Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Giữa đau khổ, vẫn còn nhau

.

Phác Chí Thành lớn lên trong một căn nhà lớn ở vùng ven chợ tỉnh, bên bờ sông lớn. Nhà giàu, nhưng chẳng có tình. Má anh mê cờ bạc đề số, đánh bài từ sáng tới khuya, có bao tiền đem ra chơi hết. Cha thì tối ngày gái gú, cứ ghe chở mấy cô son phấn vô nhà là náo loạn cả xóm. Trong nhà không ai dạy dỗ, Chí Thành từ nhỏ đã lầm lì, hỗn hào, chửi thề như cơm bữa.

Người làm thương nó vì biết thằng nhỏ tội nghiệp, nhưng không dám can. Cô hai trong nhà thì ghét bỏ, hay lôi nó ra đánh đập, bày đặt "dạy dỗ". Cha mẹ chỉ cưng chiều anh Hai đứa con trai lớn học giỏi, nghe lời, được gọi là niềm hy vọng của dòng họ.

Một buổi chiều, Chí Thành khoảng chín tuổi, ngồi co ro ngoài hiên, áo lấm lem, tay cầm mẩu bánh mì khô cứng.

"Sao cậu lại ngồi đây vậy, Chí Thành?" dì Năm, người làm trong nhà, hỏi nhỏ.

"Con đói... nhưng má nói con hư, không cho ăn cơm. Cô Hai còn tát con nữa." nó đáp, mắt ráo hoảnh.

"Cậu có muốn ăn tô canh bí không? Dì để dành một tô nè, dì không ăn đâu." dì Năm đưa tô canh nóng hổi, tay run run.

Chí Thành nhìn tô canh, môi mím chặt. Rồi nó thốt ra một câu khiến dì nghẹn ngào:

"Dì... má con đánh con hoài, chứ sao dì lại thương con? Dì có phải má thiệt của con không?"

Dì Năm khựng lại. Tô canh trên tay bỗng trở nên nặng trĩu. Gió ngoài hiên rít lên khe khẽ, luồn qua vách tường, thổi bay mấy cọng tóc bạc lơ thơ trên trán bà.

Bà ngồi xuống bên thằng nhỏ, tay đặt tô canh lên cái chiếu cũ, rồi đưa tay chùi nước mắt. Mắt bà đỏ hoe:

“Không... dì không phải má ruột của con đâu, Thành à. Má con là người sanh ra con... nhưng mà... hình như bà quên mất chuyện phải thương con rồi.”

Chí Thành cúi mặt, tay siết lấy đầu gối, lưng gầy run nhẹ.

“Hồi sáng má lấy cây chổi lông gà quất con mười roi. Tại con làm đổ ly nước lên cái váy của bà. Cô Hai thì nói... con là đồ rác rưởi, là thứ con hoang...”

Dì Năm ôm thằng nhỏ vô lòng, cái ôm run rẩy mà đầy cố gắng vỗ về.

“Con hông phải rác rưởi gì hết. Con là đứa nhỏ tốt bụng, biết chào người lớn, biết xách nước, biết hỏi thăm. Dì biết... dì thấy hết. Dì thương con... như má thiệt của con vậy đó.”

Nó ngẩng đầu lên, mắt ầng ậng nước.

“Vậy... dì có bỏ con không? Giống như má với ba con vậy... Họ nói con chỉ là thứ phiền phức...”

Dì Năm không nói, chỉ lặng lẽ ôm chặt nó hơn. Vai bà rung lên, từng giọt nước mắt rơi xuống vai áo lấm lem của thằng nhỏ. Rồi dì thì thầm:

“Dì nghèo, dì già rồi... Nhưng chừng nào dì còn thở, còn làm được chén cơm, tô canh... thì còn có phần cho con. Dì hứa đó... Con không phải một mình đâu, nghe hông?”

Chí Thành chớp mắt, rồi òa lên khóc. Nó khóc như lần đầu tiên trong đời được phép khóc thật sự. Không phải khóc vì bị đánh. Không phải khóc vì đói. Mà vì cuối cùng... nó thấy mình vẫn còn chút gì để bám víu.

Nhưng hạnh phúc bé nhỏ đó cũng không kéo dài. Năm Thành mười hai tuổi, dì Năm đổ bệnh. Một cơn sốt bất ngờ quật ngã bà sau vài ngày mưa dầm. Trong nhà không ai đưa đi trạm xá. Má nó bảo không phải người thân. Cô Hai thì phun nước miếng, nói:

"Chết mẹ nó đi cho đỡ phiền. Già rồi mà còn bao che thằng ranh."

Thành ngồi canh dì ba đêm liên tiếp. Tới ngày thứ tư, dì tắt thở trên cái giường xếp trong kho củi, tay vẫn nắm chặt miếng vải con từng dùng lau nước mắt.

Nó không khóc. Chỉ đứng lặng, nhìn bà yên lặng như ngủ. Rồi nó gào lên, giọng khản đặc:

"Dì ơi... đừng bỏ con mà... Dì nói dì không bỏ con... Dì hứa rồi... mà!"

Không ai trả lời. Không ai an ủi. Người trong nhà mang xác dì ra chôn vội dưới gốc me sau vườn, không nhang khói, không áo tang, không tiếng khóc.

Từ đó, thằng nhỏ hiền lành trở nên lạnh lùng, gai góc. Nó bắt đầu bỏ học, hút thuốc, đi với đám bụi đời ở bến xe. Gọi ai cũng "mày tao", mắt lừ đừ, tay sẵn sàng phang ghế nếu ai đụng tới.

"Chí Thành hồi đó ngoan mà, sao giờ dữ như quỷ?" người ta hỏi.

Nó cười nhếch môi:

"Ngoan để làm gì? Dì Năm chết rồi. Người thương tao chết hết rồi."

Năm nó mười ba tuổi, trong một lần tụ tập ở quán nước gần chợ cá, có thằng lớn hơn hai tuổi dám buông lời xúc phạm dì Năm. Nó đập cái ly xuống bàn, rút thanh gỗ dưới ghế, phang một phát gãy tay đối phương. Cảnh tượng náo loạn. Máu, tiếng la hét, người dân chạy tán loạn.

Người nhà bên kia kéo đến tìm. Nó bị đuổi chạy dọc con lộ đất đỏ, nhưng tới khúc vắng bị tóm được. Ba người xúm lại đánh, một cú gạch bổ trúng đầu, máu tuôn xối xả.

Nó lết về nhà, đầu bê bết, người run rẩy như tàu lá. Cô Hai vừa thấy đã gào lên:

"Thằng trời đánh! Mày còn dám vác cái mặt máu me về đây hả? Mày làm nhục cái nhà này! Biến! Ra ngoài đường mà ngủ!"

Nó ngã xuống bậc cửa, nhưng bà không quan tâm. Cửa đóng sập lại. Đêm đó, nó nằm co ro sau chuồng gà, đầu đau như búa bổ, bụng đói cồn cào, trời thì mưa rỉ rả.

Nó ôm cái áo cũ của dì Năm, thứ duy nhất còn sót lại từ ngày bà mất. Ánh mắt nó không còn lệ, chỉ còn trống rỗng, như thể phần hồn non nớt đã chết theo bà từ năm mười hai tuổi.

Một buổi chiều tháng sáu oi ả, lúc Chí Thành vừa bước qua tuổi mười bốn, hắn lang thang ngoài bến đò cũ để tìm chút bóng mát. Trời nắng như thiêu như đốt, tiếng ve râm ran đầy tai.

Ngồi dưới gốc bần, tay cầm điếu thuốc dở, Thành thấy một cô gái nhỏ người, tóc cột gọn sau gáy, đang phụ má bán nước mía bên hông chợ. Cô mặc áo bà ba màu xanh, chiếc quần đen đã bạc, tay vừa lau bàn vừa tươi cười:

"Dạ, cô chú ngồi đi, con rót liền! Hôm nay nước ngọt lắm nghen!"

Giọng nói trong veo, ánh mắt lấp lánh nắng chiều. Thành rít một hơi thuốc, mắt không rời khỏi cô gái đó.

Lý Mỹ Nhi. Tên cô anh chưa biết, nhưng ánh nhìn hôm đó làm tim thằng bụi đời khét lẹt một bên phổi chợt khựng lại. Lần đầu tiên sau nhiều năm, tim nó đập vì điều gì đó... không phải giận dữ.

Năm Chí Thành mười lăm tuổi, tai họa ập xuống như một cơn lốc xoáy cuốn phăng tất cả những gì hư nát còn sót lại trong cái nhà mục rỗng đó.

Má anh, sau nhiều năm vay mượn khắp nơi để đánh bạc, cuối cùng vỡ nợ. Giấy nợ dán khắp cổng. Bọn cho vay lãi tụ tập ngoài ngõ, dọa xiết nhà, xiết đất, xiết cả cái bếp than.

Cha thì trong một lần nhậu nhẹt say xỉn, leo lên xe mô tô chạy ra cầu lớn, không biết sao mất lái, tông thẳng vào xe tải. Sống sót, nhưng cột sống gãy, chân trái không còn bước được nữa.

Cô Hai cái bóng quyền lực từng mắng chửi Chí Thành như súc vật thừa cơ ôm sạch số vàng còn lại trong nhà, bỏ trốn biệt tăm. Không một lời từ biệt. Đến sáng hôm sau, người ta mới phát hiện tủ gỗ bị cạy, hộc tủ trống trơn, chỉ còn vài tấm hình cưới cũ kĩ và mùi naftalin hôi hám.

Anh Hai đứa con trai vàng của cha mẹ đứng nhìn cảnh tượng rồi lặng lẽ gói ghém hành lý, để lại một câu duy nhất:

"Tao không muốn dính dáng tới đống hỗn loạn này."

Rồi biến mất như chưa từng tồn tại.

Chí Thành đứng giữa hiên nhà, áo rách vai, đầu tóc bù xù, mắt đỏ quạch. Không ai nhờ, không ai bảo, nó lẳng lặng quăng điếu thuốc xuống đất, dẫm nát. Từ hôm đó, nó bắt đầu thức dậy từ ba giờ sáng, đi làm bốc vác ngoài bến đò. Chiều tối về phụ quán phở nhỏ ngoài bến xe.

Nó không than. Không khóc. Chỉ im lặng, lặng như chiếc bóng. Đôi lúc, người ta thấy nó đứng giữa sân, mắt nhìn xa xăm, rồi bất ngờ đấm tay vô tường đến tóe máu. Nhưng sáng hôm sau vẫn thấy nó cõng cha đi khám, bón cháo cho má đang nằm sốt trên võng.

Lúc đi làm, nó bị người ta chỉ trỏ:

"Cái thằng nhỏ nhà bà Cẩm đó hả? Má thì cờ bạc, ba thì nằm liệt, còn nó thì như con chó giữ nhà."

Có bà chủ sạp tạp hóa thấy nó ốm o mà cứ đi khuân gạo thuê thì hỏi:

"Sao không mặc kệ? Người ta bỏ đi hết rồi, mày ráng làm chi?"

Nó chỉ cúi đầu, cười mỉm, không nói một lời.

Có mấy đứa bốc vác cùng lứa, đứng nhai trầu, nhổ nước đỏ xuống đất, khinh bỉ:

"Ngu! Lo cho tụi già đó làm chi? Mày nghĩ tụi nó từng lo cho mày hả? gặp tao bỏ lâu rồi!"

Chí Thành dọa đuổi đánh một trận rồi cũng cho qua. Đêm đến, nó gục bên nồi cháo chưa kịp nêm, tay vẫn cầm cái khăn ướt lau mặt cho má.

Đôi khi, bọn cho vay đến đòi nợ, gặp nó ngoài đường. Ba bốn người xúm lại đánh, đạp, đấm, giật áo, cào mặt. Nó cũng đánh lại, nhưng một mình không thể chống nổi.

Có lần, máu từ mũi, miệng, đầu cùng chảy ra. Người ta nói nó như bóng ma đi ngoài bến nước. Nhưng tối đó, vẫn thấy nó lê từng bước vô bếp, nấu cơm, dọn mền cho cha.

Lần đầu tiên trong nhiều năm, má nó nắm tay nó, run rẩy:

"Thành... con khổ quá. Má xin lỗi..."

Nó quay mặt đi, mắt vẫn đỏ hoe. Không tha thứ, nhưng cũng không buông bỏ.

Sáu năm sau, nó đã hai mươi mốt tuổi. Chiều hôm ấy, khi trời vừa ngả nắng, Chí Thành ghé qua quán nước mía cũ nơi từng thấy Mỹ Nhi lần đầu. Tưởng chỉ ghé mua ly nước, ai ngờ cô gái ấy đang ngồi gọt vỏ thơm, tay dính đường, tóc vương chút nắng.

"Ê... anh bụi đời. Còn hút thuốc không?" cô nói, giọng chọc ghẹo.

Chí Thành ngớ người, rồi phì cười:

"Bỏ rồi. Giờ phải sống lâu lo cho hai cái xác già ở nhà."

Mỹ Nhi cười khúc khích, rót ly nước mía, đặt trước mặt anh:

"Bữa nay có nước nhiều lắm, không pha thêm đá đâu. Uống cho ngọt cái đời."

Chí Thành nhìn ly nước, rồi nhìn cô. Mắt cô sáng như nắng sau mưa. Tự nhiên, tim hắn đập khác thường.

Từ đó, mỗi tuần vài lần, hắn lại ghé qua. Khi thì đứng im lặng nhìn cô lau bàn, khi thì xin ly nước mía mắc nợ. Cô không bao giờ đòi.

Rồi một ngày, Mỹ Nhi hỏi:

"Anh ghét ai nhất trên đời?"

Chí Thành nghĩ một hồi rồi đáp:

"Chắc là... chính tôi hồi mười hai tuổi. Lúc tôi để cho dì Năm chết một mình."

Cô không nói, chỉ đưa tay nắm tay hắn, nhẹ như gió:

"Tôi thì ghét anh. Anh là người đầu tiên tôi thấy, dù bị đánh tơi tả, vẫn không bỏ người nhà. Thấy cũng tội nà cũng thương thương đó."

Gió bỗng thổi qua hiên. Lá tre xào xạc. Trái tim gồ ghề của hắn... lần đầu tiên mềm lại.

Như thân như quen, hai người dần rồi cũng cảm mến nhau. Đỉnh điểm má của Nhi bệnh nặng qua đời, Nhi suy sụp không ai an ủi được. Thành cứ lén lút đến thăm cô, nhưng không dám đến gần. Có khi thì tặng một con diều nhỏ làm cô vui, có khi là một nhánh hoa giấy. Thành cũng ít gặp Nhi hẳn.

Rồi cho đến một ngày.

Chiều hôm đó mưa, trời vần vũ mây, Mỹ Nhi đem theo hai cái bánh cam nóng tới tận bến đò, nơi Chí Thành đang đội mưa chất bao gạo. Nhỏ tìm kiếm Thành, thấy cô hắn vui như đứa trẻ lập tức xin nghỉ tay chạy lại cô ngay.

"Anh ăn cái này đi, nóng lắm đó. Mưa lạnh vậy, anh đừng có lì nữa."

Chí Thành nhìn cái bánh cam trên tay cô, nhìn cả đôi mắt tròn lo lắng. Lần đầu tiên trong đời, có người chờ mình tan làm.

"Coi bộ... cô để ý tôi thiệt rồi ha?" hắn chọc.

Mỹ Nhi trợn mắt:

"Chứ anh nghĩ tôi đem bánh đi từ sáng chỉ để cho chó ăn chắc?"

Cả hai phá lên cười. Tiếng cười như xé tan mây mưa nặng trĩu.

Tối đó, họ đi bộ về trên con đường làng ngập nước. Nhi đi phía trong, né ổ gà. Thành đi phía ngoài, tay cầm cái nón che cho cả hai.

Rồi họ gặp lại nhau nhiều lần nữa khi thì ở sạp rau, lúc ở lò bánh mì đầu ngõ. Có bữa Mỹ Nhi đang bưng rổ cam ra chợ thì va vào Chí Thành đang chở than, đổ tung toé. Cả hai cùng ngồi xổm giữa đường, lượm cam, lượm than mà cười ngất giữa trưa nắng.

Một lần, Chí Thành bị bong gân, Mỹ Nhi tới tận nhà nấu nồi lá xông, lại còn rửa chén, quét nhà. Má Thành nằm võng nhìn, lặng thinh một hồi rồi nói:

"Con nhỏ đó... coi bộ được. Nó không sợ nghèo."

Thành thấy má mình không mắng chửi nữa, chỉ nằm im, thở dài.

Hôm Thành được Mỹ Nhi dắt về ra mắt, ba cô ông Sáu Thạnh, người từng là thầy giáo làng nhìn hắn từ đầu đến chân. Bộ đồ Thành mặc sạch sẽ nhưng bạc màu, cái dáng đứng hơi khòm vì quen gánh nặng, ánh mắt thì tránh né vì tự ti.

Ông Sáu gật đầu chào:

"Cậu là... Chí Thành phải hông?"

"Dạ, thưa bác... con tên Thành. Con... con phụ hồ với bốc vác ạ."

Mỹ Nhi nhéo tay hắn sau lưng:

"Trời đất, sao không nói là đang phụ quán phở nữa đi!"

Cả nhà cười ồ, kể cả ông Sáu. Cơm bữa đó chan đầy nước cá rô kho thơm lừng. Thành ăn lặng lẽ nhưng má đỏ bừng.

Tối về, Mỹ Nhi cười toe:

"Ba em kêu anh... dễ thương. Mà ba còn nói cái thằng Minh học trên tỉnh cũng hay tới nhà. Nó nói chuyện có duyên, lại sắp thi vô trường kỹ sư. Ba cũng khen nó lắm."

Chí Thành nghe tới đó, im re. Mặt đanh lại.

Hôm sau, hắn tới chợ mua bộ đồ mới lần đầu tiên sau mấy năm mặc đồ xin. Hắn chải tóc, đeo đồng hồ cũ của ba, chạy tới nhà Nhi, mang theo bó rau húng với trái mận đỏ.

Gặp ông Sáu, hắn nói rành rọt:

"Dạ thưa bác, con không học hành cao. Nhưng con có hai bàn tay. Con thương Mỹ Nhi, con sẽ làm hết sức để cô ấy không khổ. Con nói ít, nhưng làm nhiều. Bác có thể không chọn con... nhưng con xin bác... cho con được đứng ở ngạch cửa nhà bác, để đợi cô ấy mỗi chiều."

Ông Sáu nhìn nó một hồi lâu. Mắt ông nhòe nhẹ sau lớp kính.

Sau đó, ông quay vào, rót trà:

"Ngạch cửa nhà tui... không cấm ai có lòng. Nhưng đừng phụ lòng con Nhi. Nó hiền mà lì lắm đó."

Chí Thành cúi đầu:

"Dạ... không bao giờ phụ. Dù sau này... có phải lội sông, gánh gạch, hay ăn cơm chan nước mắt."

Tối hôm đó, ngồi trên cầu tre, Mỹ Nhi gối đầu lên vai hắn:

"Anh khờ. Mà em thương cái khờ đó. Khờ chứ không bạc. Em ghét nhất... là người khéo miệng mà bỏ người ta khi nghèo."

Chí Thành siết vai cô, mắt nhìn trăng mờ:

"Em đừng thương anh quá... Lỡ mai này anh mất hết, em khổ theo thì sao?"

Mỹ Nhi cười, giọng nhẹ như ru:

"Khổ với anh, em chịu. Còn hơn sung sướng với người không thương mình."

Gió đêm thổi nhẹ, mùi bông điên điển bay theo. Đêm đó, Chí Thành nằm không ngủ. Trong lòng lần đầu biết sợ, sợ mất cô gái ấy. Sợ ánh mắt thương mình như ánh đèn dầu trong căn nhà tối, tắt rồi sẽ chẳng còn gì nữa.

Rồi họ cưới nhau trong cái đêm mưa lâm râm, không đám cưới, không mâm cao cỗ đầy, chỉ có ông Sáu viết tờ giấy gả con trên mảnh giấy học trò, ký cái roẹt bằng bút mực.

"Tụi bây thương nhau thiệt lòng thì giấy tờ không quan trọng. Nhưng nhớ, khổ thì nắm tay nhau. Mà sướng... cũng đừng buông." ông nói, rồi lặng lẽ quay đi, chùi nước mắt bằng tay áo.

Chí Thành dọn qua căn chòi nhỏ gần sông căn nhà cũ của một bà cụ trong xóm để lại. Lủng mái, sàn mục, giường tre ọp ẹp. Nhưng đêm đầu tiên ở đó, hai vợ chồng ôm nhau ngủ, nghe tiếng mưa lộp độp trên mái lá mà như tiếng ru.

Hai năm sau ngày cưới, Mỹ Nhi hay buồn nôn, chóng mặt. Thành lo sốt vó, cứ tưởng cô bệnh. Dắt nhau ra trạm xá, bác sĩ già cười:

"Chúc mừng nghen. Vợ chồng sắp có đứa nhỏ rồi. Thai mới hơn một tháng đó."

Hai vợ chồng ngớ người một chút, rồi bật cười như trẻ con được lì xì. Trên đường về, Thành cứ nhìn bụng Nhi rồi hỏi:

"Thiệt hả? Nó ở trong đó thiệt hả? Trời ơi, em ốm như cây tre, không biết nó có đủ chỗ nằm không nữa."

Mỹ Nhi đánh nhẹ vô vai chồng:

"Nó giống anh đó. Chắc cũng lì, cũng lì như cha nó."

Đêm hôm đó, Thành không ngủ. Hắn cứ ngồi ngó cái mái lá thủng, tay vẽ lên không hình một đứa nhỏ:

"Nhi nè... con mình mà ra đời, anh sẽ làm gác cũi bằng tre. Anh biết chỗ bà Tám có mớ vải vụn, mình xin về may tã..."

Nhi nằm bên, mắt rưng rưng:

"Em chưa từng nghĩ sẽ có con trong hoàn cảnh vậy. Nhưng có nó, tự nhiên em thấy sống đáng hơn."

Chí Thành ôm cô nhẹ nhàng vào lòng, thề sẽ yêu thương hai mẹ con.

Niềm vui chưa được bao lâu, tai họa kéo tới như thói quen của số phận.

Bà Cẩm mẹ ruột của Thành xưa kia từng vay mượn khắp đầu làng cuối xóm để chơi đề chơi bạc. Mấy thằng đòi nợ thấy bả bệnh nằm liệt không kiếm được bà Cẩm, mới lò dò tìm tới chỗ Chí Thành đang làm phụ hồ ngoài chợ chiều.

Một người trong đám đeo kính đen, đứng giữa đường, giọng xấc xược:

"Thằng Thành đâu? Má mày thiếu nợ tao gần trăm triệu! Mày là con, mày trả thay!"

Thành thở mạnh, tay vẫn bê bao xi măng:

"Tao đéo có ký giấy nợ. Kiếm tao làm chó gì?"

Một gã khác cười khẩy:

"Thằng này được à nha! Má nó đẻ ra, giờ mượn tiền không trả thì cũng phải con nó gánh chứ sao?"

Thành chưa kịp phản ứng thì bị đạp thẳng vô bụng. Bao xi rơi xuống đất, bụi bay trắng xóa. Thành nó tức, chụp được cái gì nó đánh tới tấp thằng kia.

Dân chợ bu quanh. Có người chỉ trỏ:

"Trời ơi, con bà Cẩm nữa kìa! Cái bà đó xưa đánh bài thiếu nợ rần rần. Giờ tới con chịu."

Một bà bán xôi thở dài:

"Tụi nó khổ quá trời rồi. Vợ nó bụng bầu lớn vậy mà vẫn ra phụ bán chè ngoài chợ. Nghèo thấy mà thương."

Một ông xe ôm lắc đầu:

"Con nhà giáo mà đi lấy thằng đó... thiệt tội! Nhưng tụi nó thương nhau, chứ đâu phải ham gì."

Tin đồn lan ra. Nhi bị chỉ trỏ mỗi khi đi qua xóm:

"Đẹp vậy mà khờ! Ai đời con gái làng mình, có ăn học, lại đi cưới thằng bụi đời! Giờ mang bụng, nhà không xu teng!"

Có người nhìn cô bưng rổ chén, cái bụng to tướng lòi ra khỏi áo bà ba vá vai, chép miệng:

"Vậy mà cười hoài... không biết khổ hay giả bộ không thấy."

Nhưng Nhi vẫn cười, vẫn bán chè, vẫn đưa tận tay từng ly đá bào cho tụi nhỏ nghèo trong xóm.

Tối về, Thành ngồi lặng lẽ vá lại đôi dép đứt quai, giọng khàn đặc:

"Anh xin lỗi... để em phải chịu đủ thứ lời ra tiếng vào. Có lúc anh nghĩ... hay là để em về nhà đi... cho khỏe thân."

Nhi ngồi xuống bên, tay đặt lên tay chồng:

"Nếu em về nhà... thì anh sống với ai? Con mình ai lo? Người ta chửi anh... em nghe hết. Nhưng em cũng nghe họ thương mình. Cái nghèo này, nó không giết chết được mình đâu. Chỉ có người buông tay mới chết."

Một đêm mưa lớn, nước tràn vô chòi. Nhi đang mang thai tháng thứ bảy, bụng nặng như đeo đá. Thành vác từng bao cát chắn nước. Gió rít qua vách. Lá bay đầy nhà.

Cô nhìn hắn, đôi mắt thâm quầng, người ướt sũng, vẫn gồng mình không kêu than. Rồi cô gục vào vai hắn:

"Thành ơi... em mệt quá... Em sợ sinh ra con trong cái nghèo, nó khổ như mình."

Hắn ôm cô vào lòng, tay run run:

"Anh không hứa được gì hết. Nhưng anh sẽ bẻ lưng ra làm, để con mình có cái áo sạch. Em đừng bỏ anh... chỉ vậy thôi."

Nhi không nói gì. Chỉ gật nhẹ, nước mắt hòa vào mưa. Dù đời có dữ dằn tới đâu... chỉ cần còn nhau, họ vẫn sẽ đi tới.

Đêm đó, trời nổi cơn giông. Nước sông dâng cao, mưa tạt ào ào vào vách lá, mái dột tong tỏng. Mỹ Nhi đau bụng dữ dội, hai tay ôm bụng, rên rỉ trên tấm phản cũ. Chí Thành luống cuống, chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đốt đèn dầu, bưng thau nước nóng và hét toáng cầu cứu.

Bà Tư hàng xóm nghe tiếng, chạy sang:

"Trời ơi, đẻ rồi hả con? Trời đất! Mình ơi, lấy dao, lấy khăn, lấy dây nè!"

Trên cái giường tre ọp ẹp, giữa tiếng gió rít và tiếng mưa đập, Mỹ Nhi rặn từng cơn, nước mắt chan nước mồ hôi. Một tiếng khóc oe oe vang lên giữa giông gió.

"Con trai đó! Nó khóc mạnh lắm đó!" Bà Tư nói, tay run run quấn khăn cho đứa nhỏ.

Chí Thành ngồi phịch xuống đất, gục đầu vô đầu gối, miệng lẩm bẩm:

"Cảm ơn trời đất... cảm ơn trời đất..."

Họ đặt tên con là An mong nó sau này được yên bình hơn ba má nó.

Ba ngày sau, vết thương sinh chưa lành, Chí Thành phải ở nhà xem coi trông vợ, hắn vậy mà ngồi giặt tã cho con bên cầu ao, sau nhà.

Mẹ con Nhi thì ngồi trước cửa, Nhi đang cho con bú.

"Mày là vợ thằng Thành đúng không?"

Một đám bậm trợn từ đâu đi tới, tay cầm gậy tay cầm dao, vẻ mặt đe dọa đến hai mẹ con.

Thành bước ra. Mắt đỏ ngầu vì mất ngủ:

"Tụi mày đến đây làm gì, sao như chó đánh hơi vậy?"

"Chó chết, tao tới tính sổ với mày nè!"

Vừa dứt lời, đám đó xong vào đập phá nhà cửa, còn đẩy hai mẹ con loạng choạng.

Tiếng hét, tiếng khóc vang khắp xóm. Thằng đó trong hăng quá, nó vơ gậy một cú đập thẳng vào đầu Nhi khiến cô ngã xuống đất. Thành như hoá điên, ôm con xong lao tới, giằng lấy gậy, quật thẳng vô đầu kẻ vừa đánh vợ mình.

Một tiếng "rầm" vang lên. Gã đàn ông nằm bất động. Máu loang đỏ cả hiên nhà.

Sao hết cái khổ này lại tới cái khổ khác cứ bám lấy hắn vậy?

Chí Thành bị bắt ngay đêm đó. Vụ việc gây rúng động cả xóm. Kẻ bị đánh chết vốn là dân giang hồ có tiền án, nên dù Thành giết người, nhưng phía công an cũng hiểu tình tiết tự vệ.

Bản án tuyên mười hai năm. Nhưng với cải tạo tốt, có thể được ân giảm.

Trước khi đi, Thành ôm con trai lần cuối, dặn Mỹ Nhi:

"Anh xin lỗi. Đời anh... chỉ biết làm khổ em. Nhưng anh thề... anh sẽ về. Em ráng chờ anh nha... Đừng khóc. Đừng khóc trước mặt con."

Nhi níu tay hắn, khóc không thành tiếng:

"Anh ráng sống... em không cần gì hết, chỉ cần anh còn sống để về với mẹ con em."

Ngày tiễn chồng vào trại, Mỹ Nhi bồng con đứng chơ vơ giữa bến xe mưa lất phất. Tóc cô rối, áo bạc màu, tay bồng tay xách. Con trai khóc, cô không khóc vì cô sợ nếu khóc, mình sẽ gục luôn.

Những tháng ngày sau đó, cô cắn răng bươn chải. Ngày bán chè, tối giữ trẻ. Có khi bồng con đi làm thuê, có khi gửi nhờ bà Tư bên xóm.

Dần dà, hàng xóm thấy tội, người cho mớ rau, người cho ít gạo, người ghé trông chừng đứa nhỏ khi cô có việc. Họ không nói gì, nhưng lặng lẽ dang tay che chở.

Mấy năm sau, cha mẹ chồng lần lượt ngã bệnh. Bà Cẩm bị tai biến, nằm liệt giường. Ông Phúc cha Thành sau một cơn sốt cũng yếu dần. Mỹ Nhi lo cơm nước, thuốc men, tắm rửa không lời than trách.

Bà Cẩm nằm thều thào:

"Má... xin lỗi con, con dâu à... má đáng chết"

Nhi chỉ lắc đầu:

"Má đừng nói nữa... mình còn sống, thì còn chăm nhau. Mấy chuyện cũ... cho nó trôi."

Cả hai người ra đi trong cùng một mùa nước nổi. Cách một năm, một cỗ quan tài đơn sơ, một bó hoa dại. Nhi mặc áo tang, tay bồng con, mắt ráo hoảnh. Bà con lối xóm lặng lẽ đến đưa tiễn, ai cũng nghẹn ngào:

"Cô Nhi... nó hiền. Mà nó chịu quá trời chịu..."

Trong tù, Chí Thành nghe tin mà chết lặng. Chỉ là hắn thấy thương vợ, có lẽ hôm đó hắn không nên vì tức giận lấn át lí trí. Hắn gục đầu xuống bàn, không ăn cơm ba ngày. Sau đó, hắn xin vô đội lao động, làm việc từ sáng tới khuya, tích cực cải tạo.

Hắn kết bạn với một ông già tù chung buồng người từng có mối làm ăn ngoài chợ. Thành nhờ:

"Mai mốt bác về trước, bác ghé thăm vợ con con. Nói với cổ... con khoẻ. con ráng ra sớm. Đừng để cổ nghĩ con bỏ, nha bác."

Người bạn vỗ vai hắn:

"Tao gặp nhiều thằng vô đây rồi. Nhưng mày là một trong mấy đứa hiếm hoi... mắt có tia sống. Vì mày có người chờ. Đừng phụ lòng đó, nghen."

Và trong đêm lạnh nhất của trại giam, giữa tiếng côn trùng rỉ rả, Chí Thành ngồi thẳng lưng nhìn lên ô cửa sắt, ánh trăng hắt qua khe nhỏ như ánh mắt của Mỹ Nhi vẫn dõi theo hắn từng đêm.

Qua cơn mưa, trời lại sáng.

Mười năm. Mười năm trôi như bóng nước sau rạch. Mười năm người đàn ông tóc từng đen nhánh giờ đã lấm tấm hoa râm. Mười năm đôi tay từng quật gậy giữ vợ con giờ chai sần vì lao động, cải tạo, nhớ thương. Nhưng trái tim thì vẫn còn nguyên nguyên lời hứa: “Anh sẽ về.”

Sáng hôm đó, trại giam mở cổng. Thành bước ra với chiếc túi vải bạc màu, tay nắm chặt lá thư cũ của vợ. Trời Tây Nam Bộ nắng chói, mồ hôi nhỏ giọt, nhưng hắn cười lần đầu tiên sau bao năm.

Đón hắn ở bến xe là một người mang dáng vẻ thiếu nữ năm ấy hắn yêu, nay đã trải qua sương gió, cô mặc áo bà ba lam, tay dắt theo cậu trai chừng mười tuổi, cao gầy, đôi mắt giống hắn đến lạ.

"Vợ à...." Thành nghẹn ngào.

Cô nhìn hắn, nhớ lại những năm tháng ấy mà lòng chua xót, chỉ biết nhìn con.

"Ba con về rồi.” Mỹ Nhi nói, mắt hoe đỏ, tay nắm tay con trai, đặt nhẹ vào lòng hắn.

Thằng nhỏ bước tới, ngước nhìn người cha mà nó chỉ biết qua những mẩu thư cũ:

"Ba... ba thiệt hả? Con chờ ba lâu lắm rồi. Má hay kể ba biết đốn củi, vá lưới, biết làm diều giấy... Ba dạy con nghen."

Thành không nói nên lời. Hắn cúi xuống ôm chầm lấy con, nước mắt trộn mồ hôi, giọng run như đứa trẻ:

"Ba xin lỗi... Ba về rồi... Từ nay, ba không đi đâu nữa."

Cả hai không ôm lấy nhau nhưng cả hai đều biết, lúc này nặn lòng đến mức nào.

Trời đã tạnh mưa.

Vài năm sau, ngôi nhà nhỏ bằng gạch mọc lên bên rạch. Không phải biệt thự sang trọng, nhưng là tổ ấm đích thực. Thành mở tiệm sửa đồ cũ, Nhi bán quán ăn nhỏ. Dân xóm thương, khách khứa đông. Họ không còn thiếu bữa cơm nào.

Ông Sáu cha Nhi nay tuổi già, được hai vợ chồng rước về sống chung. Buổi chiều ngồi võng, ông thường nhìn cháu chạy quanh mà cười móm mém:

"Con gái tao... nó khổ gần nửa đời. Mà giờ coi nó sống kìa, như trúng số... không phải trúng tiền, mà trúng thằng chồng biết thương."

Nhi mỉm cười, quay sang chồng:

"Mình nghe ổng nói chưa? Mình là giải đặc biệt của đời em đó."

Thành giả bộ nghiêm mặt:

"Ừ. Mà em là chiếc vé cũ rách nát... mà hên, anh giữ hoài, cuối cùng mới trúng."

Cả nhà bật cười. Trời chiều đỏ rực, bầy cò bay qua rặng trâm bầu, nước dưới rạch lấp lánh ánh hoàng hôn.

Tình yêu không phải luôn ngọt ngào. Có khi là bữa cơm chan nước mắt, là mái nhà dột mưa, là cái nắm tay rách bươm giữa đời giông gió. Nhưng chính tình yêu khi nó đủ sâu, đủ bền có thể vá lành cả vết thương, dựng dậy một con người, làm nên một mái ấm.

Chí Thành và Mỹ Nhi không có gì cả, ngoài nhau. Và điều đó, hoá ra, lại là tất cả.

"Mình từng khổ như chó… mà giờ sống như người." Thành nói vào một chiều nhậu đám giỗ má.

"Ừ… mình là người rồi đó. Người thương nhau thiệt tình thì nghèo cũng thấy ấm.” Mỹ Nhi đáp, tay siết chặt tay chồng, mắt ngước lên trời không còn mưa nữa.

Hết.

_____

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com