Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 325: Ta muốn trở về

editor: snowie

Lời của editor: Một chương rất hay và cũng rất dài TvT
---------------------------------
Khoảng cách giữa thị trấn Bomê và Ngari là gần 2.000 km, La Chu không đi đường quốc lộ, nàng cũng không gấp, chiếc radio ở trước xe phát nhạc một lúc, sau là tiếng tăng nhân tụng kinh bằng tiếng Phạn.

Mỗi khi đến một thị trấn, nàng đều vào thị trấn để kiểm tra tu sửa xe, tiếp tế đồ vật. Ban đêm nghỉ ngơi hoặc ở trong lều trại, hoặc ở trong nhà của người dân Tây Tạng. Khi ở một mình, nàng sẽ đem tấm áo da bào trơn xước duy nhất ra mà quấn ở trên người. Khi nghỉ ngơi, nàng sẽ tháo chuỗi tràng hạt Thanh Kim thạch cuối cùng ra khỏi cổ tay trái, chậm rãi từ từ di chuyển mười tám viên tràng hạt. Lúc nàng gảy hạt, nàng cũng không bao giờ niệm chú sáu chữ chân ngôn hay sáu chữ mật ngôn, cũng không niệm bất cứ kinh văn nào, nàng sẽ ép buộc đầu óc của mình trống rỗng, không nghĩ bất cứ thứ gì.

Nàng một đường nhìn sông nhìn núi, lên chùa lễ bái. Nàng quay từng chiếc từng chiếc bánh xe cầu nguyện, thắp sáng từng ngọn từng ngọn đèn bơ.

Mặt trời buổi sáng ló dạng, chiều tà lại lặn, ngày này qua ngày khác, độ cao dần dần tăng lên, nhiệt độ dần dần giảm xuống, cảnh vật trên đường đi đã dần thay đổi từ vẻ đẹp trù phú ở miền nam Tây Tạng sang sự rộng lớn và hùng vĩ của miền tây Tây Tạng. Thứ duy nhất không đổi đó là bầu trời xanh trên cao, mặt trời chói chang, và những đỉnh núi tuyết cao ngất ở phía xa. Kền kền bay vút trên bầu trời, thỉnh thoảng sẽ có một đàn lừa hoang phi nước đại trước mặt chúng, còn có thể thấy hai hoặc ba con linh dương đứng trong vùng hoang dã, những con cáo ranh mãnh, những con chuột hoang lanh lợi, những con ngựa hoang bướng bỉnh và những con bò Tây Tạng hoang dã hùng vĩ, và còn nhiều loài động vật khác nữa. Nàng sợ nhất là đụng phải sói hoang khi đang ngủ một mình nơi hoang dã, con dao găm Thụy Sĩ cùng chủy thủ mua lại được giấu ở nơi có thể rút ra bất cứ lúc nào, hơn nữa nàng cũng chưa từng bỏ sót việc rèn luyện thân thể một ngày nào. May mắn thay, hơn nửa tháng trời trèo đèo lội suối, nàng chưa đụng phải sói hoang.

Nàng trước tiên đến huyện Purang, nơi nàng đã sống trong nửa tháng để xem các loại rau trong nhà kính do người dân địa phương trồng. Sau đó nàng đem chiếc xe ba bánh gửi tại thị trấn, đeo trên lưng túi hành lý, nhẹ nhàng đi đến núi thiêng Kailash, đỉnh của Ngari.

Núi thiêng Kailash trải dài trên ba vương quốc Trung Quốc, Ấn Độ và Nepal, giống như một kim tự tháp, vây quanh một vòng hơn 50 km. Đỉnh núi được bao phủ bởi băng tuyết suốt bốn mùa, mây trắng thường xuyên lượn lờ trên không. Bốn vách tường của núi đối xứng nhau, từ phía nam có thể nhìn thấy rãnh băng "chữ vạn 卍" nổi tiếng nhất, toát lên vẻ thần thánh uy nghiêm mà huyền bí khó lường. Trong Bon giáo Tây Tạng, khi [1] tổ sư Shenrab Miwo từ trên trời giáng xuống đã đáp tại đỉnh núi này, trong Hindu giáo, đây là thiên đường của thần Shiva và được nhiều giáo phái coi là trung tâm của thế giới.

[1] Tổ sư Shenrab Miwo: Tonpa Shenrab hay Shenrab Miwo Hayalso được gọi là Đức Phật Shenrab, Đạo sư Shenrab và một số danh hiệu khác, là nhà sáng lập huyền thoại của đạo Bon truyền thống của Tây Tạng.

Đi dọc theo khe núi, thi thoảng có thể gặp được rất nhiều người đến từ nhiều quốc gia khác nhau hành hương quanh núi. Gặp những người lữ hành giống mình, nàng sẽ mỉm cười gật gật đầu. Gặp những tăng nhân cùng tín đồ thành kính, nàng sẽ chắp tay hành lễ. Trong số những người hành hương quanh núi ấy có rất nhiều người là vì tín ngưỡng trong lòng, hay là vì lễ rửa tội của linh hồn, và cũng có thể là sự hiếu kì trong sáng. Đã từng, nàng thuộc về hai loại sau. Hiện tại, nàng chỉ vì muốn thu thập dấu ấn của ký ức. Nàng đưa tay chạm vào vách núi thiêng, nhấp một ngụm nước sông băng giá, cẩn thận bước trên những viên đá cuội nhẵn bóng. Có lẽ ở thế giới đó, khi hành hương, Ma Quỷ pháp vương cũng đã chạm vào vách núi đó, uống nước của cùng một con sông đó, cũng giẫm lên khối đá cuội đó.

Ba ngày hành hương kết thúc, nàng quay trở lại huyện Purang, lái chiếc xe ba bánh tiến về phía Thánh hồ Manasarovar. Ở thế giới kia, nàng và Đa Cát còn chưa hoàn thành việc hành hương quanh hồ, lần này, nàng sẽ tự mình hoàn thiện. Chạng vạng tối, nàng nấu hai gói mì ăn liền trên bãi cát phía bờ tây của Thành hồ nơi mà Đa Cát đã từng tắm, rồi đi ngâm mình trong suối nước nóng, tìm nơi ngủ trọ ở đền Cát Ô, cũng dành thời gian nhìn qua huyệt động nơi Liên Hoa sinh Đại sư đã tu hành. Sau khi hành hương một vòng quanh Thánh hồ, nàng tiếp tục đi tới Quỷ hồ Rakshastal, bầu trời từ sáng sủa trong xanh biến thành mây đen cuộn trào, gió của Quỷ hồ sau hàng nghìn năm vẫn mạnh mẽ như cũ, nhưng đã không còn hơi ấm thân thể gầy gò của Đa Cát che chắn cho nàng. Buổi tối, nàng tìm nơi ngủ trọ ở thôn Cát Ô.

Hồ vẫn là hồ ngày xưa, gió vẫn là gió khi xưa, nhưng ngôi đền không còn như trước, cũng không phải là thôn làng ấy nữa, ngay cả người cũng không giống. Hang động nơi Liên Hoa Sinh Đại sư tu hành tối tăm và lạnh lẽo, không còn dấu vết của khí tức quen thuộc. La Chu không rõ trong lòng quyến luyến buồn bã hơn, hay vẫn là chua xót co rút đau đớn hơn. Nước mắt tùy ý chảy xuôi trên khuôn mặt, chốc lát lại bị gió thổi khô. Nàng không tìm thấy ngọn núi nơi Đa Cát đã mang nàng nghỉ qua đêm, không tìm thấy con đường hoang vu đã từng đi qua, chỉ có thể tiếp tục chạy xe dọc theo con đường xi măng đã được xây dựng kèm theo những đường dây điện bên đường.

Con đường xi măng trên cao nguyên kéo dài, ở thời không quỹ đạo xoay chuyển ấy, trên vùng đất hoang vu rộng lớn, rong ruổi ở giữa những ngọn núi liên miên trập trùng chính là binh sĩ Cổ Cách nhanh nhẹn dũng mãnh. Nàng nhớ lại khung cảnh hơn mười vạn binh sĩ đang luyện binh khi Mãnh thú đưa nàng xuống thung lũng. Tiếng vó ngựa, tiếng giáo mác trường mâu, khí thế hào hùng thúc giục mọi người phấn chấn. Nàng nhớ rõ sau khi Cầm thú vương cởi bỏ áo choàng trên đầu nàng ra, ngổn ngang đầy đất đều là tàn chi đoạn thể của nô lệ Purang, máu nhuộm đá sỏi trên mặt đất, trong không khí tràn ngập mùi tanh rỉ sắt. Nàng càng nhớ rõ trận chiến giữa kỵ binh Cổ Cách và quân đội Delhi Sultan trên dãy Himalaya, mưa tên châu chấu, thương mâu bay vụt, ánh đao vung lên, tiếng kêu tê liệt, tiếng gào thảm thiết, máu bắn tung tóe —— Mặc dù rất tàn khốc và đẫm máu, nhưng đó là cuộc quyết đấu giữa kẻ xâm lược và bảo vệ, là một nét lịch sử độc đáo của thời đại bấy giờ.

Lịch sử loài người cho dù ở trong thời không nào cũng tồn tại chiến tranh xâm lược đẫm máu. Cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh mới có thể sinh tồn, đây chính là lẽ trời, sự hoà bình nàng nhìn thấy trong xã hội hiện đại bất quá chỉ là một góc khuất an phận. Nhìn chung ở thế kỷ 21, trên thế giới vẫn còn nhiều nơi tràn ngập khói lửa chiến tranh. Những cuộc chiến tranh công nghệ cao sử dụng súng ống, đại bác, khí sinh hóa,... thực sự còn kinh khủng hơn cả thời đại của vũ khí lạnh. Sự sợ hãi và run rẩy trước nay của nàng giờ nghĩ lại có vẻ hơi giả bộ.

Ven đường đi bắt đầu trở nên hoang vắng, chỉ có vài bụi cây thấp mọc trên những bãi đất hoang vắng, những ngọn núi cao sừng sững hầu như không hề mọc cỏ. Nàng tiến vào địa khu lòng chảo ở phía bờ Nam sông Sutlej, mặt đất được bao phủ bởi những tảng đá cuội khổng lồ, phía trước không còn đường cái. Đây là khu vực Zaburang, và tàn tích của cung điện Vương triều Cổ Cách nằm trên ngọn đồi cách đường cái không xa. Chiếc xe ba bánh của nàng đậu cùng xe địa hình của những du khách khác, thu hút vô số ánh mắt ngạc nhiên.

Chiếc mũ ngoài trời, chiếc khăn che mặt màu tím đậm chống tia bức xạ và chiếc kính râm bản to hoàn toàn che khuất khuôn mặt nàng, đối với ánh mắt kinh ngạc của người khác nàng phảng phất giống như không biết. Khi có ai đó tìm nàng nói chuyện, nàng sẽ ồm ồm trả lời một câu. Leo lên cùng với một đội bảy tám người, bước lên con dốc cao, dưới bầu trời xanh thẳm, một loạt tòa thành cao ngất xuất hiện, nhìn từ xa trông giống như một đài phong hoả cổ xưa.

Tàn tích còn sót lại của Vương triều Cổ Cách ở thế kỉ 21

Do niên đại xa xưa, cho nên đường đi của khu di tích đã khó có thể phân biệt, nàng đi theo hướng dẫn viên địa phương lên một con đường núi về phía tây, leo lên tòa thành. Du khách đi cùng không ngừng giơ máy lên chụp ảnh, trên mặt tràn đầy kích động cùng hưng phấn, mặc kệ tình trạng thiếu oxy của cao nguyên, cứ thế hò hét, cười nói. Còn nàng lại cảm thấy vô cùng mất mát, sự mất mát ấy giống như như một sợi dây thép cứa vào tim, lồng ngực đau đớn, ngột ngạt.

Không giống, tất cả đều không giống.

Lối đi bí mật đã sụp đổ nhiều, hẹp hơn và ngắn hơn, bên trên hai vách tường không còn thắp ngọn đèn bơ, không có những tên thị vệ nhanh nhẹn dũng mãnh cầm trường mâu, cũng không có những bức bích hoạ tiên diễm và hoa mỹ. Lưng chừng núi, suối nước nóng thậm chí không thấy một bóng người, một phần ba cánh cổng bằng gỗ chạm khắc khổng lồ của Bạch điện đã bị đất hoàng thổ (đất sét vàng) chôn vùi, chỉ còn sót lại mười mấy bức tượng Phật bị sứt mẻ. Cánh cửa điện màu đỏ khắc sáu chữ Chân Ngôn tiếng Phạn đã lộ ra, với những vết nứt dày đặc, Đức Thích Ca Mâu Ni cùng tám đệ tử của ngài đã bị phá hủy hoàn toàn. Có rất nhiều kinh sách nằm rải rác trên mặt đất của Cung điện Luân Hồi, được viết bằng bột giấy làm bằng vàng và bạc, một số được in mực khắc gỗ, và một số được in hình ảnh Phật tượng màu sắc rực rỡ, và lẽ ra những bộ kinh này phải được cất trong tủ Phật.

Thuận theo lối đi chật hẹp tiến về phía trước, nhảy qua những bức tường nứt, những khe núi sâu, chui qua lối đi đen kịt, tiến vào trong trung tâm của cung điện. Nhìn qua kho vũ khí trên sườn núi, ơ trong địa đạo chui tới chui lui, ngao phòng nơi Ngân Nghê sống cũng tìm không thấy. Đứng trước nơi gọi là Đông cung, hai tay mò mẫm đẩy vỡ tường đất, La Chu cơ hồ khó có thể cử động.

Cầm thú vương cao lớn như vậy, tôn quý như vậy, Đông cung tẩm phòng của hắn sao có thể thấp bé, chật hẹp, thô kệch đơn sơ như thế? Đông cung đáng nhẽ phải được chia thành hai gian trong ngoài, bên trong có một cái phòng tắm mới đúng. Cửa sổ phòng trong của Đông cung nhìn ra sông Sutlej ở phía xa đáng nhẽ phải là cửa sổ thủy tinh trong suốt, bên cạnh kê một chiếc bàn dài thấp với quyển da cừu cùng sách phía bên trên. Trên đất phải được phủ một tấm thảm dệt hoa văn dày dặn mềm mại, mái vòm cùng bốn vách tường được vẽ nhiều kiểu dáng phong phú và đẹp mắt. Ở chính giữa tấm thảm nên có hai bánh xe Bát Bảo khổng lồ cao thấp đối xứng. Chiếc giường dựa vào tường phải là một chiếc giường lớn được phủ đệm êm chăn ấm. Trong góc đáng nhẽ bày một cây đèn hoa sen sọ rồng, và viên dạ minh châu sẽ luôn phát ra ánh sáng dịu nhẹ vàng nhạt suốt đêm.

Đông cung trong trí nhớ đã biến mất, biến thành một hang động tối tăm và chật hẹp! Ở trong hang động này, nàng hoàn toàn không thể nhớ lại thời gian thân mật quấn quýt cùng với Cầm thú vương.

Nàng chui ra khỏi đường hầm, đứng trên đỉnh núi, đưa mắt nhìn lại. Hạ cung là vết tích hiện đại của công trình mới được tân trang lại, di tích phòng nghị sự trên một con dốc đứng cách đó không xa chỉ còn lại một đống hoang tàn, không còn thấy bóng dáng ngồi ngay ngắn trước bản đồ luân hồi, uy nghiêm liếc nhìn con dân nữa.

Nhìn xuống, trước mắt toàn là một màu vàng thê lương hoang vắng, ngoại trừ du khách đi lại ra, tất cả hầu như đều không có sinh khí. Màu xanh tốt tươi , những ngã tư phồn hoa nhộn nhịp, những ngôi nhà bằng đá cứng cáp và thô ráp, những vách tường cao chót vót của vương thành, khu chợ rộn ràng nhộn nhịp, hàng hóa đa dạng rực rỡ, những thương nhân trong những bộ trang phục khác nhau, những binh sĩ tuần tra nhanh nhẹn dũng mãnh, và dân chúng Cổ Cách lương thiện tất cả đã chết trong dòng chảy của lịch sử, sống ở một thế giới khác rất xa.

Tàn tích còn sót lại của Vương triều Cổ Cách ở thế kỉ 21

Chiếc khăn che mặt màu tím sẫm không biết đã ướt đẫm từ lúc nào, như thể vừa được vớt lên khỏi mặt nước. La Chu thống khổ bi thương rời khỏi vương thành Cổ Cách đã hoàn toàn thay đổi này, dưới ánh mắt ngạc nhiên của du khách, tiếp tục lái xe ba bánh đi về phía trước.

Hai bên bờ sông Sutlej là những khu rừng đất nhấp nhô và bao la hùng vĩ với muôn hình vạn trạng, đặc biệt huyền ảo và tráng lệ dưới ánh nắng vàng của sườn Tây. Nhưng nàng không có lòng dạ nào để thưởng thức sự kỳ diệu của thiên nhiên, vội vã chạy tới phía Tây Bắc của huyện Zanda ── Thác Lâm tự.

Đứng trước cổng lớn của tự, cảm giác đầu tiên chính là thô ráp. Tường chùa tuy cao nhưng đã mất đi vẻ uy nghiêm vốn có, có thể thấy rõ dấu vết của lớp sơn mới. Lớp sơn mài đỏ của cổng đã phai màu, có năm hoặc sáu vết nứt lọt ánh sáng, ở ngay phía trên bức tường cổng lớn có ghi "Thác Lâm tự" bằng tiếng Tây Tạng và tiếng Hán. Không có con nai mạ vàng nằm trên cánh cửa và bức tường đỏ đơn sơ, không có bảo tháp mạ vàng, không thể tìm thấy vẻ hoa lệ và uy nghiêm trước đây.

Tàn tích còn sót lại của Thác Lâm tự ở thế kỉ 21

Sải bước tiến vào tự, theo chân một tăng nhân trẻ tên là Trát Tây và một vài khách du lịch đi tham quan. Nhiều ngôi chùa Phật giáo, kinh đài, tu viện, tháp lâm và những hành lang gấp khúc mà nàng nhìn thấy trong Đông Quý pháp hội ở thế giới đó hoặc là đã biến mất hoàn toàn, hoặc là những bức tường đã đổ nát và loang lổ màu sắc. Hơn một ngàn tu sĩ năm đó bây giờ chỉ còn lại có tám, sự huy hoàng tối cao giống như một đóa hoa nở rộ rồi héo tàn, im lìm không nói nên lời.

Nàng bỏ ra 30 nhân dân tệ để thắp sáu ngọn đèn bơ, nhưng không phải hiến dâng cho thần phật, không phải hiến dâng cho đạo sư. Một là vì Trát Tây Lãng Thố, một là vì Cầm thú vương, một là cho Mãnh thú Thích Ca, Ma Quỷ pháp vương, ngụy đồng Đa Cát, và cuối cùng là Ngân Nghê. Trong tiếng tụng kinh của tăng nhân, nàng chắp hai lòng bàn tay trước mặt Phật, như thể nghe thấy ngọn lửa đèn lồng thở dài khóc lóc, giống như lòng nàng vậy.

Rời khỏi sự dẫn dắt của tăng nhân, nàng một mình đi tới hành lang bánh xe cầu nguyện của Thác Lâm tự. Những bánh cầu nguyện màu vàng đồng được xếp ngay ngắn dưới bức tường cao, đằng trước có một bà lão Tây Tạng lưng gù, đội mũ phớt và mặc áo choàng Tây Tạng, vừa xoay bánh xe vừa chậm rãi tiến về phía trước. Một số bánh xe cầu nguyện phía sau nàng đã đứng yên, trong khi những bánh xe khác vẫn đang lắc lư không ngừng.

Tàn tích còn sót lại của Thác Lâm tự ở thế kỉ 21

La Chu hít một hơi thật sâu, hơi nhắm mắt lại, tay trái gảy chuỗi tràng hạt Thanh Kim thạch, tay phải nhẹ nhàng đẩy trục của bánh xe cầu nguyện, thầm niệm bài thơ tình của [2] Thương Ương Gia Thố trăm ngàn lần.

"Một đêm ấy, ta nghe trọn một đêm Phạn ca, chẳng vì lĩnh hội, chỉ để tìm một chút hơi thở của người.

Một tháng ấy, ta xoay qua tất cả luân kinh, chẳng vì siêu độ, chỉ để chạm đến dấu tay của người.

Một năm ấy, ta dập đầu nhận lấy bụi trần ai, chẳng vì hướng Phật, chỉ để kề cận hơi ấm của người.

Một đời ấy, ta chuyển nước chuyển non dời Phật tháp, chẳng vì tu lai sinh, chỉ để giữa đường cùng người gặp lại.

—— " (Một ngày, một tháng, một năm, một đời ấy – Thương Ương Gia Thố)

[2] Thương Ương Gia Thố hay Tsangyang Gyatso: vị Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 6 của Tây Tạng, người tới 14 tuổi bước vào ở Bố Đạt La cung, tuy là người mang duyên với Phật, nhưng vẫn quyến luyến hồng trần, vẫn có những vần thơ tình da diết đến mức làm người ta đau nhói. Rồi tới những năm tháng lưu đày sau này, tình yêu của ông cũng không thể bị băng tuyết chôn vùi hay lửa đỏ thiêu cháy.

Truyền thuyết kể rằng, Thương Ương Gia Thố đem lòng thương yêu một người con gái tên là Mã Cát A Mễ. Để ngăn cản tình yêu này, người ta đã làm nhục Mã Cát A Mễ, rồi dèm gia đến tai Thương Ương Gia Thố rằng Mã Cát A Mễ là một nữ tử ô trọc như thế nào, Thương Ương Gia Thố chỉ nói rằng, tất cả ô trọc của trần gian cũng không để chạm đến sự thánh khiết của Gia Cát A Mễ. "Một ngày, một tháng, một năm, một đời ấy" là bài thơ tình mà tương truyền Thương Ương Gia Thố viết dành cho nàng. Truyền thuyết không biết đúng hay sai, nhưng tình yêu trong bài thơ này thật sự rất đẹp.-----

Đôi mắt ưng uy nghiêm hung ác nham hiểm lãnh khốc của Cầm thú vương khi nhìn thấy nàng ngay lập tức sẽ dịu dàng, sự tàn nịnh tà vọng toàn thân của Mãnh thú khi gặp nàng sẽ thu liễm lại, sự thờ ơ lạnh lùng của Ma Quỷ pháp vương xưa nay chưa từng bộc lộ ở trước mặt nàng, tất cả những gì Đa Cát mang tới cho nàng là ánh nắng xán lạn ấm áp, còn Ngân Nghê hung tàn và dữ tợn sẽ biến thành lấy lòng và khoe mẽ.

Nàng niệm tụng từng lần một, và những hình ảnh thân mật chợt hiện lên trong tâm trí. Trái tim đau nhức nhói lên co thành một khối, như thể có hàng ngàn con kiến đang gặm nhấm, lồng ngực ngột ngạt đến mức như có thể ngất đi bất cứ lúc nào.

Ở trong thế giới kia, nàng có mấy cái nam nhân rất thích nàng, có một đầu ngao rất thích nàng; trong thế giới này, nàng cái gì cũng không có. Cảm thấy mệt mỏi, liền nghỉ ngơi thật tốt. Nghỉ ngơi tốt rồi, sẽ không thấy mệt mỏi. Nàng kiên trì trở về, kiên trì trốn tránh, kiên trì không cần đến tột cùng có ý nghĩa gì? Chỉ làm tổn thương tình cảm của bọn hắn.
Nàng là nữ nhân nhát gan nhấ trên đời này! Là nữ nhân ngu xuẩn nhất! Là nữ nhân vô dụng nhất!

Tuy nói thời gian là liều thuốc chữa vết thương tốt nhất, tuy nói tương lai sau này nàng sẽ có một cuộc sống mới, nhưng phải mất bao lâu thì những thứ đã khắc sâu vào xương tủy này mới có thể phai nhạt, mới có thể lãng quên sạch sẽ, mới có thể không rơi lệ khi nghĩ tới, sẽ không nghĩ tới liền đau lòng?

La Chu ôm lấy một cái bánh xe cầu nguyện bằng đồng, nửa quỳ trên mặt đất, không kìm được nữa mà nghẹn ngào khóc rống lên. Nỗi cô đơn, chua xót, đau nhức sâu sắc khi lang thang một mình trên nóc nhà cao nguyên suốt một tháng đều tan thành tiếng khóc nức nở.

"Ta muốn trở về! Hức hức, ta muốn trở về! Hu hu! Ta muốn trở về a!"

Nàng không muốn một mình đợi ở trong thế giới này! Không muốn một mình lang thang trên nóc nhà cao nguyên! Trác Mã cùng Cát Cách đều có hạnh phúc của họ, hạnh phúc của nàng không phải ở thế giới này, mà ở thế giới kia! Ở thế giới kia a! Nàng phải đi tìm như thế nào? Ai có thể mang nàng trở về? Nàng muốn trở về! Muốn trở về!

"Tiểu heo ngốc, nếu muốn thì trở về thôi."

Một tiếng thở dài ôn thuần mềm nhẹ ở sâu trong cơ thể thản nhiên vang lên, tràn ngập sủng nịch cùng thương tiếc, quen thuộc đến nỗi khiến cho La Chu ngẩn ra, đột nhiên lại càng khóc dữ dội hơn.

"Ta muốn trở về! Hu hu, ta muốn trở về!"

"Ngoan, đem chuỗi tràng hạt bích lưu ly ta đưa cho ngươi để lại, để nó thay thế cho ngươi sinh hoạt ở thế giới này."

Ngay khi chuỗi tràng hạt Thanh Kim thạch được đặt lên ống trục xoay cầu nguyện, cơ thể của La Chu liền tỏa ra ánh sáng trắng vàng mờ nhạt, trên đỉnh đầu là một chuỗi tràng hạt Thiên Châu chín mắt lấp ló như ẩn như hiện. Một vòng xoáy màu vàng đen đột nhiên xuất hiện, trong nháy mắt nuốt chửng lấy cả người lẫn ba lô, lại biến mất trong phút chốc, chỉ còn lại chuỗi tràng hạt Thanh Kim thạch trên ống trục xoay cầu nguyện,linh quang tràn đầy, chiếu sáng rạng rỡ.

Một vài tăng nhân và khách du lịch chạy đến sau khi nghe thấy tiếng kêu, cũng như bà lão sau khi quay lại, đều sững sờ trước cảnh tượng kỳ quái vượt qua khoa học này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com