nl
1/. Những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm:
- Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt tối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận.
- Kinh nghiệm là rất quý, góp phần thành công trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định và là cơ sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm một nơi, một lúc nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn khi điều kiện, hoàn cảnh thay đổi. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ nguyên nhân chủ quan: dễ thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, ngại học lý luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ thuật, coi thường giới trí thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ.
+ nguyên nhân khách quan: sự tồn tại phổ biến nền sản xuất nhỏ, trình độ dân trí thấp, khoa học – kỹ thuật chưa phát triển, Nho giáo phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề.
2/. Những nguyên nhân cơ bản của bệnh giáo điều:
- Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể, áp dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn, máy móc.
- Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ theo kiểu “tầm chương trích cú”; hiểu lý luận một cách phiến diện, hời hợt, biến lý luận thành tín điều và áp dụng lý luận một cách máy móc; vận dụng sai lý luận vào thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận. Nguyên nhân của bệnh giáo điều là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ hiểu lý luận bằng kinh nghiệm, hiểu lý luận một cách đơn giản, phiến diện, cắt xén, sơ lược
+ xuyên tạc, bóp méo lý luận
3/. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả:
Hoàn cảnh giai cấp vô sản của nước ta trong buổi đầu cách mạng vừa giành độc lập tự do làm mảnh đất màu mỡ cho các
bệnh này phát triển nhanh, tuy nhiên chúng ta đã để chúng tồn tại quá dài. Để khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều, chúng ta cần phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác – Lênin. Cụ thể:
- Bám sát thực tiễn, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên kiểm tra trong thực tiễn và không ngừng phát
triển cùng thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn;
- Phải coi trọng lý luận và công tác lý luận; nâng cao dân trí, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, phổ biến
rộng rãi tri thức khoa học – công nghệ…;
- Phải đổi mới công tác lý luận của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Quán
triệt nhiệm vụ, hướng nghiên cứu chủ yếu và phương châm lớn chỉ đạo hoạt động lý luận của Đảng;
- Hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì kinh tế thị trường luôn vận động và biến đổi, đòi
hỏi mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó cho
phù hợp
- Phải đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn bằng
cách:
+ từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện; 14
+ thường xuyên đối chiếu lý luận với cuộc sống, vận dụng lý luận vào hoàn cảnh thực tế của nước ta;
- Coi trọng và thường xuyên tổng kết thực tiễn, qua đó sửa đổi, phát triển lý luận đã có, bổ sung hoàn chỉnh đường lối,
chính sách, hình thành lý luận mới, quan điểm mới để chỉ đạo sự nghiệm đổi mới xã hội.
1 (3) Đường lối đổi mới của nước ta hiện nay trên lĩnh vực kinh tế là :
Trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đảng ta đang vận dụng quy luật sao cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, trên thực tế Đảng và Nhà nước ta đang từng bước điều chỉnh quan hệ sản xuất cả tầm vĩ mô và vi mô, đồng thời coi trọng việc đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất.
Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta trong suốt mấy chục năm qua thực tiễn đã cho thấy những mặt được cũng như những những mặt còn hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế cũng như quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất vào thực tiễn ở nước ta, với đặc điểm của nước ta là Nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, con trâu đi trước cái cày đi sau, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng chính: lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh, thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh (thường gọi là dân doanh, thuộc kinh tế tư nhân).
Điểm nổi lên là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu … vì vậy khâu trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
• Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
• Đổi mới về nội dung và cách thức công nghiệp hóa, thực hiện 3 chủ trương kinh tế:
o Sản xuất lương thực, thực phẩm
o Sản xuất hàng tiêu dùng
o Sản xuất hàng xuất khẩu
Đồng thời phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần (nhiều hình thức sở hữu đan xen nhau) là phù hợp với yêu cầu phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay.
o Kinh tế Nhà nước
o Kinh tế tập thể
o Kinh tế cá thể tiểu chủ
o Kinh tế tư bản tư nhân
o Kinh tế tư bản Nhà nước
o Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Tuy nhiên, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Có nhiều hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp).
Đồng thời không ngừng đổi mới chính trị, củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” .
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta (xây dựng lực lượng sản xuất)
Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội (củng cố đổi mới kiến trúc thượng tầng)
Đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới quản lý và điều hành của nhà nước cho phù hợp với cô cấu và cơ chế kinh tế mới.
Đổi mới về quan hệ hợp tác quốc tế theo hướng mở, kêu gọi hợp tác và đầu tư nước ngoài
2 (3) Trả Lời :
- Khái niệm cơ sở hà tầng
- Khái niệm kiến trúc thượng tầng
- Quan hệ biện chứng CSHT và KTTT
v CSHT quyết định KTTT
v KTTT tác động trở lại với CSHT
Đảng ta vận dụng như thế nào trong công cuộc đổi mới hiện nay :
Chính vì những lý do đó mà nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế lạc hậu sản xuất nhỏ là chủ yếu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết với nhau, bổ xung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý
Trong văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ghi rõ “Phải tập chung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và một số công trình công nghiệp then chốt đã được chuẩn bị vốn và công nghệ. Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo, y tế”. Đồng thời văn kiện Đảng cũng ghi rõ: ”Từ nay tới cuối thập kỷ, phải quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột. Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực của xã hội thuộc về nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi cá nhân. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ: ”Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội không tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.
3(3)
Anh/Chị hãy trình bày quan điểm mácxít về đấu tranh giai cấp và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay như thế nào? Bích Ngọc – Bảo Ngọc – Yến Oanh – Hoàng Oanh
1. Quan điểm Mác xít về đấu tranh giai cấp:
- Đấu tranh giai cấp là quá trình tất yếu khách quan của xã hội có áp bức bóc lột. đó là cuộc đấu tranh giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị đối kháng về quyền lợi không thể dung hòa được.
- V.I.Lenin cho rằng đấu tranh giai cấp trong lịch sử và ngày nay không phải là những cuộc bạo loạn, khủng bố, phá hoại mà nó thực chất là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn áp bức, ăn bám, đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống giai cấp tư sản.
Nguyen nhân của đấu tranh giai cấp:
- Do mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất mới tiến bộ và quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu
- Về mặt xã hội đây là mâu thuẫn biểu hiện giữa giai cấp cách mạng tiến bộ đại diện cho lực lượng sản xuất mới và giai cấp thống trị bóc lột đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
Hình thức đấu tranh
Tùy thuộc hoàn cảnh lịch sử, giai cấp tham gia đấu tranh, giai đoạn phát triển đấu tranh mà đấu tranh giai cấp diễn ra dưới nhiều hình thức. ngày nay cách mạng xã hội chủ nghĩa đang thời kì tháo troài giaicấp công nhân các nước tư bản đấu tranh bằng những hình thức mới chống lại những thủ đoạn của giai cấp thống trị bảo vệ lợi ích giai cấp trước mắt và lâu dài của công nhân và nhân dân lao động.
2. vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển xã hội có giai cấp đối kháng
- đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển quan trọng của xã hội có giai cấp. vì đấu tranh giai cấp giúp thay đổi phương thức sản xuất cũ, lỗi thời, lạc hậu bằng phương thức mới cao hơn, đồng thời xây dựng lực lượng sản xuất mới phù hợp quan hệ sản xuất tạo cơ sở phát triển mọi mặt đời sống xã hội.
- đấu tranh giai cấp giúp cải tạo các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động thong qua việc xóa bỏ tập quán sản xuất do giai cấp thống trị sản sinh ra
- đấu tranh giai cấp là đòn bẩy phát triển lịch sử cách mạng, là động lực phát triển các mặt đời sống xã hội trong thời kì phát triển bình thường. đấu tranh là động lực để giai cấp tư sản đổi mới phương thức quản lý, sử dụng kỹ thuật mới để tạo nên những thành tựu mới.
- vai trò đấu tranh giai cấp thể hiện ở những cuộc đấu tranh mang tính quần chúng rộng lớn, do lực lượng tiến bộ và xã hội lãnh đạo, được tổ chức khoa học nhằm đánh đổ giai cấp thống trị cản trở phát triểnxã hội.
3. sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam về đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
- thời kì quá độ đi lên CNXH ở nước ta tồn tại nhiều giai cấp và mâu thuẫn giai cấp. tuy nhiên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường quá độ lên CNXH, mâu thuẫn này bộc lộ là mâu thuẩn trong nội bộ nhân dân. Nhìn chung lợi ích giai cấp tư sản thống nhất lợi ích cộng đồng, đấu tranh là hợp tác, đoàn kết xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh.
- thực chất đấu tranh giai cấp ở nước ta trong thời kì quá độ là đấu tranh giữa khuynh hướng tự giác theo định hướng XHCN và khuynh hướng phát triển tự phát lên TBCN. Trong quá trình đó, nhất thiết chúng ta phải phát triển kinh tế hang hóa nhiều thành phần trong đó có thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
- đấu tranh giai cấp ở nước ta diễn ra hang ngày trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. vì vậy Đảng ta luôn xác định rõ cần phải:
· Đấu tranh chống khuynh hướng và biểu hiện tiêu cực của tầng lớp tư sản.
· Đấu tranh chống khuynh hướng tự phát TBCN của sản xất nhỏ.
· Đấu tranh chống các thế lực thù địch, âm mưu diễn biến hòa bình, phá hoại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
· Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ tổ quốc, bảo vệ quyền làm chủ nhân dân.
· Xây dựng nền kinh tế thị trường, thực hiện CNH, HĐH định hướng XHCN, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại làm cho đời sống vật chất và tinh thần nhân dân không ngừng nâng cao.
- để đạt được các mục tiêu trên đòi hỏi sử dụng nhiều hình thức đấu tranh khác nhau, vừa mểm dẻo, vừa cương quyết.
Tóm lại, giai đoạn hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải nắm vững biện pháp duy vật, nắm vững quan điểm giai cấp của CN mác-Lenin để phân tích được tính chất tình hình gay go, phức tạp của đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ tránh rơi vào thái cực sai lầm: quá cường điệu đấu tranh giai cấp đi đến rụt rè, không dám đổi mới, mơ hồ, mất cảnh giác đi đến phủ nhận đấu tranh giai cấp.
4 (3)tham khảo
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã đúc rút được bài học kinh nghiệm quý báu cả về lý luận và thực tiễn, và đó cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản đưa đến thành công của công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua: đổi mới phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phải dựa vào nhân dân.
Facebook Twitter 0 bình chọn Viết bình luận Lưu bài này
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhiều lần nhắc nhở cần phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải bàn bạc, thảo luận với nhân dân những vấn đề “quốc kế dân sinh”. Người cho rằng: “Việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc và giải thích cho dân chúng”, vì “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”. Từ xưa đến nay, nhân dân không chỉ là lực lượng vĩ đại tạo nên sức mạnh vật chất, tinh thần, mà còn là trí tuệ, là sự sáng tạo của dân tộc. Dựa vào nhân dân để xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội là chủ trương, quan điểm hoàn toàn đúng đắn, được Đảng và Nhà nước ta quán triệt, thực hiện nghiêm túc trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước đây, cũng như trong công cuộc đổi mới, CNH-HĐH đất nước hiện nay.
Từ quan điểm “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử...Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”. Nên điều đầu tiên khi thực hiện đường lối đổi mới là Đảng đã coi lợi ích chính đáng của nhân dân là một động lực mạnh mẽ để phát triển sản xuất, kinh doanh, để phát triển đất nước. Phát huy cao độ tinh thần yêu nước, sự lao động cần cù, sáng tạo, đi đôi với bảo đảm những lợi ích thiết thân của người lao động chính là cách tốt nhất, hiệu quả nhất để khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo trong nhân dân. Việc thực hiện chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tất cả đều là của dân, do dân và vì dân đã thực sự động viên, cổ vũ đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào phát triển sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, quản lý xã hội và các hoạt động cải cách kinh tế, hình thành và từng bước hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng XHCN. Suốt 25 năm qua, công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã luôn đi theo đúng định hướng đó và đã gặt hái được những thành quả vô cùng to lớn, quan trọng, làm thay đổi cả vị thế và diện mạo đất nước.
Mặt khác, dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước, đoàn kết, tự lực, tự cường. Trong quá trình đổi mới vừa qua, Đảng ta đã tập trung vào việc “Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới” làm điểm tựa, làm đòn bẩy với mục tiêu giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chính từ sự đồng thuận, phấn đấu bền bỉ, kiên cường của toàn dân, toàn quân; sự lao động sáng tạo của công nhân, nông dân, trí thức, của các doanh nhân và sự đóng góp to lớn của các thành phần kinh tế mà sự nghiệp đổi mới của chúng ta đã thành công, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển và “đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp hơn nhiều so với trước”, “bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Sức mạnh về mọi mặt được tăng cường; độc lập chủ quyền và chế độ XHCN được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới” (văn kiện đại hội XI của Đảng). Cũng từ đó mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân được tăng cường, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới được củng cố.
Đại hội XI của Đảng đã đề ra mục tiêu quan trọng: “Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, nhất là tiếp tục đẩy mạnh đổi mới toàn diện đất nước, yêu cầu đặt ra lúc này là nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả điều hành, quản lý của Nhà nước và phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân nhằm động viên mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tích cực tham gia vào bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Dựa vào nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy dân chủ XHCN và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ là nguồn động lực to lớn để toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và giành được những thành quả to lớn hơn trong công cuộc đổi mới ở những năm tiếp theo.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com