầu của cơ thể theo quy luật khí hóa ngũ hành của tạng phủ. Thí dụ cơ thể cần mặn để sinh hàn, tăng thủy để khắc chế hỏa, mà lại ăn món cay để tăng hỏa, vệ khí sẽ bảo vệ cơ thể, nó tạo ra phản ứng ói mửa ra ngay.

Khi tập luyện khí công, bộ ba tinh-khí-thần sẽ bền chặt và mạnh hơn, vinh vệ khí mạnh hơn làm cho tăng tính hấp thụ. Nếu chỉ uống thuốc mà không tập luyện khí công, bộ ba tinh-khí-thần càng suy yếu, sức hấp thụ càng giảm, đó là lý do tại sao ăn uống bổ và thuốc men đầy đủ mà vẫn suy nhược không khỏi bệnh.

Vì vậy, cách chữa bằng khí công luôn luôn phối hợp cả ba tinh-khí-thần, âm dương ngũ hành, cùng một lúc để điều chỉnh sự khí hóa của tinh-khí-thần lúc nào cũng được quân bình hòa hợp.

2-TẠI SAO BỊ BỆNH CAO ÁP HUYẾT THEO KHÍ CÔNG?
Chúng ta hãy quan sát một nhiệt kế thủy ngân ở ba mức độ khác nhau :
Mức trung bình, nhiệt kế chỉ 37,5 độ C, tỷ trọng là 1.
Mức thấp, khi thời tiết lạnh hơn, trọng lượng thủy ngân không thay đổi, nhưng thể tích thủy ngân co lại do lạnh, làm tỷ trọng tăng, lớn hơn 1.
Mức cao, khi thời tiết nóng hơn, trọng lượng thủy ngân không thay đổi, nhưng thể tích giãn nở do thời tiết nóng, làm tỷ trọng giảm, nhẹ hơn 1, nếu thời tiết nóng qúa, thủy ngân giãn nở vượt qúa thể tích chứa của ống thủy tinh sẽ làm cho ống thủy tinh vỡ.

Áp huyết của con người cũng như thế, số lượng máu trong con người cũng giống như số lượng thủy ngân, ống mạch máu giống như ống chứa thủy tinh, 37,5 độ C là thân nhiệt trung bình của một người.
Đối với con người, nếu thân nhiệt cao hơn nhiệt độ trung bình, đông y gọi là nhiệt, thấp hơn gọi là hàn. Nếu cặp đo nhiệt độ ở nách, ở miệng, ở hậu môn, mỗi nơi chỉ mỗi khác. Riêng nhiệt độ nơi bao tử lý tưởng trung bình hoạt động tốt, nhiệt độ luôn luôn 41 độ C, là nhiệt độ thích hợp làm mau rục thức ăn hóa thành chất bổ nuôi cơ thể, ở nhiệt độ này đông y gọi là thấp khí.

Đối với cây cỏ. thấp khí cần thiết để chuyển hoá hạt thành mầm, cây muốn tăng trưởng cần thêm yếu tố ánh nắng ( nhiệt khí ), có nước ( hàn khí ), có gió ( phong khí, có khí khô ráo ( táo khí). Mỗi loại khí có nhiệt độ khác nhau tạo ra công năng chuyển hóa khác nhau tùy theo giai đoạn như sinh, trưởng, hóa, thâu, tàng. Giai đoạn hạt nẩy mầm là sinh, mọc thành cây là trưởng, kết nụ ra hoa là hóa, thành trái là thâu, trái khô rụng xuống đất giữ lại hạt là tàng cho chu kỳ sinh nối tiếp. Những biến chuyển đó đông y gọi là khí hóa. Trước khi tìm hiểu nguyên nhân tại sao áp huyết tăng cao, chúng ta nên biết qua sự khí hóa là gì ? Sự khí hóa dựa vào hai yếu tố chính là thủy và HỎA.

A-Sự khí hóa của thủy- hỏa đối với thời tiết :
Theo tỷ lệ tác động giữa mặt trời ( hỏa), và nước biển ( thủy), ở 5 mức độ khác nhau tạo ra 5 loại khí khác nhau trong 24 giờ.
Phong khí :


Buổi sáng ánh nắng mặt trời chiếu xuống mặt nước biển yếu, nước biển bốc hơi nhẹ sinh gió mát tạo ra phong khí.
Hỏa khí :


Buổi trưa nhiệt độ tăng sức nóng, nước biển bốc hơi mạnh làm nước cạn dần gọi là thủy triều xuống, đem theo khí nóng tạo ra hỏa khí.
Thấp khí :


Buổi chiều, nóng của mặt trời tuy bớt nhưng nóng của nước biển bốc lên không đủ sức vượt lên cao để thành mây mà cứ luẩn quẩn sát mặt đất sinh oi bức, ẩm thấp gọi là thấp khí .
Táo khí :


Buổi tối, đất còn nóng và nước biển cạn bớt, đất khô rút lại, không khí không còn ảnh hưởng của hỏa-thủy nhiều sinh khô ráo gọi là táo khí.
Hàn khí :


Ban đêm, hoàn toàn không có hỏa khí, nước hết nóng trở thành lạnh, cộng với số nước do mây tụ lại thành mưa trả nước về cho biển gọi là thủy triều lên, thủy khí nhiều nhất tạo ra khí lạnh gọi là hàn khí.

B-Sự khí hóa của thủy-hỏa đối với mùa :
Quả đất quay chung quanh mặt trời ở 5 vị trí khác nhau tạo ra 5 mùa hợp với 5 loại khí :
Phong khí thuộc mùa Xuân mát mẻ , thời tiết như buổi sáng .
Hỏa khí thuộc mùa Hạ nóng bức , thời tiết như buổi trưa.
Thấp khí thuộc mùa Trường hạ nóng ẩm thấp, thời tiết như buổi sau trưa đến chiều.
Táo khí thuộc mùa Thu khô ráo co rút, thời tiết như buổi chiều tối.
Hàn khí thuộc mùa Đông lạnh lẽo, thời tiết như ban đêm.
Dựa vào hiện tượng này Đông y rút ra kết luận :
Xuân sinh phong thuộc mộc .( Muà Xuân cây cỏ mọc )
Hạ sinh nhiệt thuộc hỏa.
Trường hạ sinh thấp thuộc thổ.
Thu sinh táo thuộc kim ( đất co rút nhiều chất, lâu năm thành quặng mỏ ).
Đông sinh hàn thuộc thủy.

C-Sự khí hóa của thủy-hỏa trong con người:
Trong con người, hỏa khí nhờ ở qủa tim, thủy khí nhờ ở thận. Khí của tâm thận giao nhau nhờ ở thức ăn uống thuộc TINH tạo ra năng lượng và nhiệt lượng , Khí giúp tâm-thận hoạt động được phải nhờ vào hơi thở thuộc KHÍ, hơi thở lệ thuộc vào thời tiết khí hậu bên ngoài và sự biến động tình cảm, tinh thần bên trong thuộc THẦN. Bộ ba tinh-khí-thần hoạt động đều đặn hòa hợp thì con người không bệnh tật, khi mất quân bình , mất hòa hợp sẽ tạo ra nhiều bệnh.

Nếu TINH do thức ăn từ ngoài vào cơ thể hợp với nhu cầu Tinh-khí-thần bên trong cơ thể đang cần, nó sẽ tạo ra sự chuyển hóa biến thành khí huyết nuôi da thịt, xương cốt, răng, gân, móng tóc, óc, tủy.., nếu không phù hợp nó tạo ra phản ứng chống đối để đào thải ra ngoài mặc dù những thức ăn uống ấy phân chất theo tây y là giầu chất bổ dinh dưỡng.
Nếu KHÍ bên trong cơ thể là khí của hơi thở và khí chuyển hóa của tạng phủ không thuận với khí bên ngoài là khí hậu, thời tiết cũng sẽ có ảnh hưởng không tốt đến sự khí hóa của lục phủ ngũ tạng trong cơ thể để chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần.

Nếu THẦN trong cơ thể không được nuôi dưỡng bằng TINH, không được tăng cường bằng KHÍ đến từ hơi thở, từ sự chuyển hóa của tinh ra năng lượng, và không khí bên ngoài, thì thần cũng suy nhược, hoạt động điều tiết nội dược ( hormones ) bất bình thường sinh ra bệnh.

Chức năng hoạt động của thần là Ý, là cảm giác, giao cảm, phản xạ, hưng phấn, ức chế, vận động, đìều tiết hormones tạo ra các phản ứng hóa học cần thiết cho cơ thể bằng cách tự động vô ý thức, chủ động có ý thức và bán tự động do kích thích.

Thí dụ khi có thai, người mẹ sợ chất tanh, phản ứng tự nhiên của cơ thể sinh uạ mửa ( phản ứng không có ý thức xen vào ). Khi cơ thể kém tiêu hóa, bác sĩ khám thấy thiếu men tiêu hóa trong bao tử, cho uống men tiêu hóa active levure chẳng hạn để tạo ra phản ứng chủ động có ý thức xen vào làm cho bao tử tiêu hóa tốt. Còn bán tự động do kích thích huyệt nội dược làm hưng phấn chức năng tiêu hóa thì phản ứng thần kinh cũng tiết ra hormone làm tăng men tiêu hóa cho bao tử mà không cần dùng men tiêu hóa bên ngoài đem vào cơ thể.

Những phản ứng hóa học tự động vô ý thức, chủ động có ý thức và bán tự động do kích thích lại phần lớn lệ thuộc vào bên ngoài cơ thể là môi trường tình cảm, trình độ văn hóa, văn minh khoa học, nghệ thuật, phong tục, tập quán, thói quen.. ở mỗi người mỗi khác. Thí dụ như dân xứ nghèo lạc hậu, phong tục còn ăn bốc ở dơ, họ không sợ bệnh, do hệ miễn nhiễm ( là THẦN ) đã quen và tạo ra vệ khí mạnh, ngược lại chúng ta chỉ nhìn thấy cũng thấy ghê sợ và bị bệnh, nếu bị ép ăn như họ sẽ sinh bệnh nặng do ảnh hưởng của thần tác động xấu, ức chế thần kinh do sợ hãi.
Thần cũng có ngũ hành lệ thuộc vào những biến động tâm lý tình cảm : vui ( hỏa), lo ( thổ), buồn ( kim), sợ ( thủy), giận ( mộc ).

Bộ ba tinh-khí-thần bẩm sinh ( tiên thiên ) và do học hỏi (hậu thiên ) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo phản ứng hóa học trong cơ thể gọi là sự khí hóa. Theo tây y, thức ăn chuyển hóa thành nhiệt lượng calories, thành protide, glucide, lipide, và vitamines, chất khoáng.. Nhưng chuyển hóa được bao nhiêu, ít hay nhiều, thu nhận hay đào thải, theo đông y chúng đều lệ thuộc vào bộ ba tinh-khí-thần, vì mặc dù thức ăn giầu chất bổ, nhưng ăn không vui, ăn trong tủi nhục, giận hờn, chỉ nhét vào miệng cho đỡ đói, chẳng khác nào như bỏ đất vào miệng, sự khí hóa sẽ không chuyển hóa để thu nhận tối đa được, nếu ép ăn sẽ bị ói mửa sinh bệnh. Ngược lại các nhà nông quanh năm ăn cơm dưa muối, phân chất thành phần dinh dưỡng chẳng có gì mà họ vẫn khỏe mạnh hơn chúng ta, vì họ ăn với tinh thần vui vẻ như thi sĩ Tản Đà viết :’’ Cơm dưa muối khó khăn mới có. Của không ngon nhà khó cũng ngon. Khi vui câu chuyện thêm dòn. Chồng chồng, vợ vợ, con con, một đàn ‘’. Chúng ta phân chất thành phần dinh dưỡng trong cỏ khô cũng chẳng có gì, chỉ như rác, nhưng con bò ăn với tinh thần vô tư vui vẻ, thế mà cơ thể nó đã tạo ra sữa, máu, thịt. là những chất bổ dưỡng nuôi được con người.

Cho nên con người khỏe mạnh hay bệnh tật đều do bộ ba tinh-khí-thần điều khiển sự khí hóa tốt hay xấu. Nếu giúp cho sự khí hóa tốt bằng ăn uống hoặc dùng ngoại dược thì phải biết cái mà cơ thể đang cần để hưng phấn hay ức chế thần kinh tạo ra phản ứng hóa học cần thiết, nếu không cơ thể tạo ra phản ứng xấu làm cho bệnh trầm trọng thêm.

Vì thế bệnh cao áp huyết xét theo quy luật khí hóa giữa thủy với hỏa trong cơ thể thì hai yếu tố này quá chênh lệch, không quân bình hòa hợp. Có thể hỏa nhiều hơn thủy do TINH ăn uống những chất cung cấp nhiều nhiệt khí, ít hàn khí, do KHÍ hoạt động của tâm khí mạnh hơn thận khí, do THẦN biến động bởi tâm thần, tình cảm thiên về lo nghĩ, sợ hãi, giận hờn, bực tức. Nếu lo lắng thì ăn không tiêu hóa, sợ hãi thì thận khí không hoạt động, giận hờn bực tức thì mộc sinh hỏa khiến tâm tánh nóng nẩy. Khi hai yếu tố thủy-hỏa do sự khí hóa của tạng thận và tạng tâm bất bình thường thì khó có thể tìm ra nguyên nhân nào để điều chỉnh lại thức ăn thuốc uống cho phù hợp với nhu cầu mà cơ thể đang cần.

Nhưng điều chỉnh sự khí hóa thủy-hỏa bằng phương pháp khí công sẽ dễ dàng và có hiệu qủa. Vì Tinh-Khí-Thần trong cơ thể muốn khí hóa được tốt phải nhờ vào hơi thở tạo ra tông khí để tăng cường sự hoạt động của tinh-khí-thần, ngoài ra khí chuyển hóa thức ăn thuốc uống của lục phủ ngũ tạng có thể điều chỉnh được bằng huyệt để kích thích thần kinh bán tự động, để thần kinh tự điều chỉnh khí hóa lập lại quân bình của thủy-hỏa làm cho áp huyết được ổn định tự động.

3-CÁCH KHÁM BỆNH BẰNG KHÍ CÔNG :
Để tìm hiểu sự kỳ diệu của khí công tác động lên huyệt làm cân bằng sự khí hóa trong cơ thể như thế nào, chúng tôi xin cống hiến cho qúi vị cách tự khám và tự chữa bệnh cholestérol và bệnh cao áp huyết cho chính mình và cho người khác theo phương pháp sau :

Có những vị đang điều trị bệnh cao áp huyết theo tây y thì biết chắc là mình có bệnh cao áp huyết, tuy nhiên cách thử xem mình có bệnh cao áp huyết hay không cũng dễ dàng ai cũng có thể thử được, không cần phải có máy đo áp huyết.

Thử cholestérol trên ngón tay giữa (thứ ba ):
Để ngửa bàn tay trái tự nhiên, trên lòng bàn tay phải, dùng ngón tay cái của bàn tay phải gấp ngón tay giữa của bàn tay trái cho vuông góc ở đốt ngón ngoài .

Nếu mềm nhũn, bẻ vào không đau hoặc bẻ vào vuông góc cũng không đau là không có cholestérol. Nếu bẻ chưa vuông góc đã đau nhiều, không thể bẻ vào cho vuông góc được là có cholestérol ở động mạch, màng bao tim và trong máu.

Thử cao áp huyết trên ngón tay áp út (thứ tư ) :
Bẻ gập đầu ngón tay thứ tư bàn tay trái, chưa vào vuông góc đã bị đau là có bệnh cao áp huyết. Tùy theo đau nhiều là áp huyết cao nhiều, đau ít là áp huyết cao ít. Khi áp huyết đang phát triển thì trán nóng, mặt đỏ, đầu mũi đỏ, thở hổn hển, ưa cáu giận, la hét, bực bội, bàn tay nóng, có thể hơi ẩm mồ hôi. Có người mặt đỏ, trán đỏ, nhưng sờ vào trán mát là không có bệnh áp huyết.

Đau ngón tay thứ tư bên trái là số đo áp huyết đã cao hơn 140mmHg. Nếu đang dùng thuốc trị cao áp huyết, khi bấm vào có độ cứng mà không đau chứng tỏ rằng áp huyết còn, được ổn định do thuốc dãn ống mạch, thực sự áp huyết chưa xuống, chỉ cần một cơn giận dữ áp huyết sẽ lên đột ngột, khi té ngã sẽ đứt mạch thành liệt cứng ,chi co quắp.



Trường hợp đang điều trị bằng thuốc mà bấm ngón tay không đau, mềm nhũn, hãy coi chừng phải đi đo mạch lại, vì áp huyết đã tụt xuống thấp mà không hay, sắc mặt trở thành tái xanh, chóng mặt thiếu máu não, khi bị té ngã sẽ đứt mạch thành liệt, chi mềm nhũn.

Bẻ gập đầu ngón tay vào vuông góc có độ cứng mà không đau, là không có bệnh cao áp huyết.
Bẻ gập ngón tay vào mềm nhũn vô lực là áp huyết thấp, thiếu máu hay bị chóng mặt .
Thử xong hai ngón tay của bàn tay trái xong, tiếp tục thử hai ngón tay 3,4 của bàn tay phải.
Ngón ba của bàn tay phải bị đau chỉ cho biết có cholestérol bên ống tĩnh mạch và màng bao tim.
Ngón tư của bàn tay phải bị đau chỉ cho biết số đo áp huyết số sau trên 90 mmHg.

2-CÁCH ĐIỀU CHỈNH TINH-KHÍ-THẦN CHỮA BỆNH CAO ÁP HUYẾT :

A-Điều chỉnh TINH :
Là cách điều chỉnh thức ăn uống cái nào hợp giúp mau khỏi bệnh, cái nào hại làm cho bệnh không khỏi, càng ngày càng nặng thêm.
Hãy để ý đến các món ăn làm tăng áp huyết cần phải tránh không được dùng như cà rốt, cam thảo, khô mực, gan gà, thịt nướng, các loại mắm ruốc, mắm nêm, trái cây nhãn, xoài, ổi, chôm chôm, sầu riêng, măng cụt, quít, coca, cà phê, thuốc lá, cao hổ cốt, mật động vật, calcium, thuốc trị phong thấp, thuốc trị Parkinson là chất làm tăng áp huyết và tăng nhiệt, nước cốt dừa, đậu phộng, bơ đậu phộng, tôm, cam, sữa đặc, da gà, crème và các loại có nhiều chất béo là chất làm tăng cholestérol, sâm và các loại thuốc bổ khí và huyết sẽ làm xáo trộn áp huyết, khi cao qúa khi thấp qúa, hại cơ tim và mạch đập nhanh, tránh ăn no, ăn nhiều, bao tử bị căng ép dội lên buồng tim làm co thắt tức ngực ( angine )làm mệt tim, khó thở ....

B-Điều chỉnh KHÍ :
Điều chỉnh khí bằng huyệt :
Có hai phương pháp dùng huyệt : Phương pháp thứ nhất là day bấm huyệt tác động trên kinh mạch vật chất định hình để điều chỉnh sự khí hóa kinh mạch tái lập quân bình sự khí hóa của tổng thể ngũ hành, phương pháp thứ hai là vuốt huyệt truyền khí trên kinh mạch vật chất vô định hình, dễ làm và hữu hiệu hơn, qúy vị có thể tìm hiểu thêm ở bài Khả năng chữa bệnh kỳ diệu của huyệt.



Cả hai phương pháp đều là điều chỉnh sự khí hóa trên hệ nội dược ( système endocrine ) qua hệ thống kinh mạch huyệt đạo bằng các công thức phối hợp huyệt khác nhau, bỏ qua phần lý luận chuyên môn tại sao phải dùng huyệt này, không dùng huyệt kia, nếu có dịp chúng tôi sẽ nói đến ở đề tài chuyên môn khác trong bài chữa bệnh bằng huyệt.

a-Phương pháp day bấm huyệt :
Những huyệt có kết qủa để làm hạ áp huyết được an toàn ổn định là Lao Cung, Đại Lăng, Phục Lưu,Chiếu Hải.
Cách áp dụng :
Dùng đầu ngón tay cái phải, hay đầu bút bi bấm đau (gọi là tả) vào huyệt Lao Cung, trong lòng bàn tay trái của mình, người có bệnh cao áp mới bấm vào huyệt này cảm thấy đau như kim đâm,bấm mạnh và giữ lâu từ 1 phút trở lên bao giờ cảm thấy bấm vào không bị đau nữa mới chuyển sang huyệt Đại Lăng ở giữa cổ tay, cũng bấm đau như huyệt trước cho đến khi hết đau.Hãy để ý trước khi bấm huyệt thì trán nóng, hai ngón tay giữa và áp út gập vào cứng và đau, sau khi bấm thì trán mát, có khi còn xuất rịn mồ hôi, còn hai ngón tay bây giờ mềm gập bẻ vào dễ dàng. Sau đó dùng ngón tay cái day lâu từ 1 phút trở lên vào huyệt Phục Lưu ở hai chân, có cảm giác hơi đau ( gọi là day bổ ), rồi day bổ đến huyệt Chiếu hải ở hai chân cho đến khi cổ họng trào nước miếng, ướt lưỡi và đầu cảm thấy mát hẳn. Đó là nguyên tắc cắt hỏa nhiệt của tim mạch làm giảm trương lực mạch và bổ thủy cho thận làm giảm thân nhiệt.

Khi day bấm các huyệt này, hệ nội tiết tạo phản ứng điều chỉnh ra thuốc tự chữa bệnh, giống như khi uống thuốc vào, hệ thần kinh cũng tạo phản ứng tiết ra thuốc (nội tiết tố ) tự chữa bệnh, do đó huyệt cũng tương đương như thuốc, cần phải day bấm huyệt mỗi ngày 2-3 lần, nên đo áp huyết trước và sau khi bấm huyệt, khi có kết qủa áp huyết ổn định bình thường, hãy để ý, nếu tiếp tục dùng thuốc ngoài ( tây y hoặc đông y ) mà thấy áp huyết xuống càng ngày càng thấp, phải đi khám lại để đổi hoặc bớt số lượng thuốc.

b-Phương pháp vuốt huyệt truyền khí :

1- Trường hợp có bệnh cao áp huyết do ngón tay thứ ba đau nhiều hơn ngón thứ tư. ( Chữa ngọn )
Theo thứ tự, tả hỏa đoạn Tâm bào trước rồi mới Tả kinh Tâm bào sau. Dùng ngón tay cái, tự vuốt hơi mạnh theo chiều từ huyệt Lao Cung đến Đại Lăng. Mỗi đợt vuốt là 18 lần. Có thể vuốt 3 lần một ngày tương đương với kết qủa của 3 lần uống thuốc. Mục đích làm hạ nhiệt ở đầu, ở bàn tay, và làm hạ áp huyết, hạ sốt cấp kỳ, cánh tay vai đau co cứng, hạ cholestérol.
Nếu vuốt ngược lại sẽ làm tăng nhiệt và tăng áp huyết.
Sau khi vuốt tả hỏa đoạn Tâm Bào mới vuốt tiếp đoạn Tả Kinh Tâm Bào như sau : Dùng ngón tay cái tự vuốt hơi mạnh theo chiều từ huyệt Đại Lăng kéo về phía Gian Sứ ( cách cổ tay khoảng 3 ngón tay)


Mỗi đợt vuốt 18 lần giống như cách làm của Tả hỏa đoạn Tâm bào.
Mục đích lấy hết nhiệt hỏa còn dư sót lại trong hệ thống tim mạch sẽ không làm cho ống mạch bị căng cứng khiến áp huyết lên trở lại, nếu làm nhiều lần áp huyết sẽ xuống thấp hơn nữa như ý muốn.
Vuốt cả hai bên bàn tay, tay trái trước, tay phải sau, kiểm chứng lại tình trạng áp huyết bằng cách khám lại độ cứng của hai ngón tay 3,4 một lần nữa xem đã mềm, không đau, khác với lúc khám ban đầu không.
Sau khi làm có triệu chứng như hơi choáng váng, mắt nhìn hơi mờ khoảng 1-2 phút rồi hết, bàn tay mát, ngón tay mền, đầu nhẹ, đo áp huyết thấy xuống, đó chính là thuốc do cơ thể tạo ra theo phản ứng điều chế hợp chất của huyệt tác động lên thần kinh thuộc hệ nội tiết .

2-Trường hợp bệnh cao áp huyết nặng, cứng đau nhiều cả hai ngón tay 3,4 : (Chữa ngừa biến chứng )
Chúng ta vuốt thêm ở cánh tay mặt sau, tính từ khớp cùi chỏ đến khớp xương cổ tay chia làm 4 phần, lấy 1 phần là vị trí huyệt Chi Cấu, nằm trên bờ trong xương lớn. Huyệt Thiên Tĩnh nằm ngay trên chỗ lồi cùi chỏ thuộc phần cánh tay trong, nơi có lỗ trũng. Cách vuốt : Vuốt 6 lần, cánh tay trái trước, cánh tay phải sau. Dùng ngón tay cái bấm mạnh vào huyệt Thiên Tĩnh rồi vuốt xuống huyệt Chi Cấu theo mũi tên trên hình vẽ.


Nên bôi dầu vaseline hay dầu nóng cho trơn để dễ vuốt.
Vuốt xong hai bên cánh tay, rồi kiểm chứng lại xem ngón tay thứ tư còn cứng và đau hay không, nếu bên nào còn đau thì vuốt lại bên đó 6 lần nữa.
Mục đích tả hỏa đoạn Tam tiêu để giảm áp lực của khí và huyết ở thượng tiêu đã làm đau đầu, đau tim ngực, thở hổn hển khò khè và những co rút ở khớp tay vai cổ..
Nếu có bệnh cao áp huyết, chúng ta nên vuốt huyệt ngày 2-3 lần đỡ phải dùng hóa chất tây dược nhiều gây ra phản ứng phụ không có lợi cho sức khỏe.

3-Chữa gốc điều hòa tâm thận, ổn định áp huyết không tái phát.
Chúng ta vuốt thêm hai đoạn Bổ Bàng Quang và BổThận ,chân trái trước, chân phải sau theo chiều mũi tên trên huyệt.

C-Điều chỉnh THẦN :
Ngoài việc thực hiện sử dụng huyệt thay thuốc để chữa bệnh, chúng ta thường xuyên đi bác sĩ gia đình đo lại áp huyết, nếu áp huyết xuống hoặc ổn định, yêu cầu bác sĩ cho giảm liều thuốc xuống để tránh rủi ro áp huyết tụt thấp bị té ngã sẽ tê liệt tứ chi mềm vô lực.

Bấm huyệt là điều chỉnh khí, kiêng khem về ăn uống là biết điều chỉnh tinh ( chất bổ của đồ ăn ), còn phải biết điều chỉnh thần , lúc nào cũng vui vẻ, lạc quan, yêu đời, nên tránh trầm uất, lo lắng, giận hờn, la hét, cáu kỉnh, sẽ làm tăng yếu tố cao áp huyết. Một trong ba yếu tố Tinh-Khí-Thần mất quân bình thì bệnh tật không bao giờ hết.

Ngoài việc chủ động giữ tinh thần điềm đạm để tránh tính tính thay đổi bất ngờ làm đảo lộn khí huyết kinh mạch dễ gây tai biến mạch máu não, chúng ta còn phải tập động công và tập thở tĩnh công theo các bài chỉ dẫn sau :

1-Cách điều chỉnh thăng bằng: Hạc tấn mở mắt :
Theo lý thuyết '' Ý tập trung ở đâu, khí sẽ theo đến đó, khí đến đâu huyết sẽ theo đến đó '', cho nên bài tập này sẽ tập đứng trên một chân để giữ thăng bằng cho cơ thể, vô tình khí và huyết đi xuống tập trung vào bàn chân, hỏa khí sẽ theo xuống làm giảm áp lực của hỏa trên đầu khiến cho áp huyết xuống.

Cách đứng hạc tấn mở mắt :
Các ngón tay chụm lại như mỏ con hạc, giống như các sợi dây điện chụm lại thành một bó cho chạm mát, sẽ làm rối loạn thần kinh, bắt bộ óc phải tự điều chỉnh hệ thần kinh, hai cánh tay dang ngang vai, các ngón tay úp xuống, đứng một chân, chân kia co cao lên ngang thắt lưng cho đùi song song với mặt đất, còn các đầu ngón chân chỉ xuống đất song song với cẳng chân kia. Cuốn lưỡi lên vòm họng trên, ngậm miệng, hít thở bằng mũi tự nhiên. Đứng như vậy, mỗi bên chân lâu 60 giây trở lên rồi lại đổi chân. Tập đứng 10-15 phút mỗi ngày. Nếu chưa đứng vững sợ ngã, nên đứng dựa tường hoặc tựa một tay vào tường.

Bài tập này cũng đánh giá được tình trạng cao áp huyết nặng hay nhẹ, nếu bệnh nặng sẽ không thể đứng lâu mỗi bên được 30 giây, nếu chỉ đứng được khoảng 5 giây bị mất thăng bằng là bệnh mãn tính, quá nặng do dùng thuốc, nếu dùng thuốc với liều nặng không đúng bệnh một thời gian tay chân run rẩy, chữa lầm sang bệnh Parkinson, áp huyết sẽ càng cao thêm khiến chân tay co rút, lúc đó không thể tập được bài này.

Tại sao phải chụm 5 ngón tay, cuốn lưỡi ngậm miệng? Năm ngón tay gồm 6 đường kinh ( có 4 kinh hỏa, 2 kinh kim ), dùng ý tập trung hỏa xuống chân làm tăng thủy lên hóa bớt hỏa, chân đứng vững làm mạnh kinh thận đem thủy lên họng tạo thành nước miếng, đầu lưỡi thuộc tim cuốn lên hàm trên để nối với Mạch Đốc, phần cuống lưỡi thuộc thận, thông với Mạch Nhâm, hai mạch nối vào nhau khiến cho âm dương hòa hợp, ngậm miệng để giữ khí và tích lũy khí.

2-Cách điều chỉnh âm dương hòa hợp :
Áp dụng cả 2 bài tập mỗi ngày :
Bài tập 1 : Đứng lên, ngồi xuống trên hai gót chân .( 20 lần)
Bài tập này giữ cho cột sống thẳng trong lúc tập, làm mạnh chân thuộc âm, thư giãn gân cơ đùi, đầu gối, nhón gót khi đứng ngồi sẽ kích thích huyệt Phục Lưu để bổ thận thủy đưa thủy khí lên để hạ áp huyết, ý tập trung ở hai bàn chân để chỉ huy động tác nhón gót, hạ gót cong ngón chân lên, cho đúng và nhịp nhàng với hơi thở, thì khí và huyết dẫn hỏa xuống theo, giúp thủy hóa khí theo cột sống đi lên mạch Nhâm-Đốc, âm dương sẽ được điều hòa. Người bị cao áp huyết lâu, đầu gối bị cứng khó ngồi, phải tập từ từ, nếu không thể tự đứng một mình, nên đứng vịn tay vào chỗ nào chắc chắn (như nắm cửa, lan can, thành giường..), hoặc cần phải vịn nhẹ 10 đầu ngón tay vào tường. Cuốn lưỡi, ngậm miệng, lưng thẳng, tập theo từng động tác sau :

Động tác 1- Hít vào:
Nhón hai gót chân cao lên từ từ theo hơi thở vào.
Động tác 2- Thở ra :
Hai gót vẫn nhón, lưng thẳng, hai tay vịn tường, từ từ ngồi xuống theo hơi thở ra cho đến khi mông chạm vào hai gót chân mới hết giai đoạn thở ra. Nếu mông chưa chạm được vào gót chân là còn bệnh cao áp huyết và phong thấp làm cứng gân mạch chân đùi. Cứ tiếp tục hạ thấp xuống được bao nhiêu hay bấy nhiêu, vừa hạ xuống vừa thở ra từ từ, sẽ làm gân đùi mềm hơn, (nếu trong khi hạ xuống mà nín thở, đùi sẽ cứng không ngồi xuống thấp được ), khi hạ thấp người cột sống lưng phải thẳng, không để lưng cong, hoặc khom xuống.
Động tác 3- Hít vào :
Gót vẫn nhón, lưng thẳng, tay vịn tường, đứng lên từ từ theo hơi thở hít vào, người thẳng như cũ, tiếp tục nhón gót lên cao mới hết giai đoạn hít vào.
Động tác 4- Thở ra :

Hai gót từ từ hạ chạm đất theo hơi thở ra, người đứng thẳng, rồi cho các ngón chân cong lên mới hết giai đoạn thở ra. Cong đầu ngón chân tạo thế mất thăng bằng cho ý tập trung để điều chỉnh lại thế thăng bằng cho cơ thể, bắt ý phải tập trung xuống dưới nhiều hơn để áp huyết xuống theo, khi cong ngón chân lên khí huyết sẽ chạy ra đến đầu ngón chân, làm mềm cổ chân và ngón chân, làm thông hai huyệt âm dương kiều mạch ở chân ( Chiếu Hải, Thân Mạch ) giúp cho thận hoạt động mạnh sẽ giảm nhiệt khí trong cơ thể.

Bài tập 2 : Điều hòa âm dương 4 nhịp : (20 lần ).
Khi đã tập quen bài tập 1, tay không cần vịn tường mới tập sang bài tập 2. Bài tập này có 4 động tác, vừa luyện ý, vừa luyện thần, điều chỉnh cho hai tay thuộc dương, hai chân thuộc âm lên xuống hòa hợp, khi lên cao là lên dương, các ngón tay phải chỉ xuống đất là âm, khi ngồi xuống thấp là âm, các ngón tay phải chỉ hướng lên trời là dương, theo nguyên tắc trong dương có âm, trong âm có dương ,thuận theo quy luật khí hóa của trời đất, vừa bảo toàn năng lượng, vừa tạo ra một lực khí hóa tự động ( giống như khi hít vào là dương, phải tự động thở ra là âm, cứ một âm một dương thay đổi liên tục). Nguyên tắc ở hai bàn tay của bài tập này là ‘ âm thăng, dương giáng ‘ , gồm 4 động tác sau :
Động tác 1- Hít vào :
Hai cánh tay song song thân người, cuốn lưỡi, ngậm miệng, khí hít vào, hai cánh tay thẳng nâng lên phía trước mặt độ cao ngang bằng vai, các ngón tay chỉ xuống đất, bàn tay mềm, không được căng cứng, bàn tay đang ở vị thế âm thăng, cùng lúc hai gót chân cũng nhón lên cao hết mức, hai động tác tay chân làm cùng một lúc theo hơi thở vào, khi xong động tác thì vừa hết hơi thở vào, ý điều chỉnh tinh-khí-thần để giữ thăng bằng cho chân, nên khí huyết phải xuống theo giúp cho mạnh chân, gối, các ngón chân và móng chân từ từ đỏ hồng lên.



Động tác 2- Thở ra :
Đổi chiều bàn tay các ngón tay hướng lên trời ở vị thế âm thành dương, lưng thẳng, vẫn nhón gót cao, khi thở ra từ từ ngồi xuống cho mông chạm gót, hai cánh tay tiếp tục hạ xuống kéo ra sau lưng, lúc đó mới hết một hơi thở ra, bàn tay lúc đó vẫn úp song song với mặt đất, các ngón tay hướng phía trước, bàn tay ở vị thế dương giáng .

Động tác 3- Hít vào :
Đổi chiều bàn tay dương thành âm, gập bàn tay vào cổ tay, lúc đó lòng bàn tay hướng lên trời các ngón tay chỉ ra sau, bắt đầu hít vào từ từ, vẫn ngồi, kéo hai cánh tay ra trước nâng lên cao song song ngang tầm mắt, ngang bằng vai, khi tay dừng lại thì tiếp tục giữ lưng thẳng từ từ đứng thẳng lên, vẫn nhón gót cao, động tác tay và chân làm vừa xong mới xong hơi thở vào, bàn tay ở vị thế âm thăng như vị thế của tay ở động tác 1.

Động tác 4- Thở ra :
Hai cánh tay đang ở song song trước mặt, ngón tay chỉ xuống đất, bây giờ đổi chiều bàn tay âm thành dương, lòng bàn tay hướng ra ngoài, ngón tay chỉ lên trời, bắt đầu thở ra từ từ cùng lúc hai cánh tay hạ xuống, gót chân hạ theo, tiếp tục kéo cánh tay ra tới sau lưng, lòng bàn tay lúc đó đang úp song song với mặt đất, các ngón chân nâng ngửa lên, tạo thế mất thăng bằng cho ý phải tập trung để điều chỉnh lập lại thăng bằng, lúc đó mới xong hơi thở ra, bàn tay ở vị thế dương giáng.

3-Cách điều chỉnh thần kinh ở đầu,cổ, gáy :
Tục ngữ thường nói sợ đứng tim, sợ vãi đái, giận căm gan.. tất cả những thay đổi tâm lý bất thường ấy quá mức chịu đựng của thần kinh sẽ tạo ra phản ứng xấu cho sức khỏe. Bệnh cao áp huyết lệ thuộc vào sự khí hoá của gan ,thận, tim mạch, nếu do tâm lý biến đổi sẽ làm áp huyết không ổn định ,mặc dù có dùng thuốc. Cho nên cách điều chỉnh thần kinh là để tăng cường và bảo vệ sự dao động của thần kinh được ổn định, áp huyết không bị xáo trộn, và giúp mau hồi phục sự quân bình âm dương của tạng phủ để có khả năng tự điều chỉnh áp huyết trở lại bình thường nhanh chóng.

Điều chỉnh thần kinh ở đầu cổ gáy có 7 bài tập. Nếu tập đủ theo thứ tự, có thể ngăn ngừa và chữa được tai biến mạch máu não.

Bài tập 1 : Cào đầu (10 lần)
Dùng 10 đầu ngón tay, để từ trước trán, cào mạnh, nhanh ra phía sau gáy ở 3 giải, giải 1 sát vành tai, giải 2 từ góc trán, giải 3 giữa đỉnh đầu. Để ý vùng da đầu chỗ nào đau là nơi đó tắc nghẽn do sung huyết, huyết tụ, vón máu.. cào như vậy máu tắc tụ ở đó sẽ tan đi và phân tán đều ra chỗ khác. Còn chỗ nào cào, ấn vào không cảm thấy đau, chỉ thấy tê, nặng, mất cảm giác là nơi đó máu không đến, bị nhức bên trong đầu một bên (thiên đầu thống =migraine )để lâu không chữa sẽ dễ tích tụ thành khối u sọ não. Dù cảm thấy đau hay không, cứ cào 10 lần, trong ngày cào nhiều lần để kích thích thần kinh hưng phấn, tỉnh táo, khí huyết lưu thông dễ dàng, các chứng bệnh đau đầu sẽ hết, ngừa được bệnh sung huyết não gây tai biến mạch máu não, nhưng buổi tối trước khi đi ngủ không được cào đầu sẽ làm tỉnh táo mất ngủ. Còn ban ngày, tinh thần bần thần mệt mỏi, ưa buồn ngủ, nên cào đầu làm hưng phấn thần kinh chống cơn buồn ngủ.

Bài 2 : Cào gáy (10 lần ).
Khi bị cao áp huyết, sau đầu gáy thường hay bị nhức, cứng cổ gáy, do huyết tắc nghẽn, xoay trở đầu cổ khó khăn. Hãy đè 10 đầu ngón tay ở giữa gáy, trên chân tóc, cào ra phía ngoài, để giải tắc khí huyết trong các động mạch và thần kinh bị nghẽn, nếu bị tắc, máu lên mà không xuống gây nhức đầu, máu xuống mà không lên gây chóng mặt, cũng tại chỗ này tập trung nhiều huyệt chữa mắt, giúp mắt sáng lên và không bị mỏi mắt.
Cào gáy thành 3 giải ngang :


a-Giải trên gáy, cào ngang đến tai trên : làm sáng mắt.
b-Giải giữa gáy, cào ngang đến chân tai : chữa hoặc ngừa cảm cúm.
c-Giải dưới nơi chân cổ gáy : cào ngang đén hõm vai : Chữa đau mỏi cổ gáy vai.

Bài 3 : Chà gáy quay cổ (10 lần ).
Đan 10 ngón tay lại, để ra sau gáy, vừa chà qua chà lại sau gáy vừa quay cổ, nhiều lần trong ngày để làm mềm dẻo động mạch sau gáy, hai bên cổ gáy, làm thư giãn và nhẹ được đầu, cổ, gáy,vai.

Bài 4 : Vuốt gáy quay cổ (10 lần )
Bàn tay phải vòng sau gáy, để vào chân tai trái, vuốt về bên tai phải, quay đầu về bên phải. Rồi đổi tay trái vòng sau gáy, để vào chân tai phải vuốt về bên tai trái, quay đầu về bên trái.


Cứ vuốt bên này, bên kia kể là một lần, vuốt 10 lần, và vuốt nhiều lần trong ngày.
Người có bệnh cao áp huyết, vùng chân tai hơi sưng to, lấy 5 ngón tay chụm lại gõ vào chân tai thấy đau, do huyết tụ căng cứng ở động mạch sau tai làm rối loạn thần kinh tiền đình khi đi sẽ lảo đảo mất thăng bằng.

Bài 5 : Vuốt cổ quay cổ (10 lần )
Bàn tay phải bắt chéo qua gáy trái vuốt xuống giữa cổ, quay cổ sang trái. Rồi đổi tay trái bắt chéo qua gáy phải vuốt xuống giữa cổ, quay cổ sang phải. Cứ mỗi bên vuốt một cái kể là một lần. Vuốt 10 lần,và vuốt nhiều lần trong ngày. Nó làm giãn, dẻo dai, bớt căng cứng động mạch cảnh quanh cổ giúp máu lưu thông dễ dàng và làm hạ áp huyết do tắc động mạch cảnh..

Bài 6 : Chà tai (10 lần )
Để ngón tay cái và ngón trỏ sau tai, 3 ngón còn lại phía trước tai, tất cả 5 ngón áp sát vào da mặt, kéo hai bàn tay chà lên cao khỏi đỉnh tai và kéo chà xuống dưới chân tai, cứ chà lên chà xuống nhiều lần, mỗi lần 10 cái. Hai tai thuộc thận, chà kích thích vùng tai giúp thận khí dương đi lên, đem sức nóng của tâm hỏa đi xuống, làm cơ thể ấm lên, áp huyết được ổn định. Người nào thường cảm thấy lạnh khi đi ra ngoài nên chà tai làm ấm đầu cổ và tăng thân nhiệt. Động tác này kích thích thần kinh tam thoa, thần kinh ngoại biên, trị bệnh trúng phong, liệt mặt, méo miệng, đớ lưỡi, điếc tai, bài tập này tránh được tai bị ù khi đi máy bay và ngừa được cảm lạnh phong hàn.

Bài tập 7 : Xoa mặt hình số 8 ( 10 lần )
Úp hai bàn tay song song vào giữa mặt, xoa sang góc trán phải kéo qua tai xuống hàm phải, chéo qua mũi lên góc trán trái, vòng qua tai trái xuống hàm trái, rồi lại chéo qua mũi lên góc trán phải, là đã hết một vòng số 8, đi đều khắp mặt mũi tai như rửa mặt khô, có tác dụng điều chỉnh âm dương, nóng lạnh trên mặt ( bên có cảm giác, bên mất cảm giác trong bệnh liệt một bên mặt ), chữa và ngừa liệt mặt, méo miệng, mắt xếch, kích thích máu nuôi da mặt tươi mịn, hồng hào, chữa mỏi mắt, cận thị, viễn thị, cườm mắt, mắt khô, quầng mắt thâm đen, đau tai, điếc tai, tê da mặt, đầu mũi lạnh, đau đầu trán, sổ mũi hắt hơi, da mặt khô, nổi mụn trứng cá.

4-Cách điều chỉnh bằng hơi thở.
Sau 9 giờ tối không được uống nước sẽ bị đi tiểu đêm làm mất ngủ, làm cho chức năng thận thủy hư yếu không khắc chế được hỏa của bệnh cao áp huyết.

Trước khi đi ngủ nửa giờ, nằm ngửa trên giường, đầu thấp, kê gối thấp hoặc không cần gối, hai gót chân chạm nhau. Cuốn lưỡi ngậm miệng, hít thở bằng mũi, hai bàn tay úp chồng lên bụng, khoảng dưới rốn ( đan điền tinh huyệt Khí Hải ) nam đặt bán tay phải ở dưới, bàn tay trái ở trên, nữ đặt bàn tay ngược lại . Nhắm mắt nghe và theo dõi hơi thở tự nhiên ở bụng nơi đan điền tinh xem có gì chuyển biến ở bụng nơi đặt tay.

a-Tập nghe hơi thở :
Khi thở vào nhẹ : Có nghe cảm giác bụng hơi phồng lên hay không.
Khi thở ra nhẹ : Có nghe cảm giác bụng hơi xẹp xuống hay không.
Nhớ là bụng phồng-xẹp theo hơi thở tự nhiên, không được cố ý gồng lên. Nếu bụng chưa phồng-xẹp tự nhiên thì phải tập luyện thành thói quen thuần thục trở thành một phản ứng tự nhiên.

b-Tập kiểm soát hơi thở :
Khi bụng phồng-xẹp tự nhiên theo hơi thở, lúc đó bắt đầu đếm thầm trong đầu cứ mỗi lần phồng lên, xẹp xuống đếm là 1 lần, rồi phồng-xẹp 2, phồng-xẹp 3, phồng-xẹp 4, phồng-xẹp 5, phồng-xẹp 6, phồng-xẹp 7, phồng-xẹp 8, phồng-xẹp 9, phồng-xẹp 10, rồi đếm trở lại từ phồng-xẹp 1 đến 10, nhiều lần.

Khi tập, đừng nản chí, đếm tới mấy ngàn lần cũng không sao, nó có hai điều lợi, khi còn tỉnh thức để đếm và theo dõi hơi thở thì thần kinh được thư giãn, cơ thể đang điều chỉnh khí huyết để tự chữa bệnh , vì ý tập trung ở bụng, nên khí huyết đến theo, giúp điều chỉnh khí hóa tam tiêu tốt, tâm, thận, âm dương hoà hợp, áp huyết và thân nhiệt trở lại bình thường. Khi hôn trầm ( buồn ngủ ), chúng ta quên đếm là đã rơi vào giấc ngủ sâu không mộng mị mà không cần dùng đến thuốc ngủ.( Qúy vị xem thêm chi tiết ở bài Dưới mắt khoa học tập thở khí công có lợi hay không ? để áp dụng tự phòng bệnh và chữa bệnh bằng hơi thở ).

Tóm lại, chúng ta đã biết nguyên nhân gây bệnh dù ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài, bên trong, do thời tiết, môi trường, do ăn uống ngủ nghỉ sai lầm, không điều độ, dùng thuốc không thích hợp với cơ thể làm cho sự chuyển hóa của hệ thống tinh-khí-thần mất hòa hợp. Theo đông y, khí mất thì hình suy ( cơ thể bị bệnh ), nói như vậy thì khí là quan trọng để có thể điều chỉnh lại sự khí hóa âm dương ngũ hành của tạng phủ cho tinh-khí-thần hòa hợp lại, đó là chúng ta đã biết dùng khí công tự chữa bệnh cho mình. Đã có nhiều người theo phương pháp này tự chữa được bệnh cao áp huyết ổn định bình thường trong vài năm nay mà không có một triệu chứng xấu nào xảy ra. Mong qúy vị cố gắng tập luyện thường xuyên bền bỉ để bệnh cao áp huyết được mau bình phục.

PHẦN BỐN:  BỆNH CAO ÁP HUYẾT CHỮA BẰNG ĂN UỐNG


Biểu hiện lâm sàng của bệnh huyết áp cao có 5 triệu chứng phân biệt khác nhau nên cách chữa khác nhau .Biết phân biệt đúng thì việc điều trị sẽ có kết qủa .

a-CAO ÁP HUYẾT DO GAN NÓNG ( Dương cang can nhiệt thịnh ).
Dấu hiệu lâm sàng :
Nhức đầu, váng đầu, căng đau, trán nóng, buồn bực, hay cáu giận, họng ráo miệng khô, thích uống nước mát, đại tiện khô, nước tiểu vàng ,chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.

ĂN : Cữ thức ăn cay nóng, ớt ,gừng, cà rốt ,các loại mắm, hút thuốc uống rượu, các chất lên mem làm hại gan ,các chất dầu mỡ chiên xào, chất béo làm tăng cholesterol làm hại gan thêm. Nếu mỡ trong máu cao làm xơ cứng động mach, thường xuyên ăn sơn tra ,dưa chua..Uống nước vắt rau cần hoặc nấu canh rau cần, canh hải đới nhạt ít muối, ăn thường xuyên làm giảm áp huyết và giảm cholestérol. Ăn cháo đậu xanh để thanh nhiệt tả hỏa giải độc. Canh nấm hương làm giãn mach hạ áp huyết.
UỐNG : Nấu nước với 15g dã cúc hoa, 15g hy thiêm thảo uống mỗi ngày làm mát gan hạ hỏa, hoặc thuốc thành phẩm Long đởm tả can hoàn, công dụng làm mát gan ,hạ hỏa, hạ áp huyết, uống theo chỉ dẫn trong toa.
Đề nghị vài món ăn thay thuốc :
1-Cháo rau má :
Nấu cháo gạo tẻ 50g. Rau má tươi 100g, đậu xanh còn vỏ 50g, nêm nếm vừa .Ăn một tuần 2 lần.
2-Cháo hoa cúc :
Nấu cháo gạo tẻ 100g, hoa cúc khô 10 cái, nêm nếm vừa ăn.

b-CAO ÁP HUYẾT DO CHỨC NĂNG GAN THẬN.(Âm hư dương can thịnh ).
Dấu hiệu lâm sàng :
Nhức đầu, váng đầu, căng đau, dễ cáu giận ,họng khô, lưỡI khô, rêu lưỡi khô, sắc lưỡi đỏ non, miệng ráo ,lưng gối nhức mỏi ,lòng bàn tay nóng, chân lạnh.
ĂN : Cữ ăn chua và mặn nhiều vì chua nhiều làm hại gan, mặn nhiều làm sưng chân.
UỐNG: Dùng thuốc thành phẩm Cao áp huyết tốc giáng hoàn hoặc Tri bá địa hoàng hoàn, công dụng bổ thận điều hòa gan ,lòng bàn tay sẽ mát, hết nhức mỏi lưng gối, áp huyết sẽ xuống. Uống khi áp huyết xuống thấp dưới 120/80 mmHg thì không nên uống nữa.
Uống với nước nóng ngày hai lần theo chỉ dẫn trong toa.
Đề nghị vài món ăn thay thuốc :
1-Cháo sò huyết :
Nấu cháo gạo tẻ 100g, sò huyết 10 con, trứng muối 1 qủa, nêm nếm vừa ăn.
2-Canh cá qủa :
Nấu canh cá qủa 1 con 300g, Rau muống 200 g, cần tây 100g, nêm nếm vừa ăn.

c-CAO ÁP HUYẾT DO TỔN THƯƠNG GAN THẬN.( Can thận âm hư ).
Dấu hiệu lâm sàng :
Váng đầu hoa mắt ,mắt mờ, hay quên, mất ngủ, rêu lưỡi ít, sắc lưỡi đỏ non, táo bón, lưng gối nhức mỏi.
ĂN : Cữ ăn nhiều chua, mặn, cam, chanh và chất béo . Nên nấu canh mộc nhĩ đan để bổ gan thận..
UỐNG : Dùng thuốc thành phẩm Kỷ cúc địa hoàng hoàn, công dụng bổ thận, mát gan, sáng mắt, hạ áp huyết, uống với nước nóng theo chỉ dẫn trong toa.
Đề nghị món ăn thay thuốc :
Cà rốt hầm thịt heo :
Cà rốt 200g, thịt nạc heo 150g, đậu cô ve 100g, nêm nếm vừa ăn.

d-CAO ÁP HUYẾT DO KHÍ HUYẾT GAN THẬN HƯ (Âm dương lưỡng hư ).
Dấu hiệu lâm sàng :
Triệu chứng gồm trường hợp ba là tổn thương gan thận lại có thêm hiện tượng tiểu đêm nhiều lần, chân hay lạnh.
ĂN : Cữ ăn cam, chanh, nước đá ,kem ,đậu xanh ,mướp đắng ,bí đao, dưa hấu và những chất mát làm đi tiểu đêm nhiều và làm cơ thể lạnh thêm.
UỐNG : Dùng thuốc thành phẩm Lục vị địa hoàng hoàn ,công dụng điều hòa khí huyết, điều hòa tam tiêu ,làm ấm thận, hết đau lưng mỏi gối ,giữ cho áp huyết trở lại bình thường mà không làm áp huyết xuống thấp, mọi người đều dùng làm thuốc bổ để điều hòa âm dương ,khí huyết cho cơ thể mà không sợ áp huyết tăng.
Đề nghị món ăn thay thuốc :
Cần tây xào thịt ngỗng :
Thịt ngỗng nạc thái mỏng, ướp gia vị mắm muối vừa đủ, xào bằng dầu thực vật ,khi chín cho cần tây 150 g, xào tiếp cho vừa ăn.

e-CAO ÁP HUYẾT CÓ BIẾN CHỨNG TỤ HUYẾT
Dấu hiệu lâm sàng :
Nhức đầu, trên lưỡi có tụ những nốt đỏ do huyết tụ đó là dấu hiệu trong máu có nhiều lượng đường của bệnh tiểu đường. đầu gối nóng đau hoặc sưng, gan bàn chân nóng, có thể tay chân khi va chạm có vết bầm máu lâu tan.
ĂN : Cữ ăn đường và bánh ngọt hoặc chè ,chocolat, cà phê, cà rốt.
UỐNG: Nấu nước với 15g đơn sâm, 12g ích mẫu thảo ,uống nóng, công dụng làm tan huyết bầm và giúp cho máu lưu thông không bị tụ lại. Có thể dùng thuốc thành phẩm Huyết phủ trục ứ hoàn ,uống theo chỉ dẫn trong toa.
Đề nghị món ăn thay thuốc :
Canh rau hẹ cá rô :
Nấu canh Cá rô 200g, rau hẹ 150g, nêm nếm vừa ăn.

f-BỆNH XƠ CỨNG ĐỘNG MẠCH VÀNH
Bệnh xơ cứng động mạch vành tạo ra cơn đau tim, cơn thắt cơ tim và nhồi máu cơ tim. Theo Tây y do nguyên nhân của bệnh cao áp huyết có nhiều chất calcium và cholestérol trong máu làm tắc nghẽn tuần hoàn huyết của động mạch quanh màng bao tim.

Theo đông y ,ở giai đoạn nhẹ làm đau tim do hai nguyên nhân bên trong và bên ngoài cơ thể làm ảnh hưởng đến bệnh đau tim. Nguyên nhân bên trong có thể do thận hư, tỳ hư, do tâm hư dương bất túc. Nguyên nhân bên ngoài có thể do nhiệt tà, hàn tà, làm cơ thể bị khí trệ, ứ huyết, đàm trọc .Vì do nhiều nguyên nhân kết hợp lại tất nhiên phải có thời gian dài đã làm xáo trộn chức năng của nhiều tạng phủ nên bệnh xơ cứng động mạch vành không phải tự nhiên mà có, nó thuộc loại mãn tính được báo hiệu bằng nhiều triệu chứng khác nhau. Đông y phân biệt tổng quát thành hai loại thực chứng .và hư thực thác tạp. (Bệnh mạch vành không do nguyên nhân hoàn toàn bởi hư chứng gây nên).

A-THỰC CHỨNG :
Đông y phân biệt dấu hiệu lâm sàng riêng biệt để tìm ra nguyên nhân ,nên nguyên nhân của thực chứng do ba yếu tố gây ra bệnh :

a-Chứng thực hàn :
Có triệu chứng đau ngực đột ngột dữ dội, càng gặp lạnh càng đau, rêu lưỡi trắng trơn bóng. Đối chứng trị liệu là phải khử hàn, thông mạch.
Ăn :Không nên ăn những chất hàn như rau xanh, cải xanh, bầu bí, đậu xanh, dưa gía, chè đậu xanh nước cốt dừa, không ăn chanh, cam, canh dưa chua, đồ biển. Nên ăn chất tạo nhiệt ấm như canh gà gừng non.,


Uống : Dùng 10g quế chi, 3g cam thảo, 1 g bạch thược, 10g gừng khô, nấu nước uống.
Hoặc nấu uống nước táo đỏ, hay trà táo đỏ.
Hoặc nấu đậu đỏ nhỏ hột uống nước ăn cái.
Đề nghị món ăn thay thuốc :
1.Cháo cá đậu đỏ :
Nấu 200g đậu đỏ nhỏ hạt với 1 lít cho chín nhừ, cho thêm 50g bột gạo tẻ vào, khuấy đều từ từ cho chín. Ăn với đường hay muối.
2.Cháo thịt dê :
Thịt dê 200 g, rửa sạch, thái nhỏ, ướp muối. Nấu Ba kích 20g, nhục thung dung 30g ( mua ở tiệm thuốc bắc ),với nửa lít nước, sôi cạn còn 300g, chắt nước bỏ cái dùng làm nước ninh nhừ thịt dê .Khi chín, cho gạo tẻ 50g đã xay thành bột vào nồi, khuấy từ cho chín là có thể ăn được.



b-Chứng thực đàm :
Bao tử không đủ nhiệt năng chuyển hoá dưỡng trấp thành huyết mà biến thành đàm, đàm là danh từ bao gồm cả chất béo, cholesterol, chúng ngăn chặn ở ngực, chung quang màng bao tim nên ngực đau tức, buồn nôn, rêu lưỡi trắng dính, nếu là đờm nhiệt (vàng ,sệt, dính ) thì đầu lưỡi đỏ, lòng phiền muộn.
Nếu chỉ do nhiều đờm, nên ăn uống những chất làm tiêu đờm ,kỵ ăn uống những chất sinh ra đờm.
Ăn : Nên ăn quýt, ăn cá. Không nên ăn cam,nước cốt dừa, chất béo ,mỡ, đậu xanh, sữa ,bơ, pho mát,canh cải xanh, kim châm.


Uống : Không nên uống nước mát, nước lạnh. Nên nấu nước uống cho thêm các chất có khí-tính-vị làm tiêu và hạ đờm như dùng 30g qua lâu, 10g pháp bán hạ, 10g phi bạch, 6g hậu phác ,nấu uống như nước trà.

Nếu do đờm nhiệt, nên ăn uống những chất thanh nhiệt hóa đàm.
Ăn : Thường xuyên ăn củ cải, sữa hạnh nhân.
Uống: Dùng 10g pháp bán hạ, 10g vỏ quýt khô, 10g chỉ sác sao, 10g toàn qua lâu ,nấu nước uống thay tra.

c-Chứng khí trệ :
Có dấu hiệu căng đau tức ngực, hay thở dài hơi mới cảm thấy dễ chịu, sắc lưỡi đỏ nhạt, rêu trắng mỏng. Nên ăn uống các chất làm thông hòa khí.
Ăn : Bớt ăn chất dầu mỡ, chất béo, chất bột. Ăn canh cá rô vắt chanh, canh gừng thịt heo nạc. Canh gà già hầm bắc kỳ, kỷ tử, đảng sâm, táo đỏ ( vớt bỏ váng mỡ).
Uống : Dùng 4g mộc hương, 10g uất kim, 3g cam thảo ,nấu nước uống thay trà.

d-Chứng huyết ứ :
Có dấu hiệu ngực đau như kim châm ở một chỗ cố định, chất lưỡi đỏ sậm hoặc có chấm tụ máu. Nên ăn uống các chất làm thông hoạt huyết hoá ứ.


Ăn :Canh kim châm mộc nhĩ.
Uống : Dùng bột Tam thất sống ,ngày 3 lần, mỗi lần nửa thìa nhỏ uống với nước nóng .Hoặc dùng thuốc thành phẩm Huyết phủ trục ứ hoàn, theo chỉ dẩn trong toa.
Đề nghị món ăn thay thuốc :
1.Canh mộc nhĩ đậu hũ :
Mộc nhĩ 30g, ngâm nở, thái nhỏ như miến đun sôi với 350 cc nước, sau thái đậu hũ thành miếng nhỏ bỏ vào và nêm nếm vừa ăn.
2.Chè đậu đen ích mẫu :
Nấu 400cc nước với cây ích mẫu 30g khi cạn còn 300cc, chắt nước bỏ bã, cho 50g đậu đen nấu tiếp cho nhừ rồi cho đường đỏ 30g khuấy cho tan đều là được.
3-Chè Ý dĩ đậu đỏ :
Ý dĩ 30g sao vàng tán bột, 30g ý dĩ không sao cũng tán thành bột. Nấu chín đậu đỏ với 400cc nước rồi cho bột ý dĩ vào, thêm đường đỏ 30g, gừng 2 lát giã nhỏ, khuấy cho chè sôi lại là được.

B-CHỨNG HƯ THỰC GIÁP TẠP:
Phân biệt dấu hiệu lâm sàng khác nhau, đông y tìm ra 5 nguyên nhân nên cách chữa trị cũng khác nhau.
a-Chứng khí hư kiêm ứ huyết :
Có dấu hiệu ngực đau ê ẩm, lúc mệt mỏi bị đau nhói nhiều hơn,tim đăp nhanh, hơi thở ngắn, người cảm thấy không có sức, sắc lưỡi nhạt có chấm tụ máu.


Ăn :Ăn uống cần chú ý đến chất giúp ích khí, hành huyết, thông lạc. Ăn loại canh nào có hành, gừng, nấm thường xuyên.
Ăn chè đậu đen ích mẫu.
Uống : Dùng 15g Hoàng kỳ, 10g Xuyên khung, 30g Đơn sâm ,nấu nước uống chung với nửa thìa nhỏ bột Tam thất sống.

b-Chứng khí hư kiêm ứ đàm :
Có dấu hiệu như kiêm ứ huyết nhưng rêu lưỡi trắng trơn, đờm mầu trắng, tính tình ưa tức giận vô cớ. Cần ăn uống những chất bổ khí, hoá đàm, hoạt huyết.
Ăn :Canh gà gừng non thêm vỏ quít khô.Hoặc canh gà gừng non với hành tây.
Uống: Dùng thuốc thành phẩm Hương sa lục quân tử hoàn chung với Huyết phủ trục ứ hoàn. Ngày uống hai lần chung cả hai thứ mỗi thứ l viên.

c-Chứng âm hư kiêm ứ huyết hoặc đàm.
Sau lúc làm việc mệt mỏi, thường lên cơn đau ê ẩm, chỗ đau cố định nhói như kim châm, hồi hộp, thở ngắn hơi, miệng khô, họng ráo, đổ mồ hôi, yếu sức ,rêu lưỡI ít, có chấm tụ máu, nếu kiêm đàm thì rêu lưỡi trắng trơn, có nhiều đàm ở ngực làm tức ngực, Nếu ứ huyết nên ăn uống các chất giúp ích khí, dưỡng âm, hoạt huyết. Nếu ứ đàm thì thêm chất hoá đàm.
Ăn : Canh mộc nhĩ hoặc canh gà gừng non.
Đề nghị món ăn thay thuốc :
1.Thịt dê hấp đương quy :
Thịt dê 200g rửa sạch, thái miếng ướp muối. Đương quy 50g, gừng tươi 10g giã nhỏ, quế chi bột 15g . Tất cả trộn đều rồi hấp vớI thịt dê cho chín .Ăn lúc nóng, bụng đói, 3 lần một tuần.
2.Cháo lá sen ngải cứu :
Lá sen non 30g, ngải cứu 10g, rửa sạch, giã nhỏ lọc lấy 250 cc nước. Bột gạo tẻ 50g cho vào nước đã lọc nấu thành cháo chín rồi cho 50g đường đỏ.
Uống : Dùng 30g bột hồng sâm, 30g bột mạch đông, 15g bột điền thất, trộn đều, mỗI lần uống 6g với nước nóng, ngày 3 lần.
Uống nước rau cần 30g nấu chín, hoặc luộc chín 150g hành tây, ăn cả hành và uống nước .

d-Chứng can thận âm hư kiêm ứ :
Khi mệt mỏi ngực đau nhói một chỗ cố định, bình thường ngực đau ê ẩm, váng đầu, hoa mắt, hay quên ,lưng gối mỏi, rêu lưỡi khô, ít rêu, có chấm tụ máu, sắc lưỡi đỏ ,phân khô. Nên ăn uống các chất giúp bổ gan thận,trục ứ, thông lạc.
Ăn :Trái dâu.
Thịt dê hấp đương quy (như trên)


Uống : Dùng thuốc thành phẩm Kỷ cúc địa hoàng hoàn để bổ gan thận, chung với Huyết phủ trục ứ hoàn để trục ứ thông lạc. Mỗi ngày hai lần, mỗi làn 1 viên mỗi loại.

e-Chứng dương hư kiêm ứ đàm.
Giúp ôn dương (bổ thận dương), hoá đàm, thông hoạt lạc.
Ăn : Cháo thịt dê hành tây :
Thịt dê non 150g thái nhỏ ướp muối rồi cho 350 cc nước nấu như canh cho chín, sau cho hành tây 30g thái nhỏ, bột gạo tẻ 30g, khuấy đều cho chín.
Uống :Dùng 10g pháp bán hạ, 10g phi bạch, 15g toàn qua lâu, 10g xuyên khung, 10g một dược, 20g đảng sâm, nấu nước uống chung với thuốc thành phẩn Kim qũy thận khí hoàn theo chỉ dẫn trong toa.

Chóng mặt do virus trong tai (labyrithitis) hay rối loạn tiền đình?

Chóng mặt là dấu hiệu chung người ngoài dễ thấy khi bệnh nhân đi lảo đảo có chiều hướng muốn ngã về phía trước hoặc té ngang, còn chính bệnh nhân cảm thấy các vật chung quanh quay vòng hoặc chính mình quay vòng.

TRIỆU CHỨNG :


Chóng mặt chia làm ba mức độ :



a-Chóng mặt nhẹ chỉ có cảm giác hoa mắt, váng đầu do đầu có cảm giác nặng hay rỗng xảy ra ngắn ngủi khi đột nhiên thay đổi tư thế từ ngồi rồi đứng hay từ cúi đầu xuống ngẩng đầu lên.



b-Chóng mặt trung bình vừa có cảm giác choáng váng, vừa có cảm giác mất thăng bằng vài giây. Riêng trường hợp chóng mặt dạng Ménière do rối loạn dịch tai trong có thể làm điếc, thường gặp trong bệnh ở thời kỳ mãn kinh của phụ nữ hoặc ở những người có bệnh thiên đầu thống ( migraine ).



c-Còn trường hợp chóng mặt nặng thình lình bị chóng mặt làm mất thăng bằng dễ bị ngã, thêm vào các triệu chứng khác như ù tai, nôn mửa ..

NGUYÊN NHÂN :
Bệnh chóng mặt do nhiều nguyên nhân như yếu tim, thiếu máu, trúng cảm, suy nhược, áp huyết cao hay thấp, do bệnh mắt cận thị, viễn thị không mang kính đúng độ, say sóng tầu xe, ngộ độc rượu, thuốc salicylate, streptomycine, thương tích ở đầu hoặc bệnh tai mũi, họng, về bệnh lý chia chóng mặt làm hai loại, loại chóng mặt thật có tổn thương thực thể hoặc ngộ độc, khác với bệnh chóng mặt giả, bệnh nhân chỉ cảm thấy nhưng không thấy nhà quay, nguyên nhân do cảm nhiễm trúng gió hay suy nhược tâm-thần kinh, có trường hợp chóng mặt giả tái đi tái lại đã chữa nhiều thầy, uống nhiều thuốc mà không có kết qủa phải nghĩ ngay đến chứng rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn tiêu hóa, hoặc dấu hiệu trầm cảm có 4 triệu chứng chính như buồn vô cớ, ức chế, quy lỗi và muốn chết, hoặc rối loạn cơ vòng về tiêu tiểu hoặc rối loạn giấc ngủ.



Khi Tây y chẩn đoán, cần phải xét nghiệm tìm dấu hiệu tiền đình như rung giật nhãn cầu do bệnh ở cuống não, hoặc quay tròn do bệnh ở hành não, hoặc do suy động mạch đốt sống-thân-nền ( thân=động mạch, nền=đáy sọ não) do tổn thương vữa động mạch gây hẹp và gây huyết khối hay có dấu hiệu Romberg khi đứng hai chân chụm lại nhắm mắt là bị ngã, nhắm mắt khi đi bị lệch, giảm trương lực một bên, hoặc tìm dấu hiệu rối loạn thính giác, đo thính lực đồ kích thích tiền đình hoặc điện rung nhãn cầu đồ, chụp X-quang xương đá, cột sống cổ. Nhưng chóng mặt còn có những nguyên nhân khác như chứng chóng mặt ngoại vi có dấu hiệu khi quay người theo một chiều nhất định thì mất thăng bằng và bị ngã thường kèm theo ù tai hay điếc với rối loạn chức năng thần kinh phế vị và ói mửa, nguyên nhân do bệnh ở tai có virus như viêm tai, viêm mê đạo, viêm tai thanh dịch, hoặc bệnh xốp tai, nút dáy tai, chấn động mê đạo, gẫy xương đá, vữa động mạch nghe trong, mô não bị tổn thương do thiếu máu cục bộ tạm thời, độc tố do thuốc kháng sinh. Còn ngược lại mất thăng bằng nhiều hơn là bị chóng mặt và không có điếc hay ù tai thuộc chứng chóng mặt trung ương ở thân não .



Bệnh chóng mặt do nhiều nguyên nhân như vậy thì không phải chỉ một bác sĩ chuyên khoa có thể khám phá ra được, mà phải do nhiều bác sĩ chuyên khoa khám tai, khám mắt, khám não, khám thần kinh, khám xương tai, xương đá, xương cổ, xét nghiệm vi trùng, virus, chụp X-quang.. mới tránh được quyết định sai lầm khi chữa trị.

Đã có một ca bệnh, bệnh nhân trở thành nạn nhân một cách oan uổng cách đây 10 năm tôi đã gặp, cô ấy khoảng ngoài 30 tuổi, vẫn đi làm, tự nhiên cô bị chóng mặt, chữa trị suốt một năm không khỏi mà càng ngày càng nặng hơn, cô phải nghỉ việc nhưng vẫn được ăn lương, cô không thể đi đứng hay ngồi được, người vẫn khỏe mạnh không suy nhược, chỉ ở tư thế nằm là không chóng mặt, nếu có ngồi thì chỉ lâu được 5 phút, mỗi khi ăn cơm phải ăn trên giường trong tư thế nửa ngồi nửa nằm. Có một bác sĩ cho rằng nguyên nhân do tổn thương cột sống bị chèn ép từ đốt sống cổ dài xuống đốt sống lưng thứ tư do phim chụp cho thấy các đốt dính sát nhau, bác sĩ cho biết nếu không mổ để sắp lại những đốt sống bị chèn ép, cô sẽ bị nặng hơn, nhưng sau khi mổ xong bệnh chóng mặt cuả cô vẫn như cũ . Hết thời hạn được hưởng lương để chữa trị cô phải đi làm trở lại, nhưng cô vẫn không đi được, xin bác sĩ điều trị cho giấy xác nhận vẫn còn chóng mặt, bác sĩ không cấp giấy xác nhận, cho rằng cô nói dối, đã mổ tách các đốt sống lưng cổ hết bị chèn ép rồi thì làm sao còn chóng mặt được. Thế là cô mất việc nghỉ bệnh không có lương. Cô tiếp tục đi điều trị uống thuốc chóng mặt của nhiều bác sĩ vẫn không khỏi, một năm sau cô đưa các toa thuốc trị chóng mặt cho bác sĩ mổ của cô xem để chứng minh là cô vẫn bị chóng mặt, xin bác sĩ cho giấy chứng nhận để xin hưởng trợ cấp của chính phủ . Ông này trước khi cấp giấy phải chụp lại xương cổ, và ông cho biết, các đốt xương bây giờ lại dính với nhau nên cô mới còn bệnh chóng mặt, yêu cầu cô mổ để sắp lại lần thứ hai, cô sợ qúa và nghĩ rằng trước khi chưa mổ, đầu cổ lưng còn xoay trở dễ dàng, từ khi mổ xong lưng cổ cứng không xoay trở được mà bệnh chóng mặt vẫn còn, lần này bắt mổ nữa thì chắc chắn không có kết qủa do định bệnh chủ quan sai lầm.



Cô tìm sang đông y để chữa một thời gian cũng không kết qủa, nên phải đi cầu trời khẩn phật và một duyên may cô đến chùa Huyền Không lễ phật, rồi ghé qua phòng chữa bệnh bằng khí công để hỏi xem khí công có giúp gì cho cô được không. Khi cô đến gặp tôi xin điều trị, cô ngồi trên giường, tôi vừa đả thông 12 kinh mạch, thông khí huyết lên não, nắn vuốt cột sống cổ và lưng, vừa hỏi quá trình chữa theo tây y của cô, tự nhiên cô nói em hết chóng mặt rồi, mọi lần ngồi như thế này chỉ lâu chừng 5 phút là chóng mặt phải nằm ngay, từ nãy giờ em nói chuyện với thầy hơn nửa giờ mà không thấy chóng mặt, cô hỏi tại sao vậy, tôi trả lời bệnh cô thuộc loại thiếu máu não cục bộ, tôi đã dùng khí công bơm máu lên não, sau đó hướng dẫn cô tập thể dục khí công, ngay sau khi tập khoảng 20 phút, cô đã đi đứng như người bình thường, cho đến nay cô đã khỏi hẳn bệnh chóng mặt.

Một ca bệnh khác cũng tại địa điểm chùa Huyền Không, bệnh nhân bị chóng mặt được bác sĩ khám kết luận do virus trong tai, bắt buộc phải mổ tai giữa, anh cũng làm về ngành y nên không có niềm tin với đông y hay khí công, có nhiều bạn bè khuyên anh cần phải đến gặp tôi, nếu anh không đến chữa bằng khí công để phải mổ tai oan uổng thì sau này tình bạn của họ chấm dứt không còn gặp nhau nữa. Đó là tối hậu thư của bạn bè anh, anh nể bạn bè mà đến gặp tôi chứ không tin rằng khí công có thể chữa được. Thời gian hẹn mổ tai của anh sắp đến anh nghĩ chắc cũng không còn hy vọng gì chữa khỏi bằng khí công. Khi anh đến có người nhà dìu anh đi từng bước, sau khi đả thông kinh mạch và thông máu não, rồi chỉ cho anh tập động công và tĩnh công chuyên chữa về bệnh chóng mặt mất thăng bằng, anh thấy bớt, đi đứng được một mình.



Anh cho biết đến ngày hẹn mổ bác sĩ vẫn mổ thì sao, tôi yêu cầu anh hỏi lại bác sĩ, tình trạng của anh

nếu mổ và không mổ thì hậu qủa khác nhau ra sao, bác sĩ cho biết nếu không mổ virus trong tai ăn lên tới óc thì chết, còn mổ thì khỏi chết nhưng có thể liệt mặt.



Theo tây y liệt mặt riêng lẻ do thần kinh như u dây thần kinh VIII làm điếc tai và chóng mặt thường xảy ra trước khi dây thần kinh VII bị liệt, khi bị chóng mặt rối loạn tiền đình nặng, tây y giải quyết cắt đứt dây thần kinh tiền đình hoặc cắt bỏ dây thần kinh II, bệnh nhân sẽ hết chóng mặt nhưng bị điếc, và trường hợp chữa bệnh chóng mặt do viêm xương đá, cholesteatome, khối u ác tính ở tuyến mang tai cũng bắt buộc phải mổ. Có những trường hợp thiếu máu não và điếc tai do uống quá nhiều thuốc trụ sinh để chữa bệnh cảm nhiễm thì không phải bệnh tổn thương thực thể ở tai hay virus trong tai trong não, nếu mổ là một sai lầm lớn.



Còn trường hợp của anh sau khi thông máu não anh đi đứng lại bình thường là do thiếu máu não cục bộ, tây y có loại thuốc uống để bổ máu cho não, nếu anh uống thuốc là ngoại dược và tập luyện khí công mỗi ngày để cơ thể tạo ra nội dược, hiệu qủa cũng như thuốc ngoại dược mà không có hại do phản ứng phụ của thuốc, cả hai đều có lợi cho anh mau chóng bình phục may ra khỏi mổ, tôi khuyên anh, trước khi mổ xin bác sĩ cho khám lại để khỏi bị mổ oan.



Có trường hợp một bệnh nhân bị chóng mặt suốt thời gian 3 năm, đi lảo đảo, uống thuốc đông tây y không kết qủa. Sau khi khám định bệnh theo khí công mới biết được nguyên nhân không phải do thuốc điều trị không đúng mà do lạm dụng dùng thêm nhiều cam chanh, vit.C với mục đích chống mệt mỏi, vô tình phá hủy tế bào máu khiến cơ thể không đủ máu nuôi não. Bệnh nhân thắc mắc tại sao yếu mệt mà không thể dùng vit.C .Tôi trả lời mệt có nhiều nguyên nhân, nếu mệt vì đói thì cần phải ăn, mệt vì khó thở thì cần oxy, giả sử bà mệt vì đói, không cho ăn mà cho ngửi oxy có làm hết mệt được không ? Vì thế bệnh của bà nếu mệt vì thiếu máu não bổ thần kinh làm ra bệnh chóng mặt, phải dùng thuốc bổ máu nuôi não chứ không phải dùng nhiều chất chua để chống mệt mỏi, ngược lại nó còn làm giảm mập khiến cơ thể gầy ốm và mệt mỏi thêm..

Thật ra, đối với phương pháp tự chựa bệnh bằng khí công, những bệnh chóng mặt thiếu máu não, hạ áp huyết, rối loạn tiền đình, nhức đấu, cao áp huyết, u sọ não, tinh thần suy nhược, kém trí nhớ, mất ngủ kinh niên, tê liệt mặt, khó nuốt, bướu tuyến giáp trạng, cứng cổ gáy .... Chúng tôi thường hướng dẫn các bệnh nhân bằng các bài tập thể dục động công, chỉ trong 7 bài đầu tiên chuyên chữa các bệnh về thần kinh rất có hiệu qủa như bài cào đầu, cào gáy, chà gáy, vuốt gáy, vuốt cổ, chà tai, xoa mặt. Những bài tập bài tập kế tiếp tăng cường khí huyết cho hệ hô hấp, bài tiết, tiêu hóa, dinh dưỡng, hệ miễn nhiễm, mạnh cột sống, tay chân linh hoạt hết đau nhức phong thấp, tê bại liệt.. tất cả các bài động công chúng ta tập chỉ mất thời gian 30 phút, 30 phút sau chúng tôi hướng dẫn tập tĩnh công bằng cách tập ngồi hoặc nằm thở, có cách tập thở làm tăng sinh hóa và chuyển hóa trao đổi chất trong cơ thể phòng chống bệnh, cách thở tăng hồng cầu, cách thở tăng bạch cầu, cách thở tăng cường chức năng chuyển hóa của tuyến thượng thận tự tạo ra thuốc nội dược để tự điều chỉnh cho cơ thể hết bệnh.

Quan niệm của Đông Y-Khí Công về cách chữa bệnh:

Trong cơ thể đã có sẵn dược liệu, nếu biết cách pha chế thuốc bằng huyệt hay bằng hơi thở theo quy luật âm dương ngũ hành.

1-Quan niệm thiên nhân đồng nhất thể :



A-Sự khí hóa của trời đất :


Sự tương tác giữa Dương (mặt trời) và âm (nước biển) làm nước bốc hơi lên trời thành mây, mây thành mưa trả lại nước cho biển lâp thành một vòng khí hóa, theo thời gian sinh, trưởng, hóa, thâu, tàng, lập đi lập lại mà vạn vật được sinh ra. Những vật thể được sinh ra là những vật chất thể đặc tạm gọi là

chất thổ. Thể lỏng ở sông ngòi ao hồ gọi là

chất thủy. Ánh nắng, tia sáng mặt trời là

chất hỏa. Mầm mống sinh ra cây cỏ là

chất mộc, nhờ chất mộc như các rừng cây tạo ra sinh thái trao đổi không khí, tạo ra môi trường chuyển hóa âm dương thủy hỏa giữa sức nóng của mặt trời và cái lạnh của nước biển mới sinh ra muôn vật, nên đông y gọi là

chất phong. Những cặn bã, chất thải từ cây cỏ hay cát bụi gọi là chất thổ. Trong thổ tích chứa những chất ấy lâu ngày cả hàng ngàn năm sinh ra quặng mỏ gọi là

chất kim.



B-Sự khí hóa trong con người :


Nói tổng quát, trong vũ trụ bao gồm 5 chất, thì trong cơ thể con người cũng có đủ 5 chất :

chất thổ

là thân xác, xương cốt da thịt…,

chất thủy

là máu và các dịch chất có trong con người,

chất kim

là các chất kim loại có trong con người như Cu, Fe, Al,… được sinh ra bởi sự trao đổi oxy từ phổi tạo ra sự chuyển hóa từ nguồn thức ăn …chất hỏa

là hơi ấm từ sự tuần hoàn của tim mạch,chất mộc

là phong tạo ra những biến động trong cơ thể để trao đổi chất.
Có một đìểm hơi khác, phong khí do từ can mộc sinh ra, khác với dưỡng khí Oxy từ hơi thở của phổi đem vào khí khô ráo gọi là

táo khí

giúp cơ thể vừa sinh hóa vừa chuyển hóa.

C-Mầm mống gây bệnh giữa thiên nhiên và con người :

Ảnh hưởng khí hậu, thời tiết của thiên nhiên nếu bất bình thường làm xáo trộn môi trường sinh thái, làm sự sống con người bị ảnh hưởng theo, mới sinh bệnh tật. Như vậy bệnh tật có muôn hình vạn trạng ở mỗi thời mỗi khác, mỗi khu vực mỗi khác.

Xưa kia, điều kiện Dương là áng nắng mặt trời trong lành, oxy có chứa nhiều thành phần ion+ nhiều hơn, điều kiện sinh thái không bị ô nhiễm bởi chất thải công nghệ, con người và con vật được sinh ra thời đó khỏe mạnh to lớn hơn, ít bệnh tật hơn bây giờ.

Ngày nay, điều kiện dương rất ít, do những nhà cao tầng che lấp, oxy bị ô nhiễm nhiều khí độc nơi khu công nghiệp, nguồn nước cũng bị ô nhiễm nhiều hóa chất độc hại, con người và các vật được sinh ra ở thời đại này sức khỏe sẽ không bằng được những người ở những thế kỷ trước.

Trong tương lai, tầng khí quyển mỏng dần, tia phóng xạ có trong ánh nắng và khí ozone, CO2, ammoniac, khí amiante, lưu huỳnh… lẫn trong không khí, thành phần ion+ giảm dần trong oxy và nguồn thức ăn công nghiệp chứa nhiều hóa chất sẽ gây nguy hại cho sức khỏe con người.



2-Những căn bệnh nan y mới lạ sẽ phát sinh mà y học chưa có cách chữa :


Căn cứ vào 5 thể tổng hợp trong cơ thể con người, và căn cứ vào học thuyết âm dương trong đông y , thì bệnh của 5 thể sẽ khác nhau và có cách đối chứng trị liệu khác nhau :

Riêng môn học ĐÔNG Y KHÍ CÔNG chia thang bậc bệnh và cách chữa như sau :


1-Chất thổ (âm dương), 2-Chất thủy (âm dương),3-Chất khí (âm dương), 4-Chất Điện (âm dương), 5-Chất Quang (âm dương).


Giải thích :

Chất Thổ : là thân xác, tạo vật. Chất thủy : nước, máu, dịch chất. Chất khí : hơi thở. Chất điện : nhiệt năng, thần kinh. Chất quang : ánh sánh, trí tuệ, hiểu biết.

Thí dụ :
Bệnh do chất thổ :
Khi âm dương ở điều kiện tốt 100+/100-, các tạo vật sinh ra chứa nhìều năng lượng.
Khi âm dương mất quân bình 80+/100-, hoặc 100+/80- các tạo vật sinh ra năng lượng dương hay âm ít hơn năng lượng âm dương khi chúng ta ăn vào cơ thể. Nhưng nếu các tạo vật không ăn kịp, tự nó sẽ biến đổi thành côn trùng sâu bọ (một loại vi trùng thô thấy được bằng mắt do âm hay do dương sinh hóa và chuyển hóa làm ra).
Khi đất đai mầu mỡ cằn cỗi, các tạo vật sinh ra thiếu âm dương như 40/40 chúng ta ăn không thấy bổ khỏe bằng 100/100, nhưng không có bệnh.
Khi tạo vật sinh ra trong điều kiện xấu 30/40, chúng ta ăn vào không tốt như thời xưa, nhưng ngược lại, khi ăn không kịp, tự chúng sinh hóa chuyển hoá thành những loại sâu bọ nhỏ li ti.
Khi tạo vật sinh ra trong điều kiện đất đai trồng trọt bằng hóa chất, âm dương phát triển không tự nhiên, sự chệnh lệch âm dương tự nó sinh hóa chuyển hoá thành những vi trùng, nhỏ hơn vi trùng.


Nếu ô nhiễm môi trường hóa chất âm dương chênh lệch, khi ăn vào phá hại máu nhiễm độc tự sinh hoá chuyển hoá thành virus gây ung thư.


Nếu tạo vật sinh ra trong môi trường khí ô nhiễm âm dương mất quân bình, tạo vật sinh ra vào phần khí của cơ thể tự sinh hóa chuyển hoá thành microvirus gây những bệnh lạ, phá hại máu, hại da thịt, hai xương cốt, gây những bệnh đau nhức lạ lùng mà tìm không ra bệnh.


Nếu trong môi trường sóng từ trường, sóng điện chạy dọc ngang khắp không gian, thì những tạo vật sinh ra bất quân bình âm dương tự sinh hóa chuyển hoá sinh những bệnh do supervirus mà chúng ta không có thể nào khám phá ra, ngay cả những trường hợp loãng xương mục xương, ung thư máu hoặc các loại ung thư kỳ lạ khác cũng có thể do mang trong người cellulaire , làm việc với các máy phát sóng từ trường..…
Loại bệnh cao hơn do các tia sáng, hồng ngoại, tử ngoại, laser, alpha, beta, ozone…. nhiễm vào nước uống, vào cây trái hoa mầu khi trồng trọt, khi ăn vào một thời gian lâu tích lũy đủ số lượng độc hại tạm gọi là supermicrovirus sẽ gây ra bệnh thần kinh…

3-Nguyên tắc chữa theo Đông y khí công :



A-Thể Thổ bệnh :


Là cơ sở vật chất như xương cốt da thịt…, khi bị bệnh là do mất quân bình âm dương trong thổ qua 3 yếu tố

tinh-khí-thần. Đối với chất Thổ, Dương là gầy, âm là mập. Người không gầy không mập là âm dương quân bình.

Tinh

: Là thức ăn đem vào cơ thể cũng có âm dương và có cả ngũ hành để phù hợp với tạng phủ khi chữa bệnh.. Khi cơ thể gầy, phải ăn chất âm nhiều, cơ thể mập cần phải ăn chất dương nhiều để lập lại quân bình.
Khi cơ thể ăn một chất có âm có dương, nhưng khi nhai và ăn vào cơ thể gọi là thời kỳ sinh hóa, mà không chuyển hóa thì gọi là thổ âm, thí dụ khi mệt lả vì đói, ăn một tô phở, rồi đi ngủ, tô phở được chuyển hóa thành năng lượng gọi là thổ dương, sáng hôm sau tỉnh giấc, cơ thể được phục hồi sức khỏe.


Khí

: Là hơi thở, là vận động cũng có âm có dương, ngũ hành. Khi nhiều


âm là mập, cần phải vận động hít thở khí dương nhiều để chuyển hóa thành năng lượng dương. Khi gầy ốm phải giảm những công việc nặng nhọc mất sức làm tiêu hao khí lực mà cần phải dưỡng âm.
Khi ăn đúng chất âm dương ngũ hành mà cơ thể cần là sinh hóa thổ âm, nhưng thiếu khí nên không được chuyển hóa thành thổ dương, thì bệnh thuộc khí của hơi thở.

Thần

: Cũng có âm dương ngũ hành. Dương là lạc quan vui vẻ, yêu đời. Âm là chán nản bi quan yếm thế.Tình cảm hỷ, nộ, aì, ố, khủng, bất thường sẽ làm biến đổi sinh tâm bệnh thần kinh.
Khi thổ bệnh như té gẫy tay chân, y học hiện đại có thể mổ xẻ, cắt ráp thay thế, nhưng khi thổ đau nhức không phải nguyên nhân phát sinh từ thổ, mà do những nguyên nhân do thủy, do khí, do điện, do quang…thì phải có những cách chữa tương ứng với mỗi trường hợp.

Theo đông y khí công

: Nếu thổ bệnh, dùng thổ âm dương chữa để bù đắp cho thổ âm dương chỗ thừa chỗ thiếu, và phải bổ sung năng lượng cao hơn thổ là thủy để giúp nó chuyển hóa nhanh hơn, chứ tự nó không đủ mạnh để chuyển hoá, bệnh sẽ chữa mau khỏi hơn.
Thí dụ khi bị cảm sốt : Phân tích theo đông y khí công. Cơ thể đau nhức thuộc thổ âm hoặc dương, uống thuốc bằng những chất bột như Tylenol hay trụ sinh cũng là thuốc bột thuộc thổ, sẽ không khỏi nhanh bằng thuốc nước như thuốc bắc, sirop uống hay thuốc nước chích thẳng vào máu là chất thủy như Eucaliptine, pénicéline..

B-Thể thủy bệnh :


Là bệnh do máu, do nước, tuyến hạch, dịch chất…cũng phân biệt theo âm dương ngũ hành, và cũng phải biết điều chỉnh âm dương ngũ hành.


Ngoài việc dùng thuốc viên thuộc thổ để bảo vệ thổ, thuốc nước thuộc thủy như truyền máu, nước biển để điều chỉnh bệnh của thủy, nhưng khi thủy bệnh không có thể sinh hoá chuyển hóa chất thủy âm ra dương, rồi lại sinh hoá thủy dương ra khí âm, khí sẽ mất quân bình âm dương rồi bị bệnh nữa. Cho nên thủy bệnh làm thổ bệnh, cơ thể gầy ốm, cũng làm khí bệnh, thiếu oxy làm mất hồng cầu, mất máu, thiếu khí thở, ngộp thở. Trong cách chữa của tây y, bệnh của thủy gây biến chứng ngộp thở thiếu khí sẽ cho bệnh nhân thở bằng bình oxy. Nhưng oxy chỉ mới là một loại khí dương, trong khi cơ thể có thể chỉ cần khí âm là hydro. Có thể khoa học phải nghiên cứu thêm đến những loại khí dùng trong chữa bệnh khí như nitro, hydro, helium. Ether, oxy tăng cường thêm ion+….
Trong đông y cũng đã biết cách dùng khí bằng những phương pháp xông hơi đặc biệt phù hợp với mỗi căn bệnh khác nhau như xông lá tràm, lá bưởi, lá ngò, húng, chanh, tía tô, kinh giới, lá bạc hà, xông dấm, phèn chua, nghệ, gừng…
Tôi đã chữa một nữ bệnh nhân bị bệnh do phong (thuộc khí ) đã làm tổn hại đến thần kinh (thuộc thể điện), mí mắt bị chớp nháy liên tục không ngừng, 1 giây chớp nháy 1-2 lần, không thể nhìn ai được. Đã đi nhiều Thầy, uống nhiều thuốc tây ta. Tôi dặn bệnh nhân nấu 2 bó tía tô, 2 bó kinh giới, cho xông hơi vào mặt và mắt, khi nước xông nguội thì lấy rửa mặt, mỗi ngày 2 lần. Tuần sau cô đến khen hay, mắt hết chớp giật.

C-Thể khí bệnh :


Đến bệnh thuộc thủy đối với tây y cũng là khó . Khi bệnh thuộc khí, cho máy trợ thở oxy mà phổi không tự thở được phần trăm nào, là quyết định rút ống để bệnh nhân chết oan uổng.


Thật ra, oxy ấy vẫn vào cơ thể để giữ hồng cầu, vẫn tuần hoàn, nhưng đối với đông y khí công, chỉ chữa trên thể khí âm dương không đủ để sinh hóa chuyển hóa ra điện âm là nuôi dưỡng các sợi thần kinh và không đủ chuyển hóa điện âm ra điện dương làm cho thần kinh hoạt động trở lại để nuôi não và phục hồi chức năng làm bệnh nhân tỉnh lại.
Đối với đông y khí công chỉ cần sử dụng những huyệt khai thông khí của tim, phổi , thận, gan, não thuộc thể khí, và phải chữa trên thể thần cao hơn để giúp thể khí chuyển hoá, lúc đó phải dùng đến đại huyệt Đan điền Thần.

D-Thể điện bệnh :

Thể thần bị bệnh có loại nhẹ loại nặng cách chữa khác nhau :
Theo nguyên tắc khí công, từ thể điện thì không lệ thuộc vào ngũ hành nhiều như bệnh của các thể khác, mà chỉ phụ thuộc vào âm dương.
Thể điện là bệnh từ các sợi dây thần kinh tay chân, thần kinh ngoại biên, thần kinh chức năng, thần kinh giao cảm, đối giao cảm, thần kinh phản xạ, thần kinh gân cơ, thần kinh cột sống, thần kinh trung ương, thần kinh não bộ, thần kinh da, thần kinh tạng phủ cơ sở, chức năng….
-Nếu đau nhức tay chân có nhiều nguyên nhân như tổn thương thể thổ như té, gẫy, đứt tay chân, tây y mổ, cưa, bó ráp, thay thế. Đông y cũng bó, thuốc đắp lành da, sinh gân cơ, dùng huyệt giảm đau hay thuốc giảm đau.


Nếu đau chứ không tổn thương, đông y có câu :Thống bất thông, thông bất thống (đau thì do khí hay huyết bị bế tắc không thông, phải làm cho khí huyết lưu thông bằng huyệt hay bằng thuốc là hết đau.). Nếu đau trong tạng phủ cũng vậy. Đó là sở trường của môn đông y châm cứu, có thể gây tê làm giảm đau được tây y công nhận.
-Nếu đau mà tìm không ra nguyên nhân chính là nhiễm bệnh từ từ lâu dài do ảnh hưởng những giao thoa của điện từ trường nơi làm việc, trong vùng cư ngụ gần nhưng nơi phát sóng từ trường mạnh gây hư hỏng thần kinh. Cách chữa ngoài việc cắt nối thay thế các sợi thần kinh bị tổn thương nặng, cần phải dùng cấp cao hơn là quang để giúp nó chuyển hoá từ điện âm ra dương, điện dương thành quang âm, cho nên các bệnh trên hiện nay phải dùng đến tia hồng ngoại, laser, một lãnh vực còn khiêm nhường trong y học, tuy nhiên nếu sử dụng tia laser không chính xác, đúng nhu cầu, chính tia laser cũng đã làm tổn thương thực thể, nguy hại , vì liều lượng điều trị không quân bình âm dương (không định liệu được) sẽ tự sinh hóa chuyển hóa ra loại supermicrovirus tạo ra một bệnh mới lạ khác của thời đại.



E-Thể quang bệnh :

Là bệnh mà y học hiện đại gọi là hoang tưởng, người có nhiều linh hồn, hay những bệnh nhân sau khi bị hôn mê (coma) tỉnh lại mất trí nhớ . Nếu chữa theo tây y cần phải chữa bằng những tia ánh sáng khác nhau để phục hồi trí não, bộ nhớ. Hoặc chữa bằng thôi miên, hay chữa bằng khoa trị liệu tâm lý thần kinh để phục hồi trí nhớ. Đông y khí công phải chữa trên thể hồn và thể trí bằng thần lực hoặc huyền lực.
-Vì thế có những bệnh nan y, đông tây y bó tay, thay vì chờ chết, chuyển sang cách chữa thiền, khí công, yoga, mật tông Tây tạng, .. trí óc được mở mang, ánh sáng trí tuệ cho con người một đức tin mới, giáo lý Phật giáo thường nói :Vạn pháp do tâm sinh, vạn pháp do tâm diệt,

theo Chúa Kito :

Tâm bình thế giới bình.

Lúc đó sống chết không còn sợ hãi, có sinh có diệt, thân sẽ tan rã tứ đại giả hợp sẽ trở về tứ đại, cát bụi trở về cát bụi. Theo quy luật âm dương, cực âm sinh dương, trong tử lộ có sinh lộ, nhiều bệnh nhân đã tự nhiên khỏi bệnh, người đời gọi là một phép lạ. Đó cũng không ngoài lý lẽ âm dương :sinh, trưởng hóa thâu, tàng

để nối tiếp cuộc đời khác, vì con người có

sự sống bất diệt. Chỉ có loài cây cỏ có

sức sống, mà không có sự sống, nên sức sống hết thì mới theo quy luật

thành, trụ, hoại, diệt.

4-Tập thở khí công y đạo để tự chữa bệnh cho mình và cho người khác:


Tập khí công đến chỗ thành đạt thì những bệnh thuộc thể thổ, thể thủy có thể tự chữa được mà không cần dùng thuốc bổ sung cho thổ, cho thủy. Tập đến chỗ cao hơn nữa khí lực dư thừa sẽ bổ sung được cho những chất cao hơn..

Một người bình thường đi từ dưới đi lên, từ thể thổ do ăn uống chuyển sang thể thủy sinh huyết, rồi thể khí sinh khí (sức lực), thể điện sinh điện (thần kinh vững mạnh) điện sinh quang tăng sự hiểu biết trí tuệ.

Còn các nhà khí công, các nhà tu thiền, tập thở thiền, ít cần đến nhu cầu ăn uống để bổ cho thể thổ và thủy, chỉ cần thu nạp khí âm dương trời đất trong lành (vùng biển, vùng núi, trong hang động) luyện khí thành khí âm giúp cơ thể vật chất hồng hào khỏe mạnh, chuyển âm thành dương khí, dương khí dư thừa sinh điện âm, chuyển hóa thành điện dương, sinh hoá thành quang âm chuyển hoá thành quang dương. Cuối cùng âm dương hợp nhất thu hút được năng lượng vũ trụ để sử dụng trở thành những người có khả năng siêu việt .

Môn học Khí công Y Đạo không có tham vọng như thế, nhưng trình độ tập hít thở cuả khí công dùng để chữa bệnh có thể thấy được qua 1 huyệt chữa giống nhau cho một bệnh giống nhau.



Người không tập khí công bấm vào huyệt đó phải dùng sức mạnh của mình để bấm gọi là

sức lực, kém kết quả hơn một thầy khí công bấm huyệt do nội lực mà có gọi là

khí lực, tập nhiều năm đạt đến trình độ điện, bàn tay có điện từ trường khi bấm vào huyệt có kết qủa nhanh hơn gọi là

thần lực, cao hơn nữa là cấp quang, biết phóng đi và nhận về những sóng từ trường năng lượng thông tin ngoài vũ trụ, khi bấm vào huyệt có kết qủa ngay tức thời gọi là

huyền lực.



Các nhà tu đắc đạo, có thần thông là có huyền lực, do đó mà khi một đứa trẻ mới sinh ra may mắn được các nhà chân tu đắc đạo, đặt tay lên đỉnh đầu để khai ngộ (truyền tâm ấn hay thọ ký) sau này sẽ thông minh, thành đạt hơn người thường, đó là một hình thức của quang năng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com