NHỮNG KỸ NĂNG CẦN CÓ CỦA GIÁO VIÊN
NHỮNG KỸ NĂNG CẦN CÓ CỦA GIÁO VIÊN- NGƯỜI GIÁO VIÊN PHỔ THÔNG TRONG BỐI CẢNH CỦA CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI
PGS.TS Nguyễn Đức Vũ
(Trường ĐHSP-ĐH Huế)
1. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và những tác động đến giáo dục
Sau cuộc Cách mạng công nghiệp vào cuối thế kỷ XVIII, cuộc Cách mạng khoa học và kỹ thuật vào nửa sau thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, nhân loại đang tiến hành cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vào cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI
Đặc trưng của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là làm xuất hiện và phát triển bùng nổ công nghệ cao (với bốn trụ cột là công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin). Đây là các công nghệ dựa vào những thành tựu khoa học mới nhất với hàm lượng tri thức và hàm lượng khoa học, sáng tạo cao nhất. Các công nghệ này đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến phát triển kinh tế – xã hội.
Cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ tác động ngày càng sâu sắc làm cho nền kinh tế thế giới chuyển dần từ nền kinh tế công nghiệp sang một loại hình kinh tế mới dựa trên chất xám và kỹ thuật, công nghệ cao, được gọi là kinh tế tri thức. Với sự thống trị của các ngành kinh tế tri thức (các ngành dựa trên hàm lượng chất xám cao), trong nền kinh tế tri thức, vai trò của giáo dục cực kì to lớn. Một số tính toán cho thấy rằng, trong nền kinh tế tri thức, đầu tư cho giáo dục chiếm từ 6 – 8% GDP, trình độ văn hoá trung bình của mọi công dân phải tốt nghiệp trung học phổ thông, công nhân tri thức là thành phần chủ yếu trong cơ cấu xã hội.
Đồng thời, cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã giảm dần ý nghĩa của khoảng cách không gian, thúc đẩy sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng, phát triển nhanh chóng mậu dịch quốc tế, đầu tư trên phạm vi toàn cầu. Từ đó, dẫn tới sự hình thành nền kinh tế toàn cầu hoá, với những biểu hiện rõ nét: thương mại quốc tế phát triển mạnh; đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh; thị trường tài chính quốc tế mở rộng; các công ty xuyên quốc gia với chi nhánh ở nhiều quốc gia khác nhau, nắm trong tay những của cải vật chất rất lớn và chi phối nhiều ngành kinh tế quan trọng. Toàn cầu hoá kinh tế đã thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đẩy nhanh đầu tư và khai thác triệt để khoa học – công nghệ, tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước. Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế còn có những mặt tiêu cực, đặc biệt làm gia tăng nhanh chóng khoảng cách giàu nghèo. Giáo dục đứng trước các thách thức ngày càng lớn do các mâu thuẫn tạo ra như: mâu thuẫn giữa toàn cầu và cục bộ, giữa chiến lược dài hạn và ngắn hạn, giữa cạnh tranh và bình đẳng về cơ hội, giữa truyền thống và hiện đại, giữa sự phát triển nhanh của tri thức và khả năng tiếp thu có hạn của con người, giữa tinh thần và vật chất….
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và nền kinh tế tri thức, sự tác động của công nghệ đã làm cho thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc và thường xuyên. Cùng với mạng viễn thông toàn cầu cho phép trao đổi thông tin một cách nhanh chóng,việc tiếp cận của mỗi người với tri thức nhân loại rất tiện lợi và với khối lượng lớn. Để thích ứng với điều đó, giáo dục phải chuyển từ việc coi trọng truyền thụ tri thức sang việc giáo dục cho mọi người khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề, hợp tác với nhau. Làm được điều đó, giáo dục mới cung cấp cho xã hội hiện đại những người lao động mới phù hợp.
2. Những kỹ năng cần có của giáo viên để thích ứng với nền giáo dục trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
a) Người giáo viên cần có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu
Thế giới đang ở trong quá trình của cuộc Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với những tác động sâu sắc đến toàn bộ các mặt kinh tế và đời sống xã hội. Khối lượng tri thức nhân loại như một dòng thác khổng lồ đang cuồn cuộn chảy trên xa lộ thông tin. Những kiến thức nhà trường chuyển giao cho sinh viên sư phạm chỉ những cơ sở ban đầu cho một quá trình tự học, tự bồi dưỡng. Ngay người vừa được công nhận học vị tiến sĩ cũng chỉ là người bắt đầu bước vào công tác nghiên cứu độc lập. Học là công việc suốt cả đời của bất kỳ ai. Đối với người đi dạy, điều đó lại càng quan trọng hơn. Ngày mai, với sự phát triển nhanh chóng của máy vi tính và công nghệ thông tin, cơ hội tiếp cận tri thức của mỗi người đều bình đẳng với nhau. Điểm khác nhau cơ bản là khả năng tiếp cận, phát hiện và giải quyết vấn đề. Những kỹ năng đó một phần được bồi dưỡng tiếp tục nhờ vào quá trình tự học sau khi ra trường.
Tự học cần được xem là một phẩm chất quan trọng của giáo viên (Trong thư của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết gửi các nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và học sinh, sinh viên nhân dịp khai giảng năm học 2006-2007 có viết: “Mỗi thầy cô giáo hãy thực sự là một tấm gương sáng về đạo đức và tự học”)
Trong tương lai, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc học có thể được phân tán theo từng cá nhân ở các địa điểm khác nhau. Không nhất thiết người học phải giáp mặt thầy trực tiếp. Nội dung dạy học có thể được chuyển tải trên tất cả các phương tiện công nghệ thông tin. Người học có thể tiếp cận thông tin ở bất kỳ mọi nơi, mọi lúc. Lúc ấy, kĩ năng tự học càng hết sức quan trọng. Ai dạy những kĩ năng đó cho người học? Nhà trường, trước hết là các thầy cô giáo. Do vậy, giáo viên trước hết phải là người biết tự học.
b) Giáo viên cần có kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin.
Trong thời đại công nghệ hiện nay, việc học của học sinh cũng đã có nhiều thay đổi. Thói quen học thuộc một cách thụ động nhường chỗ cho việc tự tìm tòi, khám phá. Những băn khoăn học sinh gặp phải khi các em tiếp xâúc với các nguồn thông tin khác nhau khiến cho các em tìm cách giải đáp. Việc học và chơi ngày càng được gắn với máy vi tính nhiều hơn, thu hút các em nhiều hơn vào sự tìm tòi, khám phá.
Giáo viên không thể bằng lòng với những thông tin có sẵn trên các trang sách giáo khoa và tài liệu tham khảo. Internet là nguồn thông tin không thể thiếu được của những người làm nghề dạy học. Khai thác thông tin từ Internet phải trở thành thói quen không thể từ bỏ được của mỗi giáo viên. Rõ ràng, kỹ năng làm việc với máy tính trở thành kỹ năng tối thiểu của tất cả mọi người, trong đó có cả giáo viên.
Máy vi tính và việc sử dụng nó trong tự học và dạy học trở thành nhu cầu thiết yếu, thói quen văn hoá đối với mỗi giáo viên.
c) Giáo viên cần có kĩ năng hợp tác trong dạy học
Một trong 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ 21 do UNESCO đề xướng là “học để sống cùng nhau”. Trên tầm vĩ mô, thế giới ngày càng thu hẹp khoảng cách không gian nhờ vào công nghệ thông tin; nhiều giá trị nhân bản phổ biến đã trở thành nét chung của nhiều dân tộc. Thế giới đòi hỏi sự liên kết toàn cầu trong nhiều lĩnh vực. Khó có thể chấp nhận một quốc gia hay một cá nhân nào trong thời đại ngày nay đứng ngoài quỹ đạo của việc bảo vệ môi trường, chống khủng bố… Trong phạm vi cụ thể, sự hợp tác tạo nên nhiều thành tựu quan trọng đối với mỗi cá nhân. Kĩ năng hợp tác cần được rèn luyện ở mỗi giáo viên. Đến lượt mình, các thầy cô giáo lại dạy cho học sinh của mình cách hợp tác trong học tập và cuộc sống.
d) Giáo viên cần luôn tự bồi dưỡng kĩ năng giải quyết vấn đề
Cuộc sống của con người, suy đến cùng, là một chuỗi liên tục giải quyết vấn đề. Càng giải quyết tốt các vấn đề bao nhiêu, chất lượng cuộc sống của con người càng có nhiều cơ hội được nâng cao bấy nhiêu. Không nên xem nhà trường như một “ốc đảo”, mà nên xem nhà trường chính là cuộc sống. Các vấn đề thực tế cuộc sống được phản ánh vào nhà trường dưới một lăng kính đủ để cho người học tiếp cận theo cách phù hợp với lứa tuổi của mình. Giải quyết các vấn đề trong các bài học ở nhà trường cũng nên xem như giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Nhờ vậy, các em khỏi bỡ ngỡ khi bước vào đời sống thực tế phong phú. Đồng thời, ở một góc độ nào đó, người học khi ra trường khỏi phải mất công đào tạo tiếp từ thực tế cuộc sống và công việc. Để làm được điều đó, giáo viên cần phải luôn tự rèn luyện và bồi dưỡng kĩ năng giải quyết vấn đề.
3. Tổ chức các nhóm tự bồi dưỡng giáo viên theo mô hình liên môn và liên trường là một trong những con đường tự bồi dưỡng thiết thực và hiệu quả
Từ 1995 đến nay, đội ngũ giáo viên phổ thông đã trải qua 3 chu kỳ bồi dưỡng thường xuyên. Bên cạnh đó, việc bồi dưỡng thay sách, bồi dưỡng chuyên đề, bồi dưỡng nâng cao năng lực gần như diễn ra liên tục hàng năm. Kết quả là trình độ chuyên môn và nghiệp vụ ngày càng được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ giáo dục trước nhiều yêu cầu mới của chương trình, sách giáo khoa nói riêng và việc đổi mới giáo dục nói chung. Việc tự bồi dưỡng được xem là một nhu cầu tự thân của mỗi giáo viên, được diễn ra thường xuyên liên tục trong suốt cả quá trình công tác của mỗi người. Ngoài các đợt bồi dưỡng được thực hiện theo kiểu “từ trên xuống”, việc bồi dưỡng phải được tiến hành mọi nơi, mọi lúc theo kiểu “từ dưới lên”. Giúp nhau trong tự bồi dưỡng là một trong những con đường có hiệu quả trong tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
Ngoài việc bồi dưỡng theo tổ chuyên môn, hình thức bồi dưỡng theo mô hình “liên tổ” trong mỗi trường có tác dụng thiết thực theo từng nội dung tự bồi dưỡng. Chẳng hạn, để nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, các giáo viên bộ môn Tin học có nhiều ưu thế hơn trong trường. Một tổ tự nguyện giúp đỡ nhau về công nghệ thông tin được thành lập với hạt nhân là giáo viên bộ môn Tin học sẽ có ý nghĩa rất thiết thực, đặc biệt đối với nhiều giáo viên đang còn hạn chế về sử dụng máy tính trong dạy học.
Hình thức bồi dưỡng “liên trường” hoặc theo “cụm trường” có tác dụng rất lớn trong việc giúp đỡ nâng cao năng lực chuyên môn giáo viên giữa các trường. Hàng tháng, hàng quý, các tổ “liên trường” hoặc “cụm trường” cùng tiến hành dự giờ, trao đổi về một chủ đề chuyên môn,… Trong năm, thường xuyên trao đổi tài liệu, thông tin chuyên môn,… Những việc làm ấy rất có ích đối với mỗi giáo viên. Các giáo viên giỏi có điều kiện để trau dồi chuyên môn và giúp đỡ đồng nghiệp; các giáo viên khác có điều kiện học hỏi thêm, hoặc được giải đáp bằng ý kiến thống nhất của tập thể về những điều còn băn khoăn,…
Tự bồi dưỡng là công việc thiết yếu của từng giáo viên. Thành lập các tổ tự bồi dưỡng liên môn, liên trường cần nhiều đến vai trò của các tổ trưởng chuyên môn. Xây dựng các tổ bồi dưỡng “cụm trường” cần nhiều đến vai trò của hiệu trưởng. Định hướng các chủ đề tự bồi dưỡng, hoặc sinh hoạt chuyên môn cần đến các phòng chức năng của Sở Giáo dục và Đào tạo. Sự phối hợp có hiệu quả giữa các thành phần trên sẽ làm cho việc tự bồi dưỡng của giáo viên ngày càng có hiệu quả hơn.
10 kĩ năng IT giáo viên cần nắm vững
Trong xu thế hội nhập và phát triển, nền giáo dục nước nhà đang đứng trước những bước đi đầy thách thức. Xu hướng mới đòi hỏi một cuộc cách mạng để có thể xây dựng được một nền giáo dục đáp ứng được nhu cầu thời đại. Và có lẽ, câu chuyện đổi mới giáo dục sẽ bắt đầu từ những chuyển mình tất yếu về tầm, vị thế, trách nhiệm và vai trò của người thầy. Trong bài này, đề xuất và giới thuyết một số “hành trang” thiết yếu nhất đối với nhà giáo.
1. Thường xuyên sử dụng thư viện điện tử
Thư viện là nguồn cung cấp tài liệu quan trọng và đáng tin cậy nhất đối với bất kì người giáo viên, nhà nhà nghiên cứu nào. Điều này không cần thiết phải đề cập thêm nhiều. Hiện nay, các cơ sở đào tạo đang nhận được các khoản đầu tư đáng kể để hiện đại hoá, hệ thống hoá thư viện "cổ truyền" lâu nay. Chính những đầu sách mới thơm mùi mực in góp phần ít nhiều vào sự lên hương của tinh thần học tập và nghiên cứu ở người học và cả người dạy. Trong xu thế xây dựng một nền giáo dục mở, người giáo viên nhất thiết phải thường xuyên cập nhật, làm mới vốn tri thức của mình. Công nghệ thông tin, với tư cách là thiết tố hỗ trợ đặc biệt hữu dụng với khả năng tương tác cao giữa người dùng và thiết bị, có thể "oằn mình" gánh chịu trọng trách này- mang tri thức ở trạng thái luôn luôn sẵn sàng trong hành trang của giáo viên. Trong bối cảnh đó, CNTT đã biến hệ thống thư viện truyền thống thành một "nhất thể" trọn vẹn, dễ kiểm soát và truy nhập dữ liệu. Sự ra đời của các thư viện điện tử như sự khởi phát cho một chặng đường phát triển mới của giáo dục.Thuvienkhoahoc.com là một ví dụ. Trang này được thiết kế dựa trên mô hình wiki với tiêu chí tối thượng là tính tương tác song song giữa độc giả và tác giả. Trong nhiều trường hợp và rất thường xuyên, độc giả hoán đổi vị trí của mình một cách tự nguyện để trở thành cộng tác viên, mà nổi bật nhất chính là vai trò ở khâu kiểm định bài viết, gửi phản hồi trong quá trình tự proof reading-edit-publish trước khi nó, các bài viết được duyệt lần cuối. Nhưng chưa hết, mạng internet còn mang đến một thư viện khổng lồ sách, báo và tạp chí chuyên ngành mà không một thư viện nào có thể cập nhật và phân loại gần như hoàn hảo đến vậy. Một số trang yêu cầu người dùng phải trả phí, nhưng cũng không ít nguồn tài liệu mà người cung cấp cho không biếu không. Chẳng hạn, dự án gutenberg.org hiện có 25,000 cuốn sách miễn phí, 100,000 danh mục đã đăng kí, và con số tải về hàng tháng đạt số lượng 3 triệu lượt. Nếu không có nhiều thời gian, người dùng có thể tải về trực tiếp sách điện tử (ebook) có dung lượng trọng vẹn một... DVD (khoảng 17 ngàn cuốn sách, dung lượng 4,5 GB) tại địa chỉ: ftp://ibiblio.org/pub/docs/books/gutenberg/1/9/1/5/19159/
Sách tiếng Việt trực tuyến cũng khá nhiều. Chưa xét đến tác quyền thì trang các vnthuquan.net, thuvien-ebook.com hiện đang "thống ngự" với hàng trăm các thiện nguyện viên đóng góp sách (đánh máy). Nguồn sách bao gồm từ Đông Tây kim cổ, từ văn học, triết học, lịch sử...Trang ebook4u.vn có vẻ chuyên nghiệp và nhiều loại sách hơn, nhưng người dùng lại phải trả phí để tải về tuy không nhiều. Một số trang khác còn cho phép người dùng tìm kiếm như bookilook.com
2. Từ điển- công cụ bất li thân
Với những ai thường xuyên tiếp xúc với tài liệu ngoại văn, cuốn từ điển là vật bất ly thân. CNTT có thể giúp người dùng thoát khỏi sự ràng buộc này. Không những đáng tin cậy, hệ thống dữ liệu của các từ điển trực tuyến còn cho phép người dùng tương tác mạnh mẽ khi có thể chỉnh sửa (được kiểm duyệt) hay bổ sung, cập nhật. Ngoài ra, sự phong phú về số lượng và kiểu loại cũng là một điểm mạnh đáng kể. Các từ điển của đại học Oxford (oup.com/dictionaries-us/) hay Cambridgedictionary.cambridge.org/)cũng đã xuất bản trực tuyến. Có cả một trang từ điển riêng chuyên giải thích tiếng lóng Anh ngữ (urbandictionary.com/), từ điển mở miễn phí (freedictionary.com; yourdictionary.com ) vv.... Ngoài ra, các phần mềm công cụ hỗ trợ tra từ điển hữu tuyến như của whitesmoke.com, Kool (kienlua.com) (đã có ngoại tuyến) thật sự là một phần không thể thiếu trong hành trang nghiên cứu của nhà giáo.
Người Việt có thể quan tâm tới nguồn từ điển như tratu.baamboo.com, vdict.comvv...hay xem chi tiết tại thông tin lưu trữ của trung tâm từ điển học tại (vietlex.com/dictOnline.htm)
Sử dụng từ điển ngoại tuyến (offline), ngược lại, là một lựa chọn có tính chất “truyền thống”, kể cả tính chất hiện đại của việc này, khi áp dụng CNTT. Bởi lẽ, các bộ từ điển được phát hành bằng một gói phần mềm thường có khả năng truy vấn nhanh và mạnh, tính trọn vẹn của sản phẩm cao...nhưng lại không có khả năng tương tác hữu tuyến-khả năng mở như một xu hướng tất yếu hiện nay khi các sản phẩm CNTT đang dựa trên nền tảng internet (web-based). Vấn đề chi phí cập nhật và tác quyền là một trở ngại. Người dùng Việt Nam lâu nay đã quen với MTD Lạc Việt thì hiện có thể tránh được những khó khăn này với Stardict (stardict.sf.net).
3. Truy vấn thông tin từ các bộ bách khoa toàn thư
Công trình bách khoa Britannica với 200 năm lịch sử đã lên mạng tại Britannica.com. Người dùng có thể đóng phí thường niên để sử dụng cuốn đại từ điển vĩ đại này nhưng hầu như, trước xu hướng mở như hiện nay, bộ bách khoa wikipedia.org hoặc "người anh em" Citizendium.org hoàn toàn có thể thay thế một cách xứng đáng. Trong tương lai không xa, khi bộ bách khoa mở được thương mại hoá1, tốc độ phát triển của nó ắt hẳn còn nhanh mạnh hơn nhiều. Công thức tìm kiếm tri thức của tương lai sẽ là: nhu cầu thông tin --> truy vấn nguồn-->mạng internet-->Google-->wikipedia. Người sử dụng tiếng Việt hoàn toàn có thể tin tưởng vào các kết quả thông tin truy vấn trên bởi có cả một cộng đồng các tình nguyện viên trợ giúp. Với các thuật ngữ và kiến thức phổ thông, người dùng có thể quan tâm tới trang bachkhoatoanthu.gov.vn mới được xây dựng. Lâu nay, “tiền giả định” về một cuốn bách khoa hay từ điển dày cộp hẳn đã hằn sâu, đến đây, có vẻ như người dùng có thể “buồn ơi chào mi” được rồi.
Nhưng nhu cầu sử dụng ngoại tuyến có tỉ lệ cao hơn hẳn. Xu hướng có thể là xu hướng nhưng người dùng cuối (end users) phổ thông thường chưa quen với những thay đổi chóng mặt của công nghệ. Vì vậy, sở hữu một bộ bách khoa toàn thư ngoại tuyến là điều cần thiết. Encarta (bản trực tuyến trả phí tại encarta.msn.com/)của Microsoft có thể đáp ứng tối đa nhu cầu này. Encarta 2007 có hai bản là DVD Microsoft student with Encarta premium 2007 (MSEP dung lượng 3,37 GB) và DVD Microsoft Encarta Premium 2007 (MEP dung lượng 3,02 GB). Bản MSEP cao hơn MEP với 66.000 bài viết (so với 64.000 bài viết ở MEP). Encarta sẽ mang đến cho bạn một nguồn thông tin khổng lồ với: hơn 66.000 bài viết bởi các chuyên gia ở hầu hết các lĩnh vực. Các bài viết này có nội dung rất đáng tin cậy, sâu sắc, đầy đủ và dễ hiểu; hơn 26.000 hình ảnh và minh họa có giá trị cao; hơn 3.000 âm thanh và bản nhạc; hơn 29.000 liên kết trang web được biên tập kĩ lưỡng; hơn 200 bài tập tương tác trong Encarta Kids; 300 đoạn phim và mô tả minh họa; 32 đoạn phim của Discovery Channel vv...Một điều rất thú vị là người người dùng có thể đọc thông tin về bộ bách khoa số hoá này trên bộ bách khoa mở wikipedia (tại vi.wikipedia.org/wiki/Encarta).
4. Biên soạn, trình chiếu để giảng dạy tốt hơn với các phần mềm tiện ích:
Soạn bài giảng, chuẩn bị giáo án và thể hiện bài giảng trên lớp học là những công việc thường nhật của một nhà giáo. Với những công cụ và phần mềm tiện ích đi kèm, làm chủ được chúng, người giáo viên có thể trải nghiệm cảm giác thật tuyệt vời với những giá trị của CNTT. Chẳng hạn phần mềm xây dựng đề thi trắc nghiệm miễn phí Empkey (empkey.com) do một tập thể tác giả là các nhà giáo xây dựng là một lựa chọn khả thi. Để trình chiếu bài giảng, các giáo viên hiện nay thường sử dụng công cụ Powerpoint trong gói office của Micorsoft. Với tiện tích Autorun Presenter udos.users.dolphinmap.net), người dùng có thể trình chiếu Powerpoint mọi lúc mọi nơi, ngay cả khi máy tính đang dùng không cài đặt chương trình Microsoft Office Powerpoint. Chương trình này còn giúp quản lý tất cả các file Powerpoint trên ổ đĩa flash USB. Đây là một ứng dụng miễn phí, chạy trực tiếp không thể bỏ qua. Vừa tránh được những sơ xuất không cần thiết, giúp chuyên nghiệp hoá công việc trình chiếu, tiện ích này giúp nhà giáo nâng cao hiệu quả giảng dạy và giảm tải những trở ngại không cần thiết.
Đối với người dùng cần đến phần mềm có tính chuyên dụng cao hơn thì Convert PowerPoint: chuyển đổi “All in One” cho file PPT là một giải pháp toàn diện. Phần mềm này có khả năng chuyển định dạng số một cho dạng file PPT sang hầu hết các định dạng file chuyên dùng hiện nay như: PDF, GIF, JPG, BMP, TIF, WMF, PNG, EMF, DOC, HTML, RTF… cũng như chuyển đổi qua lại giữa tất cả các phiên bản PowerPoint của các phiên bản Office từng có.
Trong những trường hợp cần sự cẩn trọng thì giải pháp chuyển đổi định dạng file trình chiếu sang dạng tự chạy (exe) hoặc flash, PDF... Chỉ cần tìm kiếm với từ khoá “convert powerpoint” cho 332.000 kết quả. Chúng tôi đề xuất một số giải pháp: ppt to flash (presentationpro.com), ppt to exe (download3000.com/download_9263.html và dzsoft.com/powerpoint-to-exe.html). Ngoài ra, việc chuyển đổi định dạng cho PPT sang các định dạnh dễ “quản lí” hơn có thể nhờ tới một số dịch vụ trực tuyến như media-convert.com.
Trong những trường hợp trở ngại khác, nhất là lúc “vắng mặt” hoặc do lỗi của phần mềm office, nếu máy tính trình chiếu có kết nối mạng internet, người giáo viên có thể quan tâm tới các ứng dụng văn phòng trực tuyến đang thể hiện vai trò quan trọng trong xu hướng thay thế các sản phẩm thương mại truyền thống lâu nay. Đó là GoogleDocs (docs.google.com), Zoho Office Suite (zoho.com) hay Ajax13 (Ajax13.com). Các ứng dụng này đều tương thích tốt với Microsoft Office quen dùng.
5. Nhóm phần mềm, ứng dụng hỗ trợ dạy và học ngoại ngữ:
Ngoại ngữ là công cụ để người giáo viên có thể mở rộng nguồn thông tin, tài liệu, nhất là tiếng Anh đã gần như trở thành ngôn ngữ giao tiếp quan trọng như hiện nay, với tỉ lệ cao nhất trong số các ngôn ngữ phổ thông có khả năng trở thành ngôn ngữ thứ hai của người song ngữ. Dạy và học tiếng Anh nói chung, ngoại ngữ nói riêng, đối với một số nhà giáo dạy ngoại văn là công việc, nhưng còn là nhiệm vụ bắt buộc đối với đa phần các nhà giáo khác, nhất là trong môi trường giáo dục đại học. Trong tinh thần đó, CNTT đã cho ra đời hàng loạt những phần mềm, tiện ích, ứng dụng hữu tuyến và cả ngoại tuyến để giúp ích cho cả người học và người dạy. Nắm được những công cụ này, đối với người dạy, chính là đã “mở rộng đôi cánh” để quá trình mang tri thức ngôn ngữ đến học sinh, sinh viên dễ dàng hơn rất nhiều. Đối với người học, chúng là người bạn, người giáo viên thứ hai luôn luôn sẵn sàng hỗ trợ. Chúng tôi xin đơn cử các phần mềm tiêu biểu phù hợp với xu hướng dạy và học tiếng Anh hiện nay ở Việt Nam như English Study, phần mềm từ điển Oxford, từ điển Lạc Việt, phần mềm công cụ nâng cao kĩ năng viết (whitesmoke.com), phần mềm nâng cao kĩ năng nghe tiếng Anh thông qua giọng đọc văn bản (text to speech) tự nhiên (natural voice) (nextup.com)...Khi các ứng dụng trực tuyến đang lên như diều gặp gió cùng thời đại công nghệ web 2.0 thì một số nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam đã nhanh chóng nắm bắt được nhu cầu của người học thông qua một số dịch vụ dạy và học trực tuyến, tiêu biểu có globaledu.com.vn; leovietnam.com; cleverlearn.com/vi...
6. Sử dụng công cụ hội thảo nhỏm, giảng dạy từ xa.
Hội thảo nhóm qua mạng (conference call) là một thuật ngữ mới xuất hiện khi dịch vụ Voip đã phát triển vượt bậc. Các ứng dụng trao đổi thông tin nhanh instant message dạng client mọc lên như nấm. Sử dụng ứng dụng này, nhà giáo có thể tổ chức các buổi học từ xa hay hội thảo nhóm qua mạng, thu hẹp khoảng cách địa lí và thuận lợi cho sự chuẩn bị, cũng như không tốn nhiều chi phí. Hiện, các dịch vụ hỗ trợ conference call miễn phí chỉ cho phép số lượng người hạn chế tham dự vào cuộc thoại (Skype cho phép 5). Khi chấp nhận đóng phí, người sử dụng sẽ có thêm nhiều lựa chọn hơn. Tương lai của dịch vụ điện thoại và lợi ích của công nghệ thông tin đối với các doanh nghiệp, và cả giáo dục nữa có thể lấy đây là một ví dụ điển hình.
7. Xây dựng công cụ trao đổi thông tin đa chiều với đồng nghiệp và người học:
Các hiện tượng dịch vụ xã hội trực tuyến mọc lên như nấm sau mưa trong thời gian vừa qua. Có nhiều điều đáng bàn về ảnh hưởng của chúng tới giáo dục và xã hội. Có thể dễ thấy, giới trẻ hiện nay, trong đó phần lớn là độ tuổi đang còn đi học vướng quá nhiều thời gian vào giải trí trực tuyến mà lơ là vào việc chính. Tuy nhiên, một “hiệu ứng ngược” mà nhiều nhà giáo dục và các nhà phân tích chưa đề cập nhiều đó là khả năng trao đổi thông tin dựa vào các ứng dụng trực tuyến và mạng xã hội còn khá hạn chế giữa người học và người dạy khi thế hệ trẻ rất “nhạy cảm” với công nghệ mới. Đã có một số nhà giáo mạnh dạn xây dựng công cụ trao đổi thông tin, học thuật với người học nhưng còn chưa nhiều. Đáng lưu ý như trang hmong-mienstudy.net của TS. Nguyễn Văn Hiệu chuyên giới thiệu các bài nghiên cứu về nhóm ngôn ngữ Mông-Dao ở Việt Nam, tuy khá công phu nhưng gần đây không thấy cập nhật!
Để trở thành những nhà giáo của thế kỉ mới, thiết tưởng, tự xây dựng một trang diễn đàn (forum) hay blog để làm cầu nối với người học là một việc làm cần thiết. Song, cũng cần quan tâm một vấn đề là thời gian và công sức.
8. Tích cực sử dụng mã nguồn mở
Sử dụng phần mềm mã nguồn mở sẽ nâng cao nhận thức tác quyền và sở hữu trí tuệ .Thông qua việc phổ dụng các sản phẩm mã nguồn mở thay thế cho các phần mềm thương mại tương đương, nhà giáo có thể truyền bá tinh thần tự do và ý thức tôn trọng giá trị tinh thần và sản phẩm trí tuệ của người sáng tạo đến người học. Mới đây, các văn phòng Đảng uỷ trên cả nước, rồi tiếp theo là công văn số 12966/BGDĐT-CNTT của bộ giáo dục yêu cầu toàn ngành, trong năm 2008 phải sử dụng phần mềm mã nguồn mở bao gồm Open Office (ứng dụng văn phòng), Unikey (bộ gõ tiếng Việt), FireFox (trình duyệt) và coi đây là một tiêu chí chấm thi đua. Có thể nói, đây là một bước đi quan trọng của ngành khi tình trạng vi phạm bản quyền ở nước ta nói chung, tình trạng sử dụng các phần mềm thương mại bất hợp pháp trong các cơ sở giáo dục đào tạo nói riêng là rất phổ biến.
Tiếp cận và bước đầu thay thế những công cụ vẫn sử dụng thường nhật có bản quyền như Word, EXCEL, VietKey...là không quá khó nhưng trên hết, chúng thể hiện cách “ứng xử” và ý thức của người dùng. Thiết tưởng, là những người “gõ đầu trẻ” của thời đại mới, mỗi nhà giáo cần nắm rõ những quy định về luật sở hữu trí tuệ và tác quyền, nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin vốn từ trước đến nay ở nước ta vẫn chưa được coi trọng...
9. Nắm vững các công cụ và kĩ năng chia sẻ dữ liệu
Muốn gửi tài liệu qua mạng, muốn trao đổi thông tin, bài dạy với người học...thì phải làm như thế nào? Những câu hỏi này là rất phổ biến trong quá trình công tác của bất kì người giáo viên nào. Xem ra, những vấn đế vốn rất bình thường với mỗi người sử dụng mạng internet có thâm niên, lại là câu hỏi đau đầu của nhiều người. Không những thế, quan ngại này còn gây nên những hiền phức không đáng có, thậm chí là tốn kém. Hãy ghé qua các trang rapidshare.com. megaupload.com, 4share.com, divshare.com, esnips.com, box.net... hoặc gần gũi hơn là nhờ tới dịch vụ đính kèm của Gmail, Yahoo ... để sở hữu không gian lưu trữ miễn phí một cách dễ dàng.
10. Xây dựng thương hiệu nhà giáo và tích cực đóng góp với cộng đồng
Công việc của một nhà giáo ở bậc đại học ngoài giảng dạy là nghiên cứu khoa học. Các tạp chí chuyên ngành, sách in cá nhân chính là nơi thể hiện rõ nhất khả năng của nhà giáo. Song, bên dòng chảy “vang động” của cuộc sống và thời đại với sự bùng nổ như vũ bão của hàng loạt những nhân tố, sự kiện mới xẩy ra hoặc sinh thành...người giáo viên còn một cách khác để khẳng định “thương hiệu” của mình, đồng thời cũng chính là đóng góp tích cực hơn nữa cùng hàng trăm ngàn đồng nghiệp, cộng sự thông qua các nguồn tài liệu đang cần sự đóng góp của các cộng tác viên. Mới đây, một tác giả xây dựng trang vietsciences.orgchuyên đóng góp các bài báo chuyên sâu đã được nhận giải thưởng Hiệp sĩ CNTT hay trang viet-studies.info của GS Trần Hữu Dũng cũng là một địa chỉ tin cậy của nhiều nhà nghiên cứu và bạn đọc. Không những thế, các tác giả khi tham gia đóng góp vào cộng đồng sẽ nhận được phản hồi “nóng” từ phía bạn đọc, đó chắc chắn là những nhận xét quý giá cũng như những tâm tình chân thành...
Thiết tưởng, đó cũng là một cách để mang tinh thần tự nguyện vốn sẵn lòng trong mỗi người giáo viên có thể bắt gặp những luồng gió mới từ thời đại để lan toả và bay cao.
Điều gì tạo nên một giáo viên dạy giỏi?
Share on facebookShare on linkedinShare on twitterShare on emailMore Sharing Services33
Ngày đăng: 19-04-2011
Đọc: 7882 lượt
Điều gì tạo nên một giáo viên dạy giỏi?
NESCO đã xuất bản một cuốn sách với tựa đề Điều gì tạo nên một giáo viên giỏi? (1996). Đã có hơn 500 học sinh thuộc khoảng 50 nước có độ tuổi từ 8 - 12 đóng góp ý kiến(Mình lấy dẫn chứng của trẻ thơ, vì chính các em nói đúng suy nghĩ của các em_để thâm khảo thôi):
Yuventius, Jakarta, Indonesia
Một giáo viên giỏi không chỉ dạy bằng trí tuệ mà còn dạy bằng con tim.
Syanne Helly, East Java, Indonesia
Một giáo viên giỏi nên có 3 điều kiện sau:
1. Trình độ kiến thức
2. Kỹ năng nghề nghiệp
3. Phẩm chất cá nhân
Có một câu nói rằng: "Nếu cho tôi con cá và tôi sẽ có cá ăn trong một ngày, nếu dạy tôi cách câu cá, tôi sẽ có cá ăn suốt đời". Đây chính là triết lý dành cho một người thầy giỏi. Người thầy cần kiên nhẫn và dễ mến, linh hoạt và uyên bác; có khả năng chịu đựng, thoáng trong tư duy và có khả năng hài hước. Nhiệt tình và thích thú giảng dạy; là người chân thật, giàu trí tưởng tượng và sáng tạo; có khả năng tổ chức, khiêm tốn, nguyên tắc và hữu ích.
Sheeba Ramachandran, Buraidha, Ả Rập Saudi
Giáo viên giỏi là người giúp đỡ học sinh với tất cả sự tôn trọng. Người thầy giỏi giúp học sinh có thể sống một cuộc sống tốt đẹp hơn. Người thầy dạy học sinh cách ra quyết định trong mọi điều kiện. Người thầy giỏi trong mắt học trò là người có tư cách đạo đức trong xã hội và là hình mẫu trong quá trình xây dựng xã hội mới.
Mirjana Kazija, Rijeka, Croatia
Tôi tốt nghiệp ngành giáo viên tiếng Anh ở Albania. Để trở thành một giáo viên giỏi cần thiết phải giàu kiến thức, nhạy cảm và là người thông minh bởi vì với những phẩm chất trên bạn sẽ có đủ khả năng thấu hiểu suy nghĩ và hành vi của học sinh; để từ đó mới có thể giúp chúng được nhiều hơn. Giáo viên cũng cần thiết giống như một chuyên gia trong thế giới của người học.
Migena Mullaj, Reseda, California, Mỹ
• Một giáo viên giỏi là người có thể dạy cho tất cả học sinh và thấu hiểu đối tượng học sinh nào cần sự giúp đỡ gì.
• Một giáo viên giỏi cần có kỹ năng giao tiếp hiệu quả; tuy nhiên giáo viên giỏi là người hiểu được lúc nào cần thay đổi cách giao tiếp để đảm bảo học sinh có thể nắm bắt được kiến thức.
• Một giáo viên giỏi cho phép học sinh đặt câu hỏi và trả lời, đồng thời giúp cho những học sinh khác hiểu thêm vấn đề.
• Một giáo viên giỏi có những quy tắc trong lớp học và qui trình giúp cho học sinh tự học.
• Một giáo viên giỏi cần khuyến khích các học sinh hợp tác với nhau.
• Một giáo viên giỏi có khả năng ứng biến và thay đổi bài học đúng theo trình độ của học sinh.
• Một giáo viên giỏi lúc nào cũng tôn trọng tất cả học sinh và khuyến khích học sinh đạt thành tích tốt trong học tập.
Kukubo Barasa, Nairobi, Kenya
Mỗi người đều có chính kiến của mình và không ai có thể làm hài lòng hết tất cả mọi người. Thật khó để mô tả rõ ràng chân dung của một giáo viên giỏi là như thế nào. Tôi nghĩ rằng giáo viên giỏi là người có khả năng dạy cho tất cả mọi dạng học sinh khác nhau, giúp cho các bé ham thích việc học và làm sao để học sinh dễ hiểu bài. Giáo viên giỏi là một giáo viên dễ mến, là người làm cho học sinh luôn muốn được đến trường và trên hết là người có khả năng kiểm soát học sinh.
Christian Berger, Santiago, Chi lê
Giáo viên giỏi là người có khả năng tự học.
Astrid, Perth, WA, Úc
Giáo viên giỏi là người không thiên vị, không bảo thủ, sáng suốt, biết khám phá cuộc sống, có khả năng tự học.
Aly AlSabbagh, Cairo, Ai Cập
Tôi tin rằng một giáo viên giỏi có những đặc điểm sau đây:
• Yêu trẻ và hiểu tính cách từng học sinh để giúp chúng vượt qua được những vấn đề của trẻ.
• Quan tâm và chia sẻ là cách giáo viên hiểu trẻ nhiều hơn.
• Dành được lòng tin của học sinh.
Ngozi Ekwerike, Nigeria
Một người bạn thật sự là người hiểu tất cả về bạn và yêu mến bạn. Giáo viên giỏi cũng là một người bạn tốt, dạy dỗ học sinh bằng tất cả tình yêu thương.
Fe Espiritu, Philippines
Giáo viên giỏi không đơn giản là nói với học sinh những gì được viết trong sách mà chỉ cho học sinh về những gì đang diễn ra trên thế giới này.
Ruth Agamah, Nigeria
Một giáo viên giỏi sẽ làm mọi thứ trong quyền hạn của mình để làm cho học sinh cảm nhận được tình yêu thương và thành công trong việc học.
Zaira Alexandra Rodriguez Guijarro, Mexico
Giáo viên giỏi đối xử với học sinh giống như đối xử với chính con cái của mình. Giáo viên cần trả lời mọi câu hỏi của học sinh ngay cả những câu hỏi ngớ ngẩn.
Fatoumata, Chad
Để trở thành một giáo viên giỏi, bạn không chỉ dạy chúng mà còn học từ chúng.
Tasha-Leigh, Jamaica
Một giáo viên giỏi có khả năng đáp ứng nhu cầu của người học chứ không chỉ đơn giản là dạy theo chương trình.
Omar, Ma rốc
Tôi thích giáo viên nào giúp cho tôi có khả năng tư duy và tự giải quyết những vấn đề của mình.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com