Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 262: Thánh hồ Manasarovar

Editor: snowie

Thánh hồ Manasarovar cao hơn so với mực nước biển 4588 thước, diện tích đạt 412 km2, chỗ sâu nhất là gần 80 thước, là hồ nước ngọt cao nhất trên thế giới và cũng là hồ nước ngọt trong suốt cao nhất ở nước ta. Hồ được bao quanh bởi bốn nguồn nước đặt theo tên của ngựa, sư tử, voi và khổng tước trên trời, theo thứ tự lần lượt là sông Brahmaputra ở phía đông, sông Ấn Độ ở phía Bắc, sông Sutlej ở phía Tây, và sông Karnali ở phía Nam. Mà nó cũng là ngọn nguồn của sông Hằng, sông Ấn Độ, sông Sutlej và sông Brahmaputra nổi tiếng ở Nam Á, có danh tiếng là "Mẹ của các dòng sông trên thế giới". Vì vậy, tuy nó có diện tích nhỏ nhất trong ba thánh hồ trên đỉnh cao nguyên, nhưng lại nổi tiếng không thua kém gì núi thiêng Kailash "Vua của các ngọn núi", là vua của các thánh hồ.

Theo truyền thuyết của Ấn Độ, thánh hồ là nơi mà thần Shiva và vợ là Nữ thần Uma, con gái của thần núi Himalaya tắm rửa, và gọi nó là hồ Manasarovar. Trong kinh điển Ấn Độ cổ đại ghi lại rằng: bất cứ ai để thân thể chạm vào lãnh thổ Manasarovar hoặc tắm mình trong làn nước của nó, sẽ được lên thiên đường của Brahma; ai uống nước của nó sẽ được lên Thiên Cung của Shiva và thoát khỏi tội lỗi của một trăm kiếp luân hồi. Truyền thuyết địa phương về đỉnh cao nguyên tin rằng đây là nơi mà Thần Rồng sinh sống, vì vậy tên của thánh hồ lần đầu tiên được các tín đồ [1] Bôn giáo đặt theo tên vua rồng là "Manas", và gọi nó là "Manasa". Cho đến thế kỷ 11, một cuộc chiến tranh tôn giáo đã xảy ra ở ven hồ, và giáo phái Kagyu của Phật giáo Tây Tạng đã đánh bại đạo Bôn. Cái tên "Manasa" của hồ đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ, sau được đổi thành "Hồ Manasarovar", có nghĩa là "hồ ngọc bích vĩnh cửu và bất diệt". Huyền Trang, một nhà sư lỗi lạc trong thời nhà Đường, mô tả Manasarovar trong cuốn sách 《 Đại Đường Tây vực ký》- "Ghi chép về các khu vực phía Tây của triều đại nhà Đường", và gọi nó là "Ao ngọc Tây Thiên". Rất nhiều tôn giáo tin rằng Manasarovar là hồ nước linh thiêng nhất, là mật hoa tối cao do Thánh bổn tôn Đại Mãn Nguyện ban tặng cho tất cả chúng sinh. Dùng nước trong hồ tắm rửa có thể thanh lọc tâm trí, giải trừ ưu phiền, xóa bỏ vọng tưởng, xóa bỏ tội lỗi, bồi bổ cơ thể. [2] Chuyển kinh xung quanh hồ, ai chẳng thu được phước đức.

[1] Bôn/Bon giáo: tôn giáo bản địa của Tây Tạng , khi được tiếp thu bởi các truyền thống Phật giáo du nhập từ Ấn Độ vào thế kỷ thứ 8, đã mang lại cho Tây Tạng Phật giáo có nhiều nét đặc biệt.

[2] Chuyển kinh: hay cầu nguyện, là một hoạt động tôn giáo của Phật giáo Tây Tạng, tức là đi bộ và cầu nguyện quanh một tuyến đường cụ thể.

"Tỷ tỷ, vây xung quanh thánh hồ có tất cả chín ngôi đền, trong đó có đền Selong, đền Nieguo, đền Chuguo, đền Guozu, đền Jiwu (Cát Ô) và đền Jiaqi. Ở phía đông có cửa tắm Liên Hoa (hoa sen), phía nam có cửa tắm Hương Điềm (ngọt ngào), phía tây có cửa tắm Khứ Ô (tẩy uế), và phía bắc có cửa tắm Tín Ngưỡng. Nước thánh có thể rửa sạch [3] 'Ngũ độc' trong lòng người và tẩy sạch những vết bẩn trên da thịt của con người. Hàng năm đều có rất nhiều người Bác Ba (Tây Tạng), người Thiên Trúc (Ấn Độ), và người Ni Cô La Bà (Nepal) đến đây để tắm rửa. Nếu tỷ thích thì tối nay chúng ta sẽ đến cửa Khứ Ô phía tây để tắm rửa trước, đền Cát Ô ở đó cũng là nơi Thượng sư Liên Hoa Sinh đã tu hành."

[3] Ngũ độc: Theo quan niệm của người xưa, 'Ngũ độc' bao gồm bò cạp, rắn, rết, thạch sùng và cóc, vào tiết Đoan Ngọ, vẩy nước vào gầm giường, góc tường để trừ độc.

Đa Cát ở phía sau nắm lấy thắt lưng của La Chu, ghé ở bên tai nàng ôn nhu kể lại chuyện thánh hồ Manasarovar xưa.

Sau khi xuống núi, hắn liền giảm tốc độ, đi chậm trên con đường hoang vắng vắng vẻ. Mãi cho đến khi kiệt sức, hắn cũng đã bôi thuốc vẽ loạn cho nữ nhân trong lòng xong, lúc này mới chấn chỉnh dọn dẹp, thoả mãn đi vòng quanh quỷ hồ Rakshastal, rồi đi bộ qua ngọn núi tới thánh hồ Manasarovar.

La Chu yên lặng lắng nghe. Giống như Quỷ hồ Rakshastal, một phần truyền thuyết và lịch sử mà nguỵ đồng Đa Cát kể thì ra cũng giống với thời gian và không gian lịch sử ban đầu. Tuy có một phần quỹ đạo đã thay đổi, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là cùng một lịch sử. Ví dụ, cái tên Manasarovar này không phải là để kỷ niệm chiến thắng của giáo phái Kagyu của Phật giáo Tây Tạng đối với đạo Bon, mà là được thay đổi bởi một vị Pháp vương Bon giáo tôn minh ở Ngari sau khi nghe lệnh của các vị Thần Phật trong một cuộc hành hương cách đây một trăm năm. Một ví dụ khác là một số ngôi đền đóng giữ ở bên hồ. Không chỉ xuất hiện từ trước và tên gọi của chúng vẫn được giữ nguyên, mà chúng không còn nằm dưới sự giám sát của các giáo phái Gelug, giáo phái Drikung Kagyu và các giáo phái khác ở đó, tất cả đều được xây dựng và trụ trì bởi các nhà sư của giáo phái Bon và Phật ở Ngari. Còn có rất nhiều ví dụ khác như vậy, La Chu chỉ có thể cảm khái rằng thế giới to lớn huyền bí vô cùng, trong bóng tối chắc hẳn còn ẩn chứa nhiều bí mật nữa.

Trời xanh trong như thủy tinh, mây trắng bị gió thổi bay tán thành từng sợi, như tơ, như khói, tự do trôi dạt. Đứng ở phía Đông của hồ, nhìn về phía Tây dọc theo đường ven bờ thẳng tắp, dãy núi Gangdise bên phải hùng vĩ, uy nghiêm, hoang vắng và cổ kính. Trong số những ngọn núi đó, ngọn núi đứng cao sừng sững, được đạo Bon, đạo Kỳ Na, đạo Hindu và Phật giáo Tây Tạng coi như trung tâm của thế giới, chính là ngọn núi thiêng Kailash. Trên nền trời quang đãng, núi Kailash hiện ra trước mặt, giống như một cái kim tự tháp trắng như tuyết, và máng băng khổng lồ trông giống như chữ "Vạn" (卍) trong Phật giáo. Ở bên trái là dãy Himalaya chạy dài không ngừng, với những đỉnh núi trắng như tuyết san sát cạnh nhau, tầng tầng lớp lớp. Đứng giữa chúng là một trong những ngọn núi cao nhất, gần 7700 mét - ngọn núi của thần nữ Thánh Mẫu chi sơn: Naimona'nyi (Gurla Mandhata).

Mặt hồ mênh mông như biển, trong suốt, giống như Quỷ hồ Rakshastal, khi thời tiết đẹp lại càng thêm sâu lắng, so với viên ngọc bích trân quý nhất còn trong hơn, rực rỡ ánh nắng. Mặt hồ xanh biếc phản chiếu trời xanh mây trắng, phản chiếu những ngọn núi sừng sững hai bên, đàn chim bắt đầu bay lượn ngang qua mặt nước, đàn cá đang dạo chơi bỗng giật mình với những gợn sóng nhợt nhạt, thật là một quang cảnh vô cùng đẹp mắt.

Trải rộng ở bãi cát bên hồ là từng đám cỏ lau, xen lẫn ở giữa là hoa lau sắc tím và hoa lau sắc hồng, còn có cỏ tai, cỏ liễu, ngải cứu, cỏ cói và các loài cây khác đung đưa trong gió, tản ra hương thơm thoang thoảng. Ngoài ra, có những viên đá cuội trắng xám khắc trên mình những câu chân ngôn sáu chữ đầy màu sắc, những lời mật ngôn và các kinh điển Phật giáo và Bon giáo khác, tất cả lần lượt được xếp lại xây thành một [4] đống Mani, trên đó có cắm những lá cờ cầu nguyện nhiều màu sắc hoặc cũ hoặc mới, và đầu lâu của những con bò sừng nhọn chen chúc đặt lên đầu.
[4] đống Mani

Lúc này vẫn chưa đến mùa hè, người tới hồ chuyển kinh cũng không có quá nhiều, đứng ở trên bãi cát giương mắt đứng nhìn, có thể nhìn thấy một tín đồ Bác Ba đang cầm trong tay lần tràng hạt, đứng thẳng mặt quay về phía thánh hồ, chắp tay hành lễ trên trán tụng kinh cầu nguyện. Phía trước tín đồ đó còn có một tín đồ Bác Ba khác đang không ngừng mà phủ phục, đứng dậy, rồi cúi đầu quỳ xuống. Hai người nọ mặt mũi lấm lem bụi đất, từ đầu đến chân đều bẩn kinh khủng, nhưng từ đầu đến chân đều thể hiện sự thành kính từ tâm hồn. Tới gần bên hồ, có hai tăng nhân trong hình dạng của người Thiên Trúc đang ngồi xếp bằng, mắt cụp, đầu cúi, thiền định. Góc áo của tu sĩ tung bay trong gió hồ, mang lại cho người ta ảo giác hư vô. Ngoại trừ thỉnh thoảng có một hai tiếng chim nước kêu to, thế giới trong trẻo xinh đẹp rực rỡ này dường như có vẻ yên tĩnh và trống trải đến lạ thường.

Người ta nói rằng sự ngưỡng mộ của người Ấn Độ hiện đại đối với hồ Manasarovar cũng là do tro của Mahatma Gandhi, nhà lãnh đạo nổi tiếng của Ấn Độ, đã được rải xuống hồ. Vì vậy, cứ đến mùa hè, du khách từ Ấn Độ, Nepal lại đến đây hành hương tắm biển để cầu phúc đức, họ còn lấy nước từ hồ thánh ngàn dặm về nhà làm quà quý cho người thân, bạn bè.

"Ta sợ lạnh, nên sẽ không đến thánh hồ tắm."

La Chu lặng lẽ quan sát những người hành hương dáng vóc tiều tụy một lúc, rồi mới khẽ lắc đầu với Đa Cát, dừng lại, lại nói:

"Bất quá ta muốn đi xem đền Cát Ô."

Để nhìn xem nó ở hiện tại so với tương lai có khác biệt nhiều không, để xem có còn tìm được suối nước nóng trong khe núi đối diện đền Cát Ô mà nàng đã từng ngâm qua không, hay để xem có thể tìm thấy một chút hơi thở quen thuộc trong ký ức xa xôi của một nơi nàng đã từng đến trong thời hiện đại hay không.

"Tỷ tỷ, tỷ —— đang nhớ nhà của mình phải không?"

Thanh âm bên tai mềm nhẹ trong veo sạch sẽ giống như nước trong thánh hồ, cánh tay gầy guộc ở bên hông chậm rãi nâng lên trên, ôn nhu mà thương tiếc đưa ngang qua ngực, ôm trọn lấy đầu vai của nàng. Đợi thật lâu không thấy nàng trả lời, giọng nói lại nhẹ nhàng vang lên:

"Tỷ tỷ, thê tử của ta, ta hứa hẹn sẽ cùng với ngươi đi tới chân trời góc biển, đối với ngươi vĩnh viễn sẽ không rời không bỏ. Cho dù tỷ có không về được nhà, cũng tuyệt đối sẽ không cô đơn tịch mịch."

Mặc kệ lời nói của nguỵ đồng đang ôm lấy mình phía sau là thật hay là giả, cho dù lời nói của hắn chỉ có vài phần thật lòng, ít nhất tại giờ khắc này đây, lời nói của hắn giống như một dòng nước thánh, không tiếng động khẽ chảy vào trái tim, thấm đẫm lấp đầy khoảng trống cô đơn chợt vỡ òa trong tâm hồn, cũng làm vơi đi nỗi nhớ nhà nhỏ nhoi ấy.

"Đa Cát, ta không phải tín đồ, có thể cưỡi Cách Kéo mà chuyển kinh sao?" Nàng hơi ngẩng mặt lên, nhẹ giọng hỏi.

"Có thể." Đa Cát cười gật đầu, cách lớp khăn che vô cùng thân thiết mặt kề mặt với nàng, vì nàng mà sửa sang lại cái mũ hơi lệch,

"Tỷ tỷ, tỷ có tâm là tốt rồi."

Cặp mắt to màu rám nắng tinh thuần trong sáng, trong veo như gợn sóng thánh hồ nhìn nàng chăm chú và dịu dàng, trái tim của La Chu không khỏi hơi hơi khẽ động, hai má dưới lớp khăn che đột nhiên sinh ra một luồng khô nóng cực nhạt. Nàng kìm nén sự rung động của trái tim, bình tĩnh nhìn ra chỗ khác, chậm rãi quay đầu nhìn về phía xa xăm.

Cách Kéo từng bước nhỏ chạy tới, gió thổi vụt qua bên tai, sau lưng truyền đến một mảnh ấm áp. Mặt trời ở giữa bầu trời hơi chếch về phía tây, vầng thái dương trắng sáng chiếu xuống một màu vàng nhạt ấm áp, làm cho mặt hồ càng thêm lấp lánh, giống như được rắc vàng, tích tụ toàn bộ vàng bạc châu báu của Long Vương.

"Núi thiêng Kailash sừng sững kiêu hãnh đứng thẳng, như một người đàn ông đa tình nhìn xuống thánh hồ dưới chân. Những đám mây trắng là tấm bùa hộ mệnh do bàn tay khéo léo của tỷ tỷ dệt nên. Ta đang tìm kiếm một viên đá mani tượng trưng cho tấm chân tình của mình. Những lá cờ cầu nguyện đầy màu sắc đã thuyết phục ta từ bỏ dục vọng trần gian, nhưng ta vẫn kiên trì nán lại bên cạnh tỷ tỷ. Niềm vui của Shiva và Uma vẫn còn đọng lại trong làn sóng trùng trùng điệp điệp, trong khói dâu chín đền có dáng vóc tiều tụy của ta tôn thờ và lắng nghe thành kính không —— "

Những bản tình ca nhẹ nhàng và tiếng gió cuồn cuộn phảng phất lặng lẽ lọt vào hai tai La Chu, mà nàng không hề biết rằng, nó đang dần dần tiến sâu hơn lúc nào mà không hay.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com